Truyện ngắn đặc sắc - Nhiều tác giả

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi 4DHN, 5/10/13.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chuyện xảy ra giữa mùa cá vật - Vi Hồng

    Thà rằng cố công lấy mai đào, vuốt bới, ki cóp từng đồng để lấy tiền cưới vợ cho con trai chứ không thèm động đến số tiền không phải do công sức lao động mà có, Ké Kheng (ông Kheng) đem cả túi tiền nhặt được trả lại cho công trường thủy điện. Bản tính hiền lành, phúc hậu, trọng nghĩa khinh tài của một lão nông miền núi được tác giả mô tả bằng giọng văn giản dị, tự nhiên, giàu hình ảnh, gần gũi với đồng bào các dân tộc ít người phía bắc.
    Chú Vơn ở nhà! "Trời đất dựng đá, cá lội vực sâu" ạ! "Nhai không đứt. Nuốt không trôi". Anh phải đến so miệng đọ tai với chú, thật chẳng đúng được tí nào cả: mấy hôm trước bà mối đến nói chuyện với chú một lần cuối cùng cho dứt miệng... Nhưng chú vẫn không làm sao hạ thấp dưới hai nghìn đồng! Hai nghìn đồng anh tìm vào đâu cho thấy, bới đâu cho ra, "Trời đất dựng đá!" ạ! Thôi thì nói xa nói dài, chẳng bằng một lời rơi ngay trước mặt, anh đem cho chú một nghìn đồng, chú cho anh rước dâu! Một nghìn đồng cũng bằng thương anh và thương thằng Lìn vậy chú nhá!
    Ké Kheng nói giọng vừa cứng vừa mềm, nét mặt vừa rắn vừa tươi. Nhưng là tươi gượng. Những nếp nhăn trên trán ké Kheng hằn sâu vừa dài vừa to như những nếp sóng của thác Thuồng Luồng.
    Ké Toóng - bố Vơn đang cầm cái phất trần để quét những đồ đạc quý giá bày trước gian bàn thờ. Ké Kheng mới nói mấy câu đầu, ké Toóng còn dừng tay để nghe. Nhưng khi đã biết ké Kheng định nói gì thì lão lại tiếp tục quét cái chổi trên những đồ đạc bóng lộn. Lão quét rất kiểu cách. Quét mà như múa! Ké Kheng nghĩ đến bụng chua ruột xót, miệng đắng, mũi cay mới nhắm mắt lê chân đến nhà ké Toóng, nói với lão những lời khẩn thiết. Nhưng ké Toóng phớt lờ, trong bụng lão không có lấy một "gang ruột yêu thương con người". Ké Toóng vừa cầm cái chổi phẩy ngược xuôi từng nhát một bên sườn cái tủ "búp phê" đóng cầu kỳ đến rờm cả mắt.
    Thật lâu ké Toóng mới trả lời câu nói van xin của ké Kheng.
    - Dà! Dà! Bác nói thế cũng phải! Nhưng mà em đòi hai nghìn và "ăn hai hai" em cũng đem cửa nhà của bác mắc vào cân rồi! Bác cũng biết đấy, năm ngoái em "bán con em của nó em "ăn bốn bốn". Bây giờ em chỉ "ăn hai hai" mà bác còn muốn bớt tiền nữa thì em "bán" con em làm sao được. Bác cũng thấy nếu em con Vơn là bông vắc viền vách đá thì con Vơn cũng là bông kim quý vườn xuân nè: mẹ con Vơn ngày xưa có lẽ còn xấu hơn con Vơn bây giờ mà em còn phải ăn sáu sáu "(1) mà.
    Cả vùng Lũng Kít ai cũng biết ké Toóng bán con gái đẹp gái xinh được bốn nghìn đồng, bốn con lợn... rồi lão đem số tiền bán con gái đó tậu được khối của. Lão tìm cách buôn vụng bán trộm... ké Toóng ngày càng nhiều của. Lão tập tễnh học đòi ăn ngon chơi sang! Lão giơ cái chổi phất trần về phía ké
    Kheng nói:
    - Bây giờ mình phải sống cho sang trọng cho văn minh bác Kheng ạ! - Lão nói có ý khinh khi cái nhà cửa của ké Kheng. Nhà cửa ké Kheng không có màu sơn xanh đỏ, không có những thứ quang dầu bóng lộn như nhà ké Toóng - Nhà ké Kheng bình thường, giản dị như mọi nhà ở trong vùng Lũng Kít. "Hừ, chẳng qua cái con Vơn "chết toi" này nghĩ cũng không thấu ba gang tay mới yêu cái thằng Lìn... Tao thì chết đi ba kiếp tao còn không gả cho mày..." - Ké Toóng nghĩ. Ké Kheng tưởng nói câu ngọt, câu thảm thiết may ra ké Toóng động lòng gả con gái Vơn cho thằng Lìn, không ngờ ké Toóng lại nói những câu như đổ nước đái, nước phân lợn lên đầu lên mặt mình. Ké Kheng cúi đầu lùi lũi về nhà "yêu con, thương dâu ta sẽ cố công lấy móng đào, vuốt bới ki cóp cho đủ hai nghìn để đón dâu thôi, nói với cái lão lạc hậu này thật hỏng cả cái miệng của mình" - Ké Kheng vừa đi vừa nghĩ.
    °
    ° °
    - Em Vơn ạ, người già nói "con cóc ước nước bể chết khô, khỉ què ước quả gai chết héo"! Anh không phải là con cóc, em cũng không phải là nước bể xa vời nhưng vì thiếu tiền nên anh thành con khỉ què chết héo, em thành quả gai cao vợi.
    Lìn nói khẽ nói buồn nhưng cái giận bốc lên đầu làm rung cả mái tóc một mái của anh. Nghe Lìn nói, Vơn thấy đau nhói như kim châm từng khúc ruột. Nuốt mấy lần cái ức vướng ở cổ, Vơn mới nói được những câu không chắp nối:
    - Anh Lìn ạ! Không biết anh nghĩ nên hình nên dáng ra làm sao... anh lại coi khinh em như.... hôm nay... Anh nói những câu đứt ruột cứa gan... Anh nói thành lời ngay lời thẳng cho em nghe, em được ơn nhiều! - Đôi má hồng như phấn, hình trái xoan của Vơn trở nên tái tê như gặp cơn lạnh mùa đông, đôi mắt lá răm, đen láy của Vơn bỗng đỏ hoe như người ăn phải ớt cay.
    - Sao Vơn lại nghĩ về anh bằng những ý nghĩ nặng như núi đá đè lên quả trứng vậy. Anh yêu em ngọt ngào như mật ong còn trong bọng, như mía lùi chấm mật. Bố anh cũng thương em muốn đứt hơi, mong mỏi cho em thành con dâu trong nhà. Bố đã bán hết lợn gà chó ngỗng... ki cóp từng xu định đón em về làm dâu năm nay nhưng tiền chưa đủ nghìn, lấy đâu hai nghìn như bố em đòi hỏi để cưới em. Anh yêu em cũng đành yêu suông, yêu vã thôi? - Lìn nói, mặt buồn như mặt chim lìa cây rừng. Vơn và Lìn nói với nhau những câu khổ câu đắng và nhớ lại những ngày còn thơ còn trẻ: sáng sáng rủ nhau đi học, chiều chiều rủ nhau chăn trâu... Ngày ấy không có gì phải lo phải nghĩ.
    Vơn và Lìn sinh cùng tháng, lớn lên sống cùng bản Lũng Kít, học cùng lớp từ cấp một đến cấp hai. Ngày ngày hai bận Lìn dắt tay Vơn qua thác Thuồng Luồng đi học.
    Thác Thuồng Luồng nước xanh biếc, chảy xiết ầm ào như một đàn ngựa hí, những con nước gặp vô vàn những sống đá như những con trạch vặn mình giữa thác, vồng lên như những bờm ngựa trắng ngày đêm phi nước đại lao xuống thác. Vực Thuồng Luồng dưới chân thác xanh đậm như một vại chàm khổng lồ. Vô vàn những con trạch giữa thác tạo nên những khe nước sâu ngập đầu người. Muốn vượt thác Thuồng Luồng người ta phải nhảy từng cái một trên những sống trạch đá lấp ló dưới nước. Nếu chẳng may trượt chân khi nhảy thì sẽ bị ướt quần áo, thậm chí có thể rơi xuống thác cao đến năm - sáu mét toi mạng như chơi.
    Bảy, tám năm trời ngày hai bận Lìn dắt Vơn vượt thác Thuồng Luồng đi học.
    Năm học lớp bảy Vơn bỗng lớn lên trở thành cô gái với những đường nét rẽ mở và rực rỡ. Cái hương sắc rực rỡ của cô như muốn tỏa ra ngoài làn da nõn nà của tuổi mười bảy. Nhưng Lìn vẫn ngày ngày dắt tay Vơn vượt thác Thuồng Luồng. Cùng lứa tuổi, con gái có thể khôn sớm hơn con trai nhiều điều, nhưng khi lội sông, lội suối hay vào rừng sâu lắm thú dữ... thì người con gái thường nhờ vào sức khỏe và sự gan dạ của người con trai.
    Hôm ấy... năm xưa... một ngày đầu thu, nước dòng sông Nặm Thoong đang xanh màu lá biếc ngọt. Vơn và Lìn rủ nhau lên Ty Giáo dục lĩnh bằng tốt nghiệp lớp bảy. Hai người đứng bên bờ thác, xắn quần chuẩn bị vượt thác Thuồng Luồng, Vơn hỏi đột ngột:
    - Anh Lìn ạ! - Lìn quay lại có vẻ ngơ ngác.
    - Có chuyện gì hở Vơn?
    - Em không được đi học lớp tám nữa! Bố em bảo: con gái không cần học nhiều. ở nhà làm ruộng giúp bố mẹ để lấy công điểm! Nhưng em sẽ đi chuyên nghiệp, anh Lìn ạ! - cái buổi đầu tiên ấy Vơn xưng em và gọi Lìn bằng anh!
    - Vơn không được đi học lớp tám nữa, mình tiếc quá. Nhưng bố không cho đi nữa mình biết nói sao!
    Lìn thoắt nhảy qua một khe nước, quay mặt lại đưa tay đón Vơn - Một cử chỉ quen thuộc bảy tám năm nay, Lìn dắt tay Vơn vượt thác Thuồng Luồng. Nhưng hôm nay Vơn không đưa thẳng tay mình cho Lìn dắt tay mình như mọi ngày nữa. Vơn lắc đầu, mặt đỏ bừng. Lìn cũng bỗng thấy mặt mình đỏ bừng và thẹn thùng. Lìn nhảy tiếp vài cái nữa sang tới bờ bên kia đứng đợi Vơn. Vơn sang đến nơi, Lìn nói:
    - Chà, chà... bây giờ không cần "người ta" dắt tay qua thác Thuồng Luồng
    nữa! - Vơn đỏ mặt, đỏ đến vành tai, cúi mặt nhìn chân mình, Vơn thấy chân mình trắng nõn nà như lõi chuối vừa bóc.
    - Cám ơn anh Lìn đã dắt em lâu nay... giờ, em thấy tự mình vượt thác được rồi! - Câu cảm ơn lịch sự của Vơn có vẻ khách sáo, cả hai người đều thấy lạ tai. Lìn không muốn mình đầm đìa trong một thứ cảm giác lạ đầu tiên ấy. Anh t nói sang chuyện khác.
    - Vơn định đi chuyên nghiệp ngành gì?
    - Em xin đi trung cấp kế toán.
    Sau đó Vơn đi học kế toán trung cấp. Lìn học lớp tám. Khi Lìn tốt nghiệp lớp mười thì Vơn cũng tốt nghiệp kế toán trung cấp. Lìn định thi vào đại học nhưng mẹ già ngày càng yếu, một mình bố Lìn không quản được gia đình. Hơn nữa ban quản trị hợp tác lại vận động Lìn ở lại làm kế toán trưởng cho hợp tác.
    Vơn xin về công tác tại công trường thủy lợi Lũng Kít. Vơn luôn luôn tìm gặp Lìn nhưng Lìn vẫn hay lảng tránh. Cho nên hôm nay Vơn quyết định đến nhà Lìn bất ngờ và giữ Lìn lại để nói chuyện. Hai người ngồi ở cạnh bếp lửa, dưới bóng điện sáng trưng. Mặt đối mặt, mắt gặp mắt, nhưng cả hai đều buồn như chim không một cành cây để đậu. Vơn phải chủ động lên tiếng hỏi.
    - Anh biết tại sao em lại xin về làm ở công trường thủy lợi này không? - Lìn đưa đôi mắt to, nhìn Vơn và trả lời không suy nghĩ. "Vơn xin về đây là để gần nhà cửa, gần bố mẹ, ai chẳng biết điều dễ hiểu ấy!" - Lìn nói dỗi, nói hờn. Vơn không khóc thành tiếng, nét mặt không biến đổi, hàm răng dưới cắn môi trên và nước mắt thành hột lăn trên hai gò má.
    - Em không phải là hòn đá, người khác nói đau không biết gì! Em không phải là con khỉ vừa bị người ta đánh nhưng sau đó người ta lại đưa quả cho ăn lại vội làm lành. Em yêu anh, chung thủy với anh trong mấy năm qua... để hôm nay em nhận được sự quý trọng của anh!
    - Nếu em yêu anh, yêu tròn như vành nón, yêu vuông vắn như tấm khăn thì em đã đấu tranh với bố em.
    - Em đấu tranh không lại, em tranh cãi không qua, em mới bảo anh cùng đi báo cáo đoàn thể, ủy ban can thiệp, nhưng anh sợ trời sấm sét, đất không yên, bây giờ anh lại trách em! - Vơn nói những lời như dao chém vào cây.
    - Bố anh không cho làm như thế! - Lìn nói nhát gừng.
    Ké Kheng nghĩ trăm đường, trăm mối, ngủ không say lại nghe Lìn và Vơn cãi nhau bằng những câu nặng như những hòn đá tảng kê cột nhà, ké dậy đi xuống bếp. Vơn chào.
    - Bác chưa ngủ ạ?
    - Các con cãi nhau như thế thì ta ngủ làm sao được! Trời đất dựng đá, cá lội vực sâu ạ! - Ké Kheng cuốn một điếu thuốc lá to và hút những hơi dài. Khói thuốc chờn vờn che lấp trán cao như trán ngựa của ông. Ông hút những hơi rất mạnh nhưng hình như ông không nuốt khói. Ông lão nhả ra những làn khói dày đặc cuộn lên cuồn cuộn che lấp cả khuôn mặt to bè và rám nắng của lão. Ké Kheng vươn cổ dài như muốn thoát ra khỏi đám khói thuốc về phía Vơn và Lìn. Lão nói tiếp - Các con bảo đi báo cáo ủy ban, đoàn thể họ can thiệp! Ai cũng biết vậy, nhưng như thế đã thành kiện nhau rồi! Trời đất dựng đá cá lội vực sâu ạ! Người ta cưới rể lấy dâu là để kết nghĩa anh em... ai lại đi kiện nhau! Trời đất dựng đá ạ...! - Càng nói, ké Kheng càng vươn dài cái cổ về phía hai đứa như để sức thuyết phục trong những câu nói của lão mạnh hơn. Ông lão hạ thấp giọng tiếp - Tiền bạc rẻ như đất như cỏ, mặt mũi mới đáng giá ngàn vàng. Tao sẽ lo liệu... Tiền bạc ở hai bàn tay này mà ra tất cả - Ông lão xòe hai bàn tay to bè, thô tháp, đầy chai sạn ra trước mặt Vơn và Lìn - cái bàn tay bắt hàng vạn con cá của dòng Nặm Thoong.
    °
    ° °
    Từ tháng chạp đến tháng ba ta là những tháng cá chép ở dòng Nặm Thoong vật đẻ. Người vùng Lũng Kít gọi những tháng đó là những tháng cá đẻ hay mùa cá vật.
