Truyện ngắn đặc sắc - Nhiều tác giả

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi 4DHN, 5/10/13.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Nàng công chúa lạc loài - Trần Thị Thùy Mai


    Chuyện xảy ra thực tình cờ, đúng năm năm sau ngày Cầm bỏ gian phòng này đi. Năm năm, bức chân dung của nàng vẫn còn lại trên tường, mái tóc dài như rong, màu áo tím, tím đến cả ánh mắt. Mắt nàng sâu thẳm, rợn người. Ðã bao năm nàng ngồi đó, thầm lặng tham dự vào cuộc đời tôi - cho đến buổi chiều hôm ấy...


    Túc đến tìm tôi ở cổng cơ quan, lúc tôi vừa chủ trì xong một buổi họp quan trọng. Hắn luôn luôn biết rõ lúc nào đầu óc tôi căng thẳng, mệt mỏi và luôn tìm được những lý do rất bất ngờ. Có hôm hắn trịnh trọng tuyên bố: "Tao chiêu đãi mầy... nhân ngày giỗ bố tao". Có khi thì "Nhân kỷ niệm ngày tao yêu lần đầu", có khi thì nhân danh ngày rằm, ngày vía gì đó. Chiều hôm ấy, như mọi lần, hắn gợi ý "chiêu đãi" tôi bằng cách đi kiếm một đứa con gái về để chung vui. Tôi cười, không đồng tình cũng không phản đối. Từ lúc tôi có tiền và bắt đầu lao vào cuộc ăn chơi, Túc đã dẫn đến quá nhiều loại đàn bà con gái đến nỗi không nhìn vào một phụ nữ nào mà tôi không cảm thấy nghi ngờ. Tất cả bọn họ đối với tôi đã trở thành một món ăn vừa chán nhàm vừa không thể thiếu.


    Trời xẩm tối, tôi về phòng. Không có xe Túc dưới chân cầu thang. Một dòng phấn trên chiếc bảng con: "Tao có việc gấp, sẽ trở lại ngay". Hừm. Việc gấp? Tôi nhún vai. Không khí lạnh phả vào mặt, tê tái thú vị. "Tách" một cái, cửa mở, trước mặt tôi là một khoảng tối mờ với tiếng muỗi vo ve... tôi sờ soạng bật c?tắc. Ánh đèn rực sáng. Như mọi lần, bức tranh mầu tím đập vào mắt tôi. Nhưng lần này, trước bức tranh có một thiếu nữ ngồi im lặng.


    Tôi đến gần. Một cô bé chừng mười sáu tuổi thu mình trên chiếc ghế mây, hai tay bó gối. Vóc người tròn trĩnh với chiếc áo gió mầu mận chín. Ðôi mắt mở to kinh ngạc đầy vẻ bỡ ngỡ trẻ thơ. Tôi rùng mình vì một cảm giác vừa thích thú vừa ghê tởm. "Mẹ kiếp, thế này thì có lẽ thần thánh cũng có thể làm dỏm được, trời ạ!".


    Tôi chậm rãi ngồi xuống mép giường, chậm rãi hút hết điếu thuốc, quẳng mẩu đầu lọc vào sọt. "Lại đây". Tôi hất hàm gọi. Cô gái ngoan ngoãn đứng dậy, rồi lại ngồi xuống. Tôi bước đến, nâng cằm cô bé:


    - Em tên gì?


    Cô ta rụt rè, giọng khản đi:


    - Ái


    Một cái tên quen quen! Nhưng quan trọng gì, thường đây là cái tên giả. Ðiều cần thiết là có một cái từ để gọi, dù trong một đêm thôi. Tôi cúi xuống định bế bổng cô ta lên.


    *

    * *


    Trông con nít quá, vẻ măng sữa trên làn da và đôi mắt làm tôi thấy ghê ghê, nhưng thực tình mà nói, có thể làm gì hơn trong lúc này!


    Và chuyện bất ngờ xảy ra ngoài dự đoán.


    Khi tôi chạm vào vai cô gái, cô đứng phắt dậy, mặt mũi tái xanh và khuỵ xuống. Hoảng hốt, tôi đặt cô lên giường, cuống quýt mở các cúc áo bó chặt lấy cô. Chợt tôi sững người: dưới cổ, một vết ruồi son đỏ tươi, như một hạt đậu xinh xinh. "Ái Duy... Trời ơi, đ?i Duy rồi !. "h쮨 như nghe gọi đúng tên mình, đôi mắt hôn mê nhắm nghiền của thiếu nữ hé mở. Trong vẻ ngái ngủ ngây dại đó, tôi nhận ra đứa bé học trò mười năm trước.


    Năm ấy Ái Duy lên bảy, tôi vừa vào đại học. Tôi là người dạy kèm, vừa lࠢạn vừa lৠc? ᩠mồ c?ẹ. Cha ? Duy lࠧiám đốc một cơ quan lớn trong thành phố. Ông luôn bận rộn với công việc và thường xuyên vắng nhà. Trong căn nhà rộng, u nhã, lạnh lẽo chỉ còn hai chúng tôi với một bà cô nghễnh ngãng, nếu không kể một bầy chim câu ở mé trái hiên nhà và vô số nhân vật trong những cuốn chuyện cổ trên giá sách.


    Ái là một cô bé hơi kỳ cục, vừa ngoan hiền vừa bướng bỉnh. Cô bé yêu bố một cách kỳ lạ và đã quen nghĩ về bố như một phẩm chất siêu việt. Ái th譠biểu lộ t쮨 thương hết sức, và vì bố luôn vắng mặt, cái tình cảm trẻ con sôi trào chan chứa ấy được san sẻ qua t?Ái Duy đã vẽ bao nhiêu bức tranh với hộp mầu tôi mua cho, rồi chính tôi đã dán những bức tranh ấy lên bốn bức vách của phòng học - gian phòng nhỏ có những cửa sổ viền hoa tím xinh xinh. Những bức tranh đã ghi lại cả thế giới cỏn con của anh em tôi. Này đây là ông bố với cặp kính trắng và cái áo kiểu Tôn Trung Sơn, tay cầm chùm chìa khóa - khóa xe hon đa, khóa tủ, khóa nhà, khóa phòng giấy, khóa tủ hồ sơ... cô bé đã cố công đặc tả hình thù từng chiếc một. Bà cô nghễnh ngãng thì luôn luôn có chiếc chảo to trên tay. "Em thích nhất là lúc cô đang chiên bánh phồng tôm". Những chiếc bᮨ phồng t?ୠcho b頦#193;i đặc biệt thích thú, không phải vì ngon, mà vì cái cách chúng duỗi ra và phình to như có phép màu trong chảo dầu nóng.


    Còn những bức về ? v࠴?h젮ghệch ngoặc v࠳ai sự thực một cách tuyệt vời. Một khung cửa sổ mầu tím có hoa nơi bệ cửa, tôi vࠁi ngồi trꮠnhững b?hoa, y như một m஠xiếc. T?ࠁi đứng trên một cành ổi trĩu quả, chân mang giày, người thẳng đứng. Khi t?hỉ ra điều v? đ#193;i cau mày suy nghĩ rất lâu rồi bất chợt tìm ra giải pháp: vẽ ngay cho mỗi người một đ?ᮨ. Thế l࠴?ࠁi đậu trên cây như đôi chim, không lo ngã xuống bao giờ. Sẽ không ai nhận ra những nhân vật thần kỳ này, nếu chàng trai không có chiếc mũ bê rê to và cô bé không mang một chấm ruồi son được cố tình tô rất đậm, rất tròn dưới cổ...


    Chính cái chấm son vừa đập vào mắt tôi... Không hiểu bằng con đường nào, nhân vật thần kỳ bé bỏng đã bay đến đây, nằm trên chiếc giường phóng đãng này?


    *

    * *


    Tôi đến bên cửa sổ, lẳng lặng đốt thuốc và chờ.


    Ái Duy cựa mình, mở mắt, ngẩn ngơ một lát rồi ngồi hẳn dậy.


    Bất giác, tôi buồn nôn, một nỗi ghê tởm xen lẫn bực bội. Tôi không biết ứng xử thế nào trong hoàn cảnh này, và cuối cùng đã chọn cách ứng xử theo thói quen. ? Duy đ㠴ới đ⹬ nghĩa lࠢ頁i kh?cữa. Nghĩa l? trong t? chút thiên đường cuối cùng, nếu có, cũng đã tản cư vào địa ngục. Tại sao tôi không được quyền buông thả trong địa ngục của mình?


    Gieo mình xuống giường, tôi quờ tay nắm lấy tay cô bé, bàn tay nhỏ mềm như cánh chim câu. Ái Duy k굠lꮠmột tiếng, giằng tay ra và lùi về phía bên kia giường. Trò vờ vĩnh ngây thơ? Tôi đã gặp khá nhiều loại nữ sinh "chíp chíp" ở đây, đủ để biết cái lối giả vờ lần đầu sa ngã là một thứ trang sức không mất tiền của những loại đàn bà trước tuổi đó. Nhưng lần này, hình như không phải thế. Ðôi mắt mở to sợ sệt kia biểu lộ điều gì đây thành khẩn đến xót xa. Óc hiếu kỳ của t?ị k�� th�� đến cực độ và tôi quyết định đi đến cùng xem sự thể ra sao. Mặt giường phút chốc bừa bộn dưới một cuộc giằng co quyết liệt. Không hiểu từ lúc nào, tôi đã nắm chặt hai tay cô gái trong tay mình với một sức ghì siết mãnh liệt làm toàn thân tôi tê dại và mê mẩn.


    Ái Duy kêu lên nhưng không dám kêu to, những tiếng kêu như tiếng thở. Nàng lăn vào sát bên tôi để giằng tay ra, những ngón tay mảnh mai dịu mềm cố sức gỡ tay tôi. Một lối tự vệ hết sức dại dột... Thình lình giữa lúc ấy có tiếng đập cửa, rồi tiếng huýt sáo vang lên từ ngoài hiên gác. Túc trở lại, đúng như đã hẹn.


    Lẽ ra tôi phải mở cửa cho hắn vào. Nhưng cô gái dường như hiểu ra điều chi sẽ đến, cố chắp tay lại, nh쮠t?ặng im như van vỉ. Bất chợt t?hấy lại b頁i trong ᮨ mắt ấy. Hạ giọng rất khẽ tôi bảo:


    - Em đừng sợ.


    Nhìn thấy bức màn đầu giường, t?hẹ nh஧ k鯠? Duy v௠đ? ngoan ngo㮍 theo tôi như không hề nhớ trước đây có một chút tôi vừa làm cô hoảng sợ đến mức nào. Bây giờ điều làm cô khiếp hãi đang đứng ngoài khung cửa.


    Túc gọi tên tôi một lúc, rồi im lặng. Có lẽ hắn đang nhìn vào lỗ khóa, và đang bể đầu chẳng hiểu tại sao chẳng có ai trong phòng. Chiếc xe hai ống khói của tôi vẫn nằm im dưới chân cầu thang kia mà.


    Bên tôi, Ái Duy run rẩy n鰠sᴠv௠như nhờ che chở. Bỗng chốc những ham muốn trong tôi nguội lại, chỉ còn nỗi xót thương. "Một lát thôi, hắn sẽ đi". Tôi thì thầm. Ðúng vậy, năm phút sau có tiếng làu bàu gắt gỏng, rồi tiếng xe rồ ga, xa dần.


    Ðồng hồ chỉ bảy giờ tối. Gió bắt đầu thổi trên mái nhà, ngọn cây me đập từng cơn vào cửa sổ. Cô gái đứng sững giữa căn phòng, ngơ ngẩn, phân vân.


    - Em không cần tiền sao? - Cuối cùng tôi lên tiếng hỏi, phá tan nỗi yên lặng rình rập giữa hai người.


    Cô bé nhìn tôi, như không hiểu tôi nói gì.


    - Thế sao em lại đến đây?


    Ái Duy khẽ chớp mắt, hai giọt lệ rơi xuống. Mắt nàng mầu hạt dẻ với hàng mi cong dày và những tia nhìn kỳ lạ mà ngày xưa tôi chưa từng thấy bao giờ.


    Tôi cầm tay Ái Duy dẫn đến bꮠb஠ăn, lần nํ là cái cầm tay thân tình của người chủ nhà. Tôi ăn một mình vì nàng cứ ngồi trơ không nhúc nhích.


    Lát sau, không chịu nổi, tôi bỏ đĩa, x?#7915;ng th졠thức ăn đ?o Ái Duy, nàng miễn cưỡng, nhai, nuốt, mắt nhìn đăm đăm về phía trước, rồi chợt bật khóc, khóc thật sự như đứa trẻ.


    "Mẹ ơi!", Ái Duy k굠lꮬ tiếng gọi cổ sơ nhất thốt ra từ mọi nỗi đau, khiến mắt tôi bỗng dưng cay xót. Ái Duy! B頦#193;i Duy ngày xưa! Ðiều gì đã xảy ra với em?


    - Em phải đi - cô bé ngẩng mặt lên, dường như hiểu nỗi thắc mắc của tôi.


    - Không được. Em ngồi đây, nghỉ một lát. Nhà em ở đâu? Tôi sẽ lấy xe đưa em về.


    Tôi biết rất rõ nhà Ái Duy ở đ⵬ căn nh࠳au những tᮍ lá ổi xanh và giàn hoa tỏi tím. Gần mười năm không đến đó, nhưng đường đi tôi vẫn chưa quên. Thế mà đã vờ vĩnh; thì ra tự thâm tâm, tôi cũng sợ Ái Duy nhận ra t?t?ẫn sợ thằng tôi quỷ sứ bây giờ xóa nhòa hình ảnh thần kỳ trong những bức tranh thời thơ ấu của nàng.


    "Không... Không, em không về nh࠮ữa. "Ái Duy rụt người lại khi nghe đề nghị của tôi. "Thú thực, em làm tôi chẳng hiểu gì cả, cô bé ạ, nhưng hình như em đang gặp rắc rối. Tôi có thể giúp em được gì không?". Cô bé nhìn tôi từ đầu đến chân như muốn đánh giá lại xem có thể tin cậy con người xa lạ đứng trước mình tới mức n௮ Kh?r?#7897; dạng t??273; sao nhưng Ái Duy dần dần dịu lại, tỳ cằm lên bàn tay.


    - Em sẽ kể cho anh nghe - cô bé khựng lại, thảng thốt - nhưng anh đã quen biết gì em đâu? - phút ngập ngừng qua đi, cô bé bắt đầu câu chuyện của mình.


    - Này nhé, tên em là...


    Tôi khẽ đặt một ngón tay lên miệng: "Suỵt, đừng, em không cần phải nói tên với anh. Anh chưa biết em là ai, và sẽ không biết em là ai ở đâu. Nhưng cứ kể cho anh nghe, anh hứa sẽ tìm cách giúp em".


    "Bây giờ nghĩ lại, em không hiểu sao có thời kỳ em sống bình an phẳng lặng như thế. Em có trường học, bạn bè, những kỷ niệm vui, những nỗi buồn, nỗi thiếu thốn xót xa cảm thấy mình thèm có mẹ, thèm được vỗ về yêu thương, nhưng tất cả những vui và buồn, thiếu và đủ ấy đều phẳng lặng, ổn định trong một trật tự đã thành nếp từ thời còn bé. Tất cả chỉ xảy ra khủng khiếp là khi người đàn bà ấy đến gặp em. Lúc bấy giờ đã tan trường, cô ấy đón đường em ngay cổng. Cô ta ném vào mặt em mảnh áo may ô rách như một lời nguyền rủa. Em chịu trᣨ nhiệm g젶ề mảnh ᯠấy ? Ấy thế mà, từ lời nguyền rủa ấy, cuộc sống em như gãy gập. Em không biết diễn tả cách nào. Em chỉ biết có điều gì đó đã sụp đổ, một trật tự đã đảo lộn. Không bao giờ còn như trước, không bao giờ nữa.


    Em quên nói là mẹ em đã mất từ khi em còn nhỏ. Em lớn lên lặng lẽ, cô thì không nghe em nói gì bao giờ, còn ba thì đi mù mịt chẳng mấy lúc có nhà. Ba em rất nghiêm, khắc kỷ, dù vậy em rất yêu ba, gần như tôn thờ..." Bây giờ, Ái Duy đang nằm ?#7863;t trꮠgường, cằm tỳ lꮍ hai tay. Ánh đ讠dừng lại trên sống mũi thon thon, một nửa khuôn mặt chìm trong bóng mờ. Tôi ngồi trong ghế bành, hút thuốc và nhìn những sợi tóc cô đang trải ra trên mặt gối.


    Tự đáy lòng, em cảm thấy mất mát không gì bù đắp nổi từ khi ba em lấy vợ. Nhưng may mắn sao mợ em là một người mẹ kế rất tốt. Vả lại, em đã quá quen với sự cô độc đến nỗi chẳng chấy buồn chᮠnữa. Ở trong nhà em hòa thuận hiếu lễ và cô đơn. Mỗi bữa ăn em vẫn nói chuyện, vui cười, âu yếm các em, thưa gửi với ba mợ. Rồi những giờ còn lại em ru rú trong căn phòng trên gác, đó là thế giới của em, ở đó em thực sự sống cuộc đời của mình.


    Gia đình em vẫn phát triển với những tiện nghi ngày càng phong phú, những tiện nghi tất nhiên là đến bằng con đường chân chính, vì ba em là một người nghiêm trang mẫu mực, đúng đắn đến mức khô khan. Ba em sống nghiêm túc đến nỗi ban khiếu tố ở địa phương đã phải bật cười vì kinh ngạc, rồi sau đó mới bất bình phẫn nộ, khi có tin cô văn thư của cơ quan hô hoán lên rằng ba em đã giở trò chim chuột và định cưỡng hiếp cô ta. Cái tin đó chẳng khác nào một thứ chuyện vừa khn vừa kh?cực. Ở đời không thiếu những lời vu khống, nhưng không ai có thể vu khống những vị bồ tát. Hành động vu cáo trở lại trừng phạt kẻ chủ mưu: Cô văn thư bị buộc phải xin thôi việc.


    Từ đầu đến cuối, ba em không phân trần nửa lời. Ông không thiếu người ủng hộ và bênh vực, khi cần đến. Kể cả mợ em, người làm chứng có giá trị cao nhất. Trước ban khiếu tố, mợ em đã nhận vào giờ xảy ra vụ việc như lời người đàn bà kia tố cáo, ba em ốm nghỉ ở nhà, và chính mợ đã điện thoại mời bác sĩ đến thăm bệnh. Làm sao ông có mặt một lúc hai nơi được? Tất cả trôi qua như một bài toán đơn giản, và tưởng chừng rồi sẽ chẳng còn ai phải nhớ.


    Nhưng một chiều, người đàn bà ấy đón em trước cổng trường. Em suýt không nhận ra cô ta, vì cô ta đã gầy tọp đi, hai gò má nhô cao, tóc xõa rũ rượi. Cô ta có bốn đứa con và hiện nay không có việc làm nữa.


    Người đàn bà nhìn em, đôi mắt chết, và rút ra một mảnh vải. Ðó là một mảnh may ô bị xé toạc, có chữ đầu tên ba em thêu trên đó. (Ba em thường đi công tác nên em đã đánh dấu tất cả quần áo của ông để tránh lẫn lộn).


    Em cầm mảnh vải nhận ra dấu hiệu ngạc nhiên:


    - Tại sao cô xé áo của ba tôi... Nhưng lúc nào? "Lúc ông ấy nằm trên bụng tôi". Giọng nói lạnh lẽo của người đàn bà vang lên bên tai em. Em lặng người đi như hóa đá. Em biết cô ấy đã thua trận, ngã gục, bây giờ cô ta căm hận và báo thù.


    Khi em về đến nhà, ba em không có ở đó. Em đến bên mợ. Mợ đang thử cái máy may mới mua. Em đặt mảnh áo xuống bên mợ, lặng lẽ. Mợ quay nhìn, rồi cau mày yên lặng. "Con điên sao?". Lát sau mợ hỏi và nhìn em. Cái nhìn cho biết là bà đã hiểu và không cần giải thích gì thêm nữa.


    "Con điên sao". Câu hỏi của mợ làm em không biết vịn vào đâu mà lần nữa. Lẽ nào là điên rồ, cái nguyện vọng muốn biết sự thật về những gì thân thiết nhất của đời mình? Bất giác em nhận ra giọng nói bình thản kia, đã từ rất lâu rồi chính mợ đã hiểu hơn ai hết, ba em là người như thế nào... em rùng mình, chới với như vừa thụt chân xuống vực sâu...


    Trước mắt em, mợ thản nhiên tiếp tục đạp máy. Hình ảnh mợ in trên những vật dụng đắt tiền trong gian phòng. Mợ đã có đủ để không cần thắc mắc gì thêm cả. Còn em, em không cần gì cả, em cần ba em. Nhưng làm sao em có lại ba như vẫn từng đã có? Làm sao sự phẳng lặng trở lại? Làm sao yên tâm và hy vọng? Làm sao...


    Em gập người lại, lảo đảo, muốn nôn mà không nôn được. Mợ em ngẩng lên, nhìn thấy em giật mình:


    - Con ốm à? Mợ hỏi.


    Em lắc đầu:


    - Không. Con không muốn sống trong cái nhà này nữa.


    Ái Duy!". Mợ kêu lên, vừa lo lắng vừa tức giận.


    "Con không muốn sống trong cái nhà này nữa." Em nhắc lại và nấc lên nhưng em không khóc. Như một người lên cơn động kinh, em thấy chân tay co giật. Mợ em nhào vào phòng ngủ. Bà đi gọi điện thoại cho ba em. Trong trạng thái kích động mãnh liệt, em đi thẳng ra đường, hai tay không cầm một thứ gì tùy thân.


    Những con đường. Những con đường nhảy múa trước mắt em. Xe cộ, cây cối, người qua lại. Những con đường!


    Em đi, đi hoài, không nghĩ ngợi. Một cái gì đấy đã rạn vỡ, không thể hàn gắn được nữa. Một thế giới đã sụp đổ không còn nơi nương náu.


    Ðêm lạnh, phố vắng. Em dần dần nhận ra mình đói, rét, mỏi mệt và nếu cứ đi tiếp mãi em sẽ thành một trong những người điên lang thang của thành phố này.


    Em ngồi xuống chiếc ghế đá bên mé công viên. Một chiếc xe máy rà lại. Em nhìn một lúc mới nhận ra một người đàn ông đang cúi xuống:


    - Lên đây, anh chở đi. Chết cóng bây giờ.


    Em không nhớ sau đó em và anh ta đã nói những gì. Em chỉ nhớ trong trạng thái mê muội tê cóng, mình đã lên ngồi sau xe.


    Lúc đến căn phòng này, em bắt đầu thấy sợ. Hình như có điều gì khủng khiếp sẽ đến. Nhưng em không thể ra khỏi trạng thái rũ liệt. Anh ta pha cho em một cốc chanh nóng nhưng em chỉ hớp được một hớp. Thấy vậy, anh ta ra khỏi phòng, khóa trái cửa lại.


    Dần dần, em hơi tỉnh lại, bắt đầu nhớ ra mình đang ở nơi đâu. Giữa lúc đó em nghe tiếng người lên thang, và anh đến...


    Ái Duy ngừng kể. Trời tối mịt mùng trên ô kính chắn gió.


    Cô bé kiệt sức. Lúc kể xong, cả người cô rung lên, mái tóc dài úp sát xuống gối. Tôi ngồi yên trong ghế bành. Không biết làm gì, cũng không biết nói gì.


    Trên giường, Ái Duy nằm yꮬ lịm dần trong giấc ngủ. Những ngấn nước mắt còn đọng quanh mi.


    Ðêm ấy tôi ngủ trên tấm drap trải giữa sàn nhà, cuộn mình trong chăn. Ðêm yên tĩnh, tôi nghe tiếng thổn thức trong cơn mơ ngủ thỉnh thoảng dội lên từ lồng ngực cô gái trẻ thơ. Hình như tôi đã từng cảm thấy nỗi đau đớn ê chề này hơn một lần trong đời. Tôi đã cảm thấy như thế vào ngày Cầm bỏ đi sau khi bĩu cặp môi khinh khi tuyệt đẹp trên tình yêu thần thánh của tôi ngày đó. Tôi đã đau đớn nằm trên cái sàn nhà này - lúc ấy còn trơ trụi chưa hề có dấu vết những vật dụng xa hoa - Nằm, tự nguyền rủa và muốn hủy diệt cả cuộc đời bất lực của mình. Rồi chợt bản năng sinh tồn trỗi dậy, tôi ra đi, lột xác, vứt bỏ những niềm tin, chấp nhận những con đường ngắn nhất để có quá hơn những gì Cầm đòi hỏi. Khi cuộc sống đã đầy ắp thú vui vật chất, tôi khoái trá nghĩ sẽ có ngày Cầm ao ước trở lại với tôi và lúc đó tôi sẽ quay lưng để làm nhục nàng. Nhưng nàng không quay trở lại, bao năm nàng không trở lại. Dần dần, lòng căm thù nguôi ngoai, nghĩ đến Cầm tôi chỉ còn một cảm giác mơ hồ không vui không buồn. Ðôi khi tôi cảm ơn nàng đã khiến tôi đủ sức mạnh để thay đổi số phận mình - đúng thế, lòng căm hận có khi còn mạnh hơn cả tình thương yêu. Nàng đã cho tôi một số phận khác và biến tôi thành một con người khác. Bây giờ tôi không căm ghét nàng nữa vì lẽ giản dị: tôi đã trở thành giống như nàng.


    Bây giờ, cạnh tôi là một cô gái mười sáu tuổi thất vọng. Thế giới thần tiên của tuổi thơ tan biến: một thế giới khác, nham nhở, ti tiện hiện ra. Hôm nay cô bé ngạt thở, vùng vẫy. Ngày mai cô sẽ thở quen không khí ấy, thậm chí không thể thiếu nó. Cũng như tôi bây giờ...


    Suốt trong đêm, ánh mắt ma mị của Cầm cứ xoáy vào tôi, cám dỗ, xúi giục, khêu gợi một điều gì vốn có từ trong bản năng của đàn ông. Tôi nhổm dậy, đến ngồi cạnh Ái Duy. Đ?ắt nhắm nghiền mệt mỏi. Gò ngực thiếu nữ phập phồng dưới lớp chăn. Tôi rít thuốc liên tục, rồi đứng dậy đưa cái giường xếp nhỏ ra hành lang, cùng với chiếc chăn bông đương đầu với đêm lạnh.


    Ðêm lặng yên, lặng yên đến không thể nào chịu được.


    *

    * *


    Sáng mai tôi tỉnh dậy. Tiếng lá ngoài kia rì rào: hình như hôm nay trời ấm hơn.


    Cửa phòng mở hé. Tiếng nhạc nho nhỏ phát ra từ chiếc Cassette ở đầu giường: "Chuông thanh thanh, chuông thanh thanh, chuông giáo đường thanh thanh...". Thấy tôi bước vào. Ái Duy đang ngồi hᴠtheo tiếng nhạc chợt dừng lại, mỉm cười. Đ lần đầu Ái Duy cười với tôi từ hôm qua đến giờ. Trong nụ cười thấp thoáng vẻ hoàn hồn, tin cậy và tôi biết đó là phần thưởng đền bù cho một đêm không ngủ.


    - Bây giờ em mới nhớ, hôm nay là Nôen.


    - Vâng. Hôm nay, nếu em đồng ý, anh sẽ đưa em đi chơi để nhìn trời đất Giáng sinh.


    Ái Duy nhìn tôi như dò xem trong lời đề nghị ấy có gì đáng sợ không.


    - Em đừng ngại. Anh hứa không làm cho em sợ hãi đâu... Anh xin em, mình không thể ở đây lâu hơn được. Sẽ có người đập cửa như hôm qua ấy.


    Ðiều đó hoàn toàn là thực, vì những thằng bạn phóng đãng của tôi đâu có để lỡ dịp tụ tập vào một ng๠rảnh rỗi như thế n๮ Mặt Ái Duy xanh rờn: "Vâng, vâng, em sẽ đi". Tôi mỉm cười: sự tình cờ đã đẩy tâm hồn trẻ con dễ thất vọng mà cũng dễ tin này về phía tôi, và chốc lát tôi biết mình đã từ gã hoang đàng biến thành tay hiệp sĩ. "Ðược rồi, anh sẽ cố gắng làm cho ngày hôm nay không buồn tẻ, nhưng ta phải giao ước nhé: hôm nay ai cũng phải vui, không ai được nhắc đến chuyện buồn. Ngày Chúa ra đời mà!".







    Hai chúng tôi thỏa thuận với nhau và ngồi vào điểm tâm, với món mì cua muôn năm của anh chàng độc thân. Ái Duy nh쮠lꮠbức ch⮠dung của Cầm. Cái nhìn ngây thơ của cô bé như bị hút vào ánh mắt mê hoặc của nàng tiên cá trong tranh.


    - Ai đấy anh?


    - Người đàn bà của đời anh đấy. Em hãy nhìn thoáng qua thôi, nhìn lâu sẽ bị hớp hồn, giống như anh ngày trước.


    - "Em thấy sợ" - Ái Duy n"Ci g젭a qu᩠ấy, anh ạ".


    - Ðúng, nàng là ma, ở đấy quá lâu nàng đã biến thành ma quỷ. Em không tưởng được đâu. Những đêm trăng hắt vào, nàng lè lưỡi ra dài hàng thước. Từ trong giường nhìn ra, anh ớn lạnh, cô độc đến xây xẩm mặt mày.


    Ái Duy mở to mắt nhìn tôi như muốn hỏi xem đùa hay thật. Rồi cô bé trầm ngâm nhìn chân dung thiếu phụ, mặt thoáng vẻ phân bì trẻ thơ:


    - Anh... anh đã yêu cô ấy nhiều lắm, phải không?


    Tôi gật đầu. "Ðẹp quá. Chắc anh không bao giờ quên cô ấy". Bỗng dưng tôi thấy buồn cười: "Anh cũng không biết. Có thể là thế". Không, hình như tôi đã không hề nghĩ gì về Cầm. Tôi đã quên nàng từ rất lâu, những nhức nhối cũng đã qua. Nhưng nàng vẫn còn đó mãi mãi vẫn còn đó, trên từng vật dụng xa hoa bừa bãi, trên gối chăn hàng đêm xê dịch trong cuộc truy hoan, trong sự trống rỗng chán chường gậm nhấm đời tôi!


    Chiếc Bonus chạy như mũi tên lao trꮠđường. Ái Duy ngồi sau, tôi chỉ nghe thoang thoảng tiếng nói, hình như cô bé hỏi tôi tại sao lại dùng cái xe to kềnh càng như thế này.


    - Xe này theo kịp cả ô tô, Ái Duy ạ!


    - Ðể làm gì?


    - Ðể làm gì à? Anh không biết. Có lẽ để thỏa mãn lòng háo thắng. Cái đó quỷ quái và mạnh mẽ lắm, em ạ. Không có điều đó, chắc cuộc sống của anh chẳng còn gì.


    Như để chứng minh điều vừa nói, tôi cho xe vọt chạy lên. Những cây xanh hai bên đường như giật lùi mờ thoáng. Vài chiếc ô tô cũ rỉ rả bên đường tụt về phía sau. Ái Duy cười, tiếng cườ itrong như thuỷ tinh. Ðúng là trẻ con, khóc đấy rồi cười đấy. "Sợ không? Có sợ thì ôm lấy người lái nhé". Tôi cho xe phóng nhanh hơn nữa, tốc độ chóng mặt. "Không!" Cô bé bướng bỉnh trả lời. Xe phóng nhanh hơn nữa. "Kh? Kh?"... Tiếng ? Duy reo trong giồi một lát, tôi thấy bàn tay nhỏ mềm bám nhẹ vào vai mình: "Em chóng mặt quá". Tôi cười thành tiếng, tiếp tục phxe. ? Duy k굠to: "Em sẽ buông tay ra. Em té xuống cho mà xem". Tôi sợ, đầu hàng, cho xe chậm lại. Sau lưng t?Ái Duy đấm thùm thụp, trách móc. Bỗng nhiên tôi cười vang, nghịch ngợm như chú học trò nhỏ.


    Bãi cỏ dưới chân đồi Thiên An xanh ngắt, những cây thông non ẩn mình lấp ló dưới thung lũng đầy sương.


    - Sao đến đây hở anh?


    - Thì em đã chẳng bảo là đến bất cứ đâu cũng được. Ðã lâu lắm anh không đến chỗ này. Sáng nay, lúc đi cùng em trên đường, tự nhiên anh thấy nhớ cảnh cũ.


    Thuở còn đi học, tôi thường đến ngọn đồi này, có lúc là để yên tĩnh ôn thi, có khi để mượn những cuốn sách rất xưa ở thư viện của nhà dòng. Lâu lắm rồi, tuy vẫn ở trong thành phố, tôi không trở lại. Bây giờ tôi ngồi đây, trên chiếc áo mưa trải rộng, ? Duy nằm sấp, chiếc áo gió đỏ thắm vẽ một vệt mầu tươi sáng trên cỏ xanh.


    Vẻ mặt ? Duy khiến tôi nghĩ cô bé đang sống trong mơ. Và lạ thay, tôi cũng có cảm tưởng như thế: một giấc mơ bất ngờ, kỳ lạ.


    "Hình như em đã đến đây nhiều lần, khi chỏ.". Ái Duy vừa nói vừa chăm chăm nhìn xuống hồ Thủy Tiên. Ðôi lông mày đen, cau lại như muốn đào sâu vào trí nhớ:


    - Ðúng, đúng rồi! Ở đ⹠c#7897;t mặt hồ trࠢꮠkia là tu viện... Khi còn nhỏ, em đã nhìn, và tưởng tượng tới tòa lâu đài và mặt hồ bằng gương trong chuyện Chú lính chì... Tôi gõ gõ lên mái tóc Ái Duy. Đ?t?ũng vừa nhớ lại đ㠣#7847;n dẫn c? học trn đ⹬ thuở đ Duy còn thích ngậm ô mai. "Em đã đến đây với một người." Ái Duy bỗng thở dài. Tiếng thở hòa tan vào cơn gió đang xì xào quanh mặt hồ rồi mất hút trong thung lũng thông. "Bây giờ em không còn hình dung được mặt mũi người ấy nữa. Thế mà thuở đó đọc truyện cổ tích, em luôn thấy các hiệp sĩ và các hoàng tử có đôi mắt và miệng cười giống hệt anh ấy...".


    Ái Duy dừng lại, bứt một bông cỏ, chúm môi thổi vào nhị hoa.


    - Bây giờ anh ấy đâu rồi - Tôi hỏi.


    - Em không biết. Lâu lắm rồi, tự nhiên em lại nghĩ đến. A! Nếu mà anh ấy vẫn còn ở nhà, có lẽ hôm qua em sẽ không ra đi.


    Vẻ mặt ? Duy rũ ra, buồn bã.


    - Thôi đừng nói chuyện đó nữa. Em làm tôi phật lòng ghê gớm lắm đấy.


    - Vì sao?


    - Nếu hôm qua em vẫn ở nhà, hôm nay tôi chẳng được biết em. Giờ đây em không vui sao. Hãy nhớ lời giao ước đấy nhé!


    Ái Duy vội v㠴rả lời: "Ồ! Không, không, vui chứ".


    - Ít ra tôi cũng dễ thương gần bằng ông anh hoàng tử của em ngày trước.


    Ái Duy nhìn tôi chăm chăm:


    - Anh chẳng giống gì anh ấy đâu. Anh ấy nghiêm và hiền. Anh ấy cũng không có ria mép...


    - Khó gì ria mép. Có thể nơi nào đấy ông anh của em bây giờ cũng đã để ria mép, không chừng cả râu quai nón nữa.


    Ái Duy phá ra cười: "Nhất định không có đâu, những người hiền lành không có râu".


    - Nghĩa là anh dữ tợn lắm?


    Ái Duy lắc đầu: "Ðến bây giờ em cũng chẳng rõ anh là người thế nào?".


    - Thế sao em lại dám đi cùng tôi?


    - Em cũng không biết, nhưng em linh cảm, nhất định anh không phải là ma quỷ.


    Câu nói giản đơn của nàng, không hiểu sao, làm tim tôi se thắt.


    Ái Duy đứng dậy, chạy xuống lòng thung lũng, cúi nhặt những trái thông rơi rải rác trên mặt cỏ. Mầu áo đỏ phấp phới sau những tán thông xanh.


    Tôi chầm chậm bước theo sau cô bé, tay cầm điếu thuốc cháy dở và nhận ra mình đã qua cái tuổi có thể chạy nhảy hồn nhiꮠtrꮠcỏ. Ái Duy đang chập chờn trước mắt. Qua hết bờ dốc cô bé tìm thấy một ngôi mộ cũ nằm lẻ loi bên sườn đồi và ngồi thụp xuống sau thành mộ.


    Thấy rất rõ chỗ nấp ấy nhưng tôi cũng giả vờ đi quanh tìm kiếm và gọi to:


    - Bé ơi! Bé ơi!


    Một tiếng reo dài, hai bàn tay nhỏ bịt lấy mắt tôi, tinh nghịch. Chúng tôi ngồi bên nhau trên bức thành quanh ngôi mộ, chân buông thõng chạm đầu vào những ngọn cỏ ngũ sắc...


    "Tội nghiệp cho ai nằm đây, ng๠đꭠchỉ c#7897;t m쮨". Ái Duy nói, bứt những cánh hoa ngũ sắc tung về phía nấm mộ. Chợt cô bé ra chiều tư lự: "Nếu bây giờ đột ngột động đất chẳng hạn, hai anh em mình sẽ vĩnh viễn nằm lại nơi đây".


    - Anh chắc như vậy sẽ hạnh phúc lắm. Ở dưới ấy m쮨 sẽ kh?cô đơn.


    Tôi định nói: "Ít nhất cũng dễ chịu hơn khi nằm cạnh em lúc còn sống", nhưng kịp dừng lại vì thấy dường như lời đùa cợt ấy ẩn chứa chút xíu đểu cáng. Tôi ngập ngừng, im lặng rồi chợt ngạc nhiên vì sự đàng hoàng của mình.


    Bây giờ Ái Duy đang say sưa bứt b?cỏ gấu tết lại để chơi trò đá gà. Cô đưa cho tôi một cọng, tôi ngẩn người:


    - Làm thế nào đây nhỏ, từ lâu anh quên cái trò này mất rồi.


    "Thế này... Thế này nh馱uot; Ái Duy loay hoay gài hai bông cỏ vào nhau. Mắt cô bé chăm chú nhìn, rồi chợt ngẩng lên sáng trong mầu hạt dẻ. Một chút nắng mùa đông long lanh trong ánh mắt thỏ con.


    - Sao thế anh? Ái Duy hỏi, bỡ ngỡ.


    Mặt tôi lúc ấy có lẽ thoáng vẻ ngây dại, buồn và hạnh phúc.


    - Anh cũng không hiểu. Tự nhiên anh nhớ thời còn nhỏ, bắt dế, trèo cây, tắm sông, nghịch nước. Hình như em vừa đánh thức tất cả trở dậy trong anh, chúng nằm ngủ quên đâu đấy. Lâu quá anh bận rộn đến tưởng như mình không có quá khứ.


    - Anh nói leo cây làm em cứ nhớ hồi còn nhỏ ngoài vườn nhà có cây ổi lớn. Em cứ mơ leo lên mà người lớn cấm ngặt. Thế là em vẽ em và anh Thắng đứng trên cành ổi. Rồi em cho vào cả hai những cặp cánh thật dài.


    - Ðể làm gì? Tôi tủm tỉm cười, mắt chợt rất cay.


    - Ðề phòng khi có ngã mình sẽ bay lên, thật dễ sợ nếu ngã từ trên cao xuống mà không có cánh.


    - Người có cánh đâu, em?


    - Vậy mới khủng khiếp. Làm sao hở anh?


    - Có hai cách. Một là ngã chết, hai là chấp nhận tình trạng chênh vênh đang sống, thay đổi dáng kiểu người. Hóa thân làm một chủng loại gì đó có thể lắt lẻo ở mọi độ cao. Dần dần sẽ quen, sống béo tốt, vui tươi, giàu có nữa.


    - Em không hiểu.


    - Hoàn toàn dễ hiểu. Nhưng thôi, bé hãy trở lại chuyện ngày còn nhỏ...


    Ràn rụa nước mắt, Ái Duy ?#7863;t v௠vai t?v࠴?hẽ đặt tay lên mớ tóc tơ vuốt nhẹ như vỗ về đứa trẻ.


    Trên đường về, chiếc Bonus lao theo những con dốc dài. "Nhanh lên anh, nhanh lên!" Ái Duy k굠lꮠvࠣười, tiếng cười lạ lùng trong như thủy tinh. Tôi nhún vai: chiếc xe bốc lên, lao như xé gió.


    - Nhanh lên nữa! Nhanh lên!


    Giọng cô bé tinh nghịch, hối hả. Hai cánh tay quàng quanh người tôi, cái đầu nhỏ áp vào lưng áo. Tình huống bất ngờ làm tôi hơi bối rối "Sao? Hết sợ như hồi sáng rồi hả? Nhanh thế này được chứ?".


    "Ðược" một tiếng thoáng bên tai, rồi chợt mắt tôi tối sầm. Hai bàn tay Ái Duy vừa bịt lấy mắt t?chiếc xe loạng choạng. Tôi thắng gấp, xe nẩy bật, quay tròn. Một tiếng "rầm" rùng rợn trên mặt đường, tôi không còn biết gì nữa... gì nữa.


    *

    * *


    Tôi cũng không nhớ sau đó người và xe làm cách nào về đến nhà. Buổi chiều, tôi lục tìm thuốc tím và mấy lọ nước khác để lau chùi những vết trầy kéo dài trên mu bàn tay và đầu gối. Không hiểu sự may mắn nào đã giúp chúng tôi thoát chết, hoặc ít ra cũng không bị thương trầm trọng.


    Ái Duy nằm yên lặng lơ mơ trong ghế bành. Chiếc áo gió mầu đỏ toạc một đường dài. Tôi bực bội phát cáu vì câu chuyện gặp gỡ tình cờ đã suýt biến thành một trò chơi trí mạng. Nén cảm giác đau thương, tôi bảo:


    - Ngốc là sự tìm cách hủy diệt mình, em bé ạ. Chẳng giải quyết được gì cả, Hèn nhát! Anh không bao giờ muốn chết.


    - Thì anh đã chẳng bảo chết nằm bꮠem l࠭ột hạnh ph? Ái Duy bướng bỉnh trả lời.


    - Ðừng có ngu. Kinh nghiệm đầu tiên mà mọi người con gái phải có là đừng bao giờ tìm cách kiểm chứng lời nói của đàn ông - Tôi nói thêm với giọng pha trò để không khí đỡ căng thẳng - những lời ấy thuộc phạm trù thi ca, không thuộc phạm trù khoa học.


    - Ít ra, nhờ vậy bây giờ em mới hiểu ra điều đó.


    Tôi nhún vai, lắc đầu, không nói nữa.


    Tối hôm ấy, sau bữa ăn tối, T?#273;ưa c᩠gường xếp nhỏra hந lang. Bꮠtrong ? Duy chuẩn bị đi ngủ. Qua khung kính mờ, bóng cô gái ngã xuống kéo dài. Cái bóng đang chải tóc.


    Ðèn tắt. Một lát. Rồi ánh sᮧ trở lại, hắt qua ??hơi. Cửa mở. Ái Duy bước ra, ngồi xuống mép giường, mắt mở ro, tay rụt rè nắm lấy tay tôi.


    Nằm yên, tôi nhìn cô bé. Không hiểu sao, giờ phút này lòng tôi bình thản lạ.


    - Có chuyện gì nữa, bé?


    - Em đang nghĩ đến ngày mai. Anh khuyên em nên thế nào?


    - Về nhà. Xem như không có chuyện gì xảy ra. Ði học, đi chơi, nếu thích thì trèo cây, bắt bướm v.v...


    - Không thể được. - Ái Duy thở d੬ một tiếng thở buồn thương.


    - Ðược. Và phải như thế nào. Khi những bức xúc qua đi, em sẽ trở lại bình thường.


    - Anh lại nói như thế sao? Với em, không bao giờ có thể như trước nữa.


    - Ðó chỉ là một bước để trở thành người lớn, chỉ có thế thôi. Em tưởng em có thể làm trẻ con mãi sao? Chẳng quan trọng gì cả, rồi em sẽ hiểu ra và chấp nhận.


    -Không, không thể được. Ái Duy oࠬꮠkh/font>


    "Không, em muốn ở lại đây. Em không thể trở về. Hãy cho em ẩn náu một nơi không có giả dối, không có nhơ nhuốc". "Không có một nơi nào như thế cả". Tôi muốn hét vào tai nàng điều đó. Nhưng làm sao cho nàng tin. Ôi! Ái Duy, những ảo tưởng đầu đời của tôi!


    - Anh ơi, tuổi thơ của em đã chấm dứt rồi. Em muốn ở lại đây, ngày ngày em sẽ cọ sàn và nấu ăn. Rồi em sẽ chiên bánh phồng tôm...


    Ái Duy nắm cả hai tay tôi. Run run tôi đứng dậy, nhẹ nhàng đẩy cô bé ra. Nhưng cô không buông, và từng bước, chúng tôi đến gần lan can.


    Sao đầy trời. Mầu đen tím huyễn hoặc phủ xuống thế gian. Lặng yên, lặng yên mênh mông, chỉ có tiếng Ái Duy th젴hầm: "Kh?hiểu sao anh ạ, l?y em thấy anh giống như anh Thắng của em hồi xưa vô cùng! Hãy để em ở lại đây. Em yêu anh".


    Không hiểu vào giờ phút thốt ra mấy tiếng thiêng liêng ấy, cô bé có hiểu mình đang nói gì không? Tôi đứng trân người, chết điếng, xao xuyến vì sự thử thách quái ác đó. Mái tóc cô bé dịu dàng áp vào vai tôi, mùi thơm thiếu nữ làm tôi ngây ngất.


    Nhưng tôi trấn tĩnh được. "Bé, bé biết không, anh vẫn nghĩ tìm kiếm sự thanh khiết tuyệt đối là dấn thân vào cuộc hành hương không tới đích. Nhưng không hiểu sao hôm nay... Hồi nhỏ, anh từng kể chuyện một gã ác độc suốt đời toàn chém giết, chỉ duy nhất một lần hắn đã cứu được một con nhện. Khi chết, y xuống hỏa ngục và lúc sắp bị thiêu cháy thì một sợi dây nhện từ trời buông xuống kéo hắn ra khỏi âm ty. Anh có linh cảm rằng sau này khi anh chết, nếu có gì cứu rỗi được anh, đó chính là cái đêm này.


    Ái Duy nhìn xoáy vào tôi, đôi mắt ngây dại dưới ánh sao. - Nghĩa là thế nào, hở anh?


    - Nghĩa là thế này, giả dụ đúng là em yêu anh, giả dụ có một điều gì đó giữa chúng ta... Ðiều đó, bé ạ, nếu là chuyện nghiêm túc, thì lúc này anh chưa dọn mình để đón tiếp nó.


    Ái Duy sững người một phút, rồi lùi lại:


    - Như thế nghĩa là em phải ra đi?


    - Này nhé! Sáng mai, anh sẽ đưa em đến một ngã tư mà anh biết rõ từ đó em có thể đi bộ về nhà trong năm phút. Ðừng ngạc nhiên. Em sẽ về nhà, xin lỗi mọi người, sống bình thường như chẳng có chuyện gì xảy ra. Em hãy yên tâm quên hết những gì xảy ra hôm nay; anh hứa với em rằng chỉ có một mình anh biết, mà anh lại không hề rõ em là ai, tên gì, ở đâu. Rồi một ngày kia chính anh cũng chẳng còn nhớ nữa.


    Ái Duy vẫn đứng lặng. Hai con mắt nàng nhìn tôi, đôi mắt mầu hạt dẻ, lần đầu tiên tôi thấy trong ánh nhìn ấy một vẻ ai oán đến não lòng.


    - Em không hiểu vì sao lại phải cẩn thận đến rắc rối như thế. Nhưng thôi, điều đơn giản nhất thì em hiểu rồi: anh không cần có em... Em sẽ đi, đúng như lời anh khuyên - Bỗng nhiên cô bé nghẹn ngào run rẩy: "Bây giờ anh đến đây...".


    Ái Duy ngước mắt lên, mắt nhắm nghiền. Tôi đặt hai tay nhẹ nhàng quanh vai cô bé, "Hãy hiểu cho anh. Sau này em sẽ hiểu". Tôi nhủ thầm và khẽ hôn lên trán cô bé, cái hôn của người anh dành cho đứa em bé nhỏ.


    Nhưng Ái Duy mở choàng mắt, lắc đầu, quàng hai cánh tay mảnh dẻ vào cổ tôi. Rồi nàng quả quyết níu đầu tôi xuống và hôn vào môi tôi, cái hôn đầu đời như một thứ lễ vật ngọt ngào. Bây giờ thì tôi không cưỡng lại những lời ru dỗ ngọt ngào của trái tim mình được nữa...


    Ðêm lặng yên, lặng yên bất tận. Chợt một hồi chuông từ trời cao thánh thót vang ngân. Ðã nửa đêm, giờ Chúa ra đời.


    *

    * *


    Lại một sớm mai tràn vào hành lang hẹp qua những ô thông hơi. Tôi tỉnh giấc và nghe tiếng nhạc vọng từ Cassette: "Nghe kể chuyện ngày xưa, có một nàng công chúa...".


    Rửa mặt, thay áo xong, tôi bước vào phòng.


    Cửa mở! Chăn bông nằm nửa trên nửa dưới, chéo chăn phết mặt sàn gạch hoa. Trên gối vẫn còn chỗ trũng xinh xinh, mấy sợi tóc tơ còn vướng lại.


    Ái Duy đã đi rồi, lặng lẽ, đột nhiên như khi nàng đến. Tôi nh௠ra ph��cửa sổ, nh쮠xuống đường. "Ái Duy, Ái Duy!"


    Tự nhiên trong tôi trào lên một ước muốn xót xa được thấy lại khuôn mặt cô bé. Tôi định xuống lấy xe lao ngay đến căn nhà ấy, căn nhà có những cây ổi vươn cành ra tới bờ thành. Nhưng không hiểu sao tôi dừng lại... Hãy chờ một thời gian để lắng xuống những xôn xao của cơn bão. Có thể tất cả cũng chỉ là ảo giác như thế...


    Mười ngày sau, khi biết cơn bão ấy không bao giờ qua đi, tôi tìm đến ngôi nhà, ngỡ sẽ gặp cô bé đi học về, áo trắng và cặp sách ôm trước ngực.


    Bà cô nghễnh ngãng ra mở cửa. Bây giờ bà già quá mức tôi tưởng tượng, đét như một cành củi khô. Khó khăn lắm tôi mới hỏi thăm được và bà trả lời rằng Ái Duy kh?trở về nh஠Gia đ쮨 t쭠kiếm khắp nơi, vẫn bặt tăm.


    Năm sau, cũng vào dịp Noel, tôi đến một thành phố khác nhận công việc làm ăn và được mời dự dạ vũ ở nhà một người bạn. Phòng nhảy mờ ảo dưới ánh đèn lác đác trên cây thông rực rỡ. Ðang ngồi trước ly rượu, chợt tôi giật mình vì thấy một đôi trai gái cặp tay nhau bước vào. Người con trai còn trẻ nhưng khá mập, bụng đã phát triển quá mức. Cô gái mặc jupe đỏ thời trang lưng hở rất thấp, bộ ngực nhô lên rụt rè dưới cổ áo rộng. Trời ơi, đấy là Ái Duy!


    Ái Duy! Nhưng sao nàng thay đổi nhiều quá thế? Nàng quay cuồng theo điệu nhạc, đ??on mൠcᮨ sen thời thượng. Ái Duy... Tôi dụi mắt, nhưng đúng là cái răng khểnh khi cười, cái cổ cao mảnh khảnh, không bao giờ tôi quên.


    Nhạc dừng. Tôi đến gần bên gốc thông. Gã con trai đặt một tay lên khoảng thịt da mát mẻ sau lưng cô gᩮ. "Ái Duy", t? gọi khe khẽ, một lần, hai lần. Nàng không nhúc nhích. Lẽ nào em đã quên cả tên của mình rồi ư?


    Chợt người đàn ông thầm thì điều gì, chỉ tay về phía cửa. Cô gái quay nhìn nghiêng nửa người lại, và tôi bàng hoàng nhận ra: cô ta không có vết son dưới cổ. Không phải Ái Duy!


    Ðêm hội tan. Tôi trở về khách sạn, lbồn chồn v젶ui mừng lẫn nuối tiếc. Ái Duy! Bây giờ em ở đâu? Biết đâu chừng, ở nơi xa xôi nào đấy em chẳng đang phấn son quay cuồng trong tay gã đàn ông không quen biết? Nếu thế thì em sẽ nghĩ gì về tôi, về điều thiện còm cõi mà tôi đã nói với em đêm em cầu xin tôi giữ em lại, và tôi đã quay đi, mặc em lăn xuống dốc cuộc đời!


    Cứ thế, tôi nằm chong mắt trong đêm yên lặng. Lúc ánh sáng mai lờ mờ hiện ra qua những ô kính trên cao, tôi chợt thầm nghĩ: Kh? m㩠m㩠? Duy vẫn lࠁi Duy! Mãi mãi vẫn là em của đêm ấy, chính em đã ra đi để khẳng định niềm tin của m쮨, bất chấp những lời t?huyꮠnhủ. Ở con người mảnh khảnh nhỏ nhoi ấy là sức mạnh mãnh liệt không tàn lụi...


    Ái Duy, ngọn lửa nhỏ của tôi, bây giờ em ở đâu?
     
  2. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Bút Máu - Vũ Hạnh

    Lương Sinh người ở Mân Châu, con nhà thế phiệt, nổi tiếng thông minh dĩnh ngộ từ khi tóc để trái đào. Lên tám đã giỏi thơ ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc thần đồng. Lên mười có bài "Tơ liễu trong trăng" được tán thưởng nhất mấy câu:

    Trăng cũ phô đầu bạc
    Liễu tơ chuốt mi dài
    Trăng, liễu xa ngàn dặm
    Một tối hẹn vườn ai.

    Năm lên mười hai, gặp thời loạn ly, cha mẹ đều bị giặc giết, Sinh sầu thảm mấy tháng liền, mất ăn mất ngủ lại thêm căn tạng yếu đuối nên lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hoảng, luôn luôn giật mình, nằm mơ thấy toàn máu lửa, sọ xương.
    May có người cậu đem về săn sóc đêm ngày. Sau nhờ đạo sĩ họ Trình ở núi Hoa Dương cho bài Hi - di Ninh - thần dùng toàn não tủy một giống Bạch hầu trong núi Nga Lâm, uống thuần với nước viễn trí nên được lành bệnh, tâm thái trở lại an tĩnh điều hòa. Khi lên mười lăm, Sinh được người cậu gửi đến Lã Công, một quan Thủ hiệu bãi chức từ lâu ở nhà mở trường dạy võ. Sinh học rất chóng, nửa năm đã làu thông cả mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã. Lã Công quý mến, một hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi đời họ Lã lập công trao cho luyện tập. Giữa buổi Sinh đang múa kiếm, bỗng dừng phắt lại, đưa kiếm lên ngửi rồi cau mày kêu lên:

    - Máu người tanh quá!

    Đoạn đem thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về.

    Đến nhà, lậy cậu thưa lên:

    - Võ nghệ không phải là con đường cháu nên theo. Máu người chảy trong cơ thể quý giá vô cùng nhưng dính ra ngoài lại quá hôi tanh. Kẻ cầm lưỡi dao trọn đời sao cho khỏi đổ máu người! Điều tàn nhẫn ấy cháu không làm được.

    Người cậu giận lắm, bảo rằng:

    - Mày thực cạn nghĩ, phụ cả lòng ta trông đợi lâu nay. Đành rằng máu người là quý, nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác nhân thì càng tác quái cho người, lại càng có tội!

    Lương Sinh cúi thưa:

    - Ai cũng cho mình là phải, lấy đâu để nói xấu tốt rõ ràng? Làm thiện một cách hăm hở mà không ngờ rằng đấy là điều ác, lại càng có tội vì đã lừa mình, lừa người. Trộm nghĩ binh đao là nghề dứt khoát, cháu chưa dứt khoát trong người, tự thấy không dám theo đuổi.

    Cậu nói:

    - Hoài nghi như thế, e rồi không khéo mày tự mâu thuẫn với mày. Không phân biệt được giả, chân, thiện, ác, làm sao có thể tự tin mà sống trên đời? Xã hội chưa đâu có thể gọi là chốn thiên đường, bên cạnh nhà trường còn có nhà ngục, bên cạnh ngòi bút còn có lưỡi dao, không thể chỉ thấy một chiều chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà trường đã không tội lỗi, ngòi bút đã không oan khiên! Ta không có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân thời tao loạn những mong cho mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây giờ, thế thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày ta không nói nữa.

    Từ đấy, Lương Sinh sẵn có nếp nhà phú túc, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm vịnh tháng ngày. Lời thơ càng gấm, ý thơ càng hoa, tiếng đồn lan xa, lan rộng như sóng trên biển chiều gió thổi. Quan lệnh trấn mới đổi đến địa phương vốn người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, lòng quan cảm mến, tiếp đãi hết sức trọng hậu. Sau đó, quan lệnh mượn những thi tuyển của Sinh trong một tháng trường, nhiều khi bỏ cả xử kiện để mà bình thơ. Khi quan giao trả, Sinh thấy sau những bài đắc ý nhất của mình đều có bài họa, văn từ tao nhã, ý tứ thâm trầm, nét chữ uyển chuyển, dưới đề: "Tuyết Hồng tiện nữ chuyển họa". Hỏi, biết Tuyết Hồng là gái đầu lòng của quan. Theo lời nha lại tán tụng thì nàng tài sắc vẹn toàn, khiến Sinh đêm ngày tơ tưởng, cứ thấy giai nhân chập chờn trong cơn mộng ảo. Càng ngày Sinh càng tương tư mê mệt tưởng không có nàng thì không thể nào sống được. Nhiều lần lảng vảng sau tư thất để nhìn cho được Tuyết Hồng, chỉ thấy hoa sau rèm lá chập chờn, lại càng mê đắm tâm thần hơn nữa. Dịp đâu may mắn, quan mời Sinh đến uống rượu, ngỏ ý muốn kén Sinh làm giai tế. Sinh mừng run người, tưởng có thể đội mái nhà bay lên. Bấy lâu, ước ao người đẹp, bây giờ thế là thỏa nguyện.

    Trong lễ hôn phối, Sinh mới nhìn rõ Tuyết Hồng: mặt nàng hơi gày, mũi nàng hơi to, lưng nàng hơi cong. Sinh rất buồn lòng, xong nghĩ duyên số tự trời, nhan sắc nàng kém nhưng tài nàng cao cũng là một điều an ủi. Suốt tuần trăng mật, nhiều lần Sinh ép Tuyết Hồng làm thơ xướng họa, nàng đều từ chối. Hỏi sao ngày xưa thi tứ của nàng dồi dào là thế mà bây giờ chẳng cho nghe được một lời nào, thì nàng cúi đầu ngập ngừng giây lâu mới đáp:

    - Chàng kén thiếp làm vợ đâu phải để làm thơ? Đạo vợ lại là đạo lớn, e rằng đem hết trí lực chu toàn chưa chắc đã trọn, đâu dám lấy chuyện thơ văn mà làm chểnh mảng. Dù chàng ép nài bao nhiêu, thiếp cũng đành cam chịu lỗi.

    Đã thế, nhiều lần Sinh đọc thơ cho nàng nghe bảo nàng góp ý, nàng cũng có vẻ hết sức dửng dưng. Sau cùng, Sinh đâm nghi hoặc, nghĩ thầm có lẽ những bài thơ họa ngày xưa không phải của nàng mà chính là của quan lệnh. Nghĩ thầm chứ không nỡ nói, cũng không dám nói, vì khi giận dữ Tuyết Hồng thường khóa chặt buồng nằm riêng, hai ba đêm liền không tiếp.

    Càng ngày Sinh càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt vọng tình đời. Thiếu thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên cằn cỗi y như nuốt toàn thuốc đắng không có mật đường trợ vị. Nhân tết Nguyên đán, Tuyết Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa dịp xuân nhật, noi gương Tử Trường ngày xưa phiếm du xuân thủy, tiếp lấy sinh lực muôn vẻ thiên nhiên nuôi cho văn khí thêm phần phong phú, siêu dật.

    Bước ra khỏi nhà, Sinh chọn con đường hai bên cỏ non phơi phới, quanh co theo một dòng suối trong veo, lơ thơ bắc đôi nhịp cầu nho nhỏ, mơ màng lá đào rơi rắc, mà vào chốn thiên thai. Xuân ý, xuân tình chứa chan ở trong cảnh sắc, mầu trời, như theo giác quan rào rạt thấm vào mạch tủy, khiến Sinh ngây ngất. Đi đã ba ngày mà không nghĩ đến đường về. Đi được sáu ngày thì sực nhớ đến vợ ở nhà, nhưng vợ cách xa đến sáu ngày đường cũng không đáng sợ bằng những cơn giận dữ. Đi đến mười ngày, tiền lưng muốn cạn túi thơ chừng đầy. Chợt đến một miền tiêu điều dân cư thưa thớt, Sinh chán nản định quay về, nhưng ruột đói lưỡi khô, bèn đi tìm một tửu quán nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy một bóng người để hỏi thăm nơi. Bỗng nghe phảng phất tiếng trống, tiếng chiêng, lẫn tiếng reo cười. Dò theo âm thanh vọng lại, lần bước đến nơi, thấy đám hội trước chùa, bèn vào quán nhỏ gần đấy ăn uống. Chủ quán cho biết đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày hội lớn, vì quan Khâm sai triều đình sắp về địa phương nên quan Tổng trấn họ Lý bày ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít bữa. Đang ngồi nhắm rượu lại nghe những tiếng hò hét rồi thấy đám người ở cửa dạt ra hai bên có vẻ hết sức sợ hãi. Từ xa tiến đến một chiếc kiệu hoa do bốn người khiêng và thêm chừng mười lính hầu áo mầu lòe loẹt, tiền hô hậu ủng. Kiệu đến trước quán thì bị nghẽn người, dừng lại, Sinh ngước mắt lên, nhìn thấy khuôn mặt đàn bà tuyệt đẹp. Hỏi kẻ chung quanh, biết là Lý Duyên Hương con quan Tổng đốc vùng này. Người đẹp nhìn thẳng về phía trước, mặt hơi vênh lên, như không muốn thấy một ai quanh mình. Vẻ kiêu hãnh và nét sắc sảo của một khuôn mặt tươi hồng khiến Sinh ngây ngất, tưởng như gặp tiên giáng trần, sửng sốt chiêm ngưỡng, tay cầm ly rượu buông rơi lúc nào không biết. Ly rượu chạm vào mặt bàn vỡ tan, tỏa hơi nồng ra bốn phía. Người ngọc nghiêng đầu liếc xuống, thấy vẻ mặt Sinh ngây nhìn, chợt hiểu, bỗng nhoẻn miệng cười. Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một trời tình, Sinh lảo đảo đứng lên, không phải say vì rượu, trả tiền cho chủ quán rồi tiến về phía kiệu hoa. Người xem đã giãn, kiệu vào trong chùa, Sinh vội bước theo, cố quên rằng mình đã có vợ ở nhà.

    Trong chùa chật ních những người. Phần đông quần áo mùa xuân tươm tất nhưng mặt mày hốc hác mang nhiều vết hằn đau khổ. Ai cũng cố gắng mà vui, hình như không có dịp nào để vui hơn nữa. Lương Sinh chen vào, nghe mùi mồ hôi xông lên khó thở, gượng nghĩ vẫn còn hương thơm người đẹp đi qua sót lại phần nào. Khổ nhọc rất lâu, bước đến thềm trong thì đã thưa người. Thấy Sinh có vẻ nho nhã, người gác để Sinh đi qua. Vào tận trong xa vẫn chưa gặp được người ngọc. Thoạt nhìn lên một bục cao, hương trầm nghi ngút, sực nức mùi thơm, thấy Lý tiểu thơ, vẻ mặt thành kính, đang cùng mấy vị tăng già đàm đạo. Lương Sinh hậm hực đứng nhìn, giận mình từ xưa chẳng chịu thế phát quy y.

    Một lát, tiểu thơ quay vào bàn lễ, Sinh ngại nàng vội đi nên bỗng nảy ra một ý. Lại gần biệt phòng bên cạnh, sẵn nghiên bút và hoa tiên để khách thập phương đề vịnh, Sinh bèn thảo phóng mấy câu:

    Lá gió đầu xuân, đưa đẩy duyên trời hẹn ước,
    Tiên hoa gài mộng, vấn vương đền Phật bâng khuâng
    Động biếc, thoáng cười tiên nữ
    Rêu xanh, ngẩn lối Lưu Thần
    Mặt nước hồ in, xao động bốn mùa sóng gió
    Bóng đêm hang thẳm long lanh một vẻ giai nhân.

    Rồi bẻ cành hoa kẹp vào. Khi Lý tiểu thơ lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi người sợ hãi bật ra hai bên thì Sinh vội vã đi theo. Đến lúc nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồi. Lính hầu thoáng thấy kêu lên:

    - Có người ám hại tiểu thơ.

    Lập tức hai ba, rồi chín, mười lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy Lương Sinh. Những người xem hội thất sắc lùi lại, dồn dập đẩy nhau kêu la náo động. Tiểu thơ ngồi trên, vén rèm nhìn xuống không nói một lời, vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã toan mở lời khống chế, nhưng lính xông vào trói chàng.

    Đám đông có tiếng thì thào:

    - Anh ta chỉ ném có một cành hoa thôi đấy.

    - Bấy nhiêu cũng đủ héo cuộc đời rồi.

    - Qua dinh Tổng trấn không lấy nón xuống là đã bay đầu, nói chi xúc phạm tiểu thơ vàng ngọc!

    Lúc ấy Lương Sinh sực nhớ đã quên từ lâu mười môn võ bí truyền của nhà họ Lã.

    Về đến nha môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào trại giam, rồi tâu trình lên tổng trấn. Nằm trong bốn vách tường đá, Lương Sinh nghĩ cuộc đời bằng phẳng của mình bấy lâu mà lòng rầu rĩ không yên. Chắc là phen này không thể sống thoát, tiếng vang danh sĩ ngày nào bây giờ phải chịu hoen nhục vì không nén được tấm lòng bồng bột phút giây. Đang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng người gọi dậy, lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi giữa, vóc dạng phương phi, hàm én râu hùm, trên tay còn cầm tang vật là mảnh hoa tiên.

    Sinh cúi đầu thi lễ, toan tìm lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở trói. Trước sự kinh hoàng của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào trong, kéo ghế bảo ngồi. Sinh chối từ hai, ba lần không được. Quan nói:

    - Ta thường ước ao được gặp một người tài đức nay biết người là danh sĩ nên thực hết lòng hâm mộ. Lính hầu sơ xuất phạm điều vô lễ vừa rồi, ta sẽ nghiêm trị. Gác Đằng thuận nẻo gió đưa, người hãy ở đây cùng ta hưởng mấy ngày xuân vui câu xướng họa, cho thỏa tình ta khao khát lâu nay.

    Đoạn truyền đem rượu ngon thịt béo ra thết đãi nồng hậu. Lương Sinh tự thấy tài năng của mình thực đã bảo đảm cái mệnh vô cùng vững chắc, hết sức cởi mở tấm lòng, uống rượu say khướt từ sớm đến chiều, mỗi khi chập chờn thức tỉnh lại ngâm thơ sang sảng, tưởng như lúc nào sau rèm cũng có người đẹp nép nghe. Tổng trấn có vẻ đặc biệt kính trọng tài năng của Sinh, luôn luôn nhường lời Sinh thành ra Sinh phải độc xướng, độc họa, độc ngâm suốt ngày. Đôi lúc Sinh muốn hỏi thăm tiểu thơ định trao duyên nơi nào chưa, nhưng thấy Tổng trấn đãi mình như bậc thượng khách nên phải giữ ý làm thinh.

    Độ vài hôm sau, quan tổ chức cuộc du xuân, đưa Sinh đi xem cảnh trí trong miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công đại lực của quan tạo lập cho dân: kia là dòng suối quanh co quan khai thông để dân lấy nước cày cấy, nọ là đồng ruộng bao la trước kia toàn là rừng rậm hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt.