    Những đêm ấm trời hai bên bờ sông Nặm Thoong trở nên náo nức. Đầu đêm cá chưa vật đẻ, người ta ra bờ sông nói chuyện với nhau. Những chàng thanh niên thi nhau hát, lượn, làm âm vang cả hai bên bờ. Ven hai bờ những cái "vòn"(2) nổi lên trên mặt nước như những cái nấm xanh to. Bên những cái vòn là những cái lều dựng tạm che sương và một cái giường tre tạm bợ để nằm mà chờ cá vật đẻ. Những tháng cá vật đẻ, trời Lũng Kít có những đợt gió lạnh, cả đá cũng run! Những đợt lạnh ấy kéo dài độ mười ngày, sau đó rồi ấm dần, bừng nắng, mặt trời đỏ như một quả nhót chín mọng chễm chệ ngồi trên những chỏm núi nhọn hoắt bập bềnh trong sương lam chiều xa xa, đó là những đêm thường cá gáy vật đẻ. Mặt trời vừa khuất núi, trời đất còn sáng trưng nhưng cóc đã kêu ran hai bên bờ sông. Gió nam theo con sông đưa gió ấm áp, có vị ngọt của nước sông vào bản. Tất cả những điều đó mách bảo cho dân bản Lũng Kít biết: đêm nay nhất định cá chép vật đẻ. Người ta rủ nhau, nhắc nhở nhau sắm sửa, sửa sang lại chài lưới. Cả bản vui nhộn hẳn lên trong vụ cá đẻ. Nhưng người vui nhất hôm ấy có lẽ là ké Kheng. Vì thiếu tiền để cưới dâu, ké Kheng đã dấn thêm một bước trong sự can đảm của ông.
    Tất cả những cái vực, trên, dưới thác Thuồng Luồng đều đầy những vòn cá vật, chỉ riêng vực Thuồng Luồng thì không ai dám làm vòn cá, chỉ có ké Kheng dám làm cái vòn ở cuối vực Thuồng Luồng - cách thác Thuồng Luồng đến trăm mét. Nhưng năm nay ké Kheng làm thêm cái vòn ngang dưới chân thác - chỗ mà cá chép vật đẻ đông đúc nhất, con to nhất.
    Đêm nay ké Kheng ra vực Thuồng Luồng sớm hơn mọi người, với mục đích là kiểm tra lại mấy cái vòn ở vực Thuồng Luồng cẩn thận hơn. Vừa đi ông lão vừa nghĩ: "Đêm nay nhất định cá gáy vật đẻ. Mấy đêm, mỗi đêm chục cân cá chép cũng đã được vài trăm bạc. Ki cóp, thu vén từng hào, từng đồng... nhất định phải đón được con dâu Vơn năm nay!" Sắp ra đến thác Thuồng Luồng chân ông vấp phải một vật gì lạ. Ông lão ngồi xuống bật lửa xem: Một cái túi đeo vai căng phồng.
    - Chà, cái gì thế này nhỉ? - Trời đất dựng đá... ạ... ông lão thì thầm và mở cái túi ra xem.
    - Ôi, trời tiền! Tiền từng gói, từng buộc, mỗi tờ tiền còn mới tinh, nét giấy còn sắc nguyên, cứa cổ gà còn đứt! Trời đất dựng đá, cá lội vực sâu ạ! Còn đi mò cá vật làm gì! Tiền đây rồi, con dâu đây rồi! - Ông lão sung sướng như điên và quay về nhà. Nhưng mới quay về được mấy bước, ông lão tiếc đêm cá vật đẻ. Ông lão nghĩ: quay lại... úp được một con cá cũng là của mình làm ra. Còn tiền đây là của trời cho, đất trao... chẳng biết nó thế nào?
    Ông lão ngồi trong cái lều dựng tạm sờ soạng đến các buộc tiền. Ông lão đếm được đúng mười lăm buộc. Rồi ông lão đếm cụ thể một buộc, ông lão thấy mỗi buộc chừng một vạn đồng! "Chà, có khi đến mười lăm vạn đồng là ít", ké Kheng thì thầm với mình: "Ké Toóng a... mày bảo lấy đủ hai nghìn đồng mới bán con gái của mày cho tao để làm dâu à? Bây giờ mày lấy hai vạn hay mười vạn tao đều có!" Ké Kheng lại lẩm bẩm thành tiếng. Ông lão sung sướng vì có thể ngay ngày mai ông lão đã đón được dâu. Ké Kheng cuộn một điếu thuốc lá to, hút những hơi dài và nuốt sâu. Ông lão nghĩ mông lung rất lâu. "Chà... nhưng tiền của ai đánh rơi nhiều thế vậy? Có lẽ chỉ là tiền của công trường. Nghĩ đến công trường thủy lợi Lũng Kít, lão lại vui mừng, xốn xang: sang năm cả mường này sẽ mãi mãi có nước làm ruộng, sẽ không còn phải đợi từng giọt nước của bố trời mẹ trời cho nữa.... rồi sẽ có nhà máy điện, điện sẽ sáng cả mường, mỗi nhà mấy bóng điện... chứ không phải chỉ có bản Lũng Kít thắp nhờ công trường mỗi nhà một bóng như hiện nay. Vậy thì ta lấy tiền công trường để.... thật không phải là con người! Trời đất dựng đá cá lội vực sâu ạ!" Ông lão nói một mình nhưng cái cổ vẫn vươn dài ra có vẻ như ông lão cố gắng cho lời nói mình tăng thêm sức mạnh để tự thuyết phục mình.
    "Nếu không phải là tiền của công trường, thì cũng là tiền của một người nào đó đánh rơi! Ta lấy tiền này đi đón dâu? Ta cười nhưng người mất tiền sẽ khóc và nhảy xuống sông tự tử! Hây! Làm vậy thật không đáng là con người! Trời đất dựng đá ạ!". Ké Kheng tự nói thành lời. Ông lão cất túi tiền khỏi vai và vứt mạnh ra khỏi cái lều! "Hầy! Tiền này thật không phải tiền mình!"
    Sao sáng nườm nợp giữa trời! Trời cao thật cao. Ngàn sao thi nhau đu võng dưới vực Thuồng Luồng. Gió nồm nam đã lặng, đêm đã vào sâu, mọi vật như chìm trong giấc ngủ. Chỉ có thác Thuồng Luồng muôn thuở vẫn thức và kêu gào, không một giây phút mỏi mệt!
    Những con có diếc, cá cắt tày bắt đầu vật đẻ quanh những cái vòn nước bắn tóe lên, trắng như những bông "láp". Những loại cá diếc, cắt tày... vật đẻ là dấu hiệu báo cho những người đi rình cá chép vật đẻ rằng cá chép sắp đẻ đây! Ké Kheng sửa chài, ngồi xổm chờ cá đẻ, nhưng ông lão lại nhớ đến cái túi dết tiền... sợ mất. Ông lão lại lượng túi tiền khoác qua vai. Vừa khoác túi tiền vừa giương chài trực cá đẻ thật vướng nhưng cũng đành vậy. Ông lão nghĩ thế. Chẳng mấy chốc cá chép vật đẻ, đánh ầm ầm vào vòn ké Kheng như người ta tung từng tảng đá lớn xuống trước mặt. Ké Kheng vội vàng tung chài úp lên vòn: "Chắc chắn vớ mấy con to", ké nghĩ nhanh. Nhưng thật không ngờ, một mắt chài mắc vào cái cúc của túi tiền, kéo cái chài lại, nửa chài úp lên bờ. Ông lão tức giận chửi luôn miệng bằng cái câu quen miệng của lão - Cái câu nửa chửi nửa than - "trời đất dựng đá, cá lội vực sâu" ạ! "Chà... chà thật xúi quẩy hơn con chó đẻ bảy con". Bực mình ông lão cởi túi dết tiền, lẳng một phát lên tận rìa đường.
    Mấy con cá diếc vật đẻ trước mặt, nước tóe lên làm mấy ông sao vỡ tan tác. Những đàn cóc xung quanh kêu điếc cả tai như trêu tức lão! Ké Kheng sợ người qua lại lấy mất túi tiền, ông lão lại mò lên dìa đường lấy lại túi tiền. Lần này ông lão không đeo vào người nữa mà vùi nó dưới rơm lót chỗ nằm trong lều. Ông lão vừa sửa sang chài; vừa lẩm bẩm chửi mình, chửi trời đất vì cái túi tiền làm ông lão hỏng mẻ cá! Nhưng bỗng "ầm". Sóng cuộn lên như trâu lăn xuống thác! "Cá gì mà vật đẻ nhanh thế!". Ông lão nghĩ nhanh - Ông lão mau lẹ giương chài úp xuống vòn, ông lão lột quần ném vào một góc lều lội xuống, vừa sờ tới chài đã thấy chài giật như trâu phá. Ông lão lột áo ném lên bờ lặn xuống nhưng ông lão vội lên bờ ngay và nói thành tiếng:
    - Trời đất dựng đá, cá lội vực sâu ơi. Không phải cá! - Ông lão hoảng hốt - nhưng ông lão lại nghĩ: mau mau lên! Cứu... "Trời đất dựng đá ạ! Sợ cái quái gì! Phải cứu!" - Ông lão lấy lại bình tĩnh ôm tất cả lên bờ!
    Người ở trong chài nôn tháo, bao nhiêu nước vừa mới sặc đầy bụng. Ông lão gỡ người đó ra khỏi chài và quờ quạng tìm bật lửa. Ông lão bật lửa lên nhìn thấy mặt nên mặt con Vơn, mũi nên mũi con Vơn. Ông lão hốt hoảng gọi:
    - Cháu Vơn! Vơn! - Nhưng Vơn nằm lả đi như dọc hành hơ lửa!
    - Ôi, làm sao... làm vậy! Trời đất dựng đá cá lội vực sâu ơi! - Ông lão vừa nói vừa vươn dài cái cổ nhìn vào mắt Vơn! Vơn vẫn nhắm nghiền mắt, hơi thở thoi thóp! Ông lão đưa Vơn về lán công trường. Y bác sĩ tất bật cứu chữa. Đồng chí và bạn bè ngơ ngác. Ai cũng bảo: Vơn vừa đi lĩnh tiền ngân hàng về, sao bỗng chốc lại nhảy xuống sông!
    Đến gần sáng Vơn tỉnh lại, kêu gào như một kẻ điên loạn.
    - Tôi đã chết! Chết rồ... ồi... - Vơn vừa gào vừa chạy ra cửa như lại đi nhảy xuống sống tự tử! Quần áo tả tơi! Đầu tóc rũ ra như một cái tổ quạ! Phải đến ba người bạn gái khỏe mạnh mới giữ nổi Vơn.
    Bố mẹ Vơn đến thăm Vơn. Vơn chỉ giương đôi mắt nhìn bố mẹ như một đứa trẻ nhìn kẻ xa lạ. Bố mẹ hỏi mười câu, hai mươi câu... Một trăm câu Vơn đều không thưa, Vơn cũng chẳng khóc!
    Lìn bước vào, Vơn vùng đứng dậy, chạy ra đến tận cửa ôm chầm lấy Lìn và gục đầu vào vai Lìn khóc như cơn mưa đã bị hạn lâu ngày, khóc thành tiếng thành câu, than như mẹ chết cha mất. Mọi người càng ngơ ngác hơn nữa.
    - Anh Lìn ơi, anh Lìn à! Em sẽ lìa nhà! Em sẽ xa anh! Em không ở với anh được nữa... anh Lìn à, anh Lìn ơi! - Mọi người dựng tai, mọc gai mắt.
    Ké Kheng cũng vừa đến, ông lão vươn dài cái cổ về phía hai đứa:
    - Trời đất dựng đá cá lội vực sâu ơi! Tại sao cháu Vơn lại thế này hả! Tại sao hả, chú Vơn, thím Vơn? Tại sao hả, trời đất dựng đá?
    - Không tại sao cả bác ạ! Chỉ tại bố cháu tham tiền, bác không đủ tiền để đón cháu làm dâu. Thế mà cháu lại... - Vơn nhắm mắt, xịu xuống. Lìn dìu Vơn vào giường nằm!
    Ké Kheng cởi cái túi dết to tướng khoác ở vai, đưa cả cái túi cho ké Toóng. Ông già vươn dài cái cổ về phía hai vợ chồng ké Toóng và nói câu ra câu rõ ràng.
    - Ké Toóng à, giờ tao không chỉ có hai nghìn đưa cho mày để rước dâu mà hai vạn tao còn có! - Nói vậy rồi ông lão cầm lấy cái túi tiền trên tay ké Toóng mở bật nắp ra. Ông lão lôi ra từng bọc tiền, dí vào tận mắt ké Toóng nói tiếp - Mày thấy cái này là cái gì chưa? Mày đã thấy chưa? Ké Toóng mở to đôi mắt thao láo nhìn như dính cả cặp mắt vào từng bọc tiền. Miệng lão há hốc và tròn như ống bương muốn nuốt cả từng tập tiền... - Hai vạn tao còn có, đây là tiền tao được của rơi! Của rơi vào lửa cũng như của trôi sông, tao bắt được thì tao quyết lấy, tao có quyền tiêu! Vơn mở mắt trừng trừng nhìn vào túi tiền trên tay của bố chồng - nhưng tao không làm thế! Tao không cần cái của "trời cho đất biếu" này để cưới con dâu! Tao đem nộp cho ủy ban... Để trả lại cho người mất, một xu tao cũng không lấy của người ta, ké Toóng ạ! - Ké Kheng vừa nói vừa vươn dài cái cổ về phía vợ chồng ké Toóng, mắt ké nhìn hai vợ chồng ké Toóng không biết chớp, nói một thôi dài. Còn ké Toóng thì chỉ biết há hốc mồm, hết nhìn ké Kheng lại nhìn những bọc tiền: lão nuốt nước bọt ừng ực! Ké Kheng cầm như giật lấy túi tiền trong tay ké Toóng rồi nói:
    - Mày đưa đây cho tao, tao đi lên xã nộp bây giờ! - Ông lão khoác túi tiền vào vai, bước ra cửa một cách dứt khoát, bước những bước dài như chạy! Vơn vùng dậy chạy theo ké Kheng và kêu như sắp vỡ cả cuống họng.
    - Bác Kheng ơi! Bố ơi... Túi tiền ấy, túi tiền của con, bố cho con xin lại... Hôm qua con đánh rơi!...
    Ké Kheng quay lại, vươn cái cổ dài hết nấc, hết cỡ nhìn Vơn.
    - Trời đất dựng đá, cá lội vực sâu ạ! Lại có chuyện như thế nữa! à, có phải con đánh rơi tiền rồi đi nhảy xuống thác Thuồng Luồng tự tử phải không? Có thế nào thì bảo bố mẹ nếu không thì bảo bác chứ!
    Vơn đỏ mặt gay gắt:
    - Không phải con tự tử đâu! Hôm qua con đi lĩnh tiền về tối! Về đến thác Thuồng Luồng con còn thấy túi tiền buộc sau xe. Nhưng về đến nhà thì thấy mất tiền. Con nghĩ là có thể khi con vác xe nhảy mạnh qua thác, tiền rơi xuống thác Thuồng Luồng. Con ra thác rờ rẫm những khe đá... may ra thấy... con nhỡ chân rơi xuống thác! Nhưng... mất ngần này của công trường con còn sống làm gì! Con cám ơn bác... cám ơn bố lắm! Bố cho con xin.
    Ké Kheng vừa đưa túi tiền cho Vơn vừa nói:
    - Con hãy cảm ơn Đảng và Chính phủ đã cho bố trở thành con người thực sự "coi tiền bạc như cỏ như đất - cái mặt cái mũi đáng giá ngàn vàng"! Bố giao con số tiền này để trả lại công trường. Công trường sẽ xây con đập lớn qua thác Thuồng Luồng và con đập sẽ thành con đường lớn. Con cháu chúng ta... những con người Lũng Kít sẽ đời đời kiếp kiếp về sau không phải đếm từng bước chân nhảy qua thác Thuồng Luồng nguy hiểm nữa.
    Ké Toóng cúi đầu bước từng bước chân về nhà. Trong từng khúc ruột của lão đầy ắp những sự xấu hổ và ân hận.
    Thưa bạn đọc, trên đây là câu chuyện hoàn toàn có thật mới xảy ra hôm qua ở cái bản Lũng Kít nhỏ bé của tôi.
    1977
    (1) Danh từ thách cưới.
    (2)Cọc tre, đầu cọc giắt rơm rạ... Đó là chỗ cá vật, úp chài bắt cá.
     
  2. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Những Mảnh Vụn - Ngô Ngọc Bội


    Truyện đã cách đây hơn hai mươi năm. Trong một buổi chiều trời bắt đầu se lạnh, từ cơ quan Mơ ôm về chiếc vỏ chăn tiết kiệm. Nét mặt cô vừa sượng sùng vừa hân hoan, giơ trước mặt chồng.

    - Em vừa mua được cái nàỵ Cũng phải bình nghị mãi, nhà mình "hoàn cảnh" nhất mới được ưu tiên.

    Biền đỡ cái vỏ chăn vội vàng giơ lên xem. Đây là cái vỏ chăn hai lớp, can từ hàng trăm những mảnh vải vụn, mầu xanh công nhân. Những mảnh vụn từ xí nghiệp may nào đó, rồi một lớp người nào đó chắp vá thành chăn. Biền mừng và thốt lên:

    - Thế nhà ta "hoàn cảnh" gì mà được ưu tiên?

    Nét mặt Mơ chợt xịu xuống, dằn dỗi:

    - Anh còn không biết hoàn cảnh gì à?

    Biền sực tỉnh liếc nhìn vợ: Ôi... Mơ đã sắp tới ngàỵ

    - Anh xin lỗi em. Hoàn cảnh công tác của anh. Cái nghề phóng viên quèn trong chiến tranh này, suốt năm, suốt tháng lang thang, hết Quảng Bình, Vĩnh Linh, lại Hàm Rồng, Long Đại, ở nhà em tự lo như vậy, thật cảm ơn.

    Nhưng còn nét mặt ỉu xìu trầm lắng của Mơ, không chỉ hàm chứa giận chồng về mặt vô tâm, nó còn khắc sâu nhiều điều khác nữạ Trong đó có một điều, từ khi vợ chồng cưới nhau, cho tới nay đã hai năm, việc sắm sửa đầu tiên cho cái tổ ấm sáu mét vuông này chính là cái vỏ chăn tiết kiệm. Nó cũng trị giá bằng một phần tư số lương tháng của vợ anh. Biền an ủi vợ:

    - Thôi, đừng buồn nữa em. Có cái vỏ chăn này chúng mình cũng đỡ lo một phần.

    Bốn tháng đi phục vụ chiến dịch Quảng Trị, khi quay về thì Mơ đã sinh cái Lợi được hai tháng. Lúc ấy trời vẫn còn lạnh. Biền ôm chiếc vỏ chăn ra bàn làm việc của cơ quan căng màn ngủ. Anh thầm nghĩ: nếu không có cái vỏ chăn này không biết tối nay anh sẽ chui vào đâụ

    Chẳng biết cái vỏ chăn có bao nhiêu mụn vải, mụn lớn nhất bằng bao diêm, nhỏ nhất bằng lá lúạ Có lúc lẩn mẩn Biền đã đem ra đếm thử, nhưng lẫn lộn lung tung, nó chẳng ra hàng lối gì. Nó chỉ là cái vỏ chăn, nhưng nhờ những mép vụn còn ùn lại phía trong tạo thành một lớp mền dày, giữ hơi ấm tuyệt vờị Nó nặng tới bốn cân. Nó chẳng mỏng manh như vỏ chăn "con công" của các cô gáị Không đếm được rành mạch từng mảnh vụn, Biền lại nghĩ tới người nào đó, chẳng biết ở hoàn cảnh nào đã kỳ công khâu thành? Có phải là một cô gái đang "phục hồi nhân phẩm", hay một bà già không có công ăn việc làm. Người ấy chắc phải có tính kiên trì lắm. Khéo tay và sắt se lắm mới làm nổị Đây là một công trình lao động. Công trình mỹ thuật, chứ không còn ở phạm trù "tiết kiệm" nữạ

    Sống trên mặt bàn làm việc của cơ quan và cái buồng xép sáu mét vuông, vợ chồng con cái Biền cũng trụ được tới chín năm. Vì cơ quan xa, sáng ra Mơ phải đi rất sớm. Còn Biền trở dậy ôm tất cả chăn màn về buồng vợ. Nhưng rồi anh phát hiện ra ngay ở những kẽ tủ, kẽ bàn làm việc có thể nhét chăn màn vào đấy và khẽ nói với bà phục vụ cho anh để nhờ. Rồi anh tình nguyện riêng buồng này anh sẽ chịu trách nhiệm làm vệ sinh. Khi anh em trong phòng đến làm việc, thì Biền đã chững chạc ngồi tại bàn mình. Anh em khen: "Ông Biền lúc nào cũng là người giờ giấc nghiêm túc nhất!". Biền chua chát: "Tôi nhập được cách sống của loài chuột, loài gián đấy, ông ạ".

    Thế rồi năm thứ mười vợ chồng Biền dùng cái vỏ chăn tiết kiệm, anh được cơ quan phân phối cho căn hộ mười tám mét vuông trên tầng năm - một ngôi nhà tập thể lớn, cạnh cái hồ nước mới đào của thành phố. Về nhà mới, hai năm đầu chưa có điện nước. Vợ đi làm xa, ngày nào Biền cũng phải đem quần áo của cả nhà xuống hồ giặt giũ, và gánh bảy gánh nước lên tầng đổ vào thùng phuy cho vợ con dùng.

    Sống như thế nhưng đời đâu hết hoạn nạn. Mơ lâm bệnh tim. Ba năm trời anh đèo vợ đi hết bệnh viện Tây y lại sang Đông ỵ Rồi Mơ qua đờị Chôn cất vợ xong anh không dám hủy bỏ thứ gì vợ chồng đã dùng. Kể cả những bộ quần áo tàu tàu của Mơ, anh đều giặt cẩn thận rồi gấp cất đị Anh muốn giữ hơi hướng của Mơ mãi mãị Cũng có thể những thứ ấy sau này cái Lợi sẽ phải dùng. Nếu không thì cho người thân của anh, của Mơ còn muôn vàn thiếu thốn. Cha con sống quá khổ cực thiếu thốn như vậy, Biền chẳng bao giờ nghĩ mình sẽ bước đi bước nữạ Anh chỉ nghĩ chăm lo học hành cho con gáị

    Mười bảy năm Biền dùng cái vỏ chăn tiết kiệm cũng là cái Lợi vừa 17 tuổi, cái Lợi vừa học chữ lại vừa học máy khâu, đi khâu thuệ Một hôm nó ôm về cái vỏ chăn hoa vải Nam Định. Mặt cái Lợi tươi hơn hớn, chứ không ỉu xìu như mặt mẹ nó ngày xưa ôm cái chăn tiết kiệm về. Nó đưa cho Biền:

    - Thôi, hôm nay thì bố phải vứt cái vỏ chăn đi, con biếu bố cái nàỵ

    Nó sầm sập ôm vỏ chăn tiết kiệm lao xuống cầu thang. Biền ngồi lặng đi, chẳng ra đồng ý cũng chẳng phản đốị Khi cái Lợi qua khỏi nhà, Biền quay ra ban công nhìn xuống bãi rác ở ven hồ. Nơi đó có hai ba người đang bới rác bằng cái cời sắt. Khi thấy cái Lợi ôm rác ra họ đều ngừng tay, ngóng chờ. Đứng trên nhà Biền cũng thấy hồi hộp. Khi cái Lợi vứt cái vỏ chăn xuống bãi rác, mọi người xúm lại lấy cời bới tung tung rạ Biền nghĩ thế nào cũng có người nhặt. Dầu sao thì vẫn còn dùng được. Nếu không đem bán cho hàng giẻ rách cũng có giá. Nhưng lạ chưa, họ lại lấy cời cời lại lẫn với rác bẩn. Họ chỉ nhặt giấy vụn, ni-lông và những mảnh nhôm. Biền thấy ruột quặn đaụ Khi cái Lợi quay lên, Biền khẽ nói với con:

    - Con ạ, con vứt đi bố thấy băn khoăn lắm. Vì dầu sao nó vẫn còn dùng được. Hai nữa nó đã đi gần suốt cuộc đời của bố mẹ. Khi con mới là hòn máu trong lòng mẹ con.

    - Thì dùng mãi rồi bố cũng phải "hóa kiếp" cho nó chứ?

    - Không, nhưng mà bố còn một băn khoăn lớn nữa, bố chưa được gặp cái người khâu ra nó.

    - Ôi dà, bố hay cả nghĩ. Coi chừng, bố lẩn thẩn rồi đấỵ Cái người khâu ra nó chắc cũng đã được hóa kiếp rồị

    - Không, con phải xuống mang về cho bố. Nếu không bố sẽ không chịu nổị

    - Thế bố định giữ tới bao giờ?

    - Bao giờ bố xuống lỗ thì con chôn theo cho bố. Về dưới ấy bố mẹ sẽ lại đắp chung.

    Cái Lợi chạy xuống ôm vỏ chăn về, nó giao hẹn với Biền:

    - Đem về thì đem nhưng bố không được đắp nữạ Nhà mình trống trải chẳng có buồng, chẳng có màn gió. Bố đắp, khách khứa đến chơi, người ta cười con.

    Vụ rét tiếp theo Biền đem trải lên chiếu nằm. Cái Lợi sắm thêm cho bố cái ga bằng vải hoa, mầu hoa cà phủ lên vỏ chăn cho khuất. Nó ý tứ vì biết bố rất yêu mẹ nó. Bố dùng mầu hoa cà mới hợp.

    Con gái Biền học giỏị Tốt nghiệp đại học nó được phân công đi phụ giảng ở trường Đại học sư phạm haị Cách chỗ ở hơn ba mươi cây số. Thế là niêu cơm của hai bố con Biền phải chia đôị Lúc này Biền đã ở tuổi năm mươi, sức khỏe thuộc loại B. Mỗi lần về thăm bố, cái Lợi tỏ ra sốt ruột:

    - Thế bố vẫn chịu sống thế này thôi à bố?

    - Thế con bảo bố sống thế nàỏ

    - Chắc phải hóa kiếp cái vỏ chăn kia đi thì rồi bố...