    Ngồi trên kiệu cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ thấy suối, thấy đồng nhiều vẻ khác mầu mà miệng không ngừng tán tụng. Hơi men nồng nàn lòng Sinh chứa chan nhiệt tình đối với những bậc "dân chi phụ mẫu" mà xưa nay Sinh thường tỏ ý rẻ khinh.

    Đến đâu quan cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột đồng, Sinh phóng bút thao thao bất tuyệt, hết lòng ca ngợi tài đức của quan. Mực thơm bút quý, lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu. Trước khi giã từ, Sinh còn lưu lại bài tán tổng kết công đức của quan để khắc ở chốn công đường và bài minh, ký để ghi tạc vào mấy cỗ hồng chung tại các tháp đền quy mô trong hạt. Quan ân cần tiễn chân Sinh ra khỏi nha môn, đưa tặng một cỗ ngựa bạch, mấy nén vàng, nhưng Sinh một mực chối từ không nhận để giữ vẹn lòng thanh khiết.

    Giữa mùa xuân ấy, Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền. Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bây giờ Sinh có lòng mừng là nàng không biết làm thơ, nhưng Sinh ngày đêm khắc khoải vì không cầm được cây bút. Một ngày không viết được một câu nào, Sinh có cảm tưởng như mình không còn sống nữa. Ngoài nỗi bệnh tật giày vò, sinh còn bị nỗi băn khoăn sáng tạo hành hạ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấy ngủ chập chờn ác mộng. Mấy lần chống tay ngồi dậy nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửa.

    Một sớm đang nằm, nghe tiếng chim hoàng oanh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn. Sinh bỗng hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên, xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mới. Sinh gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc: nghiên mực đỏ tươi sắc máu. Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sững sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vết huyết khô trên cát. Sinh vội buông bút, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầy. Đưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo; đau nhói trong người. Sinh nằm vật xuống, mê man bất tỉnh.

    Sau mấy ngày, Sinh tỉnh dậy, lòng khao khát cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại, Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư vừa cầm bút lại thấy lảng vảng sắc máu, không sao đủ can đảm vạch được nét bút nào. Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ tưởng như xôn xao chung quanh vô số hồn oan đòi mạng. Từ đó Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát.

    Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu, rồi nói:

    - Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác nhưng mà trách nhiệm rõ ràng lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyễn hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi. Làm cho người gái lớn lên băn khoăn sầu muộn, làm cho trai trẻ đang hăng khinh bạc, hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên ái tình, khêu cho người ta tiếc tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đau khổ của tha nhân, hát trên bi cảnh đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạo?

    Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích biết đâu chẳng dồn thành ngàn dẫy Thiên Sơn? Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậy. Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chầy ngày.

    Lương Sinh nghe xong bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem như minh mẫn hơn nhiều. Cơn bệnh do đó lui được khá xa. Sinh đem mấy tập thi tuyển của mình đọc lại từng câu, dò lại từng chữ, thấy toàn là ý bướm tình hoa, phát triển cảm xúc mà xao nhãng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà bỏ mất cảnh đời, trốn tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng nghĩ kỹ lại vẫn chưa dò được lối máu từ đâu. Bỗng sực nhớ thấy những bài phóng bút viết cho Tổng trấn, không ghi lại trong thi tuyển, tâm não trở nên bàng hoàng. Đồng thời bao nhiêu gương mặt hốc hác trong ngày hội chùa lại hiện lên rõ, mấy cánh đồng trơ trọi, những tiếng thì thầm hai bên kiệu hoa, vẻ người nhớn nhác sợ hãi, những đòn dây trói, mấy dãy nhà giam, lần lượt như sống lại trước mắt. Những cảnh ấy thực đã trái ngược với những bài tán, bài minh đã viết. Mồ hôi toát ra như tắm, Sinh đứng lên được, quyết định trở lại chốn cũ để tìm hiểu sự thực.

    Sinh đến chỗ cũ vào một buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu điều, xơ xác. Qua khỏi dòng suối khô cạn, Sinh bước vào trong một thôn trang vắng vẻ, thưa thớt những mái tranh nghèo, không một bóng người thấp thoáng. Đến một gò cỏ úa héo chợt thấy một người nông phu ủ rũ trước nấm mộ, mới liu hiu mấy nén hương tàn. Sinh dừng bước, lại gần ngồi xuống một bên, khẽ hỏi:

    - Bác khóc thương thân quyến nào vậy?

    Người kia ngước lên không nói, ngắm nhìn lớp bụi đường trường bạc thếch trên quần áo của Sinh, dịu đôi mắt xuống:

    - Người nằm dưới mộ không phải bà con quen thuộc của tôi.

    Sinh nghĩ: "Chẳng nhẽ người này cũng là một kẻ thi nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh nào chăng". Chưa kịp dò ý, người kia chợt hỏi, ra vẻ hoài nghi:

    - Ông từ đâu mà đến đây:

    - Tôi ở chốn xa, nhân bước đường phiêu lưu ghé tạt qua thôi. Buồn thấy miền này có vẻ tiêu điều hơn các nơi khác.

    Người nông phu bỗng long lanh đôi mắt như không dằn được tấm lòng dồn nén, bật lên những tiếng căm hờn:

    - Nói hết cho muôn ngàn khách qua đường cũng chưa hả được dạ này. Ví dù phải chết ngày nay, thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được sự thật uất hận từ lâu. Đã bao năm rồi, sống dưới nanh vuốt của tên Thống trấn họ Lý, chính sự độc dữ hơn hùm beo, đồng ruộng gầy khô, dân làng đói rách. Đầu xuân này có Khâm sai đi về, cụ Thôn trưởng của chúng tôi, mặc dù già yếu cũng quyết vì dân làm bản trần tình, can đầu ngựa níu bánh xe mà tỏ bày sự thực. Thế nhưng Khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng thấy bia đá cột đồng đầy lời hoa mỹ tán dương công đức Tổng trấn của thằng danh sĩ chết khốn nào đó nên ném bản trần tình, không xét, bảo rằng: "Muôn ngàn lời nói của lũ dân đen vô học đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ danh nho. Danh sĩ bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải bất tài". Thế đã thôi đâu, Khâm sai đi rồi, Tổng trấn phái sai nha về tróc nã những người đã đầu đơn tố cáo nó. Bao người phải chế vì nỗi cực hình thảm khốc, vợ góa con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đấy đành để nuôi loài cỏ dại mà thôi.

    Sinh chết điếng cả người, giây lát mới gượng gạo hỏi:

    - Chẳng hay bác có biết... danh sĩ ấy tên gì không?

    Người nông phu trợn trừng cặp mắt, gào lên:

    - Làm gì mà biết! Mà biết làm gì? Những hạng hiếu lợi, hiếu danh, trốn trong từ chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh cao, hạng ấy thì đâu chẳng có? Dân làng đây, ai cũng nguyền rủa hắn, mà hắn nào có biết đâu? Nghĩ thương cho cụ Trưởng tôi, mấy lần đứng ra chịu nhận hết tội để cứu bao người, mà bọn chúng chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp này rồi đến lớp khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máy ra mà chết để khỏi bị người đầy đọa. Trước khi nhắm mắt, cụ còn gượng nói: "Được chết trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi của ta, của bà con xóm làng ta, thế là quý rồi. Chôn ta ở đây, cho ta gần gũi với các người". Hơi thở gần tàn, cụ nói tiếp: "Tội ác là ở lũ vua quan. Tên danh sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vun vào mà che lấp sự thực. Đừng oán hờn tên danh sĩ. Đáng thương cho nó, đáng thương cho nó!".

    Người nông phu dừng lại, nghẹn ngào rồi tiếp:

    - Nhưng bao người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia, nghĩ còn đáng thương đáng xót gấp trăm ngàn lần!

    Đoạn gục đầu xuống mồ, khóc than thảm thiết. Sinh cũng sụp xuống, hòa tiếng khóc theo. Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm thổi về rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh tưởng như theo cơn gió oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ chảy ra từ một tấm lòng hối hận chân thành.
     
  3. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    NGÀY KHÔNG BÌNH THƯỜNG - PHẠM HOA


    Trời đã sắp sáng. Bạo biết thế vì cô đã thức được một lúc lâu. Đêm qua, Bạo bồn chồn như đứa trẻ ngủ trong đêm ba mươi tết, chỉ thấp thỏm mong trời mau sáng. Một loạt bom xa xa làm cô chợt tỉnh. Từ lúc đó, Bạo không nhắm mắt được nữa. Cô nằm im một lát mới nhỏm dậy. Căn nhà hầm tối, đen như trong hộp, râm ran tiếng ngáy của đồng đội. Cô rón rén bước ra cửa.

    Bên ngoài, trời sáng lờ mờ mát lạnh. Bạo cảm thấy tỉnh táo và khoẻ khoắn. Một cảm xúc háo hức là lạ. Cô muốn chạy vù ra sân. Muốn gọi tất cả mọi người dậy. Bạo dừng lại ngắm những giọt sương đang từ từ tròn hạt. Lúc quay vào nấu cơm ăn sáng, cô đụng đổ cây đèn, rồi lại đụng đổ cả chiếc xoong đựng nước uống trên bàn. Cô phì cười vì sự vô ý của mình.

    Sạp nằm có tiếng cựa mình. Chị Thành quát:

    - Đứa nào đấy?

    Bạo bịt miệng cười:

    - Em đây.

    Một lát sau, ở góc hầm có ánh lửa cháy bập bùng. Không riêng gì Bạo, ngay sau đó các cô gái khác đều trở dậy cả. Mới năm giờ sáng, họ dậy sớm hơn mọi khi. Cả căn nhà hầm nhộn nhịp, chứa đựng vẻ khác thường.

    Đó là một buổi sớm của ngày hai mươi - ngày không bình thường của tiểu đội thông tin trên đèo Văng Mu, điểm chốt của điểm cao trên một ngàn mét. Là ngày vui của các cô gái. Hôm nay họ sẽ nhận được thư nhà, thư bè bạn, thư người yêu. Mỗi một tháng họ được nhận thư một lần vào ngày hai mươi. Thư gửi đến sẽ dồn về ban chỉ huy đại đội, cơ quan đóng cách họ những mười lăm cây số dưới thung lũng. Dưới đó, anh liên lạc sẽ dần bóc thư riêng của từng người một đọc dõng dạc qua máy điện thoại. Họ không còn cách nào tốt hơn. Chính năm cô gái trên Văng Mu yêu cầu đại đội làm như vậy. Nếu không chờ thư đến tay các cô lại chậm thêm vài chục ngày nữa. Những lần đầu, bao nhiêu bí mật gia đình, bí mật tình yêu bị bóc trần như ban ngày. Các cô rất ngượng. Lại có thêm vài anh tủm tỉm cười, chế nhạo, các cô la lối lên. Đại đội trưởng phải ra lệnh cấm không được ai bén mảng lên nhà đại đội khi cậu liên lạc đọc thư vào máy. Tất cả quen dần thành nếp sống bình thường của năm chiến sỹ thông tin trên điểm cao. Từ đó, ngày hai mươi trở nên gần gũi thân thiết, là ngày mong chờ của các chiến sĩ. Một ngày vui thực sự, ngày họ được hòa nhập vào đời sống hàng ngày của những người thân ở phương xa. Đó là ngày thiêng liêng và đặc biệt quan trọng đối với những người đang yêu như Bạo. Nhất là chỗ ở của các cô gái lại chót vót trên cao một ngày hàng chục trận bom giội xuống, thiên nhiên lại tàn khốc, là nơi bom đạn ác liệt, là nơi mà nhiều bạn bè không quen biết…

    Bạo vẫn hí húi nấu cơm trong góc hầm. Cô mặc chiếc áo mỏng không có tay, mặt đỏ rực lên vì nóng. Sáng nay Bạo có vẻ bận rộn và vụng về. Đánh đổ đèn, đánh đổ xoong là Bạo. Bỏ quên hộp thịt đã mở dưới đất cho kiến vào cũng là Bạo. Chốc chốc lại thấy chị Thành hỏi vọng vào:

    - Đứa nào đổ nước ra cửa hầm tràn cả vào nhà đây?

    Bạo chạy ra cửa xem, tủm tỉm cười:

    - Em.

    - Lại em. Đãng trí quá em ạ.

    Trong hầm, các cô gái vội vã thu dọn những đống dây điện, đống cuốc, xẻng vào góc. Căn hầm sáng sủa và rộng rãi hơn. Một điều lạ nữa là hôm nay: không ai bảo ai, các cô đều chải tóc soi gương tỉ mỉ như trong ngày sẽ có khách đến chơi.

    Tiểu đội có Minh là nhỏ nhắn, thanh mảnh được coi là đẹp gái nhất. Minh rất hay tỉa tót làm dáng, nhưng cô vẫn thầm ghen với nước da đỏ thắm của Bạo, Minh đẹp một cáchyếu ớt, Bạo đẹp một cách khoẻ khoắn và tháo vát. Đó là mội đôi bạn rất thân và cũng rất hay giận nhau. Thế quái nào Minh lại yêu anh đại đội trưởng pháo, to và đen nhẻm. Bạo lại yêu anh chàng sinh viên có phần yếu đuối, lịch sự và kiểu cách. Anh sinh viên ấy cùng tuổi với Bạo. Bạo rất bực với cách xưng hô “tôi” trong mỗi lá thư của anh ta gửi đến. Nhưng đó chỉ là nhược điểm nhỏ thoáng qua. Bạo vẫn yêu anh ta nhiệt thành và say đắm.

    Cả tiểu đội có năm chị em. Chị Thành không giống các cô. Chị cao và nhỏ người, nắng chiến trường làm nước da chị đen sạm và khắc khổ. Chị hơn các cô một tuổi. Ý thức làm chị của Thành rất rõ. Các cô gái ở đây đều rất nể và sợ Thành. Có lẽ chỉ có Bạo là người dám nói đùa với chị. Thành cũng rất mến Bạo. Mặc dù Bạo có ngang tàng đôi chút, nhưng lại dũng cảm, việc phá mìn vướng, cả đại đội không ai giỏi hơn Bạo.

    Bạo bê nồi cơm nóng hổi đặt ra tảng đá. Cùng lúc đó chiếc máy điện thoại đặt trên bàn nứa rung lên bần bật. Một hồi chuông dài và gắt. Thành dẹp sổ theo dõi công việc sang bên, chạy tới cầm máy. “Hồng Hà đâu…”. Một giọng đàn ông ồm ồm cộc lốc của ông trung đoàn trưởng pháo. Ông nói một câu ngắn của người quen ra mệnh lệnh.

    - Khu vực dê sáu tám (D68) bị mìn vướng, đứt toàn bộ dây. Yêu cầu sáng nay phải nối cho họ trực chiến.

    Thành buông máy nhẩm tính toán luôn. Chị có thói quen sắp xếp công việc ngay sau khi nhận điện. Tổng số dây điện khu vực tiểu đoàn pháo vị chi là hai ki-lô-mét. Vừa phá mìn vướng vừa rải dây, nối dây, mất đứt hai người, một ngày vất vả. Sau đó chị giục mọi người đi ăn cơm. Trong đầu Thành thoáng linh cảm thấy rằng: công việc hôm nay sẽ rối mù lên cho mà xem. Nắng đẹp thế này, nhất định nó sẽ đánh mạnh.

    Năm người con gái ngồi xúm quanh chiếc bàn ăn nhỏ. Chiếc ghế buộc bằng ba đoạn nứa võng xuống phát ra tiếng kêu kẽo kẹt. Minh sốt sắng nhất. Nhỏ người nhưng rất nhanh. Ba cô chớp được ba cái bát lành. Bát của chị Thành tất nhiên là không cô nào dám tranh. Còn lại là chiếc bát thủng trôn vì bom bi. Bạo phải dọn dẹp bếp núc nên chậm chân ra sau. Cô cầm chiếc bát hỏng lên, nhất định không chịu thua!

    - Hôm nay đến lượt đứa nào ăn bát thủng!

    - Cái Minh.

    - Ứ! Hôm qua em ăn bát thủng rồi.

    - Mới có buổi chiều. Phải cả sáng nay nữa mới đủ một ngày.

    - Không.

    - Này.

    - Không.

    - Này.

    Giằng nhau một lúc, Bạo cười:

    - Thế mày gọi tao là chị tao nhường cho.

    - Thì chị. Nào chị Bạo ơi!

    - Dạ đi.

    - Dạ. Được chưa.

    - Được. Em ngoan ăn cơm rồi đi phá mìn cho giỏi nhé. Chị cưng, chị thương.

    Bạo còn đáo để vuốt đầu Minh mấy cái, chị Thành giục họ mới bắt đầu bưng bát. Miếng cơm vừa trôi khỏi miệng, lại có điện thoại. Lần này là điện dưới đại đội công binh gọi lên. Đường dây từ đơn vị gọi lên sở chỉ huy sư đoàn tiền phương bị đứt. Một giờ đêm qua ở dưới đó có một quả bom nổ chậm bất chợt nổ.

    Bữa ăn lại được tiếp tục. Vẫn cái đà vui vẻ một cách khác thường ấy, Bạo dọa sẽ mách tay đại đội trưởng pháo là Minh ghẻ ruồi. Bao giờ Minh cũng yếu lý lẽ hơn. Cô chỉ còn biết chê cái tên của Bạo, cái tên thô như một người lên gân. Ai lại Quang Bạo, Minh Bạo hay là Thành Bạo dù sao nghe vẫn vương vướng. Cái tên này phải hình dung ra một cô gái to béo gân quốc, đáo để…

    Một loạt bom. Rồi một loạt nữa. Ba loạt cả thảy, cả hầm lắc mạnh như sắp vỡ đôi. Sau đó là tiếng phản lực sà rất thấp, có cảm giác như các ngọn cây cũng bị gió quật tung. Các cô gái nhìn nhau, đoán:

    - Chắc ở cây số mười.

    - Không! Cây số mười bốn.

    - Có khi sát chân đèo.

    Họ còn đang xác định vị trí bom rơi thì có điện. Từ lúc đó, điện gọi tới tấp lên tổ chốt thông tin. Đơn vị nào cũng la ầm lên đường dây liên lạc của họ bị đứt. Các cô gái phải ăn cơm nhanh hơn. Thành hết nhận điện của đơn vị này lại cắm phích nghe đơn vị khác. Anh nào cũng to mồm đòi phải nối dây ngay tức khắc, Thành phát bẳn lên, quát vào máy:

    - Từ từ đã nào. Làm gì mà các ông hét ầm lên như thế? Phải hiểu cho người ta chứ.

    Thành buông máy sững sờ giây lát. Chị giắt lại mấy sợi tóc vương trên má, nhẩm tính. Dê sáu tám hai người. Đại đội công binh một người buổi sớm, buổi chiều lên sư đoàn bộ. Xuống lèn đá một người. Rồi chị tặc lưỡi thầm nghĩ: bận mấy cũng chẳng bằng đêm hôm kia. Ba lần B.52 ném bom luôn xuống đèo. Quả nổ, quả không. Vừa rải dây, nối dây mất một ngày một đêm mới xong. Cùng lắm chỉ bằng hôm đó chứ mấy? Các cô gái đã biết trước tình thế. Họ đứng dậy sau bữa ăn. Cô nào cũng trong tư thế sẵn sàng. Có cô đã đội mũ sắt, khoác súng vào người.

    Chị Thành và miếng cơm cuối cùng rồi đứng dậy nốt… Chị phân công việc luôn. Năm người đều ra mặt đường cả. Bạo và chị sẽ xuống Dê sáu tám. Khi đi mang theo dụng cụ phá mìn vướng.

    Thoắt một cái họ đã đứng ở ngã ba rẽ đi các hướng. Họ vội vã chia tay nhau. Đến chỗ ngoặt Minh vẫn còn ấm ức với Bạo. Cô giơ nắm tay nhỏ xíu lên dọa:

    - Tối nay, nối dây về sớm “ông” nhận thư của mi qua điện thoại cho coi, “ông” sẽ nhận là Bạo.

    Bạo cười to:

    - Thách Minh đấy! Thách đấy!

    Bạo khoác tấm lá chắn cao ngang đầu đi trước. Tấm chắn là vật che mảnh đạn hình tam giác, được kết bằng những nùn rơm to và chắc như bắp tay. Dụng cụ phá mìn còn có cây sào dài bảy tám mét, có chạc dùng để quơ những sợi dây mìn vướng nhỏ như sợi tóc. Loại mìn vướng này rất nhạy và rất hiểm độc. Một cơn gió thoảng qua cũng có thể làm cho mìn nổ. Hai người còn luồn sào phá mìn một cuộn dây điện nặng chục cân.

    Bạo là cô gái siêng năng và chăm chỉ. Khi yêu, tình yêu của cô cũng rất mạnh mẽ. Trong tâm hồn cô gái trẻ này một khoảng rộng yên tĩnh, đằm thắm và thiết tha dành cho người mình yêu. Vốn sinh ra trên đồng đất trồng màu ven sông Hồng, Bạo rất chân thật và hơi vụng về. Gần như không biết viết thư, không biết nói những câu hoa hoè hoa sói. Ở giữa điểm cao như vùi mình trong bom đạn, đời sống đơn giản đi nhiều lắm. Công việc bình thường ở đây là ăn ngủ, phá mìn và nối dây điện. Không hề có thứ công việc nào xen lẫn, không khái niệm thứ bảy, chủ nhật. Không có một giờ rảnh rỗi. Vậy mà trong mỗi lá thư bao giờ Bạo cũng mở đề bằng câu: “Hôm nay nhân tiện ngày chủ nhật” hay “Hôm nay nhân tiện trời mưa…”, có hôm cái Minh vớ được mẩu thư viết dở, nó tò mò xem rồi đọc toáng lên. Bạo đứng đực ra nhìn, mặt cô đỏ gay, một lúc mới biết chạy tới giằng miếng giấy lại. Thế mà Bạo còn làm thơ gửi cho anh sinh viên rất giỏi chữ nghĩa. Đại khái cũng câu ba câu bảy gập ghềnh như đá dưới lòng suối cạn:

    Bèo hợp lại tan

    Hoa nở rồi tàn

    Nhưng tình yêu giữa đôi ta không đứt

    Như sợi dây em nối đêm ngày…

    “Tìm bảy ngày cũng không thấy vần” - Vẫn cái Minh ranh mãnh nó vớ được, đọc xong nó nói như vậy. Từ đó, mỗi lúc hậm hực điều gì muốn trả thù, Minh lại lấy giọng ê a ngâm:

    “Bèo hợp rồi lại tan…” thế là đủ để Bạo toát mồ hôi hột, chịu thua. Mãi sau này Bạo phải mặc cả đổi chỗ nằm gần cửa hầm cho Minh, nó mới chịu quên cái đoạn thơ khổ sở đó đi cho.

    Thế nào chiều nay Bạo cũng có thư. Cô tin rằng lá thư sẽ rất dài. Từ chiều hôm qua Bạo đã linh cảm như vậy. Niềm tin ấy làm Bạo bồn chồn thích thú. Cô vui khác ngày thường. Bạo cảm thấy mình yêu cuộc đời hơn yêu mảnh đất chiến trường mà cô đang sống, yêu mọi người. Cô tự hứa từ nay cô sẽ dễ dãi hơn đối với Minh. Không kể chuyện ma con khỉ độc dọa nó nữa. Cô yêu cả con đường gập ghềnh này, cả những ngọn cây cỏ xanh này, cho đến con chim đang hót xa xa…

    Hai người đi sâu vào cánh rừng le tốt ngập đầu. ở đó lác đác có những cây cọ rừng mập mạp xanh tốt, lá vươn dài như lá dừa. Thỉnh thoảng mới thấy những cây khộc già nua đầu cành đang nứt những búp lá non tơ. Cho đến lúc nghe tiếng ho của một pháo thủ và con gà cục ta cục tác trong khẩu đội gần đó, thì họ dừng lại. Đã đến khu vực mìn vướng nổ. Nhiều trái tự hủy, để lại một đám đất nát bét và một khoảng cây cối giập, gãy xơ xác.

    Chị Thành quan sát xung quanh rồi nhận xét:

    Dây mìn đấy, Bạo ạ! Mắt thường mà cũng trông thấy một quả kia kìa!

    Bạo nhìn theo hướng bàn tay Thành. Một trái mìn màu xám xù xì nấp dưởi một cành cây nhỏ. Cô quạt bằng mũ sắt, tắc lưỡi:

    - Kệ nó chị ạ. Chọc một cái là nó nổ, sợ gì!

    Bạo nói rồi vẫn ung dung ghếch AK lên đùi, cầm mũ sắt quạt. Trời nóng. Trên đôi má đỏ chín của Bạo đã có mấy giọt mồ hôi. Khi đã buộc lại tóc thật gọn, xắn quần xắn tay áo, họ mới đứng dậy bắt đầu công việc. Bạo dựng lá chắn lên, chống thật chắc chắn. Cô ngồi thụp phía sau như một đứa trẻ đi trốn. Chị Thành đứng xa hơn làm nhiệm vụ rải dây. Bạo đưa sào lên phía trước. Cô chỉ cần vung sào, khuấy động cành cây ngọn cỏ, chạm vào bốn sợi dây vướng nổ là trái mìn sẽ nổ.Trái mìn đầu tiên Bạo phá hôm đó lại không phải là trái chị Thành trông thấy. Đó là quả vùi sâu trong đống lá mục. Cô vừa tung sào bất thần đã có tiếng nổ. Bạo giật bắn người rồi lại cười khanh khách. Bụi chưa tan, cô đã dịch lá chắn về phía trước rồi giải lao một phút. Cô hỏi chị Thành:

    - Sinh viên đại học chắc họ sống sướng lắm chị Thành nhỉ? Ông bạn em ông ấy viết thư, em cảm thấy các ông ấy sang trọng lắm. Có đúng không chị?

    - Đấy là em cảm giác thế. Họ cũng vất vả lắm. Họ ở một phòng mười hai người cơ đấy!

    Bạo lẩm bẩm:

    - Có thể là như vậy.

    Bạo lại thu mình sau tấm lá chắn. Cô đưa sào về phía trước. Trái mìn lần này gan góc hơn. Bạo phải quơ chục lần nó mới nổ. Tiếng nổ vẫn rất to làm Bạo giật nẩy mình, cô đưa ống tay áo quệt mồ hôi trên mặt rồi quay về phía Thành nói chuyện tiếp.

    - Em có một miếng vải hoa rất đẹp. Em sẽ cắt một chiếc áo lót thật nghịch ngợm, cổ theo kiểu trái tim xoay về vai trái. Hàng khuyết sẽ xẻ bên hông.

    Nói xong chưa kịp nghe Thành trả lời, cô lại ngồi thụp xuống, dịch tấm lá chắn về phía trước. Bạo phá mìn say mê tỉ mỉ và ung dung làm người khác đến phát thèm lên được. Đó là cung cách phá mìn rất bình tĩnh, thông minh mà chị Thành cũng khâm phục. Công việc này rõ ràng không thể để một người vội vàng, hấp tấp làm được.

    - Ngày còn ở nhà ấy mà, cái “lão” người yêu của em bấygiờ còn nhỏ và yếu hơn em cơ. Có hôm đi chăn bò ngoài bãi sông Hồng, em dọa cho sợ, phải đuổi bò về nhà cơ đấy.

    Thành cười:

    - Thật là đáo để.

    Thành cũng có biết qua người yêu của Bạo. Cái anh chàng quá trẻ ngồi vắt người qua lan can thềm nhà chụp một kiểu ảnh rất điệu. Thành không chê gì anh ta. Chị chỉ thoáng ngờ vực trong lòng một điều, hình như Bạo sắc sảo hơn anh ta quá nhiều. Trong cuộc đời thực, liệu đôi trai gái này có sánh vai nhau được không? Bạo đã phá đến trái mìn thứ năm, thứ sáu… Họ đã trông thấy khẩu đội pháo xa xa. Rất lạ là hôm nay, Bạo không quen được với tiếng nổ. Mỗi một tiếng mìn dội lên Bạo vẫn giật nẩy mình quay lại cười khanh khách. Chị Thành thấy Bạo có vẻ chủ quan quá, quát vọng lên:

    - Bạo! Chú ý vào. Coi chừng đấy!

    Bạo cười, đôi môi đỏ chót rất xinh.

    - Chị yên tâm. Một mình em đã phá hàng nghìn quả mìn rồi.

    Niềm vui ấy lan sang cả Thành. Phải, chị rất tin tưởng Bạo, nhưng điều ấy cũng có thể xảy ra lắm chứ? Công việc quen thuộc của Bạo là phá mìn, nhưng ai biết đâu được, bất cứ một sự chủ quan nào chẳng gây ra tai nạn? Phía trước kia, trong những bụi cây lòa xòa hiền lành, một ụ đất mấp mô hay dưới đám lá mục, là những cái chết bất thần đang rình núp chờ đón; nhất là hôm nay Bạo lại có vẻ coi thường. Nghĩ như thế, tự nhiên Thành ứa nước mắt. Chị yêu Bạo quá. Chị muốn đối xử dịu dàng với Bạo, muốn cho Bạo cái gì. Đứng trước những người tốt người ta thường có những ý nghĩ trong lành hơn. Chị Thành đứng ngẩn người ra nhìn Bạo hồi lâu. Cô ấy vẫn cúi lom khom sau chiếc lá chắn. Và hễ cứ sau mộ trái mìn nổ, Bạo quay lại chuyện trò. Vẫnlà dòng suy nghĩ sôi nổi của Bạo về bạn, về người yêu. Sau khi nói xong chẳng cần biết Thành có nghe hay không, cô lại quay về phía trước dịch tấm lá chắn lên.

    Họ trở lại Văng Mu lúc sương mù đã kết thành từng cục đặc sánh trên đầu. Bất ngờ lý thú là lúc đi cả tiểu đội chia tay nhau ở chỗ rẽ, lúc về lại gặp nhau đúng chỗ ấy. Đủ mặt năm người, Bạo trông thấy từ xa Minh đi trước. Nó thất thểu vì đói và nhọc.

    Cứ sau một ngày lăn lộn ngoài đèo khuôn mặt đầy đặn của nó lại bị vơi đi một tí. Bạo vẫn tỉnh như không, gọi rối rít:

    - Tớ cứ tưởng cậu về lâu rồi!

    - Thì người ta cũng tưởng đằng ấy về lâu rồi.

    - Tớ làm mà cứ nóng cả gan ruột. Chỉ sợ cậu về trước mệnh danh tớ, nhận thư.

    - Tớ mà về trước xem, chả phải bàn.

    - Thôi thôi các cô! Chóng lên. Còn khối việc phải làm ra đây.

    Họ vào đến trước sân, chị Thành đã buộc xong hai chiếc tăng vào những gốc cây nhỏ. Những chiếc tăng xòe nặng buộc thõng xuống để hứng sương đêm lấy nước dùng. Mỗi đêm một tấm tăng rộng có thể hứng được một lít nước. Mười chiếc tăng hết đêm họ sẽ dồn được mười lít nước. Thứ nước kết tinh từ hơi sương trong ngăn ngắt. Trừ khi bom đánh gần, hơi sương qua khói thuốc đạn sẽ đắng ngắt như pha thuốc ký ninh. Các cô gái lần lượt căng những chiếc tăng ra đón nước. Sương dàylàm ướt cả mặt, cả tóc. Khu đèo lạnh hẳn xuống vài độ.

    Tối hôm đó các cô gái ăn cơm rất nhanh chóng. Hầu như ai cũng vội, cũng mong cho đến cái giờ phút mong chờ ấy. Các cô không đùa ầm ĩ nữa. Cái Minh nhỏ bé lại còn tỏ ra chín chắn, nó nói:

    - Biết mình có thư không mà trông. Cái gì đến sẽ đến, cái gì không đến sẽ không đến.

    Bạo vạch mặt:

    - Rõ đồ nói khoác. Có thật không mong thư không? Thế thì cử cậu đi sửa đường dây lên sư bộ nhé.

    - Ứ, tớ cũng có mong.

    Bạo cười ha hả. Chưa đến sáu giờ tối, các cô đã xúm xít bên tảng đá. Ai cũng tỏ ra bình thản. Chỉ có Bạo vẫn xông xáo đứng trong cùng, là người cầm ống nghe máy điện thoại. Phải đến hai chục phút rồi, Bạo vẫn chưa liên lạc được với đại đội. Thỉnh thoảng lại nghe tiếng sét nổ sàn sạt, rầm rầm trong máy điện thoại, cầm lấy ống nghe giật nẩy tay lên.

    Bạo sốt ruột gắt:

    - A-lô… Thăng Long đâu. Cắm dây cho chặt vào.

    Cuối cùng sự mong chờ của các cô gái đã được thỏa mãn. Tiếng cậu liên lạc rõ mồn một trong máy. Cậu ta bảo mọi người đều có thư, trừ chị Thành. Tất cả các cô thở phào một tiếng. Thư của Bạo được đọc trước. Mặt cô đỏ ửng lên, cô đứng vào nghe máy, nụ cười bỗng nở trên môi ngượng ngập.

    Mọi người chăm chú nhìn Bạo. Họ không được nghe đọc thư, nhưng tò mò muốn biết Bạo có tin lành hay dữ. Tin buồn hay vui. Bắt đầu mặt Bạo đỏ chín, nghe đọc thư, cứ thế cô tái dần đi. Một tay Bạo buông thõng xuống. Các cô ngạc nhiên sợ hãi nhìn Bạo. Giây phút căng thẳng ấy cũng chấm dứt, khi Bạo chuyển ống điện thoại cho Minh. Mặt Bạo chợt đỏ bừng, mấy giọt nước mắt nóng hổi lăn rất nhanh qua má. Cô ấm ức dằn từng tiếng:

    - Hắn vẫn chẳng xưng anh với mình. Cóc cần!

    Các cô gái nhìn nhau rồi phá lên cười. Cứ thế lần lượt từng cô. Họ xếp hàng chờ đến lượt mình vào nghe cậu liên lạc đọc thư. Thời gian vẫn trôi đi. Ở Văng Mu, một tháng lại có một ngày không bình thường như vậy. Nhưng nói cho cùng, cái ngày ấy cũng là ngày bình thường trong suốt bốn năm trời dài đằng đẵng trên điểm cao Văng Mu của những người lính.

    Mùa hè 1980
     
  4. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Căn nhà ở phố - Nam Ninh

    Từ hôm có chú em ở bộ đội về phục viên, mọi sinh hoạt trong gia đình có nhiều thay đổi, cách bài trí bị đảo lộn. Chỗ cửa sổ trước đây kê bàn làm việc của vợ chồng Liên trên cửa thay bức rèm là hai dò phong lan rủ xuống những những sợi màu xanh mềm mại. Bây giờ kê vào đó là một cái giường cá nhân, còn phong lan thì chú em để sau nhà. "Cái của này ấy mà - chú nói - chỉ làm lá ngụy trang là tốt". Gian bên cạnh kê một cái giường đôi của vợ chồng Liên, giường "mô đéc" kiểu Đức. Nó cũng là một thứ trang sức trong nhà, vì thế tấm màn gió ít khi được kéo che kín. Nhưng bây giờ không chỉ dùng màn gió. Chính - chồng Liên - đã mang về một tấm bình phong to uỵch, trông thô hết chỗ, cốt để che kín cái giường. Duy chỉ có giường mẹ vẫn đặt ở buồng trong. Đã từ lâu mẹ mệt, có hôm không ra phòng ngoài kể cả những khi có khách.
    Đó là mẹ chồng Liên, bà ở góa từ năm ba mươi lăm tuổi, đằng đẵng nuôi con đến bây giờ. Người đàn bà luống tuổi ấy đã sống những ngày chờ đợi, vì thế trông bà đầy vẻ ưu tư nhưng đôi lúc có pha thêm cả một chút kiêu hãnh nữa. Bà rất hài lòng với người con dâu đầu, vừa chu đáo, vừa nền nã, mặc dù đôi khi Liên khá tỉa tót, từ lọ hoa trên bàn được cắm những bông hoa lúc nào cũng chúm chím nở, đến tấm đăng ten móc tay rất cầu kỳ treo ở buồng mẹ... Chị làm ở phân viện thiết kế mỏ. Còn Chính - chồng chị - chỉ huy phó công trường xây lắp Bình Khê. Anh có phần vụng về trong thẩm mỹ, nhưng rất chặt chẽ trong nhận thức, kể cả những lo toan riêng tư. Họ sống với nhau lặng lẽ ít thấy điều ra tiếng vào. Hàng xóm nhiều người cho rằng đây là một gia đình hạnh phúc. Căn nhà của họ mọi thứ đều vừa phải, ngăn nắp. Nhà còn rộng, nhưng họ không kê nhiều giường, chỉ khi nào có khách mới đặt thêm cái giường bạt, vì lẽ trước đây nhà ít khách ngủ qua đêm.
    Nhưng từ khi có chú em về, bạn bè hàng phố cà kê, có hôm trải cả chiếu xuống đất mà ngủ. Liên vốn là người gọn ghẽ, chị thích đặt từ cái gạt tàn thuốc lá, lọ hoa đến cái phích nước, nhất nhất cứ phải theo ý chủ. Nhà cửa lúc nào cũng sạch bóng. Nhưng từ hôm chú em về, chỗ nào cũng thấy tàn thuốc lá. Đã là mùi thuốc lá thì chị không tài nào chịu nổi, mùi khét của nó cứ xộc vào mũi, vào miệng rồi lộng lên óc. Vì thế, một hôm thấy chú em bảo:
    - Đến phải bỏ cái của này, tốn lắm bà chị ạ.
    Chị mừng đến nỗi suýt reo lên. Cố nhiên chị phải tìm mọi cách động viên chú em bỏ thuốc. Thế là chú bỏ thật. Chị thấy nhà thoáng ra, nhẹ nhõm. Ai ngờ, hai hôm sau chú xách về một cái điếu cày. Chú bảo, đấy là "khẩu súng chống tăng", đã thế, nó lại đựng trong cái thùng sắt tây han gỉ, đáy thùng toàn bã điếu với những mẩu đóm vụn, khai mù. Mỗi lần chú đặt cái "khẩu súng chống tăng" ấy lệch ở bên mép rít một hơi, cái điếu rung lên sòng sọc, mắt lim dim chú ngả tấm lưng to như cánh phản đánh "rắc" một cái xuống thành ghế xa lông. Một đụn khói hình nấm tản ra nồng nặc. Đến lúc này Liên lại mong chú em cứ hút thuốc lá như ngày trước.
    Lúc rỗi chú nằm trên chiếc giường con, vắt chân chữ ngũ, ngoe nguẩy theo nhịp bài hát tiếng tây, những bài chú hát thì luôn luôn sai điệu nhạc. Mắt chú lơ đãng nhìn qua cửa sổ rộng thoáng vì đã mất hai dò phong lan, thấy dây phơi toàn những thứ của phụ nữ trắng toát, chú khụt khịt mũi:
    - Cái của này ấy mà - chú nói - ở mặt trận thì đến B.52 cũng phát hiện ra chứ không cần đến cái anh "cán gáo".
    Liên đỏ cả mặt. Buổi tối chị lẳng lặng chuyển nó vào đầu hồi nhà bếp.
    Lần đầu tiên chị mới được tiếp xúc với chú em. Trước đây chị chỉ biết trong nhà còn một người con trai nữa qua chồng chị, qua tấm "bảng gia đình vẻ vang" với cái tên Lương Văn Nghĩa. Rồi mẹ chồng chị khắc họa thêm, hai năm về nhà chồng chị thấy ít khi mẹ chồng không nhắc đến chú. Với tình thương bao la của mẹ, đứa em đã hiện lên trong tưởng tượng của Liên, nó đẹp giai, nó hiền từ và sâu sắc biết mấy. Mẹ nói: "Nhẽ ra cái chân bộ đội này là của thằng Chính chứ thằng Nghĩa chưa đủ tuổi đâu, là vì nó xung phong, nó lý sự anh Chính sắp hết lớp mười phải để anh ấy học hết. Con còn đang bơi cái lớp chín chưa xong - Bà mỉm cười - mẹ bố nó, nó nói nghe cũng phải, nó bảo: "Theo con, được người nào mẹ cứ giải quyết xong người ấy". Bao giờ nói về Nghĩa, mẹ cũng sôi nổi như vậy. Kể về hôm tiễn con lên đường mẹ nói: Hôm tiễn nó đi mẹ khóc, vậy mà nhìn thấy con bé đạp xe đi qua nó gọi: "Này em gái có tiễn anh không? ... Xinh gớm mẹ nhỉ?". Làm mẹ phát phì cười.
    Anh Chính nói về em lại khác. Anh bảo: "Cái thằng ấy nó nghĩ nông choèn choẹt". Chị hỏi: "Có phải chú ấy đi bộ đội thay mình không?". Chính dài giọng: "Nó ... thích thì nhường nó".
    Dù sao chị cũng thấy mến chú em. Nhìn tấm bảng "gia đình vẻ vang" chị thấy kiêu hãnh. Có phải mình chị đâu, cả anh Chính nữa.
    Hồi mới về nước, anh đã lục nó từ trong cái hòm của mẹ, mẹ gói rất kỹ, anh bảo: "Phải treo nó lên, nhà mình có kém cạnh gì ai mà không treo nó lên hả mẹ?". ở đất nước ta nó kỳ lạ như vậy đấy, cho dù tờ giấy màu đỏ ấy có mặt ở khắp các gia đình, nhưng một gia đình nào đó thử thiếu nó xem, anh sẽ tự thấy trong lòng mình nó canh cánh, nó ngượng ngập. Dù cho là gia đình ấy mới xây dựng với nhau, họ cũng có đủ lý do để giải thích, tờ giấy màu đỏ, chữ vàng ấy đang để ở nơi bố mẹ ở quê hương. Vì đó là nghĩa vụ của chúng ta, nghĩa vụ dân tộc. Tuy nhiên cũng có kẻ chỉ biết phô trương điều đó.
    Với Liên, chị nghĩ sâu hơn: Nếu Chính đi bộ đội thì sự thể sẽ như thế nào, anh có được gửi đi học ở Liên Xô? Anh có thành chỉ huy phó?... và điều này chắc chắn hơn, họ sẽ không quen nhau ở Lêningrát, không yêu nhau, không kết vợ chồng... Cứ suy diễn như vậy, nó vô cùng vô tận. Hãy giải thích với nhau thôi vì đấy là cuộc sống, cuộc sống nó xảy ra như vậy.
    Rồi một hôm, vào buổi tối, bỗng có một người cao, to, lừng lững như che lấp cái cửa chính, cười khà khà:
    - Xin chào cả nhà.
    Chính ngỡ ngàng rồi sửng sốt reo lên:
    - Thằng Nghĩa, thằng Nghĩa nó về mẹ ơi.
    Liên vừa lúng túng vừa ngượng ngập, chị nói khẽ:
    - Chú Nghĩa!
    Khỏi phải nói sự mừng rỡ của cả nhà hôm ấy là như thế nào, nhất là mẹ, mẹ khóc. Nghĩa quẳng cái ba lô dúm dó xuống đất quàng cánh tay lực lưỡng ôm lấy mẹ. Chú rẽ ra từng sơi tóc bạc như sương trên đầu mẹ, giọng chú nghèn nghẹn:
    - Mẹ ơi, tóc mẹ bạc hết rồi!
    Chính lấy khăn đập vào bộ quần áo nhàu nát của chú, anh ngắm nghía chú hồi lâu, tấm tắc khen chú lớn, to ra. Anh hỏi:
    - Mày ở đâu về?
    - Cămpốt.
    - Đi bao nhiêu ngày?
    Chú chỉ vào tai bảo:
    - Cái tai này một ngày có khoảng nửa giờ nghễnh ngãng, nên phải nói to to một chút.
    Anh Chính ghé sát tai chú:
    - Đi bao nhiêu ngày?
    - Một tháng, đi theo đơn vị mà.
    Anh xăm xắn hỏi chú về cái đất nước Cămpuchia đau thương. Thỉnh thoảng chú lại nghệt mặt ra nghe để anh hỏi lại, chú bảo:
    - Nó giết người như ngoé, xác chết như rạ, mà rất vô tổ chức, không có mồ mả như ở ta.
    Mẹ vẫn rờ khắp người con, mẹ hỏi xem chú có bị thương không rồi lại khóc. Liên bỗng thấy mình thừa, chị đâm lúng túng, mãi đến lúc chị hỏi xem chú đã ăn uống gì chưa, thì Chính mới giới thiệu:
    - Chị dâu mày đấy!
    Nghĩa ngắm bà chị từ đầu đến chân, cặp mặt nheo ngheo, cái đầu gật gù, rồi bỗng chú lúng túng:
    - Em ... em chào chị nhé.
    Sáng hôm sau, Nghĩa mới nhìn khắp nhà, nhận xét:
    - Khang trang gớm.
    Chính kể cho chú nghe về công việc vất vả hồi chạy vật tư, vật liệu sửa nhà.
    - Đấy, ở nước ngoài được ít của, anh bán cả đi, dồn vào sửa cái nhà này - Chính nói - Vì thế bây giờ nhà mình cũng túng.
    Chú đăm chiêu một lúc rồi chỉ vào góc nhà:
    - Cái đài kia của ai?
    - Thằng khỉ, không của nhà thì là của ai?
    - Cái máy khâu kia của ai?
    - Con khỉ?
    Nghĩa lại ngó trước ngó sau, gật gù tấm tắc rồi quay lại bảo Liên:
    - Bà chị ạ, thằng em cũng đi nước ngoài về đấy chứ?
    Mẹ mủm mỉm cười âu yếm:
    - Với mày, anh chị chỉ mong vác được cái xác về thôi con ạ.
    ở nhà được một lúc, chú mất biến, làm cả nhà mong, nhưng mãi chiều hôm sau mới thấy chú khật khưỡng đi về. Thấy ông anh cáu, Nghĩa cười hì hì, giải thích:
    - Qua nhà cu Chí, nó gọi vào chơi, cho uống rượu, thế là ngủ béng đi mất.
    - Thế từ sáng tới giờ mày ở đâu?
    Nghe không ra, chú lại nói:
    - ở Cămpuchia khoái nhất là uống nước thốt nốt ngâm chua, chết lịm.
    Anh Chính phải ghé sát vào lỗ tai chú:
    - Từ sáng tới giờ, mày ở đâu?
    - Từ nhà cu Chí nó kéo sang nhà thằng Ngân, từ nhà thằng Ngân sang nhà thằng Tộ (nhà thằng Tộ xây đẹp anh nhỉ). Từ nhà thằng Tộ sang nhà thằng Sơn, gặp nó đang bốc gạch, bèn giúp một tay. Lính chiến gặp nhau cũng khoái.
    Nghĩa hay đi chơi về khuya, đi suốt, hôm ngủ ở nhà, hôm ngủ nhà bạn. Có lần thấy cái giường con đặt cạnh cửa sổ vẫn bỏ không, Chính tắt đèn to và bật đèn ngủ và ... bật từng cái cúc áo của vợ thì bất ngờ nghe tiếng khịt mũi của chú em. Liên vội vàng kéo chăn trùm kín mặt. Hôm sau Chính mang về chiếc "li dô" bào vội trông như là chiếc liếp, che giữa cái giường đôi với gian ngoài. Từ đấy vợ chồng Liên có gì to nhỏ đều phải mang vào trong "buồng".
    Chính rất chiều vợ, anh thích chiều lộ liễu. Anh không thích vợ mang nặng, nhất là từ hồi chị có mang, dù là bê chậu nước. Anh không thích vợ phải suy nghĩ, lo toan. Anh thích đi xem cùng với vợ, tất nhiên Liên phải xứng với mong muốn của anh. Nhưng từ hồi chú em về, chị thấy ngại. Từ những lời nói âu yếm trước đây họ vẫn thường nói với nhau, bây giờ chị thấy nó ngường ngượng thế nào ấy, dù chỉ là việc ra đón anh khi anh đi làm về muộn. Treo cái áo giúp anh. Múc giúp anh chậu nước, chị cũng ngại.
    Một hôm, thấy anh khoắn khỏa hơn mọi ngày, tự anh mang tách chén đánh rửa, anh kỳ cọ bàn ghế, thỉnh thoảng lại hỏi Nghĩa:
    - Tối nay mày làm gì?
    Chú bảo chẳng biết làm gì cả.
    - Tối nay mày ở nhà hay đi chơi?
    - ở nhà. Hình như bọn nó hẹn đến chơi.
    Chính thở dài lẩm nhẩm:
    - ở nhà... khỉ thật!
    Anh bảo vợ thu dọn nhà cửa vào cho gọn, rồi nói nhỏ.
    - Mình ra mua cho anh một gói chè ngon, thật ngon đấy, với một gói thuốc.
    Buổi tối, một xe ô tô xịt khói đỗ sịch trước cửa. Một người béo phục phịch bước vào. Chính vồn vã nắm tay ông ta trịnh trọng giới thiệu với cả nhà, đấy là ông giám đốc công ty xây dựng, thủ trưởng cơ quan anh. Anh vừa nói chuyện với giám đốc vừa đưa mắt dò xét chú em. Có lẽ anh sợ chú làm điều gì không tiện mắt. Khi giám đốc hỏi chú em, anh đon đả đỡ lời:
    - Em nó chiến đấu mười năm ở trong nam, rồi ở Cămpuchia dũng cảm lắm đấy thủ trưởng ạ.
    Còn chú em thì nâng "khẩu súng chống tăng" lên, để lệch vào một bên mép. Vợ chồng Liên run lên chờ cụm khói hình nấm sắp phả vào mặt thủ tưởng, thì bỗng dưng chú từ từ hạ điếu xuống bỏ vào cái thùng sắt tây han gỉ, chú bê vào buồng mẹ. Chú xin phép giám đốc ra ngoài. Chỉ nghe tiếng chú và mấy bạn ở ngoài sân nhưng họ không vào nhà. Nghĩa đã rủ bạn đi chơi.
    Qua câu chuyện với thủ trưởng hôm ấy, chị được biết anh sắp được đề bạt làm chỉ huy trưởng.
    Vì thế, sáng hôm sau nét mặt Chính tươi như hoa. Mới chỉ có ba năm, từ một kỹ sư, anh sắp thành chỉ huy trưởng. Anh hất hàm hỏi chú em:
    - Mười năm đi bộ đội, mày được cấp gì rồi hả Nghĩa?
    Chú em rít một hơi thuốc lào, nhả ra cụm khói hình cầu trước mặt làm bà chị phải chạy vội ra ngoài, chú khịt khịt mũi:
    - Cấp tá cũng được ấy chứ, như thằng cu Thảm, cả đơn vị chết sạch sành sanh, còn một mình cũng giữ chốt. Hoặc cấp uý như thằng cu Bài dẫn đầu một tiểu đội vượt qua ba lần bùng nhùng đánh thẳng vào Buôn Mê Thuột. Lúc sư đoàn tới nơi tiểu đội chỉ còn ba thằng. Tóm lại cứ ục khỏe vào là lên quan, dễ lắm, không phiền phức gì cả. Còn em .... hồi ấy người ta lại giao làm cấp dưỡng.
    Nói đến ăn, chú thật là người khó hiểu. Cái gì chú cũng bảo có khối. "Bộ đội có khối".
    - ở Cămpốt ấy mà, có hôm mất đường tiếp tế, đào được củ chuối ăn cũng gọi là sang, không cứ nằm dài ra mà phơi nắng, mà nắng ở bên ấy thì cháy da,
    cháy thịt.
    Từ hôm chú em về, Liên bận thêm về cái tính thoải mái của chú. Chính lại không muốn chị bận như thế. Có lần chị vừa đánh rửa ấm chén xong, thì lại một lô bạn kéo vào, nói chuyện như phá, mà chuyện lính tráng thì dài vô tận. Vì thế lại một chầu dọn nữa. Chị càng ôn hòa bao nhiêu thì vì thương vợ, anh càng bực dọc bất bình bấy nhiêu. Anh bảo vợ: "Mặc kệ nó, không hơi đâu mà lúc nào cũng dọn". Cũng vì thế mà anh đâm cáu kỉnh, cục cằn. Có hôm anh đùng đùng vào buồng trong cằn nhằn với mẹ:
    - Mẹ đừng chiều nó như vậy, nó hư ra đấy.
    Mấy bữa trước mẹ đã phấn khởi đi lại được nhưng rồi lại nằm bệt xuống giường. Mẹ rầu rĩ nói:
    - Mẹ có chiều đâu, mẹ chỉ thương nó, mẹ chỉ mong các con yêu thương nhau thôi.
    Liên thấy khó nghĩ quá. Chị tìm cách khuyên chồng hãy bỏ qua cái tính thoải mái của tuổi trẻ, thì Chính lại bảo thẳng với em.
    - Mày lêu lổng vừa vừa thôi, thì giờ rỗi lấy sách ra mà học, mà đọc.
    Nghĩa cười hề hề (dạo này chú bớt nghễnh ngãng hơn), chú bảo ông anh là chỉ chơi một tháng nữa thôi, tháng sau có việc sẽ đi làm. Nhưng tháng sau, rồi tháng sau nữa, chẳng thấy ở đâu người ta gọi. Bạn bè thì mỗi lúc một đông. Vì thương vợ, Chính buộc phải bảo thẳng với em:
    - Chị mày có mang ba tháng rồi đấy.
    Nghĩa ngồi vắt vẻo trên ghế xa lông, ra chiều tư lự chú nói:
    - Sau này đặt tên cho cháu thì đặt cho nó vần vào một tý đấy nhá. Thí dụ: Chính phải đi với trực, chính trực. Chính Chuyên, Chính Đáng, Chính Thể... còn Liên thì Liên Kết, Liên Thanh, Liên Miên, Liên Lụy...
    Bà mẹ cũng phải phì cười:
    - Nó giống đặc tính thày ngày xưa.
    Hôm sau, Nghĩa ì ạch bê một tảng bê tông vào kê ở cạnh bể nước để chị bước lên bước xuống múc nước, chú bảo:
    - Cái ông Chính chỉ thương vợ bằng mồm, chỗ này sảy chân một tý có phải gay không.
    Nghĩa ít hút thuốc trước mặt chị hơn, hình như chú biết chị không chịu nổi mùi thuốc. Chị lại thấy thương thương chú em. Đàn bà vốn như vậy.
    Một hôm đi chơi về, chú thấy nhà cửa khác đi, bàn ghế kê lại.
    Cái giường con của chú đặt cạnh cửa sổ đã dịch sát vào mé trong, thay vào đó là cái bàn đọc sách của vợ chồng Chính. Trên bàn đặt một lọ hoa, bên cạnh xếp vuông vắn vài quyển sách kỹ thuật tiếng Nga bìa cứng. Cái thùng sắt tây han gỉ đựng ống điếu đã được thay bằng cái thùng đẹp hơn, lại sơn trắng, nhưng đã mang để vào buồng mẹ. Bàn uống nước được phủ vải hoa, trên bàn xòe ra những bông hoa dơn màu trắng, xen lẫn mấy bông hoa màu đỏ đầy vẻ tao nhã.
    - Làm gì mà ác liệt thế này? - Chú hỏi.
    Chính nói cho em biết, hôm nay là ngày sinh nhật của chị. Hồi học ở nước ngoài, năm nào anh chị cũng tổ chức như vậy. Nghĩa gật gù:
    - Tây gớm.
    Vì thế chị thấy ngượng. Mặc dù trước đó chị đã gàn chồng, không nên bày vẽ ra làm gì. Không biết chú ấy có thông cảm không. Nhưng anh gạt phắt:
    - Thông cái gì, mình lạ nhỉ, sao phải thông cảm?
    Bây giờ quả thật chị thấy ngại. Ngại quá đi. Đến nỗi chị không dám gặp mặt chú em mà đáng lẽ chị phải bảo chú từ sớm. Rồi biết đâu lát nữa bè bạn của chị đến chơi. Lại lù lù một cái ông to như hộ pháp hoặc không nói không rằng hoặc tương ra những câu đầy chất "lính tráng" thì tệ quá. Bạn bè Liên có mấy cô ở phân viện, mấy bạn ở phố trên. Gọi là ngày vui, bạn bè đến để khỏi quên nhau, thế thôi, nhưng mà sao ngại quá.
    Khi đã lên đèn, bạn bè lục tục kéo đến, Chính trịnh trọng trong bộ "com lê", và nếu như mọi năm, anh sẽ quàng vai chị, hôn lên đôi má ửng hồng của chị, nhưng hôm nay vì ngại chú em anh chỉ nói:
    - Chúc mình tăng được một tuổi.
    Anh đưa cho chị một tặng phẩm nhỏ như mọi năm. Nhưng khỉ quá, Liên cứ đỏ mặt lên. Bạn bè nói chuyện rôm rả. Hết chuyện phương Đông đến chuyện phương Tây. Cả những chuyện khôi hài về cái lạc hậu của mấy bà nông dân so sánh với các nước tiên tiến. Có mấy người toàn là nữ, nam có hai. Nhưng thoáng cái chị không thấy chú em đâu, giật mình, chị thấy mình có lỗi, chị đi vào buồng trong thấy Nghĩa ngồi thu lu ở giường mẹ, đầu gối quá tai, mặt đăm đăm suy nghĩ.
    Liên lúng túng:
    - Em... ra đi, ngày vui của chị, toàn là bạn rất thân của chị thôi mà.
    Chú nhếch mép cười, rồi vươn vai, khom người qua cái cửa nhỏ. Mặt đỏ bừng
    bừng, chú chào mọi người, vẻ lúng túng. Liên cầm tay em giới thiệu:
    - Em mình đấy, em mình ở bộ đội mới về.
    Mấy cô bạn Liên vốn nghịch ngợm cũng đỏ mặt. Liên mời em điếu thuốc. Ngày vui duy nhất chị mua bao thuốc mời em. Chị nhìn Nghĩa, thấy chú ngồ ngộ làm sao. Chú vân vê điếu thuốc nói nhỏ:
    - Em "ăn" thuốc lào quen, giờ hút thuốc lá nó nhạt thếch.
    Mấy cô bạn bấm nhau cười. Bây giờ câu chuyện xoay quanh chú em. Mấy chị lớn tuổi bạo mồm bạo miệng, gán một cô trẻ măng với Nghĩa làm cô ta xị mặt xuống, còn Nghĩa thì vênh mặt lên. Họ hỏi Nghĩa ở bộ đội có tổ chức sinh nhật không. Chú nói:
    - Cũng có mấy thằng nhà quê hay tổ chức sinh nhật. Nhưng chúng em chẳng cần hoa hoét gì cả. Vì ở rừng, chỗ nào mà chẳng có hoa. Em chỉ thích chúng nó sinh nhật thôi, vì sinh nhật thế nào chúng nó cũng xoay được thuốc.
    - Thế em có tổ chức sinh nhật không? - Một chị lớn tuổi hỏi.
    - Em ý à? Không, vì bao giờ em cũng hết thuốc trước chúng nó.
    Lúc tan cuộc, cả nhà xúm vào thu dọn bàn ghế, cái giường con của chú lại được kê cạnh cửa sổ. Chị thấy chú cầm một nắm hoa dơn ngơ ngác nhìn trước nhìn sau. Chị nín thở chờ đợi số phận của mấy bông hoa mảnh mai ấy sắp bị quăng ra sau nhà, như hai dò phong lan dạo trước. Nhưng chú lại cắm vào cái lọ đẹp nhất. Cẩn thận đổ nước vào lọ, rồi tủm tỉm cười bảo chị:
    - Cái này có khi còn tươi được mấy ngày nữa chị nhỉ?
    Từ hôm ấy, chị thấy mến chú em hơn. Chị cẩn thận xếp lại cái áo hôm chú mải đi chơi còn để ở dây phơi. Chị thường giũ chiếu ở cái giường cá nhân hàng ngày khách ngồi. Vì thế Chính càng bực dọc: "Hết mẹ chiều, rồi đến cô - anh nói - Nó hư ra cũng phải".
    Chị cũng có ý định, sau này có công ăn việc làm, chị sẽ tìm cho chú một đám thật vừa ý. Nhưng đùng một cái mấy hôm sau Nghĩa khoe:
    - Em sắp lấy vợ rồi đấy bà chị ạ.
    Chị sững người, chị không thể nào hình dung nổi một con người ngay chính bản thân mình cũng chưa có một cái gì nền nếp mà dám lập gia đình riêng, nhưng nhìn vẻ trầm tư của chú chị đâm ra lo lắng.
    - Cô ấy làm ở đâu?
    - Bộ đội, nhưng cũng sắp về rồi chị ạ, về là em cưới liền.
    "Cưới". Nghe tiếng ấy, Liên phải phì cười, bởi vì cái tiếng ấy lại phát ra từ Nghĩa. Nhưng chú chìa cho chị xem một cái phong bì thư. Chị thấy người gửi là Thanh Nga. Hòm thư... rồi với vẻ đăm đăm, Nghĩa thở dài nói:
    - Công việc của em vẫn chẳng thấy gì, thế là sắp hết bốn tháng rồi đấy.
    Được dịp, Liên góp ý luôn:
    - Chú nghĩ thế cũng phải, trước hết cứ phải lo liệu việc làm, rồi sau ổn định gia đình cũng chưa muộn chú ạ.
    Liên mang chuyện ấy khoe chồng. Chính trợn tròn mắt:
    - Cái thằng ba lăng nhăng, vợ con gì nó.
    Chị thảo luận với chồng;
    - Hay mình xin cho chú ấy vào xí nghiệp của mình đi.
    Chính thừ người. Quả thực ban đầu Liên được biết anh cũng định bụng xin cho chú em vào xí nghiệp xây lắp. Nhưng sau, thấy tính chú lông bông, anh ngại không biết có ảnh hưởng đến mình không. Bây giờ thật khó, anh sắp được đề bạt làm chỉ huy trưởng. Anh cảm thấy như mọi người nhìn anh có phần xét nét hơn. Có thể chỉ vì một việc của chú em, người ta lại xì xào cho là lợi dụng thì hỏng hết. Anh bèn nói lảng:
    - Cũng chả có lớp gì cả, cứ để "ông" khu phố ông ấy xếp, biết đâu chẳng có cái lớp gì hay.
    Thỉnh thoảng lại thấy chú lên ủy ban khu phố. Mỗi lần thấy cái dáng của chú thất thểu, áo khoác cầm tay, kéo rê gần chấm đất từ ủy ban về là chị biết không xong. "Thế là "sểnh" mất cái chân lái xe rồi". Chú nói. Chị an ủi: "Lái xe làm gì, hòn đất trên xe cũng còn biết nhảy". Lần khác chú phàn nàn "thế là sểnh mất cái chân kiến trúc". Chị lại an ủi: "Kiến trúc thì suốt ngày xa nhà, đi làm gì chú". Nhiều hôm chú lên cả Xuân Sơn chơi. Chú bảo chị:
    - Ước gì được vào cơ khí Xuân Sơn, trên ấy vui lắm. ở tập thể lại có mấy thằng em quen.
    Dạo này Nghĩa ít đi chơi, lên ủy ban về, chú lại nằm dài ở giường cá nhân, lơ đãng nhìn ra cửa sổ. Một hôm, chú ngồi chống cằm bảo chị:
    - Em nhớ mấy thằng lính tại ngũ quá, bà chị ơi.
    Chị thấy một cái gì đó cứ đầy lên trong cổ. Chị cũng buồn như chú, nỗi buồn khó tả, phân vân, một lúc chị mới nói:
    - Thế nào người ta cũng phải xếp việc cho chú chứ?
    Nghĩa đứng bật dậy:
    - Họ xếp chứ, sẽ có việc làm chứ. Nhưng chúng em về một lúc đông thế này, thì đến thủ trưởng anh Chính chắc gì đã giải quyết ngay được.
    Trong gia đình đang tranh luận về việc lấy vợ của chú. Vì cho đến nay, dù có nghi ngờ như Chính thì một tháng đến ba lá thư của Thanh Nga gửi về cũng phải cho đó là chuyện có thực. Trong nhà có ba người thì ba ý kiến gần như khác nhau. Bà mẹ thì mừng, nỗi vui ấy đọc thấy trong đôi mắt màu khói của mẹ. Mẹ nói: "Nó đã hai mươi sáu tuổi đầu rồi, cho nó lấy vợ đi để mẹ còn được nhìn thấy..." Chính thì phản đối, anh không thích cậu em lấy vợ, trong khi chưa có một cái gì cơ bản. Liên cũng thế, song chị lại nghĩ: sự đã rồi có nói chỉ làm phiền lòng chú thôi. Đàn bà vốn hay nghĩ đến những chuyện cụ thể, chị nghĩ, hay bàn với chồng, bán cái đài đi để bù đắp cho chú cưới vợ. Nhưng cái đài thỉnh thoảng anh vẫn mở băng nhạc nhẹ ra nghe khi phải đọc sách căng thẳng. Hay bán cái máy khâu. Máy khâu chị thích để khâu vá, nó là một thứ rất gia đình đấy. Cuối cùng chị âu yếm nhìn cái nhẫn đeo trên ngón tay trắng mịn bảo chồng:
    - Mình ạ hay ta bán cái nhẫn cưới này đi, để tổ chức gia đình cho chú Nghĩa.
    Mắt Chính cau lại, anh ngồi lỳ một lúc lâu. Bỗng dưng Liên thấy như chính mình có lỗi. Cái nhẫn này thường áp vào môi anh, cái nhẫn này mang đầy kỷ niệm của những ngày hạnh phúc. Cái ngày qua chiếc khăn voan màu trắng, chị nhìn thấy anh sang trọng nâng đôi bàn tay mềm mại, mịn như nhung của chị, đeo vào đấy cái nhẫn vàng óng. Anh hôn lên nó, rồi hôn vào đôi môi mọng đỏ hạnh phúc. Bỗng chị thấy mình quá ư là thực dụng, và cuối cùng chị chỉ còn biết lặng lẽ nghe anh nói: "Cô ấy mà, rồi thì cô rút cả ruột đưa cho người khác".
    Có một điều khiến chồng Liên buộc phải lo, Nghĩa lấy vợ rồi vợ chồng chú sẽ sống thế nào, ở đâu? Chỉ xếp một cái giường cá nhân kia cũng đã thấy bất tiện quá, lại còn vợ, rồi con, rồi đủ thứ...
    Nhưng rồi bỗng một hôm Nghĩa hớn hở mang giấy báo về khoe chú đã được tuyển vào nhà máy cơ khí Xuân Sơn. Đúng theo ý chú, cả nhà mừng cho Nghĩa, mẹ ngồi hẳn dậy, đưa đôi tay khô khốc đấm vào lưng rồi nhón nhén đi ra ngoài. Đã lâu mẹ mới đi ra nhà ngoài như thế. Trông mẹ trẻ ra, mừng mừng, tủi tủi.
    - Thế là mọi việc đến với tôi rồi - Nghĩa nói - có việc làm, sắp lấy vợ - chú tủm tỉm cười nhấp nháy đôi mắt vốn to và đen, tôi sắp có nhà riêng. Nhà riêng nghiêm chỉnh.
    Chính trợn mắt:
    - Mày kiếm nhà ở đâu?
    - Thế này nhé - Nghĩa giải thích - đấy là cái tài ngoại giao của thằng em, nên đừng thấy em đi chơi mà chán, em đi làm quen đấy. Em ăn cánh với ông giám đốc cơ khí Xuân Sơn. Em trình bày với ông ta rằng em sắp lấy vợ. Ông ấy nói:
    - "ừ thế thì mừng cho mày". Em hỏi: "Thủ trưởng có mừng thật không? Tao còn nói dối mày à? Thủ trưởng có ủng hộ không? Ông ấy giơ tay: ủng hộ chứ! "Thế thì tôi muốn xin một gian nhà tập thể có được không?" "Ông ấy ngần ngừ một lúc rồi nói "được chứ" nhưng ông ấy bảo rằng: "Trước mắt cứ phải vào ngay tập thể mà ở rồi từ đấy người ta mới xếp phòng riêng cho". Nhân tiện có mấy thằng bạn quen của em cũng đang ở tập thể. Thế là em nghe ông ấy ngay.
    Chính nín thở nghe chú em nói rồi bỗng thở phào một hơi, mặt đầy vẻ phấn chấn. Anh khen cái thằng ranh con thế mà khôn. Nhưng mẹ đến gần nhìn thẳng vào đôi mắt con, hỏi khẽ:
    - Con lại đi hay sao, hả Nghĩa?
    Nghĩa sợ đôi mắt màu tro đang long lanh ấy đọc thấy ruột gan mình, chú quay mặt đi, giải thích:
    - Mẹ chẳng biết lo xa. Bây giờ kiếm được một gian nhà tập thể có phải dễ đâu mẹ. Bạc nghìn đấy.
    Chính tán thưởng:
    - Trả hỏa hồng vài ngàn là ít đấy, mẹ ạ.
    Nghĩa gật gù nói thêm:
    - Phòng ở lại sang, có khi còn chắc chắn hơn nhà mình, vì thế phải chớp lấy ngay mẹ ạ.
    Mẹ vẫn nhìn Nghĩa trân trân, làm chú phát ngượng. Mẹ nói:
    - Cái nhà này có từ thời ông nội, để cho bố của con rồi đến các con... nhưng dù cái mái nó không che nổi...
    Nghĩa gạt đi, bảo mẹ là phong kiến. Rồi chú lại sượng sùng tán tỉnh:
    - Mẹ biết không, thế là gia đình ta lại có hai căn nhà, đây một nhà, Xuân Sơn một nhà. Thế là nay mẹ ở trên này với vợ chồng anh chị, mai lên với chúng con. Thỉnh thoảng phải đi cho nó đỡ buồn chân mẹ ạ.
    Liên thấy chú em có một cái gì đấy, một cái gì đấy mà chỉ có gần chú mới thấy rõ hơn.
    Hôm nay trong lúc xếp quần áo cho chú chị thấy một phong thư mới gửi của Thanh Nga, nghi nghi ngờ ngờ, chị mang thẳng phong thư ấy vào buồng trong. Không do dự, chị bóc ra xem. Liên giật mình vì nét chữ cứng cáp đập vào mắt, chị run run đọc:
    "Minh Nghĩa yêu quý. Mình lại nhận được thư của cậu. Cậu vẫn chưa xin được việc làm ư, chưa có việc làm ư? Cái tai của cậu dạo này có khá hơn không? Hôm qua, lúc sinh hoạt tiểu đội, có một cậu lính trẻ măng thành thực hỏi tớ rằng: cậu ấy luôn mang danh là một anh chàng lêu lổng. Nhiều người thành kiến, cậu ấy không hiểu có phấn đấu được không? Mình bèn kể về cậu. Mình kể cái hồi đánh Plâycu, đơn vị chết nhiều quá mà xe tăng địch vẫn bò lên từng đàn. Chỉ còn một B.40. Ai ở lại chặn địch? Một cánh tay giơ lên đầu tiên: cậu. Bọn mình đếm đến quả thứ 10 rồi thấy lịm đi. Đến đêm mới thấy cậu mò về. Hóa ra cậu vẫn sống. Một bên vai đã nát ra, vàng xám. Anh chàng bắn súng chống tăng số một có cái gì để bồi dưỡng lại cái tai chưa?".
    Mắt Liên hoa lên. "Đâu, thế Thanh Nga đâu?"- " Thanh Nga của bạn vẫn thế, anh chàng ngạo mạn của cậu đứng trên chốt 1732 mắt nhìn về hướng Bắc, mang đầy lòng tin ở phía sau. Cậu có biết tớ tin gì không? Tớ tin rồi cậu sẽ có việc làm. Phải có việc làm chứ, vì cậu là anh bộ đội một nghìn phần trăm sự thật. Phải không?".
    "à này, cậu vẫn không thích ở nhà anh chị cậu à, ừ, nếu đúng như vậy thì phải tìm cách mà đi thôi. Bọn mình vốn thế".
    Liên bỗng kêu lên một tiếng.
    "Vết thương ở vai của cậu dạo này có bị đau không? Nghĩa à, biên giới dạo này nhiều con gái lắm, xinh lắm mày ạ. Không như ở Cămpốt, bọn mình phải mang cái tên con gái cho nó đỡ khô đi. Nếu có thể vài hôm nữa tớ sẽ ngỏ lời với một em, thanh niên xông pha, nếu chấm theo thang điểm 5 thì tớ chấm điểm bốn cộng. Thằng Bích Hồng lấy vợ rồi đấy. Nghĩa biết tin chưa, Minh Nghĩa?..."
    Chị gấp phong thư lại. Lặng lẽ bước ra phòng ngoài, nhìn lên tờ giấy màu đỏ chói ngời cái tên Lương Văn Nghĩa. Chiếc ba lô của Nghĩa đã đặt gọn gàng ở trên giường, thế là chú sắp đi. Đúng là Nghĩa sắp đi. Chú và ông anh đi chào hàng xóm đã về đến ngoài sân. Chị nghe tiếng người anh căn dặn:
    - Làm thợ cũng phải cố gắng mà học. Mày lêu lổng lắm, làm gì cũng phải cố mà kiếm cái bằng. Thời buổi này, sống không có bằng cấp thì cực lắm đấy.
    Nghĩa lặng lẽ vào nhà bảo mẹ:
    - Con đi vào khu tập thể đây, mẹ ạ.
    Bà cụ lại nhón nhén đi ra ngoài, âu yếm nhìn con. Bà gật đầu rồi quay đi, giấu một giọt nước mắt lăn trên nếp nhăn. Còn Liên thì đứng sững ở cửa. Giọng run run, chị nói:
    - Chú đi thật à?
    Nghĩa chào mẹ, chào anh chị, đeo cái ba lô dúm dó, nhẹ tênh cách đây vài tháng chú mang về. "Khẩu súng chống tăng" thòi lòi ở bên cạnh. Chú nói:
    - Con đi, mẹ ạ. Em đi. ở đấy về đây đi xe tháng không đầy mười lăm phút, không có gì mà cứ phải quyến luyến như trẻ con.
    Nghĩa xốc ba lô lên vai, huýt sáo, hát một bài tiếng Tây ngang phè. Chú đi ra. Khi cái bóng cao to của chú lừng lững đi khỏi, căn nhà ấy lặng đi. Liên thấy nó trống rỗng. Thế là lại như xưa, ngăn nắp, gọn gàng, nền nã... chị ngước đôi mắt ướt đẫm nhìn chồng. Có thể như thế được không anh? Nhưng anh vẫn hoan hỉ, nhẫn nại. Rồi dường như không chịu nổi cái khung cảnh nặng nề này, anh cáu:
    - Thì nó thích cứ để nó đi, có phải nó đi Cămpốt đâu mà sợ?
    Anh lầm lì bước ra phía cửa, lột cái chiếu ở giường cá nhân rũ bụi, rồi lặng lẽ tháo từng cái thang giường cẩn thận bó thành một bó.
     