    Nói thế, nhưng không bao giờ cái Lợi dám "xúc phạm" tới cái vỏ chăn tiết kiệm. Biền nói với con:

    - Thôi thì con cố ở trên ấy vài năm, rồi dần dần xin chuyển về gần bố. Mà có yêu thằng nào cũng phải yêu cái thằng nó có hộ khẩu ở nội thành. Rồi đưa nhau về đây mà ở.

    *

    * *

    Thế là lại qua đi vụ rét thứ hai mươi hai Biền dùng chiếc vỏ chăn tiết kiệm. Hôm nay trời nắng to, anh mang nó ra hồ giặt. Vừa mới xát bàn chải lên chăn thì từng đường chỉ khâu mủn tung rạ Hai mươi hai năm rồi còn gì nữạ Nhưng anh vẫn không chịu bỏ. Anh gượng nhẹ giặt cho sạch, rồi giăng lên bức rào gần đấy, phơị Làm xong mọi việc vệ sinh trong nhà để đón mùa nắng ấm thì đã một giờ chiềụ Anh hạ lưng nghỉ và chợp đi một giấc. Chợt có tiếng gõ cửạ Tiếng gõ vừa rụt rè, nhút nhát vừa hấp tấp. Biền rút chốt hé cửạ Trước mặt anh là người đàn bà rách rưới bẩn thỉụ Đầu đội nón mê, tay xách bị cóị Thấy Biền chị ta lắp bắp, sợ sệt:

    - Em làm phiền bác quá!

    - ăn xin chứ gì? Biền đang định quay vào lấy ví thì người đàn bà nói nhanh:

    - Vâng, em đi ăn xin, nhưng lúc này lên với bác em không phải để ăn xin. Bác là bác Biền có phải không ạ?

    - Phảị Thế có chuyện gì?

    - Cái vỏ chăn phơi ở dưới kia là của bác ạ?

    - Đúng. Thế thì saỏ

    - Có phải bác đã dùng hơn hai mươi năm naỷ

    - Đúng. Làm sao mà cô biết?

    - Chính tay em đã khâu ra nó!

    - Ạ..a... a! Thật à! Thế thì mời cô tạm vào trong nhà.

    Người đàn bà len lén bước vào góc nhà.

    - Cô ngồi xuống kia, tôi pha nước cô uống.

    Người đàn bà trấn tĩnh dần. Và cố tranh thủ thanh minh để cho chủ nhà chóng tin:

    - Nhìn thấy cái vỏ chăn ấy, người em sửng sốt nóng bừng bừng. Cứ thấy như cả cuộc đời đã qua của mình hiện lên. Em đi gõ cửa từng nhà, từ tầng một đến tầng bạ Có một bà già phúc hậu bảo vỏ chăn ấy là của bác Biền trên tầng năm, nên em mới tìm lên chỗ bác.

    Biền cảm thấy có cái gì như mộng ảo, như huyền thoạị Nhưng anh vẫn chưa dám tin và đang nghĩ cách thẩm tra:

    - Có gì chứng minh là cô đã khâu cái chăn ấỷ

    - Em làm thì em nhớ, mặc dầu đã hơn hai mươi năm rồị Bác đem về bác đếm nó sẽ là 1.534 miếng vụn. Không đúng thì bác có quyền lột xác em.

    - Làm sao mà đếm được, nó sẽ lẫn lung tung.

    - Nếu vậy, em sẽ đếm cho bác coị

    - Chuyện lạ đấỵ Vậy cô ngồi uống nước, tôi sẽ mang lên ngaỵ

    Nhờ trời nắng to, cái vỏ chăn đã khô cong. Người đàn bà ôm vỏ chăn vào lòng nước mắt dàn dụa:

    - Bác cho em xin một viên phấn.

    Biền mở ô kéo chiếc máy khâu của con gái, đưa cho người đàn bà viên phấn mầụ Người đàn bà đứng lên:

    - Bác cho em trải cái vỏ chăn lên giường của bác. Em cứ đếm đúng một trăm thì bác gạch một gạch vào mảnh giấy của bác.

    Biền lấy giấy bút rạ Người đàn bà vạch phấn lên từng mụn vải một. Miệng đếm một, hai, ba, bốn... một trăm. Hiểu ra cách đếm của người đàn bà, Biền òa lên sung sướng. Người đàn bà thấy chủ nhà vui cũng hồ hởi dần:

    - Ngày xưa khâu xong cái nào em cũng đều phải đếm như thế này để ghi công. Tý nữa đếm xong em sẽ dở cho bác xem con số mà em đã ghi ở trong lần trái cái chăn này, sợ lâu ngày thế, nó có còn nhìn thấy hay không. Xong rồi! Bác thử cộng xem có đúng với con số em nói với bác không?

    - Cô bảo là bao nhiêu nhỉ?

    - 1.534, bác ạ!

    - Đúng. Chịu "thầy"!


    Người đàn bà lại hăm hở lật trái chiếc chăn. Tít mãi tận góc cuối cùng có miếng mụn bằng con tem vẫn còn ghi nguyên con số trên, bằng mực cửu long, khá rõ. Hai người nghỉ tay và cùng uống nước. Biền nhìn người đàn bà, trầm ngâm:

    - ở hoàn cảnh nào mà cô chịu ngồi khâu cái vỏ chăn như thế?

    - Chuyện dài lắm chẳng biết bác có chịu nghe hay không?

    Lúc ấy trời đã gần tốị Nỗi băn khoăn của Biền hàng chục năm nay, lần này có cơ tháo gỡ.

    - Thôi được. Nếu vậy thì hôm nay cô nghỉ lại đâỵ Chắc bây giờ cô cũng chẳng còn biết đi đâụ

    - ở lại đây rồi bác gái về bác ấy xé xác em!

    - Vợ tôi mất từ lâu rồị Hôm nay thứ tư, con gái tôi nó cũng không về. Cô ở lại với tôi không vướng bận gì. Rồi cô kể cho tôi nghe câu chuyện của cộ à, hàng ngày thì cô ở đâu nhỉ? Tên cô là gì nữả

    - Tên em là Xuyến, Minh Xuyến. Quê em ở dưới đồng bằng. Dưới quê em có một túp nhà, mẹ em để lại, và ba sào ruộng khoán. Nhưng mẹ em đã chết lâu rồị Quê em có tập quán xấụ Rỗi rãi là hay rủ nhau đi ăn xin. Đi ăn xin người ta bịa ra đủ mọi hoàn cảnh: Bị bão lụt, bị hỏa hoạn, bị nhỡ đường, bị trấn lột. Bị con ốm nằm bệnh viện lâu, bây giờ ra viện không có tiền về quê... Nghĩa là nói thế nào cho người ta xiêu lòng.

    - Thế cô cũng đi "hành nghề" lâu rồi à?

    - Cũng đã sáu bảy năm naỵ

    - Nhưng ở hoàn cảnh nào thì dễ xin nhất?

    - Dễ nhất là có con mọn ôm trên taỵ

    - Thế lần này lên không có con thì cô nói thế nàỏ

    - Cứ bảo là bệnh tật, là đi kinh tế mới, bị trấn lột ngang đường, cũng tùy cơ ứng biến. Nhìn từng đối tượng mình xin mà bịa ra cho hợp.

    - Cô cũng nhiều kinh nghiệm đấỵ

    - Vâng. Nhưng lần này em lên là vì có con bạn nhắn lên. Nó tên là Thụ Bạn từ ngày còn ở thanh niên xung phong chống Mỹ. Nghe nói nó mới có con. Nhưng lên tới nơi thì buồng nó khóa cửạ Hỏi người ta bảo Thu bế con về thăm bà ngoại, em mới lang thang tới đâỵ

    - Thế cô là thanh niên xung phong?

    - Vâng. Cả cái Thu nữạ Chúng em đi đợt năm 1966. Hết đợt một, năm 1969 cái Thu quay ra đi học. Em đăng luôn đợt nữa đến năm 1972.

    - Thế cô khâu cái chăn ấy vào dịp nàọ Nhưng thôi, để đến tối kể.

    - Đời cái Thu cũng khổ cực lắm, anh ạ. Nhưng nó hơn em là có con và được ở thành phố. Hơn bốn mươi tuổi mà có con được thì mừng lắm. Nhưng nó có con rồi lấy gì mà nuôi con. Cái cơ quan của nó suốt ngày "đoán gió dò mưa" nghèo như xơ mướp.

    - Thôi được. Cô đi tắm đị Tôi chạy ra chợ kiếm thức gì về thổi cơm.

    - Em không có quần áo thaỵ Đi ăn xin em chỉ mặc thế này thôị Về với cái Thu em thay bằng quần áo của nó.

    - Gớm ghiếc lắm, bẩn thỉu lắm. Người đã may cho tôi cái chăn tôi đắp hai mươi năm nay, không được bẩn thỉu thế nàỵ Vừa nói Biền vừa mở hòm lấy ra bộ quần áo của Mơ - Đây là quần áo của vợ tôi ngày xưa, cô mang thaỵ Trong buồng tắm có xà phòng, có nước bồ kết. Cô tắm gội cho sạch, tôi đi một lúc tôi về.

    Đường từ nhà ra chợ, trong lòng Biền khấp khởi: biết đâu đây chẳng là số kiếp. Ra phố, Biền cố ý loăng quăng để cho Xuyến có nhiều thì giờ. Khi về, Xuyến đã mặc bộ đồ của Mơ đang đứng trước gương chải tóc. Trông Xuyến đã thay đổi hẳn. Xuyến nguyên là một cô gái đẹp. Nhưng nay thì đã quá tàn tạ. Nhìn thấy Biền về, Xuyến tỏ ra bẽn lẽn:

    - Trông em có giống chị ấy ngày xưa chút nào không anh?

    - Chỉ giống đều là đàn bà thôị Vợ anh ngày xưa đậm người, còn em thì mỏng như tờ giấỵ

    - Em ngày xưa to khỏe lắm, anh ơị Ngày xưa em năm mươi ba ki-lô, bây giờ em chỉ còn bốn mươi ba ki-lô thôị

    Cũng là một cử chỉ rất tự nhiên, khi hai người khác giới cô đơn sống bên nhau, lại có những hoàn cảnh rất thuận lợị Biền đi lại phía Xuyến, quàng vai Xuyến cùng ghé vào gương - "Chúng mình cũng vừa đôi đấy chứ nhỉ". Xuyến liền ngả đầu vào Biền, hai người dìu nhau lại giường. Xuyến trơ ra như một khúc gỗ mục.

    - Em làm sao thế?

    - Em chẳng làm sao cả.

    - Như khúc gỗ mục thế này à?

    - Em không biết. Có bao giờ em...

    Chợt có sự thức tỉnh của đạo đức, Biền buông Xuyến rạ Xuyến vùng lên ôm ghì Biền xuống:

    - Em van anh, em lạy anh, anh đừng khinh em, đừng bỏ em. Gần chót đời em chưa biết thế này là thế nàọ Anh cho em được làm đàn bà vớị Chả nhẽ chết đi em vẫn là... Cái Thu nó đã có con. Nó đã mãn nguyện. Em tội lỗi gì mà đời hắt hủi em.

    Thực tình Biền cũng không phải là người tuyệt đối đứng đắn. Các cụ bảo rằng: "Rắn đến nhà chả đánh cũng quáị.." Anh lại ôm Xuyến và lăn lộn xoay xở đủ vành. Nhưng Xuyến vẫn cứ trơ trợ

    - Khốn khổ, em không còn là đàn bà nữa rồị

    - Ai bảo anh thế, em còn tất cả.

    - Đúng, nhưng nó chỉ còn là cái xác thôị Không có cái hồn nữạ Ngực của em đã teo hết. Chỉ rõ hai cái núm nhỏ như ngực đàn ông. Nó vô dụng.

    - Thế là hôm nay em được đắp chung với anh cái chăn tự tay em khâụ Đây là cả đời con gái của em... Biết đâu trời phật đang định trả công cho em. Đời em vất vả lắm, anh ơị Bố em chết trẻ. Khi bị truy bức, bố em tự sát. Mẹ em ở vậy nuôi em ăn học. Bà ngầm thu vén em nên người để trả nợ cho đờị Năm mười lăm tuổi em đang học lớp tám nhưng người em đã phổng phao đầy đặn . Giữa lúc phong trào đi thanh niên xung phong, phục vụ chiến trường nổi lên rầm rộ. Em xin đi, mẹ em buồn nhưng không ngăn cản. Ông cậu ruột em lúc ấy là chủ tịch xã, khai tăng cho em hai tuổi để em được đị Lúc đầu ra đi chúng em đóng quân ngoài Quảng Bình, sau dần dần chuyển vào tuyến trong. Những năm đầu em rất khỏẹ Ba năm liền không phải thuốc thang. Nhưng từ năm thứ ba trở đi thì em ốm quặt quẹọ Mái tóc rụng gần hết, kinh nguyệt thất thường. Thế rồi mất hẳn. Hồi ấy bọn nữ chúng em một trăm phần trăm mất kinh nguyệt. Nhưng tuổi thanh niên đang hăng hái chúng em cứ ào đị Không thấy có kinh nó lại giúp mình đỡ phiền hà. Vì ở chiến trường đâu đâu cũng thiếu nước, thiếu điều kiện làm vệ sinh. Em đã mất tới gần một năm. Rồi một chị bác sĩ vào khám sức khỏẹ Chúng em nói ra chuyện ấy, chị bác sĩ nghe nét mặt cứ tái xám. Vội vàng đề nghị với cấp trên cho chúng em lui ra Quảng Bình điều trị. Hồi ấy chúng em gồm mười bốn chị em. Vì chúng nó mới bị nên chỉ vài tháng là phục hồị Riêng em vẫn cứ trơ trợ Trạm xá chuyển em ra điều dưỡng dài hạn ở đồng bằng. Trạm điều dưỡng toàn là người què cụt, hay thần kinh. Riêng em chẳng sao cả, chỉ thấy người dần dần khô đị Điều dưỡng gần một năm thấy em ngán quá. Suốt ngày chỉ chực hai bữa ăn, lại ngủ, lại đánh tú lơ khợ Nhiều lần em đòi ra viện, nhưng chị trạm trưởng nhất định không nghẹ Chị động viên: "Em cứ phải kiên tâm. Nhiệm vụ thanh niên xung phong là vô cùng cao quý, và đầy sự hy sinh. Người chết thì đã chết rồi, ai thành thương tật thì đã có sở Thương binh ghi thương tật. Còn em, em xin ra chị chẳng biết ghi cho em thế nàọ Lương tâm chị là phải trả lại quyền làm đàn bà cho em".

    Để cho chúng em đỡ nhàn rỗi dễ sốt ruột, chán nản, chị trạm trưởng bày cho chúng em tập máy khâụ Nhưng rồi lấy đâu ra vải mà khâu, trong chiến tranh cái gì cũng khan hiếm. Chị trạm trưởng liên hệ với xưởng may cũng sơ tán gần trạị Người ta cũng chẳng có vải cung cấp cho chúng em khâụ Xưởng may này chuyên may quần áo bảo hộ lao động, họ cung cấp cho chúng em những mụn vải, hướng dẫn cho chúng em can thành những cái vỏ chăn, cái áo gối... bán cho người tiêu dùng. Chính là cái vỏ chăn này đâỵ

    Em ở trạm điều dưỡng hai năm, bệnh tình cũng chẳng khỏị Hòa bình năm 1973, trại điều dưỡng giải thể, em xin về với mẹ em. Vì lúc đó mẹ em đã già yếu, mà chỉ có một mình em.

    *

    * *

    Thế rồi em nhận được thư của cái Thu gửi về qua địa chỉ của mẹ em. Nó cho biết, nó đã ra trường từ lâụ Về công tác ở cơ quan "Đoán gió dò mây". Nhà riêng ở khu tập thể X. Nó mong nếu em còn sống thì phải tìm lên chơi với nó. Đường từ quê em lên Hà Nội là 90 cây số. Con gái nông thôn như em nói tới lên Hà Nội có khác gì như tìm đường lên cung trăng. Sáu bảy năm trời em không dám thò mặt đị Thế rồi trận bão lụt năm 1988. Mấy bà trong xóm em rủ nhau lên Hà Nội ăn xin. Em đòi đi theo, lúc đầu thấy em lành lặn mọi người không cho đị Em kiếm được cái bị rách và mấy bộ quần áo rách của mẹ em để lạị Hình như ngày em còn đi vắng mẹ em cũng đi ăn xin. Đoàn chúng em đi có bốn bà già và con mẹ Soạn có con nhỏ vừa tám tháng. Con bé cũng kháu khỉnh. Mẹ Soạn thì mới vừa ba mươi hai tuổị Người nhẹ nhõm chắc lẳn da dẻ hồng hàọ Nó vào loại "gái một con... mẩy mày sây hạt". Nhưng ra đi nó chuẩn bị rất chu đáọ Trong bị nó toàn đồ rách rướị Nó mang theo cả nghệ, lá han, phẩm xanh, nhựa xương rồng...

    Từ nhà lên Hà Nội chúng em đi tập thể. Đến nơi trụ lại ở gầm cầu Long Biên. Trao đổi hội ý xong mỗi người đi mỗi hướng. Em chưa thuộc thung thổ Hà Nội thì đi theo mẹ Soạn, em đóng vai chị gái Soạn đi trông nom cháu ở bệnh viện. Cháu gái được mẹ Soạn hóa trang băng hai mảnh băng. Riêng mặt thì mẹ nó xoa mỏng một lớp nghệ. Vào nhà ai cũng thiểu não kể lể: Trận bão lụt vừa qua con nó bị tai nạn. Lên nằm bệnh viện nhi hơn tháng nay, giờ ra viện hết sạch tiền gạo chẳng thể về được. Bà con "lá lành đùm lá rách, xin sinh phúc..." Thế là gần như một trăm phần trăm người ta chọ Có người cho vài trăm. Có người hào phóng cho cả ngàn đồng. Tối về lại tụ nhau ở gầm cầụ Em và mẹ con nhà Soạn chủ yếu hoạt động ở các khu vực bệnh viện. Hết Bạch Mai, rồi Việt Đức, Thanh Nhàn... vẫn cứ cái giọng điệu như thế.

    Lần mò mãi em cũng tìm đến được chỗ cái Thu ở. Đấy là một khu tập thể ba tầng. Tầng dưới là các gia đình. Hai tầng trên là độc thân. Mỗi gian mười sáu mét, ở bốn ngườị Bốn cái giường một, bốn cái hòm gỗ, bốn cái bếp dầụ Những thứ nồi niêu, thùng gạo thì lèn dưới gậm giường. Đến bữa thổi nấu thì tíu tít. Bốn cái bếp dầu đốt bốn góc, khói bốc lên mù mịt sặc sụạ Em đã mò được tới buồng cái Thụ Nó ở một mình dưới gầm cầu thang lên tầng bạ Hôm ấy em nép vào một chỗ theo dõi nó. Đã xa cách nhau mười chín năm nhưng cái Thu là loại xinh gái, lại biết ăn diện nên nó cũng chẳng già đi bao nhiêụ Hôm ấy em không ra mặt mà lại quay về gầm cầu Long Biên.

    Hoạt động ở Hà Nội hơn 10 ngàỵ Cuối cùng bà nào cũng được một bọc tiền. Các bà rủ nhau về làm mùa, em xin ở lại ít ngàỵ Riêng mẹ Soạn bọc tiền càng lớn thổ lộ với em: "Lần này về nó em sẽ mua thêm ít sắt thép đổ nốt cái mái bằng. Từ sang năm trở đi thì không còn lo lụt bão nữa". Em đưa tiễn mọi người ra bến xe, mẹ Soạn đưa cho em ba mươi ngàn đồng, bảo đấy là công của em. Số tiền ấy em đi sắm một bộ áo cánh cũng tạm tạm. Mua ít quà bánh, thuê xích lô đi thẳng tới chỗ cái Thụ Hôm ấy cái Thu đang hí húi thổi cơm, em luồn tay qua đằng sau bịt mắt nó lạị Nó không cựa mà cũng chẳng kéo tay em rạ Nó hỏi:

    - Ai đấy nhỉ?

    Em ghé sát vào tai nó:

    - Mày có còn nhận ra ai không?

    - ối cha mẹ, mày có phải là con Xuyến không? Tiếng mày thì thầm vẫn y như hồi còn ở Trường Sơn! - Thu giật bung tay em ra, nó quay lại ôm chầm lấy em. - ối trời đất, con Xuyến nó còn sống thật. Hôm kia nó đã giả làm ăn mày đến đây mà. Con Hảo nó nói: có một đứa ăn xin đến đây hỏi thăm taọ Con Hảo tả hình dáng, tao đoán đúng là màỵ Đã đến đây thì thế nào mày cũng quay lạị

    Hồi ấy em ở lại chơi với chị Thu ba ngàỵ ở cái khu tập thể này còn tới mười sáu chị em luống tuổi chưa chồng. Cái ngành "Đoán gió dò mưa" này cũng có những thời kỳ lãng mạn. Đào tạo ở trường xong nhiều chị em xung phong lên Mèo Vạc, Lũng Cú, Sa Pa... rồi thì hải đảo xa xôi, hết tuổi thanh niên trở về già người ta mới cho về xuôị Cái Thu cũng là người "tốt" số. Vì có đôi chút nhan sắc, được ông trưởng phòng tổ chức bao thầu cho về công tác ở Hà Nộị Tưởng là nên vợ nên chồng. Ai ngờ anh ta bị tai nạn giao thông, chết. Cái Thu héo hắt mấy mất năm.

    Thời nào thì con gái có nhan sắc cũng hay gặp cuộc đời lận đận. Xong đận người yêu bị tai nạn giao thông, Thu vẫn còn được nhiều chàng trai dòm ngó. Nhưng các chàng trai đến nhà chơi cứ thấy bốn cô gái độc thân nằm bốn góc nhà, anh chàng nào cũng ngán ngẩm bỏ đị Cho đến năm ba chín tuổi, tuổi càng cao, má đào phai nhạt dần. Thấy nguy to Thu mới giở quẻ phá bĩnh, gây mâu thuẫn với mấy cô cùng buồng. Cày cục mãi ban quản lý cơ quan mới xếp Thu ở dưới chân cầu thang. ở một mình Thu lại trở nên đắt khách. Có một anh kỹ sư trạm trưởng trạm điện, tên là Sới tìm đến. Người anh ta thấp lùn cục mịch nhưng chân thực, thiết tha yêu Thụ Hai người đã cam kết. Sới đưa bạn đến, ra mắt người yêụ Anh này tên là Thắng. Thắng hào hoa phong nhã, đẹp trai, tiêu tiền như rác. Không ngờ Thắng bập ngay được Thụ Đạp thẳng Sới ra ngoàị Hai người đã sắm sửa quần áo chuẩn bị làm lễ cưới, thì công an đến xích tay Thắng lôi đị Một tên tù trọng án vượt ngục lẩn trốn mấy năm naỵ Truyện ấy xảy ra Thu bị chị em chê bai hắt hủi cho là Thu "thả mồi bắt bóng", đáng đờị

    Nhưng rồi mới đây em lại nhận được thư của Thu báo Thu đã có con. Nhận được thư nó em khóc rưng rức. Đời cái Thu thế là toại nguyện, còn đời em thì sao đâỵ Em chuẩn bị vội vàng lên với nó. Nghĩ là dịp may hiếm có này vì nhờ có trẻ con, em sẽ bắt chước mẹ Soạn, bế nó đi ăn xin. Thế nào cũng kiếm cho cái Thu một khoản vốn. Ai ngờ lên đến nơi thì cái Thu lại vừa bế con về thăm mẹ mất rồị Em mới lang thang ra đây lại gặp ngay cái vỏ chăn của anh phơị

    Lần ấy, Thu cũng hỏi em về hạnh phúc gia đình. Em kể hết đầu đuôi, nó bĩu môi chê em là phong kiến, là cù lần. Em kể về bệnh tật, nó bảo như thế là chả có bệnh gì. Nó bảo cơ thể mình cũng giống như cỗ máy để rỉ lâu ngày, bây giờ phải tìm cách lau dần mà "khởi động" lạị Em hỏi thế khởi động bằng cách nàỏ Nó phá lên cười ngặt nghẽọ Nó hỏi lại em: Thế mày có biết ôtô người ta khởi động bằng gì không? Em trả lời là khởi động bằng bình ắc quỵ Thế chẳng nhẽ lại đem bình ắc quy mà cắm vào người mình. Nó ấn ngón tay vào trán em mà dằn dỗi:

    -Sao mày ngu thế? Gần bốn chục tuổi đầu rồi mà còn ngu lâụ Mày là phải khởi động bằng những thằng đàn ông. Những thằng đàn ông hám gái: cổ to, ngực nở, lưng gù...

    - Nhưng tao làm sao mà có được đàn ông?

    - Chuyện đó là ở màỵ

    Nhưng nào em có được như các chị. Đôi lúc em cũng dùng đôi mắt để lườm liếc. Nhưng ánh mắt của em nó vô hồn. Muốn dùng nụ cười để quyến rũ. Những nụ cười của em nó méo mó gượng gạọ Muốn dùng lời nói ý nhị, thì câu nói của em cái giọng ồm ồm, sống sượng, vô duyên. Thế mà tại sao anh lại bỗng nhiên...

    Có thể vì em mặc bộ của vợ anh. Lúc đó anh tưởng là vợ anh hiện hình.

    Biền cùng nằm với Xuyến, đắp chung cái chăn do Xuyến khâụ Mà cũng chẳng thấy có tác dụng gì. Cái chăn cũng là thứ vô sinh, đối với Xuyến. Nam nữ cùng nằm chung mà Biền thấy hoàn toàn nguội lạnh, y hệt như nằm với người bạn traị Nhưng tình thương cảm của Biền đối với Xuyến lại càng dâng caọ Thấy mình phải có trách nhiệm đối với Xuyến. Phải thực sự đóng vai trò như một "Bình ắc quy", hay như một thầy thuốc.

    Thế rồi hai người sống với nhau tới bảy tám ngày, Biền đã sử dụng hết khả năng nhưng vẫn không giúp gì Xuyến được.

    Thôi đành vậy em ạ. Chúng ta chẳng được làm vợ làm chồng thì làm người thân trong nhà, như các cụ ta nói: "Chuyến đò nên nghĩa, buổi chợ nên quen". Cuộc sống của anh cũng là cuộc sống cô đơn. Từ nay em sẽ về với anh như tình ruột thịt".

    Xuyến khóc và hứa với Biền: Xuyến sẽ đưa cái Thu đến, để cùng nhận anh, nhận em với Biền.

    Cái Lợi về nhà nghỉ hè với bố. Nó cảm thấy có điều gì khác lạ trong nhà nàỵ Thứ nhất nó thấy bố nó thay đổi tươi tỉnh, vui vẻ hơn. Nhà cửa gọn gàng ngăn nắp hơn. Nó thấy chiếc máy khâu của nó có ai sử dụng. Nó phát hiện ra cái vỏ chăn can hàng trăm miếng vụn đã có ai khâu lại từng đường chỉ đã mủn nát, gói gém cẩn thận, xếp gọn gàng trong ngăn tủ. Lợi gợi hỏi thì bố nó sẵn sàng kể lại hết. Lợi vội vàng bỏ thời gian đi tìm hiểu kỹ chuyện nàỵ Thế rồi Lợi đề nghị với bố: cho mời cả dì Xuyến, dì Thu đến chơị Lợi tổ chức bữa liên hoan. Trong bữa ăn Lợi đem chiếc vỏ chăn tiết kiệm ra, nghiêm chỉnh nói: "Mọi chuyện con đã biết hết cả rồị Cảm ơn dì Xuyến đã khâu nên cái vỏ chăn nàỵ Nó đã đắp cho bố mẹ con. Cả khi con còn là hạt máu trong lòng mẹ con. Con xin suốt đời giữ gìn cái vỏ chăn nàỵ Con nhận dì Xuyến là mẹ kế của con". Vừa nói, mắt cái Lợi vừa cháy bỏng lên, vì niềm hạnh phúc bất ngờ đem đến cho bố nó. Nhưng Biền thì não lòng. Biền không thể nói mọi điều sâu kín với con gái, vì nó còn ngây thơ quá. Nó chưa đến tuổi để nói hết những chuyện của đàn ông, đàn bà. Nó đang hồn nhiên dồn bố nó vào một bi kịch. Nhưng Xuyến đã đánh ánh mắt sang cho Thu, gỡ bí cho Biền. Nét mặt Thu cứ dần dần đỏ tấy lên.