  5. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Ngày cuối cùng của chiến tranh - Vũ Cao Phan

    Vào ngày cuối cùng của chiến tranh, một nhóm trẻ lai Mỹ bị bỏ rơi, ẩn náu trong cô nhi viện dưới sự chở che của các bà xơ. Các bà xơ vô cùng lo lắng cho số phận của chúng khi có một tổ trinh sát quân giải phóng đến, nghĩ rằng những đứa trẻ này sẽ bị trả thù. Nhưng họ đã nhầm. Khi biết trong phòng kín là những đứa trẻ đói khát, những người lính giải phóng đã đón nhận chúng với sự quan tâm sâu sắc và tình cảm ấm áp. Ngày cuối cùng của chiến tranh đoạt giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi truyện ngắn của tuần báo Văn nghệ năm 1995.

    Không hiểu vì sao cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa kể ra câu chuyện này, mặc dù còn như in đôi tay gày guộc của ma xơ* run rẩy lần tìm chiếc chìa khóa, vạt sân hoang, những khuôn mặt trẻ con và tiếng kêu thảng thốt củachính tôi lúc đó, hai mươi năm trước...

    Lúc đó, sớm của một ngày trước Ba mươi tháng Tư, năm người lính đứng bên chiếc cổng sắt xiêu vẹo, phía trong nhô cao một tháp xi măng lênh khênh. Vậy là đây rồi. Chúng tôi gọi cửa. Người gác dan chạy ra rồi thụt vô luôn. Có cái gì đó lao xao, rồi im, rồi lao xao. Mãi sau, vài cái đầu thập thò và một người đàn bà bận đồ đen từ sâu hút trong sân đi ra:

    - Dạ thưa, các ông là giải phóng?

    - Vâng, chúng tôi có thể vào?

    - Dạ được.

    Cửa mở. Tôi ngó lại người đàn bà:

    - Đây là nhà thờ sao?

    - Dạ không, trường học, đây là trường học, thưa trung úy. (Bà kêu đại vậy chứ tôi có mang thứ phù hiệu nào trên người đâu). Nhưng trường học đóng cửa rồi, chắc đã cả tháng nay. Còn chúng tôi ở Cô nhi viện G, từ miền Trung chạy giặc, Giê su, xin lỗi (bà lấm lét nhìn tôi) chạy bom đạn mới tấp vô. Nơi này bữa trước làng lính có ở, sau họ nhường cho Cô nhi viện.

    Bất giác tôi nắm chặt báng súng, nghi ngại:

    - Còn lính ở trong không, thưa bà?

    Bà già cũng hoảng hồn:

    - Dạ không, không có, họ đi hết trơn từ mấy bữa rồi. Hồi hổm có tốp chạy qua đây trút bỏ đồ lính rồi cũng "dông"luôn.

    Những thứ "trút bỏ" được nhìn thấy ngay ở chỗ quẹo. Cả xứ sở đang lên cơn sốt di tản, khó mà xác định đây là vùng mới giải phóng hay vẫn còn nằm trong tay quân đội Sài Gòn. Chúng tôi dừng lại bên chiếc tháp. Không giống một tháp canh. Mà một trường học có nó để làm gì cũng không rõ. Có vẻ như tháp được dùng cho mục đích quan trắc thường xuyên nào đấy. Sơ sài nhưng khá vững. Tôi yêu cầu đồng đội cảnh giới rồi leo lên.

    Cuộc tổng tiến công trực tiếp vào nội đô Sài Gòn đã nổ ra từ ngày hôm qua. Các đơn vị phòng không được lệnh bám sát bộ binh đánh địch trong hành tiến. Nhưng trung đoàn tôi thì dừng lại ở hướng này, cách Sài Gòn khá xa về phía bắc, sẵn sàng đón lõng những đường bay địch mà rất có thể xuất phát từ các căn cứ ngoài Việt Nam bất ngờ lao đến một lúc nào đấy. Tôi, Chủ nhiệm trinh sát trung đoàn được chỉ thị thiết lập gấp một đài quan sát cho nhiệm vụ trên. Chúng tôi đã phát hiện ra chiếc tháp từ chiều hôm qua trên bản đồ UTM tỷ lệ 1/25000 mới lấy được của địch và phải mất gần sáu giờ đồng hồ cho việc tìm đến nơi.

    - Lý tưởng! Không thể nói khác được.

    Tôi gật đầu với các chiến sĩ khi đã ở dưới mặt đất. Quả vậy, đài quan sát được đặt ở đây chẳng những nằm thẳng hướng xác định mà xạ giới quan sát lại rất rộng, không bị che khuất. Tôi mở máy liên lạc với trung đoàn trưởng, báo cáo tình hình rồi khẳng định bắt đầu nhận nhiệm vụ. Từ giờ phút này, mạng hai oát trên tất cả các trận địa pháo cao xạ đã sẵn sàng nhận chỉ thị mục tiêu của chúng tôi. Hơn thế nữa, trung đoàn trưởng trao quyền trực tiếp hạ khẩu lệnh xạ kích cho tôi trong trường hợp khẩn cấp.

    Tôi nói với ma xơ Giám đốc Cô nhi viện, người đàn bà bận đồ đen, rằng do nhiệm vụ quân sự, chúng tôi sẽ ở lại đây. Rằng cũng do tính chất của nhiệm vụ quân sự, tôi muốn được xem qua nơi đóng quân. Bà già khẽ khàng đáp "dạ" nhưng đôi mắt của bà lại không có vẻ như vậy. Nắm chắc địa bàn công tác là tác phong của người lính trinh sát nhưng tôi còn có ý muốn tìm kiếm một vị trí tập kết cho cái đơn vị nhỏ bé của mình. Gần như hành quân suốt đêm, tất cả đều đã thấm mệt. Tôi để Vinh, một tiểu đội trưởng trinh sát già dặn ở lại đài quan sát rồi cùng các chiến sĩ bước theo ma xơ.

    Ngôi trường tọa lạc trong một khuôn viên khá rộng song hầu như chỉ có một dãy nhà ngang với dăm bảy phòng học mà giờ đây Cô nhi viện dùng làm nơi ăn ở lẫn nơi học tập, vui chơi cho các cháu. Mới di tản đến nhưng nơi có vẻ các ma xơ vẫn cố gắng duy trì nền nếp cũ. Chúng tôi lướt qua các phòng, gắng không gây xáo động những khuôn mặt trẻ thơ hồn nhiên, đủ các lứa tuổi. Một bé trai làm bộ chĩa súng lên trời bóp cò trước sự kinh hãi của ma xơ phụ trách lớp. Tôi mỉm cười. Trẻ em là trẻ em, dù chúng ở đâu. Trong một phòng khác, các bé gái đang học khâu vá. Gian cuối cùng, cửa khóa. Tôi hỏi ma xơ liệu đây có phải là phòng thừa còn bỏ trống không thì bà đáp nhanh như tên bắn:

    - Dạ không. Đây là nơi tôn nghiêm nhất, thưa trung úy, nhà nguyện của Cô nhi viện. Nó cũng là nơi chứa các đồ Thánh lễ.

    Hẳn thế, đây là Cô nhi viện công giáo mà. Như vậy chúng tôi chỉ còn cách dựng lều trú quân ở một góc nào đó. Không sao. Có vẻ như đọc được ý nghĩ của tôi, ma xơ Giám đốc chỉ xuống một căn nhà nhỏ gần như tách biệt:

    - Các ông coi thử căn nhà này. Một gia đình của Cô nhi viện đang ở đó, nhưng chúng tôi có thể thu xếp được.

    Gia đình có ba người, một thiếu phụ trẻ với đứa con nhỏ và một thiếu nữ, cỡ16, 17 tuổi. Vẻ mặt hơi rầu của thiếu phụ là điều mà chúng tôi có thể giải thích, vì ma xơ đã cho biết chồng của chị đang chốt ở một phòng tuyến nào đó. Tuy thế khi thấy chúng tôi vào nhà, sau lời chào, thiếu phụ đã mau mắn kêu thiếu nữ:

    - Lấy nước mời mấy chú đi em, Dịu Thơm.

    Ôi cái tên nghe bình yên quá. Chiến tranh dường đâu có ngụ ở nơi này.

    Trong khi cô gái còn chưa kịp tìm thấy bình nước thì ma xơ Giám đốc đã nhanh chóng quyết định:

    - Cô Hồng thu xếp để chuyển gia đình lên ở chỗ tôi cho mấy ông giải phóng mượn tạm chỗ này ít bữa. Và quay lại phía tôi: Trung úy định ở lại đây bao lâu?

    - Hết chiến tranh, thưa ma xơ. Tôi cười. Nhưng chiến tranh cũng chỉ còn một trận đánh này và tôi không nghĩ rằng nó lại kéo dài.

    Thêm một lần ma xơ nhìn tôi như có chút phân vân.

    Ngày hôm ấy chúng tôi thay nhau trực trên đài quan sát với biết bao nôn nóng khi nghe tiếng pháo từ hướng đông, hướng tây và xa hơn nữa, hướng nam. Đôi lúc mơ hồ vọng đến cả tiếng súng nhỏ. Sẽ đến rất gần một ngày Sài Gòn; ngày mai, ngày kia, hay...?

    Nhưng đã xảy ra một chuyện làm đảo lộn công việc của chúng tôi. Bắt đầu là binh nhất Ruân, con chiên xứ đạo gốc Hải Hậu băn khoăn tìm đến vào lúc cuối chiều:

    - Anh ạ, có chuyện này khó hiểu. Em hỏi ma xơ khi nào thì hành lễ, lúc đầu ma xơ làm bộ như không nghe, rồi sau đó bà hỏi: "Mấy ông giải phóng cũng quan tâm chuyện đó sao? Chúng tôi làm lễ rồi, cảm ơn". Em phải nói rằng em là con Chúa, bấy lâu ở rừng chỉ đến thầm với Chúa được thôi, nay có nhà nguyện thì sướng nhất rồi, em muốn đi lễ. Em nói thế, ma xơ nhìn em rất lạ rồi bỏ đi mà không nói gì thêm. Anh thấy không, chúng mình đến đây từ sớm, đã có buổi lễ nào đâu? Không có lễ sáng mà cũng chưa thấy lễ chiều. Em để ý kỹ lắm mà. Ma xơ nói thế thì lạ thật!

    Tôi chưa kịp chia sẻ mối nghi hoặc thì tiểu đội trưởng Vinh xuất hiện:

    - Báo cáo chủ nhiệm, không ổn đâu! - Vinh hạ giọng.

    - Có địch!

    Vinh cho biết anh đi kiếm rau dền, rau rệu quanh trường, vừa lúc qua phía sau nhà nguyện thì đột ngột cửa sổ hé mở rồi đóng vội lại ngay. Anh áp sát chân tường và nghe thấy bên trong có tiếng động.

    - Anh xem. - Vinh chỉ. - Đứng đây mình vẫn nhìn thấy ổ khóa trái đen đen kia. Rõ ràng là...

    Ruân đưa thêm ý kiến:

    - Có một lúc ma xơ đi ngang chỗ khóa cửa, em để ý thấy bà bước chậm, miệng lẩm bẩm điều gì đó và đôi mắt thì không yên ngó vào một chỗ.

    Các chiến sĩ trinh sát của tôi khá đấy. Tôi cũng đã thấy đôi điều ngờ ngợ và giờ đây thì rất nhanh, như một phản ứng nghề nghiệp, tất cả các dữ kiện được xâu lại để bật lên thông tin chủ yếu này: ma xơ Giám đốc đã giấu ai đó - những ai đó - trong nhà nguyện kia vào lúc chúng tôi vừa hành quân đến đây. Ai?

    Tôi không có lý do gì để không đồng ý với tiểu đội trưởng Vinh rằng đó là địch. Và chúng thậm chí không chỉ có một tên. Rất có thể địch đã để lại đây một tốp nhỏ - vì lý do nào đó - sau khi "nhường khu trường cho Cô nhi viện" như lời ma xơ. Và cũng có thể đó là những tên chối bỏ cuộc chiến từ đâu đó chạy về, vẫn như lời ma xơ. Tôi quyết định phong tỏa nhà nguyện mà không cần cật vấn thêm ai nữa. Phương án tác chiến được vạch ngay với hai kịch bản cho những tình huống, hoặc địch lợi dụng trời tối để lén rút chạy, hoặc chúng mưu đồ tập kích lại chúng tôi. Chỉ biết rằng từ giờ phút này với năm người, gánh nặng của nhiệm vụ chiến đấu đã tăng lên gấp bội.

    Để có thể khống chế được mặt sau ngôi trường, tôi không có cách nào khác là phân công Ruân đem tăng võng ra mắc ở mấy gốc cây xế phía hồi nhà. Động tác này không thể không đập vào mắt ma xơ và mặc dù lúc đó đã tối trời, tôi vẫn cái thấy cái nhìn của bà hướng đến như muốn hỏi: Vậy thì cần làm gì, căn nhà mà các ông yêu cầu?

    Vậy là cuối cùng, đã đến với chúng tôi một đêm bức bối và hồi hộp lạ thường. Pháo cứ rền lên từng đợt, chớp cứ rung bần bật phía đường chân trời và thân xác chúng tôi thì căng lên hết nỗi. Chúng tôi lắng theo bước chân chiến thắng của đồng đội, chúng tôi lo làm nhiệm vụ được giao, và chúng tôi... Thôi, khỏi cần kể thêm. Khuya mọi thứ có dịu đi nhưng tuyệt nhiên không một ai muốn chợp mắt.

    Lúc đó quãng nửa đêm, trăng hạ tuần chưa qua khỏi ngọn cây. Tôi làm hiệu bí mật theo dõi khi đồng đội phát hiện một bóng đen. Bóng đen từ đầu bên kia dẫy nhà men theo chân tường, lợi dụng sự che khuất của các bóng cây, chầm chậm, di chuyển về hướng này. Cuối cùng thì bóng đen cũng đến được gốc cây cách nhà nguyện lối chừng mươi bước. Mục đích có thể là đã rõ: tên này, hoặc làm nhiệm vụ đưa tin, hoặc tìm cách mở cửa cho đồng bọn. Nhưng điều tác hại là cả khoảng trước cửa nhà nguyện lại hết sức trống trải, và kẻ phiêu lưu kia đành hầu như án binh bất động nơi gốc cây. Tôi dự kiến bắt sống nhưng chưa kịp hành động thì ngay lúc đó đã đẩy tới một tình huống bất ngờ. Bóng đen bỗng tách khỏi gốc cây, nghe ngóng rồi nhảy lên bậc thềm chỗ cửa nhà nguyện và chắc là bước hụt, y ngã sấp với một tiếng "xoảng". Rất nhanh, bóng đen đứng vụt dậy biến mất về hướng ngược lại. Tôi quyết định không đuổi theo.

    Buổi sáng, các chiến sĩ thu được từ hiện trường một cặp lồng với cơm canh tung toé, mấy ổ bánh mì và một chiếc dép. Vậy là mục đích của cuộc phiêu lưu ban đêm đơn giản hơn điều chúng tôi tưởng. Tôi cho xếp gọn các thứ, để ngay ngắn trên thềm nhà nguyện.

    Ngày làm việc đã trở lại mà không một ai trong Cô nhi viện đi qua hướng này, trong khi các ma xơ thì có vẻ lóng ngóng đứng ngồi chẳng yên. Cũng chẳng có lễ sáng trong nhà nguyện nữa, đương nhiên. Và cũng không một ai trong chúng tôi nhìn thấy ma xơ Giám đốc đâu, bà như giấu mặt vậy. Tất cả giống một sự đồng lõa tự tố cáo.

    Vào phiên liên lạc sớm với trung đoàn, tôi được nhắc tăng cường cảnh giác và được biết thêm rằng ngày hôm nay - rất có thể là ngày hôm nay - các quân đoàn bộ binh sẽ tiến vào nội đô. Trong báo cáo của mình tôi cũng đề cập đến tình hình mặt đất nơi tác nghiệp và xin được toàn quyền hành động. Trung đoàn trưởng đồng ý: "Gắng hết sức bắt sống hay gọi hàng. Đừng phung phí cái chết, chiến tranh sắp qua rồi. Vả lại ở đó đang có nhiều trẻ em phải không?"

    Tôi quyết định đi tìm ma xơ Giám đốc, phải nói chuyện với bà ta trước đã. Tất nhiên sẽ không có thuyết giảng về chính tà, về chỗ đứng, dù ở thời điểm này. Càng không cần vòng vo Tam Quốc. Tôi nghĩ là mình hiểu bà. Các ma xơ luôn hành động hướng thiện như bằng chứng đây về trại mồ côi. Tình huống mà chúng tôi gặp phải cũng vậy, hẳn vì bà muốn tránh đổ máu. Tôi sẽ nói với ma xơ rằng chúng tôi cũng muốn thế, do đó xin ma xơ vận động những kẻ đang ẩn náu trong nhà nguyện kia buông súng đầu hàng. Cách mạng sẽ khoan dung.

    Nhưng tôi được trả lời là ma xơ Giám đốc đang ốm? Không thể chần chừ, tôi nói với một ma xơ khác có vẻ đứng tuổi:

    - Xin ma xơ lấy chìa khóa mở căn nhà nguyện kia. Chúng tôi cần kiểm soát trong đó.

    - Giê su! Bà thốt lên. - Nhưng tôi không có chìa khóa. Thứ đó ma xơ Giám đốc giữ.

    - Thì ma xơ trình lại với bà ấy yêu cầu của chúng tôi. Từ giờ phút này nhà nguyện bị phong tỏa xin ma xơ thu xếp để tất cả mọi người, nhất là trẻ em chuyển hết về đằng kia. - Tôi tuyên bố.

    Ma xơ làm dấu thánh rồi tất bật đi luôn. Nhưng hơn nửa tiếng trôi qua, không thấy bà quay lại. Tuy nhiên các trẻ em đã được đưa ra khỏi khu vực phụ cận.

    Phải hành động ngay. Tôi triệu tập bộ đội, chỉ để một chiến sĩ ở lại đài quan sát. Vinh tới, anh nói mà không biểu hiện một trạng thái nào rõ rệt trên nét mặt:

    - Quân ngụy đã đầu hàng. Anh nghe đây...

    Vinh tăng chiết áp của chiếc đài bán dẫn Sô-ny lúc nào cũng cặp kè bên sườn anh. Đập ngay vào tai tôi lệnh hạ vũ khí cho quân đội Sài Gòn của Tổng thống Dương Văn Minh. Tôi cảm nhận cả mình cũng không có cảm xúc rõ rệt nữa khi hướng về đồng đội:

    - Chúng ta sẽ đánh trận cuối cùng của chiến tranh.

    "Điều gì cũng có thể xảy ra", ý nghĩ đó lướt nhanh trong khi tôi phân công vị trí chiến đấu cho các chiến sĩ. Mọi sự chấp hành đều lập tức và tuyệt đối.

    - Phá khóa gọi hàng! Tôi ra lệnh.

    - Kìa Chủ nhiệm, ma xơ...

    Tôi quay lại. Ma xơ, ma xơ Giám đốc bỗng như từ đâu đó hiện ra đi về phía chúng tôi, bước chân lẩy bẩy như khựng lại, như trờ tới. Khi bà gắng giơ cao một chùm chìa khóa, hào hển điều chi mà khi đến gần mới nghe rành:

    - Xin đừng bắn vô trỏng, trung úy...

    Mới chỉ qua một đêm, ma xơ đã gầy rộc hẳn đi. Bà cúi xuống, đôi tay gầy guộc run rẩy lần tìm chiếc chìa khóa nhà nguyện. Có lẽ bà đã đếm qua nó cả chục lần nhưng vẫn tìm, tìm hoài. Cuối cùng thì bà cũng giữ lấy một chiếc, nhìn lên:

    - Trung úy để tôi.

    Thoắt một cái, động tác của ma xơ bỗng trở nên nhanh hoạt lạ lùng. Bà như khẳng định lại tư thế Giám đốc. Khóa nẩy, cửa mở, sau dấu Chúa tuẫn nạn, bà kêu rành rọt:

    - Má đây, ra đi các con... Và bất đồ đổ ụp dưới chân tôi, bà nấc lên: - Lạy Chúa, xin các ông đừng giết. Chúng đâu có tội, chúng không có tội...

    Thôi rồi! Tôi chợt hiểu tất cả khi từ trong góc tối của nhà nguyện, thất thểu, sợ sệt và hốc hác vì đói bước ra ba đứa trẻ lai: hai Mỹ đen, một Mỹ Trắng. "Trời! Lại có thể như thế sao Chúa ơi".

    - Lấy sữa trong ba lô pha cho các cháu mau đi! Tôi nói với đồng đội trong khi cúi xuống đỡ ma xơ dậy.

    Và cũng chỉ nói được đến thế, tôi đã phải xoay người bước nhanh để lẩn trốn những giọt nước mắt của chính mình. "Lại có thể như thế được sao, lại có thể...".

    Vũ Cao Phan


    * - Maxơ gốc tiếng Pháp: Ma souer (chị của tôi, xơ của tôi) nhưng được Việt hóa trong khẩu ngữ từ miền trung trở vào để chỉ người phụ nữ tu hành trong nhà thờ Thiên Chúa giáo, thường làm những việc thiện trong nhà thờ (tương tự như từ xơ, nhưng được hiểu với nghĩa tôn quý hơn).
     
  6. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Câu chuyện một chiều thứ Bảy - Trần Thanh Giao


    Một chiều thứ bảy, bọn chúng tôi dắt nhau ra bờ sông Hồng chơi. Bây giờ đã là cuối thu rồi. Nước sông rút xuống và lặng lẽ trôi xuôi, cuốn theo vô số phù sa màu gạch non đùng đục. Chúng tôi trèo lên một đống gỗ ngồi nhìn xuống lòng sông. Chẳng bao lâu mà mặt trời tắt hẳn. Trăng mồng mười treo trên cao. Gió lạnh làm sông Hồng nhăn mặt. Thỉnh thoảng mấy gợn sóng con con sáng lên, lấp lánh như những lưỡi búa vàng.

    Cảnh sông Hồng thật đẹp nên chuyện cứ nở như gạo rang. Chúng tôi đi từ chuyện cá mè, tép bạc sang chuyện ngao, chuyện hến. Bỗng "Danh cua" quay sang một anh bạn miền Bắc:

    - Ngao à? Trong Nam gọi ngao là vọp. Có một lần mình đi vào rừng và nhớ mãi tiếng những con vọp rơi lộp cộp vào khoang thuyền. Năm ấy cách đây vừa đúng bảy năm.

    Danh bỗng trầm hẳn giọng xuống, rè rè như đang có vật gì mắc trong cổ họng:

    - Bảy năm qua rồi mà không bao giờ mình quên được.

    Tôi bảo thầm trong bụng: lại sắp có chuyện đây. Nhìn nét mặt Danh đang thừ ra nghĩ ngợi, nhìn đôi mắt Danh đang mơ màng trông xa xa, tôi đoán có lẽ là một chuyện tình. Các anh em khác chẳng ai bảo mà ai cũng đều ngồi yên, chờ đợi. Một lúc, sốt ruột quá, tôi giục:

    - Kể đi! Kể chuyện vọp đi!

    Danh "ừ" một tiếng, cho tay vào túi áo ngoài, moi moi khoắng khoắng cả hai bên chẳng biết là tìm thuốc lá hay lục lại vật gì cũ kỹ. Tôi vội đưa cho anh chàng điếu thuốc và đánh diêm. Danh hít một hơi ngon lành, thở khói ra dày đặc, rồi lấy tay khoát nhè nhẹ như đang vén lên một bức màn:

    Câu chuyện này cũng bắt đầu bằng một chiều thứ bảy cuối thu. Lúc ấy cả phân xưởng mình đang đổ dồn vào một công việc đột xuất là đúc lựu đạn. Anh em thay phiên làm quần quật suốt ngày đêm không nghỉ để cho kịp chiến dịch. Trong hoàn cảnh ấy, lại hết củi để nấu cơm, làm bếp. Kể thì cũng là chuyện nhỏ mọn thôi. Nhưng nguyên tắc bảo mật tuyệt đối cấm kiếm củi ở vùng gần xưởng. Bọn này thuường phải đi xuống Vàm Đầm, xa vài mươi cây số. Sau một bữa cơm nửa sống nửa chín - mà có anh mặt nhăn như bị - cô Miên, cấp dưỡng của bọn này mới quyết định tự mình đi lấy củi. Đó là một việc nặng. Mà để cho cô đi xa thì bọn này cũng không yên tâm. Định cắt một người cùng đi với cô. Nhưng anh em không ai rút việc ra được. Miên xin cho mình đi theo. Mọi người quay lại nhìn mình. Hồi ấy mình vừa rời ghế nhà trường đi xuống miền Tây kháng chiến, công việc trong xưởng cũng mới biết ti toe nên rỗi hơn anh em, hôm sau chủ nhật mình lại được nghỉ, nhưng mà công tác lao động có thể nói là mình dốt đặc cán mai. Tuy vậy, không để anh em chờ lâu, mình "xung phong" đi ngay với cô Miên. Xung phong thì cũng có nhiều lý do. Trước tiên nghĩ rằng "cả làng" người ta đang làm cật lực chẳng lẽ mình cứ "cà nhỏng chống xâm lăng, phất phơ làm cách mạng"! Hai là một mình đi vào rừng với cô Miên thì cũng hay hay. Các cậu cười à- Cái đồ quỷ, cứ nghĩ tầm bậy! Hay hay là thế này: lúc bấy giờ mình nghĩ ngay đến cảnh rừng cây mọc vút cao, ánh nắng xuyên qua kẽ lá như rẽ quạt, sóc trên cành nhảy lon ton, có một đôi thanh niên nam nữ vừa đẵn gỗ vừa hát. ấy đại loại hay hay là như vậy!

    Trong bọn tôi, bật ra những tiếng cười thú vị y như khi xem xiếc thấy anh chàng đi dây rất "chúa" mà lại giả vờ trượt ngã. Thật vậy, "Danh cua" thì ghê lắm! Ông ấy việc gì cũng sành và là tay tiện cừ nhất bọn trẻ trong kíp và cả trong xưởng chúng tôi. Nếu ai mới đi lao động công trường mà thấy Danh cứ xắn hai nhát mai một hòn đất và dạy rạch ròi cho anh em đổ nền, bện sọt thì lại tưởng Danh là nông dân chính cống. Danh năm nay chưa đầy ba mươi tuổi, nghĩa là "còn xoan", người tầm thước, đầu cắt "cua" nên được gọi là "Danh cua". Mà Danh là "cua" cũng vì có đôi tay chắc nịch, sờ vào rắn như sờ phải chiếc kìm càng cua. Đặc biệt Danh cua "kẹp" đến mức "trời gầm không nhả" những anh chàng nào xem lợi riêng bằng cái hũ còn lợi chung bằng cái khu tô. Thế mà nay lại nghe Danh nói toàn giọng "đâm hơi" như vậy thì ai mà không cười cho được. Nhưng sau này ngẫm nghĩ cái điều trái ngược ấy chúng tôi mới dần dần hiểu ra tại sao Danh lại tốt và hết lòng lo cho anh em như bây giờ. Đó cũng là cái đầu mối chính của câu chuyện mà Danh kể tiếp sau đây:

    Thế là sau khi cơm nước, cụ bị xong xuôi, mình và Miên xuống một chiếc tam bản xuất hành đúng vào chiều thứ bảy. Đi loanh quanh mấy con rạch bảo mật, bọn mình trổ ra sông to. Bắt đầu gay chèo: Mình ở phía sau, Miên đứng trước mũi. Theo nhịp đều đều, hai đứa thong thả chèo đi. Con thuyền chồm chồm, lướt nhẹ trên dòng nước. Mặt trời đã khuất. Gió sông lên. Sóng lưỡi búa đánh lách chách vào mạn thuyền. Gió thổi tung mái tóc ngắn trên vai Miên. Nói thật, ngày thường mình không chú ý đến Miên lắm. Miên tuy có một nước da mịn và trắng, người đầy đặn, nhưng lúc đầu mình trông có phần cục mịch. Vả lại lúc ấy mình cho rằng Miên suốt ngày chỉ hũ mắm, tép hành, hết nấu cháo cho bệnh thì lại đi bổ củi, khó thông cảm. Nhưng, ở xưởng nhiều anh chàng chết mệt với cô gái mười tám tuổi ấy, có đôi mắt mí lót và cái mồm luôn luôn cởi mở. Người ta khen Miên làm việc chí tình, khen Miên đẹp, nhất là khen đôi chân. Có người bảo đôi chân ấy mà cho đi múa thì phải biết. Mình cho Miên không đẹp. Nhưng tài làm việc và đôi chân của Miên thì mình cũng chịu, không tìm được chỗ nào để mà chê. Quả thật vậy. Gió chiều trên sông thổi ngược. Vạt áo và ống quần bà ba đen dán chặt vào chân Miên bay lật phật. Miên chèo, chân trái bước tới một tí, rồi chân phải nhẹ nhàng đá lên phía trước, thân người nghiêng chênh chếch. Đôi chân đẹp uyển chuyển cứ như nhảy múa trên sạp thuyền. Mái chèo quạt nước xoáy trôn ốc trôi về phía sau.

    Lần đầu tiên mình buột miệng khen lên một tiếng:

    - Chị Miên chèo chân đẹp quá.

    Miên hất tóc về đằng sau. Mình thấy đôi mắt Miên sáng lên và đôi gò má ửng hồng. Miên lúng túng nói một câu như đánh trống lảng:

    - Mai vào rừng, tôi bắt vọp nướng cho anh ăn. Ngọt lắm! Dưới này vọp thật nhiều.

    Khi đó mình cảm thấy trong lòng là lạ: Miên chú ý đến mình từ lâu. Đúng đấy chứ không chủ quan đâu. Chẳng biết sao mà mình lại huýt sáo vang lên và chèo thật mạnh.

    Chúng mình tới Vàm Đầm hơi khuya. Trăng đã xế xuống sát ngọn đước bên kia sông. Buộc thuyền lại chắc chắn, hai đứa lên một trạm gác bỏ trống, trải chiếu ngủ dưới đất. Đêm ấy mình suy nghĩ nhiều. Có lúc ngồi dậy nhìn dòng sông. Chung quanh toàn là rừng heo hút. Nhưng nói thật với các cậu là ma không dám đến.

    Danh cười một tiếng nhỏ, vất tàn thuốc lá ra xa. Đốm lửa bay vút đi như ma trơi, lóe lên rồi rơi ngay xuống.

    Sáng hôm sau, Miên đánh thức mình dậy trước khi có ánh nắng mặt trời. Miên đem cơm nước xuống thuyền rồi đứng lái. Chèo một quãng, chúng mình bỏ sông to và bắt đầu đi vào rừng. Miên đưa thuyền sâu vào những rạch nhỏ, vào các ngã con, quanh qua quẹo lại mà không do dự một tí nào. Có lẽ Miên thuộc lòng vùng ấy. Đến một nơi hơi quang, Miên hạ lệnh dừng lại và sửa soạn để lên rừng. Mình định bỏ quần dài ra và nghĩ lao động thì phải quần đùi, áo cộc cho ra vẻ "con nhà" chứ. Miên đoán được, cúi mặt xuống cười to:

    - Bận vô! Bận vô đi ông ơi! Lên kia ô rô nó quào rách chân hết bây giờ.

    Rồi Miên đến gần lấy chiếc khăn rằn đội lên đầu mình, hai chéo khăn quấn tròn chung quanh cổ thật chặt, chỉ chừa đôi mắt và một phần mặt thôi. Miên lôi dưới khoang ra hai chiếc búa mài kỹ, lưỡi sáng loáng. Mình cầm búa lên.

    Cuộc tấn công vào củi bắt đầu. Miên bước lên bờ đi hăm hở, vừa đi vừa phạt những nhánh con, những dây leo để dọn đường. Mình bỏ thuyền bước theo. Nói ra các cậu đừng cười chứ lần đầu tiên đặt chân xuống bãi sình của rừng U Minh sao mà mình rợn người đến thế! Một cảm giác lành lạnh, kinh kinh từ gót chân chạy lên đầu, sởn gai ốc. Giống như bước xuống một ao bùn nhớp nhúa vậy. Mà còn gay hơn nữa kia. Vì đầy đất là lá gai, cành nhọn, sắc như những mũi dao con. Mỗi bước chân đi, chân lún xuống, lá mục kêu xèo xèo, mùi hôi xông lên khó chịu, ghê ghê như giẫm vào đống phân đã lên men. Mình phải từ từ chọn chỗ đặt chân, khi bước lên một khúc gỗ mục, khi trèo từ rễ đước này sang rễ đước khác. Có lúc hụt chân xiêu bên nọ, vẹo bên kia.

    Miên đã bỏ mình một quãng khá xa. Mình có cảm giác của một đứa trẻ sợ lạc đường.

    - Chị Miên ơi! Đợi tôi với!

    Miên dừng lại. Chờ hồi lâu mình chưa đến kịp, Miên cau mày:

    - Mau lên! Trưa rồi! Làm gì mà cóm róm như bà già đi âm phủ vậy!

    Lần đầu tiên Miên gắt với mình, và mình thấy tự ái. Theo con đường Miên đã phát quang, mình bước bạt mạng. Kể ra Miên nói cũng phải. Đi như thế vừa nhanh vừa vững, lại vừa oai. Mà chẳng mất một tí thịt nào cả. Chỉ có mất cái điệu bộ cóm róm thôi. Mình theo kịp Miên và vung búa phạt cây ra tuồng. Lưỡi búa theo nhịp tay đưa sáng loáng.

    Đã đến chỗ hái củi được, Miên dặn mình lấy cây khô với cây dốt dốt thôi, đừng chặt cây tươi, người ta cấm. Mình nhìn vòng quanh. Nơi đây là một rừng đước con. Cây mọc chi chít, chỗ dày chỗ thưa loạn xạ, có nơi cách nhau hàng mấy thước, có nơi chen người không qua lọt. Đước còn nhỏ, đều đều một loạt bằng cổ tay. Thân cây thẳng tắp, cao chừng bốn năm thước. Trên ngọn là vài cành nhỏ màu xám đỏ, đeo mấy cái lá xanh. Gốc sát đất chỉ bằng ngón tay cái nhưng lên trên vài mươi phân lại có năm, sáu rễ phụ ăn vòng ra, cắm xuống đất mường tượng như những chiếc răng nơm. Lá mục, cành khô, ô rô, cóc kèng. giăng đầy mặt đất. Thỉnh thoảng nhú lên những mầm non đen đen, như lưỡi mèo, hay trên các cành đung đưa vài quả cám bằng nắm tay mốc mốc. Ngước mắt trông lên, sương mù trùm xuống đầy rừng. Trời xanh chẳng thấy. Chọn một cây khô, mình giơ búa chặt mạnh. Nhưng cây quá dòn, lưỡi búa cắt ngang làm mình mất đà ngã chúi. Cây củi dài và cao gãy làm ba bốn khúc rơi xuống quật vào đầu, vào lưng và cả vào đít mình. Mình thì bực quá nhưng cô Miên lại ôm bụng gục đầu vào cây cười ngặt nghẽo làm rung cả đám lá nhỏ trên cành. Cố nhịn cười, Miên chạy đến giằng lấy búa trong tay mình, cắm phập vào một khúc cây to ngã dưới đất. Rồi cô xoa lưng mình:

    - Đau không?Hái bằng tay thôi. Chừng nào cần mới chặt. Anh coi đây này nè.

    Miên bước đến một cây đước khô gần đấy. Đôi chân Miên hơi giạng ra, lấy thế đứng. Tay phải Miên nắm chặt thân cây, chỗ gần gốc. Miên giật gọn một cái, cây củi gãy đánh rắc. Lựa theo đà rơi của cây, Miên đặt nó vào một chỗ đất trống cho thuận đường vác xuống bờ sông. Đôi chân Miên thoăn thoắt bước sang phải, bước sang trái. Đước gãy răng rắc, lần lượt nằm chồng chất lên nhau. Mình nhìn theo bước Miên đi. Kể thì cô làm cũng giỏi đấy, luôn tay luôn chân không nghỉ. Một lát, Miên quay lại:

    - Coi kìa! Làm đi chớ! Sao lại đứng từ bi chi phật vậy?

    Mình mắc cỡ, vội bắt tay làm như Miên. Lúc đầu cũng hăng, bẻ được vài chục cây. Nhưng mình cứ hay nhìn lên tìm tìm kiếm kiếm. Cây bé không muốn hái vì nghĩ chẳng bõ công. Cây to lại cứng, giật không quen nó không gãy. Phải lấy búa chặt. Chặt xong kéo xuống đất lại khó vì cành nhiều, chằng bên nọ, níu bên kia. Có khi cây tươi trụi lá lại tưởng cây khô, sấn tới đẩy, nó quật trở về cho bật ngửa một cái nên thân! Càng làm càng thấy khó, mất tinh thần. Không khí trong rừng âm u, mùi hôi hám khó chịu. Thỉnh thoảng mình lại dừng, uốn éo vài ba cái cho giãn gân, không muốn cất tay nhấc chân lên nữa. Nào đâu ánh mặt trời soi như rẻ quạt- Nào đâu sóc nhảy lon ton- Chỉ có ba con mòng vo ve bay quanh, lâu lâu lại chích cho một cái nhảy nhổm! Còn muỗi đen thì thôi khỏi nói! Khắp mình râm ran ngứa ngáy. Chỗ da mặt để hở sờ lên đã thấy mấy cục mẩn to. Mình cứ trông hết buổi cho xong, nghĩ rằng làm nhiều làm ít cũng là hai đứa, về nhà ai biết đấy là đâu, bị tra khảo gì mà sợ.

    Làm được khá lâu bỗng có tiếng Miên hú lên gọi mình xa xa. Mình đáp lại. Lát sau đã thấy bóng Miên. Miên cởi khăn rằn cầm tay làm quạt. Mấy sợi tóc mềm dán chặt trên trán mướt mồ hôi. Miên vừa lau cổ vừa tươi cười hỏi:

    - Mệt chưa?Được bao nhiêu rồI?

    Mình đưa mắt nhìn đống củi:

    - Nội chỗ đó.

    Miên sa sầm mặt xuống, nói như dằn vặt:

    - Thiệt à?Anh làm gì nãy giờ?Có ngủ gục không?

    Mình tự ái quá, cự ngay:

    - Tôi chưa biết làm, làm ít. Đừng có lên giọng thầy đời mà chửi khéo tôi.

    Miên đỏ mặt lên, môi run run, ánh mắt phát ra những tia giận dữ:

    - Chửi anh thì tôi no béo gì? Sợ anh em ở nhà phải ăn cơm sống thêm một bữa nữa chớ!

    Rồi Miên quay phắt người, quấn khăn lên đầu, thắt thật chặt và bước đi chẳng thèm ngó lại. Mình giận run lên. Giận đến tức thở. Con gái gì ăn nói như dùi đục chấm mắm!

    Dùi đục thật! Nhưng mà là đục vào xương sống của mình! Cho nên sau đó mình phát lên làm bán sống bán chết. Mình hái củi rốp rốp. Cả đến những cây lúc nãy phải chặt bằng búa, lúc này bẻ một cái cũng gãy lọi. Mình quyết tâm làm cho thật nhiều để "xài" lại cô một phen chơi. Chuyện đời! Khi ý mình đã quyết thì khó cũng thành dễ. Tay chân quen dần, nhanh nhẹn thêm. Mắt tinh hơn. óc sáng ra. Từ cây nọ sang cây kia, từ chỗ đặt ôm củi này đến ôm củi khác. mình đều tính toán chi ly, mà chỉ trong nháy mắt. Chuyện ấy Miên làm thế nào bằng mình được. Bởi vậy chẳng bao lâu mà mình đã có năm đống củi. Mình dừng lại. Miệng như ống bể thở phò phò. Mồ hôi ra ướt áo. Nhưng trong bụng thì hả lắm. Mình bỏ củi đấy chạy đi tìm Miên.

    Nghe tiếng chặt gỗ, mình mò đến. Miên đang đứng trước một thân vẹt to bằng ba vòng bàn tay, to bằng cây bọn mình đang ngồi đây (Danh vỗ bộp bộp xuống lưng gỗ). ừ, đúng, bằng này. Chân trái Miên đứng dưới đất, chân phải đè lên giữ chặt lấy cây cho nó khỏi lăn, hai tay cầm chót cán búa đưa lên cao chặt chếch xuống về bên trái. Mỗi nhát búa giáng vào gỗ lại có một tiếng "hự" kèm theo. Miên đã tháo tung khăn rằn ra. Trên thái dương, một dòng mồ hôi theo tóc mai chảy dài xuống má, đến tận cằm. Mái tóc ngắn cứ rũ xuống lại bị hất lên, không che nổi đôi má đỏ hây hây và bộ ngực căng đầy sức sống. Lưỡi búa sáng bay loang loáng nhịp nhàng. Cây gỗ sợ hãi kêu "cum, cum" vang cả rừng một góc. Nhìn Miên chặt gỗ, bao nhiêu cái giận của mình tan đâu mất. Mình gọi to:

    - Miên đứng ra! Để đấy!

    Mình nhổ nước bọt vào tay, chặt cật lực. Mảnh gỗ vàng phơn phớt liên tiếp văng ra. Miên chống búa quệt mồ hôi trán đứng nhìn mình. Và cô cười. à! Thế mới được chứ! Cô phục lăn chứ không à?

    Miên bảo với mình là cây gỗ ấy có người đã đốn xuống, nhưng chắc vác không nổi nên bỏ đấy. Định chặt lấy một khúc dài độ ba thước mang về, chụm được và lợi hơn củi nhỏ gấp mấy lần.

    Và Miên liếc nhìn mình, mỉm cười nói đùa:

    - Lát nữa phải "hợp tác xã" lại mới khiêng nổi.

    Dứt xong đoạn gỗ thì mặt trời cũng gần đứng đầu. Bọn mình trở về thuyền vì đã thấy đói. Bữa ăn thiệt ngon: cơm nếp còn nóng với mắm lóc chưng có hành, tiêu và tóp mỡ. Cơm xong, Miên rửa mặt, chải đầu. Còn mình cứ nằm khoanh trên sạp thuyền mà hút thuốc lá. Nhìn lên, sương mù đã tan từ bao giờ. ánh nắng trưa ấm áp xuyên qua kẽ lá, cành cây, chiếu vào những quả vẹt đung đưa, màu xanh loang loáng. Rễ đước dài, nâu xám, to bằng ngón chân, từng khúc nối nhau rũ xuống đầy mặt nước soi những chiếc đầu tròn. Con lạch màu đỏ đục, cuồn cuộn phù sa. Thỉnh thoảng, từ trên rừng, một khe nước trong reo reo chảy xuống. Cá thòi lòi giương kỳ, giương mắt chạy xèn xẹt trên mặt nước như đánh thia lia. Quanh bộp dừa, ốc len bám đầy, quơ râu xanh xanh đỏ đỏ. Loáng thoáng có vài con vọp lớn nằm phơi trên bãi chiếc vỏ mốc đen. Gió rung lá đước lào xào. Bọn mình cắm thuyền dưới bóng cây. ánh nắng vẽ trên áo bà ba của Miên những hoa vàng lốm đốm. Nói tóm lại với các cậu là "cảnh vật rất hữu tình".

    Miên cảm hứng hò khe khẽ như cho mỗi một mình nghe:

    Vắng cơm năm bảy bữa anh không phiền

    Vắng em một bữa anh đau liền tương tư

    Tương tư đắp chiếu, trùm mền,

    Mua con tép bạc nấu canh rau dền anh ăn.

    Các cậu biết không! Khi mình nghe Miên hò câu ấy thì có thể gọi là "chết được". Giọng Miên trong trẻo và tình tứ, nhẹ nhàng ngân vang trong lặng lẽ của rừng trưa. Mình cứ muốn nằm mãi trên thuyền mà nghe Miên hát. Khỏi cần dài dòng, chắc các cậu cũng rõ tình cảm của mình lúc ấy.

    Chải xong đầu, Miên quay sang:

    - Anh ngó ra trước đi. Tôi rửa chân một chút.

    Mình bảo "được rồi!" và lấy nón lá úp lên mặt, cố nhắm mắt lại ngủ. Nhưng trời xui khiến một luồng gió thổi tới tốc nón rơi xuống sông trôi về phía sau. Mình nhổm ngay dậy và thấy Miên đang duỗi chân phải ra vớt lấy nón. Cả đôi chân trắng nõn, nổi bật trên dòng nước hồng hồng.

    Kể đến đây, Danh đột nhiên dừng lại hấp tấp xin thuốc lá. Một đứa trong bọn tôi vội vàng móc túi nhái đưa cho. Tay Danh run run quấn rất lâu không được một điếu. Tôi lấy làm lạ và đem hết sức mình để tưởng tượng xem đôi chân trần ấy đẹp đến mức nào. Đẹp vì đường nét hay đẹp vì màu da mà đã bảy năm nay rồi còn làm cho "Danh cua" của chúng tôi xúc động đến thế được. Tôi đang phân vân thì Danh đã châm xong thuốc lá và tiếp tục câu chuyện:

    Sau đấy mình ngủ quên một lúc. Nghe động thuyền và có tiếng gì lộp cộp rơi xuống khoang, mình tỉnh giấc. Hóa ra là một đống vọp. Miên cất nón lá rồi gọi mình đi vác củi xuống thuyền. Thú thật, lúc đó mình buồn ngủ sật sừ, hết muốn ngồi dậy. Tay và nhất là bả vai đau ê ẩm. Những chỗ gai quào ở chân thấm rát. Đôi chân nặng trình trịch như đeo đá, khó bề nhấc lên. Mình có cảm giác như tất cả máu trong người đều dồn hết xuống hai chân vậy.

    Miên nhìn mình có vẻ ái ngại:

    - Đi đi anh. Vác hết củi xuống rồi về, chớ nằm đây hoài sao-

    Mình nhớ lại "kinh nghiệm" ban sáng nên cố gắng mở mắt ra. Cứ kể sau khi làm mệt, được ăn no, ngủ một tí, thì cũng thích nằm đấy. Nhưng nghe Miên nói, mình nhớ lại mục đích cuối cùng của hai đứa là kiếm củi về cho anh em chứ có phải đi rừng chơi đâu, nên mình ngồi dậy bước lên bờ theo Miên.

    Có lẽ mình ngủ cũng lâu vì Miên đã rút dây cóc kèng bó chặt hết các ôm củi. Mình khom người xuống, vác bó đầu tiên lên vai và theo đường trở lại bờ sông. Nói ra thì xấu hổ chứ quả là lúc ấy sợ thật. Mình nghĩ rằng có cho bẻ đước một ngày cũng không sợ bằng vác vài ba chuyến! Đường xuống bến gần nhất là vài trăm thước. Bó củi đè nặng vai đau buốt. Mỗi bước đi, chân lún sâu xuống sình rút lên thật khó, cứ ngã tó ngã xiêu. Khổ một nỗi nữa là bó củi dài, đường thì hẹp lại cong cong quẹo quẹo, vì cây rừng nó có mọc ngay hàng cho mình đi đâu. Bởi vậy cứ xoay bên này mắc cây, quay bên kia vướng rễ, lướng ca lướng cướng mãi. Đau vai quá, mình dựng ôm củi lên rồi đưa lưng vào cõng. Nhưng đi như thế thì đầu lại cúi xuống không trông thấy đường có khi đầm sầm vào cây dội ngược. Vì vậy cứ đi chừng mười thước mình lại đặt xuống nghỉ. Gần đến bến, thấy Miên đã có hai đống củi rồi. Miên gọi to, nửa như khuyến khích, nửa như chê trách.

    - Cắn răng lại! Nín thở đi một hơi mới được nhiều! Cứ nhứt bộ nhứt bái thì tới tối cũng chưa xong đâu!

    Mình đến nơi, hất củi xuống một cái "bịch", thở phào. Nếu có gương mà soi thì chắc mặt mũi bèo nhèo như con mèo ướt. Miên bụm miệng không dám cười lớn. Mình giận lắm, chẳng thèm nhìn cô, đứng lật áo xem vai. Nó đã đỏ ửng. Miên đến gần đặt tay lên vai mình. Cô chu mỏ lại giả vờ xuýt xoa:

    - Ui cha! Tội nghiệp quá! Da giấy!

    Rồi Miên bật cười khanh khách. Mình giận cành hông, quầy quả bỏ đi lên. Miên kéo tay mình lại:

    - Khoan đã! Đi khiêng khúc vẹt đi. Không chút nữa mệt, khiêng không nổi.

    Mình không thèm trả lời, cứ đi theo Miên. Hai đứa đến bên khúc củi. Miên ghé vai vào phía trước và ngồi chịu cây gỗ cho mình nâng phía sau lên.

    Về sau, nhớ lại những khi Miên chịu nặng thay mình ấy, tim mình cứ nhói lên, yêu Miên không biết chừng nào. Nhưng lúc đó mình ngu dại quá, không hiểu được những chuyện bình thường như vậy. Tay phải Miên giữ cây gỗ trên vai, tay trái chống gối đứng dậy. Mình thấy đôi chân Miên run run. Hai đứa bước đi rất khó nhọc. Miên ngoẹo đầu bước sang một bên, cây gỗ sần sùi áp chặt vào má, cắn vào vai, mỗi bước đi, chân cứ phải xoạc ra loạng choạng. Mà mình thì chậm nên làm trở ngại cho Miên rất nhiều. Có khi Miên bước tới nhưng vì vướng mình nên phải bước lui. Miên nói hổn hển qua hơi thở:

    - Nhanh lên! Anh chậm như rùa.

    Lúc ấy sao đầu óc mình ngu xuẩn đến thế. Miên muốn làm chóng xong, đem củi về cho anh em. Còn mình thì muốn làm từ từ "cho khỏe cái thân một chút" nên nghe Miên gắt mình tự ái ghê lắm: "Lúc nào cũng nhanh lên. Không thèm nhanh! Giỏi thì cứ nhanh đi!"

    Tuy thế, cuối cùng hai đứa cũng đến bến. Mình muốn quẳng ngay khúc gỗ xuống cho rồi, nhưng Miên đã biết ý, nói trước:

    - Đi luôn! Đem xuống luôn!

    Mình giận quá! Không cho người ta nghỉ, cứ đi luôn, đi luôn! Bộ cẳng cây sao chớ-

    Lúc đó chân phải của Miên vừa bước xuống thuyền, chân trái còn trên bờ. Chiếc thuyền bị đẩy, lướt sào trôi giạt ra. Miên la lớn như đứt hơi:

    - Bước tới! Nhanh lên!

    Mình đã quen với tiếng "nhanh lên" của Miên nên cũng không chú ý lắm.

    Và một chuyện đã xảy ra như trong mơ. Miên mất đà ngã dúi, cây gỗ từ trên rơi mạnh xuống, dưới là be thuyền, ở giữa là chân phải của Miên. Mình chỉ nghe rắc một cái cùng với tiếng kêu:

    - Trời ơi! Cái chân em!

    Trong ánh nắng chiều, tiếng kêu đau đớn vang tận rừng già, vọng tới trời cao, âm thanh ào ào vang đi vọng lại!.

    Giọng Danh lạc hẳn không còn ra tiếng nữa. Tôi liếc nhìn sang, môi Danh mấp máy như một người sắp khóc. Danh tì hai cánh tay lên đùi, hai bàn tay dày vò lấy nhau, đầu cúi xuống như một phạm nhân đang nghe kêu án mình trước vành móng ngựa. tôi rùng mình, khắp người gai ốc nổi lên. Một anh bạn đang mân mê bật lửa, tự nhiên cầm gõ thật mạnh vào cây gỗ chúng tôi đang ngồi. Bỗng đột nhiên Danh hỏi:

    Các cậu có bao giờ nỡ nhẫn tâm vô cớ mà vác gậy đánh gãy chân một người vẫn yêu và lo lắng cho các cậu chưa! Lúc ấy Miên kêu lên, mình mang máng có ý nghĩ ấy. Đúng thế không sai! Sau này mỗi lần ôn lại lòng mình cứ như có một bầy quạ đang rỉa rói.

    Mình nhớ khi đó chiếc thuyền trôi đi, lôi cả Miên theo, mình vội nhảy xuống như người mất hồn, gỡ chân Miên ra, xóc Miên từ dưới nước lên thuyền. Miên bị đau và sặc nước: ngất lịm đi. Mình để Miên tựa vào ngực, giật tóc mai gọi mãi mới tỉnh.

    Vừa mở mắt ra, Miên đã nhổm dậy vén quần lên nhìn chân. Giữa ống chân, còn hằn sâu đỏ bầm một vết be thuyền, thịt da không nở lại được. Miên dùng hai tay nhấc lên, phía dưới chân cứ oặt òa oặt oại.

    Mình giật thót mình, mặt nhăn rúm, mồ hôi và nước rừng đọng lại trên trán lấm tấm. Đôi mắt Miên nhìn mình:

    - Nó gãy thật rồi anh à!.

    Trong câu nói của Miên có cái gì vừa oán trách vừa yêu thương, vừa xót xa, vừa nhẫn nhục. Miên ngoảnh mặt đi, nhìn thấy đống cây trên bờ, chặc lưỡi một cái nghe như xé ruột, xé gan. Mình vuốt tóc Miên an ủi và định giúp Miên thay quần áo. Miên xua tay:

    - Anh lên vác củi đi. Thay một mình được.

    Mình không thiết gì củi nữa, đứng dậy ra phía sau nhổ sào chống thuyền đi. Nếu có thể hóa thành ngựa mà chạy được thì mình cũng vui lòng làm ngay để chóng đưa Miên về nhà.

    Lúc ấy Miên nằm nghiêng về một bên trên thuyền, chống thẳng cánh tay trái, người rướn cao lên, tay phải nắm chặt lại trỏ về phía trước. Thật chẳng khác gì người chỉ huy dũng cảm bị thương đang giục giã những ai còn bo bo lo cho cái "bổn mạng" của mình, hãy nghe lệnh xông lên đạt mục đích cuối cùng:

    - Quay lại! Tôi bảo anh xuống củi mà!!!

    Miên hét to quá đến nỗi chiếc sào tụt khỏi tay mình rơi đánh chát trên mặt nước. Mình giật bắn người, cúi nhặt chiếc sào lên. Các cậu ạ, mình đã hiểu Miên rồi và nghĩ rằng phải đem hết củi về dù có gục tại đây cũng được. Mình cắm thuyền thật chặt và nhảy ngay lên bờ, vút đi, vừa vác củi vừa chạy không còn kể gì gai góc nữa.

    Danh ngừng chuyện, đằng hắng mấy cái, rồi lấy tay vuốt mớ tóc "cua". Tôi chẳng có ý định an ủi gì nhưng tự nhiên cứ cầm lấy tay Danh. Tôi mân mê những vết chai cứng giữa lòng bàn tay còn thơm mùi dầu máy như vẫn thường mân mê những chiếc pít tông sáng loáng đã qua mấy nghìn vòng máy tiện. Danh cứ ngồi lặng im. Cuối cùng, tôi đành phải hỏi:

    - Chân Miên sau rồi ra sao?

    Danh ngước nhìn lên trời như sợ rơi cái gì trong khóe mắt. Một lúc Danh mới đáp:

    - Sau rồi phải cưa đi. Cưa ngang đây.

    Danh vén quần lên, bàn tay trái đưa ngang qua ống chân phải, chỗ gần đầu gối:

    - Vì hoàn cảnh kháng chiến, thiếu thuốc, thiếu thầy, chạy chữa không khỏi.

    Trong bọn tôi, có một tiếng thở dài như rứt thịt.

    Tôi buột miệng hỏi:

    - Thế Miên đã có chồng chưa?

    - Có chồng rồi.

    - Có con chưa?

    - Có con rồi.

    Như lúc đầu, Danh lại moi moi lục lục cái túi áo và móc ví chìa cho chúng tôi xem một bức ảnh:

    - Vợ mình đây này.

    Tôi đánh diêm lên. Giấy ảnh cũ, sờn cả góc, nhưng ánh lửa chập chờn vẫn soi được rõ ràng một người con gái tóc ngắn, miệng cười rất xinh, đang bế một chú bé con bụ bẫm. Bức ảnh không chụp đến chân. Lật phía sau, có mấy dòng chữ:

    "Anh ra Bắc rán làm. Đừng quên mẹ con em".

    Dưới ký tên Miên và đề tháng 11 năm 1954.

    Trả lại Danh tấm ảnh, bọn chúng tôi lặng lẽ ngồi sát vào nhau. Gió cứ rứt dây điện kêu hoài, vi vu, vi vu. Tận dưới xa kia, dòng sông Hồng vẫn trôi xuôi, lấp lánh.

    1959
     
  7. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Ngày Tết về thăm quê - Nguyễn Khải

    Hôm ấy là ngày 29 Tết, những ngày cuối chạp u ám, buốt giá và buồn tẻ. Tôi từ bến đò qua đê đi tắt ruộng xiên chéo một đường thẳng đến tận đầu làng. Bốt Chi Điền cách làng năm mươi thước. Ngày tôi đi bốt mới xây xong, có bốn lô-cốt chìm, một lô-cốt nổi cao ba bốn tầng, trên mỏm bắc một khẩu đại liên, bây giờ cỏ mọc xung quanh bốt xanh um, dây thép gai gỡ dỡ cuộn lại từng đống nhớn nhỏ, tầng trên cùng của lô-cốt nổi sạt đi đâu mất, tường chằng chịt vết đạn. Cây gạo cổng làng đã đây rồi, nhưng rõ là không phải cây gạo ngày xưa mà bóng cây che tối cả mấy khoảnh ruộng, trâu bò buộc dưới gốc đen kín, mùa đình đám thì kết nụ, cuối xuân hoa nở đỏ rực như đốt lửa, bây giờ các cành của nó đã bị ai tiện cụt, chỉ còn trơ lại một cái thân chọc thẳng, trùi trũi. Làng tôi rất nhỏ, chỉ có hơn trăm nóc nhà, phong cảnh chẳng có gì đáng để ý, nhân dân chỉ còn hãnh diện ở ngôi đình Cả và lai lịch của ông Thành hoàng. Tục truyền, tám ông Thành hoàng ở vùng này là tám anh em do một mẹ đẻ ra. Ông Thành hoàng làng tôi là anh Cả. Trong đám rước, long đình ông Cả đi đầu, cao nhất, đẹp nhất. Trong làng không có nhà nào có đến năm mẫu ruộng, nhưng mọi người đều tự hào: tuy nghèo kiết nhưng vẫn là nền anh. Những tay đầu bò đầu biếu say rượu đi cà khịa đánh nhau với người thôn bạn phần nhiều họ đều nhường cả. Nhưng cái điều đáng tự hào nhất của dân làng bây giờ cũng không còn nữa. Ngôi đình Cả tiều tụy không khác gì một túp lều rách, hai đầu hồi đình bị đại bác phá tung, mái ngói tróc nham nhở như người đánh vẩy cá. Vào trong làng cảnh tượng càng chán ngán hơn, chỉ thấy những tường đất xếp ngổn ngang, những túp rạ co kéo, tranh giành nhau, những bụi tre mới nhú phờ phạc và từ khối hỗn độn ấy xông lên mùi ẩm ướt, hôi mốc. Đến chỗ rẽ về ngõ nhà tôi có một chị to béo, khăn vuông che gần kín mặt, từ đám ruộng cấy cần bước lên đi trước tôi vài bước. Trông dáng người tôi nhận ngay ra chị Vườn. Tôi mừng quá bước nhanh đến ngang chị khẽ hỏi:

    - Chị vẫn khỏe!

    Chị dừng lại nhìn tôi thoáng một cái rồi trả lời:

    - Các anh về chơi. Cảm ơn anh tôi vẫn khỏe.

    Rồi chị cắp rổ cần bước ngoắt đi. Biết là chưa nhận được ra tôi, tôi vừa cười vừa gọi lại:

    - Chị Vườn ơi, tôi đây mà!

    Lập tức chị quay phắt lại, nhìn tôi một lần nữa rồi kêu lên:

    - Anh Cu phải không?... Thế mà không nói ngay, cứ ngỡ là ông khách nào.

    Tôi nhìn chị:

    - Trông tôi lạ lắm à. Chị thì vẫn như xưa.

    Chị Vườn cứ đứng ngắm tôi từ đầu đến chân, miệng tủm tỉm cười:

    - Cao lớn quá. Thoáng trông không thể nào nhận ra. Mới ngày nào nhỉ... à, để tôi gọi ông Kinh cho ông ấy mừng.

    Thế là chị cắp cả rổ cần, quần vẫn để xắn đến bẹn, chân đầy bùn, chạy vào ngõ nhà tôi, réo ầm ĩ:

    - ối ông Kinh ơi! Anh Cu về kia kìa. Ra mà nhận mặt ông em!...

    Ngày tôi đi bộ đội chỉ có ủy ban xã biết, còn đến anh tôi cũng không hay (thầy u tôi mất sớm, từ ngày bé tôi vẫn ở với anh). Năm ấy chị Vườn là thôn đội phó du kích. Chị cho quần áo của tôi vào cái thúng khảo đội lên đầu đi qua bốt, còn tôi tay cầm thuổng, lưng đeo giỏ như người đi đào chuột đi tắt ruộng đón đường. Khi chia tay, chị nắm lấy tay tôi dặn: "Nhớ đến thù làng mà giết cho nhiều Tây nhé!". Hôm nay lại gặp chị và tôi tự xét không đến nỗi hổ thẹn với lời dặn của chị năm xưa. Anh tôi đương phát rào ở ngõ, nghe nói em về vứt cả dao, chạy ra đón. Thấy tôi, anh ôm chầm ngay lấy, vừa khóc, vừa nói:

    - Chú Cu về đấy à. Anh tưởng chú lại đi mãi đâu rồi... Sao chẳng chịu thư từ gì cho nhà biết cả.

    Tôi nhìn lại anh tôi, sao anh có thể già đến thế. Ngày tôi đi anh cao lớn hơn nhiều, tính lại nghiêm nên tôi càng thấy mình bé bỏng, trẻ con. Bây giờ râu anh mọc sồm soàm, người choắt lại, đứng chỉ có đến tai tôi, mặc cái áo bông rách, quần ống thấp ống cao trông càng tiều tụy. Anh thấy tôi to lớn, đĩnh đạc khác xưa nên cứ luẩn quẩn đi bên cạnh, nói đi nói lại:

    - Chú, chú khỏe chứ. Thật không ngờ Tết này chú lại về.