    Biền đứng lên nhận những lời tốt lành của con gáị

    Hà Nội, tháng 3 năm 1992
     
  3. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Có một đêm như thế - Phạm Thị Minh Thư

    Truyện ngắn này được viết năm 1981, sáu năm sau khi chiến tranh kết thúc và đất nước thống nhất. Năm 1979 khi tôi vào Sài Gòn để chạy chương trình ở Công ty máy tính IBM, các nhân viên mỗi chiều thứ bảy khi ra về đều xách theo một túi nylon trong đó có vài củ su hào, cà rốt, và một ít khoai tây, phần rau họ được phân phối theo giá ưu đãi nhà nước cho một ngày nghỉ cuối tuần. Và tôi sau các chuyến công tác đã luôn cố gắng mua gạo mang ra Hà Nội cho gia đình.

    Chúng ta thiếu cả rau lẫn gạo. Mà chiến tranh thì đã hết, chẳng còn lý do nào để chịu đựng và hy sinh - ngay cả với những cá thể nặng tính lý tưởng.

    Người Hà Nội chăm chú theo dõi những biến động và sự thay đổi của các nước trong phe Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là một thực tế. Tiếng gõ cửa của thiếu thốn, tiếng gõ cửa giục giã vận động và thay đổi là một thực tế.

    Ngược về quá khứ. Dòng người từ Hà Nội cuồn cuộn đổ ra các cửa ô rồi từ đấy đi tới các miền quê Bắc bộ trong những đêm nhận lệnh triệt để sơ tán khỏi thủ đô, mùi thịt người cháy trộn trong mùi hương trầm, mùi cao su đốt và tôi đã khóc không ngừng khi đi suốt một Khâm Thiên chết chóc, đổ nát vì bom B52 của Mỹ cũng là thực tế tôi đã trải qua.

    Còn lại là kiến thức và tưởng tượng.

    Tôi hài lòng vì đã cố định được cùng lúc nhiều không gian sống và suy tư nhiều trạng thái cảm xúc dường như hỗn độn trên một mặt phẳng với hơn tám nghìn chữ, với nó tôi đã có “Có một đêm như thế”.

    Nhà văn Phạm Thị Minh Thư

    **********

    - Có lẽ dừng ở đây thôi nhỉ? Đấy, bây giờ công việc tiến triển nhanh hay chậm là tùy thuộc vào việc cung cấp số liệu của bên các chị.

    Gập quyển sổ lại, cẩn thận nhét cây bic vào túi áo ngực, Phụng vừa cười, vừa nói với tôi. Tuy mới ra trường, tuổi đời và tuổi nghề so với anh chỉ đáng mặt làm “cháu” nhưng bao giờ Phụng cũng gọi tôi bằng “chị” hết sức trịnh trọng. Cũng có thể với anh đó là thói quen xưng hô trong cuộc sống hàng ngày, nhưng phần mình mỗi lần sang công tác ở cơ quan này tôi vẫn không khỏi cảm thấy tí chút khoai khoái, chả gì tôi cũng đại diện cho một cơ quan cấp cao hơn.

    Công việc kết thúc, chúng tôi quay sang nói chuyện phiếm. Cùng làm việc với tôi hôm nay, ngoài Phụng, còn có một người nữa, kỹ sư Vịnh, tuổi trạc ba mươi. Vịnh không hay nói lắm, tôi chưa khi nào thấy anh tham gia vào những chuyện ngoài lề. Đặc biệt hôm nay hình như ở con người kín đáo ấy còn có điều gì khác thường, Vịnh cứ lặng lẽ hút thuốc suốt. Ngay cả trong công việc anh cũng không đưa ra nhiều ý kiến tranh luận như những lần khác. Bởi vậy khi nói “chúng tôi” thì có nghĩa là chuyện phiếm chỉ có giữa tôi và Phụng. Sự và Linh - hai kỹ sư khác có mặt trong phòng - đang ngồi mài mực tàu. Trước mặt họ, trên bàn la liệt những bản vẽ.

    - Thế anh chị, cái ông học sinh vật ấy liệu chiều nay có rẽ ngang, rẽ tắt đâu không nhỉ? Qua nhà gặp được ông ta để hỏi cặn kẽ về cách ươm hạt thì tuyệt.

    - Cả phòng này - tiếp sau lời Phụng, Vịnh đột ngột lên tiếng - Mình có cái này, còn gần một tiếng nữa - liếc mắt vào đồng hồ nơi tay Vịnh tiếp – mình đọc cả phòng nghe nhé.

    - Cái gì vậy? Một bài báo mới hả?- Ngón tay trỏ đang giơ lên định dỗ xuống đầu tàn điếu thuốc dừng lại, Phụng xăm xắn hỏi. Rồi chẳng đợi câu trả lời của Vịnh anh quay sang tôi. - Chắc chị không biết nhỉ? Anh Vịnh của chúng tôi đây “tâm hồn” lắm. Thơ, văn đủ cả. Ấy, xin lỗi, cái tật cứ hay nói thành lời những điều chỉ nghĩ, cậu nói bao lần vẫn không sửa được! Nhưng thôi, dẹp qua chuyện vặt. Cậu đọc đi. Đừng để ý đến đồng hồ. Quá giờ một tý có chết đâu!

    - Phải đấy, Vịnh đọc đi. - Sự sốt sắng. Bọn mình vừa mài mực vừa nghe cũng được chứ?

    Vẫn ngồi ở chỗ mình, tuy nhiên cả Sự và Linh đều đã thay đổi tư thế, họ quay cả về phía chúng tôi.

    - Cái này, có thể coi là... Thôi, Vịnh khẽ chặc lưỡi, khỏi dài dòng, cứ đọc nhé.

    Rút trong túi đi làm ra một tập giấy, sắp xếp lại những trang phía trên, nhìn đi đâu đó giây lát, Vịnh bắt đầu.

    - “Có một đêm như thế”, đây là tên của truyện ngắn.- Vịnh dừng lại giải thích và bắt đầu đọc vào chuyện:

    Một buổi tối mùa hạ. Trời oi ả lạ thường. Cái oi ả nung nấu suốt cả một tuần lễ vừa qua. Theo dự báo của Nha khí tượng, ngày mai bão sẽ về. Ngày mai bầu trời sẽ cao và xanh. Rất cao và rất xanh. Những dải mây “si” trắng và mảnh như những rẻo voan nhỏ sẽ bay về. Thế rồi bão sẽ đến. Bất ngờ nhất trong những bất ngờ là bão tố. Qua ô cửa sổ, Miên nhìn lên bầu trời. Những đêm như thế này mà được nằm ngoài trời thì thật thích.

    “Những đêm thế này được nằm ngoài trời, thật thích”- Vịnh chữa lại. Sau câu vấp giọng anh có vẻ nhanh hơn:

    Dưới bầu trời rộng lớn, uy nghiêm, có thể sẽ thao thức, thao thức mãi, lại cũng có thể thiếp đi ngon lành như trẻ nhỏ. Nơi Miên đứng, thẳng xuống là vòi nước công cộng. Mới sau giờ ăn cơm, người rửa bát, người giặt giũ, cái vòi nước ồ ồ chảy suốt. Tiếng thùng, chậu va loảng xoảng chen trong tiếng người chạo nhau về những chuyện xảy ra trong ngày. Lương tăng một trăm linh năm phần trăm, nhưng mấy bà tài vụ tính thế nào lại quên quách không cộng mười hai phần trăm khu vực cho bà Nga, cái bà có giọng nói rin rít như bản lề khô dầu; giá thịt ngoài hạ nhanh đến ngạc nhiên; tình hình Ba Lan xem ra thật đáng lo ngại quá, chẳng hiểu Bộ Chính trị mới sẽ xoay xở ra sao; xuyên tâm liên thực ra là thuốc kháng sinh đấy, vậy mà sao con bé nhà tôi uống đến ngày thứ ba vẫn chưa hạ sốt... Những âm thanh hỗn tạp, và bầu trời đang mở ra trên tít tắp kia, có gì liên quan nhỉ?

    “Ngày đêm ta bên nhau, những đêm dài chiến đấu”...

    Giọng hát của một ca sĩ nào đó bỗng réo lên. Tội nghiệp cho cô gái. Cô ta không sao xoay xở nổi với chiếc máy hát cũ kỹ. Đứng ở đây Miên vẫn nhìn được đôi mày đen rậm như con trai của cô gái trên căn gác hai chênh chếch kia. Gia đình cô mới chuyển đến, Miên chưa quen họ.

    ... “Thời gian trong cách trở đốt cháy lửa tình yêu...”

    Giờ thì có đỡ hơn. Song vẫn chệnh choạng như thể người sắp ngã. Giai điệu tha thiết thế, trái tim tha thiết thế, mà lại vấp phải cái đầu máy hát ngỗ ngược. Đến hỏng đĩa hát thôi! Mà sao máy hát của cô gái chỉ quay với một đĩa. Chỉ quay với một đĩa như thế mấy đêm rồi?

    Giá như lúc này cái đầu máy hát tỏ ra biết điều, để giọng hát được cất lên như nó đã từng cất lên. Giá như lúc này được nhìn sâu vào đôi mắt của người hát và đôi mắt của cô gái còn mang đầy vẻ “cô bé” kia! Những lời ca tuyệt đẹp không bay đi, cũng không tắt bao giờ. Nó đọng lại, đọng mãi trong đáy mắt của người hát và người nghe.

    Thời gian - Cách trở - Tình yêu... Vượt lên trên tất cả. Ngọn lửa không gì dập tắt nổi trong lời hát của người con trai ấy, nó có thật trong cuộc đời không nhỉ? Ngày mới lớn cùng với “những vì sao của Đôđê”, Miên đã yêu vô cùng câu chuyện cổ tích về Chử Đồng Tử và nàng Tiên Dung. Theo Miên, tình yêu phải là như thế: Giản dị và hồn nhiên. Ấy thế mà sau này Miên đã gặp ở mình một tình yêu hoàn toàn ngược lại. Và buồn thay, khi thần tượng sụp đổ trong Miên thì cũng là lúc những năm của tuổi thanh xuân đã trôi qua.

    Nước vẫn ồ ồ chảy xuống thùng và chậu. Chuyên đề về thời sự vẫn sôi nổi tiếp tục. Đầu máy hát trở về điểm xuất phát của nó. Hành khúc ngày và đêm của cô gái lại chấp chới cất lên. Trong âm thanh hỗn tạp ấy, những ý nghĩ của Miên sẽ tiếp tục đan nối. Chẳng có gì vội vàng cả. Đêm này là của riêng Miên. Bầu trời trên kia... Ngày mai...

    Cũng không biết Miên sẽ còn đứng bên ô cửa sổ bao lâu nữa, và tiếp sau những dải mây “si” những gì sẽ bay đến trong ý nghĩ của chị, nếu không có tiếng gõ cửa vang lên.

    Minh họa: Nguyễn Đăng Phú

    Trong ánh sáng vàng ệch tỏa xuống từ chiếc bóng đèn cũ kỹ trên mái vòm bụi bậm, gương mặt của người khách lạ có những đường nét thật quen. Mũi ngắn và hếch. Một nốt ruồi đen sậm ngay trên khóe miệng, kéo chiếc miệng hơi lệch về bên phải (cái miệng gây cho người ta cảm giác nó đang giấu một tiếng cười sau vành môi rộng). Ánh mắt sâu và trầm tĩnh thoát ra khỏi cả cặp kính cận. Một cậu bé, hay một chàng trai, đã gặp ở đâu rồi khuôn mặt này.

    - Thưa cô...

    Một sinh viên... Không, Miên đã gặp khuôn mặt này ở một khoảng thời gian nào đó khác cơ. Quỷ bắt cái trí nhớ của chị đi! Sao hôm nay nó lại tồi tàn thế.

    - Mời bạn vào. Chắc đợi tôi đã lâu?

    - Em mang bài đến nộp. Em nộp bài sau thế này...

    - Ồ, không sao đâu, tôi cũng chỉ muốn biết tình hình học của lớp thôi. Vừa nói, Miên vừa dẹp nhanh mặt bàn lộn xộn. Cô Ngọc đi an dưỡng, tôi sẽ dạy nốt phần còn lại của giáo trình cho lớp. Sáng nay chắc bạn nghỉ. Tên bạn là Long...Ngồi xuống đi Long.

    Nhưng... sao lại thế này? - Sau thoáng liếc nhanh nơi góc vẫn đề tên và lớp, Miên hết sức ngạc nhiên. Dưới phần câu hỏi “hãy nói về hiện tượng nguyệt thực” bài viết chỉ vỏn vẹn mấy dòng:

    “Trên mặt trăng không có hoàng hôn...”.

    Cạch! Cạch! Cạch!

    Ai đó gõ vào cửa phòng làm việc ba tiếng. Giọng đọc đang dập dồn của Vịnh bị cắt ngang.

    Sự đứng dậy đi về phía cửa.

    - Gì thế? - Tiếng Sự hỏi ai đó.

    Tiền! Tiền! Tiền!

    Tiếp theo ba tiếng “tiền” mạnh như tiếng gõ cửa, một thanh niên thấp nhỏ, tay cầm nắm tiền bước vào. Nhìn thấy tôi anh ta gật đầu chào, rồi đi lại bàn Sự.

    - Cậu nộp tiền may ô nhé!

    - Bao nhiêu?

    - Hai mươi đồng. Phòng này chỉ còn mình cậu. Bốn đồng lưỡi dao cạo nữa là hai tư. Mà cho tiền lành đấy.

    - Ông cứ nắm cả đống thế kia tiền nào lành nổi, lưỡi dao cạo... thôi khoản này “nghỉ”.

    Vừa nói Sự vừa móc ví, đếm đủ hai mươi đồng đặt trước mặt anh cán bộ đời sống. Không hiểu ở đâu ra mà anh có lắm tờ năm hào thế. Hôm nay chắc là “ngày căng tin” ở đây. Có nhiều tiếng lao xao phía ngoài. Hẳn người ta đang bàn xem nên mua thứ gì: áo may ô hay là lưỡi dao cạo. Lưỡi dao cạo, ở nhà tôi mọi người đang rất cần... Hỏi nhờ mua suất của Sự chăng?

    “... Biển phong phú, biển Nhụy hoa, biển Mây...”

    Thôi chết, Vịnh bắt đầu đọc tiếp từ lúc nào thế nhỉ? Nhưng... chẳng có ai nhìn tôi cả. Anh cán bộ đời sống vẫn đang trao đổi về tem phiếu gì đó với Sự. Phụng và Linh im lặng nhìn ra ngoài cửa sổ. Còn Vịnh, anh đang cúi xuống những trang bản thảo và đọc, giọng khẽ hơn, thong thả như lúc ban đầu.

    ... Rời mắt khỏi bài kiểm tra của Long, Miên bắt gặp trong đôi mắt trầm tĩnh ánh nhìn nửa mừng rỡ, nửa lo ngại. Cái ánh nhìn như đang dò hỏi, chờ đợi.

    “Trên mặt trăng không có hoàng hôn, nhưng lại có biển, Biển theo cách gọi của Galilê...”.

    Luật sư, trời ơi, có phải em đấy không?

    Sự bừng dậy của trí nhớ gần như vô ý thức. Tờ giấy mỏng mảnh rơi nhẹ xuống mặt bàn.

    *
    * *

    Ngày 16 tháng 4 năm 1972, sau ba năm rưỡi kể từ ngày 31 tháng 10 năm 1968 những người Mỹ “không biết im lặng” đã đột ngột lên tiếng bằng cách trút hàng loạt bom và rốc két xuống Hải Phòng, Hà Nội. Các trường học phải đóng cửa mặc dù năm học chưa kết thúc. Rồi những người dân Hà Nội được lệnh phải gấp rút rời khỏi thành phố. Những trận bom hủy diệt đang lơ lửng trên đầu họ - về điều này Chính phủ Mỹ vốn thành thạo lắm, hành động của họ bao giờ cũng đi đôi với lời nói.

    Đêm buông xuống trên dòng người cuồn cuộn đổ ra các ô cửa của thành phố, đi về các ngả. Ô tô, xe máy, xe đạp, rồi xe bò, thậm chí cả người đi bộ gánh gồng nữa; người, đồ đạc, nồi niêu, chăn màn, giường chiếu... mặt đường bị cuốn phăng đi trong dòng thác ấy... Trong một đêm như thế Miên đã gặp anh sinh viên có cái tên Luật sư chị vừa buột kêu lên, khi ấy Luật sư mới là một cậu bé trạc 10 tuổi, và một thanh niên nữa, Lai. Phải rồi, người thanh niên ấy tên là Lai...

    Lúc bấy giờ xe của Miên bị hỏng. Xe hỏng đúng vào lúc cô đã rời khỏi đường quốc lộ, rời khỏi dòng người ít nhất cũng hơn nửa giờ. Trên con đường tắt này, đoạn đường phía sau và phía trước chẳng có ai ngoài những bóng cây và những thửa ruộng im lặng đến chết người.

    Chập tối khi mẹ từ cơ quan đạp xe về, báo tin đã xin các chú trong cơ quan cho Miên đi nhờ xe về quê ngoại sơ tán, cô đã bực bội vô cùng vì bị coi thường. Tự nhận thấy mình là một phần tử độc lập, hoàn toàn có thể tự lực cánh sinh được Miên tuyên bố với mẹ việc đạp xe một mình về quê hoàn toàn là chuyện vặt.

    Với một bọc quần áo và sách vở nhỏ, đạp xe đi giữa dòng người đông đúc, “phần tử độc lập” cho việc đi xe một mình là chuyện vặt thật hoàn toàn hợp lý, cũng như nỗi sợ hãi và chút ân hận giờ đây, khi đứng chôn chân với chiếc xe hỏng giữa cái im lặng đến chết người của những bóng cây và những thửa ruộng.

    - Đồng bào nào mà đứng như vạc thế kia!

    Từ thửa ruộng sau lưng Miên, một tiếng người đột ngột cất lên. Mừng rỡ ngoảnh lại, Miên trông thấy một cậu bé tay cầm chiếc đèn bão nho nhỏ đi về phía mình. Thì ra trong lúc đang hoảng, chỉ ngó trước ngó sau, Miên đã không nhận thấy cái nếp nhà nho nhỏ, nằm lẫn giữa những vạt lúa tối um trên mé đường cô đang đứng.

    - Xe của chị bị hỏng.

    Cùng với câu than, Miên tò mò ngắm cậu bé. Nó đã tới nơi. Hai vai nhọn hoắt đung đưa theo nhịp vung vẩy của chiếc đèn bão, gương mặt nhỏ choắt, một cặp kính cận dầy cộp, rồi vành môi bị kéo lệch đi trong “nụ cười bẩm sinh”. Cậu bé như vừa nhảy ra khỏi một bức tranh biếm họa nào đó.

    - Chị đi sơ tán phải không?

    - Ừ, chị đi sơ tán. Xe của chị đang đi tự nhiên bị hỏng.

    - Tự nhiên? Cậu bé phì cười. Cặp kính nảy lên. Hẳn nó đã thấy hết vẻ sợ sệt trong giọng nói của Con - Vạc - Khổng - Lồ này. May cho chị đấy, chứ đạp thêm một đoạn nữa thì chẳng có ma nào trên quãng đường này đâu. Thôi vào nhà bọn em đi. Cậu bé nói như ra lệnh. Để em đi trước soi đường cho.

    - Nhà em có ai biết chữa xe không?

    - Em thì không. Nhưng chị yên trí, có anh Lai. Anh ấy có thể làm được tất cả mọi thứ trên đời. Thần thông biến hóa, có kém Tôn Ngộ Không, thì cũng chỉ tí ti thôi.

    Miệng nói, chân “nói”, chỉ một loáng cậu bé đã dẫn Miên tới nơi. Căn nhà xem ra còn bé nhỏ hơn lúc nhìn từ xa. Nó dường như lọt thỏm trước một đầm nước rộng mênh mông.

    “Chúng tôi kêu gọi các bạn hãy coi tình yêu cuộc sống của người Việt Nam là tình yêu cuộc sống của bản thân mình, hãy coi cuộc đấu tranh...”.

    Cạch. Cửa phòng mở. Một phụ nữ bé nhỏ và nhanh gọn bước vào.

    - Linh ơi!... Xin lỗi, chào cả nhà. Mực mài xong chưa, cho chị một tí vào đây. Này, chỗ len ấy để cho chị nhé.

    - Vâng! Vâng! - Linh trả lời rồi trút cho người phụ nữ một ít mực vào cái lọ con tí của chị.

    - Đan cho anh cô cái mũ. Anh ấy cứ hay phàn nàn, so sánh. Lúc nào cũng thở than.

    “ Chậc!”

    Anh cán bộ đời sống khẽ buông một tiếng. Câu chuyện tem phiếu giữa anh và Sự ngừng từ lúc nào tôi cũng chẳng hay.

    - Gì thế? ở đây đang đọc báo à? Thôi, chị về nhé. Chào cả nhà! Cũng nhanh gọn như lúc vào, người phụ nữ biến mất sau cánh cửa.

    “Chúng tôi kêu gọi các bạn”. - Lặp lại câu vừa đọc, Vịnh tiếp:

    ... hãy coi tình yêu cuộc sống của người Việt Nam là tình yêu cuộc sống của bản thân mình, hãy coi cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì tiến bộ xã hội là cuộc đấu tranh của chính mình. Hãy hành động ngay bây giờ để cứu nhân loại khỏi thảm họa...

    ... Chúng tôi đưa ra lời kêu gọi này từ các hầm tránh máy bay ở Hà Nội.

    Ký tên Gớt Hôn(1)

    Raxít Xtôri

    Giôdép Noócthơ

    Trong căn nhà ai đó đang mở đài. Giọng đọc truyền cảm mạnh mẽ của người phát thanh viên đã ngừng. Phần nhạc xen giữa các đoạn tin cất lên. Miên đứng lại bên chiếc xe. Một thanh niên từ trong nhà bước ra. Hai tay đút túi quần, chân đa đá vào một vật gì đó dưới đất, anh nói một mình: “Tất cả đang sôi lên, vậy mà mình cứ ngồi đây...”.

    Hẳn đây là anh Lai của cậu bé, con người có thể làm được tất cả mọi thứ trên đời . Miên nghĩ thầm và quay sang cậu bé, dáng chừng để chờ một sự giới thiệu nào đó.

    - Chào bạn.

    Nhận ra sự có mặt của Miên và cậu bé, người thanh niên niềm nở lên tiếng.

    - Anh làm như cả thế giới đã lên đường rồi không bằng. Nếu anh không ở đây, ai sẽ trông đống tre, lá này, lại còn lo đất làm nhà nữa. Đặt chiếc đèn bão lên hè, cậu bé lên tiếng chững chạc đến bất ngờ.

    - Xin có lời cảm ơn Luật sư. “Ngài” đây cứ bào chữa cho mình suốt đấy.

    Thân mật như đã quen từ lâu, người thanh niên vui vẻ nói với Miên. Xe của bạn bị hỏng phải không? Luật sư thế mà tài. Bọn này đang ngồi câu, lúc quay lại lấy mồi, cậu ấy phát hiện ra bạn. Mình cho là bạn dừng lại nghỉ, nhưng nó thì bảo: “đường vắng thế này bọn con gái có đố cũng chẳng dám ngồi nghỉ, kiểu này chỉ có hỏng xe”. Mình định nghe nốt bản tin rồi chạy ra. Mình là Lai. Nào đưa xe mình xem cho. Mà có thể gọi bạn là gì nhỉ?

    - Em là Miên. - Trao xe cho Lai, Miên trả lời.

    - Mình sẽ gọi bạn là Miên.

    - Sao lại “sẽ gọi” ạ?

    - Anh ấy không biết gọi mọi người bằng tên của họ đâu. Như em chẳng hạn, hẳn hoi là có tên, tên đẹp nữa là khác. Con Rồng Xanh, ông em vẫn gật gù bảo thế, vậy mà anh cứ réo Nhóc, lại réo Luật sư...

    - Có người để than phiền cũng thích thật. Nhưng than vừa thôi, kính tụt khỏi mũi rồi kìa! Săm của bạn bị hỏng. Lại sang vành nữa. Đồ chữa xe bọn này không có. Đồ chữa xe - Sau một thoáng đắn đo Lai tiếp - kể ra chạy vào làng mượn ngay cũng được, có điều đi tiếp nếu lại hỏng dọc đường thì gay. Tối lắm rồi, hay Miên ở lại sáng mai đi sớm? Nhà này chỉ có mình và Luật sư. Trong nhà có đài, có thể nghe đọc truyện đêm khuya, hoặc nếu không thích thì tắt nó đi và nằm ngủ. Đêm sẽ qua rất nhanh thôi.

    Ở lại đêm trong nhà một người không quen, bố, mẹ chắc không bao giờ nghĩ đến chuyện này. Nhưng đi tiếp làm sao được. Anh ấy nói đúng đấy, nhỡ giữa đường xe lại hỏng thì sao? Quả là lúc đi Miên không hề nghĩ đến điều này.

    - Nhưng - Miên ngập ngừng - thế còn anh và Luật sư?

    - Bọn này nằm ngoài trời. Với lại cũng chẳng ngủ đâu. Nhóc con đang khoái câu cá.

    - Chị ở lại đi! Từ đây đến làng sơ tán của chị dọc đường chỉ có một lũ bạch đàn thôi. Ghê chết lên được. Ở lại xem bọn em câu cá. Hay lắm!

    Đưa tay đẩy cặp kính dày và nặng đến mức cái mũi hếch ngược lên cũng không giữ nổi, Luật sư giục giã.

    - Anh và Luật sư câu được nhiều không ạ? Miên hỏi.

    - Một chú! Cậu bé láu táu.

    - Thế là chị ấy đồng ý rồi. Của “ngài” Luật sư đấy. Nom hắn khá đấy chứ?

    Cả ba đã ở bên bờ đầm. Lai giơ con cá lên, ánh trăng soi rõ vệt lấm và những sợi rác vụn bám trên cái lườn bàng bạc của con trôi. Nó đã chết. Rời mắt khỏi con cá Miên lại gặp vầng trăng. Đã lên cao, lúc này vầng trăng mảnh hơn, và màu đỏ cũng nhạt hơn. Giờ mới thấy đôi chân mỏi rã rời, mỏi đến không thể làm chủ được. Chả gì Miên cũng đã đạp trên ba mươi cây số, cô ngồi bệt xuống.

    - Sao lại có trăng đỏ hở anh? Chưa bao giờ em thấy trăng thế kia.

    Không phải chỉ riêng Miên dừng mắt trên cái màu đỏ đồng kỳ lạ ấy, có tiếng Luật sư hỏi khe khẽ. Chắc nó sợ nói to cá sẽ nghe thấy.

    - Em thì biết gì ngoài sách. Rồi sẽ đến lúc phải đeo lồng hai kính vào nhau nữa kia. Có người bảo đấy là điềm của chết chóc, của mất mùa, rồi chiến tranh.- Lai bật cười.

    - Điềm của chiến tranh... Đừng giễu cợt thế! Nếu như lúc này anh cũng có mặt trong dòng người...

    Bàn tay đang bóp bóp chỗ chân nhức dừng lại. Giọng Miên run run.

    - Mình xin lỗi, nếu có gì không phải... Nhưng… Miên đã thấy gì nào?

    Thấy gì ư?

    Kịch! Cửa phòng mở, một người đàn ông đứng tuổi vào.

    - Chào cả phòng - Sau khi quay lại khép cửa, ông hướng về phía Phụng.-Cho mình xin tí lửa. Ồ, xin lỗi...

    Cạch! Cạch! Cạch! “Sang lĩnh lương cho người ta còn về chứ!”

    Cùng với tiếng gõ cửa, ai đó nói to ngoài cửa phòng rồi vội vã đi, tiếng “gộc” khua lộp cộp.