    Bà chị dâu đi chợ vắng, các cháu đứa đi cấy, đứa đi học. Hai anh em vừa nói với nhau được vài câu chuyện thì người kéo vào đã đầy nhà, vừa họ hàng, vừa hàng xóm láng giềng nghe tin tôi về nên chạy lại xem mặt. Tôi lấy ở trong ba-lô ra một gói kẹo, một bao thuốc lá, mời từng người, trẻ con thì ăn kẹo, các cụ, các ông hút thuốc, còn các bà, các chị cứ mủm mỉm cười: "Gớm, anh Cu bây giờ giàu nhỉ. Mua quà đãi khắp làng". Mọi người đều khen tôi to lớn, trắng trẻo, đẹp trai hơn ngày ở nhà, và hỏi tôi đã xây dựng gia đình ở đâu chưa, có định cưới vợ ở làng không để còn liệu manh mối, chị Vườn lúc ấy mới nói thật:

    - Ngày anh đi trông người cứ bé choắt, tôi cứ chắc mẩm thế nào cũng phải về lộn. Năm ấy anh mới mười bảy nhỉ?... Ai ngờ...

    Tôi nói:

    - Nhờ có chị khuyến khích tôi, lại mang giúp quần áo nên nay tôi mới trở thành người bộ đội. ?n chị tôi vẫn nhớ.

    Chị vẫn cười to như xưa:

    - Ai dám nhận ơn của anh. Bây giờ anh là anh hùng quân đội, đi đây đi đó người ta hỏi quê anh ở đâu thì trả lời quê tôi ở làng Chi Điền, huyện Nam Sách, như thế cũng đủ mát mặt chúng tôi rồi.

    Trong khi nói chuyện tôi để ý ở góc cửa có một chị trông rất quen mặt, nhìn vài ba lần thì nhận ngay ra là cái Miều, con ông anh họ. Ngày trước, tôi với nó vẫn đi cắt cỏ trâu với nhau, nó mới mười bốn tuổi mà cao hơn tôi cái chỏm đầu, nhưng chỉ được cái lưng dài còn làm ăn đến đuểnh đoảng. Có hôm gánh cỏ về, đường mưa trơn, nó cứ bấm chân xuống đất không dám bước, rồi khóc hu hu. Tôi tức mình mắng nó: "Người cứ đuỗn như con cá rô đực, gánh có gánh cỏ mà cũng khóc, mày thì rồi chó nó lấy". Rồi tôi san một nửa gánh cỏ của nó sang tôi. Bây giờ nó lại có vẻ thấp hơn trước, người béo đỏ mập mạp, trông đẹp gái và gọn ghẽ, lại thấy nó bế một thằng bé chừng lên hai, lên ba tuổi. Tôi hỏi nó:

    - Cái Miều đấy hử?

    Nó nói như dỗi:

    - Giờ chú mới nhận ra cháu đấy à. Sao chóng quên thế.

    Tôi chống chế:

    - Quên đâu mà quên... Mày bế con ai thế?

    Nó toét miệng cười. Tôi gắt:

    - Cười cái gì. Con ai đấy?

    Nó ngoảnh mặt đi, lấy tay che mặt, tiếng cười càng to.

    Anh tôi bảo tôi:

    - Con nó đấy. Con lên ba rồi. Rõ chú với cháu.

    Lúc ấy nó cũng đặt thằng bé xuống, đun vào giữa nói:

    - Vào với ông, ông đấy, vào ông cho kẹo.

    Tôi đưa cho đứa bé một cái kẹo, định bế nó, nhưng nó quay ngoắt ra ôm lấy cổ mẹ đu lên, rồi quay lại nhìn tôi lấm lét:

    - Anh bộ đội, anh bộ đội cho kẹo...

    Miều ôm lấy con phát vào đít:

    - Láo, ông mày đấy... ra lạy ông đi. Lạy ông... ạ... Cháu là con mẹ Miều cháu đấy ạ...

    Mọi người cười ầm lên. Bỗng vòng người ngồi ở hè giãn ra nhường lối cho một ông cụ tóc bạc phơ bước vào. Tôi nhìn lên: kìa chú tôi. Tôi đứng dậy đỡ lấy chú.

    - Lạy chú, chú sang chơi.

    Chú tôi năm nay phải hơn tám mươi tuổi. Trước ngày tuy tôi làm ăn ở nhà anh, nhưng đêm đêm lại vác chiếu sang nhà chú ngủ. Chú thương tôi mồ côi bố mẹ, lại làm ăn vất vả nên rất chiều. Chú chỉ có một người con trai ra làm trưởng thôn được hai năm thì bị địch bắt đem dìm chết ở ngay cái giếng xóm trên. Thằng Thâm là cháu nội nhưng lại phải đi ở cho người làng khác, đêm đến chỉ có hai chú cháu tôi ngủ ở nhà. Chú nằm gác chân lên tôi kể chuyện làm ăn chán rồi lại lẩy kiều, hát chầu văn cho nghe. Người chú rất lắm rận, đêm rận bò sang tôi đốt cứ ngoay ngoáy, gãi đến phát ghẻ, nhưng không đêm nào tôi không mò sang đấy ngủ để được chú ủ ấp, an ủi. Chú nhìn tôi rất lâu, mắt nhấp nháy, rồi đưa tay lên quệt nước mắt, mãi mới nói được: Tao tưởng mày bỏ làng rồi đấy. Mày ghét chúng tao lắm phải không? Cứ đi biền biệt như người giận dỗi cái gì...

    Thấy chú khóc, tôi cũng ứa nước mắt. Chú lại lẩm bẩm:

    - Sao cũng may tao còn sống để được trông thấy mày.

    Rồi chú hỏi tôi:

    - Bây giờ mày đổi tên là Đức Song phải không. Song hay là Sang. Tao thấy ảnh chụp anh hùng Đặng Đức Song thì đúng là mày. Anh tôi đỡ lời:

    - Chú nó đấy ạ. Hồi ở nhà chú ấy cũng đã đổi là Song rồi nhưng không ai gọi.

    Tên tôi ngày bé là Sang, song vì trùng tên với con cháu nên người làng cứ gọi tôi là anh Cu. Sau anh tôi phải đổi tên tôi là Song. Ra bộ đội tôi mới thêm chữ Đức đệm giữa: Đức Song.

    Cái Miều đứng ở ngoài nói chõ vào:

    - Chốc nữa chú Song ra mà xem ảnh chú treo ở phòng thông tin ấy. Đẹp, đẹp là... tha hồ mà đắt vợ.

    Tôi phải lườm nó một cái nó mới chịu ngồi thụp xuống nhưng vẫn cười rúc rích.

    *
    * *

    Bữa cơm trưa 29 đã có mùi vị Tết. Dưa nén, hành nén, thịt gà luộc. ?n xong tôi sửa soạn định lên đình gặp ủy ban thì có tiếng nói từ ngoài cổng:

    - Chú Song còn ở nhà không?

    Tôi ngó ra thấy thằng Thâm bế con đi vào sân. Thấy tôi nó chạy vội lên hè, cầm lấy tay tôi lắc lắc:

    - ?i, chú hơn tuổi cháu mà chú còn trẻ quá, cháu hóa già hơn chú rồi.

    Tôi nhìn lại quả nó biến đổi nhiều quá. Ngày trước nó vào loại đẹp trai của làng, có bộ ngực nở và hai cánh tay rắn chắc. Nhiều cô mê nó cứ đi mua thuốc lào biếu nó hút. Thành thử nó là tay nghiện nặng, tiền không mất một xu mà vẫn có thuốc hút quanh năm. Nay nó già hơn tôi thật, tóc lờm sờm, gò má nhô lên xanh nhợt, mắt trũng sâu lờ đờ.

    Nói chuyện được một lát, tự nhiên nó bảo tôi:

    - Cái Cún con nó lấy chồng rồi chú ạ.

    Tôi cười:

    - Mới lấy à?

    - Lấy nhau cũng được hơn ba năm rồi, đã gần có ba con.

    Tôi chép miệng.

    - Nhanh nhỉ.

    Thâm nhìn tôi, rồi hắn nói hơi buồn buồn:

    - Kể ra ngày con gái cô ấy cũng đẹp thật, cháu đã định ướm hỏi đám ấy đấy, nhưng... sau nghĩ là của chú nên cháu lại thôi.

    Tôi đỏ mặt:

    - Ai bảo mày thế, bạn chăn trâu thôi, chứ đã có tình ý gì đâu.

    Thâm càng có vẻ tiếc rẻ:

    - Cháu cũng nghĩ như vậy, vì từ ngày chú đi chẳng gửi về cho cô ấy lá thư nào cả. Nếu có vấn đề gì thì ít ra cũng phải có hứa hẹn với nhau chứ... thôi việc nó cũng đã qua rồi.

    Thâm bế con cùng lên đình với tôi. ở đình có lớp học ngắn ngày của các cán bộ trong toàn xã, gồm những người bị xử trí oan vừa được trả lại tự do và anh chị em cốt cán trong cải cách. Tôi vừa bước vào sân đình thì ông Hợp thoáng trông thấy tôi. Ông ngừng nói chuyện rồi chạy ra:

    - Chú Song, chú đã về chơi đấy ư?

    Trông ông vẫn như xưa, cái mũ nồi rách ở chỏm để lòi cả tóc, một mắt bị kéo màng trắng, còn một mắt rất tinh nhanh, hàm răng trên vàng khè ám khói thuốc lào, hơi nhô ra, khi cười rất độ lượng và hiền lành. Ông nắm tay tôi hỏi:

    - Chú được về chơi bao nhiêu hôm?

    Khi biết tôi được về phép có một tuần, ông chặc lưỡi:

    - Kể ra xa nhà năm sáu năm về chơi được có một tuần thì cũng còn ít. Nhưng nhiệm vụ quân đội thì...

    Rồi ông lôi tôi vào trong đình, mọi người xôn xao lên: "Kìa anh Cu, nghe tin về từ sáng kia mà". "Trông chững chạc nhỉ". Ông Hợp tươi cười đun tôi ra phía trước giới thiệu:

    - Tôi xin giới thiệu một người của làng ta, một người làm vinh dự cho quê hương ta là đồng chí Đặng Đức Song, Anh hùng quân đội... Đồng chí...

    Ông chưa nói hết mọi người đều đứng dậy vỗ tay hoan hô. Tôi liếc nhìn thoang thoáng toàn là những cán bộ cũ của xã, có thêm ít người mới, chắc là anh em cốt cán. Ông ra hiệu im lặng, rồi nói tiếp:

    - Đồng chí Song là anh hùng Điện Biên Phủ, nghĩa là có rất nhiều chuyện về Điện Biên. Tôi đề nghị hôm nào Tết ra xã sẽ tổ chức cho đồng chí Song nói chuyện với bà con trước khi về đơn vị.

    Sau ông dắt tôi xuống nhà dưới nói chuyện. Tôi móc túi lấy bao thuốc lá để trên bàn. Ông nheo mắt, bóc thuốc lá cười:

    - Độ này cũng hút thuốc lá kia à?

    - Không, ngày Tết thì mua về vài bao hút cho vui.

    - Thế nào, chú còn nhớ những chuyện hồi còn kháng chiến không. Tôi vẫn nhớ ơn chú đấy nhé. Lắm lúc nghĩ lại thấy mình còn sống được đến bây giờ kể cũng giỏi thật.

    Nhân vui chuyện ông nhắc lại thời kỳ hoạt động cũ. Hồi ấy ông là bí thư của chi bộ Đảng ở xã, nhiều ngày ông đến nằm ngay trong buồng nhà anh tôi để nắm tình hình lính bốt. Những ngày ấy, tôi cứ chăn trâu luẩn quẩn bên ngoài, đến bữa cơm lại đưa cơm vào, có động làm hiệu báo. Có hôm ông mót đái quá liền đục một lỗ nhỏ ở vách sau cho nước tiểu thông ra, ai ngờ nước chảy xuống nền nhà không thấm ngay mà lại kéo thành một đường thẳng chạy ra vườn. Tôi chợt đến thấy thế vội vàng lấy tro đổ lên rồi quét đi, vừa xong thì bọn lính bốt sục tới. Sau biết chuyện ông Hợp cứ khen mãi: "Thắng Song nó bé mà lại tinh khôn hơn mình, suýt nữa thì chết cả lũ". Chuyện cũ chán, ông cho biết tình hình sửa sai của xã, bây giờ ông lại về nhận nhiệm vụ bí thư Đảng như cũ, kỳ vừa qua ông cũng bị xử trí oan, đi tù mất mấy tháng. Lúc chia tay ông dặn tôi:

    Hôm nào chú lại đằng nhà ăn bữa cơm rau muối với vợ chồng tôi, tôi sẽ cho chú biết thêm tình hình của xã nhà. Tôi chắc chú sẽ góp được nhiều ý kiến hay.

    Tôi hơi ngượng nghịu:

    - Tôi thì còn có ý kiến gì.

    Ông trợn mắt:

    - Xưa chú khác, bây giờ chú khác. Chú tưởng hễ đi bộ đội là không có trách nhiệm gì về phong trào của xã nữa à. Nhớ hôm nào lại chơi nhá...

    *
    * *

    Sáng hôm sau tôi dậy sớm đi thăm nhà bà dì em ruột u tôi ở xóm trại. Bà có hai con trai là thằng Cớn và thằng Cởn, một đi bộ đội, một vào du kích, cả hai đều đã hy sinh. Bây giờ bà chỉ còn một người con gái, nhưng vẫn ở riêng vì đứa con rể ăn ở với mẹ vợ chẳng ra gì. Ngày tôi còn ở nhà bà thương tôi như con đẻ, vẫn cứ bảo xuống ở dưới ấy nhưng anh tôi không bằng lòng. Mỗi lần đi chợ bán được một món hàng gì, bà lại rẽ vào gặp tôi, cởi vạt áo khi cho một đồng, khi cho vài đồng. Bà đang xay thóc, cái váy mặc vá chằng vá đụp, hai ống chân gầy choắt khô khỏng. Tôi rón rén đi đến đứng sát đằng sau, khẽ nói:

    - Dì đưa con xay đỡ cho nào.

    Bà giật mình quay lại thấy tôi ngơ ra một lát rồi vừa chửi vừa khóc:

    - Cha ******, mày đi bộ đội mà không thèm nói với dì đến một tiếng. Mày về bao giờ thế hả con... Vào trong này.

    Bà cầm tay tôi nắn bóp, rồi lại sờ mặt tôi, nắn đùi tôi, nước mắt cứ giàn giụa.

    - Bây giờ tao chỉ còn có mày, thằng Cớn, thằng Cởn nó bỏ tao nó đi, mày mà bạc nữa thì tao biết ở với ai.

    Tôi an ủi dì:

    - Con coi dì cũng như u con, bây giờ con về là vui rồi sao dì lại khóc cho nó thêm buồn ra.

    Dì tôi chùi nước mắt, hỏi tôi về chơi được bao lâu, và muốn giữ tôi ở dưới này ăn Tết. Dì đem nải chuối vừa dấm chín ra bảo tôi ăn rồi nói:

    - Này, cái Cún con nó lấy chồng rồi. Đến hoài, con bé vừa đẹp người lại đẹp nết.

    Tôi thẹn quá nên nói có vẻ không cần:

    - Cô ấy lấy chồng mặc cô ấy chứ.

    Dì phát vào lưng tôi:

    - Quân bạc, nó để ý mày từ ngày còn bé kia đấy. Nó đợi tin mày mãi thỉnh thoảng lại đến tao hỏi dò. Tao thương nó quá nên cứ nói dối nó là người trong xã đi dân công ra ngoài ấy vẫn gặp mày và mày vẫn nhắn tin về. Mãi năm nọ mới chịu đi lấy người khác. Con bé đến ngoan.

    Tôi cởi áo ra xay nốt thúng thóc còn lại, bà chạy đi đâu một lát về bảo tôi ngừng tay rồi móc túi đưa tôi tờ giấy năm nghìn còn mới.

    - Con cầm lấy mà tiêu. Dì nghèo cũng chẳng có gì...
    Tôi biết dì tưởng tôi đi bộ đội thì túng thiếu như hồi còn kháng chiến nên giật tạm tiền của ai đây. Tôi đưa lại và nói:
    - Con không túng đâu, dì cầm lấy mà mua vải, mua thuốc. Con trông dì gầy lắm.
    Bà giận dỗi:
    - Hay mày chê ít, dì nghèo, dì chỉ có thế thôi con ạ.
    Rồi bà mở khuy túi áo trên của tôi, nhét tờ giấy bạc vào. Cò kèo mãi tôi đành phải nhận, nhưng định bụng rằng hôm nào đi tôi sẽ gửi lại cho anh tôi cầm xuống trả bà.
    Khi tôi trở ra đến đầu ao có giồng một rặng táo thì thấy một người đàn bà, mặt bầu bầu, bụng chửa, bế con đi lại. Đúng là cái Cún con!. Cô ta dáng chừng cũng đã trông thấy tôi nên khẽ kéo nón xuống che mặt. Hai đứa chỉ cách nhau có vài bước, tôi đã định bước chéo chân né người vào một bên rào đi thẳng, nhưng có một cái gì bắt tôi phải dừng lại. Cún con thấy tôi đứng chờ, càng luýnh quýnh.
    Tôi đi sát lại, hỏi:
    - Cô Cún còn nhớ tôi không? Song đây mà.
    Lúc ấy Cún mới bỏ nón ra ngượng nghịu nhìn tôi nhưng không nói gì. Đứa con thấy người lạ nhệch mồm ra mếu rồi úp mặt vào vai mẹ. Mẹ nó đưa mắt nhìn xuống đất rồi cũng mếu máo nốt. Tôi định nắm tay cô ta dắt vào nhà dì tôi nói chuyện một lúc, nhưng người chị gái đi sau cũng vừa tới, chào tôi rồi giục em: "Thôi dì xin phép anh ấy mà đi, muộn rồi đấy". Cún lại đội nón, cúi đầu xuống, bế con theo chị. Tôi ngoái nhìn lại đợi cho hai người đi khuất bờ ao mới quay về.
    Tôi thấy cần phải kể lại một chút về mối tình bạn bè giữa tôi và Cún con. Cún là người con gái đầu tiên đến với tôi và chiếm một vị trí quan trọng trong những kỷ niệm của tôi về quê hương. Năm ấy, tôi mười sáu tuổi và Cún con mười lăm. Tôi và nó tuy cùng làng nhưng ở hai xóm cách nhau khá xa. Nó để ý tôi và mến tôi trước khi tôi biết đến nó. Lần đầu hai đứa thật sự quen nhau là do một cuộc đánh tam cúc tay ba ở ngoài đồng: tôi, Cún con và thằng em họ. Tôi chơi bài rất thấp, vả lại vốn cũng không ưa nhưng vì hôm đó lại được thông luôn mấy ván nên đã bắt đầu ham. Một ván tôi kết đôi pháo điều. Cún con nhìn bài tôi ngần ngừ một lúc rồi dúi hai cây bài còn lại vào tận dưới lớp bài chui.
    Tôi cười ré lên:
    - A tướng, tướng đi ỉa!
    Thằng em tôi hơi nghi nên lôi hai con bài chui ra lật xem: ai ngờ lại là đôi tịnh vàng. Tịnh vàng phải chui pháo điều? Thì ra nó muốn ngồi đánh bài lâu với tôi nên cứ giả vờ thua để tôi hăng máu, không chóng chán. Thằng em họ tôi rất láu, nó cứ nhìn con bé chòng chọc rồi cười:
    - ?, đánh bài hay nhỉ... Tao biết thừa rồi...
    Tôi chỉ thấy Cún con đỏ mặt lên nhìn đi chỗ khác.
    Hai đứa chúng tôi chăn hai con trâu. Từ ngày quen nhau tôi cứ cưỡi trâu ra đồng lại nhờ Cún chăn hộ, còn tôi đi đánh bẫy chim, đơm cá, đào ổ chuột đến buổi mới về. Thường thường Cún cứ buộc hai đầu thừng của hai con trâu lại, cho chúng nó đi với nhau. Một chiều tôi đi chơi về, tìm trâu lại thấy trâu buộc díu đôi cởi mãi không được, trời thì sắp có cơn giông. Tôi giận quá quát tướng lên:
    - ới Cún, Cún ơi... đi đâu rồi!
    Cún con ở đâu chạy lại, cười cười. Tôi trợn mắt gắt:
    - Sao không chăn riêng lại buộc thừng lại với nhau làm người ta tháo mãi không được.
    Nó nhìn tôi gườm gườm.
    - Người ta đã chăn hộ cho mà đi chơi lại còn làm bộ. Gắt gắt cái gì...
    Tôi càng tức:
    - Từ nay không khiến chăn hộ nữa. Tháo thừng ra. Nó cũng găng:
    - Sai ai đấy, muốn về trước thì tháo lấy.
    Tôi tháo mãi không được liền nắm lấy lưỡi liềm nó cầm ở tay giằng lấy, rồi một chân dận đầu thừng, một tay kéo thừng căng ra cứa đứt đôi. Khi tôi cưỡi trâu về quay lại nhìn thấy nó đương đưa vạt áo lau nước mắt. Hôm sau tôi gặp nó vì ngượng quá nên lại làm ra vẻ giận, mặt hầm hầm không nói. Nó đến bên tôi, làm lành trước:
    - Có đi đâu thì đi đi để trâu tôi chăn cho.
    Tôi khó trả lời quá nên cứ lặng im.
    Nó lại nói:
    - Hôm qua tôi cũng định giằng liềm lại nhưng vì anh cầm đằng lưỡi sợ anh đứt tay nên tôi phải buông ra. Vì cái thừng mà u tôi chửi tôi cả một buổi tối đấy.
    Ngày bé tôi ăn mặc rất rách rưới, tóc cứ để bờm che kín cả gáy, cả tai. Ngồi chơi với nhau, Cún cứ thủ thỉ bảo tôi:
    - Sao không cạo đầu đi, để thế ngứa chết.
    Tôi đỏ mặt:
    - Nhưng không có tiền.
    Nó gặng hỏi:
    - Cần bao nhiêu?
    Tôi lảng ra:
    - Không cần.
    Có buổi nó còn mang kim chỉ và mụn đi vá áo cho tôi, bắt cả rận. Tôi bó cỏ vào loại đẹp nhất làng, bó vồng lên như quả trám, lội nước không tuột. Những đứa mười một, mười hai tuổi mới đi cắt cỏ lần đầu, thích làm đỏm đều đến van vỉ tôi đổi công cắt lấy công bó. Buổi nào đi cắt cỏ tôi đều bó cho Cún một gánh đẹp nhất, đến nỗi nó phải bảo tôi: "Bó đẹp vừa thôi, để lúc về dỡ ra đỡ tiếc". Đi đâu hai đứa cũng líu ríu bên nhau. Mới đầu tôi không để ý đến Cún lắm, coi nó cũng như những đứa trẻ khác, sau thấy nó săn sóc tôi, an ủi tôi, khiến tôi cũng bớt tủi vì thân phận mồ côi nên tôi cũng trở lại mến nó. Hôm nào nó ở nhà là tôi thấy như thiếu, trống cái gì, người cứ ngơ ngác suốt buổi, không thiết chơi bời với ai khác. Mọi khi chúng tôi vẫn cưỡi trâu sánh đôi, nhưng sau tôi cứ muốn để nó đi trước, hoặc tôi vượt lên trước, và khi thấy người khác nhìn hai đứa thì mặt tôi đỏ lên, lúng túng. Năm sau tôi đi bộ đội cũng không kịp gặp Cún để dặn dò. Từ bấy đến nay những lúc nằm rỗi tôi lại nghĩ đến người bạn gái bé nhỏ, lúc ấy trong người vừa buồn buồn, vừa thương nhớ lại hơi thổn thức, và tự nhiên tôi nghĩ đến ngày tôi về nhà, gặp lại nó, hai đứa chắc còn thân nhau hơn xưa. Bây giờ nghe Thâm và dì tôi nói chuyện lại thì ra nó đã yêu tôi từ ngày ấy, yêu tôi trước khi tôi kịp biết rằng mình cũng đã... yêu nó. Tôi đã yêu nó thật ư? Tôi chưa hề nói với nó một câu nào hò hẹn, yêu đương. Tôi cũng chưa bao giờ nghĩ rằng Cún sẽ là vợ tôi. Nhưng tôi vẫn nhớ, vẫn thương và bây giờ thì tôi thấy bâng khuâng, hối tiếc như vừa để mất một cái gì rất quý.
    *
    * *
    Tối 30 Tết. Chỉ còn mấy giờ nữa là bước sang một năm mới với những công việc và ước vọng mới. Suốt làng sáng rực ánh lửa. Trai, gái đốt đuốc gọi nhau đi xem chèo của xã ở đình trên. Nhà nào cũng bắc thùng ở giữa sân nấu bánh, nước sôi bánh kêu lục cục, lửa lùa vào các thớ gỗ nổ đôm đốp. Tết năm nay là Tết vui nhất của làng. Tám, chín năm kháng chiến bốt kề đầu làng, tối đến hút thuốc cũng phải vào trong buồng kín, ngày Tết đều luộc bánh chưng ban ngày, mà luộc bánh ngày thì còn gì là hương vị ngày Tết.
    Nhà ông anh tôi tối hôm ấy trở thành một cái câu lạc bộ, những người đi nhờ sân định tắt ruộng sang đình trên xem chèo đều dừng lại chơi. Người ngồi trên giường, người ngồi dưới đất, phải giải cả chiếu ra đầu hè. May trời đêm ấy lại đẹp, âm ấm như cuối thu. Ông anh tôi đã cạo râu, húi tóc, mặc bộ quần áo nâu mới, trông sáng sủa, vui vẻ hơn hôm qua nhiều. Nói chuyện một lát ông sai con mang đàn bầu ra đánh. Cũng vì tiếng đàn bầu mà anh tôi lấy được vợ. Nguyên ngày trước anh tôi ở trong phường chèo của xã, thường hay sang các xã bạn diễn những ngày đình đám đầu xuân. Một năm phường chèo ở trọ nhà ông trưởng bạ, ông ta có người con gái út, trạc trên đôi mươi, làm ruộng, buôn bán đều đảm, nhưng chỉ được có tiếng đàn mà người con gái ông trưởng bạ nhất định xin đi theo, dù bố mẹ chửi mắng, đe dọa thế nào cũng mặc. Ông chú đánh đàn tranh, một người anh họ thổi tiêu, ban nhạc gia đình chơi các bài lưu thủy, bình bán, kim tiền... Mọi người lại đề nghị tôi hát. Tôi hát hỏng vốn không ra gì, nhưng sau khi hát bài Giải phóng Điện Biên mọi người nắc nỏm khen giọng tôi ấm làm tôi xấu hổ quá. Có tiếng đề nghị cô Tỵ hát chèo. Tất cả quay về phía một cô bé vỗ tay rầm rầm. Cái Tỵ cũng không bé lắm, đến tuổi mười bảy, mười tám rồi. Chị cái Tỵ là Tẹo xưa cũng ở trong phường chèo của xã. Thường Tẹo hát và anh tôi đệm nhị. Giọng của Tẹo rất trường, tiếng vang, khi vào lại ngọt, hơn nữa là người có nhan sắc nên thanh niên làng nhiều anh muốn ngấp nghé. Ngày ấy nó rất mê tôi, và mẹ nó cũng bằng lòng gả nó cho tôi, nhưng tôi lại nghĩ nó là đứa con hát, không đứng đắn, quen ngay lưng, lấy về lại hầu nó nhọc nên cứ thoái thác. Tỵ đẹp hơn chị, giọng hát còn có phần trong trẻo, quyến rũ hơn. Tỵ hát một đoạn chèo trong tích Trương Viên. Mọi người lại đề nghị hát lại lần nữa. Hát xong, nó nhìn tôi tủm tỉm cười: "Em hát hai bài mà anh Song không cho em gái gì à?". Cái Miều ngồi cạnh tôi thừa lúc không ai để ý ghé sát vào tai tôi nói nhỏ: "Chú xem con mắt nó có sắc không?". Tôi biết tính con bé này hay chọc ghẹo nên gạt đi, nhưng nó cứ bám nhằng lấy: "Cháu bảo thật đấy, nó bảo với cháu là nếu chú hỏi nó thì nó nhất định bằng lòng lấy chú". Tôi hỏi lại: "Nếu tao bằng lòng thì mày thấy thế nào?". Nó toét miệng cười: "Cũng phải bằng lòng chứ, nhưng nó lao động kém lắm, còn lười hơn con chị nó nhiều đương có nguyện vọng xin đi văn công đấy. Chú giới thiệu cho nó đi với".
    Cả nhà thức cho đến lúc giao thừa. Trên đình có tiếng chiêng và tiếng trống đánh thì thùm, cung coong. Trời hơi sáng vì lửa ở các nhà, ở dọc đường hắt lên. Từ nóc các mái nhà mờ mờ bay lên những mảng sợi trắng rất xốp và nhẹ, khói hương hay sương đêm. Anh tôi lấy vôi ra vẽ bốn góc sân bốn cái cung lớn, có bốn mũi tên chĩa ra ngoài trừ ma quỷ. ở giữa vẽ một cái vòng tròn là cót thóc, chung quanh vẽ cày, bừa, cuốc, hy vọng năm tới thóc lúa đầy nhà, no ấm quanh năm. Anh thông tin của thôn đã trèo lên cái chòi cuối xóm báo tin giao thừa, đọc thư chúc tết của Hồ Chủ tịch, của ủy ban Huyện và Xã gửi tới nhân dân. Sau đó tiếng động nhẹ dần, lắng đi rồi im hẳn. Các cánh cửa khép lại, ánh sáng thu tròn một khoảng trên bàn thờ có những sợi khói nhang uốn éo bay qua. Nhìn ra ngoài trời đen thăm thẳm và mưa xuân bắt đầu rây lất phất.
    *
    * *
    Chiều mồng bốn Tết, tôi từ giã gia đình, quê hương lên đường về đơn vị. Lúc nhấc ba lô lên thấy nặng gấp đôi lúc thường, mở ra không hiểu ai đã xếp lên trên lớp quần áo hai cái bánh chưng, một nửa cái giò nạc, một đĩa chè kho gói lá chuối. Tôi để cả lại chỉ mang đi có một cái bánh. Chồng cái Miều cứ đòi khoác ba lô cho tôi đến tận bến đò, anh tôi cũng đi theo tiễn chân. Vợ chồng Thâm từ sau cải cách đến nay vẫn làm nghề chở đò ngang ở sông, hôm nay đến phiên vợ chồng nó. Chồng đương ngồi ăn cơm bên kia bờ, thấy bóng tôi bỏ cơm, chèo vội sang. Tôi xuống đò, đò chèo xa anh tôi vẫn còn đứng trên bờ vẫy. Gần áp bờ thì Thâm hỏi tôi:
    - Chú định ra tàu mấy giờ?
    - Tàu bảy giờ.
    - Chết, giờ mới có năm giờ, còn sớm chán. Để cháu chở chú đi chơi trên sông một lát.
    Tôi bằng lòng để ba lô vào trong khoang, ngồi một đầu thuyền, Thâm ngồi một đầu thuyền. Nó nhìn tôi cười:
    - Thế là chú nói dối cháu đấy nhá!
    Tôi cũng cười:
    - Bận khác về phép lâu hơn thì mới có thì giờ lo liệu chứ. Các cô làng ta cũng không dễ tính lắm đâu.
    Mái chèo đập xuống nước bì bõm, nước ngoạm hai bên mạn thuyền choàm choạp. Con thuyền lờ lững khi ở giữa dòng, khi men theo phía bên đê dốc thẳng, đất lở xuống đen nâu. Xa xa những cụm tre đứng cô độc, xõa sượi, buồn bã. Khi thuyền đến chỗ ngoặt sông thì ở những mảng bè nép mình dưới chân đê đã có những đốm lửa le lói sáng.
    Thâm khẽ nói:
    - Để cháu chở chú lên bến trên thì đi gần được một quãng đường.
    Phía làng đã khuất hẳn, nhưng tôi vẫn đăm đắm nhìn theo. Tôi đi đã nhiều nơi, đóng quân lại ở nhiều chỗ, phong cảnh đẹp đẽ hơn đây nhiều, nhân dân coi tôi như người làng và cũng có những người yêu tôi tha thiết nhưng sao sức quyến rũ, nhớ thương vẫn không mãnh liệt, day dứt bằng mảnh đất cội cằn này. Làng mạc bị tàn phá nhưng mảnh đất quê hương vẫn đủ sức nuôi sống tôi như ngày xưa nếu tôi có ngày trở về. ở miếng đất ấy tháng giêng tôi đi đốt bãi đào ổ chuột, tháng tám nước lên đánh dậm, úp cá, đơm tép, dấm cá rô, tháng chín, tháng mười đi móc con da dưới vệ sông. ở miếng đất ấy những ngày phiên chợ dì tôi lại mua cho vài cái bánh rợm, đêm nằm với chú, chú gác chân lên tôi mà lẩy Kiều, ngâm thơ, những tối liên hoan xã nghe cái Tỵ hát chèo và đôi lúc lại được ngồi nói chuyện với Cún con nhắc lại những kỷ niệm đẹp đẽ hồi thơ ấu. Khung cảnh chung quanh tôi bắt đầu mờ dần rồi trắng xóa, sương xuống dày đặc đến không còn trông rõ cái gì nữa. Phảng phất trong không khí có thứ mùi quen thuộc, không hẳn là mùi nhang ngày Tết, cũng không phải là thứ mùi nào khác có thể gọi tên được, nó man mác, có lẽ đã lâu lắm tôi mới lại cảm thấy nó. Thôi, tôi nhớ ra rồi... đó là thứ mùi vị đặc biệt, mùi vị của quê hương...
     
  8. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Câu hát tìm nhau – Quế Hương


    Tôi gặp lão lần đầu trong quán thịt chó của bà Tư béo, nơi tôi đến bỏ rượu gạo hàng chiều sau giờ đi làm. Lão xuất hiện với bộ dạng một người lỡ đường, tay bị, tay mũ cối, gương mặt rỗ hoa lấm tấm bụi đường và mồ hôi. Tưởng lão là người ăn xin, bà Tư đuổi như đuổi tà:

    - Ði ra! Ðể người ta bán, đừng có hãm tài.

    - Thưa bà, tôi không xin. Tôi tận Hà Bắc vào đây tìm người quen. Bà cho tôi hỏi... bà có biết người này.

    Lão chìa ra mảnh giấy bọc ép nylon như thẻ căn cước, ghi dòng chữ: Hai Xuân, người Bắc Ninh, có chồng tên Tuất. Sau 1975 có người gặp sinh sống ở Ðà Nẵng.

    - Mơ hồ thế có trời biết! Không đường, không số nhà... Già rồi lẩm cẩm. Con cháu sáng suốt không sai đi tìm. Thôi đi chỗ khác. Ðây cũng là dân ngụ cư thôi! Không biết!

    Bà chủ quay ngoắt, dềnh ngang bộ mông núng nính đi vào bếp. Lão lẩm bẩm:

    - Cả tuần nay... hỏi ai cũng trả lời chừng đó!

    Thương hại lão, tôi gợi chuyện:

    - Thế bà Xuân người như thế nào?

    - Cô ấy người dong dỏng. Trắng tươi. Hát hay. Xinh đẹp.

    Bàn thịt chó bên cạnh lập tức nhao lên:

    - Ồ! Cháu lão hả? Bao nhiêu tuổi? Ðể tụi này tìm giúp coi có “xơ múi” chi không?

    - Cô ấy thua tui một tuổi.

    Cái quán ven đường bỗng òa vỡ tiếng cười. Tiếng đập bàn, la ó, huýt gió, hô hố… náo loạn.

    - Thế thì “cố” chứ “cô” gì! Làm tụi này tưởng bở bố ạ! Cỡ ấy ra nghĩa địa tìm dễ hơn.

    - Mà cố Xuân là gì của lão? – Gã để râu xồm xoàm vừa nhai vừa hỏi.

    - Xưa cô ấy là bạn hát quan họ của tôi.

    - Lão vượt đường dài ở tuổi này để tìm một bạn hát xưa già khú đế à?

    - Vâng.

    - Trời ơi... là trời... ở mô rớt xuống ông ngố đa tình như ri hở trời! – Gã giọng Huế cùng bàn cúi gập người rên giữa một tràng cười. Còn lão điềm tĩnh, kiên định hỏi tiếp:

    - Mua bản đồ thành phố ở đâu mấy chú?

    - Thôi lão ơi, có khát tợp ít ngụm rồi mua vé về nhà nằm nghỉ. Kiếp sau yêu cho dài ngày rộng tháng.

    Rồi để thưởng câu nói mà gã tự cho là ý vị ấy, gã để râu ngửa mặt lên trời, ném điệu nghệ một miếng dồi chó vào miệng, nhai nghiến ngấu, tợp một ngụm rượu, khà một tiếng khoái trá.

    - Ngoài tôi, chỉ có món xào và rựa mận là để bát đĩa. Còn các món khác đựng trong lá tất... Ăn bốc mới đúng điệu. – Ðột ngột lão góp ý.

    - Coi bộ cũng là dân nghiện mộc tồn.

    - Phải thật thoải mái, không cần giữ ý tứ. Bữa ăn phải đượm mùi hoang sơ của những người lục lâm tứ chiếng.

    - Mở đầu được đấy! Mần ly rượu nói tiếp đi!

    - Khách của tui đủ giới, ở khắp thành phố này – bà chủ lên tiếng – Dò tìm một cố Xuân nói giọng Bắc, vấn khăn, cao dong dỏng, biết hát quan họ không phải là khó. Tui sẽ nhờ anh em... sẽ để lão ăn thịt chó thỏa thuê không lấy tiền... với điều kiện lão giúp tôi tiếp khí sắc cho quán. Dãy này bốn quán... phải có ngón nghề đặc biệt mới kéo khách về mình...

    Quán thịt cầy của bà Tư béo từ độ có lão bỗng đông khách hẳn. Thịt bao giờ cũng lớn bùi, bé mềm, cả tơ cả cứng cho đủ vị cuộc đời. Lá sen, lá dong riềng, lá chuối được thay đĩa men. Quán có đến mười hai món “hương nhục”, thơm điếc mũi. Buổi tối quán tắt đèn điện thắp đèn cầy ăn thịt cầy... âm âm u u thế mà gọi mời đáo để. Những câu chuyện về đời, về chó của lão dưới ánh nến bao giờ cũng khiến khách ăn cảm thấy bữa rượu thịt đậm đà. Bữa nào lão không tới, họ lại ăn uể oải đòi lão có mặt. Bọn họ gọi lão là “lão Tầm Xuân”. Cái quán ven đường rôm rả hẳn lên khi ông lão mặt rỗ hoa, ăn mặc nhếch nhác bước vào. Họ hát ong ỏng đón lão: “Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc. Em đi lấy chồng anh tiếc lắm thay. Già rồi tiếc vẫn chưa nguôi. Xắn quần anh lội suối, khòm lưng anh vượt đèo...”. Có hôm, men rượu không giải được nỗi sầu vô vị, họ lại đem lão ra giải buồn. Họ đổi những tin “dỏm” về cố Xuân bằng những câu chuyện của lão hoặc một cú tẩm quất sướng ê người. Nếu quán vắng khách, họ nằm ườn ngay trên nền quán, ưỡn tấm thân trẻ trung rã rời cho lão tẩm. Xương bật giòn tan, còn bọn họ lè lưỡi: “Hồi trẻ, lão phải vật trâu!”

    - Hồi trẻ, tôi giật đến hai giải thi vật – Hứng chí lão khoe.

    - Thế mà không vật nổi cô Xuân dong dỏng, trắng tươi, hát hay xinh đẹp.

    Cả bọn cười ồ còn lão bỗng tiu nghỉu. Lão ngừng đấm hỏi:

    - Lần này “dỏm” không đó?

    - Dỏm 50%. 50% có thể thật. Ðứa nào nói dối 100% hộc bia ra ngay.

    Chân dung cố Xuân thay đổ xoành xoạch. Khi thì cố Xuân ở tận bên làng biển An Hải, mù vì khóc lão. Khi thì ở trên Hòa Khánh, điếc đặc. Khi thì ở tận Hòa Cường, suốt ngày ho sù sụ...

    Sau lần nghe lão hát và những câu chuyện tôi kể về lão, vợ tôi bỗng trở nên “ái mộ” lão. Nàng bảo tôi chở lão đến nhà chơi rồi lão trở thành khách quen thuộc của cả nhà. Họ cũng bị lão “mê hoặc” như cả quán cầy tơ của bà béo. Lũ con tôi quý lão vô cùng. Lão bày chúng hát nghêu ngao những bài quan họ. “Sớm đi chơi hội, tối về quay tơ. Dải yếm phất phơ. Miếng trầu, mồi mốc. Miếng ăn, miếng buộc. Miếng gối đầu giường. Muốn tìm người thương. Tìm đâu cho thấy?”... Lão cho chúng những đồ chơi thật ngộ – những con vật bằng lá dừa biết ngúc ngắc, con gà trống bằng đất sét lòe loẹt xanh đỏ tím vàng kẹp chiếc kèn lá có thể cất tiếng gáy... Bếp nhà ấm áp khi có lão. Lão nếm rượu chính xác như đo, hàn giúp cái xoong, cái nồi rất khéo. Lão mơ màng kể cho chúng tôi nghe những ngày hội Lim, những liền anh áo the khăn xếp, liền chị thắt lưng hoa lý, yếm đào con nhạn, mắt lá răm lúng liếng hát thâu đêm. Tôi ngồi nghe lão tả những làn điệu quan họ đắm say miên man dìu dặt và yêu cầu lão hát nhưng thường lão lắc đầu. Lão bảo hát quan họ phải có đôi, có bạn, có chỗ. Ký ức lão còn giữ nguyên vẹn những ngày hội quê lão: Hội làng, Hội Xuân, Hội mùa... Trai thi mạnh, gái thi mềm. Thi hoa, thi vật, kéo co, hát chèo, nấu cơm, đánh đu, cờ người...

    - Lão gặp cố Xuân ở những ngày hội đó à?

    - Vâng. Ðó cũng là ngày hội quan họ, cả vùng như ngấm men say, phát cuồng vì hội lễ. Năm ấy anh cu Rỗ là tôi tròn 18 tuổi, được cử vào bọn quan họ làng để luyện giọng thi hát với bọn quan họ làng bên kia sông. Nhà tôi ba đời hát quan họ. Tôi luyện trên dưới 200 giọng, thế mà khi hát đôi với cô ấy tôi run. Tâm hồn tôi lơ lửng không đặt hết vào lời. Cô ấy là tiên quan họ. Ngày xưa cô Tấm cũng đẹp thế là cùng! Giọng hát sóng sánh. Mắt đen lóng lánh. Môi cắn chỉ đỏ thắm. Cần cổ như cuống hoa huệ... Tôi say, say lời hát, say cô ấy, quên cả ngón ruột phải tung ra vào phút chót để thắng dứt điểm. Cuộc thi kéo dài đến ba ngày. Tiếng trống dứt mới giật mình ngơ ngẩn. Dĩ nhiên tôi thua...

    - Ða tình thế sao không lấy?

    Mắt lão bỗng mơ màng xa vắng. Rồi một giọng hát trẻ trung đằm thắm da diết cất lên: “Ăn quả nhãn lồng. Ước sao người ấy tôi bồng trên tay...”. Không phải lão Tầm Xuân tóc bạc da mồi hát mà anh cu Rỗ tóc đen như mun, da mầu đồng, có giọng hát Trương Chi hát! Cô ấy hiểu lòng tôi, chú ạ! – Lão lại ngưng hát, kể: Tôi hát bài “Khi tương phùng, khi tương ngộ” ngang nửa bài thì cô ấy xen ngang, hát tiếp: “Bạn tình ơi! Em biết đến bao giờ họp mặt sánh đôi... Trước không phải, sau đền duyên ba sinh”. Chúng tôi cắt câu quan họ làm đôi, mỗi đứa giữ một nửa. Hẹn kiếp sau chắp lại.

    Sau đó là chiến tranh... nạn đói... Câu quan họ tan tác trăm phương. Tôi vào Vệ quốc quân, tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, khi hòa bình lập lại, tôi về làng thì nghe cô ấy đã theo chồng... nghe nói vào Nam.

    Rồi tuổi già đến. Già buồn lắm chú ạ! Cô đơn và bất lực. Chết không đáng sợ bằng tuổi già. Sống đến đó, người ta mới nếm tận cùng chén đắng cay của đời. Tôi sợ hình ảnh ông hàng xóm ngày nắng được bế cả người lẫn chăn ra hong nắng. Nắng rực rỡ đọng thành từng vũng quanh ông ấy, còn ông ấy nhăn nhúm trong cái chăn rách... Tôi có cảm tưởng ông được đem phơi cho chết vi trùng. Có bà, được mua cho một cỗ hậu sự thật tốt. Lâu không chết, áo quan bị mọt đục. Ngày nắng con cháu đem ra phơi, trở qua lật lại rửa ráy càu nhàu... Luật đời chú ạ! Già thì lụi tàn, phải chết. Sống lâu thành nợ của mọi người ngay con cái cũng chán... Một lần tôi ốm, trận ấy ốm thương hàn, thập tử nhất sinh. Trong những cơn mê, tôi cứ nghe một giọng hát lảnh lót níu tôi lại trần thế: “Người về bỏ bạn sao đành. Người về em vẫn đinh ninh tấm lòng...”. Giọng cô ấy! Chỉ có cô ấy mới có cái giọng la đà sát ngọn cỏ, cao vút chạm mây xanh, thầm thì luồn lách trong da trong thịt. Tôi tỉnh lại đang mơ màng thì nghe giọng dâu con thở than gần hết ngày tốt mà cha chưa chịu đi. Tôi mở mắt, chúng nó lại ríu rít hỏi han, làm ra vẻ vui mừng... Sau lần ốm ấy, tôi nghĩ đến chuyện đi tìm cô ấy. Chính cô ấy níu tôi lại cuộc đời này. Tôi phải đi tìm nửa câu quan họ cắt đôi. Trẻ không lấy nhau được, già ở bên nhau, hát với nhau cho đỡ côi cút. Trước sau vẫn là bạn có gì sai trái đâu?

    Lão im bặt. Ðôi mắt già nua chìm trong cõi vắng. Thời gian với lão chỉ là lớp bụi mờ. Gió thổi, bụi bay, dĩ vãng lại hiện ra nguyên vẹn trước mắt lão. Ðêm ấy, lão hát miên man bên bếp lửa tàn. Một mình hát, một mình nghe, một mình mở hội đồi Lim, lúng liếng, đắm say, chân tình lai láng.

    Thế mà sau một tuần đi công tác xa về, con tôi đã mếu máo níu áo ngoài cửa đòi tôi đi tìm lão Tầm Xuân. Thì ra lão đã bỏ đi... Tự nguyện theo lão là con chó mập ú của bà Tư cầy. Dường như chán gặm xương đồng loại, nó bỏ theo lão Tầm Xuân.

    Tôi cũng vô tình quên lão nếu không có lần gặp lại ở Hàng Xanh, Sài Gòn cách đó hai năm.

    Chúng tôi tấp vào quán nước bên đường. ở đó tôi được biết vì sao lão bỏ đi đột ngột. Bà chủ quán thịt cầy cùng dãy với bà Tư béo bảo có gặp một bà người Bắc đi xin ở Gia Ðịnh biết hát quan họ và y hệt cô Xuân của lão. Thế là họ đi!... Quán bà Tư mất hấp lực, đâu lại vào đấy. Tôi nghĩ thế nhưng không nói ra, sợ lão buồn. Tôi định bụng khuyên lão trở về quê. Không ngờ lão cũng nói:

    - May gặp nhau lần cuối... Tuần sau tôi về chú ạ. Tiền tàu xe đủ rồi... Tôi về để mười ba tháng Giêng tới dự hội Lim lần cuối. Hội Lim giờ đâu như xưa nữa... Nhưng tôi vẫn nghe tiếng trống vào hội giục giã lòng tôi. Tôi yếu rồi! Tôi đã nghe đất gọi. Quê gọi. Ðành hẹn kiếp sau vậy...

    Tôi nhìn lão, còn lão nhìn dòng xe cộ nườm nượp đến chóng mặt. Chiều tà dần trong đôi mắt màu hoàng hôn.

    - Lâu ngày gặp lại, tui với lão mần đích đáng một bữa thịt chó đi! Ở đây có Bồng Lai quán nghe nói khá lắm, ăn hoài không đã miệng. Tui mời lão.

    - Cảm ơn chú! Nhưng năm rồi tôi không đụng thứ đó. Tôi sẽ không đụng cho đến ngày cuối đời...

    Lão cúi xuống vỗ về vào lưng con vàng. Con chó ngước đôi mắt nặng trĩu yêu thương nhìn lão rồi không dằn lòng nổi, nó đứng trên hai chân sau, vừa kêu ư ử hài lòng vừa liếm khắp người lão.

    - Chú thấy đấy! Cứ tưởng tượng nó thành những đĩa dồi, đĩa luộc, đĩa xào, xáo... là tôi lợm giọng rồi... Không có nó tôi không sống nổi ở đây đến hai năm... Nó sưởi ấm tôi, kéo tôi đứng dậy, nó bị đánh què cẳng vì ăn cắp của người ta để cho tôi ăn những ngày tôi ốm... Nó từng sung sướng... theo tôi nó mới cực thế này... Nó...

    Lão nghẹn ngào, mắt hấp háy. Giọt lệ tuổi già chắt mãi mới thành dành cho kẻ đồng hành bốn chân!

    Khoảng mươi hôm sau, con dao chặt thịt bị mẻ, em tôi nhắc:

    - Không thấy lão mài dao kéo vào xóm... cái lão thật lạ, không lo kiếm khách chỉ lo hát... Có đồng nào mua đồ ăn lại chia đôi cho chó một nửa. Con chó cũng đáo để, không bao giờ ăn trước chủ dù có đặt trước miệng... Người già cũng lạ! Trại dưỡng lão em làm có một bà già... nhập trại ba năm không nói một lời, tưởng câm, khi gần chết hóa ra biết hát. Cái giọng cái điệu, cái lời na ná như lão mài dao.

    - Ðâu? Bà ấy ở đâu? – Tôi chụp tay nó.

    Tôi kéo áo nó, bắt nó chở đi rồi tôi sẽ giải thích. Dọc đường tôi kể vắn tắt chuyện lão Tầm Xuân đi tìm nửa câu quan họ. Tôi linh cảm đó là cố Xuân.

    - Ba năm trước, một người đàn ông sang trọng, gương mặt tràn trề nhân ái dẫn bà ấy vào trại. Ông ta bảo với Ban quản đốc ông ta thấy bà già cơ nhỡ, ngủ trước hiên nhà nên thương xót dẫn giúp vào đây. Ba năm ở đây, bà ấy sống lặng lẽ như bóng không hề nói, nằm quay mặt vào vách. Nhưng cách đây một tháng, dường như không nén được nỗi đau đớn, bà ta khóc rống lên: “Hắn là con tôi, cái thằng dẫn tôi vào đây chính là con tôi”. Mấy hôm nay bà ta hát... không ăn, không uống... chỉ phều phào hát... – Em tôi kể.

    Bây giờ nằm trước mặt tôi, trên chiếc chiếu tỏa mùi khai thối trải trên nền gạch loang lổ là bà cụ tóc trắng như bông vấn vành khăn nhung đã sờn, mỏng như giấy, mặt vàng, hơi thở dốc...

    “Dong dỏng, trắng tươi, hát hay, xinh đẹp...”

    Hình hài ấy không còn nét nào giống lão Tầm Xuân tả. Thời gian cho, thời gian lấy hay tôi đã lầm? Tôi định lui ra nhưng chiếc lá khô ấy bỗng khẽ khàng động đậy. Rồi từ lồng ngực thoi thóp hơi tàn, phều phào những tiếng, lời rời rạc. “Bạn tình ơi! Duyên bén ngãi, trước không phải... sau đền... duyên... ba sinh”.

    - Ðúng rồi! Cố Xuân đây rồi! – Tôi reo to giữa những gương mặt già nua ngơ ngác – Lão Tầm Xuân ơi! Nửa câu quan họ đây rồi.

    Lão tìm ba năm, nay biết tìm lão ở đâu.

    Bà cụ mấp máy môi hát, âm sắc yếu dần... yếu dần... Nhanh trí, tôi nắm lấy bàn tay còn xương với da ấy và tôi lập lại lời hát của lão Tầm Xuân: “Khi tương phùng, khi tương ngộ, xuôi lên bộ văng vẳng tơ tình...” Giọng hát vụng về thô ráp như đọc của tôi cất lên, và lạ lùng thay, nó tựa những giọt nước cành dương diệu kỳ... Mí mắt bà lão động đậy, ngực phập phồng rồi giọng hát yếu ớt cứ rõ dần hòa với cái giọng vịt đực ồ ồ của tôi. Những bà già trên nền nhà lập tức ngồi dậy. Họ không hiểu nhưng họ vỗ tay như những đứa trẻ. Họ reo, họ hò, họ hát ru... Những đôi mắt mờ mờ đục chất ngất nỗi buồn và bất hạnh bỗng háo hức như mắt trẻ con. Một bà lão lục đục trong hai ba lần áo một cái gói nhỏ mở hai ba lớp nylon bày một nhúm thịt chà bông, chần chừ ngắm rồi nhón tay bốc hai sợi thịt đem tới đút vào miệng tôi một sợi, miệng cố Xuân, bị lời hát đẩy ra, còn trong miệng tôi, trào thành nước mắt!

    Tôi lập tức đạp xe đi quanh vùng Gia Ðịnh tìm lão Tầm Xuân nhưng bóng lão bặt tăm... Hình như lão đã về quê rồi. Em gái tôi góp ý nhắn lão trên tivi. Mẩu tin kỳ quái được nhắc lại hai hôm: “Lão Tầm Xuân! Ðã tìm ra nửa câu quan họ. Ðến gấp trại dưỡng lão số 3, đường... Mau lên kẻo không kịp”.

    Không kịp thật. Cố Xuân hắt ra hơi thở cuối cùng, lão vẫn bặt tăm. Chiếc xe tang của trại đưa cố đến lò thiêu. Không một vành khăn, không dòng nước mắt.

    Có lẽ giờ này lão Tầm Xuân đang lê bước trở về. Nửa câu quan họ lầm lũi theo lão... Chơi vơi... Chơi vơi...
     
  9. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Người đàn bà có ma lực – Y Ban


    Bây giờ người đàn bà ấy đã có tuổi. Trên cái thân thể bắt đầu đẫy ra còn ghi lại dấu ấn của thời trẻ trung tự do phóng đãng. Mặt không đẹp, các đường nét mờ nhạt. Hạnh phúc được lo toan cho một gia đình riêng không hề có trên khuôn mặt ấy. Một mình với cuộc sống đã ở phía dốc bên kia, người đàn bà càng có nhiều thời gian để than thở: "Ta là một người đàn bà, một người đàn bà rất hoàn hảo nhưng tại sao ta lại không có được cái kết quả của sự hoàn hảo ấy". Cùng với tiếng than thở, tiếng lao xao, tiếng dao, thớt lách cách bên hàng xóm vọng sang như tiếng mõ nguyện. Người đàn bà ngồi mơ màng lắng nghe thầm nghĩ: "Nếu như mình là người chủ căn nhà bên kia nhỉ. Mình sẽ băm thịt thật nhuyễn. Mấy đứa con xăng xái chạy bên cạnh, mình sẽ sai chúng. Đức ông chồng đọc báo cho mình nghe hay ngồi đun củi, khói sẽ cay xè...".

    - Ra kia đi nào, mẹ bảo có nghe không? Con cái nhà đến là khổ!

    Tiếng quát làm dứt luồng suy nghĩ của người đàn bà. Người đàn bà nhìn quanh mình. Chiếc nồi còn bắc trên bếp. Nước đã sôi từ lâu mà vẫn chưa đổ gạo. Người đàn bà với chiếc rá, tự giễu mình. Thấy chưa, suốt ngày chỉ quát với tháo, cứ như thế này mà chẳng hơn ư? E rằng lại chẳng đánh đổi nỗi đau khổ này để chuốc lấy nỗi đau khổ khác!

    Bữa ăn được dọn ra ngay bên cạnh cái bếp dầu. Trên mảnh gỗ nhỏ kê làm mâm chỉ có một chiếc bát, một đôi đũa, còn thức ăn vẫn để nguyên trong nồi. Xới một bát cơm đầy, chưa và được miếng nào thì bên hàng xóm lại vẳng sang tiếng trẻ con thánh thót: "Con mời ba mẹ ăn cơm ạ". Người đàn bà bê nguyên chiếc bát lắng nghe tiếp. Chỉ có tiếng bát đũa va vào nhau, tiếng va chạm của một cuộc sống bình thường khiến người đàn bà không còn cảm giác muốn ăn nữa.

    Buổi trưa, cả khu tập thể đã im lìm trong giấc ngủ, người đàn bà trăn trở và tự trách mình: dạo này thần kinh ta rệu rã quá rồi, chỉ hay xúc động những chuyện không đâu. Cái gia đình bên hàng xóm ấy. Hừ, con cái thì nheo nhóc, vợ chồng thì như dùi đục chấm mắm cáy. Ta mà là chủ gia đình ấy... Nhưng sao dạo này ta cảm thấy trống trải ghê gớm.

    Càng nghĩ đến hiện tại, người đàn bà càng trăn trở, bắt suy nghĩ của mình quay về với quá khứ. Quá khứ của một thời trẻ, sống động, dàn trải như một cuốn phim mầu với những lời ca êm dịu, ngọt ngào. Phải, đã bao lần người đàn bà ấy dập tắt được con sóng lòng trăn trở, khắc khoải.

    Phương tiện để quay trở lại quá khứ là một cái tráp khá to mầu đỏ đã phai sắc qua năm tháng. Người đàn bà bê cái tráp xuống để cạnh mình và chọn tư thế thoải mái nhất. Người đàn bà lấy ra những chồng kỷ niệm của cả một quãng đời. Cũng có khi người đàn bà chỉ lấy giữa quãng, về một năm tháng và một người nào đó. Cái tráp kỷ niệm này càng về gần đây càng hay được vuốt ve. Mặc dù chẳng cần có chúng, người đàn bà vẫn còn nhớ tất cả những gì như mới xảy ra ngày hôm qua.

    Này đây là quyển sổ nhật ký năm mười bảy tuổi. Trang đầu tiên là một tấm ảnh đã bị ố vàng nhưng vẫn rõ nét. Cô gái không xinh đẹp nhưng tươi mát và sinh động bởi đôi mắt đen láy và đôi lông mày cong vút. Ở phía dưới tấm ảnh, là mấy vần thơ của Tagorơ:

    "Tôi không thích tình yêu và hạn độ

    Mà chỉ thiết tình yêu như rượu mạnh sục sôi

    Trong phút chốc làm nổ tung chai

    Và chảy phí ra ngoài."

    Người đàn bà lật tiếp trang thứ ba và đọc.

    Ngày...

    Mười bảy tuổi bước vào trường đại học, ta là một cô gái không xinh đẹp, cũng không có duyên. Để bù lại, ta thông minh và học giỏi. Tạo hóa đã rất công bằng khi ban cho cô gái này sắc đẹp nhưng lại ít thông minh. Cô gái kia thông minh nhưng ít xinh đẹp. Nhưng tạo hóa lại không có cách nào để cho người ta hiểu ngay được rằng người ta chỉ có một hoặc vài khả năng nào đó thôi. Bởi thế người xinh đẹp cứ ngỡ mình là người thông minh. Và kẻ thông minh lại tưởng lầm mình là xinh đẹp. Điều này đôi khi cũng đúng. Bởi vì người xinh đẹp thường chinh phục điều họ muốn bằng sắc đẹp. Người thông minh dĩ nhiên là bằng trí tuệ. Nhưng, có lẽ điều này chỉ đúng với đàn bà mà thôi.

    Mười bảy tuổi, ngưỡng cửa của cuộc đời: sự nghiệp và tình yêu. Sự nghiệp dường như dang rộng cánh tay để đón ta. Thầy giáo, bạn bè ai cũng yêu mến và có phần khâm phục nữa. Thế nhưng ta vẫn cảm thấy chưa đủ và còn bực tức. Đó là khi đi dạo phố hoặc đến các cuộc vui ta đã không được các chàng trai để ý. Trong lòng ta, ta lại muốn rằng, ở trong lĩnh vực nào ta cũng nổi lên như một người duy nhất. Thế rồi một hôm có một người biết xem bói tới phòng chơi. Bạn bè ta giơ tay ra và đều tấm tắc rằng đúng. Vốn bản tính nghịch ngợm, ta không tin nhưng cũng giơ tay ra:

    - Chị bói cho em xem, liệu em có được ai yêu không?

    - Được rồi, khá lắm!

    - Cô bé này có tài chinh phục đàn ông đấy.

    Cả phòng phá lên cười, ta cười to hơn cả.

    - Hừ, chinh phục. Chị thân mến ơi, em xấu như ma lem thế này thì chinh phục được ai kia chứ!

    - Cô bé ngốc nghếch ạ, bây giờ có phải cứ xinh đẹp mà chinh phục được họ đâu. Bây giờ là thời đại mới, thời đại của chúng ta. Chúng ta làm chủ tình thế chứ đâu như thời phong kiến mà đàn bà chỉ biết đứng e lệ một chỗ như những bông hoa trong luống hoa ấy, mặc cho người ta khen, người ta chê. Đấy, cái thời ấy mới cần đến sắc đẹp chinh phục.

    - Có lẽ cô bé chẳng tin tôi đâu nhưng chắc điều này thì cô bé hiểu chứ. Có nhiều người đàn bà xinh đẹp nhưng tại sao họ không được đàn ông chú ý đến. Ngược lại, có những người đàn bà rất bình thường, đôi phần xấu xí nữa là khác thế mà lại được nhiều người vây quanh y như một minh tinh màn bạc. Đấy chính là duyên ngầm cô bé ạ. Mà ở cô còn hơn thế nữa kia, đó là ma lực! Tất cả bọn họ sẽ bị hút vào cô cho mà xem.

    - Gớm, chị nói gì mà khiếp thế.

    - Thật đấy, nhưng... thôi, đừng tin. Chị nói nhảm đấy!

    Tất cả như một trò đùa nhưng ta lại nửa tin, nửa ngờ. Ta tin bởi vì tâm hồn ta tràn đầy những mơ mộng về những điều như chị thầy bói kia nói. Có nghĩa rằng ta muốn bọn họ, tức là đàn ông ấy sẽ bị hút vào ta ngay từ những phút đầu gặp mặt. Từ lúc ta bắt đầu nói, cười. Còn ngờ là bởi vì ta thông minh nên ta biết ngay rằng ta là một cô gái không đẹp. Ta ham đọc sách vở. Ta chẳng thấy có chỗ nào miêu tả rằng, chàng trai ấy xao xuyến cả tấm lòng khi bắt gặp một cô gái xấu xí. Nhưng cho đến một ngày niềm tin của ta bắt đầu được củng cố...

    Ngày 1-7

    Trên chuyến tàu hôm ấy ta và cô bạn gái, một cô bé xinh xắn, dịu dàng thoạt trông rất đáng yêu đi về nhà nghỉ hè. Cô bạn gái bình thản ngồi nhìn qua cửa sổ toa tàu. Còn ta, trong lòng rộn ràng bao sắp đặt cho kỳ nghỉ hè đầu tiên trong đời sinh viên. Tuy thế ta cũng đã nhận thấy một cái nhìn nào đó. Ta cố tạo một bộ mặt phớt và lạnh bằng cách nhìn trân trối lên trần toa tàu. Rồi sau đó ta có vẻ khó chịu. Ta nhìn lại cái nhìn kia bằng cái nhìn thẳng và hơi giễu cợt một chút. Cái nhìn đó là của một người đàn ông trẻ. Gặp cái nhìn như thách thức của ta, người đàn ông hơi cúi mặt xuống. Sau một hồi như trấn tĩnh lại, người đàn ông tới bắt chuyện với ta. Ta lảng tránh và nghĩ thầm: chắc lại muốn làm quen với cô bạn xinh xắn của mình đây mà. Ta thừa biết thóp các người rồi! Sau đó người đàn ông quay sang bắt chuyện, với cô bạn gái của ta thật, cô bạn gái vui vẻ bắt chuyện. Mặc dù có vẻ chăm chú ngắm phong cảnh chạy dài hai bên đường, ta vẫn lắng nghe câu chuyện của họ. Câu chuyện qua lại vẫn đậm đà dần lên. Ta cảm thấy bị lãng quên như bao lần đã không được chú ý đến. Rồi ta nghe thấy người đàn ông đang dò hỏi cô bạn gái về ta. Ta tự răn mình đừng quá lên gân bèn quay lại mượn người đàn ông kia tờ báo phụ nữ. Tàu lắc lư nhè nhẹ. Cô bạn gái vô tư của ta đã ngủ khì. Người đàn ông quay sang hỏi ta:

    - Xin lỗi, tôi trông bạn quen quá. Hình như chúng ta đã gặp nhau ở đâu rồi thì phải.

    - Vâng, có lẽ trên một đoạn đường nào đó - Ta hơi dài giọng như hát cải lương.

    - Nhà bạn ở Nam Ninh phải không?

    - Vâng ở xã ấy đấy.

    - Xã nào cơ?

    - Trên tháp Phổ Minh ấy mà.

    - Bạn là một cô gái ưa khiêu khích.

    Ta phá lên cười. Điệu cười ròn rã, vô tư.

    - Tôi ấy ư? Anh thấy thế à? Trời ơi thật là uổng công tôi quá! Tôi đang tập để trở thành một cô gái dịu dàng.

    - Tại sao thế?

    - Bởi vì đa số đàn ông các anh họ thích thế.

    - Bạn là cô gái khác lạ đấy.

    - Anh tò mò hả. Có thích tìm hiểu tôi không?

    Ta phá lên cười...

    Tàu hôm ấy có vẻ chạy nhanh hơn mọi lần. Hành khách đã tản ra trên các hè phố. Ta dắt tay cô bạn gái bước nhanh để chóng về nhà. Ta đã quên người đàn ông trên tàu. Câu chuyện tầm phào như mọi lần trước, ta cho là thế. Đến ngã tư ta chia tay với cô bạn. Chỉ còn vài bước nữa là về đến nhà. Bỗng nhiên trước mặt ta là người đàn ông trên tàu đang nhìn ta cười.

    - Nhà bạn ở chỗ kia phải không?

    - Sao anh biết?

    - Vì tôi thích tìm hiểu về bạn. Tôi đã nói, bạn là một cô gái khác lạ. Sáng mai tôi sẽ đến thăm bạn nếu như qua đêm nay tôi còn nhớ bạn. Còn sáng mai tôi không đến có nghĩa là chẳng có gì đáng nói nữa cả. Thế nhé, tạm biệt.

    Người đàn ông rảo bước đi. Ta bị đột ngột vài giây. Người đàn ông ấy cũng thật lạ lùng. Ta bước đi chầm chậm. Bây giờ thì lại chưa muốn về nhà vội. Hình như trong một câu chuyện nào đó cũng có một tình huống như thế này rồi. Kể ra thì cũng hay đấy. Người đàn ông kia cũng khá: cao to, đẹp trai và hình như mạnh mẽ. Ờ, mà tại sao anh ta lại không đi theo cô bạn gái của ta nhỉ? Duyên ngầm và ma lực. Cầu Chúa ngày mai anh ta sẽ đến...

    - Chị đã về, chị đã về...

    Tiếng cô em út lanh lảnh báo tin cho cả nhà. Bố mẹ, các em ta chạy ùa ra cửa đón. Lúc đó ta quên tất cả. Sự đầm ấm, bữa cơm ngon lành và ánh mặt trời trìu mến bao quanh ta.

    Sáng hôm sau, sự hứng khởi làm một bà nội trợ đảm đang làm ta quên đi lời hẹn. Ta quấn một chiếc khăn đỏ ngang đầu, mặc chiếc áo blu trắng của mẹ. Ta mê mải quét những tổ ấm nhà nhện trên tường. Vừa làm vừa hát vui vẻ. Chợt tiếng cậu em vang lên:

    - Chị ơi, có ai hỏi chị đây này.

    Ta chạy ra sân. Nắng buổi sáng dịu dàng tỏa quanh ta, vẫn cầm chiếc chổi trong tay, ta ngạc nhiên một chút.

    - Chào anh, anh vẫn nhớ à?

    - Vẫn nhớ.

    Người đàn ông thở mạnh như cố nén từ lâu.

    - Mời anh vào nhà chơi.

    - Bạn đang bận mà.

    Ta mở to đôi mắt nhìn người đàn ông. Ta như chờ đợi điều gì đó. Và quả nhiên:

    - Buổi sáng bạn đẹp quá. Chiều chắc bạn không bận chứ? Tôi đến nhé.

    Người đàn ông nói giọng trầm trầm rồi quay lưng đi luôn. Ta đứng nhìn theo im lìm như pho tượng. Ta chẳng kịp phản ứng ra sao. Người đàn ông đi khuất, ta rùng mình chợt tỉnh. Một cảm giác thật lạ lẫm ập vào ta. Cơ thể nhẹ nhàng như không trọng lượng. Trái tim thì rộn ràng đập. Ta đi vào nhà và ngồi xuống ghế. Không nghĩ được điều gì rõ rệt. Ngồi thừ ra một lúc ta mới nhớ ra rằng: mình vừa được khen là đẹp. Ta để nguyên quần áo như thế, gỡ chiếc gương chạy ra chỗ nắng lúc nãy và soi. Trong gương, một cô gái rất trẻ trung đang nhìn lại ta bằng ánh mắt thật trìu mến. Nắng tô hồng và làm rạng rỡ thêm khuôn mặt cô gái; khuôn mặt bầu bầu trẻ lâu. Chiếc khăn đỏ trùm hết trán chỉ để lại đôi lông mày như hai cánh cung đang bắn những ánh mắt rộn ràng của đôi mắt mầu đồng hun. Phải, có lẽ lời khen chẳng nịnh chút nào.

    Từ lúc người đàn ông về, ta chẳng làm được việc gì nữa. Ta trở nên vụng về. Suy nghĩ tản mạn, đứt đoạn. Rơi vỡ và vấp váp. Cứ một lúc ta lại mang gương ra nắng soi và tự hài lòng.

    Buổi chiều, người đàn ông đến. Anh ta ngồi điềm tĩnh trước mặt ta. Ta cảm thấy bối rối. Ta kể chuyện liến thoắng, em, các bạn em, môn học của em. Có lẽ lúc ấy ta đã bối rối vô cùng. Ta kể một mạch hết mọi chuyện. Người đàn ông ngồi im lắng nghe và chăm chú nhìn ta. Ta chợt cảm thấy sợ hãi. Nỗi mơ hồ vì đã không làm chủ được bản thân. Ta cúi mặt lảng tránh cái nhìn của người đàn ông. Rồi người đàn ông khẽ khàng bảo ta:

    - Em đi dạo phố với anh được không?

    - Vâng.

    Chiều tà. Ánh hoàng hôn hắt xuống mặt hồ đỏ au. Gió từ hàng dừa thổi nhè nhẹ.

    - Anh yêu em.

    Chỉ như gió thoảng bên tai. Ta lắng nghe và rùng mình tan biến vào không gian. Ta không còn nhìn thấy gì nữa, nghe thấy gì nữa. Ta cảm giác được lần đầu tiên được nghe tiếng yêu. Rồi cảm giác ấy qua đi nhường chỗ cho sự ngang bướng.

    - Anh yêu em? Vì lẽ gì? Anh đã biết gì về em đâu?

    - Anh yêu em, chỉ biết vậy thôi. Còn vì lẽ gì thì anh không cần biết. Em cũng yêu anh chứ?

    - Vâng. "Người với người sống để yêu nhau".

    - Chà!

    Người đàn ông tỏ vẻ không hài lòng:

    - Vậy em lại yêu người đàn ông đánh giậm kia đi?

    - Nếu có thể, khi ông ta tỏ tình với em.

    - Em...

    Người đàn ông đã bắt được sự ngang bướng của ta. Anh ta đột ngột ôm lấy vai ta kéo vào ngực.

    - Em cũng yêu anh có phải không?

    - Vâng.

    Cây cối chao đảo trên đầu. Đất như nghiêng sang một phía.

    Thế đấy, người đàn bà vừa mỉm cười vừa lau những giọt nước mắt lăn trên gò má. Mối tình đầu, người yêu đầu tiên còn như ngân vọng mãi đến bây giờ. Người đời vẫn thường ca ngợi những cảm giác mới mẻ và nguyên vẹn. Nhưng tại sao ta lại rời bỏ anh ấy nhỉ? Giữa anh ấy và ta không hề có kỷ niệm buồn nào cả. Ngọt ngào và êm đềm. Hình ảnh anh ấy vẫn còn trọn vẹn trong ta. Nụ cười của anh bao giờ cũng như có lỗi một chút. Anh hay lắng nghe ta nói như đứa bé con say sưa nghe con chim bé bỏng hót trong lồng mà chẳng hiểu nó nói gì với mình. Rồi anh ấy khẽ khàng ôm lấy hai vai ta. Có cảm giác dịu dàng, đê mê lan từ bàn tay anh ấy thấm vào cơ thể ta... Đã bao năm tháng rồi mà ta cứ giữ cảm giác về anh như mới hôm qua. Đã bao lần ta trốn vào giấc ngủ cố quên hiện tại bằng sự nhớ về anh. Vậy mà sao lại phải từ bỏ. Hừ, ma lực, chinh phục!

    Rồi thì đến ai nào? Người đàn bà lại lật tiếp trang sổ...

    Ngày...

    Hồi ấy là mùa ôn thi thứ tư trong đời sinh viên. Ta và Sơn, người đàn ông trên tàu, vẫn yêu nhau tha thiết. Mùa thi ấy ta vẫn bảo anh đừng đến. Nếu không em sẽ trượt hết cho mà xem. Anh vẫn đến nhưng đến sau khi ta thi xong một môn. Còn môn cuối cùng là hóc búa nhất. Mặc dù mang tiếng học tài tử song hôm nào ta cũng phải vác sách lên giảng đường. Trường ta học mang tiếng là "mọt sách" cũng phải. Giảng đường tự tu mà chật ních những sinh viên. Cả phòng học im phăng phắc. Chỉ nghe tiếng sách giở sột soạt và tiếng ngòi bút cày trên giấy. Khoảng 10 giờ đêm mọi người bắt đầu ra về. Hôm ấy ta hứng học ghê gớm nên chưa muốn về. Ta gục mặt xuống bàn nghỉ vài phút. Khi ngẩng lên ta thấy trước mặt ta là một tờ giấy có viết: "Cô bé ơi có người muốn làm quen với cô đấy".

    Ta phẩy tay cho tờ giấy bay ra chỗ khác. Một tờ giấy khác lại đưa lên từ bàn dưới: "Xin lỗi vì đã làm phiền nhưng ta hãy làm quen nhau đi, chỉ 15 phút thôi mà".

    Ta quyết định đứng dậy thu xếp sách vở ra về. Ôm gọn sách vở trước ngực, ta quay lại nhìn thẳng vào mắt người con trai phía sau. Lúc đó ta cảm thấy đầy sức mạnh. Sức mạnh của người đàn bà đang được đàn ông chú ý đến. Ta nhìn thẳng vào mặt anh chàng. Rồi xảy ra một cuộc đọ mắt. Ta đã thắng và bước khỏi giảng đường để lại anh chàng ngơ ngác mất vài giây rồi chạy theo ta.

    - Xin lỗi bạn. Tôi không chú ý. Tôi chỉ... Bạn hãy ở lại học bài tiếp đi. Tôi về.

    Ta phá lên cười. Còn người con trai thì run bắn lên. Ta dừng lại một chút nhìn sâu vào đôi mắt đang bối rối cực điểm của anh ta.

    Thế rồi ta bắt đầu tìm hiểu về người con trai kia. Phòng ở của ta đối diện với khoa toán. Đêm hè khuya lắm cả trường mới đi ngủ. Khi không gian đã vắng lặng thì tiếng đàn ai đó vang lên. Tiếng đàn rất hay, lúc buồn rầu, lúc náo động. Sáng hôm sau cả phòng ta xôn xao hỏi nhau:

    - Đêm qua bọn mày có nghe thấy tiếng đàn không? Hay tuyệt!

    - Đúng rồi. Lúc ấy tao ngủ rất say mà cũng phải tỉnh giấc.

    - Bọn toán 4 đấy.

    Đêm hôm sau cả phòng ta thức chờ nghe tiếng đàn. Còn ta căng mắt nhìn trong bóng đêm tìm người đánh đàn.

    Người con trai khoa toán ấy sau hôm giáp mặt ở giảng đường, có vẻ rất ghét ta thì phải. Thậm chí có những lúc ta chào hỏi như một người quen biết:

    - Anh đi học về đấy à?

    Người con trai ấy đã gườm mắt xuống không thèm đáp lại. Nhưng lại hay giáp mặt ta để gườm gườm.

    Sơn vẫn đến đều đều. Ta bắt đầu có cảm giác là Sơn nhạt nhẽo thế nào ấy. Sao ánh mắt Sơn lúc nào cũng dịu dàng mà lại không gườm gườm? Sao Sơn không biết đánh đàn nhỉ? Ta giở trò ngang bướng, Sơn chỉ nhẹ nhàng. Đừng nên thế. Giận dỗi hay sinh ra lỗi lầm lắm đấy. Sao Sơn không giáng cho ta một cái tát tai nhỉ? Ta sẽ khóc, và sẽ dỗi, cố nhiên, nhưng sau đó ta sẽ hôn anh nồng thắm hơn cho mà xem!

    Một đêm trăng rất tỏ ta và Sơn đi dạo chơi quanh bãi cỏ sau trường. Mặc dù chẳng hề dỗi hờn, cãi nhau nhưng lòng ta dửng dưng đến kỳ lạ. Ta bình thản đi bên cạnh anh. Chợt tiếng đàn quen thuộc vang lên. Tiếng đàn ấm áp và gần gũi, ta để Sơn đứng đó và chạy lại nơi có tiếng đàn. Người con trai khoa toán. Anh chàng không nhận thấy ta đang ngước nhìn vầng trăng dịu hiền và tiếp tục gảy những nốt nhạc buồn tẻ. Ta cảm thấy rõ rệt rằng ta chẳng thể yêu Sơn được nữa. Ta đi lại bên Sơn.

    - Anh Sơn ơi, em không yêu anh nữa đâu.

    - Đã đến lúc rồi đấy à? Anh tưởng anh giữ được em. Con chim lạc loài.

    - Bọn mình chia tay nhau nhé. Đừng giận em nhưng em không thể dối lòng mình.

    - Cảm ơn em vì sự thật... Tiễn anh lần cuối nhé. Ta tiễn anh ra cổng trường. Anh bắt tay ta rồi cầm tay áp lên má anh.

    - Anh chẳng nói với em gì cả nếu như em thấy lòng em muốn thế. Nhưng bao giờ em sẽ dừng lại hở cô bé?

    - Em không cần anh phải nghĩ hộ em đâu.

    - Em hãy biết dừng lại ở một người đàn ông nào đó.

    Sơn về, ta chạy lại phía người con trai đang đánh đàn, ta lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh anh:

    - Anh không đuổi tôi chứ?

    - Chị cần gì?

    - Cần nghe đàn. Mà đừng có gườm gườm nhìn tôi như thế, hãy dịu dàng đi.

    - Xin lỗi chị, chị cứ việc ngồi, tôi về.

    - Đừng. Anh hãy đánh đàn tiếp đi. Đêm nào tôi cũng nghe anh đàn thành ra nghiện đấy. Tôi đã bảo rồi, đừng gườm gườm như vậy. Mà thôi cứ việc gườm gườm, tôi yêu cái nhìn của anh.

    Người con trai sợ hãi buông rơi cây đàn cứ như là chàng hoàng tử đi săn gặp mụ phù thủy.

    - Tôi xin chị đừng có giễu.

    - Không, tôi nói thật đấy. Tôi muốn anh dạy tôi đánh đàn. Tối mai tôi đợi anh ở đây nhé.

    Tối hôm sau ta ra bãi cỏ. Người con trai đã đứng đợi ta ở đấy rồi.

    - Thế là bạn không đùa.

    - Tất nhiên, anh thấy đấy.

    Người con trai ấy đã dạy ta đánh đàn. Ta hát cũng khá hay. Thường thường người con trai đánh đàn cho ta hát. Ôi, cái bãi cỏ mượt mà ở sau trường. Cho đến tận bây giờ mỗi lần đi qua một bãi cỏ xanh, ta vẫn cứ phải ngồi xuống đó một chút và bên tai ta cứ văng vẳng tiếng đàn. Và ta đã rời bỏ người con trai ấy khi anh chàng vừa kịp thổ lộ yêu ta. Mà cũng chính tại anh ta thôi. Anh ta đã dạy ta hát, đàn tận tình quá. Ta vừa đàn vừa hát. Một tài năng hiếm ở đàn bà. Một nhà văn nào đó đã viết được điều hay ho này: "Ở người đàn bà hát hay, hay đàn giỏi chỉ là sự làm duyên làm dáng thêm để kiếm tấm chồng tốt hơn". Anh ta đã không biết điều đó nên tối hôm ấy đã mời ta đi dự sinh nhật bạn anh, một nhà văn trẻ. Hôm ấy ta vừa đàn vừa hát một bài ca độc đáo. Ta được hoan hô như với một nhạc sĩ tài ba. Và anh nhà văn, đã tặng ta thơ và những quyển sách do chính anh ấy viết. Ta vốn hâm mộ thơ văn như hâm mộ tiếng đàn. Rồi sau nữa? Đó là hôm ta đến chỗ anh ấy. Ta bắt được trên bàn viết của anh ấy một lá thư viết dở. Ta đã tò mò đọc và yên trí rằng đó là lá thư viết cho ta. Lời lẽ trong thư âu yếm như được chép lại từ những lời anh ấy nói với ta. Đến cuối thư ta mới giật mình đọc tên bà nữ chúa của lòng anh ấy. Ta đã hiểu rằng, ta chỉ là một rung động nho nhỏ như bao điều rung động đã giúp anh ấy viết lên những tác phẩm của mình...

    Sau đó là giai đoạn trống. Ta tự nhìn lại bản thân mình. Nhưng đó không phải là cái nhìn để biết dừng lại, mà lại là cái nhìn thấu đáo để tu sửa bản thân cho thêm phần hấp dẫn. Ta sửa lại mái tóc cho thật hợp với khuôn mặt hơi bị gãy. Đôi mắt vốn đã đen và sâu tô mầu đậm cho thật sâu hun hút. Ta chọn loại kem nâu xoa mặt. Mầu trắng kể ra có hấp dẫn hơn nhưng không được khỏe khoắn. Ta thích mặc các loại áo thun bó sát lấy người để khoe những nét đẹp của tạo hóa. Ta tạo nụ cười duyên dáng và điệu cười ròn rã lôi cuốn. Duy có cái nhìn ta vẫn giữ nguyên: thẳng và sâu.

    Khi đã kịp sửa sang xong thì bản "trường ca" lại tiếp diễn. Một cậu bé thi rớt đại học lên ở với anh là một chàng sinh viên cùng lớp với ta. Cậu bé con mới lớn thật đáng yêu. Tất cả ở cậu bé đang là thời kỳ quá độ, chuyển từ một chú thiếu niên lên một trang nam nhi. Và đôi mắt thì quả là tuyệt, trong veo và đen láy. Nhìn cậu bé ta ưa ngay. Ta hay bảo ban cậu bé bài vở. Còn cậu thì chẳng hiểu sao lại quý chị quá vậy. Chẳng khó khăn gì mà không nhận thấy điều đó. Ta có thể gạt phắt ra ngoài lề, để chẳng bao giờ phải nghe những từ ngữ chưa phải lúc thốt ra. Ồ, nhưng mà với ai kia chứ, hãy nhìn cậu bé mà xem kìa: cặp mắt trong veo đến là thương, má thì đỏ dậy.

    - Em rất thích chị. Không phải, hơn thế nữa kia. Em yêu chị - Một lần cậu bé nói.

    - Chị cũng yêu em.

    - Không phải, chị cố tình không hiểu em.

    Nói xong, cậu bé lấy hai tay ôm chặt khuôn mặt nóng bừng sợ hãi. Ta suýt nữa thì phá lên cười như điên nhưng may sao kìm được. Ôi! Tình yêu từ thuở mới bắt đầu! Ước gì hồi ấy ta không lớn hơn cậu bé nhiều đến thế. Thực ra ba năm chẳng phải là khoảng cách lớn lắm. Nhưng cậu bé ơi, lúc ấy ta đã ý thức được tất cả những gì ta làm rồi. Cậu nhận thấy ở ta những nét sinh động nhí nhảnh, thật đáng yêu như những cô bạn cùng lớp với cậu phải không? Những cô ấy không ý thức được nét nhí nhảnh, đáng yêu ấy có tác dụng gì đâu. Họ xuất phát từ tâm hồn trong trắng tràn đầy sinh lực về cuộc sống đẹp đẽ trước mắt, về những cái họ sắp được trải qua. Riêng ta, ta ý thức được những nét nhí nhảnh đáng yêu kia sẽ lôi cuốn được các cậu như thế nào? Và các cô gái, sau hành động nhí nhảnh đáng yêu ấy họ sẽ hướng về phía trước, rung động. Còn ta, ta ngoảnh lại phía sau để xem kết quả.

    Cậu bé quá ư rụt rè và trân trọng. Một chút quà nho nhỏ, một sự âu yếm nho nhỏ cũng phải dùng biết bao sức lực. Thế mà ta phải cố tạo ra vẻ nghiêm trang, thành thực. Sự ghen tuông của cậu mới đáng nói chứ. Đến phòng ta gõ cửa, thấy ta đang tiếp các bạn trai. Cậu bé đứng đợi ngoài phòng. Khoảng 15 phút sau ta chạy ra tìm không thấy cậu bé đâu. Ta chạy ra con đường hay đi dạo, thấy cậu bé đứng úp mặt vào gốc cây xà cừ khóc thổn thức. Ta phải dỗ dành:

    - Thôi đừng khóc nữa. Nín đi nào. Bây giờ thì đi dạo nhé.

    Tâm hồn trong trắng và dễ tin quá. Cậu bé cứ nhất định đòi cưới ta làm vợ. Chà, cậu bé mười tám tuổi... Ha... Ha. Cưới ư? Hừ, đấy với ta. Ma lực và chinh phục! Thực ra mi đã mất đi một nửa cuộc đời. Mi tưởng rằng mi được nhiều ư? Cũng khá đấy nhưng mi chẳng bao giờ biết đến cái hạnh phúc được một người đàn ông hỏi mà làm vợ. Vậy mà còn cười được ư?

    Thế rồi gia đình cậu bé biết chuyện. Họ ra sức khuyên can cậu bé. Vô hiệu. Đối với cậu bé ấy, cuộc sống chỉ có ta. Cuối cùng họ phải chạy vạy cho cậu bé đi xuất khẩu lao động mặc dù cậu bé đã đủ điểm vào đại học, nhằm mục đích tách khỏi ta nhưng họ sẽ chẳng có kết quả gì nếu như ta không bị lương tâm cắn rứt. Hãy thôi cái trò đùa ấy đi. Ta khuyên cậu bé: mình hãy cứ đi đi, ba năm có gì là lâu đâu, ba năm lúc ấy mình mới ra dáng một đức phu quân chứ - Cậu bé ra đi, ta thở phào nhẹ nhõm - Đỡ phải day dứt lòng.

    Thời sinh viên trôi nhanh như một cuộc vui. Thấm thoát đã đến năm học cuối cùng. Ta nhớ lại lời chia tay của Sơn. Hãy biết dừng lại ở một người đàn ông nào đó. Các bạn gái chung quanh ta thì đã yên vị cả rồi. Đấy là các quy luật truyền qua các khóa sinh viên: một điệu, hai kiêu, ba yêu, tứ liều. Có nghĩa là năm thứ nhất mới vào trường thì còn điệu. Năm thứ hai nhiều anh "xô" nên kiêu căng. Năm thứ ba thì chọn được một chàng ưng nhất và yêu. Năm thứ tư, ra trường phải liều mọi cách để được về công tác cùng một nơi. Nhưng cái quy luật ấy chẳng ngấm đến ta. Ta vẫn cứ bị trượt dài.

    Ngày...

    Một chiều đẹp sau khi cậu bé ra đi ta đi dạo phố. Qua Hà Đông ta rẽ vào xem ca nhạc, trên sân khấu có một nhạc công rất đẹp, vẻ đẹp người La Mã. Chắc hẳn phải có dòng máu pha trộn. Ta đã ngắm nhìn anh ta. Càng nhìn càng thán phục vẻ đẹp rất hoàn mỹ. Lúc ra về ta đứng đợi ở cổng với hy vọng được nhìn anh ta gần hơn. Và hôm ấy ta gặp may. Anh ta đi qua nơi ta đứng. Anh ta bước đi hững hờ, chiếc kèn ô-boa vác trên vai càng tôn thêm chất nghệ sĩ ở anh. Ta nhìn anh ta chăm chú. Linh cảm được cái nhìn rất nhạy, anh ta quay lại:

    - Cô bé nhìn gì thế, chiếc kèn này chăng?

    - Nhìn anh. Ta đáp.

    - Cô hãy ngắm kỹ đi. Này, nhưng cô được cái gì chứ, khi tôi đi rồi.

    - Đẹp đấy nhưng có lẽ tâm hồn chẳng được như cái vẻ bên ngoài.

    - Lạy Chúa, cô là phù thủy à?

    - Tôi muốn làm quen với anh.

    - Thôi được. Nếu chúng ta làm quen. Tên tôi là Trung. Tôi có thể đưa cô về được chứ?

    Ta đã làm quen với anh ta như thế. Tối hôm sau anh ta đến mời ta đi xem phim. Tan phim khoảng 9 giờ tối. Anh ta rủ ta đi dạo quanh công viên. Công viên ven sông vắng vẻ. Trăng mờ ảo rọi qua các kẽ lá. Anh ta khá hiểu biết về cuộc sống, về văn hóa nghệ thuật. Nói chung đó là cái vốn để anh ta giao tiếp với các cô gái. Câu chuyện xoay vần đến cái mấu chốt cuối cùng giữa đôi trai gái là tình yêu. Anh ta nói đến cái quan niệm yêu đương. Anh ta kể rằng có những cô gái đã hâm mộ anh ta tới mức chỉ cần có với anh ta một đứa con. Rồi bất ngờ anh ta ôm chặt lấy ta. Ta chỉ đợi một cái hôn dội xuống nhưng anh ta đã đi xa hơn. Ta chống cự nhẹ nhàng nhưng buộc anh ta phải buông ra ngay:

    - Xin lỗi, tôi tưởng cô cũng thích thế.

    - Thích thế nào? Tôi hỏi anh: anh hành động với tôi như thế là do cái gì? Có phải là do yêu tôi không?

    - Yêu á? - Anh ta phá lên cười - Yêu á? À thế ra cô thuộc loại cần tiếng yêu đi trước. Nhưng thưa cô bây giờ hiện đại hơn rồi. Người ta chỉ cần nắm bắt qua cử chỉ và ánh mắt thôi, chứ cần gì phải nói đến yêu.

    - Chà, hành động vừa rồi chỉ có thể tha thứ được bằng sự thúc giục của con tim, anh biết chứ. Bây giờ thì anh nhận lấy.

    Ta giáng cho anh ta hai cái tát. Anh ta định nổi khùng nhưng trấn tĩnh lại ngay.

    - Thôi được rồi. Nhưng tại sao sau khi tôi kể chuyện cô không phản đối gì. Tôi tưởng cô cũng nông cạn như những cô gái khác. Được, tôi sẽ kể chuyện của tôi cho cô nghe. Ngày ấy cách đây 10 năm, khi tôi còn là một chàng thanh niên mới lớn, tôi bị một người đàn bà yêu say đắm. Đấy là do bà ta thổ lộ với tôi như thế chứ tôi đã biết yêu là gì đâu mà say đắm. Và cũng trên công viên này tôi suýt nữa bị bà ta túm cổ quẳng xuống sông vì đã không biết cách yêu lại bà ta - Thôi nhé, tạm biệt cô. Chắc cô đã chán tôi rồi! - Ta đã thấy ghê tởm và hoảng sợ. Ta hoảng sợ ở chỗ ta thấy rằng ta có những cái gì đó giống như anh chàng nhạc công kia. Đó là cái bản năng núp dưới bóng tình yêu. Không phải thế, ta đã tự bao biện. Ta đều yêu họ đấy chứ, yêu thật sự, bắt đầu từ chính con tim rung động. Tình yêu của ta thật đẹp đẽ và trong sáng. Và họ toàn đến trước với ta đấy thôi!

    - Này cô bạn - Tiếng nói thứ hai cãi lại - Cô đã tự bao biện bằng những lời lẽ quá ngây thơ. Chính cô, cô cũng đã phát tín hiệu trước kia mà.

    - Dĩ nhiên, ta đã phát tín hiệu nhưng tín hiệu ấy xuất phát từ con tim ta.

    - Này cô bạn. Con người ai cũng có những nét đáng yêu riêng. Cô phải chọn những rung động nào là mạnh mẽ nhất thì cô mới có được một tình yêu chân chính bền vững. Nếu không cô sẽ yêu tất cả mọi người đàn ông mất.

    Ngày...

    Ta đã tốt nghiệp đại học. Ta ra công tác, sống ở một môi trường mới nhưng không thay đổi gì về quan niệm yêu đương. Ở cơ quan thấy ta chưa có người yêu, mọi người xô vào làm mối cho ta. Ta nổi cáu - mối với lái. Mình có phải là một món hàng ế đâu cơ chứ. Hãy cứ đến với tôi đi. Nghe thấy tôi nói cười, tôi hát, rồi say mê. Tôi cũng sẽ yêu lại thôi.

    Khi ra công tác, những người đàn ông họ đều trở nên rụt rè cả hay sao ấy. Hoặc là họ nhờ người này, người nọ nhắn nhe lên tiếng. Hoặc là họ hỏi dò hết người này, người khác xem ý kiến thế nào? Có thể họ không còn muốn yêu mà chỉ muốn lấy vợ? Nhưng ta đã có ma lực kia mà. Hãy lôi họ ra khỏi sự sợ hãi. Hãy chiếm lấy tình yêu của họ bằng tình yêu của ta. Tình yêu của ta - có lẽ chưa thật đúng, sở thích thì đúng hơn. Hãy thể nghiệm những điều linh cảm đi. Được lắm, họ đã từng đến trước với mình kia mà. Vậy thì ta càng có thể đến trước với họ được lắm chứ!

    Ngày...

    Ta hay đi dạo chơi một mình. Phải chăng nhiều chuyện bắt đầu từ những cuộc dạo chơi đó? Ta lững thững đi trên hè phố và chiều nay là một chiều đông ảm đạm. Phía trước ta là một người đàn ông to cao vạm vỡ dắt một đứa con gái bé xíu. Đứa bé thật xinh xắn trong chiếc áo len đỏ. Con bé nhũng nhẵng quay ngang quay ngửa. Nó phát hiện thấy ta cũng mặc chiếc áo len đỏ như nó. Nó rút tay ra khỏi tay cha nó, chạy lại phía ta. Người đàn ông quay lại mỉm cười:

    - Con lên đây với ba, đừng làm phiền cô.

    - ứ ừ con thích cô cơ.

    Ta hơi rùng mình một chút bởi cảm giác được tạo nên khi người đàn ông kia gọi con gái mình. Tiếng gọi rất đỗi dịu dàng ấy được phát ra từ người đàn ông trông rất dữ tợn. Tuy thế ta vẫn nắm chặt tay con bé và cố tạo bộ mặt phớt lạnh như bao lần khác:

    - Con đi với cô, ba về nhà đây.

    - Ứ ừ.

    - Thế đi lên đây với ba.

    - Nhưng con thích cô cơ!

    Người đàn ông đi chậm lại. Ta phát hiện trên ngực người đàn ông lạ kia có một băng tang đen. Lúc ấy ta có linh cảm rằng chiếc băng để tang, để thương nhớ người vợ đã khuất. Bởi thế khi đi qua nhà, người đàn ông mời ta vào, ta đã không ngần ngại:

    - Xin mời chị vào nhà.

    - Cô ơi nhà cháu đây này!

    Căn nhà rộng rãi nhưng trễ nải, biết ngay là thiếu sự có mặt của người phụ nữ. Để củng cố nhận định cho chắc ta tìm kiếm trong căn nhà chiếc bàn thờ nhang khói nhưng không thấy. Người đàn ông lạ đã tiếp ta lịch sự nhưng không hề tỏ ý cởi mở thân thiện. Cô bé mang ra khoe với ta một hộp đồ chơi. Như không nhìn thấy thái độ lạnh lùng của người đàn ông, ta đã ngồi chơi rất dịu dàng với con bé. Điều này ta chẳng phải lên gân lắm. Ta vốn yêu con trẻ và biết cách chơi với chúng. Người đàn ông kiếm quyển sách và ngả mình trên đi văng. Ta nhận thấy người đàn ông thỉnh thoảng có liếc mắt về phía ta khó hiểu và khó chịu nữa. Chơi được một lúc ta định đứng lên về thì con bé níu ta lại:

    - Cô ơi cháu buồn ngủ lắm.

    - Nhưng cô phải về. Ba cô sẽ đóng cửa không cho cô vào đâu.

    - Nhưng cháu buồn ngủ.

    - Lại đây với ba. Con làm phiền cô như thế là đủ rồi đấy.

    - Ứ ừ, nhưng con thích cô bế con cơ. Cô bế cháu như thế này rồi cô ru như thế này đi.

    Cô bé nhắc đến mẹ nó. Một sự thương cảm nhói lên vì sự nhận định lúc trước của ta, thế là ta bế con bé. Mọi người vẫn hay khen ta ru trẻ con khéo. Chẳng mấy chốc con bé đã ngủ say trên tay ta. Ta ngắm nó ngủ, con bé xinh quá.

    - Chà, xin lỗi, chị đã có gia đình chưa? - Người đàn ông thốt lên làm ta giật mình bối rối. Ta lắc đầu.

    - Vậy ra bản tính làm mẹ là phản xạ bẩm sinh ở phụ nữ. Chị ru trẻ con mới khéo làm sao!

    Ta đặt con bé xuống giường. Được lời khen của người đàn ông, trong ta chợt bừng lên ý nghĩ làm ta thích thú. Ta sẽ làm cho người đàn ông ngạc nhiên nữa. Ta nhanh nhẹn đi thu gọn nhà cửa. Chỉ một loáng, căn nhà trở nên gọn gàng, sạch sẽ. Dọn xong trên nhà ta đi xuống bếp. Người đàn ông như chết lặng trên đi văng không hiểu ra sao? Dọn dẹp xong xuôi ta rửa chân tay và đứng giữa nhà chắp tay quan sát kết quả lao động của mình. Người đàn ông nhìn ta thân thiết và bất giác thu gọn người lại trên đi văng như ta sắp sửa ngồi xuống bên cạnh. Ta hiểu cử chỉ đó và bật cười khanh khách.

    - Chào tạm biệt ba con anh nhé.

    - Chị về ư?

    - Chẳng lẽ tôi cứ ở đây mãi?

    - Chị sẽ lại đến đây nữa chứ.

    - Cảm ơn, nhưng tôi còn có việc của tôi.

    Ta ra về với ý nghĩ rất vui thích là đã để lại trong lòng người đàn ông kia đầy rẫy những câu hỏi. Ta là ai? Ta là người như thế nào?... Và ý nghĩ ta sẽ không còn bao giờ gặp lại họ nữa để cho họ nhiều phen đi dạo phố và ước ao. Kể cũng hay thật!

    Nhưng chỉ vài hôm sau, khi ta vừa kịp quên câu chuyện cũ, đột nhiên người đàn ông và con bé xuất hiện ở chỗ ta.

    - Cháu chào cô. Cô đến nhà cháu chơi nữa đi.

    - Xin lỗi! - Người đàn ông lúng túng. Ta phải chiều con trẻ thôi chị ạ.

    - Cô đến nhà cháu đi.

    Ta vui vẻ và vô tư đi đến nhà họ. Người đàn ông đã mua sẵn nhiều thức ăn tươi. Như lần trước ta lại chơi thật thân thiết với con bé. Sau đó ta và con bé xuống bếp làm cơm. Con bé vui quá. Ta định dò hỏi nó về mẹ nó xem sao? Có phải mẹ nó chết rồi không? Nhưng ta sợ nó khóc, đành thôi. Sau đó bữa ăn được dọn ra, sạch sẽ và ngon lành.

    - Ba ơi ngon quá. Con chưa bao giờ được ăn ngon như thế này.

    - Cảm ơn. Bữa ăn ngon thật!

    Quả là họ ăn ngon, như chưa bao giờ được ăn ngon như vậy. Người đàn ông rất ít nói. Ông ta chỉ nói phụ họa con gái. Ông ta không hề hỏi han ta và cũng chẳng hề có ý định cởi mở tấm lòng.

    Những lần sau ta đến chơi và ta tự nhận thấy ở ta có một cảm xúc đến tự bao giờ, không hề báo trước. Đó là cái cảm giác ấm cúng trong căn nhà. Và đôi khi ta bắt gặp ta nhìn say đắm cái hình ảnh con bé ngồi nũng nịu trên lòng ba nó. Có lẽ ta muốn dừng lại ở người đàn ông này chăng? Thế nhưng người đàn ông cứ một mực im lặng. Ta thường ra về khi đã ru con bé ngủ.

    Thời gian đã trôi đi khá lâu kể từ cái chiều đông ảm đạm nọ. Ta cảm thấy ta đã quen lắm với ngôi nhà nhỏ kia. Một buổi tối con bé hỏi ta:

    - Cô ơi, cô có phải là mẹ cháu không?

    Ta rùng mình và có cảm giác tan biến đi. Có thể ta lại trở nên nhẹ bỗng như bao lần. Ta nghĩ rằng đó là lời của cha nó. Sau đó ta kín đáo quan sát vẻ mặt người đàn ông xúc động hơn ngày thường. Ông ta chú ý quan sát ta ru con bé hơn mọi bận. Con bé ngủ rồi ta đặt con bé xuống giường và kéo ghế ngồi đối diện với người đàn ông. Ta nhìn rất thẳng vào mặt người đàn ông. Ông ta cũng có vẻ nhìn ta chăm chú nhưng đó là đôi mắt không có hồn, ta hỏi người đàn ông:

    - Anh có muốn cưới em không?

    Người đàn ông giật mình như tỉnh cơn mơ.

    - Không, tôi sợ người đàn bà như chị. Người đàn bà có sức quyến rũ ma lực. Mà lại không phải là sức quyến rũ tự nhiên. Ngay từ đầu đã kìm người khác vào cái vòng phong tỏa của mình. Rồi sau đó lại ý thức được cái mà chị đang làm. Chị sẽ tha hồ mà giật mà kéo... Chị tưởng tôi không nhận ra những cái hoàn hảo nơi người đàn bà như chị ư? Nhưng tôi đã phải như không nhìn thấy. Mẹ của bé Vân Anh cũng thế, chị tưởng cô ta chết ư? Không phải thế. Cô ta ru con còn khéo hơn chị nữa kia. Cô ta còn dịu dàng hơn chị nữa kia. Nhưng cô ta đã bỏ đi rồi. Không, tôi sợ, chị hiểu không. Tôi đã để tang đàn bà.

    - Cảm ơn anh về sự thật. Nào, chúng ta chia tay đi.

    Người đàn ông giơ tay ra bắt và cứ thế nắm chặt tay ta một lúc lâu.

    - Không, em đừng đi, tôi sẽ cưới em, dù cho sẽ phải chịu đau khổ một lần nữa. Trời ơi, tôi đã cố tình im lặng và gạt bỏ đi, thế mà em còn nói làm gì. Hãy cứ để cho tôi được im lặng và tận hưởng cái hạnh phúc được nhìn em dịu dàng ru con là đã đủ lắm rồi.

    - Đàn ông các anh thật tính toán. Muốn có hạnh phúc lại sợ đau khổ? Anh không biết rằng tạo hóa đã rất công bằng đấy ư? Thôi, chấm hết. Chào anh.

    - Em không quay lại với bé Vân Anh nữa ư?

    Ta không đến căn nhà nhỏ nữa nhưng ta cứ ngóng chờ ba con họ đến tìm. Ta chỉ mong họ đến lần nữa. Ta cứ chờ, thành ra ta không có được cái cảm giác khắc khoải khi chia tay. Ta cứ chờ và họ đã không đến.

    Rồi thế nào nữa? Cái ý định dừng lại nung nấu ở trong ta chẳng phải chỉ còn là trong mộng tưởng mà chính là do sự thật đã dạy cần phải như thế. Những công việc ở cơ quan không phải lúc nào cũng bằng phẳng. Ta không thể phàn nàn hoặc tìm nơi an ủi ở bố mẹ được. Chính bố mẹ còn nhiều nỗi buồn phiền hơn ta. Còn các bạn gái thì câu an ủi muôn thuở - hãy chịu đựng cho quen. Ta đành câm lặng với vết chém trong lòng. Ta trở nên bẳn gắt, hoài nghi. Một lần sau khi phải chịu đựng sự ngang trái của bà tổ trưởng, ta không sao giữ lại được trong lòng, liền tìm đến người bạn đã lớn tuổi hơn của ta. Chị ấy nghe hết nỗi niềm tâm sự của ta. Chị ấy bảo:

    - Em nên lấy chồng đi em ạ. Tất nhiên không phải người chồng nào cũng được như ý mình, cũng mang lại hạnh phúc, sự sung sướng cho mình cả đâu.

    Nhưng chị tin rằng những lúc như thế này em sẽ tìm được sự thông cảm nơi chồng em và sự vuốt ve âu yếm sẽ làm dịu đi cơn đau trong lòng. Em có thấy không, những bà cô quả đấy, họ khô khan, họ bẳn tính là bởi họ thiếu sự đồng cảm, họ thiếu sự âu yếm mà họ cần đến như em lúc này. Em ạ, hãy nghe chị.

    - Đúng đấy - Chồng chị ấy lên tiếng - Những ngày đầu khi chị ấy mới đi làm anh đã bị rách bao nhiêu là áo nhé, mà chỉ rách ở vai thôi. Nếu không có anh, khéo chị ấy bỏ nghề đi buôn rồi.

    - Anh thì chỉ...

    Ta ra về lòng chất nặng những suy nghĩ của họ. Có lẽ họ nói đúng. Họ đã trải qua kinh nghiệm sống hơn ta nhiều. Ta muốn dừng lại. Nhưng... liệu ta có đi quá đà rồi không? Vì ở tuổi ta lúc đó duyên số không còn mặn mà chào đón nữa. Và sự làm mai mối thì người ta sợ, hoặc họ muốn trừng phạt ta cho đáng đời.

    Nhưng vẫn chưa phải là hết. Một người đàn ông nữa đến với ta. Đó là người đàn ông cuối cùng ta đặt hết thảy hy vọng để dừng lại. Ta đã thật chân thành và nghiêm túc.

    Anh ta mới đi thực tập sinh ở nước ngoài về. Như bao cách gặp nhau để xây lên một mối tình mơ mộng, ta và anh ta gặp nhau ở nhà một người bạn. Ngay từ đầu anh ta không làm ta hấp dẫn vì cái mẽ bề ngoài. Dáng người nhỏ bé tuy không quắt. Mắt đeo kính cận nặng, khuôn mặt bầu bĩnh trắng trẻo như con gái, tóc dài mượt như tóc trẻ con. Anh ta có một chút gì đó giống nghệ sĩ và bị hút ngay vào điệu cười ròn rã của ta.

    - Chị cười hay quá!

    - Xin lỗi, tôi làm phiền anh.

    - Không, thành thực tôi chưa bao giờ được nghe điệu cười ròn rã vô tư như thế ở người lớn.

    - Xin lỗi, đây không tiện đàm thoại về những điệu cười. Nếu có thời gian anh hãy qua chỗ tôi chơi nhé.

    - Vâng, rất hân hạnh.

    Anh ta đến. Nhưng không phải đàm thoại tiếp về những điệu cười. Đến để kể về chuyến đi "làm giàu" ở nước ngoài của anh ta. Chắc là anh ta chưa có dịp kể cùng ai. Hơn 10 tháng anh ta đã kịp mang về 100 chậu nhôm to, 40 phích vĩnh cửu, 2 đầu máy khâu, 2 tủ lạnh Xaratốp,v.v. Bao nhiêu là thuốc men. Anh ta kể anh ta được ở khách sạn du lịch. Đủ các khách du lịch ngoại quốc đều đến ở khách sạn này: Tiệp Khắc, Bungari, Hungari, Ba Lan, Nhật Bản... Những người khách du lịch mang theo hàng hóa để đổi. Anh ta chỉ việc ngồi ở bàn quay tê lê phôn. Anh ta dùng thứ tiếng Anh thông dụng.

    - Hê lô. Anh từ đâu đến.

    - Ba Lan.

    - Tuyệt vời. Tôi muốn có một đôi giày. Anh có mang đi chăng?

    - Chỉ có thế thôi em ạ. Anh nói số phòng thế là họ mang đến. Có thể họ sẽ lấy tiền nhưng thường thì họ đổi bằng những cái làn cói, lẵng hoa hồng, đồng hồ điện tử... những thứ anh mang ở Việt Nam sang. Anh treo la liệt những thứ đó ở trong phòng như để trang trí. Lúc mang ra khỏi khách sạn thì cũng khó đấy nhưng anh đã kết thân được với hai cô phục vụ viên to gấp ba anh đây này. Cao hơn anh hẳn từ vai lên. Em biết không? Ở bên ấy có tục lệ rất hay nhé. Muốn kết bạn với nhau thì phải uống rượu. Nếu đã mời rượu rồi thì có thể ngủ... à hôm anh và các cô ấy nhảy với nhau đến gần sáng. Anh lọt thỏm trong vòng tay cô ta quay cuồng. Buồn cười thật. Anh cố dang cả hai tay thế này cũng không vòng hết eo cô ta. Anh mệt muốn chết mà cô ta lại cứ hăng hái. Sau cùng anh tặng cô ta một chiếc áo phông Thái. Cô ta sướng tưởng chết ngất. Ngay lập tức tối sau cô ta mặc vào mời anh đi xem phim. Đến lúc tan buổi chiếu, anh thấy mặt cô ta xám lại. Anh vội gọi ta-xi đến bệnh viện. Thì ra cô ta suýt ngạt vì nịt chặt quá... Ha ha...

    - Ngoài ra, anh còn có đường dây sinh viên. Bên ấy buôn bán đâu phải đi lại cho nặng nhọc. Ở thành phố anh ở có mặt hàng gì mới, anh tê-lê-phôn đi các nơi khác hỏi giá cả. Họ thông báo. Nếu hơn, anh lập tức đi mua... Tất nhiên mua cũng khó. Mua được rồi anh gửi vào toa hàng hóa của đoàn tàu tốc hành. Sau đó anh quay tê-lê-phôn nói số tàu và số hành lý. Mấy ngày sau họ gửi bưu điện trả lại tiền cho anh.

    - Số anh hay gặp vận đỏ em ạ. Nhất là đàn bà. Họ hay cho anh lắm. Bà chị nuôi cho anh chiếc đồng hồ này. Cô con gái ông bảo vệ viện tặng anh chiếc xe đạp.

    - Em hãy tính hộ anh xem nhé, 1 chiếc chậu nhôm 6.000 đồng, một chiếc phích vĩnh cửu 36.000 đồng. Em xem anh sẽ có gần 2 cây. Anh sẽ mua thành vàng hết.

    - Anh còn phải phấn đấu để đi Dupna một chuyến. Chà! Có em nữa. Em sẽ làm những việc này cho anh. Thì sau đó, xem nào bọn mình sẽ có vài chục cây. Anh sẽ xin về hưu luôn, chẳng phải đi làm gì cho vất vả...

    Đúng, anh ta sẽ chẳng phải đi làm gì cho vất vả, khi đã giàu có. Nhưng hãy xem kẻ giàu có đã xử sự như thế nào.

    Một lần anh ta rủ ta đến chỗ cô em gái chơi. Anh ta nhảy vội lên xe buýt và chiếm được một chỗ tốt. Anh ta ngồi ung dung và mắng ta về tội lề mề không chịu nhanh nhẹn nên bây giờ phải đứng. Sau đó anh ta say sưa kể rằng ở bên Tây, đến những chỗ công cộng bao giờ cũng được đối xử rất lịch sự như được nhường chỗ chẳng hạn. Ta thấy gai hết người muốn châm chọc anh ta đôi lần nhưng ta cứ im lặng. Ta muốn mình dịu dàng.

    Lúc xuống bến ô-tô buýt trời nắng oi ả. Anh ta mời ta vào quán giải khát rất lịch sự. Anh ta gọi hai cốc trà đá. Ta không sao nuốt được cái thứ nước ngang ngang, lành lạnh ấy.

    - Sao em không uống đi, thứ nước này giải khát tốt lắm.

    - Em không biết uống, anh cứ uống đi.

    - Ừ, người Tây bao giờ cũng rất tiết kiệm em nhé. Họ đã mua gì thì họ chẳng bao giờ để phí đến một giọt.

    Bà chủ quán nhìn cảnh anh ta uống hết hai cốc trà đá, còn ta thì ngồi không bèn như muốn nhắc nhở:

    - Sao chú?

    Ta đã nhăn mặt, cố xua tay để bà chủ quán đừng nói tiếp. Ta sợ bà ta nói ra thì ta sẽ không có cơ hội dừng lại vì ta sẽ vượt qua "rào chắn" của ta mất. May sao anh ta quá chăm chú vào việc uống hết hai cốc nước. Uống xong anh ta đỡ nách ta đứng dậy như kiểu đã no say không thể tự đứng lên.

    - Đi thôi em, cảm ơn bà chủ quán nhé!

    Trong khi đó hai con người trong ta đang đánh lộn nhau khủng khiếp. Một con người muốn dừng lại cứ lảo đảo đi theo anh ta. Còn con người mơ mộng trước kia thì xỉ vả:

    - Hãy quay về đi. Mi không còn chút nhận thức nào ư? Hắn là thằng cha bần tiện!

    - Chưa chắc anh ta đã bần tiện - Con người kia cãi lại. Có lẽ anh ta nhiễm quá sâu phong cách sống của Tây.

    Cho đến một lần ta không thể nào biện bạch nổi cho con người của ta được nữa. Đó là một lần trong lúc đùa vui nhí nhảnh ta và anh ta đã chơi một trò vui đánh đố nhau.

    - Nếu em được cuộc, em sẽ được một chiếc mũ nồi nhé. Còn thua, anh có thể đòi bất kỳ cái gì ở em.

    Anh ta bị thua. Anh ta cứ lờ đi, coi đó là một câu nói đùa nhưng ta đã cố ý đòi để xem thực bản chất của anh ta. Cuối cùng đã đến lúc cực đại của lòng "sĩ diện", anh ta phải đèo ta đi mua mũ. Tìm mãi mới có một chiếc mũ nồi đỏ. Hỏi giá thì đắt gấp đôi mũ nồi đen. Anh ta sững sờ cả người. Mắt anh ta như đứng lại sau cặp kính trắng. Điều này ngoài ta, thì chỉ có chủ hàng biết. Ta đứng sau anh ta giữ xe đạp. Sau phút kinh hoàng, anh ta cứ mân mê số tiền cầm trong tay. Anh ta cứ đắn đo mãi, muốn mua chiếc mũ nồi đen rẻ hơn. Người chủ hàng mỉm cười:

    - Mua tặng "bồ" à? Giá thế có đắt là bao. Tôi mà được phép tặng bồ của tôi, tôi tặng cả gia sản.

    - Im đi, đồ ngốc. Phù phiếm, cái trò vớ vẩn. Chỉ quăng tiền vào những trò vớ vẩn!

    Cùng với tiếng hét cho hả giận, anh ta quăng tiền lên trên mặt tủ kính. Ông chủ hàng quăng trả tiền:

    - Anh hãy cầm lấy tiền của anh. Đồ bần tiện. Hãy cầm ngay những đồng tiền bẩn thỉu của mi. Mi không xứng đáng mua chiếc mũ nồi đỏ này. Rồi mi sẽ làm hỏng cô gái ưa thích nó! Cút đi!

    Tiếng ông chủ quát to làm ta giật mình và nghe thấy hết. Vừa lúc ta quay lại thì bắt gặp cảnh: ông chủ quán đã quá mạnh tay vung tiền của anh ta xuống vỉa hè. Anh ta cúi gập để nhặt tiền vì thế rơi mất kính. Tay anh ta quờ quạng trên mặt đất tìm tiền như người mù. Mấy đứa trẻ con đi qua dừng lại trêu: "A bắt được tiền". Anh ta sợ hãi đứng phắt dậy la to: "Công an, công an giữ chúng lại, nó lấy tiền của tôi". Mặt anh ta tái ngắt, méo mó. Ông chủ quán và những nhà bán hàng bên cạnh chạy đổ xô ra xem và phá lên cười. Ta đã làm đổ chiếc xe đạp đang giữ và co cẳng chạy. Tiếng cười của họ cứ như bám theo ta. Trên đường phố đông đúc đâu mà chẳng có tiếng cười. Ta cứ ngỡ tiếng cười của họ đang đuổi theo. Ta kinh khủng quá. Kinh khủng đến nỗi không khóc được. Ta không ngờ bản chất con người trong một phút mà được lột tả đầy đủ đến như vậy.

    Ta còn nhớ một lần khác, trong lúc anh ta hôn ta, ta đã nép đầu vào ngực anh ta âu yếm, tay ta xoa dịu nơi trái tim anh ta đang đập rộn rã. Đang say sưa, anh ta bỗng gạt phắt tay ta ra một cách thô bạo và nắm chặt lấy miệng túi áo. Ta tưởng anh ta mắc bệnh đau tim. Thì ra, chao ôi, người thợ may! Tại sao cứ phải may túi áo ngực làm gì. Anh ta tưởng mình lung lạc ý chí anh ta bằng những cái hôn rồi thò tay vào túi móc tiền.

    Thế nào? Còn nữa hay không? Thế vẫn chưa đủ sao hỡi con quỷ nhỏ? Mi hành hạ ta như thế vẫn còn chưa đủ sao?

    Tiếng ồn ã của bọn trẻ chơi ngoài sân trong buổi chiều tà làm cho người đàn bà dứt mình khỏi quá khứ. Cái đầu nặng trịch, chân tay rã rời, cơ thể như cứ lún sâu, chìm xuống. Người đàn bà cảm thấy như chẳng còn một chút sinh lực nào. Cái cảm giác thật là dễ sợ. Người đàn bà cố vùng dậy nhưng không sao đứng lên được, choáng váng đến nỗi không thể nào đưa tay rút nổi chiếc khăn mặt. Thấp thoáng bên cửa sổ bóng một đứa bé.

    - Thu ơi vào đây với bác - Người đàn bà gọi yếu ớt.

    - Bác ơi cháu đã thuộc bài hát bác dạy cháu rồi đấy.

    - Ừ, hát cho bác nghe đi.

    Con bé tròn mồm hát: "Tình mẹ rộng bao la. Con tặng mẹ nhiều bông hoa"... Người đàn bà rùng mình. Bàn tay đỡ trên mái tóc con bé cứ siết dần. Từ khóe mắt người đàn bà lăn xuống hai giọt nước mắt tròn to. Người đàn bà vội quay vào tường để giấu đứa trẻ. Rồi vội vã đưa tay lên quệt khô nước mắt. Người đàn bà cố cười và nhẩm hát theo con trẻ. Nước mắt bỗng lại ứa ra lần nữa. Tiếng hát con trẻ vẫn thảnh thót:

    "Tình mẹ rộng bao la"...

    - Bác dạy cháu bài khác nữa đi.

    - Ừ bác sẽ dạy cho cháu. Nhưng bác cháu mình hát lại bài hát này nhé.

    - Bác để cháu bắt nhịp, hai ba:

    "Mẹ vui là mẹ rất vui"...

    Người đàn bà hát theo con trẻ. Cái mệt nhọc, chán chường dần dần bay đi theo tiếng hát. Người đàn bà cảm thấy các mạch máu lại chạy giật giật trong huyết quản. "Quá khứ là dĩ vãng, phía trước là tất cả".

    - Hát hết bài hát này bác cháu mình đi dạo phố nhé.

    - Vâng ạ, thế thì thích lắm ạ.
     
  10. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Cau non – Nguyễn Thị Phước


    Chị em gái như trái cau non

    (Tục ngữ)​

    Lâu lắm tôi mới về quê. Đàn bà con gái khổ thế, vài trăm cây số, xe cộ cà rịch cà tàng đến đón khách trả hàng thì cũng đi chiều đến, vậy mà không bạc cũng thành bạc. Điện thoại, mẹ tôi nói: "Bận quá thì thôi", nhưng tôi biết mẹ mong tôi về. Giỗ cha tôi năm nào cũng được đứa Nam thiếu đứa Bắc. Lần này, Bắc - Nam về đủ, chẳng lẽ lại thiếu đứa ở miền Trung là tôi? Vả lại, thị thành ngột ngạt nóng rét, tôi cần thoát khỏi nó vài ngày. Phải lấy lại cái bình thường cho một sợi nào đó trong hệ thần kinh vì tôi cảm thấy nó không ổn lắm. Bứt khỏi cái guồng quay cuộc sống thường nhật thật không dễ.

    Hai ngày để chuẩn bị cho chuyến đi. Gạo, dầu, mắm, muối, tắm gội cho con, giặt là cho chồng, trăm thứ bà rằn. Biết là chẳng có tác dụng gì vẫn dặn dò đủ thứ. "Anh thấm rồi, em cứ yên tâm về". "Tuyệt đối đừng cho con lại gần giếng". "Em đã có câu đó năm sáu lần rồi!". "Anh phải đổi món cho con đấy!". "Đã bảo nhớ rồi"... Trằn trọc, thấp thỏm, không biết có còn quên dặn gì? Vừa thiu thiu ngủ, cái đồng hồ báo thức nhà bên đã khua roong roong: Lâu nay chẳng biết trách ai, tôi đâm ra hận cái ông nào đã phát minh cái chuông báo thức ấy. Tiếng gì cứ như tiếng gươm giáo chặt nhau trong đầu. Thà chọc béng một nhát vào ngực còn hơn. Không bật đèn cũng biết 4 giờ. Thế là toi một đêm. Tôi nằm nghe bố con, cậu cháu nhà họ chửi nhau như róc nứa, chán, lại đến tiếng dao thớt, soong nồi, bát đĩa. ở khu tập thể lại còn quay đít ra mặt đường, chẳng sinh hàng sinh quán cũng uổng.

    Mình phải kiếm lấy một xó mà bốc ra. Làm cái nghề khốn khổ, cả vợ lẫn chồng, thức đêm thức hôm, lại còn bị tra tấn thế này nữa, năm này tháng khác, chịu không thấu. Cày cho hết báo này tới đài kia, mà mấy năm rồi chưa được cái công trình phụ. Tôi đâm quạu cả ông chồng làm thơ làm văn: Nhà thơ cũng có, chỉ nhà ở là không. Bạn bè cứ thúc. Nội, ngoại cứ mong. Hai quầng mắt tôi cứ sâu thêm, đậm thêm sau mỗi đêm. Kem phấn thế nào cũng không che nổi.

    Làng tôi giống hệt một con thuyền nằm giữa biển lúa. Cha tôi bảo cụ tổ của chúng tôi lánh nạn về đây lập làng này. Ông ngờ mình là cháu con họ Mạc, bởi khi ráp gia phả họ Chu chúng tôi với họ Chu làng Thượng mà chúng tôi vẫn còn là nhánh trên, lại không khớp. Không ai để ý lời ông. Chỉ mình ông mang mãi trong lòng ý định tìm kiếm, nhưng không đầu mối. Phút lâm chung, ông gọi riêng tôi, dặn: "Nhắc - thằng - Trung - chuyện - họ - Mạc, khéo... không - mồ - cha - không khóc... lại - khóc - đống mối...". Và ông máy môi như còn định nói điều gì đó, nhưng không kịp. Anh Trung dăm năm mới về một lần, nhà được mỗi ông con trai, thì sống tận Sài Gòn, lại bị vợ giữ rịt chẳng tha cho về một mình, bởi sợ cái lằng nhằng tình cũ nghĩa xưa... Hai bà chị làm cái việc chỉ liên quan đến tiền.

    Cô em út là giáo viên thì quá môđéc. Tôi thương nó nhất nhà. Ai cũng bảo mặt mũi hai đứa chúng tôi giống nhau như đúc. Hai chị em tôi lăn lóc dưới hầm mà cứ lớn phổng như khoai lang trồng đất cát pha mầu mỡ. Chúng tôi dẫn nhau đi theo đoàn người già trẻ con, sơ tán hết làng này sang xã khác. Từ khi tắm ở giếng làng còn cởi truồng, chúng tôi đã phải quen với tiếng gào rú của máy bay Mỹ, tiếng kêu khóc của những gia đình có người thân bị bom;

    Và chị Tâm khóc không ra tiếng trong buồng vì mới cùng cả chi đoàn đi bới đất, bới nhà, nhặt từng mẩu thịt, nắm tóc... Làng tôi ở gần trạm giao liên. Ngày ngày từng đoàn xe tải dỡ hàng, bốc hàng. Máy bay cứ nghiêng qua, ngó lại, có khi đạp bừa dăm ba trái. Vậy mà chẳng có mảnh đất nào bỏ hoang. Cấy sáng trăng, gặt sáng trăng, trẻ con đội đất mà lớn. Nhà tôi cũng một lần hứng đủ ba trái. "Phúc nhà to bằng cái bình vôi - mẹ tôi thường nói - nó tránh đúng cái hầm". Tôi còn nhớ như in cái cảm giác sắp chết ngạt của hai lăm năm trước. Từng tổ kiến càng rụng xuống người, xâu vào cắn xé. Con út bảo: "Em chẳng nhớ gì". Nó mới ba tuổi mà. Vừa bằng cái phích, bây giờ đã là cô giáo, đã có chồng...

    Tôi về đến cổng thì đã nghe mấy trái cau non đang chuyện nhao nhát trong nhà. Lại cả anh Trung về nữa. Mà về một mình.

    - Nhà giáo và nhà báo được miễn. Còn lại - mỗi vị một triệu. Nhất trí như ủy ban chưa? Lâu không gặp, tôi nghe giọng chị Tâm tôi là lạ, Hà Nội hơn, có gang có thép hơn.

    "Hoan hô trưởng nữ. út nữ này xin đa tạ thịnh tình của tỉ tỉ". út Thảo chắp tay trước ngực, nháy tôi. Quỷ sứ chứ cô giáo gì mà nói năng như bọn choai choai nghiện phim Hồng Kông. Thì em nghiện thật chứ sao. Chị không thấy họ giỏi à? Ra chợ xem, hàng Trung Quốc hơn nửa chợ!

    Đêm, anh Trung nằm nhà ngoài đốt thuốc là liên tục. Thỉnh thoảng có tiếng dép lạt xạt. Chắc anh đi thắp hương. Có cái gì đó khác lạ trong anh, tôi không dám hỏi. Mấy chị em tôi chuyện rầm rì đến khuya. Chuyện làng chuyện xóm mà nghe cứ như tiểu thuyết. Trước kia, chuyện cả làng đi đào đá đỏ bỏ ruộng hoang rất ly kỳ. Bây giờ chuyện hậu đá đỏ hay không kém. Chồng tôi mà về chắc viết được cả pho. Nhiều chuyện cười xong, thấy muốn khóc. Cả chuyện con út lấy chồng cũng vậy. Nó và cậu Bảo yêu nhau, đã mấy năm - hai nhà đi lại. Đùng cái, thôi nhau. Cả hai nhà ngẩn tò te. Vậy mà hai đứa tỉnh queo. Rồi em đi lấy chồng, anh lấy vợ. Có thứ tình yêu nào vậy chớ? Thịt cắt còn đau nữa là... Nó bảo: "Bà cụ non ơi, phải yêu để kịp chán nhau trước khi ra trường, chứ cứ như bà, hai năm cầm tay, bốn năm mới sờ tóc, mất ăn, mất ngủ dầu - hao - trăng - khuyết, để ra thân tàn ma dại à? Lỡ không lấy được lại tự tử tự tiếc, rách việc!". "Khiếp, cô giáo gì như mày..." Tôi nói chưa xong đã nghe nó ngáy. Nó ngủ trông mới xinh làm sao. Nó là đứa tự buộc chân mình bên gốc chuối cho chúng tôi yên bụng đi xa.

    Mùi hương trầm đầy nhà, khiến tôi nhớ cha tôi. Người thích đến nghiện ngập mùi này. Có khi không kịp quấn để thắp, ông xoa bột lên tay để hít hà.

    Rễ hương tự ông rửa, phơi, giã riêng bằng cái cối đá nhỏ. Chu hương ông cũng tự tay chẻ, phơi trên cao. Thắp hương, đợi tàn ông mới đứng dậy. Có việc ra khỏi nhà là ông đóng cửa, giữ mùi thơm lại, thành thử chăn, màn, quần áo, nhà chỗ nào cũng mùi trầm. Đôi khi bây giờ tôi cũng làm vậy. Đi làm về, mở cửa ra, thơm nức mũi, rất thích. Thế là ngày mai cha ở nhà xi măng. Chắc là lạnh lẽo, cô đơn, nhưng sẽ yên ổn hơn. Kín cổng cao tường, khỏi lo đạo tặc quấy phá, người trần làm ô uế, thất lạc. A, nhưng còn khói hương? Chắc sẽ khó vào được nơi người! Có lẽ vì thích mùi trầm quá mà cụ đặt tên chúng tôi là Thơm, Thảo...

    Tôi vẫn không ngủ được. Lại sắp hết một đêm nữa. Ngoài kia anh Trung cũng không ngủ. Tôi chỉ biết mang máng rằng vợ chồng anh trục trặc, lại vào cái lúc đã xế chiều. Con Hiền tốt nghiệp xong không chịu nhận công tác, tha về một anh chàng vô công rồi nghề, hai đứa suốt ngày nằm đườn đưỡn, xem ti-vi, nghe nhạc. Thằng Dũng rớt đại học, đua đòi hút sách. út Thảo mắng trộm với tôi: "Đi ra, hò hét lính tráng được, thế mà về nhà có mụ vợ với hai đứa ranh con lại không dạy nổi. Cứ ném về đây cho em, trị trắng xương, ngoan liền". "Có phải đơn giản như em nghĩ!". "Cứ cố làm nó rối rắm làm gì. Làm khổ nhau cho lắm vào rồi cũng ra đất ra nước cả". "ừ, em cũng có lý. Mà sao chị vẫn thấy lo lo cho em". "Em chẳng khổ đâu. Tiền bạc có chồng kiếm, dạy về - quăng mình xuống đệm, bật quạt, gọi ăn thì dậy ăn. Sau này có con - nuôi vú em". Cái con, cứ bộp bạp thế mà lại mau nước mắt. Anh Trung ốm sơ sơ, nó khóc như cha tôi mất...

    ° ° °

    - Chị Thơm ơi, về thôi. ở đây, chị nghe cánh thợ nói tục không quen đâu - Thảo gọi tôi - Chị em xem cái nghĩa địa làng mình giờ sang không? Y như cái thành phố, nhỉ? Cũng nhà tầng, tường bao, tím vàng xanh đỏ. Toàn dân đi làm ăn xa gửi tiền về xây đấy. Ai chưa xây được là như ngồi trên chảo rang. Người chết cũng tranh mặt đường. Chưa chết đã tranh đất xây mộ...

    - Kể cũng hay. Bây giờ lại có cái thành phố của người chết! Giá có thật một cái chợ mà người sống người chết gặp nhau được như trong truyện thì hay nhỉ?

    Dường như không thèm chấp cái lối nghĩ ngợi vẩn vơ của tôi, Thảo im lặng bước. Cái bím tóc mập mà đen lánh vắt qua vắt lại trên cặp mông tròn đầy. Cả nhà, mỗi mình nó có mái tóc đẹp thế, càng cắt lại càng nhanh dài. Chả bù cho tôi, nuôi thế nào cũng chỉ được như cái đuôi bò, thành thử cứ phải đến thợ uốn tóc.

    ° ° °

    Thế là xong xuôi mọi việc. Coi như ổn được một bề.

    Rồi cũng phải chăm cho bọn trẻ về quê, để còn biết cái gốc gác của mình. Với lại để bà cháu, dì cháu ríu rít với nhau, kẻo nữa lại nhìn nhau như khách. Mẹ tôi dạo này trông lạ hẳn đi. Cái vẻ tinh tướng không hiện rõ trên mặt nữa. Tóc bà như nhiều sợi bạc hơn, từng lời nói cũng không ném choang choang. Tôi tính soạn sửa để sáng mai đi sớm thì mẹ tôi gọi. Đợi đông đủ một lát, bà nói, giọng nghèn nghẹt:

    - Tôi có chuyện ni phải nói cho út và cả nhà biết:

    O đào Vân ốm nặng lắm, chắc không qua...

    Thì có can hệ gì tới chúng tôi mà bà có vẻ quan trọng thế?

    Bao năm nay nhà này có thấy nhắc đến bà già tội nghiệp ấy đâu? Cái nghề hát bà đã bỏ hơn bốn chục năm rồi mà cái nghiệp vẫn chưa hết. Nhà văn hóa huyện đưa người xuống dựng bà dậy nằn nì để học hát. ốm lên ốm xuống mà cũng bò dậy, dạy các o múa hát, mà như sống lại, đôi mắt già bỗng lóng lánh. Có kẻ ác miệng dèm: "Sắp xuống lỗ còn lắm chuyện". Bác chẳng sợ, cứ hát, cứ múa, còn lên sân khấu, đi hội diễn... ấy là tôi nghe cô bạn phóng viên kể thế!

    Chẳng lấy được người tử tế, bà chịu gãy gánh nửa đường, không kịp có nổi mụn con mà ru, đành ru nhờ con thiên hạ, vậy mà không chịu đi bước nữa.

    Nổi tiếng khắp vùng một thời về thanh, sắc; lại biết lắm điệu nhiều lời, cuộc hát nào có đào Vân là không khí khác hẳn. Cha tôi là thầy dạy hát của bà, là ông bầu của gánh hát, cũng phải nể trọng. Cha tôi mê hát, lại được ông nội tôi truyền nghề cẩn thận nên những ngón đàn điệu hát của ông cả vùng không dễ mấy ai sánh kịp. Đến quan phủ quan huyện cũng không dám cậy quyền cậy thế. Vậy mà vật đổi sao dời, ông bỗng thành người khác hẳn. Chúng tôi cũng chẳng biết đến cái quá khứ say người của ông. Thỉnh thoảng tôi nghe ông ca ư ử như sợ ai nghe: "Ngồi thử ngẫm trăm huê (hoa) ai nuốm (nhuộm)... ư... hư... một huê là riêng một ứ... sắc ứ... hương (*)". Bây giờ thì tôi biết ông đã đau rứt rứt ruột khi phải mang theo hàng chục làn điệu ca trù xuống đất. Ông không dạy chúng tôi. Mà có dạy chắc gì chúng tôi chỉ hát hò láo nháo là giỏi, có biết ca trù nó hay nó đẹp thế nào đâu. Cứ thấy u hừ a hà thế thì chán chết!

    - út ơi! Bà Vân là mẹ đẻ con đó... - mẹ tôi khó nhọc trút từng tiếng.

    Chưa để chúng tôi kịp hoàn hồn vì quả bom ấy, bà đã lấy hơi nói liền một mạch như sợ sẽ không còn nói được:

    - Gần ba chục năm rồi... mẹ có tội với con, với bà Vân.

    Mẹ hồi đó là cán bộ. Mẹ buộc bà Vân phải bỏ làng mà đi cho đến ngày sinh con, giao nó cho mẹ mới được về ở làng, với lời thề sẽ mang điều bí mật ấy xuống mồ. út Thảo ngồi như bị đóng đinh xuống phản. Dưới ánh điện, gương mặt nó như nặn bằng sáp. Bất ngờ nó đứng vụt dậy, hét lên một tiếng: "Mẹ!" rồi đâm bổ ra ngõ. Tôi lao theo nó. Tôi rớt sau nó xa lắm mà vẫn nghe tiếng khóc tức tưởi của nó.

    Tôi chạy mãi về cuối làng. Mệt quá, tôi dừng lại. Chợt nghĩ ra mình không nên có mặt ở đó lúc này. Tôi quay về, người hững hụt, chân thấp, mấy lần suýt ngã vào bụi, mặc dù đường làng vẫn sáng điện hắt ra từ mỗi nhà. Đến ngõ, tôi nghe anh Trung đang trách mẹ: "... Chuyện ghen tuông đàn bà còn không dám trách, nhưng bấy nhiêu năm bà Vân sống vò võ, hơn bảy mươi còn phải làm lụng nuôi mình, thế mà mẹ chịu được!". Mẹ tôi phân bua: "Mẹ sợ mất con Thảo. Mẹ thương nó như con đẻ, chăm mớm cho nó từng thìa nước cháo từ khi nó còn đỏ hỏn". Với lại để bà Vân nuôi con, mẹ sợ bố anh đi lại nữa. Bà Vân đẹp, lại hát hay, một thời đàn ông ai cũng mê, nhưng bà ấy lại chỉ mê mỗi ông nhà ta. Mà cứ như có ma, hễ bà Vân ốm đau là y như ông ấy nằm liệt giường, cháo đút không chịu nuốt, dù không ai báo cho ông biết. Mọi tin tức về bà Vân mình giữ kín như bưng mà cũng vẫn rứa.

    Tôi chợt nhớ cái trừng mắt lạnh người của mẹ tôi khi trong bận ăn tôi đã nhắc tới bà Vân. Tôi cũng nhớ lại cái phút lâm chung cha tôi nhìn tôi như cầu cứu. ánh mắt ông lạ lắm, như hờn tủi xót xa, lại như bi phẫn, cam chịu đến tuyệt vọng. Bao năm trời ông sống như cái bóng, vợ đảm con ngoan ríu rít đầy nhà vẫn cô đơn. Tôi lần đầu tiên dám nhìn thẳng vào gương mặt loang loáng của mẹ. Cứ ngỡ bà khóc, hóa ra không phải. Đấy là ánh sáng phản chiếu từ những khung kính treo đầy trên tường. Đúng là mẹ tôi đã mất cha tôi từ khi phải mang cái bầu giả. Hay chưa bao giờ bà có được ông?

    Tự nhiên, cái ước mơ về một ngôi nhà có công trình phụ hoàn hảo trong tôi không còn ráo riết để bám như trước nữa, nếu không nói là biến mất. Cả cái điều tôi định hỏi mẹ - rằng bây giờ chúng tôi phải dậy dỗ con thế nào cho chúng nó sợ, cũng vậy. Chẳng hiểu sao tôi bỗng thấy thèm được như út Thảo. Tôi cảm thấy yêu quý nó hơn bao giờ. Và chuyến về nhà ấy - tôi đã quên nhắc lời trăn trối của cha tôi cho anh Trung.

    Tháng 7-79
     
  11. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Người đàn bà đức hạnh – Nguyễn Quang Sáng


    Khi tôi nhận vai "người điên" trong vở "Khi người điên biết yêu", tôi đến nhà thương điên Biên Hòa để nhập vào xã hội người điên.

    Từ nhà thương Biên Hòa trở về, tôi tìm Năm Thanh. Năm Thanh là cô đào, cùng gánh, cùng hát với tôị Một cô đào lừng danh, hầu như không ngày nào không có hình ảnh cùng lời ca ngợi trên các mặt báo Sài Gòn. Có người dù chưa được dịp xem cô diễn lần nào, vẫn nghe tên tiếng và tài năng của cô, cũng si mê cô theo người khác. Trong làng, trong xóm, thấy cô nào đẹp, người ta ví "Đẹp như đào Năm Thanh". Cô gái nào giọng hát hay, người ta cũng ví: "Hay như đào Năm Thanh". Nơi nào có đào Năm Thanh về, nơi đó trở nên nô nức, tưng bừng.

    Người đang kể chuyện với tôi là lão nghệ sĩ. Lão nghệ sĩ đã một thời được báo chí tôn vinh là quái kiệt, vượt hẳn những nghệ sĩ được tôn là kép độc hoặc kép mùị

    - Năm nay tôi đã bảy chín rồị "Thất thập cổ lai hy". Chẳng biết đi ngày nào, đi ngày nào cũng là hợp với lẽ trờị Không chỉ đủ mà đã quá thừa, có gì để tiếc? Nhưng còn tiếc một điều, đó là chuyện chẳng ai biết, ngoài tôị Tôi có thề với Năm Thanh sống để bụng, chết mang theọ Nhưng nhiều đêm suy nghĩ, nếu tôi mang theo xuống mồ thì trên thế gian này dù có muôn triệu chuyện vui buồn, vẫn thiếu một chuyện đời, chuyện đời của đào Năm Thanh. Đêm qua, trước khi quyết định kể, tôi đã thắp một nén nhang lạy cô ba lạy xin cô cho tôi được phản lại lời thề. Năm Thanh dù mất đã lâu, nhưng hồn cô vẫn thiêng. Không ai hiểu được điều đó hơn tôị Khi tôi cầm nén nhang trước bàn thờ tổ, qua làn khói lởn vởn trong bóng tối âm u của bàn thờ, lần nào tôi cũng thấy cô hiện lên trước mắt tôi những vai diễn của cộ Khi là Lưu Kim Đính, khi là Lữ Bố, khi là một gái quê, khi là một mệnh phụ.

    - Năm ấy! - Tôi thường gọi Năm Thanh là Năm. ở nhà thương Biên Hòa, tình cờ anh gặp lại vị công tử si tình của em.

    - Ông ta làm gì ở đó?

    - Ông ta điên vì Năm thì phải nằm nhà thương điên chớ làm gì?

    - Đừng nói chơi, anh Bạ

    - Bộ hết chuyện nói chơi sao mà nói chơi về một người điên? Năm Thanh nhìn lại tôi, biết là tôi nói thật. Năm Thanh đang vui, mặt mày đang rạng rỡ, đôi mắt bỗng sụp xuống như bóng đêm.

    - Thiệt vậy sao anh Bạ

    Và tôi kể lại với Năm Thanh. Khi tôi nghe có một người điên vì tình, tôi mừng (ác vậy) vậy là đúng "vai" của mình rồi, tôi lật đật đến thăm. Một người điên vì tình, nhìn qua song sắt, tôi thấy quen quen. Một thanh niên, tóc quăn từng lọn, phủ cả ót, cả mặt mày, chiếc áo sơ mi màu hột gà nát bươm khoác qua người, chiếc quần tây trắng cũng tả tơị Hình như người điên nào cũng thích xé áo xé quần. Khi người điên nhe răng, thì tôi bỗng lùi lại, tôi nhận ra anh ta, người mà trong gánh hát ai cũng gọi đùa là vị công tử si tình của Năm Thanh. Đó là chàng thanh niên tuổi độ hai bốn hai lăm, con của một nhà giàu xứ Bạc Liêu, ruộng đất cò bay thẳng cánh, từng học ở Sài Gòn, lấy bằng "đíp lôm".

    Đêm đầu hát ở Bạc Liêu, sau khi hạ màn, giãn hát, thì có một thanh niên ăn mặc sang trọng quần tây trắng, áo sơ mi lụa lèo màu hột gà, người tầm thước, nước da trắng hồng, mái tóc hớt xanh, tay cầm một bó hoa hồng rực rỡ lên sân khấu xin được tặng cho cô đào Năm Thanh. ở một miền đất xa, trong một thành phố nhỏ, giữa những người lam lũ, người thanh niên nổi bật lên như một vị công tử. Và xứ Bạc Liêu vốn là nơi xuất thân của những anh con nhà giàu, nhờ cách ăn chơi, mà nổi danh công tử, công tử Bạc Liêụ

    Trong bó hoa tặng cho Năm Thanh có cài một danh thiếp đề rõ họ tên - "Trần Hữu Liêm, Thông ngôn quan chủ tỉnh", dưới có hai hàng chữ, viết tay "vô cùng ngưỡng mộ!" Và một dòng chữ tiếng Pháp, mà cả gánh chẳng ai hiểụ

    Năm Thanh nhận được hoa của khán giả là chuyện thường, có gì đáng nóị Rồi đêm sau, chúng tôi chú ý thấy vị công tử ngồi ghế thượng hạng, và khi màn hạ, vị công tử lại lên sân khấu tặng hoa cho Năm Thanh, lần này trong bó hoa không phải là danh thiếp mà là một lá thự Khán giả gửi thư cho đào Năm Thanh cũng không phải là chuyện lạ. Đêm sau, đêm thứ ba, cũng vậy, cũng chẳng có điều gì đáng ngạc nhiên.

    Gánh chúng tôi nhổ neo, rời bến. Đêm đầu đến điểm mới cách xa chợ Bạc Liêu có đến ba ngày đêm đường sông nước, sau một hồi chuông, chúng tôi hé màn nhìn khán giả, lại thấy vị công tử với chiếc áo lụa lèo, ngồi ở ghế thượng hạng. Rồi sau khi màn hạ, vị công tử lại lên sân khấu tặng hoa cho đào Năm Thanh. Đêm sau, và đêm sau nữa, cũng vậỵ Sau ba đêm diễn, gánh lại nhổ neo... Từ tỉnh này sang tỉnh khác, từ miền Tây đến miền Trung, không thể nhớ bao nhiêu sân khấu, bao nhiêu đêm diễn, đêm nào chúng tôi cũng thấy vị công tử trên ghế thượng hạng, và đêm nào đào Năm Thanh cũng nhận một bó hoa với một lá thư tình của chàng công tử si tình.

    Vị công tử biết tôi tuồng nào cũng diễn cặp với Năm Thanh, khi Năm Thanh trong vai Lữ Bố, tôi là Đổng Trác, khi đào Năm Thanh là hoàng tử cầm quân ra biên ải thì tôi là tướng giặc, khi Năm Thanh là cô gái quê thì tôi là chàng sở khanh, khi Năm Thanh trong vai người đàn bà đài các thì tôi là đức lang quân, và biết tôi là bậc đàn anh của Năm Thanh, đêm nào vị công tử cũng nài nỉ mời tôi và Năm Thanh đi nhà hàng sau đêm biểu diễn.

    - Anh Ba ơi, nếu người nào đó mời thì em đi, những vì em thấy vị công tử này lậm quá, em sợ, anh Ba đi giùm em đị

    Những lần đầu, tôi lựa lời nói cho quạ Càng ngày càng nhìn thấy cái vẻ si mê trên gương mặt, trong đôi mắt và giọng nói của anh chàng, tôi thấy động lòng, nói xa nói gần với anh rằng, anh nhỏ hơn Năm Thanh gần mười tuổi, cho anh thất vọng, ngờ đâu sau đó, anh viết cho Năm Thanh... "Với anh, em là người không có tuổị..". Có hôm, tôi khuyên anh không nên bỏ công ăn việc làm, vừa hao tốn mà chẳg ích lợi gì thì thư anh viết cho Năm Thanh có câu: "Tình yêu không suy tính. Và mỗi đêm anh phải đến em, vì tình yêu cũng có nghĩa là ngắm, nhìn. Càng ngắm em càng lộng lẫỵ Càng nhìn càng thêm yêu thương. Nhìn em như hoa đang nở. Ôi, em là đóa hoa nở mãi không tàn".

    Đọc những dòng chữ của anh, không thể không nhận anh là con người tinh tế. Năm ấy, đào Năm Thanh vừa tuổi ba mươi, cái tuổi đầy đặn của người đàn bà. Thật ra, Năm Thanh không phải là người đẹp sắc sảo, hay lộng lẫy, cũng không có vẻ quyến rũ gợi tình, cũng không duyên dáng mặn mà, Năm Thanh có một vẻ đẹp phúc hậụ Nhưng khác hơn người, Năm Thanh có một giọng nói rất lạ. Năm Thanh không nói bằng môi, không nói bằng lưỡi, mà như nói từ tận đáy của tấm lòng. Một giọng nói bắt anh phải quay nhìn, phải tìm kiếm, phải lắng nghẹ Và một điều kỳ lạ hơn, sân khấu là phông màn, là cảnh giả nhưng khi đào Năm Thanh với vai hoàng tử bước ra sân khấu cùng với tiếng kèn tiếng trống, thì cái cảnh giả của sân khấu bỗng lộng lẫy, uy nghi của một triều đình. Khi đào Năm Thanh là một cô gái quê trong bộ đồ bà ba vá vai, tay cầm chiếc nón lá bước ra, thì sân khấu là một cánh đồng quệ Và khi Năm Thanh cất tiếng thì trong rạp như không còn hơi thở nữạ

    Sau, tôi phải nói thẳng với vị công tử rằng Năm Thanh đã có chồng, thì thư anh viết: "... Em có chồng hay không, em vẫn là của anh. Thế gian có biết bao nhiêu người, những sao anh chỉ thấy, chỉ nghĩ, chỉ mơ một mình em, em ơi!".

    - Vậy là lậm quá rồi anh Ba, chắc em phải trốn.

    Đêm sau đó, khi vị công tử mang hoa lên sâu khấu thì một cô đào khác bước đến anh:

    - Thưa công tử, chồng của cô Năm Thanh vừa mới rước cô đi, bó hoa này xin công tử tặng cho em.

    Vị công tử si tình chết lặng giữa những cặp mắt đào kép đứng vây quanh, vị công tử si tình vẫn lịch sự, đưa tay rút lại lá thư cài trong bó hoa, đặt bó hoa vào tay cô đào, rồi quay gót lẳng lặng đi... Tôi nhìn thấy sự sụp đổ qua dáng đi của anh. Anh gục đầu lùi lũi như một thân cây đã trốc gốc. Từ đó gánh chúng tôi không còn gặp lại vị công tử si tình ấy nữạ

    Câu chuyện vị công tử si tình ấy mỗi ngày một nhạt dần trong câu chuyện và tôi cũng quên đi, thì gặp lại chàng trong nhà thương điên.

    Trong song sắt, có lúc chàng đóng vai Lữ Bố của Năm Thanh, vừa múa vừa la hét, khi đã mệt lả thì cất tiếng ngâm thợ Thư anh viết cho Năm Thanh, anh thường trích thơ tình của nhà thơ Xuân Diệu hoặc Nguyễn Bính, bấy giờ trong cơn điên, anh ta la hét thơ của anh:

    "Yêu là giết cả hồn tạ

    Yêu là thiên đàng, là địa ngục.

    Ta đã đến tận cùng địa ngục.

    Ta bị lửa tình địa ngục đốt ra trọ

    Ôi ta hạnh phúc"

    Vị công tử lúc tỉnh, lúc điên. Lúc tỉnh ra anh ta nhận ra tôi:

    - Anh Ba hả anh Bả

    - Tôi đâỵ

    - Anh Ba đi đâu đâỷ

    -...

    - Năm Thanh tôi đâu anh Bả

    Vừa nhắc đến tên Năm Thanh thì anh quơ tay múa theo Năm Thanh trong vai Lữ Bố.

    - Thiệt vậy sao anh Bả - Năm Thanh hỏi mà không phải hỏi, mắt ngước nhìn tận đâu đâụ

    - Nếu bây giờ em đến thăm thì liệu anh có tỉnh lại không anh Bả

    - Có thể lắm!

    Lúc ấy, gánh chúng tôi đang hát ở Thủ Dầu Một, cách Biên Hòa chẳng bao xạ

    Sáng hôm sau, Năm Thanh bao một chiếc xe thồ mộ. Trên xe Năm Thanh chỉ dặn tôi một điều: "Anh Ba giữ kín chuyện này giùm em nghe anh Ba". Tôi gật đầu, suốt trên đường chẳng ai nói với nhau thêm lời nàọ Trong tiếng vó ngựa gõ đều trên mặt đường, tôi chợt thấy Năm Thanh đẹp hơn mọi ngày, nhưng là vẻ đẹp u buồn.

    *

    * *

    Sau vài đêm hát, gánh trở lại Sài Gòn. Và mỗi ngày lặng lẽ một mình, Năm Thanh đều đi Biên Hòạ Mỗi ngày Năm Thanh đều tin cho tôị

    - Bác sĩ nói, bữa nay ảnh tỉnh nhiều hơn hôm quạ Mỗi lần ảnh lên cơn, bác sĩ nhắc lại lời dặn của em thì ảnh dịu xuống. ảnh bớt hát bớt hò. Nhưng đến bữa ăn thì vẫn còn đổ cơm xuống nền nhà, ăn bốc.

    Chiều hôm sau, Năm Thanh tin thêm:

    - Bữa nay, trước mặt em, ảnh chịu ngồi yên để hớt tóc, đầu cổ bữa nay gọn gàng rồị Nhưng con mắt nhìn em vẫn còn dại lắm.

    Chiều hôm sau:

    - Bữa nay ảnh đi tắm.

    Chiều hôm sau nữa:

    - ảnh hỏi em là anh đang ở đâủ

    Sau mỗi ngày là mỗi tin vui của người điên.

    Có gần một tháng mỗi ngày đều đi thăm người điên, chiều hôm ấy, Năm Thanh hỏi tôi:

    - Anh Ba còn tiền cho em mượn đỡ.

    Đào kép chúng tôi hỏi mượn tiền nhau là chuyện thường, nhưng với Năm Thanh đây là lần đầụ..

    Sáng ngày hôm sau, Năm Thanh gọi tôi lúc tôi đang ngủ. Nhìn Năm Thanh tôi giật mình, Năm Thanh như già đi trong vẻ bơ phờ. Hai con mắt, không còn hai con mắt vừa long lanh, vừa bãng lãng của một cô đào nữa, hai tròng mắt cứ nhìn ngược lên, dài dại, đôi môi như sẫm lại trong bóng tối của đôi mắt thâm quầng.

    - Có chuyện gì vậy Năm?

    - Chiều hôm qua, em không nói với anh. Em hỏi mượn tiền anh là vì em rước ảnh về Sài Gòn, em thuê phòng cho ảnh ở. Tối qua, hát xong, em vào thăm ảnh. Đêm qua, em cho ảnh hết rồi anh Ba! Cho xong, em hỏi ảnh: "Anh thấy chưả Tôi có gì để cho anh phải mơ ước, phải khao khát đến phát điên? Tôi cũng là một người đàn bà, một người đàn bà, bình thường đừng thêu đừng dệt thêm cho tôi nữạ Thôi, anh về, tịnh tâm cưới vợ, đẻ con, sống như mọi người". Em nói mà không nhìn mặt ảnh. Rồi em đưa ảnh ra bến xe, mua vé cho ảnh và dặn dò tài xế phải đưa ảnh về tận nhà. Xe chạy lâu rồi anh Bạ

    Nói xong, Năm Thanh gục đầu, ôm mặt khóc. Khóc nức, khóc nở, khóc vật vã, khóc rung cả đôi vaị Tiếng khóc của Năm Thanh tôi nghe như tiếng cào, tiếng xé trong tâm hồn mình. Tiếng khóc nhói đau suốt cả cuộc đời tôị

    - Anh Ba ơi, em có lỗi với chồng em, em là người đàn bà hư hỏng.

    - Không ! Không phải vậy đâu Năm Thanh. Đừng nghĩ bậỵ Em đã cứu một người điên, em là Người đàn bà đức hạnh.

    Năm sau, lão nghệ sĩ quái kiệt mất, thọ 80 tuổị Nếu cõi này có cả thế giới bên kia, hai linh hồn của hai nghệ sĩ chắc gặp nhaụ Họ đã để lại trần gian những điều thiện, điều đẹp, linh hồn họ chắc thanh thản, phiêu diêu.
     
  12. Ban Tang Du Tử

    Ban Tang Du Tử Moderator Thành viên BQT

    Hạnh phúc - Hoàng Ngọc Hà

    Tôi sinh ra trong một gia đình hạnh phúc, cha mẹ tôi đã sống bên nhau ba mươi năm, theo trí nhớ của tôi thì hình như chưa bao giờ nghe thấy họ cãi cọ hoặc giận dỗi nhau. Vậy mà không hiểu sao cảm giác giả giả cứ ám ảnh, y như một người đàn bà đẹp hoàn hảo quá thì có vẻ như họ là sản phẩm của mỹ viện.

    Ấn tượng nặng nề ấy khiến tôi kinh hãi mỗi khi nghĩ đến chuyện lập gia đình, mặc dù tôi đã từng yêu say đắm một cô gái duyên dáng dịu dàng. Nhưng rồi nàng chẳng đủ kiên nhẫn chờ đợi sự quyết đoán của tôi.

    Nàng khóc nức nở trên vai tôi: "Chúng mình yêu nhau đã lâu mà sao anh thờ ơ thế?". Tôi lắp bắp trả lời: "Anh yêu em vô cùng, anh chỉ sợ mất em". Nàng thiết tha hỏi: "Thế tại sao anh không cưới em đi?".

    Tôi run lên vì hạnh phúc và đau đớn nghe em hỏi vậy. Biết nói sao cho phải đây? Em chân thành quá, thật thà quá, còn tôi thì rối bời: "Anh sợ, anh sợ lắm". Em ngạc nhiên: "Anh sợ điều gì mới được chứ? Cả hai gia đình đều quý chúng mình cơ mà?". Tôi ngu dại thốt lên: "Cưới nhau thì tình yêu sẽ tan biến mất, đó là điều anh sợ nhất". Nàng ngẩng phắt nhìn tôi với đôi mắt kinh hoàng, rồi nàng dằn giọng nói: "Anh là thằng điên, em không cần thứ tình yêu ấy của anh".

    Nàng quay ngoắt bỏ chạy, và từ đấy nàng chẳng bao giờ gặp lại tôi nữa. Ít lâu sau tôi nghe tin nàng lấy chồng, và gia đình nàng rất êm ấm.

    Còn tôi, tôi vẫn yêu nàng, có lẽ càng yêu sâu sắc hơn, bền chặt hơn và tôi nghĩ ta có thể mãi yêu nàng.

    Không hiểu điều gì đã ngăn cản tôi tìm đến hạnh phúc gia đình. Nhiều lần mẹ tôi đã giục giã: "Này con, đã gần ba mươi rồi đấy, đến bao giờ mới chịu lấy vợ có cháu cho mẹ bế?". Tôi đột nhiên buột ra câu hỏi dớ dẩn: "Mẹ ơi, mẹ có hạnh phúc không?". Mẹ tôi lặng đi rồi lẩm bẩm: "Thế con thấy gia đình ta không hạnh phúc sao?". Tôi lẩn thẩn trả lời: "Gia đình ta êm đềm quá, có lẽ thiếu ngọn lửa tình yêu nên mới phẳng lặng như thế?". Mẹ tôi sững sờ buông rơi tấm áo đang vá, phải một lúc sau bà mới nhỏ nhẹ nói: "Mẹ ngẫm ra ở đời này cái Nghĩa quý hơn cái Tình con ạ". Nói xong, mẹ tôi chống tay đứng dậy lưng còng xuống lững thững đi về phòng riêng. Chẳng lẽ hạnh phúc là một gánh nặng?

    Nếu mẹ tôi cư xử với tôi dè dặt như đối với khách lạ thì cha tôi lại thân tình cởi mở với tôi như bạn thân. Hai cha con có thể ngồi đàm đạo suốt đêm về mọi sự trên đời trừ chuyện gia đình. Một hôm tôi hỏi cha: "Thế nào là hạnh phúc hở cha?". Ông cười vỗ vai tôi: "Thế là con trai cha đã bắt đầu quan tâm đến hạnh phúc rồi đấy, cha mừng cho con". Tôi hỏi lại: "Cha có hạnh phúc không cha?". Cha cười cười: "Hạnh phúc tự nơi mình con ạ". Tôi ngơ ngác hỏi lại: "Sao lại thế được?". Cha nghiêm -trang nói: "Nếu biết tự bằng lòng thì hoàn cảnh nào cũng có thể hạnh phúc". Thật mập mờ quá, hình như cha tôi muốn lẩn tránh điều gì đó. Biết vậy nên cha con tôi chẳng bao giờ trở lại với đề tài đó nữa.

    Còn tôi vẫn triền miên gặm nhấm mối tình không thành của mình, và nhất quyết không muốn xây dựng một gia đình yên ổn mà lạnh lẽo như cái nhà mồ bằng cẩm thạch thật đẹp đẽ ở nghĩa trang xứ Đạo quê tôi.

    Có thể đó là hội chứng tâm thần của con người được sống trong một gia đình bão hoà về hạnh phúc ???



    Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Hội nhà văn Việt Nam - 2002
     
    4DHN thích bài này.
  13. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chén rượu hồng đào - Trịnh Ðình Khôi

    Thầy đồ Từ Tiên và họa sĩ dân gian Thuận Thành là hai người ở cùng phố. Cái phố phủ Từ ngắn ngủn, đi bộ từ đầu đến cuối phố chỉ mất mươi phút, vài chục nóc nhà tranh xen lẫn ngói. Các cửa hiệu đều treo biển đơn sơ. Mấy chữ đại tự "Từ tiên thư quán" có chua thêm chữ quốc ngữ ở bên cạnh. Cửa hàng tranh của ông thợ vẽ không đề chữ nào mà chỉ dán hai bức tranh gà lợn ngoài cánh gỗ. Ông đồ dáng vẻ nho nhã ngồi giữa sập bên cạnh là một cái án thư có nhiều tập sách chữ nho và nghiên mực. Ông vừa dạy học vừa viết câu đối bán vào những dịp Tết. Ông thợ vẽ quê đâu cũng chẳng ai biết, ông không vợ không con, sống một mình với đứa con nuôi. Khoảng đầu tháng chạp, trong gian hàng của ông giấy dó, mầu điệp than xoan chất đầy. Những bức tranh chưa ráo mực, treo la liệt trên tường. Ngoài tranh dân gian truyền thống còn có những bức tranh hoa rất đẹp. Những bông cúc, bông hồng rung rinh sống động như hoa thật. Ngày thường người ta mua hoa về chúc thọ, mừng đám cưới. Ngày Tết ông vẽ hoa đào, hoa mai. Những cánh bích đào mầu hồng sẫm, cánh mai trắng như tuyết hiện ra mơn mởn non tơ. Bên cạnh bức tranh, ghi những chữ Hán rất đẹp nhưng không bao giờ ông viết chữ đại tự. Hai người bạn thường qua lại đọc cho nhau nghe một bài thơ, một đôi câu đối và nhấp chén trà sen.

    Năm nào cũng vậy cứ sáng mùng hai tết thầy đồ Từ Tiên lại sang chúc Tết thợ vẽ Thuận Thành, cả buổi sáng hôm ấy họ dành cho nhau. Hai người nhắm rượu thưởng xuân trò chuyện với nhau rất tâm đắc. Ông đồ đông con nên gia cảnh khó khăn hơn. Tết nào ông thợ vẽ cũng dành một khoản tiền kha khá gọi là mừng tuổi bạn vào sáng mồng hai, mong giúp ông đồ trang trải một phần cái Tết. Những năm trước, câu đối bán được nhiều. Tết đến ông đồ cũng đỡ gieo neo, nhưng càng về sau chữ nho thầy đồ càng ế ẩm. Học trò trước còn vài chục đứa dần dần thưa thớt còn dăm bảy đứa. Lộc thầy không còn được bao nhiêu. Trong khi đó tranh của ông thợ vẽ vẫn bán được. Tết đến nhà nào mà chả cần tranh cần pháo. Người ta cưới hỏi chúc thọ quanh năm nên vẫn cần đến tranh hoa. Sáng mồng hai Tết, vẫn như thường năm, ông thợ vẽ lại chuẩn bị tiệc rượu đón bạn. Vẫn bánh chưng xanh thịt mỡ, dưa hành thêm khẩu giò, nem quả buộc lạt cánh sen và rượu hồng đào. Những chuyện cổ kim đông tây ông đồ đọc từ ngày xửa ngày xưa hoặc trong năm được đem ra ngâm ngợi. Ông đồ là người uyên thâm chăm đọc sách giỏi chữ nghĩa. Khách vừa bước vào chủ đã nhận ra vẻ mặt không vui của bạn. Từ tốn ông thợ vẽ hỏi:

    - Anh có chuyện gì buồn phải không? Nói tôi nghe đi.

    Cạn chén trà, ông đồ mới kể.

    - Tay đồ tể ở cuối phố đặt tôi nghĩ cho câu đối treo Tết, nó yêu cầu phải có chữ thịt, gan, xương, ruột. Tôi đã dùng chữ cốt nhục, can tràng nhưng nó không nghe lại còn chê chữ mình xấu như hoa phù. Nó muốn nói toạc cái nghề của nó ra kia. Nhưng mình nghĩ câu đối chứ đâu có phải viết quảng cáo thuê cho nó. Bọn ngu đua nhau học làm sang. Ðịnh trả lại tiền cho nó, nhưng nhà tôi đã trót sắm Tết hết rồi. Biết thế nào cũng được anh mừng tuổi, nên tôi hẹn nó chiều nay. Nghe xong câu chuyện của bạn, ông thợ vẽ bực mình bảo:

    - Chiều nay nó tới anh cho gọi tôi nhé.

    Ðúng hẹn gã đồ tể mò đến với bộ mặt đỏ gay, hắn nói như quát:

    - Ông đồ gàn, ông đã đủ tiền trả tôi chưa?

    Ông thợ vẽ đứng phắt dậy và ra hiệu cho anh con nuôi.

    - Thưa ông hàng thịt chúng tôi đang đợi ông đây.

    Nói rồi ông giơ hai câu đối lên, một viết bằng chữ quốc ngữ, một viết bằng chữ Hán rất đẹp, khiến ông đồ cũng phải ngạc nhiên. Ông chỉ vào chữthịt xương gan ruộttrong câu đối viết bằng chữ quốc ngữ, hỏi:

    - Trông đây có thịt, xương, gan, ruột chưa?

    Gã hàng thịt trông nét mặt giận giữ của ông và anh con trai lực lưỡng đang đứng bên cạnh, đã thấy chột dạ. Gã chưa kịp mở miệng thì ông thợ vẽ lại chỉ vào đôi câu đối chữ hán viết bằng mực nho trên giấy hồng điều, đẹp như bức tranh nhị bình, hỏi:

    - Anh bảo chữ này xấu hay đẹp?

    - Dạ, đẹp lắm ạ.

    - Thế đôi câu đối kia đâu? Mang đây tôi đổi cho.

    Ông thợ vẽ dằn từng tiếng:

    - Nói đi, anh để đôi câu đối của bạn ta đâu?

    Gã hàng thịt run như cầy sấy.

    - Dạ, cháu treo ở nhà.

    - Sao còn đòi tiền người ta. Nhất tự nhất lệ đấy, anh tưởng... đồng bạc của anh to lắm à. Hãy xéo đi cho khuất mắt, không thằng con trai tôi nó mở hàng cho anh một chiêu bây giờ.

    Gã hàng thịt lủi thủi biến mất.

    Hàng chục cái tết qua đi nhuộm trắng đầu đôi bạn. Ông thợ vẽ sống cô đơn không gia đình nên gầy yếu lại mắc bệnh lao phổi, một trong tứ chứng nan y. Mải mê với những bức vẽ đến quá sức bệnh tình ông ngày một nặng. Dường như ông muốn để lại một cái gì nên cố vắt hết tàn lực ra để vẽ để viết, ông sợ mình sẽ mang đi những cái quý báu còn ẩn chứa trong đầu. Ông đồ qua lại chăm sóc thuốc thang cho bạn thường xuyên. Dần dần bệnh tình có thuyên giảm chút ít. Hăm ba tháng chạp năm đó, ông thợ vẽ cho mời bạn đến uống chén rượu mừng. Ông đồ nắm lấy bàn tay của bạn lắng nghe những lời tâm sự.

    - Ông bạn già của tôi đã đến đây rồi, mừng quá.

    Hai tay run run ông thợ vẽ nâng chén rượu.

    - Anh Từ Tiên ơi! Năm nay Tết đến sớm, đã qua ngày lập xuân rồi. Tôi mừng tuổi anh trước nhưng không phải bằng tiền đâu. Anh thử đoán xem tôi định mở hàng cho anh thứ gì nào.

    - Tôi chịu.

    Ông Từ Tiên lắc đầu.

    - Tôi có cái này mở hàng cho anh đây. Anh hãy nhận lấy bản khắc in tranh và cả những bức đại tự tôi viết. Ông nói và chỉ vào đống đồ nghề, giấy tờ ngổn ngang trên bàn. Ông đồ ứa nước mắt nhìn bạn rồi lại nhìn những chữ đại tự như rồng bay phượng múa. Bấy giờ ông mới nhận ra rằng chữ của bạn ông còn đẹp hơn chữ của ông nhiều. Lâu nay sao anh ấy lại không viết câu đối bán tết. Vì mình chăng? Ông đồ băn khoăn.

    - Thuận Thành, anh nói thật đi, anh là ai vậy?

    - Tôi ư? Chả giấu anh làm gì nữa, tôi là con cụ Nghè Bắc, thầy học của anh ngày xưa. Tôi đã đỗ đầu xứ nhưng đi lang bạt làm nghề dạy trẻ và viết thuê kiếm sống. Khi đến phố này biết anh cũng làm cái nghề ấy mà lại đông các cháu nên tôi chuyển sang nghề khác.

    Ông đồ Từ Tiên lặng đi hồi lâu, hai tay ôm lấy thân thể gày còm của bạn, nước mắt chảy ròng ròng. Họa sĩ Thuận Thành dùng hết nhãn lực nhìn bạn cái nhìn kỳ lạ. Từ đôi mắt hai giọt nước long lanh lăn xuống gò má hốc hác.

    Mới sáng mồng một Tết, không hiểu vì sao ông Từ Tiên cứ nóng ruột không yên. Ông lo sợ có điều gì đang đến. Linh tính mách bảo. Ðúng rồi, cái nhìn nói lời vĩnh biệt, không đợi đến sáng mồng hai, ông lật đật chuẩn bị khăn áo và nói với vợ:

    - Mình ơi, tôi sang chúc Tết bác Thuận Thành, trưa mới về.

    Vợ ông ngạc nhiên nhìn chồng không biết nói sao. Ông đến nhà bạn thì đã cửa đóng then cài. Ðôi mắt lặng im nhìn những cánh mai gày yếu rơi lả tả trước thềm. Tết những năm sau đó ông đồ không được mở hàng mừng tuổi, nhưng ông có còn khó khăn như trước nữa đâu. Những chữ của bạn để lại đã giúp ông viết đẹp hơn hay hơn, nên câu đối Tết của ông viết ra bán rất chạy. Ngoài ra ông còn có nghề vẽ tranh in tranh nên cũng sống được. Sáng mồng hai tết hằng năm ông vẫn ra khỏi nhà cho đến đúng ngọ mới về.
     
  14. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Người đàn ông làng Yên Hạ - Sương Nguyệt Minh


    Hãy độ lượng bao dung với những ai lầm lỗi muốn trở về với cuộc sống bình thường. Đó là lời nhắn gửi của tác giả truyện ngắn "Người đàn ông làng Yên Hạ".

    Hạ cầm côn về làng sau mười năm biệt tích.

    Việc đầu tiên là Hạ đến nhà chị gái. Hắn muốn tính sổ với anh rể về những trận đòn ngày trước. Tiếc thật! Anh rể đã chết sắp đoạn tang. Hạ cáu tiết mang côn ra mộ phạt trụi cỏ. Người đàn bà góa khóc lóc van xin vẫn không ngăn nổi hắn.

    Đêm khuya. Trăng hạ tuần treo lơ lửng trên dãy đồi Bạch Bát. Làng Yên Hạ im lặng chìm trong giấc ngủ sau một ngày lam lũ. Trong túp lều nát, người đàn bà góa vẫn rầu rĩ kể lể cho hắn nghe nỗi đoạn trường của chị. Hắn thở dài thườn thượt, có lúc bồn chồn, nóng ruột. Thì ra mười năm qua không riêng mình hắn lang thang, đói rách. Chị hắn ở nhà cũng sống khổ. Hắn thương chị, căm lắm bọn sâu mọt làng Yên Hạ.

    Hắn nhớ lại. Tuổi thơ vô khối những đòn roi. Cha mẹ mất sớm, hắn ở với chị gái cùng bố khác mẹ. Không may cho chị đã mấy kỳ sinh nở nhưng con cái đều chết yểu. Anh rể hắn chán, uống rượu say chửi nhà chị thất đức. Không thể chịu đựng mãi, hắn muốn bỏ nhà ra đi. Đi đâu? Hắn chưa biết, nhưng trước hết phải có tiền.

    Đêm mùa đông gió rét tái tê. Hạ đóng khố lội qua ao mò vào chuồng lợn nhà cu Dục. Hắn đổ tro vào bao bố chụp vào đầu con lợn. Không kịp éc, chú ỉ choai choai đã chui gọn vào bao. Ngay trong đêm, Hạ vác con lợn đã chết ngạt đến bán rẻ cho mụ Trương Phòng, một người chuyên bán lòng lợn tiết canh ở chợ huyện.

    Dắt bảy xu bạc bán lợn chết vào cạp khố, hắn vội vàng như ma đuổi sau lưng. Mưa phùn gió bấc tạt vào mặt rát dạt. Mặc, hắn bỏ làng ra đi. Tảng sáng, hắn đụng phải đường tàu. Hắn cứ dọc đường ray đi mà không biết vào nam hay ra bắc. Đến ga Ghềnh, gặp tàu hắn nhảy đại lên. Hắn là người đâu tiên ở làng Yên Hạ đi xe lửa. Năm ấy hắn mười ba tuổi.

    Những hình ảnh chắp nối cứ liên tục hiện về. Dạo đó, Hạ sống tha hương, cuộc đời trôi nổi, vô định. Hắn lang thang, phiêu bạt, lúc ở trên tàu, lúc ở ga. Có thời gian hắn rong ruổi xuống Hải Phòng, sang tận Trung Quốc. Kiếm được thì ăn, không kiếm được, hắn chịu. Hắn làm đủ nghề, từ bốc vác thuê ở bến tàu, quét hố tiêu, rửa bát cho hiệu phở đến móc túi. Khi hắn học võ Tàu để gác cửa cho một hiệu cao lâu thì hắn thấy trộm cắp vặt không xứng mặt một thằng đàn ông. Từ đắng cay, ngọt bùi đến khổ đau sung sướng, hắn nếm cả. Cuộc đời cũng dạy cho hắn biết như thế nào là ân oán, nghĩa tình. Hắn có võ, có vàng, có gái... đủ cả. Duy chỉ có một thứ hắn luôn thiếu, đó là tình thương.

    Trời sáng bạch. Hạ đã qua một đêm thức trắng. Chị hắn bưng lên một đĩa khoai luộc. Không bóc vỏ, hắn chén một lèo hết sạch. Tiện tay, hắn với chai rượu trên bàn tu ừng ực rồi cầm côn đến nhà Hội Dục. Chị hắn sợ níu lại. Hắn quắc mắt: "Không phải việc đàn bà". Chị hắn run cầm cập, chắp tay cầu trời khấn phật phù hộ cho đứa em ngỗ ngược mới về làng không gặp chuyện dữ.

    Nhà Hội Dục đang giỗ bố. Sân nhà cỗ bày la liệt. Khách khứa đang nhồm nhoàm bỗng ngừng nhai. Có người sợ đánh rơi đũa Hạ. múa côn vun vút trước những con mắt sợ hãi lẫn thán phục của mọi người. Hội Dục ngưng tiếp ông Chánh tổng từ trong nhà bước ra. Với những thằng khác, chắc Hội Dục đã hô trương tuần gô cổ lại. Nhưng với Hạ, ông xử nhũn. Ông biết đây là loại người chẳng vừa. Hắn đã đi biệt xứ mười năm. Phàm những thằng như thế ra đi mười thằng chết tám, chín, còn lại một hai trở về đều là những thằng kinh cả. Ông đang cần những thằng như thế. Vả lại nhà ông đang có việc lớn, ầm ĩ lên xấu mặt nhà mình trước. Thôi thì ông cứ lui một bước. Ông tự tay rót chén rượu nếp đầy tràn mời Hạ. Thấy mình được vị nể trước khách khứa hàng tổng, hắn sung sướng xếp bằng ngồi uống rượu cùng đám tuần đinh.

    Hội Dục quả là tay không vừa. Những năm làm nghề thu thuế chợ, ông hiểu lắm cái cảnh đời nhốn nháo. Cái chợ là bộ mặt của làng, của tổng. Xấu tốt, gian manh, đần độn, thằng móc túi, kẻ đi buôn, người sắm đồ giỗ bố cứ ra chợ mà tìm. ở đời cũng thế, cũng có thằng thế này, thế nọ. Phải cho chúng trị nhau rồi ông trị lại chúng. Thằng tha hương như Hạ ông cần lắm. Vài hôm sau Hội Dục bàn với Lý Nguyễn cho Hạ làm Chánh trương. Mặc dù chẳng ưa gì Hội Dục, lại càng không ưa Hạ, nhưng chả dại gì dây vào thằng đã từng biệt xứ. Lý Nguyễn đành phải thuận. Từ bấy giờ dân làng gọi hắn là Trương Hạ.

    Công việc mới làm Hạ say mê. Hắn hình như quên chuyện trả thù và quyết định ở lại làng. Từ ngày hắn làm chánh trương, đêm hôm làng Yên Hạ im ắng hẳn. Đi tuần nơi đâu, Trương Hạ dẹp yên đấy. Có đêm hắn lôi về nhà Lý Nguyễn bảy, tám tên đánh bạc mà không tên nào dám ho hoe. Những nhà chuyên nấu rượu lậu cũng không qua mặt hắn. Còn mấy thằng chuyên khoét ngạch chui tường ăn trộm thì dạt đi làng khác làm ăn. Hắn thường xuyên được ăn của đút lót.

    Không nhà cửa, cũng không thèm ở nhờ túp lều rách của thằng anh rể đã chết. Trương Hạ nhảy ra chiếm cứ một khoảnh đất hoang cạnh bến đò ngang. Trương Hạ cũng sắm một "chiếc đò nan". Những lúc không làm phận sự thằng tuần, có người ới hắn cũng cầm chèo xuống bến.

    Quả thật, đưa khách sang sông cũng là một thú vui mới của Trương Hạ.

    Làng Yên Hạ có ông Nhất Cẩn giàu có nhất vùng. Không có chức sắc nhưng nhà ông giàu nứt đố đổ vách nên Chánh Tổng cũng vị nể. Ông thường xuyên để Trương Hạ lui tới uống rượu phần vì quý hắn tính khí hơn người, phần vì đánh tiếng để bọn lưu manh cạch mặt đừng quấy nhiễu. Trương Hạ biết, hắn thấy mình cao giá lắm.

    Nhất Cẩn có một người vợ bé nhan sắc. Ông rất yêu chiều. Tuổi sáu mươi, dù bồi bổ bao nhiêu ông cũng không làm thỏa mãn cả đàn vợ. Nỗi khao khát của người vợ bé bốn mươi tuổi như bốc lửa. Thị đã tìm được nơi trao gửi và Trương Hạ đã làm được cái việc của thằng đàn ông thay Nhất Cẩn. Cuộc tình của gã trai tơ với người đàn bà sắp đến tuổi hồi xuân tưởng chừng không bao giờ dứt. Họ lén lút quấn quýt bên nhau, lúc ở bến đò, lúc trong vườn nhãn. Cuộc tình cứ kéo dài mãi trong vụng trộm. Hắn muốn cưới người đàn bà ấy làm vợ.

    Những việc làm của Trương Hạ không qua mắt Hội Dục. Ông bảo hắn:

    - Mày đã đi khắp nơi, ăn mẻ bát thiên hạ còn dốt. Việc ấy dễ như trò trẻ con sao mày không nghĩ ra.

    Quả thật, Trương Hạ thạo mọi việc đời, nhưng tính khí thẳng băng. Những lắt léo, âm mưu, mánh khóe chiếm đoạt, hại người, hắn không có. Nghe Hội Dục bày cho, Trương Hạ mừng lắm. Ngay trong đêm, một mình một cuốc, một mai. Trương Hạ đi đào mộ cha kẻ giàu có nhất vùng. Mộ cha Nhất Cẩn đặt trên gò Lý Ngư. Đất rắn chai tay, nhưng lòng ham, mê làm điều tai quái và tiếng gọi của ái tình đã tiếp thêm cho hắn sức mạnh. Gà gáy canh ba, Trương Hạ đưa hài cốt của cha Nhất Cẩn về giấu ở sau rừng. Sáng, Hội Dục sai người bắn tin. Chẳng mấy chốc tin Nhất Cẩn mất mộ cha đã loang khắp chợ huyện. Biết tin, nhà Nhất Cẩn hoảng loạn, hoang mang. Là người theo Nho giáo, ông ngấm nỗi khổ nhục của kẻ mất mộ cha. Phen này mạt kiếp. Ông sai người dò la tung tích, nhưng cả tháng trời vẫn biệt vô âm tín. Lòng ông tan nát. Đúng lúc ấy, Trương Hạ xuất hiện. Hắn trách ông cậy nhờ người đi tìm, không bảo hắn một tiếng. Nhất Cẩn mừng vui hết nỗi. U sầu, đau đớn quá, ông quên mất kẻ phải cậy nhờ chính là Trương Hạ. Hôm ấy, ở nhà Nhất Cẩn rượu ngon chảy như suối.

    Nhất Cẩn trúng kế Hội Dục. Trương Hạ thực hiện kế sách khá thành công. Hắn nghi binh, giả bộ như sắp tìm được đến nơi, khiến Nhất Cẩn đêm ngày sống trong hy vọng. Trương Hạ biết thế càng kéo dài thời gian tìm kiếm. Cứ

    mỗi lần hắn đi tìm, Nhất Cẩn lại sai người mang rá xúc bạc cho hắn mang theo. Nhưng tiền bạc ấy chui vào túi Hội Dục quá nửa.

    Một thời gian, Hội Dục sợ Nhất Cẩn u sầu quá quỵ mất, hỏng việc liền bảo Trương Hạ tung đòn cuối. Trương Hạ đến, mặt mũi phờ phạc, Nhất Cẩn chạnh lòng tưởng hắn vừa qua chặng đường gian nan vất vả. Hắn bảo Nhất Cẩn rằng đã tìm được hài cốt của cha ông. Nhất Cẩn vui mừng hết nỗi. Quả không nhầm khi ông "chọn mặt gửi vàng". Chờ cho niềm vui sướng của Nhất Cẩn vơi đi, hắn lễ phép thưa:

    - Con không đòi hỏi gì. Con chỉ xin ông một điều.

    - Ta coi mày như con cháu trong nhà. Cần cái gì cứ nói. Ta không tiếc.

    - Thưa ông. Con trót dại phải lòng người vợ bé của ông. Chúng con trót ăn nằm với nhau và thị đã có bầu. Con xin cưới thị làm vợ.

    Như tiếng sét đánh ngang tai, Nhất Cẩn không tin những điều vừa nghe. Mặt ông đang hồng hào tươi tắn bỗng tái xám. Một bên mất vợ, một bên mất mộ cha buộc ông phải chọn một. Người ta bảo "thứ nhất là bằng mất mộ cha, thứ nhì buôn vã, thứ ba đi bè". Như vậy là mất vợ không bằng mộ cha.

    Từ lâu, làng Yên Hạ có lệ con trai lấy vợ phải nộp một ngàn viên gạch sành lát đường làng. Trương Hạ nghĩ đã là lệ làng phép vua cũng thua, huống hồ cái thân hắn một thời tha hương. Hắn sẽ lát đường làng, lát để cả làng Yên Hạ nhớ hắn. Tên tuổi hắn dân làng phải mang theo xuống mồ. Con đường từ nhà Nhất Cẩn vắt qua cánh đồng về bến đò ngang mới lát được non nửa. Phần còn lại, hắn thưa với các cụ bô lão trong làng xin lát nốt. Tính ra hết hàng chục vạn gạch và cả chục tấn vôi. Mấy tháng trời, các lò gạch, lò vôi ở bãi bồi sông Bút nghi ngút khói. Cả chục người đóng gạch, nung vôi, vào lò ra lò tấp nập. Dân làng Yên Hạ có thêm công ăn việc làm trong mùa giáp hạt. Nhiều người lắc đầu lè lưỡi, không biết những năm tháng biệt xứ, hắn kiếm đâu ra nhiều tiền vàng thế. Nhất Cẩn thì chửi thầm trong bụng: Mẹ nó! Bảy dành bạc và phúc đức nhà ông ra lát đường. Dân làng ai có ghét Trương Hạ thì ghét chứ bằng ấy con người làm thuê chắc chắn sẽ hàm ơn hắn. Có kẻ còn hoắng lên mong hắn cưới vợ hai, vợ ba, vợ tư nữa.

    Sáu tháng sau, mụ vợ hơn hắn gần hai mươi tuổi đẻ con trai. Đúng là "nòi nào giống ấy" không thể lẫn. Nó giống Hạ như đúc. Trương Hạ đặt tên con là Du. Hắn bảo: "Thằng này đến nữa cũng sống tha hương".

    Không biết Trương Hạ có bao nhiêu tiền, vàng, nhưng người ta đồn hắn có nhiều lắm. Chỉ thấy hắn sống thừa ăn nhờ đình đám và những lần bắt bớ trong làng. Rất lạ, hắn không xây nhà to như ông Hội Dục, không tậu ruộng, tậu trâu như ông Nhất Cẩn. Hắn và vợ con chỉ ở trong căn nhà tre lá giữa vườn cây.

    Trương Hạ sống hào phóng. Hắn chén ở nhà lý trưởng hay nhà chánh hội một bữa, hôm sau làm cỗ đáp lại luôn. Cỗ nhà hắn bao giờ cũng to hơn cỗ trước. Hắn còn có thú đi tuần ngoài đồng. Ngoài đồng bao giờ cũng mát mẻ thoáng đãng. Tầm mắt hắn nhìn xa tít tắp. Đi tuần trong làng bó buộc lắm. Hắn chán cảnh trong làng nước đọng đầy ao tù, cứt trâu nổi lều bều. Đường làng bé tí tẹo, ngoằn ngoèo vào các hẻm sâu hun hút.

    Một lần, hắn gặp cô Mại, con gái ông thủ quỹ mặc váy cắm đầu vào bờ móc cua. Trương Hạ ôm mặt cô Mại ép sát vào gối, người cong như con tôm, mông đít chổng ngược lên trời. Mười sáu tuổi, yếu ớt, cô Mại không chống đỡ nổi tay trương tuần lực lưỡng, giỏi võ. Cô Mại rã rời, mềm oặt rũ xuống bờ ruộng. Bên hông cô hom giỏ bật ra. Cua đực cua cái bò lổm ngổm. Trương Hạ múa côn vun vút, phạt trụi một đám lúa. Hắn dọa: "Mại làm ầm ĩ tôi giết. Ngày mai tôi đến nhà hỏi Mại làm vợ".

    Ông thủ quỹ tức nghẹn cổ, chửi Trương Hạ "vuốt mặt không nể mũi". Sau ông nghĩ kiện cáo càng thêm khổ con gái mình. Hắn cũng có của nả, lại mượn người đến xin cưới tử tế. Ông đành cho hắn cưới con gái mình.

    Cuộc đời Trương Hạ cứ thế trôi đi. Đến một lần đánh chén ở nhà Hội Dục, hắn say mèm nhưng vẫn cố về nhà. Bóng hắn ngất ngưởng, xiêu vẹo đến túp lều của mụ Lài bên gốc đa làng thì quỵ. Mụ Lài sợ lắm. Mụ tưởng hắn chết. Loay hoay mãi, mụ vần được hắn vào trong túp lều. Trương Hạ thở hồng hộc, lăn lộn trên mặt đất. Mụ Lài chạy vội ra ngoài vặt một nắm búp dong riềng. Mụ nhai búp dong ngồm ngoàm rồi nhả cả nước lẫn bã vào cái tô mẻ. Mụ thò tay vắt bã, cạy miệng Trương Hạ đổ nước vào. Hắn tợp từng ngụm, nước lá giong riềng tứa ra hai mép. Chưa kịp uống hết, hắn đã nôn thốc nôn tháo. Lổn nhổn thức ăn chưa tiêu và nước, rượu ra đầy cái chiếu manh hắn đang nằm.

    Nửa đêm, Trương Hạ tỉnh dậy. Hắn thấy mụ Lài vét cám trong vại vỡ bỏ vào chã đất đặt lên mấy thanh củi đang cháy dở sao vàng. Mùi rượu, mùi thịt cá tanh tưởi, chua nồng. Miệng hắn đắng ngắt, khô rát. Hắn cựa mình, mệt quá không dậy được. Im ắng quá. Thỉnh thoảng có tiếng thạch sùng kêu trên vách. Trương Hạ thấy buồn, một nỗi buồn mênh mông không cắt nghĩa được.

    Mụ Lài đánh gió cho Trương Hạ. Hắn nằm im như trẻ nhỏ. Trương Hạ thấy dễ chịu. Hắn ước ao: giá mẹ hắn còn sống. Mẹ hắn cũng đánh gió dã rượu cho hắn. Hắn thèm có bàn tay săn sóc của người mẹ. Khổ thân hắn. Hắn lớn lên đã không thấy bố mẹ. Đi biệt xứ về, hắn làm chánh trương, người ta gọi hắn là Trương Hạ, nhiều người tưởng hắn họ Trương. Hắn thấy xót xa. Mọi người đều có mẹ, chỉ hắn là không. Hai mụ vợ một già, một trẻ thật lòng thương hắn nhưng hắn vẫn thấy thiếu, thiếu một cái gì đó mà hắn không cảm nhận được. Giờ thì hắn hiểu, cái thiếu đó là tình mẫu tử.

    Mụ Lài vần Trương Hạ úp sấp trên manh chiếu. Mụ mím môi cầm nắm cám nóng gói bằng mảnh vải đụp cọ mạnh trên tấm lưng trần của hắn. Mùi cám rang cháy thơm thơm bay khắp túp lều. Hắn nhắm nghiền mắt sống trong ý muốn được nuông chiều, chăm sóc dưới bàn tay người mẹ. Hắn thấy biết ơn bà già ăn mày cô đơn gần bảy mươi tuổi đã cứu hắn sống lại. Thân phận mụ nhỏ nhoi, thấp hèn nhất làng Yên Hạ. Mụ đã nhiều lần được hắn bố thí và bị hắn xua đuổi. Cũng là một kiếp người! Hắn lang thang, ngỗ ngược. Mụ lần hồi ăn xin. Hắn cảm thấy thương hắn, thương bà già này. Trương Hạ không khóc mà nước mắt rơi lã chã. Vì đâu? Vì đâu nên nỗi thân này? Hình như lần đầu tiên trong đời, hắn rơi những giọt lệ nóng.

    - Mẹ... Hắn nắm lấy tay mụ Lài, giọng run run.

    Sáng hôm sau, hắn đến nhà Lý Nguyễn trả lại chức chánh trương. Hắn lại sai hai mụ vợ đến đón bà già về nuôi như mẹ đẻ. Mụ Lài bỗng nhiên hết kiếp ăn mày. Mụ sống thêm bảy, tám năm nữa mới chết và trở thành người thọ nhất làng Yên Hạ.

    Từ ngày ấy, Trương Hạ ít giao lưu, đêm ngày sống với bến đò, sông nước, vườn cây. Chỉ khi nào nghe tiếng gọi: "Đò ơi", Trương Hạ mới vác chèo xuống bến. Tuy vậy, tên tuổi Trương Hạ vẫn không mất đi, vẫn vang lên tận hang cùng ngõ hẻm làng Yên Hạ. Trẻ con khóc, đem tên Trương Hạ ra dọa, chúng im bặt. Trẻ chăn trâu vặt trộm quả, đem tên Trương Hạ ra nát, chúng run lập cập. Chuyện lớn, chuyện nhỏ trong làng xảy ra, họ đều ví như việc làm trước đây của Trương Hạ. Còn sống nhưng Trương Hạ nghiễm nhiên bước vào huyền thoại của làng Yên Hạ. Trẻ chăn trâu gọi bằng ông với tấm lòng ngưỡng vọng đầy khâm phục.

    Cuối năm đó, đội cải cách về làng. Hội Dục và mấy người địa chủ khác bị bắn ở gốc cây đa làng. Trương Hạ cũng bị lôi khỏi vườn cây. Người ta luận tội Trương Hạ.

    Trương Hạ chỉ có tám sào thổ, không thể quy nổi thành phần địa chủ. Lúc làm trương tuần, ông cũng đánh người, nhưng chỉ đánh bọn chơi bạc và ăn trộm. Cũng may không đứa nào chết, chúng chỉ lê lệt hoặc hộc máu mồm máu mũi. Chừng ấy, chưa thể khép tội ông là cường hào gian ác, có nợ máu với nhân dân. Mặc dù rất nhiều lần vì ông mà dân làng làm ăn khó bề yên ổn.

    Cùng lúc đó, Du bị địa phương sức giấy lên trường tỉnh đòi về. Ông buồn bực vì nỗi thất học của con trai, nỗi lòng thêm nhức nhối. Cả đời ông thất học, tha phương, bỏ xứ. Lúc tìm về quê nhà làm lắm điều tai ách. Ông muốn sống nhân từ, dồn sức vào chăm chút cho con để trả nỗi đau đời. Không ngờ số phận vẫn chưa buông tha ông. Trương Hạ ngẫm lại sự đời và cảm thấy thời mình đã hết.

    Chuyện đấu tố đang hăng thì có lệnh sửa sai từ trung ương về. Ai cũng sợ Trương Hạ ra tay trả thù. Nhưng ông bảo "Vì thời thế, thế thời phải thế". Người đúng nhiều, nhưng cũng có kẻ "té nước theo mưa", "giậu đổ bìm leo"; thói đời xưa nay vẫn thế. Có người lương tâm không đến nỗi nào, nhưng vì học hành kém quá hoặc sợ hãi nghe người ta xui bậy làm càn. Không thèm chấp! Với lại, ít nhiều mình cũng có tì vết, cứ trắng như tờ giấy, ai thèm động đến lông chân.

    Sau cải cách ruộng đất, rất ít người trong làng đi lại với Trương Hạ. Họ ngại đã đấu tố ông. Năm sau người vợ già ông mất. Ông buồn, nỗi lòng thêm trống trải. Du được tham gia sinh hoạt thanh niên và dạy bình dân học vụ... Trương Hạ thấy thế không vui cũng chẳng buồn. Ông cũng không cấm đoán con trai tham gia công tác xã hội. Phong trào hợp tác xã về làng Yên Hạ. Ông chẳng thiết tha, mặn mà, nhưng cũng bảo vợ đem đò góp vào hợp tác xã ngành nghề. Hàng tháng thu tiền đò được vài chục đồng công điểm gọi là. Trương Hạ sống thu mình ở vườn cây. Suốt ngày ông cặm cụi ghi chép bằng số vốn chữ nho học mót ngày trước. Đêm ngày nghe tiếng sóng sông Bồ vỗ ì oạp ông sướng hơn nghe tiếng kẻng giục đi làm đồng của hợp tác xã.

    Như một định mệnh sắp đặt sẵn, những ngày sinh hoạt thanh niên, cô Lự bí thư chi đoàn đã phải lòng Du. Hai người thương nhau được một năm, chuyện loang ra. Mẹ Lự gọi con gái lại chì chiết:

    - Lão Trương Hạ năm thê bảy thiếp. Thằng Du "con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh", tránh xa nhà ấy ra.

    Ông Tam bảo con gái:

    - Mày con nhà bần cố. Thằng Du con nhà thành phần, không hợp nhau. Phải cắt ngay kẻo hối không kịp.

    Lự khóc. Cô giận mẹ, giận Trương Hạ, giận cả làng Yên Hạ.

    Những chuyện gièm pha, nói xấu xung quanh mối tình của con cũng đến tai Trương Hạ. Chuyện thù oán mới dai dẳng làm sao. Mấy lần ông định mang côn đi hỏi tội những kẻ nói xấu ông, nhưng lại thôi. Ông chép miệng: "Thời thế đổi thay rồi". Song ông lại bảo Du:

    - Chúng nó là cành cây, ngọn cỏ. Cái làng Yên Hạ này chỉ bằng nắm tay tao. Cốt là chúng mày phải lòng nhau và nhất quyết thành vợ chồng. Sợ đếch gì thằng nào, con nào.

    Quả thật, Trương Hạ không sợ. Cùng lắm là chết, nhưng cái chết ông cũng không ngán. Ông nghĩ dân làng Yên Hạ không ai có máu mặt để xứng với ông. Nhưng đến chuyện tình của con thì ông bất lực. Du chán đời, bỏ nhà đi mất tăm. Trương Hạ than phiền:

    - Thằng này giống máu bố, khổ một đời con ơi!

    Lâu lâu, người ta đồn gặp Du ở bãi đào vàng tận miền tây xứ Nghệ. Du bị bụng báng nước độc rồi chết. Người lại nói Du đi công nhân lâm trường, cả cơ quan chuyển vào thanh niên xung phong phục vụ ở tuyến trong Quảng Bình. Những lời đồn thổi thật hư lẫn lộn không biết đâu mà lần Trương Hạ không tin. Ông bảo: Thằng ấy chết không thể dễ thế được. Nó vào lính mới đáng mặt thằng đàn ông thời loạn.

    Bụng cô Lự to dần. Cô than thân trách phận bao nhiêu lại căm Du bấy nhiêu. Du đã chạy làng, cô nghĩ thế. Với cô, Du là người đàn ông bội bạc. Du bỏ cô bụng mang dạ chửa trong nỗi khổ của người con gái hoang thai. Mẹ cô bảo:

    - Đã sướng chưa con ơi. Tao biết ngay cái mặt bố con nhà nó.

    Nhục quá, uất ức vì đứa con gái chửa hoang, ông Tam trói Lự vào cột nhà gọt đầu bôi vôi. Trương Hạ biết tin cầm côn đến:

    - Chưa cưới hỏi, nhưng tôi coi nó như là con dâu. Ông không được phép làm liều.

    - Vì bố con mày mà nhà tao khổ nhục. Ông Tam giận lắm cầm dao bầu xông đến. Trương Hạ tránh được đánh văng dao. Trương Hạ bế luôn ông Tam đặt lên giường thờ rồi bảo Lự:

    - Coi như ông ấy đã chết. Con chắp tay lạy bố con đi.

    Ông Tam mất mặt với dân làng vì Trương Hạ làm nhục, lại xấu hổ vì đứa con gái không chồng mà chửa. Nghĩ ngợi nhiều, ông sinh ra ốm liệt giường. Sau vụ ấy nhiều người khen Trương Hạ, cũng nhiều kẻ chê ông, thậm chí còn chửi vụng ông quen thói côn đồ. Thực lòng Trương Hạ không muốn thế. Ông biết Lự và con trai ông phải lòng nhau thật. Giọt máu trong bụng Lự là của Du để lại. Có thể Lự sẽ đẻ con trai mang dòng họ nhà ông. Phải giữ lấy, phải bảo vệ. Đó là ý nghĩ đầu tiên khi biết Lự có chửa với con trai mình.

    Lự bị gia đình hắt hủi, làng xóm chê cười, người yêu đi mất tích. Cô hoang mang không còn nơi bấu víu. Lự nghĩ đến chuyện ra đi.

    Nắng chiều loang loáng ở mặt sông. ánh sáng yếu dần. Mây màu xám ảm đạm. Gió nồm không thổi nữa. Trương Hạ hò vợ quay mũi đò sang bờ bên kia. Ông chạy trước, vợ chạy sau đuổi theo bóng Lự đang cắm cúi trên bờ đê cao.

    - Con đi đâu trong lúc bụng mang dạ chửa? Hãy ở lại ta lo.

    - Thưa cha! Lự dừng lại. Tự nhiên cô gọi ông bằng cha.

    - Con không thể...

    - Gia đình ta không ai ghét bỏ con - Giọng Trương Hạ tha thiết.

    - Nhưng con nhục. Con không thể sống với làng.

    - Ta biết gia đình con vẫn cố chấp với cuộc đời ta. Chả lẽ quá khứ của ta lại là nguyên nhân rẽ ràng duyên phận các con.

    - Con không biết... Nhưng con phải ra đi. Con khổ lắm!

    Lự gục đầu vào vai bà Mại nức nở. Hai người đàn bà ôm nhau, bóng đổ dài xuống mặt sông.

    Biết không thể giữ Lự ở lại, ông bảo vợ và Lự thôi đừng khóc. Ông lấy trong người ra một lá vàng Kim Thành cho Lự. Cô nghẹn ngào, giắt lá vàng vào trong người rồi chụp nón lên đầu. Trương Hạ đứng cạnh người vợ nước mắt lưng tròng. Ông nhìn Lự bước thấp, bước cao đi khỏi làng Yên Hạ. Lòng ông đau như cắt. Xa xa hoàng hôn đang lụi dần trên dãy đồi Bạch Bát.

    Ba mươi năm sau. Bến đò ngang đã bắc cầu mới. Có một chàng đại úy mang phù hiệu không quân dừng lại ở đầu cầu. Anh hỏi thăm về làng Yên Hạ. Người ta bảo: cháu Trương Hạ trở về.
     
  15. Ban Tang Du Tử

    Ban Tang Du Tử Moderator Thành viên BQT

    Thầy Khiển - Ma Văn Kháng

    Đó là những năm giữa của cuộc Kháng chiến chống Pháp chín năm. Cả nước sau chiến dịch biên giới năm 1950 thắng lợi, rầm rộ chuyển sang giai đoạn tổng phản công dành thắng lợi hoàn toàn.

    Xã tôi ở bên này con sông Thi đối ngạn là cả một vùng tề, bên kia, bông nhiên như trở thành tấm gương đại diện, mọi mặt từ đi dân quân, đóng thuế nông ngiệp đến học tập văn hóa đều phát triển mạnh mẽ lắm. Riêng về giáo dục, hơn hẳn các xã xung quanh, xã tôi năm nay có hơn 30 học trò tốt ngiệp kỳ thi tiểu học, được chuyển lên cấp học trên. Hơn 30 học trò vào năm thứ nhất trung học, hẳn nhiên xã tôi phải cố gắng mở trường cấp hai rồi. Cái thuận để mở trường cấp hai còn là vì ông Chiên, phó chủ tịch xã tôi xuất thân chèo đò ngang, tính tình táo tợn lại có ông anh tên Sự mới được đề bạt phó ty giáo dục. Ông Sự làm nghề nông nhưng những ngày nông nhàn xách túi đồ nghề đi chữa đèn bin, kính bút, mồm miệng như cái tôm cái tép, thấm nhuần câu: Một người làm quan cả họ được nhờ, ủng hộ quyết liệt việc này. Ông nói: "Xét theo quan điểm nịch sử thì mở trường cấp hai ở đây nà có ný ". Ông phó ty nói ngọng muốn nói đến sự phát triển kinh tế, xã hội ở xã tôi. Xã tôi trời cho địa lợi, trên bến dưới thuyền, từ lâu đã hình thành một dẫy phố và một khu chợ buôn bán tấp nập; từ ngày phân đôi chiến tuyến ta-địch, chẳng hề suy giảm, trái lại, lại như được kích thích, trở thành cửa ngõ giao lưu, trao đổi hàng hóa giữa hai vùng. Giờ thì đêm đêm dân buôn từ vùng tề bơi thuyền, lội sông sang, nườm nượp kẻ bán người mua dưới ánh đèn măng-xông xanh ngời. Nhìn phố xá tụ hội đông vui chẳng hề biết đến bom đạn đã có lúc ông Chiên xạm mặt choắt, gầm ghè cảnh cáo dân chúng rằng: Đừng tưởng bở! Tây nó dùng nơi này để nuôi cấy Việt gian và vỗ béo các vị đấy. Rồi có ngày nó cho máy bay đến làm cỏ sạch sanh cho các vị xem!

    Việt gian tức là bọn điệp ngầm. Chẳng những thế, với từ đó, ông Chiên còn ám chỉ những kẻ từ bên kia sang, định cư làm ăn, buôn bán ở phố làng này. Phố làng này là nơi qua lại công khai của cả hai bên, và với người dân vùng tề thì đâu chả là đất nước mình, đâu tìm được đất lành là cứ việc đậu, họ có nghĩ có ngày nằm trong vòng nghi ngại của ông Chiên.

    Trong số những người từ vùng địch chiếm sang đây ăn ở cùng đợt, tôi nhớ có ba người. Một người dắt cái xe đạp cuốc, đưọc giới thiệu là cua-dơ vô địch vòng đua quanh Đông Dương trước cách mạng. Một người béo lùn mặc áo da, vai khoác khẩu súng săn hai nòng, đi xe mô-tô, có chị vơ tóc phi-dê mở cửa hàng bán thuốc Tây. Và một người nữa dáng mảnh khảnh, đeo kính cận, có bà vợ già hơn tuổi làm nghề may. Đến đây, người thứ nhất mở cửa hàng sửa xe đạp. Ông thứ hai thường đi mô-tô tới chân núi săn bắn chim muông, cầy cáo. Còn nguời cận thị, khi xã tôi mở trường cấp 2 thì chở thành htầy giáo Khiển của chúng tôi.

    Thầy giáo Khiển từ vùng địch chạy ra, vốn là giáo học, được mời làm giáo viên kiêm hiệu trưởng trường cấp 2 của xã. Trường chỉ có độc một mình thầy, thầy dạy tất cả các môn từ toán, lý, hóa đến văn, sử, địa, vẽ, nhạc.

    - E hèm chúng ta làm quen với nhau nào.

    Tôi vẫn nhớ như in buổi đầu thầy vào lớp. Thầy nhấp nháy hai con mắt trẻ trung, ngịch ngợm sau làn kính cận nhìn chúng tôi, lũ thiếu niên quê mùa, từ mười một mười hai tuổi như tôi đến loại lộc ngộc mười sáu mười bẩy tuổi, cười cười đi giữa hai hàng bàn, bảo từng người đứng lên, tự giới thiệu mình; tới lượt anh Ngôn lớp trưởng mười bẩy tuổi, thấy anh đỏ mặt, nhú nha nhú nhí nói rằng anh đã có vợ, thầy liền vỗ vai anh, cười xòa:

    - Có gì mà ngượng! Trước sau hỏi rằng có ai thoát được cuộc sống lứa đôi?

    Thầy bảo: chính thầy cũng lấy vợ năm 16 tuổi đó là tệ tảo hôn! Thầy kể: 12 tuổi. Bố mẹ dẫn đi xem mặt vợ, lúc về hỏi: Mày thấy nó thế nào? Thầy ngơ ngẩn hỏi: cái gì cơ ạ? Đêm tân hôn, thầy leo lên gác chuồng trâu trốn biệt. Hôm sau ông cậu đến, phân giải điều hay lẽ phải, rồi bảo: "Đêm nay cháu cứ vào nằm cùng giường với nó. Đàn bà ấy vậy mà nó có nhiều cái hay lắm cháu ạ". Thầy bị đẩy vào buồng cô dâu, nhưng thầy leo lên cái bàn ngủ suốt đêm. Cứ thế một tháng liền, cho đến khi cô dâu tủi thân đòi bỏ về nhà bố mẹ, mưu mô của thầy mới bại lộ. Thế là thầy lâm cảnh đành phải nhắm mắt đưa chân lúc tắt đèn. Và bây giờ thầy mới 28, mà đã một trai hai gái, người tóp như cành củi khô, còn bà vợ 34 xổ ra như cái đụn rạ. "ấy, cái sự béo của bà ấy giải thích cái sự gầy của tôi, các em à". Thầy gãi tai, giả vờ ngượng nghịu, thanh minh cho cái thể trạng gầy còm của mình.

    Con trai nhà quê sớm phát triển tính tò mò, nghe chuyện thầy khoái lắm. Chuyện lan ra làng phố, ai cũng bảo thầy Khiển là người vui tính; người vui tính thường là người tốt bụng. Còn dưới con mắt lũ học sinh quê mùa chúng tôi, thầy hiện ra tài giỏi như một bậc thánh nhân. Lĩnh vực nào thầy cũng tinh thông, tỏ tường. Lịch sử Đông Tây kim cổ thầy làu làu. Động tới cái gì thầy cũng có thể đào sâu tới tận gốc rễ. Đã sâu sắc thầy lại tài hoa. Giỏi giang chắc không chỉ mình thầy, nhưng cái duyên, cái tài hài hước thì khéo chỉ mình thầy có. Thầy bình chuyện Kiều thì cả lũ chúng tôi cứ ngây ra ngỡ ngàng, kinh ngạc như lần đầu thấy được tòa lâu đài nguy nga tráng lệ. Thầy bắt chúng tôi học thuộc lòng bài Cái hồ của La-mác-tin, Mùa xuân của Vích-to Huy-gô, lại dạy chúng tôi mấy câu tán gái tục tĩu dân dã. Từng bước thầy làm bừng lên trong chúng tôi ngọn lửa khao khát hiểu biết và nhìn ra xung quanh chúng tôi nhận ra những vùng còn tối tăm mù mịt.

    Nhưng rồi đã xẩy ra một cái gì đó như một sự trục trặc, khởi đầu là một tiết dạy của thầy. Tiết ấy thầy dạy về cơ thể con người, tôi đi học muộn. Vừa bước vào lớp tôi liền bị thầy gọi lên bảng và còn đang ngơ ngác đã thấy thầy chỉ cái mặt bàn bảo tôi đứng lên. Ô hay! Lớp học hôm nay sao đông thế! Tôi dụi mắt: Thì ra ở cuối lớp có kê thêm một hàng ghế, lúc này trên hàng ghế nọ đã chật người và tôi nhận ra đứng đầu tốp người nọ là ông Chiên chủ tịch xã.

    "Em cởi áo ra!?" Tôi vừa định thần thì nghe lời thầy Khiển. Cởi áo? Thế là thế nào? Tôi hơi co người lại, nhưng kìa thầy đã giục lần nữa. A, thế thì tôi hiểu rồi. Thầy dùng thân thể tôi để làm đồ dùng giảng dạy. Thầy dạy cho chúng tôi biết: thân thể người ta chia làm ba phần, đâu là đầu, đâu là tứ chi. Chỗ nào là ngực, phần nào là bụng, là lưng.

    Xoay người tôi đối diện với các vị chức sắc và lớp học, lần này thầy làm tôi đỏ dừ mặt vì thầy lại ghé tai tôi, nói thầm: "Em cởi quần ra!" Ôi, cởi quần! Tôi run lẩy bẩy vì sợ, vì ngượng ngùng. Nhưng, kìa thầy đã lại ghé tai tôi thầm thì: "Chú bé can đảm! Hãy giúp thầy để thầy dậy các bạn... ".

    Tôi không hiểu mình đã cởi dây nút và tụt cái quần đùi ra như thế nào. Người tôi cứng đơ. Mắt tóe vòng xanh đỏ, rồi nhòe nhòe. Tôi như cái máy, mặc thầy xoay trưóc đặt sau, lẩn mẩn giảng giải và chỉ trỏ từng bộ phận ở phần dưới cái cơ thể hoàn toàn trần trụi của tôi, cho cả lớp học nghe.

    Cuối cùng tôi nghe thấy thầy bảo các bạn hoan hô tôi đã can đảm, và tôi vội xỏ hai chân vào hai ống quần, kéo ngược lên, rồi nhẩy phịch xuống đất, chạy về chỗ ngồi, giữa tiếng vỗ tay ầm ĩ của bạn bè và tiếng xô ghế của ông Chiên ngồi ở cuối lớp.

    Câu chuyện tôi cởi truồng ở giờ dạy nọ của thầy Khiển không ngờ gây ồn ĩ và trở thành đầu đề của bao cuộc phiếm luận, đàm tiếu của những người nhiễu sự. Những người này bảo thầy Khiển thế mà thâm. Rõ là trật c. ra trước mặt lão Chiên mà lão chẳng làm gì được. Cứ hầm hè, dậm dọa chúng tao đi nữa, hỡi thằng chèo đò ngang gặp thời thế lên mặt hống hách kia! Ha ha đưọc dịp thế là quán nước bến đò rầm rĩ câu chuyện về anh em Chiên-Sự. Hai anh em nhà này y hệt nhau, cùng thất học mà hung hăng lắm. Rõ là thời lai đồ điếu thành công dị chưa! Chiên chỉ là anh trở đò ngang mà nghênh ngang một cõi, bất chấp luật lệ, muốn chẹt ai cứ tự tiện. Còn Sự được cất nhắc, vì hay lên mặt với mấy người tản cư, dị ứng với người trí thức, coi kẻ có học tuốt tuột là Việt gian gián điệp. Cả hai cùng mắc thói tí tởn đàn bà con gái. Chiên thì công khai ăn ở với một chị chồng đi bộ đội. Còn Sự thì dược đặt tục danh Sự sờ nặng vì nhắc ông nhớ viết đúng chính tả tên ông vì hồi học bình dân ông hay viết sai và cũng ám thị luôn tật xấu hay sờ soạng nữ nhân viên trong cơ quan.

    Tất nhiên chuyện đến tai bố tôi, một nông dân đọc thông viết thạo chữ quốc ngữ và võ vẽ dăm ba chữ thánh hiền. Một hôm, ở trụ sở ủy ban xã về, mặt hầm hầm, ông gọi tôi lên, bảo tôi kể lại câu chuyện rồi đấm mạnh xuống bàn, nói rằng ông sẽ kiện thầy Khiển vì đã làm nhục con ông.

    "Thôi ông ơi, chẳng qua là cái sự bất đắc dĩ chứ thầy nào có dụng tâm vậy ". Nghe mẹ tôi can ngăn, bố tôi lặng đi một lúc, xem có vẻ nguôi, rồi thở ra nhè nhẹ: "Tôi thì tôi sẵn sàng bỏ qua, nhưng anh em nhà lão Chiên thì nó không để thầy yên đâu".

    Thầy Khiển tôi chẳng yên được với anh em ông Chiên-Sự đâu. Cả lớp tôi ngày ngày đều dõi theo thầy với tâm trạng nơm nớp lo ngại cho thầy. Chiên, Sự đều chẳng phải tay vừa. Chiên thì bạo tợn, Sự thì lợi khẩu. Mà trong tay họ giờ là quyền hành. Nhưng hình như thầy Khiển chẳng biết gì đến điều nguy hiểm đang đe dọa thầy. Thầy vẫn một phong thái tề chỉnh, đoàng hoàng, vô tư và hồn nhiên, không thiện không ác, như bẩm sinh tính người. Mỗi giờ dạy của thầy vẫn đều đặn là một dịp thầy phát tiết anh hoa. Thầy vẫn là thầy, bất cần biết ngoại cảnh.

    Thầy Khiển không biết gì về anh em lão chèo đò, chữa đèn pin kính bút ư? họ có thể trả thù thầy. Họ có thể bắt thầy kiểm điểm. Họ có thể thi hành kỷ luật thầy. Thậm chí có thể sa thải thầy. Mà thầy, tiếng vậy cũng yếu thế lắm. Thầy chỉ có bà vợ xồ xề với chiếc máy khâu cọc cạch cùng ba đứa con nhỏ. Thêm nữa có chăng là ông cua-rơ mở cửa hàng sửa chữa xe đạp và ông thợ săn cùng bà vợ bán thuốc tây. Nhưng bạn bè nếu là chỗ dựa của thầy cũng đã lung lay rồi. Vì sau câu chuyện nọ ít lâu họ đã biến mất có lẽ họ đã trở lại vùng tề. Họ đi, để lại nỗi dị nghị về tư cách chính trị của thầy. Rồi giữa lúc đó lại xẩy ra việc một chiếc máy bay của Pháp đã xà xuống phố thấp đến nỗi cánh quạt nó thổi tung cả mái cọ lợp chợ, và ông Chiên quả quyết rằng: máy bay Pháp nó rà soát lại những địa điểm bọn gián điệp báo cáo, để chuẩn bị oanh tạc nay mai đấy, hãy liệu hồn.

    Lúc này chúng tôi mới nhận ra thoảng qua gương mặt thầy Khiển một chút nén chịu nỗi tủi nhục đang vây quanh mình. Thoảng qua thôi vì ngay lập tức tất cả chúng tôi bị lôi cuốn vào không khí bận rộn chuẩn bị đón đoàn cán bộ Ty giáo dục về thăm và kiểm tra trường.

    Đoàn cán bộ Ty giáo dục có ba người, dẫn đầu là ông Sự. Ông Sự, chỉ hao hao giống ông Chiên vì hai người cùng mẹ khác cha. Mặt mỏng, mắt trầm, trông bề ngoài ông Sự hơi lù đù. Ngồi trên chiếc ghế tựa ở cuối lớp suốt ba giờ học, mặt ông cứ lì lì, mắt ông cứ gườm gườm và thỉnh thoảng như thạch sùng đánh lưỡi tách một cái hoặc giả vờ ngúc ngoắc cái cổ để liếc mắt về phía mấy chị nữ sinh lớn của lớp. Thầy Khiển đáp lại thái độ thiếu cởi mở của ông là một phong cách linh hoạt, biến hóa tài tình.

    Giờ thứ nhất thầy ôm chồng vở bài tập tới cửa lớp. Cửa đóng vì gió lạnh. Hai tay vướng bận. Thầy xoay người lại, dùng mông hích vào cánh cửa rồi đi dật lùi vào. Sau đó ngoảng lại, mắt thầy tươi vui và đắc chí như vừa vượt qua được vật chướng ngại. Đó là giờ số học. Thầy giảng bài thật khúc triết và văn hoa, nhưng thỉnh thoảng lại như vô tình, hất hàm về phía ông Sự và hai ông trong đoàn Ty giáo dục, hỏi rất trịnh thượng: "Có hiểu thật không mà sao lầm lì thế, các cậu? ".

    Giờ thứ hai là giờ hóa học. Giờ này thầy dùng toàn tiếng Nghệ An. Ôi cái tiếng miền trung âm sắc lạ tai gây ấn tượng lạ lùng về sự phong phú của tiếng nói Việt Nam. Kết thúc giờ dạy, Thầy nói: "Tiếng Nghệ cũng hay lắm chứ. ở đời, đừng có bao giờ nghĩ chỉ có mình là hay, là đẹp, các em à! ".

    Giờ thứ ba là giờ chính tả. Ba ông cán bộ Ty giáo dục cùng ngơ ngác hơn vì thầy dùng toàn giọng Sài Gòn. Lại có phần giống như mọi lần, anh Ngôn trưởng lớp vẫn có tật hay quên và nhanh nhẩu, sau khi thầy đọc một câu dài, liền bật dậy gãi đầu gãi tai, hỏi: "Thưa thầy sung sướng với xấu xa viết như thế nào ạ? ". Nghe anh Ngôn hỏi vậy thầy liền bảo cả lớp buông bút, nhìn lên bảng. Trên bảng đên hiện lên hai chữ s. và x. to đùng thầy vừa vẽ xong. Nói thầy vẽ là đúng, vì khi thầy hỏi: chữ s. giống con gì, chúng tôi đều đồng thanh đáp là giống con chim. Và cũng thế, chữ x. giống con bướm." ấy thế thầy nói, miệng tủm tỉm, mặt tỉnh không, anh Ngôn nhớ cho thầy: "sung sướng viết ét sì, chữ ét sì trông giống hình con chim, còn xấu xa viết ích xì, chữ ích xì giống hình con bướm. Hay nói một cách ngắn gọn dễ nhớ: sờ chim là sung sướng, xờ bướm là xấu xa. Được chưa nào ". Các chị nữ sinh nhạy cảm gục đầu ngay xuống mặt bàn cười ngẹn. Còn thầy, đi ngay xuống cuối lớp, đến trước mặt ông Sự đủng đỉnh: "Tôi chỉ nhân nhượng anh, một lần này nữa thôi đấy nhé, anh Ngôn". Các anh học trò lớn lớp tôi đều hiểu hàm ý trêu chọc của thầy, nhưng không ai dám quay lại nhìn ông Sự, vì cũng còn đang thú vị về sự ứng đối, liên tưởng thông minh của thầy.

    Sấm sét hiển nhiên là sẽ dội xuống đầu thầy Khiển tôi rồi. Chuyện từ miệng học trò, từ mồm hai ông cán bộ tháp tùng loang ra ngoài sân. Bố tôi cũng biết. Bây giờ ông cũng nhận ra là hồi xẩy ra câu chuyện tôi cởi truồng ở lớp, ông đã bị ông Chiên xúi dục, kích động. Ông cũng đã có phần nhận ra thầy Khiển tôi không phải là người xấu. Và ông lo ngại cho thầy. Chiên, Sự đều chẳng phải tay vừa.

    Quả nhiên, ông phó ty đã chằng chằng nhìn vào hai mắt kính thầy Khiển và nhếch mép, kẻ cả:

    - Thế mới biết nàm ông thầy nà khó nắm!

    - Ông nói như lời thánh dạy vậy.

    Thầy Khiển đáp, tay chập một như là khúm nịnh. Ông Sự chợn mắt:

    - Khó nà ở chỗ nào, ông giáo có biết không?

    - Dạ, ở chỗ phải tri kỷ tri bỉ.

    - Cái gì?

    - Phải tri kỷ tri bỉ. Tức là phải tự biết kém cỏi, bỉ tiện của mình.

    - Phải giỏi chính sách! Chính sách! Hiểu chưa!

    Ông Sự quát. Thầy Khiển ngẩng lên, ngập ngừng:

    - Vâng phải giỏi chính sách và... chính tả nữa ạ!

    Tới đây thì ông Sự không giữ bình tĩnh được nữa. Ông xả một tràng liên tục. Ông kết tội thầy là vô chính trị. Ông nhắc lại lai lịch thầy vốn là dân vùng tề. Ông kể truyện thầy tán chuyện trai gái buổi đầu nhập học. Ông dựa vào thế kẻ có quyền, lấy cái lý để bắt buộc và cho rằng thầy là lẻ phản nghịch, xỏ lá, ba que, là thành phần bất trị, là quân phá hoại. Suốt một buổi họp ba tiếng đồng hồ nhận lời mắng mỏ, quy kết xối xả nặng nề của ông Sự, thầy Khiển cứ nín thít. Tới khi thấy ông phó ty đã có vẻ mệt, thầy mới rụt rè nhìn ông, hỏi: "Ông đã nói hết chưa ạ" và thầy khẽ khàng rành rọt:

    - Tôi từ cha sinh mẹ đẻ, thầy mẹ bán hai mẫu ruộng lấy tiền cho ăn học, chỉ cốt thành người tử tế. Tôi tự nghĩ, trừ cao nhân dật sĩ, thiên tài ra, còn thì kể từ ông giáo trường làng như tôi, tới nhà nông canh điền, kẻ chèo đò ngang, anh thợ chữa khóa dong, cũng là sàn sàn như nhau, thì nên coi vui vẻ sống là đức tính hàng đầu. Nước trong là vì nguồn không đục. Lòng có thiện thì mới biết vui cười.

    Ông Sự nghe đến đó thì rối trí quá, liền đập bàn, át: "Thôi thực tế sẽ trả lời ông ".

    Và, thực tế đã trả lời.

    Tháng 8 năm đó, vào một ngày nước sông Thi dềnh tới cao điểm, ngập tràn hai bờ, một đàn đacôta Pháp tới ném bom triệt hạ làng tôi. Thiên tai phối hợp với địch họa, thật tàn bạo. Hơn một trăm người chết. Cái phố đông vui trên bến dưới thuyền trống trơ một vùng tóc tang, sau cơn khủng khiếp chỉ còn sót lại mấy cây gạo cụt cành tơi tả. Thầy Khiển bị sa thải khỏi ngành giáo dục sau trận bom nọ ba hôm. Thầy rộc rạc cả người, sự sống chỉ còn lại đôi mắt kính cận, nhiều lúc ngây đờ như vô cảm. Nhìn cảnh thầy còm nhom, một chiều thu vàng hiu hắt cùng ba đứa con gầy guộc, nức nở trước mộ mẹ, chúng tôi không sao cầm được nước mắt. Ôi cuộc sống! Chi phối chúng ta không phải là một sức mạnh vô hình. Tất cả đều rất cụ thể và đơn giản đến không ngờ.

    Đơn giản như hôm nay ngủ ở đâu, ăn cái gì? Ngày mai ăn cái gì, ngủ ở đâu? Hỡi ôi, người thầy giáo tài hoa, vui tính và ngông ngạo đã đem cả sở tri sở thức của mình mà tu bổ dân trí, người sẽ sống thế nào đây trong hoàn cảnh hẹp hòi và khắc ngiệt này? Hay là người rơi vào cơn quẫn trí, tự mình chứng minh cho sự nghi ngại của mọi người là đúng. Đã gầy còm nay thầy thêm choắt cheo lại như thần khí đã vơi cạn, hồn vía đã mất vài phần, thầy ngẩn vơ, vật vờ như cái bóng vô định.

    - Tao lo cho thầy quá, nhưng nói với thầy, thầy lại cười khà, đáp: quân tử dựa vào mình, em ạ. Tao đã mua cho thầy một mảnh đất ở cạnh nhà tao, dựng một túp lều cho bốn bố con thầy rồi. Tao chắc là thầy sẽ qua khỏi, sẽ xoay sở được.

    Anh Ngôn nói vậy một hôm tôi đến anh từ biệt để theo chú tôi lên tỉnh học tiếp. Cơ sự này, Tây nó sẽ còn cho máy bay bắn phá tiếp, năm học đầu tiên cấp trung học có lẽ chỉ còn lại là những kỷ niệm đầy luyến nhớ với chúng tôi thôi.

    - Thôi mày đi. Thỉnh thoảng viết thư về thăm thầy. Tin chắc sẽ có những người rộng lượng, biết đánh giá cái tài, cái tâm thật sự của thầy.Anh Ngôn nắm tay tôi rồi lắc lắc, cười ứa lệ.

    Tôi xa làng từ đó. Và không ngờ xa thế, cả ba chục năm liền. Cả ba chục năm, khi ngồi trên ghế học đường, lúc trong quân ngũ, vậy mà có lúc nào thôi bồn chồn về số phận thầy Khiển? Con người ta không nhất đán mà thành. Hình thành một con người là cả một công cuộc lâu bền và khi đã hình thành thì con người ta là vĩnh viễn, bất biến. Vẫn biết thầy Khiển là vậy mà vẫn lo âu. Liệu người thầy kính yêu của tôi, con người tài năng, tâm huyết thật sự nọ có vượt qua được cái nhỏ mọn của chính mình và tật đời dị khí tương thù để thoát khỏi kiếp phận long đong?

    Cuối cùng thì một khúc sông trắng lặng đã hiện ra trước mắt tôi như để nhắc nhở tôi ý tưởng một cách ngôn cổ đại: người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông. Tôi bước lên đò ngang, nhập vào đám các bà các chị gánh gồng qua sông sang phố chợ khi người lái đò đã chống mái chèo đảy con thuyền gỗ khỏi bờ. Người lái đò ! Chợt nhận ra ông trong sửng sốt và không

    nén được tò mò, tôi cúi xuống bà lão có gánh trầu cau ngồi trên cáng thuyền bên cạnh mình. Bà lão nhỏ bé, da bánh mật, phụng phệu miếng trầu, nghe tôi hỏi, hai mắt như hai hạt bạc, lăn tăn ánh cười nửa như nhạo báng nửa như vô tư:

    - Chẳng ông Chiên thì còn ai nữa! Ông anh ông ấy tên Sự, vừa mất tuần trước. ấy, hùng hùng hổ hổ được ít lâu, rồi cuối cùng đâu lại vào đấy!

    Tôi ngẩng lên, hiêng hiếng mắt nhìn về phía đuôi thuyền. Thuyền đã ra đến giữa dòng và người lái đò chừng đã nghe thấy câu trả lời tôi của bà lão, giờ mới hất hàm về phía tôi bắt chuyện.

    Trả lời câu hỏi của ông , tôi là ai, có việc gì mà hỏi ông, tôi đáp: tôi quê ở đây, nhưng giờ họ hàng cha mẹ đã chuyển cư ra tỉnh cả rồi. Tôi về đây là để thăm thầy giáo Khiển. Tôi chính là chú bé can đảm đây. Tới chi tiết này, ông lái đò và cả chuyến đò như sực nhớ, bật cười à à. Và ngay lập tức, như đã nấp sẵn đâu đó trong ký ức người này người nọ, những câu chuyện vui có buồn có về thầy giáo của tôi được dịp sổ lồng, sống động cả lòng thuyền, mặt sông.

    Ngắt cái cười đang hồi nắc nẻ, bà lão bán trầu cau hất mắt về phía ông lái đò, đột ngột đay đả mà nhẹ tênh:

    -Mà sao anh em nhà ông hành người ta quá thể thế! Không cho người ta dạy học. Người ta chuyển sang làm nghề chụp ảnh, cũng lại lấy cớ là mua lậu giấy ảnh, để cấm đoán. Người ta chuyển sang nấu kẹo mạch nha, cất tinh dầu bạc hà cũng lại tìm cách triệt vi tróc vẩy. Nhưng mà sinh sự thì sự sinh, hạ được người ta có dễ đâu ông nhẩy!

    Cứ tưởng người lái đò bị khích như vậy thì nổi giận. Nào ngờ ông lại chành cái miệng chuột, cất tiếng cười khề khề:

    - Nó là cái chuyện đối địch thì dịch lại đây. Bên là thừng, bên là chão. Chẳng bên nào chịu bên nào.

    - Sung ngái một lòng, bưởi bòng một dạ mà làm sao dở trò thảm ngược với nhau thế!

    - Bủ ơi, nó là cái tức khí vặt, ngông ngao vặt, sĩ diện vặt, được thua vặt. Ông có chữ nghĩa thì khinh ông thất học. Ông thất học thì ganh với ông có chữ nghĩa.

    Con đò chênh mạn tránh một lượn sóng, dấn qua dòng nước chảy giữa sông. Bỏ qua câu hỏi móc máy đáo để của bà cụ am hiểu sự đời, ông lái đò đứng dậy, nhoai cánh tay đảy mái chèo và nhìn tôi, chuyển giọng vui vẻ khác thường:

    - Chú bé can đảm ơi, chú không gặp may rồi. Thầy Khiển của chú vừa qua đò sáng nay. Thầy lên tỉnh đón cậu con trai vừa đỗ tiến sĩ, trên ấy thầy còn có cô con gái làm Hiệu trưởng trường trung học nữa đãy. ở đây, thầy chỉ còn cửa hàng sinh vật cảnh thầy nhờ tôi trông coi hộ thôi.

    Tôi đã lên bờ bên này. Ngỡ ngàng trước một thị trấn làng quê tấp nập, càng kinh ngạc khi đứng trước cửa hàng sinh vật cảnh của thầy Khiển. Si, tùng, trắc bách diệp, thiên tuế, đại lộc bên đào, mai, súng, lựu. nguyệt quế, ngô đồng, gốc lớn, u nổi sần sùi, mốc mác, thân thành thanh nhã, cách điệu tranh đua cùng lưới hổ, xương rồng, ngà voi, cúc mốc dáng điệu kỳ cục, lạ mắt. Xanh om cây lá một vùng vừa quần tụ trong chế ngự, vừa quẫy động ngoài dàng buộc, cây nào cây nấy gò gẫm mà vẫn tự nhiên, in dấu nét tài hoa của người gây trồng. Tôi đi qua các dáng trực, siêu, hoành, huyền, các thế long giáng, phượng vũ, hạc lập, dừng lại ở một gốc si cổ thụ, thế "phụ tử nương thân" ở đó thân lớn là cha già gốc to, dáng thẳng đứng, thô cứng mà vẫn phảng phất vẻ hồn hậu vui tươi.

    Hết
     
  16. Ban Tang Du Tử

    Ban Tang Du Tử Moderator Thành viên BQT

    Hai Người Đàn Bà Xóm Trại

    Tác giả: Nguyễng Quang Thiều



    Vào lúc lên đèn thì trời có mưa. Có lẽ đây là cơn mưa cuối đông, vì chỉ còn mươi ngày nữa là Tết. Gió từ bãi sông rộng thổi hắt từng làn mưa bụi về phía chân đê. Tiếng mưa mỏng và nhẹ, như tiếng người thì thào đâu đó. Cả triền bãi rộng chạy ven đê làng Chùa chỉ còn lại một ngôi nhà nhỏ. Trong ngôi nhà ấy có hai người đàn bà đã sống với nhau mấy chục năm nay. Bây giờ tóc họ đã bạc trắng. Và lúc này họ đang ngồi trong chái bếp nhỏ ấm áp bởi hơi rơm, lá chuối khô và lửa bếp. Chiếc mâm gỗ có một vết nẻ to được đặt trên nền bếp bằng đất lâu ngày cứng lại như đá. Trên mâm chỉ độc một bát canh dưa nấu tép bốc hơi nghi ngút. Hai bà lão ngồi ở hai phía mâm đối diện nhau. Hai cặp đầu gối xương xẩu nhô cao đỡ lấy hai gương mặt nhăn nheo và sạm đen.
    - Bà mua mớ tép này của ai? Bà lão ân hỏi và lấy đũa đảo bát canh.
    - Mấy đứa trẻ trâu - Bà lão Mật trả lời - Chúng nó mang vào tận đây.
    - Mớ tép này mấy đồng?
    - Hai ngàn.
    - Bà cứ có tật mua nhiều. Không bảo chúng nó sẻ lấy một nửa.
    - Có dúm tép bằng dúm muối, sẻ một nửa còn lại chúng nó bán cho ai.
    Hai bà lão lặng lẽ bưng hai bát cơm xới vơi như cơm cúng và nhón nhén ăn.
    - Nấu tép dưa phải nấu cho dừ - Bà lão ân càu nhàu - Xương cứng ê cả răng.
    - Tép bằng lỗ mũi xương ở đâu ra.
    - Bà còn khỏe răng, chứ tôi sờ mãi chẳng được một cái.
    Hai bà lão vừa ăn vừa lầm rầm những chuyện như thế. Bên ngoài ngôi nhà mưa
    vẫn thì thào. Trong tiếng mưa vẳng lên tiếng chó từ mấy gia đình ở chân đê bên
    kia.
    - Đấy, tôi nói rồi - Bà lão ân khẽ kêu lên và ho - Hóc xương cá rồi đấy. Khổ.
    - Bà cứ khạc mấy cái là nó ra - Bà lão Mật lo lắng. Bà lão ân đặt bát cơm ăn
    dở xuống mâm và quay sang phía khác khạc mấy cái.
    - Có khỏi không?
    - Có được đâu. Không khéo lại chết vì hóc xương tép.
    - Bà cứ hay dở mồm - Bà lão Mật nói. Và chợt reo lên - A, để tôi chữa mẹo cho.
    Bà lão Mật vội vàng cầm lấy hai chiếc đũa cả dính cơm và lom khom đến bên bà lão ân.
    - Bà ngồi im nhé. Cứ nhắm mắt lại.
    Bà lão Mật vừa nói vừa đưa hai chiếc đũa cả cách đỉnh đầu bà lão ân chừng gang tay. Rồi vừa gõ hai cái đũa cả vào nhau và vừa lầm rầm như người niệm chú: "Gần ra, xa vào". Đọc đúng bảy lần thì bà dừng lại và hỏi:
    - Được chưa bà?
    Bà lão ân không trả lời. Bà vất vả nuốt nuốt nước miếng. Một lát sau bà nói:
    - Được rồi. Chả ăn nữa. Sáng mai đun lại cho kỹ. Ăn xong bữa cơm tối, hai bà lão bỏ thêm cái gốc tre vào bếp và lấy trầu ra ăn. Bà lão ân lấy một miếng cau tươi đưa cho bà lão Mật.
    - ở đâu mà cau tươi thế này? Bà lão Mật hỏi.
    - Cau từ hôm cưới con nhà Phấn. Chúng nó nhét đầy cả túi.
    - Con nhà Phấn à?
    - Con nhà nó chẳng ra đón bà vào ăn cỗ là gì. Bà ốm bà không đi mà lại còn không nhớ?
    Sau đó hai bà lão im lặng nhai trầu. Ngọn lửa ăn dần vào gốc tre khô. ánh lửa gần gũi và xa xôi chập chờn trong hai đôi mắt đục mờ.
    - Thế Tết năm nay định gói bao nhiêu bánh? - Bà lão ân quay lại phía bà lão Mật hỏi.
    - Gói bao nhiêu thì gói. Nhưng vừa vừa thôi. Năm nào cũng bỏ mốc meo cả.
    - Cứ nấu ba chục cái.
    - Gớm, bà làm như nấu cho cả làng.
    - Cứ nấu thế. Trẻ con trong làng ra chơi thì cho chúng nó. Rồi... nhỡ có ai về...
    Nghe bà lão ân nói vậy, bà Mật từ từ ngước đôi mắt đục mờ lên nhìn một lúc lâu rồi hỏi khẽ:
    - Ai về?...

    *
    * *
    Mấy chục năm về trước. Cũng những đêm mùa đông giáp Tết ở trong chái bếp như thế này. Hai bà lão ngồi trước bếp lửa và hồ hởi nói với nhau về chuyện gói bánh chưng. Ngày ấy họ còn trẻ lắm. Cả hai người mới ngoài hai mươi tuổi.
    "Năm nay thế nào hai anh ấy cũng về - Mật thì thầm - chị ân nhỉ"
    "Tao cũng mong quá - ân nói như bằng hơi thở - đêm qua tao mơ thấy con gà trống mổ vào ngón tay út. Mấy năm rồi chẳng có ai về ăn Tết".
    "Em phát ốm vì chờ thôi".
    "Giá như có đứa con... thì họ bao giờ về cũng được". "Chị ân ơi - Mật chợt kêu lên và ôm lấy ân - Mấy đêm trước em cũng mơ. Em thấy anh ấy về và ... ngay đêm đó...".
    Nói đến đó mặt Mật ửng đỏ và đôi mắt Mật vừa lấp lánh vui, vừa bối rối.
    "Đêm đó thì sao" ân lườm mắt, mắng yêu Mật - "Con khỉ".
    "Ngay đêm đó em mơ em có mang. Lúc tỉnh dậy sờ bụng em thấy khang khác.
    Em sợ lắm".
    "Con này nói chuyện vớ vẩn"
    "Thật đấy mà, đến hôm nay em vẫn thấy bụng mình khang khác như thế - Mật nói và cầm tay ân kéo đặt lên bụng mình- Chị sờ mà xem. Đấy, chị thấy khác không?"
    Vì tò mò, ân đưa tay ấn vào bụng Mật. Và một lúc sau ân cũng hoảng hốt vì cảm thấy hình như trong bụng Mật cũng không bình thường.
    "Này... ân thì thào - Chồng đi vắng, hay mày trót dại..."
    "Chị bảo dại cái gì?..."
    "Có thằng nào nó rủ rê mày không?"
    "Không, làm gì có chuyện ấy. Có mà trôi sông"?
    "Tôi phải trông nom cô - ân nói - Có chuyện gì thì tôi và cô cứ là bỏ xóm bãi này mà lên rừng đấy nhé"
    ân và Mật đều mồ côi bố mẹ. Và lớn lên lấy chồng, họ đưa nhau ra xóm bãi lập nghiệp. Rồi một đêm hai người đàn ông của họ khăn gói theo một đơn vị bộ đội vượt sông Đáy về phía núi Miếu Môn. Trước khi qua sông hai người đàn ông dặn: "Hai chị em dọn về mà ở với nhau. Đến Tết, kháng chiến thành công chúng tôi về". Từ ngày đó Mật dọn sang ở với ân. Họ sống như hai chị em ruột với nhau.
    Và khi Tết đến, cả hai lại xuống bến rửa lá dong và vo gạo. Má họ rực đỏ trong gió lạnh cuối đông. Tiếng cười họ trong trẻo và rạo rực vang trên mặt sông mùa nước cạn yên tĩnh. Nhất là vào đêm luộc bánh, cả hai đều thấy hồi hộp lạ lùng.
    Họ cảm thấy da thịt họ thấm đầy hơi lửa bếp. Khi bánh chín, họ chọn những chiếc bánh đẹp nhất, chắc nhất để phần hai người đàn ông của họ. Nhưng những ngày Tết thường vụt đi như tên bắn. Cánh bãi không còn tiếng pháo tép của trẻ con nữa. Và những bầy sáo tháng Giêng đã loáng thoáng bay về, ân và Mật mang những chiếc bánh đã khô lá luộc lại. Cho đến khi ở đầu góc bánh đã lấm tấm mốc xanh thì họ không còn bình tĩnh chờ đợi nữa. Cả hai cùng khóc.
    Đêm xuống, hai người đàn bà trẻ nằm xoay lưng vào nhau trên giường lót rơm và giấu tiếng thở dài. "Chị ngủ à, chị ân" - Mật thường bắt đầu câu hỏi như thế trong đêm.
    "Chưa". ân trả lời trong chăn.
    "Sao Tết năm nay các anh ấy lại không về nhỉ?"
    "Có giời mà biết - ân giận dỗi - Chắc chiến dịch bận"
    "Mai mình cứ luộc lại bánh chị ân ạ"
    "Luộc bánh thành cháo à. Bỏ ra mà ăn hết đi"
    "Ăn làm sao hết những hai chục cái"
    Sau những câu chuyện như vậy cả hai chị lại chìm vào giấc ngủ lơ mơ. Thường sang Giêng gió sông ấm hơn và đất bãi phả hương phù sa dễ chịu làm giấc ngủ của họ thường có những cơn mơ. Trong mơ, ân lại thấy con gà trống tía với chiếc mào đỏ rực, cái ức rộng, và đôi cựa bóng như gà mổ mổ vào ngón tay út của mình. Còn Mật vẫn cơn mơ vừa hạnh phúc vừa lo sợ. Mật thấy người lính trở về và ngay đêm đó Mật có mang. Và cứ tỉnh giấc, Mật lại dè dặt đặt tay lên bụng. Rồi Mật mơ hồ lo lắng khi cảm thấy bụng mình khang khác.
    Rồi vào một ngày giáp Tết, chồng ân đột ngột ghé qua nhà. Tiếng gõ cửa gấp gáp trong đêm làm Mật choàng tỉnh. "Ai đấy? Ai đấy?" Mật quýnh lên hỏi.
    "Tôi đây. Bấc đây"
    "Giời ơi! Mật lập cập kêu lên - Anh Bấc..."
    Khi cánh cửa vửa mở thì người lính ùa vào ôm lấy Mật.
    "Anh Bấc - Mật hoảng hốt - Mật đây. Em đây mà"
    Vòng tay người lính vội rời ra và buông thõng xuống.
    "ân đâu?"
    "Chị ân đi Kim Bôi sáng nay cùng mấy chị trong xóm, xem có lá dong rẻ hay quýt cam gì đấy mua về bán chợ Tết. Em ở nhà trông nhà".
    "Bao giờ ân về?"
    "Có lẽ mai chị ân về, thế bao giờ anh đi?"
    Bấc đứng lặng không trả lời. Gió sông lạnh thổi xốc vào ngôi nhà tranh bé nhỏ.
    "Vào nhà đi anh, để em đốt đống lửa cho ấm"
    Một lát sau ngọn lửa đã chui qua những cành củi khô và vươn lên.
    "Em nấu cho anh bát cơm nhé?"
    "Anh ăn rồi. Liệu ngày mai ân có về kịp không?"
    "Chị ấy sẽ nóng ruột mà về. Sao các anh biệt tin lâu ngày thế? Nhà em ra sao rồi anh?"
    Mật rụt rè hỏi và đợi câu trả lời.
    "Sau ngày sang sông, chúng tôi cùng nhau ở một đơn vị được một tháng. Sau đó mỗi người đi một đơn vị. Nghe đâu Ngữ đang ở Bắc Cạn. ở nhà không nhận được tin gì của nó à?"
    "Không - Mật nói như khóc - Em và chị ân Tết nào cũng mong các anh về.
    Năm nào hai chị em cũng gói nhiều bánh..."
    "Mình sắp đánh lớn. Đơn vị tôi đang chuyển quân lên mặt trận Hòa Bình. Hai chị em ở nhà có khỏe không?"
    "Chúng em thế nào cũng chịu được. Chỉ lo cho các anh hòn đạn mũi tên. Sao anh về chẳng tin cho chị ân biết trước?"
    "Đang kháng chiến mà cô cứ làm như... - Người lính cười. Gió thổi mạnh hơn qua những tàu chuối ngoài vườn. Sương như xuống dầm dề trên mái rạ. Ngọn lửa như ngái ngủ cháy lờ đờ trên củi.
    "Anh nghỉ một tí đi, kẻo mệt - Mật nói - Hết canh ba rồi".
    "Cô đi nằm đi. Tôi ngồi đây. Cũng sắp sáng rồi".
    Mật không trả lời. Chị ngồi im lặng nhìn những mẩu than nhấp nháy như những ngôi sao mùa đông. Giá như đêm nay ân ở nhà thì ân hạnh phúc biết
    bao nhiêu. Và giá như người lính kia là chồng chị. Nghĩ đến đó máu trong người chị dào lên chảy xiết. Chị thấy mặt mình nóng rát. Chị nhớ đến cơn mơ thường gặp và chị muốn khóc.
    "Chúng em ở nhà khổ lắm - Mật thổn thức - Giá như có mụn con thì đỡ khổ"
    "Sắp hòa bình rồi. Chúng tôi sẽ về cả thôi. Rồi không có sức mà đẻ".
    Người lính nói và cười vang. Mật cũng bật cười theo. Nước mắt chị giàn giụa.
    Ngọn lửa cuối cùng đã chui vào đống than đỏ và ngủ vùi trong đó. Mật ngồi trong bóng tối, miệng lầm rầm: "Chị ân ơi về mau lên. Anh Bấc đang đợi, chị ân ơi, mau lên".

    *
    * *
    Cái gốc tre đã cháy hết, hai bà lão vẫn ngồi im lặng. Hai gương mặt sạm đen và nhăn nheo như nằm bất động trên hai đầu gối xương xẩu. Một con chuột nhắt bé như hạt mít từ góc bếp bò ra. Nó rón rén leo trên chiếc mâm gỗ. Rồi bất chợt nó nhảy phóc lên miệng bát làm chiếc bát ăn cơm đổ kềnh:
    - Bà ngủ rồi đấy à? Bà lão ân quay sang phía bà lão Mật hỏi.
    - Ngủ đâu mà ngủ - Bà lão Mật mở mắt nói và lại nhai tiếp miếng trầu còn ngậm trong miệng - Ăn miếng trầu thế mà say say.
    - Chiều bà có che kỹ cái chuồng gà không?
    - Che rồi. Tôi cho uống cả nước vôi trong. Sương thế này sợ rù mất mấy con gà.
    - Mẹ Phấn nó bảo Tết năm nay đón hai cụ vào nhà nó ăn Tết. Nó bảo hai cụ sống ngoài bãi như ma ấy.
    - Ăn uống được gì đâu mà vào. Nó còn con cháu, khách khứa, thì giờ đâu mà hầu mình. Thôi chết, tôi bỏ quên cái rổ có cái áo giặt dở lúc chiều.
    - Bà lú lẫn hơn cả tôi - Bà lão ân nói.
    - Chiều đang giặt dở thì bà Mên tưới trên bãi gọi chuyện. Thế rồi cứ quên mà về. Tôi phải xuống bến tôi lấy.
    - Thôi mưa gió tối tăm thế này, đi rồi ngã ra đấy. Có cái rổ rách với cái áo nát, ma nó lấy.
    Nhưng thấy bà lão Mật cứ khăng khăng đòi đi, bà lão ân với lấy cái nón đưa cho bà lão Mật và dặn: "Đi chầm chậm thôi, bà ạ". Trời đêm mênh mang. Bà lão Mật lom khom xuống bến. Bà đã đi không biết bao nhiêu lần trên con đường này. Và con đường đã ăn sâu vào trí nhớ bà.
    Khi cắp rổ định quay về thì có tiếng cá quẫy mạnh sát bờ. Một vật gì đó vô hình rơi vào ký ức bà tựa như cái quẫy của đuôi cá. Và rồi những vòng sóng kỷ niệm cứ loang ra, loang mãi. Bà từ từ ngồi xuống nhìn dòng sông trong đêm. Nơi đây, mấy chục năm về trước bà đã tiễn chồng theo bộ đội sang sông. Và chính nơi đây, bà đã tiễn Bấc đi trong lần người lính ghé qua nhà không gặp vợ mình.

    *
    * *
    Suốt cả ngày hôm ấy vẫn không thấy ân về - Bao nhiêu kỷ niệm đều mờ đi theo tuổi tác, nhưng những đêm như thế vẫn bám dai dẳng trong bà lão Mật - Hôm ấy, cứ thỉnh thoảng Mật lại chạy lên mặt đê ngóng về phía xa. Buổi tối ăn cơm xong, Bấc nói:
    "Khuya tôi phải đi. Mai ân về bảo tôi vẫn khỏe".
    "Chỉ sáng mai là chị ấy về thôi - Mật nói như van - Tối mai anh hãy đi".
    "Không được đâu. Tối nay tôi phải có mặt nơi đóng quân".
    Khoảng chín giờ tối thì Bấc lên đường. Mật tiễn Bấc xuống bến sông. Khi sát mép nước Bấc quay lại. Anh đặt tay lên vai Mật. Những ngón tay người lính như bấu chặt vào vai chị. Mật thấy rét run lên, hai hàm răng chị va vào nhau lập cập.
    "Anh đi nhé - Người lính thì thào - hai chị em ở nhà thương nhau. Anh và Ngữ sẽ về sớm".
    Bấc đi được một tiếng đồng hồ thì Ân về. Nghe tiếng Ân gọi cửa. Mật run bắn và òa khóc. "Chị Ân ơi, anh Bấc về, Bấc về".
    "Đâu, đâu? Anh ấy đâu?... Đâu?"
    "Anh ấy đi rồi. Anh Bấc chờ chị suốt cả đêm qua. Anh vừa sang sông".
    Bó lá dong lớn và sọt quít đồi đổ xuống như người ngã. "Anh ấy đi lâu chưa? -
    Ân hổn hển - Anh ấy đi lối nào".
    "Anh Bấc lội qua bến nhà mình". Vừa nói Mật vừa nắm tay Ân đi như chạy xuống bến. Đến bờ sông, Ân giật tay chị ra khỏi bàn tay Mật và lội ào ào xuống nước.
    "Chị ơi! Anh ấy đi xa rồi - Mật đứng trên bờ ôm ngực khóc gọi - Đừng sang sông nữa, chị ơi".
    Mật ngồi thụp xuống bờ cát ướt lạnh và bưng mặt nức nở cho đến tận khi chị nghe tiếng khỏa nước mệt mỏi vào bờ. Ân rét ướt nghiêng ngả bước lên bờ. Hai người đàn bà trẻ đứng im lặng trước nhau. Rồi cả hai lao vào ôm lấy nhau nức nở. Gió sông như ấm hơn thổi dạt dào qua bãi về phía chân đê. Và đâu đó thoảng mùi cỏ lên mầm hăng hăng.
    Tết năm ấy, Ân và Mật vẫn lặng lẽ gói nhiều bánh. Nhưng Tết năm ấy, cả hai người lính của họ vẫn không về. Sang giêng, hai người đàn bà mấy lần mang bánh luộc lại và mấy lần nhìn nhau khóc.
    Mấy năm sau ngày hòa bình lập lại. Mật nhận được báo tử chồng. Nhưng Tết đến họ vẫn gói nhiều bánh. Trong mơ chị vẫn thấy người lính trở về. Và tỉnh giấc vẫn rụt rè đặt tay lên bụng mình và thấy khang khác. Nhiều lần Ân khuyên Mật nhận lời lấy một người đàn ông nào đó. Những lần như thế, Mật chỉ nở một nụ cười xa xăm và ngơ ngác như một nụ cười của một người vừa thức giấc trong giấc ngủ trưa. Và sau đó thì Mật nói với Ân: "Bao giờ anh Bấc về với chị thì em đi lấy chồng".

    *
    * *
    Đợi lâu không thấy bà lão Mật về, bà lão Ân sốt ruột ra đầu ngõ hướng xuống sông gọi:
    - Bà Mật ơi! Bà Mật.
    - Tôi về đây.
    - Đã bảo đêm hôm rồi còn mò xuống - bà lão Ân cằn nhằn - Già rồi còn thích làm tội thân, tội mình.
    Nói vậy nhưng bà lão Ân vẫn đứng lại đợi cho đến khi bà lão Mật lên đến đầu ngõ.
    - Vào đi ngủ thôi bà ạ - Bà lão Ân nói - Tôi đau hết cả lưng rồi.
    Gian nhà nhỏ trong đêm như rộng mênh mông. Hai bà lão nằm quay lưng vào nhau và thỉnh thoảng lại khúc khắc ho.
    - Bà vẫn nhai trầu đấy à? - Bà lão Ân hỏi.
    - Tôi nhai cho hết kẻo phí.
    - Nhai thế mà không mỏi mồm.
    Đâu đó trên mái nhà có tiếng chuột đuổi nhau rinh rích. Và từ cỗ áo quan có tiếng mọt nghiến gỗ trèo trẹo.
    - Bà có cầm bao diêm đấy không? Bà lão Ân hỏi.
    - Có, làm gì nữa bây giờ?
    - Tôi xem con mọt. Có khi lúc mình chết thì mọt cũng cắn nát cỗ áo ra rồi.
    - Nó nằm trong gỗ chứ nó lại chui ra cho bà xem.
    Nói vậy nhưng bà lão Mật vẫn lấy bao diêm đưa cho bà lão Ân. Bà lão Ân bật diêm châm đèn soi cỗ áo quan. Bà nghiêng đầu nghe ngóng một lúc rồi lấy tay đập đập vào cỗ áo: tiếng mọt chợt im bặt. Bà đứng bên cỗ áo quan cho đến khi yên tâm là con mọt không còn dám cắn nữa thì mới tắt đèn lên giường.
    Gần sáng những ngọn gió cuối đông tuy còn lạnh nhưng đã chơm chớm xuân thổi rạo rực qua ngôi nhà của hai bà lão. Và bà lão Mật lại mơ thấy người lính trở về. Nhưng khi nhìn rõ mặt thì bà nhận ra đó không phải Ngữ mà là Bấc.

    *
    * *
    Vào đầu năm 1960, Ân nhận được thư Bấc gửi về, trong thư anh nói đang đóng quân ở Quảng Bình bên cạnh một dòng sông đẹp như sông Đáy quê anh.
    "Chị Ân ơi - Mật cuống quít - Chị đi vào tìm anh ấy đi. Đi ngay đi. Mọi việc đồng áng cứ để em".
    Suốt mấy ngày đó, cứ chốc chốc Ân lại mang thư chồng ra đọc và khóc. Cuối cùng chị quyết định khăn gói đi thăm chồng.
    Nhưng cuộc đời thật trớ trêu. Ân đi được dăm ngày, thì Bấc về.
    "Anh Bấc, anh gặp chị Ân không? - Mật hốt hoảng hỏi khi chị linh cảm thấy điều không bình thường - Chị Ân vào Quảng Bình tìm anh rồi".
    "Tìm anh hả? Đi bao giờ?"
    "Chị Ân đi được dăm ngày rồi"
    Nghe Mật nói, Bấc đứng chết lặng. Mãi sau anh mới nói:
    "Người lính nay đây mai đó, tìm sao được"
    "Anh Bấc ơi, lần này anh phải ở nhà chờ chị ấy - Mật nói và khóc - Em không cho anh đi đâu cả. Anh Bấc ơi! Anh Ngữ hy sinh rồi"
    "Ngữ hy sinh rồi ư! Hy sinh bao giờ? ở đâu?"
    "Có giấy báo tử rồi anh ạ. Hơn ba năm rồi"
    Đêm ấy Bấc nói với Mật:
    "Sáng sớm mai anh phải đi rồi. Lần này anh đi rất xa và có lẽ lâu lắm".
    "Không. Anh phải ở nhà chờ chị ấy về rồi đi đâu thì đi. Nếu không chị ấy chết mất."
    "Không làm sao khác được Mật ạ. Anh phải đi."
    Khoảng canh tư thì Bấc khoác ba lô lên đường. Mật tiễn Bấc lên đến mặt đê.
    Bỗng Mật ôm lấy Bấc và khóc nấc lên.
    "Anh Bấc ơi! Em thương chị Ân quá. Em thương anh hu ... hu ... và thương cả cái thân em nữa. Nếu anh Ngữ về được một lần thì em đỡ khổ, đỡ ân hận biết bao. Anh Bấc ơi, sao em không phải là chị Ân, sao anh không phải là anh Ngữ, hả anh? hu ... hu....".
    Bấc không nói được gì. Anh ghì Mật vào lòng. Cả hai người run lên. Mật vội đẩy Bấc ra và vội vã nói:
    "Anh đi đi, anh Bấc, anh đi đi".
    Nói xong, Mật chạy nhào xuống chân đê. Chị vừa chạy, vừa ngã và nức nở gọi tên Ân và tên chồng chị.
    Rồi Bấc cũng không trở về, khi Ân và Mật vừa bước qua tuổi bốn mươi. Đêm đêm hai người đàn bà thường xuống sông ngồi khóc. Và Tết lại đến, những ngọn gió chớm xuân thổi đầm ấm và rạo rực qua ngôi nhà của họ suốt đêm. Và những ngày giáp Tết là những ngày họ thường mơ nhiều hơn. Trong mơ có tiếng gà gáy và tiếng gõ cửa gấp gáp, có ngan ngát mùi lá dong xanh và hương ấm đậm của gạo nếp đã vo sạch. Họ vẫn ở lại ngoài bãi sông, mặc dù những gia đình khác đã dọn vào làng theo quy hoạch của chính quyền xã và để tránh những năm nước sông lên to. Có một điều gì đó thiêng liêng và đau khổ đã gắn chặt họ với ngôi nhà nhỏ và bến sông.
    - Này, bà Mật! Bà Mật, ngủ mê đấy à? Bà lão Ân lay gọi bà lão Mật - Kêu gì mà khiếp thế.
    - Tôi ngủ ... mê à? Bà lão Mật ú ớ hỏi - Sáng chưa bà?
    - Còn chán.
    - Bà cho tôi mượn bao diêm - bà lão Mật ngồi dậy nói.
    Bà lão Mật lục đục tìm đèn và bật diêm. Ngọn đèn dầu tỏa một quầng sáng vàng ấm trong nhà.
    - Bà dậy mà đi.
    - Không.
    - Già thì phải chịu khó mà đi. Không nhỡ ra quần, ra áo khai lắm.
    - Ôi giời! Bà lão Ân cựa mình và chép miệng - Bệnh già nó thế, ai mà muốn.
    Khi gà trong xóm bên kia chân đê thi nhau gáy ran thì hai bà lão lại tỉnh giấc.
    Bà lão Mật lại nhóp nhép nhai cái bã trầu vẫn ngậm trong miệng khi ngủ.
    - Thế bà định Tết này gói bao cái bánh? - Bà lão Mật hỏi.
    - Cứ bảo mẹ Phấn nó mua cho đủ lá gói ba chục cái. Mình thì ăn là mấy, nhưng nhỡ có ai về...
    Nghe bà lão Ân nói vậy, bà lão Mật ngừng nhai trầu và hơi nghiêng đầu về phía bà lão Ân như định hỏi điều gì đó. Nhưng bà lại thôi.
    Và bên ngoài, những ngọn gió sông đã chơm chớm xuân vẫn rạo rực thổi qua ngôi nhà nhỏ.
    Hà Đông, cuối đông 1992
     
    4DHN thích bài này.
  17. Ban Tang Du Tử

    Ban Tang Du Tử Moderator Thành viên BQT

    Tha Thứ

    [​IMG] Trần Diệu Linh



    Nước mưa vẫn ào ạt chảy trên máng xối vào cái thùng phuy phía đầu hồi, Trang nghiêng người, chong mắt nhìn ra đường qua chiếc cửa sổ con tí xíu trổ trên tường. Qua màn mưa mờ mịt, cái bóng đèn đường hắt vào chị một vầng sáng nhạt nhòa hơn thường ngày. Mọi đêm, Trang vẫn thường đọc sách dưới cái ánh sáng "chùa" này chừng nửa tiếng trước khi ngủ. Nhưng đêm nay thì không. Chị không thể ngủ được dù cái kim ngắn trên chiếc đồng hồ treo tường đã nhích đến số mười hai và những tiếng lao xao của đám người tan xuất chiếu cuối ở rạp đã tắt từ lâu. Bỗng chị thèm ngắm anh đến lạ lùng. Trang trở mình, quay nhìn chồng và giật mình khi bắt gặp đôi mắt anh đang mở to.
    - Em sao vậy? Có chuyện gì thế?
    Vội vàng co lút cổ vào đám chăn gối, Trang cố nặn ra một câu trả lời:
    - Đèn hôm nay sáng hơn mọi khi thì phải. Sáng quá, em không ngủ được.
    Rồi nhận ra sau câu trả lời của mình, cái ánh nhìn dò hỏi kia lại càng bừng lên, chị cố ngáp thật to và nhắm mắt lại. Người chồng vòng tay ôm lấy vợ, trong đầu vẫn còn đôi chút ngạc nhiên nhưng cơn buồn ngủ đã xua nó đi thật nhanh và chỉ năm phút sau, tiếng ngáy của anh đã vang đều trên căn gác nhỏ.
    Bình minh thuần khiết trào qua những giò lan không bao giờ trổ hoa ập vào đôi mắt của người đàn bà. Cùng với nó là những tiếng chim loét choẹt vọng sang từ những dãy lồng chim treo đầy ban công những nhà gần đấy.
    - Một buổi sáng đầy phong lan và tiếng chim. Trang giật mình quay ra. Anh đã dậy từ lúc nào, nhẹ nhàng tới sau lưng chị và giờ đây đang nhìn chị bằng ánh mắt đêm qua.
    - Thế mà anh không biết là em cũng thích ngắm lan và nghe chim hót. Tiếc là chúng không thể có hoa.
    - Như ngày xưa của anh, phải không?
    Trang bật hỏi, không nhận ra nổi giọng mình. Người chồng bật cười. Anh hơi ngạc nhiên song đã từ lâu, anh vẫn coi chị như một đứa trẻ cần được chiều chuộng. Sự nhường nhịn ấy có thể được giải thích bởi sự cách biệt tuổi tác khá lớn giữa họ, nó khiến cho quan hệ của cặp vợ chồng này có cái gì đó giống như mối quan hệ cha con hay chí ít cũng là anh cả - em út. Vì vậy, vẻ gây gổ trong câu hỏi vừa rồi của chị cũng không làm anh bực mình. Ngược lại là khác. Anh ngắm nghía chị với vẻ thú vị ra mặt và điều này, rút cục, làm chị nổi cáu. Sập mạnh cánh cửa sau lưng, chị lại lao lên giường và thiếu chút nữa thì oà khóc. Cứ như thể anh muốn giễu cợt chị và thay vì kể với chị về lá thư ấy, như họ vẫn làm trong bao nhiêu năm trời nay, anh lại giấu biệt nó đi và để mặc kệ chị với nỗi tò mò muôn thuở của phụ nữ. Nếu những dòng chữ trên phong bì không đẹp mềm mại đến thế thì có lẽ Trang sẽ không băn khoăn về nó nhiều như vậy. Nhưng điều khiến chị lo lắng hơn nữa là vẻ vui buồn bất chợt của anh kể từ khi đọc những gì trong đó. Chưa bao giờ chị thấy anh ở trong trạng thái bồn chồn đến thế, hình như anh có một việc quan trọng cần phải quyết định mà lại e dè, hoặc giả anh có một điều bí ẩn kinh khủng thèm được thổ lộ mà lại không đủ gan. Dù gì thì gì, linh tính phụ nữ báo cho Trang biết rằng Hải của chị đang có chuyện. Nếu anh không muốn nói trước, thì tự chị, chị sẽ tìm ra sự thật.
    Khi Hải trở về từ bệnh viện vào lúc sáu giờ chiều, anh thấy hai chiếc túi du lịch đặt gọn gẽ cạnh nhau trên sàn nhà, bên chân bàn nước; lá thư bí mật nằm phấp phới dưới chiếc tách trà màu xanh nhạt yêu thích của Trang. Bần thần ngồi xuống ghế, Hải cầm lá thư lên, đọc lại một lần nữa những dòng chữ anh đã thuộc lòng. Khi ngẩng lên, anh bắt gặp đôi mắt Trang đang chăm chú nhìn mình. Bước lại gần anh, chị thì thầm lời xin lỗi:
    - Đáng ra em không nên làm thế. Nhưng em chỉ muốn giúp anh đưa ra quyết định. Nếu anh đồng ý, em sẽ đi cùng anh.
    Nắm chặt bàn tay lạnh ngắt của Hải, Trang tự hỏi phải chăng mình đã làm đúng điều cần làm? Yêu anh, chị đã chấp nhận biết bao phiền toái không nhỏ của vợ một người nặng lòng quá mức với quá khứ. Anh không tiếc công tiếc của để giúp cho những người đồng đội cũ đã đành, mà cả chị nữa, chị nghĩ mình sẽ bớt yêu anh nhiều lắm nếu anh không hành động như vậy. Nhưng đây là lần đầu tiên chị chủ động bước vào thế giới ấy của anh, đúng vào trường hợp mà chính anh tỏ ra ngần ngại. Có một điều gì đó mách bảo chị rằng anh muốn làm điều này vô cùng mà không đủ can đảm. Chị đã tin là mình làm đúng mặc dù đến khi ngồi bên anh trên chiếc xe đang lướt êm trên đường cao tốc, chị lại không hiểu tại sao mình lại quyết định đi cùng anh và liệu làm thế này có nên không. Và cũng vậy, đến tận lúc này, chị vẫn chưa hết bối rối. Ngôi nhà thờ họ cũ kỹ âm u như trong Liêu trai và người đàn bà đứng tuổi mà vẫn đẹp óng ả kia thật giống như một ả hồ ly tinh hiện hình. Một thoáng bối rối ban đầu đã qua mau và họ nói chuyện với nhau như những người thân thiết. Trang kinh ngạc nhận ra giọng nói của người ấy thuần khiết Hà Nội. Một phụ nữ Hà Nội chuẩn ở giữa một vùng quê cách Hà Nội ngót ngàn cây số, đó không phải là điều đáng ngạc nhiên hay sao. Bắt gặp vẻ ngạc nhiên trong mắt Trang, người đàn bà kín đáo mỉm cười. Dầm tay trong chậu nước giếng mát lạnh, Trang để mặc trí tưởng tượng lôi kéo mình đi ngược lại tuổi trẻ của người ấy, nơi chẳng biết đã có chuyện gì xảy ra giữa họ: Hải và Bích.
    Bữa cơm tối trôi qua trong một bầu không khí thân mật và vui vẻ nếu không kể đến vẻ bồn chồn của Hải. Dường như anh đang chờ đợi một điều gì đó.
    o0o
    Đêm cuối tháng mịt mù, khu vườn trước nhà chìm trong bóng tối. Im lặng ngự trị cả vùng quê. Không có gì ngoài tiếng cây xì xào trong gió. Ngay cả lũ ve cũng đã tắt tiếng sau một ngày khản giọng hòa ca. Bâng quơ, người đàn bà thả một tiếng thở dài vào im lặng. Có vẻ như sẽ không gì khuấy động sự yên tĩnh kỳ diệu này nếu từ phía cổng tre không vang lên những tiếng lốc cốc tựa tiếng mõ trâu và chỉ ít phút sau, từ bóng đêm, hiện ra một con người kỳ dị với bộ râu tóc rậm rạp bao quanh một khuôn mặt nhăn nhó đễ sợ cùng đôi mắt hấp háy trẻ trung như bị đặt nhầm chỗ. Người đàn ông này chống một chiếc nạng gỗ sần sùi, chính nó là nguyên nhân của những tiếng lộc cộc kể trên.
    - Anh Bình! - Người đàn bà reo lên với vẻ vui mừng vô hạn. - Làm sao anh tới được đây, tối tăm thế này mà chân tay thế kia. Ôi em mừng quá. Anh vào đây. Cả vợ chồng Hải cũng đang ở đây. Anh đi bằng gì...
    Người đàn ông mới tới giơ cao chiếc nạng lên, phác một cử chỉ cắt dứt dòng lũ hỏi han của Bích. ông ta nghiêm mặt, làm bộ tức giận:
    - Dù có phải đi bộ cả đêm thì tôi cũng phải tới. Cô coi tôi là loại người gì? Thằng Hải đâu, gọi nó ra đây!
    Hải bước ra. Anh im lặng đứng trước người đàn ông đáng sợ. Ông ta cũng im lặng nhìn anh, một cái nhìn săm soi khó chịu. Họ nhìn thẳng vào mắt nhau một lúc lâu, rồi bất ngờ, người đàn ông cất liếng cười ha hả.
    - Được lắm! Mày dám nhìn thẳng vào mắt tao nghĩa là mày đã sống có ích những tháng ngày vừa qua. Lại đây!
    Ông ta quẳng chiếc nạng sang một bên và dang rộng hai tay. Hải bước nhanh đến, anh ôm chầm lấy ông và khi anh quay ra, Trang thấy mắt anh nhòe lệ. Thoáng qua khóe mắt chị thấy người đàn bà đưa tay gạt nước mắt. Bất giác, một nỗi xúc động sâu sắc trào đến Trang. Người đàn ông tên Bình lại gần Trang, đưa tay ra cho chị. Chính vào giây phút nắm vào bàn tay chai sần ấy, Trang bỗng thấy như mình đã quen biết con người này từ lâu lắm rồi, như thể bao lâu nay chị vẫn mong ngóng đến giây phút gặp gỡ này đây. Nặng nhọc ngồi xuống ghế, ông hỏi ngay về công việc ngày mai.
    - Cháu Nam sẽ đưa hài cốt anh ấy về, chắc là vào khoảng năm giờ sáng. Mọi thứ em đã chuẩn bị đủ cả.
    - Họ hàng cậu ấy còn ai không?
    - Không còn ai cả. Sẽ chỉ có em và cháu Nam để trở thôi.
    Ông Bình gõ gõ lên mặt bàn, chậm rãi nói:
    - Cô cho tôi một cái khăn. Tôi là anh em của cậu ấy, tôi cũng có quyền trở.
    - Dạ...
    Tiếng dạ mênh mang của người đàn bà khiến Trang nao lòng. Chị tự hỏi tại sao anh vẫn im lặng. Tại sao anh không đề nghị được để tang. Nếu đó là một người thân thiết với anh đủ để anh vút bỏ mọi việc để về đây dự lễ nhận hài cốt thì lẽ ra anh nên làm vậy mới phải; nhất là khi người ấy chẳng còn họ hàng thân thiết nào. Mang trong lòng những thắc mắc không dễ hỏi, Trang thao thức trằn trọc đến tận hai giờ sáng và rốt cuộc, chị quyết định trở dậy. Sẽ sàng để khỏi làm người đàn bà thức giấc, Trang xuống giường, rón rén đi ra phía gian chính và giật mình khi nhận ra Hải đang ngồi im như tượng trong ánh đèn dầu lờ mờ hắt xuống lừ ban thờ. Môi anh mấp máy, có lẽ anh đang nói chuyện một mình.
    Trang lặng người. Chị hiểu ra những âu lo vô cớ của mình mấy ngày qua là có lý. Nửa muốn chạy đến ôm chặt lấy anh, nửa muốn tránh mặt, chị đứng phân vân trong vùng tranh tối tranh sáng. Không biết Trang sẽ đứng đó đến bao giờ nếu một tiếng chim lợn không bất thần xẹt qua khu vườn, làm tan đi vẻ vô hồn trong mắt anh và hướng nó về phía góc nhà, nơi chị đang đứng trong dáng vẻ mờ ảo của một ru hồn.
    - Bích à? Có phải Bích không?
    - Em đây - Trang trả lời, chậm rãi tiến về phía chồng với dáng cứng nhắc gượng gạo - Sao anh chưa nghỉ?
    - Trang à - Giọng anh mừng rỡ - Sao em cũng không ngủ?
    - Em không ngủ được. Ta ra ngoài đi.
    Hải nhẹ nhàng đứng dậy, nắm lấy tay chị. Họ cùng ngồi xuống bậu cửa gỗ trông ra màn đêm mịt mù. Những tấm phướn ngoài vườn bay phần phật trong gió, nhác trông như những bóng người đang nhảy múa cuồng loạn trong tấm vải liệm. Bất ngờ với cả chính mình, chị hỏi:
    - Anh yêu chị ấy phải không?
    Anh im lặng, xiết chặt tay chị đến đau tức.
    - Anh đã từng yêu cô ấy.
    - Đáng ra anh phải nói với em - Chị rút tay về - Em có quyền được biết chứ!
    - Anh biết. Nhưng anh sợ. Đây là một câu chuyện xấu hổ.
    Trang bất lực tìm kiếm trong bóng tối những biểu hiện của khuôn mặt anh, phải chăng người đàn ông chị yêu đã thốt ra điều đó.
    - Xấu hổ? Vì đã yêu ư?
    - Không, không phải vì đã yêu. Tình yêu không bao giờ là đáng xấu hổ. Chỉ có điều.
    Anh lại im lặng, đầu gục xuống, đôi tay trống trải xòe ra rồi bất ngờ bóp chặt lại, những ngón tay trắng nhợt ngọ nguy trong một cơn giận dữ cố kìm nén. Trang thoáng hoảng hốt, nhưng rồi chị nén mình lại, và cũng như anh, chị im lặng. Chị đợi.
    o0o
    Đó là một mùa hè kinh khủng, kinh khủng ở khắp chốn, ở chiến trường ác liệt đã đành, nhưng cả ở đây nữa, trạm quân y tuyến giữa của Hải. Tất cả những gì xảy ra xung quanh, bom đạn, thiếu thốn, cái nóng như nướng người cùng mùi hôi thối của những vết thương đang lở loét từng ngày do thiếu thuốc men cùng phương tiện cứu chữa của hàng chục con người ngổn ngang quanh trạm phẫu dã chiến chỉ rộng vài trăm mét vuông này làm Hải như muốn phát điên. Anh chưa từng chuẩn bị tinh thần để gặp những tình huống này dù rằng tự anh, chứ không phải ai khác, đã cứa con dao mổ sắc lém vào tay để lấy máu viết đơn xin vào chiến trường.
    Hai từ "tuyến lửa" ngày ấy vang lên trong đầu Hải, chàng sinh viên y khoa, chỉ đơn thuần như một thứ mỹ lừ mà anh đã lường tượng ra cái khung cánh đẹp như mơ của rừng già Trường Sơn, nơi anh sẽ lập rất nhiều kỳ tích, cứu sống được không biết bao nhiêu con người và trở thành anh hùng trong mắt của bao cô thanh niên xung phong xinh đẹp. Và hãy để con người đẹp nhất trong số các cô gái quanh đấy phải nhìn nhận anh đúng với những gì anh có - dũng cảm, tài năng và cao thượng - chứ không phải là một anh chàng thư sinh non nới và yếu đuối. Dù gì thì ý nghĩ này cũng an ủi được Hải đôi chút trong những phút ngã lòng và làm anh bớt áy náy khi nghĩ đến vẻ mặt rạng rỡ tự hào của cha khi ông nghe tin anh xung phong ra trận. Ông đã cúi gầm mặt mấy năm trời, không dám nhìn mặt họ mạc xóm giềng kể từ khi Sơn, anh trai Hải, không hiểu vì cớ gì được miễn gọi nhập ngũ với một lý do không ai tin nổi - bệnh tim. Nói không ai tin nổi là vì Sơn to khỏe như một con gấu. Mùa đông anh la vẫn đứng bên cái bể nước chung của cả khu lập thể dội nước tắm ầm ầm, làm bắn lung tóe lên các bà già. đang ngồi nhặt rau vo gạo quanh đấy, mồm huýt sáo vang lừng. Người ta nói rằng tờ chứng nhận bệnh tim đó là do ông Liên, giám đốc một bệnh viện lớn nhất nhì Hà Nội, đồng thời là cha của người yêu Sơn, cấp cho. Đó là họ nói ra nói vào như thế, còn trong nhà Hải không một ai nhắc tới điều này, kể cả cha anh. Ông thuộc típ người yếu đuối và sợ sệt con cái như nô lệ sợ ông chủ. Một năm sau khi Hải vào mặt trận, ông chết trong một đợt ném bom của Mỹ, ngay bên bức tường Đại sứ quán Pháp, nơi ông vẫn ưa đi dạo ngày ngày với một sự an tâm rất trẻ thơ rằng đấy thực sự là nơi an toàn nhất giữa cái thành phố lỗ chỗ bom đạn này. Hải không bao giờ tìm thấy mộ ông, nó đã thất lạc sau bao lần vật đổi sao dời và cả bởi sự vô tâm đến vô hình của Sơn. Ông Liên đã chết, chết trong cô đơn và ân hận, như Hải đã được biết qua những người hàng xóm của ông.
    Suốt cái đêm kinh khủng ấy, Hải giấu mình trong bóng tối, má vẫn nguyên cảm giác bỏng rát sau cái tát của Bình, tim nhức nhối một cảm giác nhục nhã đến nỗi chỉ muốn chết đi, tan biến hẳn đi để không bao giờ còn phải nhìn vào mặt bất kỳ ai nữa. Bích đã trở về từ xẩm tối, đi lướt qua lều anh như một bóng ma, khuôn mặt bệch bạc màu xác chết. Trong ánh sáng hoe hoắt cuối ngày, Hải vẫn kịp nhận thấy bàn tay cô nhuộm một màu đỏ bầm của máu và đất. Vậy là anh hiểu. Chằm chằm nhìn vào khẩu súng lục từ nãy vẫn nắm chặt trong bàn tay ướt nhoét mồ hôi, Hải nghĩ về sự giải thoát sẽ đến chỉ sau một động tác đơn giản và gọn ghẽ. Chỉ một cái gập của ngón tay trỏ, thế là sẽ không còn ân hận, giằn vặt, không còn cả Bích, cả Vinh nào ám ảnh nổi anh nữa. Chẳng gì dễ chịu hơn thế, xin lỗi và vĩnh biệt!
    Rất có thể Hải đã làm thế nếu không có một sự tình cờ can thiệp: Chính khi Hải nhắm mắt, há mồm hớp lấy ngụm dưỡng khí cuối cùng, nòng súng lạnh tanh áp sát thái dương thì đồng thời vang lên những tiếng lao xao từ phía con đường mòn, tiếng quẹt diêm và bừng lên trước mắt anh, trong quầng sáng nhỏ nhoi của que diêm là khuôn mặt tái dại của Bích. Không nhìn thấy vẻ giật mình lúng túng của Hải, Bích chỉ nói ngắn gọn "Thương binh" rồi quay lưng bước vội đi. Bao nhiêu năm sau, mỗi khi nhớ tới khoảnh khắc đó, Hải lại tự hỏi không biết cô ấy sẽ làm gì nếu biết anh định tự tử. Anh tin là cô sẽ ngăn anh lại, nhưng không biết điều này có ảnh hưởng gì tới thái độ của cô sau đó không; liệu cô, dù một chút thôi, có tha thứ cho anh không? Hải không thể nào tìm được câu trả lời. Loang loáng trong sân trại, những ánh đèn pin quét nhoang nhoáng trên mặt đất, cùng với nó là những tiếng chân rầm rập đập vào não Hải, nhanh chóng lôi anh ra khỏi cơn u uất. Không có thời gian để nghĩ đến bất cứ điều gì, ngoại trừ những con người ngoài kia đang cần đến anh. Hải lao ra khỏi lều, nhập vào công việc hối hả và tất cả lại lập lại cái guồng quay trước đó, như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Những mệnh lệnh ngắn gọn của anh được thi hành một cách nghiêm chỉnh và chính xác. Không có những cái nhìn giận dữ, những vẻ mặt lạnh lùng khinh miệt. Cuộc chiến của những người áo trắng diễn ra liên tục suốt đêm và khi bình minh ló rạng trên khu rừng nhiệt đới, báo hiệu sự trở lại của mình bằng những giọng chim thánh thót mỗi lúc một mau thì mọi việc cơ bản đã xong. Họ cố thể nghỉ ngơi đôi chút để chuẩn bị cho một ngày làm việc mới. Đây thường là thời khắc kỳ diệu nhất đối với họ, khi được mỉm cười với nhau trong một sự mệt mỏi đầy thỏa mãn của những người tự tin rằng mình đã làm tròn nhiệm vụ. Đôi khi họ đau buồn vì thấy bất lực trước bom đạn và số phận, nhưng chưa bao giờ họ phải xấu hổ. Hải đã từng yêu giây phút ấy, cũng như giờ anh sợ nó. Khi khoác chiếc áo trắng trên người, họ là đồng đội, nhưng khi cởi nó ra, anh trở lại là kẻ tội đồ trong mắt mọi người và chính bản thân. Dù rằng tất cả mọi người, kể cả Bích, đều tin Hải sẽ không khi nào cho phép Vinh lên đường trở về đơn vị vào cái ngày định mệnh ấy nếu anh biết cái gì đang chờ Vinh trên đường, song không vì thế mà anh vô can. Chỉ cần sử dụng một lập luận vô cùng đơn giản rằng Hải, người bác sĩ chính, trực tiếp mổ và theo dõi điều trị cho Vinh, tất nhiên phải nhận thấy rằng Vinh chưa thể đủ sức trở lại chiến đấu, thậm chí là trong vòng một tháng nữa, vậy mà lại ký giấy cho phép xuất viện, đủ cho thấy đây là một hành động thiếu trách nhiệm và vô lương tâm, dù là xét trên phương diện nghề nghiệp hay con người thuần tuý. Cho dù Vinh thoát khỏi quả bom năm tấn ấy thì cũng chẳng ai dám chắc rằng anh sẽ không gục ngã trên đường tìm về đơn vị. Một cái tát của Bình là sự trừng phật quá nhẹ nhàng cho tội ác đó. Hải mong muốn tự sâu trong thâm tâm rằng Bích hãy trừng phạt anh, thậm chí giết anh cũng được. Hay chí ít, cô hãy gào khóc và rủa xả anh, hãy nhiếc móc và căm thù anh. Tất cả, miễn là đừng đối xử với anh bằng vẻ im lặng khinh bỉ này.
    o0o
    Bích ngồi lặng trong bóng tối, lắng nghe những lời tâm sự của Hải. Chị biết anh đã từng rất ân hận và dày vò, nhưng chị không ngờ rằng anh đã định tự tử. Thật may là điều ấy đã không sảy ra, nếu không, lòng chị làm sao đủ sức chứa thêm một niềm ăn năn nữa. Bích tin mọi việc đã không xảy ra tồi tệ thế nếu trước đó chị chưa tỏ ra thân thiện hơn với Hải. Chính điều ấy đã khiến anh ta bị sức khi Vinh tới. Quả thật, vào đến nơi này, Bích mới hiểu ra rằng Hải khác rất nhiều so với anh trai anh ta, người yêu của chị gái Bích. Nếu Sơn tầm thường, thực dụng và cáo già bao nhiêu thì Hải lại ngây thơ, yếu đuối bấy nhiêu. Bấy nhiêu chưa đủ để Bích yêu anh nhưng cũng đủ để biến sự coi thường trước đây thành một tình bạn chân thành từ phía cô. Còn Hải, chưa bao giờ anh muốn coi Bích là bạn. Bích hiểu rõ điều đó qua những cái nhìn như có lửa của anh. Chị dám tin rằng chưa bao giờ mình có chủ ý khiến anh hiểu khác đi về mối cảm tình giữa họ, song rừng xanh núi đỏ và nỗi cô đơn vắng vẻ chắc gì đã không khiến chị có đôi ánh mắt khác thường và những nụ cười không kiểm soát. Nếu Hải có nảy sinh lòng ghen tức quá đáng ấy thì lỗi lầm cũng không chỉ thuộc mình anh ta.
    Từ ba hôm trước, Vinh đã có vẻ nóng lòng sốt ruột muốn đi. Anh là một chàng trai dũng cảm và rất giàu sĩ diện. Anh không chịu nổi cái ý nghĩ rằng mình sẽ còn phải lay lắt ở đây đến tháng trời nữa trong khi những đồng đội đang xông pha nơi chiến trường. ý nghĩ rằng mình hèn kém và lẩn trốn nhiệm vụ cứ đeo bám anh như đỉa, chỉ trừ những lúc có Bích ở bên. Cứ có người ở ngoài trạm tạt qua là anh cuống quít hỏi xem đơn vị mình đang ở đâu rồi cả đêm ấy lại trằn trọc thở than.
    - Anh ấy sinh ra để làm trai thời loạn. Bích nên hiểu cho anh ấy.
    Bắt gặp Bích đang giận giữ ngồi vặt cỏ bên suối sau một hồi khóc lóc thuyết phục Vinh, Hải đưa ra một lời khuyên. Lời nói ấy ở miệng người khác thì đã an ủi được cô rồi, đằng này lại là của Hải. Thất kinh nhìn ánh mắt trợn trừng giận dữ của Bích, Hải vội vã rút lui. Ngày hôm sau, lợi dụng lúc Bích vào rừng hái rau, Vinh tìm Hải. Anh đòi ra viện. Nếu Bích ở nhà, nhất định cô sẽ không cho phép và rất có thể, cả anh cũng không muốn ra đi. Đầu tiên Hải kiên quyết phản đối. Anh biết Vinh còn rất yếu chưa thể đủ sức ra viện và anh cũng thừa biết dù anh có từ chối thì Vinh cũng không từ bỏ ý định xin về đơn vị. Viện cớ rằng phải chờ hội ý với bác sĩ Bình, anh yêu cầu Vinh chờ đến ngày mai. Đúng thật, Vinh không phải là người đễ từ bỏ ý định, anh ta bám sát lấy Hải, nì nèo nửa ngày trời. Vinh quá trực tính và phóng khoáng, anh không hề biết về mối quan hệ tế nhị giữa Bích và Hải, càng không biết rằng Hải ghét anh như đào đất bỏ đi, vì vẻ hăng hái đầy nam tính và quyến rũ một cách tự nhiên của Vinh đã khiến Bích phải xiêu lòng. Hải thẳng tay ký cái roẹt vào tờ giấy ra viện. Thế là Vinh khoác ba lô, chào mọi người, hớn hở ra đi. Anh nhờ Hải chuyển lời chào Bích.
    - Tôi sẽ viết thư cho cô ấy. Nhờ anh nói hộ Bích hãy chờ tôi?
    Nếu lúc ấy Hải có ý định giữ Vinh lại, thì lời nói ấy cũng đã làm nó tan thành mây khói. Mười lăm phút sau Bích về. Cô lao theo Vinh không chậm trễ. Năm phút sau, một tiếng nổ lớn phát ra từ phía con đường, có lẽ một quả bom nổ chậm bị sót đã phát nổ. Đất rung nhẹ dưới chân Hải.
    o0o
    Hải không nghĩ đến chuyện tự sát nữa vì anh hiểu rằng làm việc tốt là cách duy nhất để chuộc tội. Nhưng trong những giờ yên tĩnh, nhìn trộm Bích lặng lẽ như cái bóng qua khe thủng hẹp tí của tấm bạt căng trước cửa lều, Hải lại muốn một phát súng vào đầu. Khoảng hơn nửa tháng sau cái chết của Vinh, Hải tình cờ bắt gặp Bích nôn oẹ sau tảng đá lớn gần con suối cạn. Bằng hiểu biết của một bác sĩ cộng với linh tính của kẻ đang yêu, anh nhận ngay ra sự thật. Từ hôm ấy, anh cố gắng chăm sóc cô một cách thầm lặng, nhưng Bích đã nhận thấy và lừ chối những đặc cách anh dành cho với một vẻ kiêu hãnh lạnh lùng.
    Trong suốt thời gian ấy, Bình cảnh giác trông chừng Bích. Anh cũng thầm yêu Bích nhưng khác với Hải, anh không nuôi trong lòng mối ghen tuông đối với Vinh - chàng trung đội trưởng may mắn ấy. Kể từ khi nhận ra Bích yêu Vinh, Bình đã chấp nhận trở thành người bạn trung thành của họ. Anh đã cố gắng hết sức để giữ cho mối tình đơn phương ấy mãi ở trong bí mật. Anh không muốn Bích phải áy náy cho mình. Với anh, chỉ cần cô vui vẻ là đủ. Chỉ Hải nhận ra mối tình si ấy và đấy cũng là một lý do khiến anh không ưa anh chàng cục súc và nhiều khi vô cùng lỗ mãng này. Bình không phải là một mẫu người đáng yêu cho bất cứ cô gái nào. Nhưng để bù lại phần chưa hoàn thiện ấy, anh lại là một con người vô cùng trung thực và cao thượng. Không bao giờ anh có thể hiểu nổi tại sao có những kẻ sẵn lòng làm bao điều độc ác đê hèn nhân danh tình yêu. Anh gằn giọng, cười khinh bỉ "Yêu ư? Vì yêu ư?". Cái giọng cười nức nở trong họng của anh vẫn ám ảnh Hải cho mãi đến những năm sau này, khi cánh rừng cháy rụi vì bom napan và khét lẹt mùi thịt cháy đã đi vào dĩ vãng. Thật may là hôm trận bom đổ xuống trạm, Bích đi vắng. Hải đã không biết bao lần thắp hương khấn tạ ông trung đoàn trưởng, người đã khăng khăng kỷ luật Bích bất chấp sự bênh vực của Bình và Hải, người chịu trách nhiệm chính ở trạm. Nếu hôm ấy cô không phải lên trung đoàn làm kiểm'điểm thì chắc gì đã còn sống sót và cái mầm sống nhỏ nhoi kia cũng sẽ mất cơ hội hưởng ánh sáng mặt trời. Cầu cho ông yên nghỉ, người trung đoàn trưởng vô cùng nguyên tắc nhưng cũng vô cùng dũng cảm và tài năng ấy. Hai năm sau mùa hè khốn khổ của Hải, ông đã hy sinh trong một trận đánh lớn ở Quảng Trị. Trong tất cả những việc ý nghĩa ông đã làm được trong đời, có bao giờ ông biết được một việc tưởng chừng như rất nhỏ nhưng lại xiết bao vĩ đại - nhờ có ông, một đứa trẻ đã thoát khỏi hàng trăm tấn bom đạn Mỹ.
    Phải có một sự thần kỳ can thiệp thì Hải mới có thể sống sót qua trận bom này, khắp người xây xát, phủ đầy bụi, bụi ở cả trong mồm, trong mũi, trong tai, điếc đặc nhưng không có một vết thương nào đáng kể, thậm chí là ở phần mềm. Loạng choạng chui lên từ đống đất cát lỏn nhỏn, giữa những đám lửa ngủn ngút cháy, Hải gào thét gọi tên mọi người. Anh chạy như điên từ đống đá này sang đống đá khác, bới tìm bằng mười đầu ngón tay, nước mắt lã chã tơi hòa lẫn với mồ hôi túa khắp mặt, khắp người. Im lặng ngự trị trong đầu anh, làm trí não tê liệt trong một nỗi sợ hãi không gọi được tên. Không còn gì. Không còn ai. Trong cơn tuyệt vọng, Hải đập đầu vào tảng đá ven suối, không hiểu sao, cũng may mắn như anh, nó chưa bị xé nát thành những mẩu vụn. Qua dòng máu túa đỏ giàn giụa trên mặt, Hải nhận thấy một bàn tay quờ quạng chui lên từ mặt đất, ngay dưới chân anh.
    Sáng hôm sau, khi Bích trở'lại, ở chỗ trước kia là trạm quân y tuyến giữa Suối Cam, cô thấy hai người đàn ông đang nằm bất tỉnh bên nhau, giữa đống hoang tàn vẫn đang lên khói nghi ngút.
    Một tháng sau, cô cùng Bình được lệnh ra Bắc. Hải ở lại chiến trường. Rất nhiều người lính mãi sau này vẫn nhớ tới một bác sĩ Hải lận tâm và nhiệt tình, người đã cướp lại mạng sống của họ từ tay bom đạn, sốt rét bằng một ý chí ngoan cường và một bàn tay vàng. Tiếc là anh không thích những cô em gái của họ, vì có biết bao người muốn gả em gái cho vị ân nhân cứu mạng này! Phải tới hơn chục năm sau, sự ngây thơ trong sáng và dịu dàng của Trang mới xoa dịu trong anh nỗi day dứt về cái mùa hè ấy. Nhưng anh vẫn chưa bao giờ lấy lại được sự thanh thản. Nó đã nằm lại cùng Vinh trong cây và đất Trường Sơn.
    o0o
    Trang bàng hoàng nhìn ra ngoài xa, trên rặng tre, rạng đông đã đến tự lúc nào trong dải áo lụa hồng và đánh thức lũ gà trống trong xóm dậy khoe giọng râm ran. Làng quê thanh bình và hạnh phúc đến nỗi Trang ngờ rằng câu chuyện vừa rồi chỉ là lời thì thầm của thán mộng. Lẽ nào những con người bình dị này đã phải trải qua những giây phút kinh khủng đến vậy. Lẽ nào anh đã phải sống trong ăn năn bao nhiêu năm qua. Tại sao chị lại không nhận ra, hay chị yêu anh chưa đủ? Cuộc tìm kiếm sự tha thứ của anh bao giờ mới chấm dứt đây, anh đã làm tất cả để chuộc lỗi, đến bao giờ họ mới tha thứ cho anh? Hàng loạt những câu hỏi dồn dập hiện đến, Trang vặn vẹo đôi tay trong tuyệt vọng. Bất chợt chị quay ngoắt đầu lại, nhìn vào trong nhà như tìm kiếm câu trả lời. Trong ánh sáng mờ nhạt của buổi bình minh, Bình và Bích đã đến bên họ tự bao giờ, Bình đang giơ bàn lay sần sùi đặt lên vai Hải.
    Trang thấy mình mê đi trong niềm hạnh phúc được tái sinh, khi những con người bình thường mà cao thượng ấy bước ra khu vườn đã tắm mình trong một buổi sớm tinh mơ đẹp nhất trần gian.
     
    4DHN thích bài này.
  18. Ban Tang Du Tử

    Ban Tang Du Tử Moderator Thành viên BQT

    Hai đứa trẻ - Thạch Lam

    Tiếng trống thu không[1] trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rơ rệt trên nền trời.

    Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị: Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.

    - Em thắp đèn lên chị Liên nhé?

    Nghe tiếng An, Liên đứng dậy trả lời:

    - Hẵng thong thả một lát nữa cũng được. Em ra ngồi đây với chị kẻo trong muỗi.

    An bỏ bao diêm xuống bàn cùng chị ra ngoài chỏng ngồi; chiếc chỏng nan lún xuống và kêu cót két.

    - Cái chỏng này sắp gãy rồi chị nhỉ?

    - Ừ để rồi chị bảo mẹ mua cái khác thay vào.

    Hai chị em gượng nhẹ ngồi yên nhìn ra phố. Các nhà đã lên đèn cả rồi, đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn Hoa Kì leo lét trong nhà ông Cửu, và đèn dây sáng xanh trong hiệu khách...

    Những nguồn ánh sáng đều chiếu ra ngoài phố khiến cát lấp lánh từng chỗ và đường mấp mô thêm vì những hònđá nhỏ một bên sáng một bên tối.

    Chợ họp giữa phố văn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này. Một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, đ̣n gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu nữa.

    Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại, Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó.

    Trời nhá nhem tối, bây giờ chị em Liên mới thấy thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng ở trong ngơ đi ra; chị Tí, mẹ nó, theo sau, đội cái chỏng trên đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc: tất cả cái cửa hàng của chị.

    - Sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế?

    Chị Tí để chỏng xuống đất, bày biện các bát uống nước mãi rồi mới chép miệng trả lời Liên:

    - Ối chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì.

    Ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này dưới gốc cây bàng, bên cạnh cái mốc gạch. Để bán cho ai? Mấy người phu gạo hay phu xe, thỉnh thoảng có mấy chú lính lệ[2] trong huyện hay người nhà thầy thừa[3] đi gọi chân tổ tôm, cao hứng vào hàng chị uống bát nước chè tươi và hút điếu thuốc lào. Chị Tí chả kiếm được bao nhiêu, nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến đêm.

    Chị kê xong chỏng ghế, dịch ngọn đèn Hoa Kì lại để ngồi têm trầu, còn thằng cu thì loay hoay nhóm lửa để nấu nồi nước chè. Lúc bấy giờ chị mới ngẩng lên nói chuyện với Liên:

    - Còn cô chưa dọn hàng à?

    Liên giật mình, kêu khẽ: Chết chửa! Rồi đứng dậy giục em:

    - Vào đóng cửa hàng thôi, không mẹ mắng chết.

    An đáp:

    - Hôm nay chưa chắc mẹ có ra không, chị ạ. Mẹ còn bận làm gạo cơ mà.

    Ngày nào, cứ chập tối, mẹ Liên tạt ra thăm hàng một lần, và bà dặn hễ cứ trống thu không là phải đóng cửa hàng lại. Thế mà Liên mải ngồi nhìn phố quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn, xếp những quả[4] sơn đen lại, trong lúc An đi tìm then để cài cửa cho chắc chắn. Cái cửa hàng hai chị em trông coi - là một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc. Một gian hàng bé thuê lại của bà lão móm ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình[5]. Mẹ Liên giao cho Liên trông coi - bà còn bận làm hàng xáo[6] - và buổi tối thì hai chị em cùng ngủ đây để trông hàng.

    Liên đếm lại những phong thuốc lào, xếp vào hòm các bánh xà phòng còn lại, vừa lẩm nhẩm tính tiền hàng. Hôm nay ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì.

    - Có phải buổi trưa em bán cho bà Lực hai bánh xà phòng không?

    An ngẫm nghĩ rồi đáp:

    - Vâng, bà ta mua hai bánh, còn cụ Chi lấy chịu nửa bánh nữa.

    Liên với cái bàn tính để cộng số tiền. Nhưng trong hàng nóng và muỗi quá, chị ngần ngại rồi xếp hết cả tiền vào tráp không tính nữa:

    - Thôi, để mai tính một thể.

    An nhìn chị, chỉ đợi lúc ấy. Hai chị em cùng vội muốn đóng cửa hàng để lại ra ngoài kia, ngồi trên chỏng ngắm nhìn phong cảnh ngoài phố. Liên khóa vội tráp tiền với

    một chiếc chìa khóa chị đeo vào cái dây xà tích bạc[7] ở thắt lưng, chiếc xà tích và cái khóa chị quý mến và hãnh diện, vì nó tỏ ra chị là người con gái lớn và đảm đang.

    - A, cô bé làm gì thế?

    Nghe câu nói tiếp theo một tiếng cười khanh khách, chị em Liên không cần ngoảnh mặt ra cũng biết là ai đã vào hàng. Đó là cụ Thi, một bà già hơi điên, vẫn mua rượu ở hàng Liên. Liên đã biết tính bà, chị lẳng lặng rót một cút rượu ti[8] đầy đưa cho cụ; chị không dám nhìn mặt cụ, và trong lòng hơi run sợ, chị mong cho cụ chóng đi. Cụ cầm cút rượu soi lên rồi cười gịn giã nói:

    - A, em Liên thảo nhỉ. Hôm nay lại rót đầy cho chị đây.

    Cụ ngửa cổ ra đằng sau, uống một hơi cạn sạch, rồi vừa chép miệng vừa lần ruột tượng trả tiền - Cụ để ba đồng xu vào tay Liên, xoa đầu chị một cái rồi lảo đảo bước ra ngoài. Hai chị em Liên đứng sững nhìn theo cụ đi lần vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng.

    • *
    Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Đường phố và các ngơ con dần dần chứa đầy bóng tối. Các nhà đã đóng im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, nhưng cửa chỉ để hé ra một khe ánh sáng. Trẻ con tụ họp nhau ở thềm hè, tiếng cười nói vui vẻ, khiến An thèm muốn nhập bọn với chúng để nô đùa, nhưng sợ trái lời mẹ dặn phải coi hàng, nên hai chị em đành ngồi yên trên chỏng, đưa mắt theo dơi những bóng người về muộn, từ từ đi trong đêm.

    Ṿm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là trên mặt đất hay leo vào cành cây. An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật và xa lạ và làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát hai chị em lại chúi nhìn về mặt đất, về quầng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chỏng hàng của chị Tí. Về phía huyện, một chấm lửa khác nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi, rồi lại hiện ra... An trỏ tay bảo chị:

    - Kìa, hàng phở của bác Siêu đã đến kia rồi.

    Tiếng đòn gánh kĩu kịt nghe rơ rệt, khói theo gió tạt lại chỗ hai chị em: bác Siêu đã tới gần, đặt gánh phở xuống đường. Bác cúi xuống, nhóm lại lửa, thổi vào cái nứa con. Bóng bác mênh mang ngả xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngơ. An là Liên ngửi thấy mùi phở thơm, nhưng ở cái huyện nhỏ này, quà bác Siêu bán là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được. Liên nhớ lại khi ở Hà Nội chỉ được hưởng những thức quà ngon, lạ - bấy giờ mẹ Liên nhiều tiền - được đi chơi bờ hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Ngoài ra, kỷ niệm nhớ lại không rơ rệt, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh. Hà Nội nhiều đèn quá! Từ khi nhà Liên dọn về đây, từ khi có cái cửa hàng này, đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chỏng tre dưới gốc bàng với cái tối của quang cảnh phố chung quanh.

    Đêm tối đối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa. Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngơ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Giờ chỉ còn ngọn đèn con của chị Tí, và cái bếp lửa của bác Siêu chiếu sáng một vùng đất cát; trong cửa hàng, ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ, thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa. Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí. Thêm được một gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để trước mặt, nhưng bác chưa hát vì chưa có khách nghe.

    Chị Tí phe phẩy cành chuối khô đuổi ruồi bò trên mấy thức hàng, chậm rãi nói:

    - Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ?

    Chị muốn nói mấy chú lính trong huyện, mấy người nhà của cụ thừa, cụ lục[9] là những khách hàng quen của chị. Bác Siêu đáp vẩn vơ.

    - Hôm nay trong ông giáo cũng có tổ tôm. Dễ họ không phải đi gọi đâu.

    Vợ chồng bác xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng. Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường. Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ.

    • *
    An và Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt. Tuy vậy hai chị em vẫn cố gượng để thức khuya chút nữa, trước khi vào hàng đóng cửa đi ngủ. Mẹ vẫn dặn phải thức đến khi tàu xuống - Ðường sắt đi ngang qua ngay trước mặt phố - để bán hàng, may ra còn có một vài người mua. Nhưng cũng như mọi đêm, Liên không trông mong còn ai đến mua nữa. Với lại đêm họ chỉ mua bao diêm, hai gói thuốc là cùng. Liên và em cố thức là vì cớ khác, vì muốn được nhìn chuyến tàu. Chín giờ có chuyến tàu ở Hà Nội đi qua huyện. Đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya.

    An đã nằm xuống gối đầu lên đùi chị, mí mắt sắp sửa rơi xuống, còn dặn với:

    - Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé.

    - Ừ, em cứ ngủ đi.

    Liên khẽ quạt cho An, vuốt lại mái tóc tơ. Đầu em bé nặng dần trên người Liên; chị ngồi yên không động đậy. Qua khe lá của cành bàng ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu.

    Trống cầm canh[10] ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn, khô khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối. Người vắng mãi, trên hàng ghế chị Tí mới có hai ba bác phu ngồi uống nước và hút thuốc lào. Nhưng một lát từ phố huyện đi ra, hai ba người cầm đèn lồng lung lay các bóng dài: mấy người làm công ở hiệu khách đi đón bà chủ ở tỉnh về. Bác Siêu nghển cổ nhìn ra phía ga, lên tiếng:

    - Đèn ghi đã ra kia rồi.

    Liên cũng trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi. Liên đánh thức em:

    - Dậy đi, An. Tàu đến rồi.

    An nhỏm dậy, lấy tay dụi mắt cho tỉnh hẳn. Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi. Một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ. Mấy năm nay buôn bán kém nên người lên xuống ít, có khi hai chị em đợi chờ chẳng thấy ai. Trước kia, ở sân ga, có mấy hàng cơm mở đón khách, đèn sáng cho đến nửa đêm. Nhưng bây giờ họ đóng cửa cả rồi, cũng im lặng tối đen như ngoài phố.

    Hai chị em chờ không lâu. Tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.

    - Tàu hôm nay không đông nhỉ, chị nhỉ.

    Liên cầm tay em không đáp. Chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình khư kém sáng hơn. Nhưng họ ở Hà Nội về! Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng.

    - Thôi đi ngủ đi chị.

    Liên vỗ vai em ngồi xuống chỏng. An cũng ngồi xuống và ngả đầu vào vai Liên. Tiếng vang động của xe hỏa đã nhỏ dần, và mất dần trong bóng tối, lắng tai cũng không nghe thấy nữa. Sao trên trời vẫn lấp lánh. Cả phố huyện bây giờ mới thật là hết náo động, chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn. Từ phía ga, bóng đêm lồng với bóng người đi về; chị Tí đương sửa soạn đồ đạc và bác Siêu đã gánh hàng đi vào trong làng, còn vợ chồng bác xẩm ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ.

    Liên quay lại nhìn em thấy An cũng đã ngủ say, tay nắm chặt tà áo chị và đầu vẫn dựa vào vai. Liên nhìn quanh đêm tối, gió đã thoáng lạnh và đom đóm không còn nữa. Chị cúi xuống vực em vào trong hàng, mắt cũng đã ríu lại. Chị gài cửa cẩn thận và vặn nhỏ đèn đặt trên cái quả thuốc sơn đen. Rồi Liên đến bên em nằm xuống. Chị gối đầu lên tay nhắm mắt lại. Những cảm giác ban ngày lắng đi trong tâm hồn Liên và hình ảnh của thế giới quanh mình mờ đi trong mắt chị. Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ. Nhưng Liên không nghĩ được lâu; mắt chị nặng dần, rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối.

    Hết.
     
    4DHN thích bài này.
  19. Ban Tang Du Tử

    Ban Tang Du Tử Moderator Thành viên BQT

    Gió Trên Đồng - Nguyễn Kim Châu


    Sụp tối, trời mưa như trút. Cả một giang đồng trắng xóa những nước là nước. Y ngồi trong lều, cạnh bếp lửa, còn người đàn bà thì co ro gần cửa. Ngoài đồng lớn nên gió cắt lạnh, ù ù thổi, sức muốn bật tung cái mái lều tạm bợ. Y chực nghĩ: Ðã cho người ta trú mưa, còn tiếc chi bếp lửa. Ðúng là thị đang lạnh, cái áo xám ướt nhèm, bám riết vào mảng lưng thon lẳn, đôi vai run thảng thốt trong cái thế ngồi co quắp. Chốc chốc, con mắt thị lại liếc nhanh về phía bếp lửa. Ðành vậy, y ngoắc tay. Thị bò lại, rón rén ngồi nép vào một góc chìa hai bàn tay hơ lửa. ánh lửa cháy sáng khuôn mặt hốc hác, trắng bệch của người đàn bà. Thị không đẹp, cũng chẳng xấu lắm, lại có duyên ngầm trong đôi mắt sắc sảo. Khi nhìn thẳng, con mắt ấy đủ sức giết chết khối thằng, ấy vậy mà, thị ít khi nhìn thẳng, chỉ cúi nhìn đất như một thói quen, một kiểu nhẫn nhục của lớp phụ nữ nông dân hay lam hay làm. Rồi y lại nghĩ: Mặc thị, mình còn phải ăn cơm. Vậy là, y dọn cơm ra: Một niêu cơm to đùng, một nồi cá kho thơm lừng mùi nước mắm đồng, một chai rượu chỉ còn phân nửa. Y xới cơm nhưng chưa ăn vội, khà khà quất thẳng một ly đế đầy rồi lại ngẩn ra nhìn người đàn bà. Thật là phiền, chẳng lẽ mình ăn lại để thị nhìn miệng. Dụ dự một lúc, y phẩy tay hỏi trống không: "¡n cơm nghe?". Người đàn bà nhìn y, lạ lắm. Giọt ánh sáng đỏ thẫm phản chiếu từ ngọn lửa in trong đôi mắt mở to của thị khiến y chợt rùng mình. Y tránh đôi mắt đó bằng cách xoay người lấy thêm cái chén, xới đầy cơm rồi đặt trước mặt người khách bất đắc dĩ. Thị ăn liền mấy chén đầy, cứ lặng thinh, chậm rãi mà ăn hệt như cái lều này là nhà thị vậy. Giờ thì y thoải mái hơn để làm ly thứ hai, cũng thật đầy. Men rượu bốc lên đầu làm y đâm ra nghĩ ngợi. Y nghĩ về người đàn bà. Lần đầu tiên, y được nhìn thị thật gần. Trước kia, y cũng hay gặp thị. Năm này sang năm khác, ngày nào cũng vậy, sáng sớm, thị đã có mặt ngoài đồng, cặm cụi trên mảnh ruộng nhà mình. Thị siêng lắm, siêng đến mức khó hiểu vì có lúc thị ra đây mà chẳng có việc gì để làm, chỉ ngồi thẫn thờ dưới gốc cây trâm bầu, trưa nắng thì úp chiếc nón lá rách tươm lên mặt mà ngủ, trời sụp tối vẫn còn lấn bấn mãi trên bờ ranh đầy cỏ. Chừng như, thị không muốn về nhà. Rồi lâu dần, y cũng quên béng thị đi, có gặp mặt cũng chẳng một lời chào. Tính y vốn vậy.

    Ðược một chốc người đàn bà không ăn nữa mà dụ dự nhìn ly rượu còn đầy bên cạnh chén cơm cũng đầy của y. Rất hờ hững, y hỏi: "Muốn uống hử?" Thị nhè nhẹ gật đầu. Y chưng hửng. ừ, mà có sao đâu! Mặc xác thị! Này, thì uống đi! Thị uống thật, trông cái bộ điệu đà đến là tức cười! Thoạt tiên, thị cứ nhìn mãi ly rượu trên tay mình hệt như nó là ly thuốc độc, rồi thị nhăn mặt, khịt mũi, hít một hơi thật dài để nín thở trước khi trút lọt thứ nước đùng đục vào cổ họng. Cũng may, thị không bị sặc, chỉ hơi tức ngực thì phải! Y nhếch mép cười, hỏi trống không: "Sao không muốn về nhà?". Thị trả lời lí nhí "Nó đánh!". Y lại hỏi: "Ai?". Thị trả lời: "Chồng tôi. Chiều nào nó cũng say. Hễ say là nó đánh". Nói đến đó, thị lại nhăn mặt cố nốc thêm một ly nữa. Y không cản mà bật cười, nụ cười thốt nhiên mà méo xệch đi. Hèn gì - y nghĩ - chó bị đánh mãi còn chạy, huống gì người. Buồn tình, y lại quất thêm ly nữa rồi trầm ngâm nhìn trời mưa. Tiếng mưa mới buồn làm sao, cứ rào rào, rào rào. Bất giác, y thấy lạnh, cái lạnh tê tái ở đâu đó trong lồng ngực.

    Khi y quay lại thì người đàn bà đã ngã dúi dụi ra đất. Say rồi! Ðã nói mà, có uống được rượu đâu! Mặc, cứ để thị nằm đấy, hết mưa, y sẽ gọi dậy mà về. Y bưng chén cơm lên, gằm mặt ăn. Lạ thật, sao cơm cứ nhạt như giấy vụn. Nhưng... lỡ thị bị trúng gió thì sao? Hà, thật là phiền. Y bò lại chỗ người đàn bà đang ngủ, lay vai thị: "Dậy, dậy đi!". Thị vẫn nằm như chết, gương mặt đỏ bừng, khóe môi trĩu xuống thành một nụ cười nặng nhọc. Ðành vậy, y lòn tay qua lưng người đàn bà, xốc thị lên chiếc chõng tre. Ngẫu nhiên mà tay y run bắn khi tiếp xúc với tấm lưng chắc nịch, ấm cúng của người đàn bà. Rồi cánh tay thị chợt quàng qua cổ y, ghì sát xuống... Y gượng lại! Trong khoảnh khắc, nơi cái đầu hưng hửng vì rượu của y vụt thoáng qua một tia chớp, một ý nghĩ nào đó mà y không nắm bắt được. Nó đã thoát ra ngoài bầu trời vần vũ. Hoặc giả, nó đã lặn mất trong vùng ngực no tròn, trắng nhẫy, đột ngột hiện ra ngay trước mắt y bởi những chiếc cúc trên áo người đàn bà chợt bật tung lúc nào chẳng rõ. Theo đà ghì sát của cánh tay, y áp khuôn mặt nóng bừng bừng của mình vào cái vùng da thịt mềm mại, mát lạnh như sương sớm ấy trong lúc ngọn gió lồng qua lều vô tình thổi tắt ngọn đèn dầu leo lét. Bóng tối và tiếng mưa ầm ào xóa được hết những mặc cảm, dè dặt, sự khinh bỉ, nỗi khiếp sợ trước một hành vi mà nền văn minh đạo đức của người đời tàn nhẫn lên án...

    ... Rồi mưa tạnh. Rồi ngọn lửa trong người y và người đàn bà lụn dần sau giây phút tỏa sáng rực rỡ. Y nằm yên lặng, trong lúc người đàn bà trở dậy, chậm rãi mặc lại xống áo. Y chợt nghĩ về mình, về một điều gì đó gần như là một nguyên tắc sống kể từ lúc y dựng lên căn lều này và trở thành một gã chăn vịt chạy đồng mạt hạng. Rồi y bật dậy, mò tay vào vách lôi một gói tiền, số tiền dành dụm, lẳng lặng đếm, cố làm ra vẻ thật bình thản khi chìa những tờ giấy bạc về phía người đàn bà, thị nhìn tiền, rồi nhìn y lâu lắm. Có cái gì đó như là sự ngỡ ngàng, xa xót lướt qua đôi mắt mở to, ươn ướt của thị làm y chực mủi lòng. Nhưng mà không được! Phải sòng phẳng và ... hết! Y trừng mắt như ra lệnh khiến thị hoảng hốt thò tay cầm lấy tiền rồi lò dò ra ngoài lều. Y ngồi phịch xuống chõng, thở hắt ra, lắng nghe tiếng dầm khuấy nước trong cái tĩnh lặng của đất trời sau cơn mưa. Lòng y chợt quặn thắt một nỗi buồn...

    Trăng lên. Trời trong vắt và sâu thẳm. Y cảu nhảu quẳng cái mền rách qua một bên, lồm cồm ngồi dậy, vấn thuốc hút. Quái lạ, sao mà không ngủ được! Sao mà quanh y nồng gắt cái mùi đàn bà! Sao cái gì đó cồm cộm vẫn đang cựa quậy trong y: những dư ba của khoái cảm xác thịt đã lâu mới được thụ hưởng, cái đau tê của dấu móng tay người đàn bà trên ngực y hay là những hồi ức về nỗi đau đã trôi qua trong đời y nhiều năm về trước...?

    Y lắc cái đầu bù xù, cố tự nhắc mình đừng nghĩ ngợi nữa. Mà khổ nỗi... người đàn bà đêm nay vô tình đốt lại cái bếp lửa đã tàn than trong lòng y, nhắc cho nhớ rằng, có một thời nào đó, xa lắc xa lơ, y từng có một gia đình, một người vợ, một đứa con và những tháng năm tạm gọi là hạnh phúc. Rồi một ngày đẹp trời nào đó, vợ y bỗng biến khỏi cuộc đời của gã thầy giáo nghèo trường làng và hiện ra trong căn biệt thự lộng lẫy của thằng ma cô giàu lên nhờ buôn lậu. Con y cũng biến mất, đứa con gái đẹp như thiên thần của y! Nó chết vì sốt xuất huyết trong lúc mẹ nó bỏ nhà ra đi, còn cha nó thì lồng lên trong cơn ghen tuông, thù hận... Y thù con đàn bà phản bội đến mức bỏ nghề dạy học, trở về làm thằng chăn vịt, sống trong căn lều xa làng, tự nghĩ sẽ chẳng bao giờ tin vào mụ đàn bà nào nữa để rồi bị phản bội. Y sống đơn độc, ghẻ lạnh như một thằng điên hiền lành và tâm đắc lắm với cái đời sống lạ lùng này. Giờ thì y bình thản hoàn toàn trước cái được và cái mất của cuộc đời. Nỗi đau, nó đã lặn vào tim, nó nhắc cho y nhớ rằng cần phải tránh xa mọi cạm bẫy.

    Nhưng mà... đến là khổ! Sao y vẫn cứ thừ người ra, vẫn cố tình trông ngóng? Sao y cứ thấy cay cay ở mắt khi nhận ra cái mùi nồng gắt lạ lẫm lẩn vẩn đâu đó trên chăn chiếu? Sao cái dấu móng tay sâu hoắm trên ngực y vẫn lặng lẽ đau? ... Ba ngày rồi, thị không đến! ừ, mà sao y lại phải buồn? Mọi việc đều đã sòng phẳng và ổn thỏa. Cứ quẳng tiền vào mặt nó. Thế là xong hết, không phải liên hệ, không cần lo lắng, không ghen tuông, thù hận. Y ngẫm nghĩ và bật cười một mình. Xem ra, cái cách trả thù đàn bà của y cũng hay hay dù, xưa nay, y chưa từng một lần đi chơi điếm. Nhưng... thị nào phải là một con điếm! Y nhớ cái ánh mắt ngỡ ngàng của thị khi y chìa tiền ra, ngổ ngáo như một thằng ma cô thực thụ. Y chưa từng nghĩ rằng mình lại có thể tệ đến vậy. Hà, mà sao y lại phải nghĩ ngợi nhiều như vậy? Mặc xác thị, muốn nghĩ sao thì nghĩ! Thị có liên quan gì đến y kia chứ?

    Khi y vừa cố tâm thoát khỏi được cái cảm giác ngóng trông khoắc khoải thì người đàn bà lại đến. Từ sáng sớm, y đã thấy thị lom khom trên mặt ruộng nhưng cố tình quay mặt đi, thản nhiên lùa vịt ra đồng. Y về sớm hơn mọi ngày, chẳng biết vì sao y làm như vậy trong khi đầu y lại nghĩ rằng: Sẽ tốt hơn nếu câu chuyện hôm trước chỉ là một giấc mơ hão huyền. Nhưng không, y nghe có tiếng khuấy nước trên dòng kênh. Qua khe hở trống toác trên vách lều, y thấy người đàn bà từ dưới nước lên, nửa thân người trên cứ để trần, ướt nhẫy, chậm chạp đi về phía lều hệt như đây mới chính là nhà của thị. Giữa cái nhập nhoạng của ngày và đêm giao nhau trong căn lều ẩm thấp, y đứng lặng lẽ chờ đợi, thản nhiên đón nhận cái thân thể nóng bừng bừng của người đàn bà, lôi thị xuống cái chõng tre xiêu vẹo, thản nhiên giải tỏa những ẩn ức, những chờ mong khắc khoải, rồi hết sức thản nhiên chìa tiền ra cùng với một câu cụt ngủn: "Tối rồi, về đi!". Người đàn bà nhận lấy tiền, mặc vội xống áo, dò dẫm đi ra cửa, không một lần ngoái lại... Những sự việc "thản nhiên" như vậy cứ tiếp nối nhau đều đặn mà không buồn chán. Cả hai như những kẻ đói khát dài ngày, giờ được ăn thì ăn mãi, vừa no xong đã thèm, đã bị day dứt bởi cái tâm thế dự phòng.

    Bởi thế, khi phát hiện ra cả đống tiền dành dụm nhỏ nhoi của mình bị hết sạch cho "những buổi chiều thú vị", y đâm ra hoảng loạn và đau khổ như một kẻ chợt nhận ra mình đã nghiện ma túy. Y chết lặng người đi trong cái đêm phải chìa những tờ giấy bạc cuối cùng ra. Vẫn cố bình thản, y nói: "Ðừng tới nữa! Hết tiền rồi". Thị nhìn y. Chẳng biết đây là lần thứ mấy, nụ cười ma quái trên môi người đàn bà làm y chợt rùng mình. Và thị vẫn lấy tiền, vẫn thản nhiên đi ra cửa không một lần ngoái lại. Chiều hôm sau, y cố tình về trễ. Y sợ phải về lều. Phải sòng phẳng - y nghĩ - rồi y sẽ có tiền. Lúc ấy y sẽ lại chi trả cho những giờ phút thanh thản. Còn bây giờ thì không, nhất định là không...

    Nhưng người đàn bà vẫn cứ đến. Lờ mờ nhận ra thị vẫn ngồi trên cái chõng tre, y khựng người, thẫn thờ nhìn, mãi sau mới rít lên khe khẽ: "Ði về, đi!" Thị vẫn ngồi yên, đầu cúi xuống. Y lại hét, lần này to hơn, dữ tợn hơn, giọng lạc đi, cứ khản đặc, ồm ồm như là giọng người khác. Vẫn yên lặng! Mẹ kiếp! Có tức không. Y xộc vào lều, xô bệt người đàn bà ra khỏi cái chõng. Cả thân thể mềm nhũn của thị chợt khuỵu dưới chân y và lúc đó, y sững người khi thấy những giọt nước mắt đang chảy lặng lẽ trên gương mặt người đàn bà. Chao ôi, nước mắt! Bao nhiêu lần, y đã chết ngộp, đã vật vã đau đớn trong những vùng nước mắt ngập ngụa của người vợ phản bội! Vậy mà sao, y vẫn cứ thấy tê lòng, chợt dịu đi: "Cô muốn gì?". Thị vẫn làm thinh mà khóc, lâu lắm mới ngẩng mặt lên, đôi mắt mở to, đằm thắm, xoáy vào y một cách dạn dĩ điều mà y chưa bao giờ ngờ được - và rồi, thị nói, giọng lí nhí, run run: "Tôi... muốn làm vợ anh!". Y chết sững người mất một lúc. Cái vết thương trong ngực lặng lẽ nhói đau khiến y rùng người. Không, không thể có chuyện đó. Y đã thề rồi mà! Y đã chán ngán thật rồi mà! Y như con chim bị tên suýt chết, nó không thể lao đầu vào một cái bẫy khác. Y cố sức lắc đầu, giọng khản đặc: "Không... không được". Người đàn bà bật khóc thành tiếng rồi bỏ chạy ra ngoài trời. Có tiếng khuấy nước vội vã trên dòng kênh, tiếng thở dài rất khẽ lẫn trong tiếng gió lộng tứ bề...

    ... Nhiều ngày trôi qua... hai tháng trôi qua... thị không đến nữa. Khoảng thời gian đó vừa đủ cho người ta kịp quên đi một giấc mơ kỳ lạ nhưng sao y vẫn thấy trống vắng đến tê lòng. Thảng đôi khi, y vẫn gặp người đàn bà lom khom trên mảnh ruộng nhà mình nhưng thị không lấn bấn mãi trên bờ ranh lúc trời sụp tối như trước kia nữa. Bây giờ, y sợ những lúc phải lùa vịt trở về lều. Chạng vạng tối, cánh đồng hoang vu chỉ còn trơ lại vài cái lều của những người chăn vịt giống như y. Họ ở xa lắm! Cái cảm giác cô độc, ghẻ lạnh đè nặng tâm hồn y. Bỗng nhiên mà y có thói quen uống rượu nhiều, mỗi chiều. Không có rượu y không sao ngủ được. Ðôi khi, nửa đêm, y giật mình thảng thốt khi nghe tiếng khuấy nước xa vắng, mơ hồ từ một nơi nào đó trên dòng kênh. Tiếng nước động làm y buồn. Lại ngồi dậy, lặng lẽ cuốn thuốc hút, lại mường tượng ra đủ mọi ngóc ngách của cái miền hoang tưởng mà y đã từng đặt chân vào. Khói thuốc làm y cay mắt. Miệng y nhạt thếch, khô khốc. Ngực y cứ nhói đau trong những cơn xao động âm thầm, khắc khoải. Ðầu y cứ sôn sốt như có lửa. Y cố nấu một bát cháo trắng nhưng cũng không ăn được. Cháo cứ nghẹn cứng trong cổ họng đắng nghét. Rồi y lại uống rượu. Hình như, có rượu, y cảm thấy tỉnh táo hơn, cương quyết hơn. Hóa ra, đôi khi, say cũng có lợi.

    Làng đã vào mùa gặt. Tết cũng đã đến bên chân rồi. Lúa năm nay trúng. Người ta hể hả và vội vã mang lúa về nhà để còn kịp sắm Tết. Mấy anh em trong cái hội chăn vịt chạy đồng của y cũng đã bán được lũ vịt vừa đến lứa. Họ làm một buổi tiệc nhỏ, chỉ có cháo vịt và rượu, thật nhiều rượu. Y cũng có mặt trong đám người hả hê đó. Rượu say, câu chuyện cứ râm ran quanh việc tết nhất. Họ sẽ mang tiền về nhà, cho vợ mua cặp dưa, mấy ký thịt; cho con gái, con trai những chiếc áo mới. Ai cũng có một cái nhà để mà về như con chim có tổ, con thú có hang, một chỗ để dừng chân, ngơi nghỉ. Y uống rượu, miệng đắng ngắt, cứ làm thinh mà uống, cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn mà nghe người ta bàn chuyện nhà chuyện cửa. Rồi buồn bã, y bỏ đám nhậu, lén về. Y không về lều mà đi lang thang ngoài cánh đồng, con mắt đau đáu nhìn về phía làng, nơi những mái nhà nhỏ nhô lên khỏi tán cây rậm rạp, quần quận khói cơm chiều. Y ngồi dưới gốc cây trâm bầu, chỗ người đàn bà vẫn thường ngồi, ngẩn ngơ cười, nụ cười méo xệch.

    Trở về lều, y thấy một gói nhỏ của ai đó, đặt trên chiếc chõng tre. Y mở nó ra, lặng lẽ nhìn xấp tiền giấy, tờ mới có, tờ cũ có, được xếp theo thứ tự đúng với từng khoản tiền mà y đã đưa cho người đàn bà mỗi đêm. Chiếc khăn gói số tiền đã cũ, những đường chỉ thêu ố mầu, tua ra, đứt khúc, nhàu nát. Y vo chặt cái khăn trong tay mình, thẫn người ngồi phệt ra đất, lâu lắm mới bừng tỉnh, trở dậy, xăm xăm đi về phía làng. Ðã khuya nhưng nhà nhà vẫn còn sáng đèn. Cái làng nhỏ xao động, thao thức chờ tết trong niềm vui lúa trúng. Gặp một thằng bé có lẽ vừa xem chực ti vi về, y chận lại, nói cái tên người đàn bà và hỏi nhà. Nó chỉ tay về phía bờ sông, chỗ rặng bần tối thẫm. Y đi theo hướng đó, rồi dừng lại trước một căn nhà không phải là nhà. Nó rách nát, bừa bãi, rặm rạp những cỏ là cỏ. Từ bên trong vẳng ra những tiếng thét nhừa nhựa, tiếng khóc ri rỉ, tiếng ngả đổ của bàn ghế, cốc chén, tiếng đấm đá thình thịch... Trong cái cảnh bừa bộn, trống hoác của căn nhà, một gã đàn ông gày còm đang cố sức tìm cách lôi người đàn bà dưới gầm giường ra. Tức tối vì không lôi thị ra được, gã lồng lên như một thằng điên. Gã chửi rủa. Rồi tiếng chửi rủa cũng ngơi dần. Gã đã ngủ say lắm rồi, trông cứ như chó đói, thân xác còng queo, trong mơ vẫn lảm nhảm chửi thề. Người đàn bà bò ra khỏi gậm giường, nước mắt nhòe nhoẹt, ống tay rách bươm, thòi ra khoảng da trắng lỗ chỗ những vết bầm tím. Cũng chẳng còn biết đi dâu, thị bò lại góc nhà, ngồi bó gối mà khóc, tiếng khóc không trào ra được, cứ ùng ục trong cổ họng. Khóc chán, thị thiếp đi, đầu dựa vào cột, khóe miệng trễ xuống nửa mếu nửa cười.

    Y đứng dưới tán cây xoài rậm rạp, lâu lắm, mãi cho đến khi ngọn đèn trong nhà tắt dụi vì hết dầu mới chịu quay về. Y đi thất thểu trên con đường làng ngập trong ánh trăng hạ tuần vàng vọt. Ðầu y rối rắm, lan man những ý nghĩ. Y nghĩ đến những giọt nước mắt của người đàn bà trong cái đêm y xô thị ra ngoài lều, nghĩ đến vòng tay đã xiết lấy y trong cơn thèm khát hạnh phúc, nghĩ đến cái ánh mắt van lơn, tha thiết mà dạn dĩ, đến cơn mưa chiều này nọ... Suốt đêm, y ngồi ngoài trời. Gió thổi lồng lộng! ừ, giá mà trời mưa, mưa thật lớn như cái buổi chiều người đàn bà bước vào cuộc đời y, bước vào cái lều tăm tối của! Lều ư? Sao nó không thể là một cái nhà?

    Hết.
     
  20. Ban Tang Du Tử

    Ban Tang Du Tử Moderator Thành viên BQT

    Gió lạnh đầu mùa - Thạch Lam


    Buổi sáng hôm nay, mùa đông đột nhiên đến, không báo trước. Vừa mới ngày hôm qua giời hãy còn nắng ấm và hanh, cái nắng về cuối tháng mười làm nứt nẻ đất ruộng, và làm ròn khô những chiếc lá rơi. Sơn và chị chơi cỏ gà ở ngoài cánh đồng còn thấy nóng bứt, chảy mồ hôi.

    Thế mà qua một đêm mưa rào, trời bỗng đổi ra gió bấc, rồi cái lạnh ở đâu đến làm cho người ta tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt. Sơn tung chăn tỉnh dậy, nhưng khôg bước xuống giường ngay như mọi khi, còn ngồi thu tay vào trong bọc, bên cạnh đứa em bévẫn nắm tay ngủ kỹ. Chị Sơn và mẹ Sơn đã trở dậy, đang ngồi quạt hỏa lò để pha nước chè uống. Sơn nhìn thấy mọi người đã mặc áo rét cả rồi.

    Nhìn ra ngoài sân, Sơn thấy đất khô trắng, luôn luôn cơn gió vi vu làm bốc lên những màn bụi nhỏ, thổi lăn những cái lá khô lạo xạo. Trời không u ám, toàn một màu trắng đục. Những cây lan trông chậu, lá rung động và hình như sắc lại vì rét.

    Sơn cũng thấy lạnh, vội vơ lấy cái chăn trùm lên đầu rồi cất tiếng gọi chị. Mẹ Sơn nghe thấy, đặt chén nước chè xuống, bảo chị Lan:

    - Con vào buồng lấy thúng áo ra mẹ mặc cho em, đi.

    Rồi quay lại bảo Sơn:

    - Con sang đây mà ngồi cho ấm. Bước khéo để cho em bé ngủ.

    Sơn kéo chăn lên đắp cho em, ngồi xếp bằng bên khay nước. Mẹ Sơn rót cho một chén, Sơn cầm lấy chén chè nóng ấp vào mặt, vào má cho ấm, rồi để mặt vào miệng chén cho hơi bốc lên. Bà Sơn thường vẫn bảo làm thế cho tỉnh mắt.

    Người vú già xù xù cái áo bông cánh rách, xách siêu nước từ dưới nhà lên, vừa xuýt xoa vừa nói:

    - Rét quá! Múc nước cóng cả tay.

    Vú giơ tay hơ trên hỏa lò. Mẹ Sơn hỏi:

    - Năm nay rét sớm hơn mọi năm vú nhỉ?

    Người vú già ra vẻ nhớ lại, đáp:

    - Cũng chả bằng cái năm mợ đi cân gạo bên Sông. Gớm, mới rét làm sao! Sáng tôi dậy, bà sai đi chợ, cứ run lên cầm cập.

    Sơn cũng nhớ cái rét năm ấy rõ rệt lắm, như mới đây thôi. Buổi sớm hôm ấy, mẹ Sơn cũng ngồi uống nước chè như sáng hôm nay và cũng lấy áo rét ra mặc.

    Chị Lan từ trong buồng đi ra, khệ nệ ôm cái thúng quần áo đặt lên đầu phản. Mẹ Sơn đặt cái vỉ buồm lục đống quần áo rét. Sơn nhận ra cũng những cái áo Sơn đã mặc năm ngoái, năm kia: một cái áo vệ sinh màu nâu sẫm với một cái áo dạ khâu chỉ đỏ. Sơn cầm giơ những cái áo lên, thấy mát lạnh cả tay. Từ bộ quần áo thoảng ra hơi mốc của vải gấp lâu trong hòm, làm Sơn nhớ lại những buổi đầu mùa rét từ bao giờ, lâu lắm, ngày Sơn còn nhỏ.

    Mẹ Sơn giơ lên một cái áo bông cánh đã cũ nhưng còn lành lặn, nói:

    - Đây là áo của cô Duyên đây.

    Duyên là đứa em gái bé của Sơn, chết từ năm lên bốn tuổi. Mẹ Sơn nhắc đến làm Sơn nhớ em, cảm động và thương em quá. Vú già là người đã nuôi Duyên từ lúc mới đẻ, với lấy cái áo lật đi lật lại ngắm nghía,tay mân mê các đường chỉ:

    - Giá bây giờ em nó có còn cũng chả mặc được.

    Mẹ Sơn yên lặng không nói gì. Nhưng đến lúc nói với Sơn lại để mặc áo, Sơn thấy mẹhơi rơm rớm nước mắt.

    Sơn đã mặc xong áo ấm áp: cả cái áo dạ chỉ đỏ lẫn áo vệ sinh, ngoài lại mặc phủ cái áo vải thâm dài. Sơn đứng trên giường trước mặt mẹ, đã quay đi quay lại ba, bốn lần để mẹ Sơn ngắm áo. Sau cùng, mẹ Sơn vuốt các tà áo cho phẳng phiu, rồi đẩy Sơn ra, bảo:

    - Thôi, con đi chơi.

    Sơn xúng xính rủ chị ra chợ chơi. Nhà Sơn ở quay lưng vào chợ, cạnh một dãy nhà lá của những người nghèo khổ mà Sơn quen biết cả vì họ vẫn vào vay mượn ở nhà Sơn. Sơn biết lũ trẻ con các gia đình ấy chắc bây giờ đương đợi mình ở cuối chợ để đánh khăng, đánh đáo.

    Không phải ngày phiên, nên chợ vắng không. Mấy cái quán chơ vơ lộng gió, rác bẩn rải rác lẫn với lá rụng của cây đề. Gió thổi mạnh làm Sơn thấy lạnh, và cay mắt. Nhưng chân trời trong hơn mọi hôm, những làng ở xa Sơn thấy rõ như ở gần. Mặt đất răn lại, và nức nẻ những đường nho nhỏ, kêu vang lên lanh tanh dưới nhịp guốc của hai chị em.

    Đến cuối chợ đã thấy lũ trẻ đang quây quần chơi nghịch. Chúng nó thấy chị em Sơn đến đều lộ vẻ vui mừng, nhưng chúng vẫn đứng xa, không dám vồ vập. chúng như biết cái phận nghèo hèn của chúng vậy, tuy Sơn và chị vẫn thân mật chơi đùa với, chứ không kiêu kỳ và khinh khỉnh như các em họ của Sơn.

    Thằng Cúc, con Xuân, con Tý, con Túc sán gần giương đôi mắt ngắm bộ quần áo mới của Sơn. Sơn nhận thấy chúng ăn mặc không khác ngày thường, vẫn những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ. Nhưng hôm nay, môi chúng nó tím lại, và qua những chỗ áo rách, da thịt thâm đi. Mỗi cơn gió đến, chúng lại run lên, hàm răng đập vào nhau.

    Thằng Xuân đến mó vào chiếc áo của Sơn, nó chưa thấy cái áo như thế bao giờ. Sơn lật vạt áo thâm, chìa áo vệ sinh và áo dạ cho cả bọn xem. Một đứa tắc lưỡi, nói:

    - Cái áo này mặc thì nóng lắm. Chắc mua phải đến một đồng bạc chứ không ít, chúng mày nhỉ.

    Đứa khác nói:

    - Ngày trước thầy tao cũng có một cái áo như thế, về sau bán cho ông lý mất.

    Con Túc ngây ngô giương đôi mắt lên hỏi Sơn:

    - Cái này cậu mua tận Hà Nội phải không?

    Sơn ưỡn ngực đáp:

    - Ở Hà Nội, chứ ở đây làm gì có. Mẹ tôi còn hẹn mua cho tôi một cái áo len nhiều tiền hơn nữa kia.

    Chị Lan bỗng giơ tay vẫy một con bé, từ nãy vẫn đứng dựa vào cột quán, gọi:

    - Sao không lại đây, Hiên? Lại đây chơi với tôi.

    Hiên là đứa con gái bên hàng xóm, bạn với Lan và Duyên. Sơn thấy chị gọi nó không lại, bước gần đến trông thấy con bé co ro đứng bên cột quán, chỉ mặc có manh áo rách tả tơi, hở cả lưng và tay. Chị Lan cũng đến hỏi:

    - Sao áo của mày rách thế Hiên, áo lành đâu không mặc? Con bé bịu xịu nói:

    - Hết áo rồi, chỉ còn cái này.

    - Sao không bảo u mày may cho?

    Sơn bây giờ mới chợt nhớ ra là mẹ cái Hiên rất nghèo, chỉ có nghề đi mò cua bắt ốc thì còn lấy đâu ra tiền mà sắm áo cho con nữa. Sơn thấy động lòng thương, cũng như ban sáng Sơn đã nhớ thương đến em Duyên ngày trước vẫn cùng nói với Hiên đùa nghịch ở vườn nhà. Một ý nghĩ tốt bỗng thoáng qua trong trí, Sơn lại gần chị thì thầm:

    - Hay là chúng ta đem cho nó cái áo bông cũ, chị ạ.

    - Ừ, phải đấy. Để chị về lấy.

    Với lòng ngây thơ của tuổi trẻ, chị Lan hăm hở chạy về nhà lấy áo. Sơn đứng lặng yên đợi, trong lòng tự nhiên thấy ấm áp vui vui.

    Nhưng cái vui của Sơn không được bao lâu. Bữa cơm về tới nhà, Sơn không thấy mẹ đâu cả, hỏi vú già:

    - Mợ tôi đi đâu hở vú?

    - Chị Lan và cậu cứ ăn cơm trước đi. Mợ còn đi ăn giỗ đến trưa mới về.

    Rồi vú già nhìn rõ vào mặt Sơn, hỏi:

    - Có phải cậu đem cho con Hiên cái áo bông cũ phải không?

    Sơn ngạc nhiên đáp:

    - Phải. Nhưng sao vú biết?

    - Con Sinh nó nói với tôi đấy-Sinh là đứa em họ của Sơn, vẫn hay nói hỗn với vú già, nên vú ấy ghét-Nó lại còn bảo hễ mợ về nó sẽ sang mách với mợ cho cậu phải đòn.

    Sơn lo quá, sắp ăn, bỏ đũa đứng dậy, van:

    - Thế bây giờ làm thế nào, hở vú? Mợ tôi biết thì chết.

    - Ai bảo cậu dại dột đem cho áo nó? Bây giờ cậu sang bảo cái Hiên trả lại thì không việc gì.

    Sơn vội vàng ra chợ tìm cái Hiên nhưng không thấy con bé ở đó. Đến nhà cũng không thấy ai, mẹ nó cũng không có nhà. Hai chị em lo sợ, đi ra cánh đồng tìm cũng không gặp. Gần đến buổi chiều, Sơn và chị chưa đòi được áo. Lan trách em:

    - Sao em lại nghĩ đem cho nó cái áo ấy, có phải bây giờ me mắng chết không.

    - Ai bảo chị về lấy? Nếu chị không về lấy thì em biết đâu.

    Chị Lan đấu dịu:

    - Thôi, bây giờ phải về nhà vậy chứ biết làm thế nào.

    - Nhưng mà em sợ lắm.

    Chị Lan thở dài, nắm chặt lấy tay em, an ủi:

    - Đằng nào cũng phải về cơ mà. May r a có lẽ me không mắng đâu.

    Hai chị em lo lắng dắt nhau lẻn về nhà. Đến cửa, Sơn nghe thấy tiếng mẹ nói ở trong với tiếng một người đàn bà khác nữa, nghe quen quen. Lan dắt tay Sơn khép nép bước vào, hai chị em ngạc nhiên đứng sững ra khi thấy mẹ con Hiên đang ngồi ở cái ghế con trên đất trước mặt mẹ, tay cầm cái áo bông cũ.

    Thấy hai con về, mẹ Sơn ngửng lên nhìn rồi nghiêm nghị bảo:

    - Kìa, hai cô cậu đã về kia. Thế áo bông của tôi đâu mà tự tiện đem cho đấy?

    Sơn sợ hãi, cúi đầu lặng im, nép vào sau lưng chị. Bác Hiên vừa cười vừa nói:

    - Tôi về thấy cháu nó mặc cái áo bông tôi hỏi ngay. Nó bảo của cậu Sơn cho nó. Tôi biết cậu ở đây đùa, nên tôi phải vội vàng đem lại đây trả mợ. Thôi, bây giờ, xin phép mợ tôi về.

    Mẹ Sơn hỏi:

    - Con Hiên không có cái áo à?

    - Bẩm nhà cháu độ này khổ lắm, Chẳng để dành được đồng nào may áo cho con cả. Thành thử vẫn cái áo từ năm ngoái nó mặc mãi.

    Mẹ Sơn với cái âu đồng, lấy tiền đưa cho bác Hiên:

    - Đây, tôi cho mượn năm hào cầm về mà may áo cho con.

    Khi bác Hiên bước ra khỏi cửa, mẹ Sơn vẫy hai con lại gần, rồi âu yếm ôm vào lòng mà bảo :

    - Hai con tôi quý quá, dám tự do lấy áo đem cho người ta không sợ mẹ mắng ư?

    Hết.
     
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này