    - Lương với chả lậu. - Anh cán bộ đời sống lầu nhầu.

    - Thôi, dừng ở đây... Tiếng Vịnh nói khẽ.

    - Không, không! Ông cứ đọc tiếp! Lương chả lĩnh hôm nay thì mai. Nào!- Phụng hất hàm.

    Tôi và mọi người cùng gật đầu đồng tình với Phụng. Và Vịnh lại cúi xuống những trang bản thảo.

    - Trở lại câu trên nhé - Anh nói, rồi tiếp tục đọc.

    Thấy gì ư? Trong đôi đồng tử đang dãn ra của Miên vầng trăng trên kia như đang to lên, to mãi. Rồi biết bao ý nghĩ bỗng lấp gấp xô về. Lai và cậu bé Luật sư, không, cả Miên nữa, chính cô cũng cần phải hiểu lại những xúc cảm miên man ấy.

    - Em cũng không biết.- Vầng trăng như nhòe đi. Tiếng Miên khẽ khàng. - Có điều trăng thượng huyền mà sao to và nặng, lại còn màu đỏ nữa... Tưởng như có một mặt trời được kéo ngược từ phía hoàng hôn trở về. Một mặt trời trong đêm - Vầng trăng đỏ ối. Trên dòng người đang im lìm đổ ra khỏi thành phố, trên bầu trời với những đám mây rạn ra từng khoảng lớn, cái mặt trăng lừng lững ấy...

    Nói tới đây Miên có cảm giác như đang đi trở lại trên con đường đã qua, lẫn vào dòng xe cộ đông đúc. Trên những chiếc xe ấy Miên đã thấy gia tài bé nhỏ của những người dân trong thành phố của cô, đã thấy những chiếc ghế mây mà trên đó những cái đầu bé bỏng cứ gật lên gật xuống theo nhịp xe xóc, hai bàn tay - cũng bé bỏng như thế- buông lơi trên thành ghế, phần lớn các em bé đều đã ngủ ở dọc đường. Có một cái gì đó cứ dâng lên trong mí mắt Miên, cô không sao nói tiếp được.

    - Đừng sợ!

    Giọng Lai thấp xuống. Trong giọng nói của anh Miên cảm thấy Lai đã hiểu những gì cô không diễn tả nổi. Trước sự quá tinh tế của những diễn biến tình cảm trong tâm hồn con người ngôn từ bỗng trở nên khô cứng, nghèo nàn. Vào lúc ấy, may chăng chỉ có âm điệu trong giọng nói mới giúp con người truyền đạt được những gì họ muốn. Bởi vì nếu không, chỉ căn cứ vào hai tiếng “đừng sợ” Miên hẳn đã cho rằng Lai đã hiểu sai cô. Không phải điềm chiến tranh. Cũng chẳng thể là nỗi khiếp sợ. Một sự bất nhẫn chăng? Nhẹ quá! Vậy thì điều gì đã diễn ra trong tâm hồn khi bắt gặp sự liên tưởng: Có một kẻ nào đó đã dùng cái gam màu ghê sợ ấy xóa đi màu trăng xanh dịu của những ngày tháng thanh bình?

    Im lặng trôi qua. Tiếng Lai khe khẽ:

    - Trước lời kêu gọi của Gớt Hôn, đài đọc thơ của Nam Hà, Miên có thích bài đó không?

    - “Đường dài đi giữa Trường Sơn. Nghe vọng bài ca đất nước...” Đúng không? Thích ghê lên ấy chứ! Cái Dự bạn em, anh có biết không - Miên tiếp – hơn em hai tuổi. Khai tăng một tuổi, đợt sơ tán này nó ở nhà để xin đi thanh niên xung phong. Bố nó thích lắm, trong mọi việc chẳng bao giờ chú ấy cấm đoán nó cả.

    - Thế bố Miên hay cấm Miên những việc gì?

    - Cấm đủ thứ - Miên trả lời. Hai năm lớp tám, lớp chín, tối nào Dự cũng đến học nhóm với em. Bàn học của bọn em kê ở một góc, nhưng chỉ liếc qua là bố em biết ngay là đang ngồi học, hay đang xem truyện.

    - Giờ học lại ngồi đọc truyện, bị mắng cũng phải. Luật sư xen vào.

    - Kìa Nhóc, để chị ấy nói! Lai giơ một ngón tay lên “đe” cậu bé.

    “Giờ thì chị hiểu tại sao em bị gọi là Luật sư rồi. Nhưng cấm cũng chẳng được! - Giọng Miên thoáng vẻ đắc thắng.- Kéo cái ngăn kéo ra một chút, em để truyện trong đó, và cứ đàng hoàng thế mà đọc. Dự ngồi đối diện với em, lúc nào bố em từ buồng đi ra, nó khẽ ho lên một tiếng, thế là ngăn kéo tự động ập vào. Tất cả những cấm đoán…, bố em cứ nghĩ rằng nếu không mê đọc truyện quá, chăm chỉ học hành em sẽ trở thành một người giỏi giang. Rất giỏi giang nữa cơ đấy!

    Khẽ bật cười, như thể vì đang hình dung ra mình trong vai trò một người giỏi giang, rồi Miên tiếp:

    Có một lần em suýt chết... Anh có biết không, bố em rất hay kiểm soát ngăn kéo và giá sách. Lục truyện mà. Nhưng ai đời dại dột để ở những nơi ấy. Muốn tìm truyện phải xuống dưới bếp cơ! Thùng gạo, chạn thức ăn, thùng đồ vật, rồi trong đống củi, dưới gầm lò cũ... Phái mạnh các anh, nhất là cực mạnh như bố em, ai để ý đến những nơi vớ vẩn?

    Thế nhưng “đi đêm lắm cũng có ngày gặp ma”. Lần suýt chết ấy…, buổi tối đọc xong, khuya rồi mệt quá, em quên không “sơ tán” sách. Sáng ra dậy muộn, quáng quàng xách cặp chạy. Đến lớp, học hết giờ đầu, vào tiết thứ hai, tiết toán của thầy “Tuấn bút chì” em mới sực nhớ: quyển Phục sinh vẫn để trong ngăn kéo. Sợ quá, chẳng còn nghĩ được đến xin phép nữa, em bật ra khỏi cửa sổ lao một mạch theo đường tắt về nhà. Em ngồi bên cửa sổ, bọn em học ở dãy nhà một tầng, chỗ đó có con đường dẫn ra ruộng rau. Theo đường này qua làng Quỳnh. Chỉ mười lăm phút sau là đã có thể có mặt ở nhà.

    Nếu bố em mà giở ngăn kéo ra... thì ôi thôi, Liép sẽ tan tành! Sáng đó sương mới nhiều làm sao. Sương như từ cả một vùng hồ ao dâng lên. Một bức tường sương kéo suốt dọc đường. Lạnh thế mà mồ hôi cứ toát ra...”.

    - Chị thoát không? - Luật sư hỏi dồn. Chẳng hiểu nó đang hồi hộp lo cho số phận Liép, hay cho Miên.

    - Thoát! - Miên trả lời Luật sư. Rồi tiếp, giọng bâng khuâng.- Thế mà thầy Tuấn không mắng em. Thầy Tuấn rất hiền. Gày nữa. Mùa đông trong chiếc áo bông rộng lùng thùng, trông thầy giống hệt chiếc bút chì trên đậy nắp bút máy Hồng Hà, loại bút đàn ông ấy. Giờ học cuối cùng trước ngày 16 tháng 4, lẽ ra thầy cũng phải giận em, vậy mà... Thực ra em không nên làm thế. Bao giờ em cũng sai. Nhưng tại sao người ta cứ viết ra những quyển sách hay quá như thế?

    - Trong giờ toán hôm đó Miên đã làm gì? - Lai hỏi.

    - Giờ kiểm tra một tiết, nhưng em lại ngồi đọc “Đất Quảng”. Kiểm tra hình. Bài rất dễ, chỉ mười lăm phút là xong. Quyển “Đất Quảng” vẫn còn một phần nữa, cuối giờ toán bọn nó lại đòi... Miên khẽ thở dài. Lẽ ra hết giờ em phải xin lỗi thầy. Thầy ngồi trong lớp chấm bài để trả ngay. Nhưng em đã không xin lỗi. Bọn con trai chơi cờ tướng vui quá... Nếu biết đấy là buổi học cuối cùng em đã không làm thế. Không bao giờ làm thế!

    - Hết hè đến xin lỗi vậy.

    - Anh bảo sao? Miên hỏi lại.

    - Mình bảo hết hè đến xin lỗi. - Lai nói.

    - Thầy đi bộ đội rồi. Bài làm hôm ấy thầy vẫn cho em điểm mười. Thầy Tuấn đi bộ đội. Dự đi thanh niên xung phong, còn em đi sơ tán. Thế mà, bố mẹ em còn định gửi em theo xe các chú trong cơ quan...- Ngừng một lát Miên lại tiếp.- Ban nãy anh bảo mặt trăng đỏ là điềm chiến tranh. Điềm chiến tranh dứt khoát không phải rồi, nhưng mất mùa thì có thể lắm chứ. Biết đâu chẳng có liên quan nhất định về thời tiết?

    - Chẳng phải đâu. - Lai trả lời.- Ngoài hiện tượng thủy triều và áp triều ra, mặt trăng không có ảnh hưởng gì đến trái đất cả. Còn màu đỏ đồng kia là do sự khúc xạ của các tia sáng mặt trời vào trong khí quyển, các tia đỏ đập lên mặt trăng... Mà có biết không, trên mặt trăng không có hoàng hôn đâu nhé. Nhưng lại có biển. Biển theo cách gọi của Galilê. Người ta đặt cho biển của mặt trăng những tên như: Biển Mưa, biển Trong Sáng, biển Ẩm ướt, biển Yên tĩnh, biển Phong phú, biển Nhụy hoa, biển Mây...

    - Anh học về những cái đó à?

    Miên thốt lên, ngạc nhiên và thích thú. Đôi mày doãng ra trên vầng trán phẳng và cao.

    - Đâu có,- giọng Lai thoáng vẻ ngượng ngập- đưa hộ mình cái cần câu với.

    Khi đưa cần câu cho Lai, Miên nhận thấy anh có một đôi mắt rất đen. Có lẽ còn đen hơn cả những dải nước mà sóng đang lôi vào bờ rồi lại ném ra xa tít tắp kia.

    - Sao cần câu ngắn thế anh? - Giọng Miên trong và nhẹ.

    - Tháng tư cá thường ăn sát bờ... Nhưng kìa, ngồi không khéo bạn sẽ làm hỏng hết hoa đấy!

    - Hoa nào?

    Theo bản năng Miên nhổm người lên, như thể đang ngồi trên hoa thật. Thì ra chỗ Miên đang ngồi là một thẻo vườn, mà vạt cỏ tươi tốt bên đầm đã mọc trườn vào. Phải nhìn kỹ mới thấy những gốc cây đã héo.

    - Có thấy gì không?

    - Những gốc cây?

    - Chỉ thế thôi à! Thở ra rồi hít vào thật mạnh xem nào.

    - Hít vào thật mạnh... Trời, sao từ nãy đến giờ em không nhận ra nhỉ!...

    - Suỵt! Luật sư quay lại, đưa tay lên miệng cảnh cáo tiếng reo của Miên. Hẳn cậu ta sợ cá nghe thấy.

    Hoa loa kèn. Một mùi thơm ngọt mát dâng lên.

    Giữa những gốc cây đã héo, giữa những lá cỏ dài tươi tốt, cây hoa còn sót lại ở một góc thẻo vườn chỉ có một bông hoa duy nhất. Thật khó tưởng tượng nổi hương thơm ôm đầy cả khoảng không bao la này chỉ dâng lên từ một đài hoa mảnh dẻ đến dường kia.

    - Trước đây là nhà của một ông già rất yêu hoa. Giờ ông chuyển vào làng, nhường đất cho sinh viên làm nhà ở và giảng đường. Có biết vì sao mình nhắc đừng ngồi lên không?

    Miên lắc đầu.

    - Hoa đã cắt, nhưng còn củ để lại ươm dưới đất đấy. - Lai giải thích.

    - Giật đi anh... Thôi, hỏng rồi!

    Có tiếng quẫy nhẹ. Tiếp theo là tiếng thở dài thực to của Luật sư. Dưới ánh trăng, cái gọng kính của cậu in hình to kệch, nom đến kỳ dị.

    - Hôm nay đen quá. Thôi chả thèm câu nữa.

    Luật sư ngáp dài, và nằm xoài luôn xuống. Nó gỡ kính. Lại ngáp. Một lát im lặng. Rồi bỗng cất tiếng, giọng ngái ngủ:

    - Cái ông Gớt Hôn ấy buồn cười nhỉ. Ngồi dưới hầm rồi kêu gọi... Mà ban nãy anh nói về mặt trăng là bịa hay thật đấy?

    - Xin cứ tin tôi, ngài Luật sư!

    Có gì đó vừa giễu cợt, vừa trìu mến trong giọng Lai.

    Cả ba cùng im lặng. Trong đêm tĩnh mịch chỉ còn vang lên tiếng nước vỗ bờ. Mặt đầm cứ rộng ra, rộng mãi và, và bầu trời dường như cũng được nâng lên, cao và nhẹ hơn. Luật sư chừng đã ngủ. Tiếng nó thở nhè nhẹ. Cái kính cận rời khỏi tay, từ mắt kính loáng lên một vệt sáng.

    Lai đứng dậy đi vào nhà, rồi trở ra với một cái áo. Anh cuộn áo lại, nâng đầu cậu bé lên và luồn xuống dưới.

    - Ở nhà nhóc được chiều lắm. Ngủ không gối hắn ta bị đau đầu đấy. Lai khẽ cười, rồi như nhớ ra điều gì anh bỗng ngập ngừng... Thực ra mình cũng chẳng biết gì đâu, về mặt trăng ấy. Ban nãy là mình đọc thuộc lòng một đoạn trong giáo trình thiên văn của Pôlác đấy. Quyển sách tình cờ rơi vào tay mình. Ông ta viết hay đến nỗi không thể không thuộc được... Cả chuyện cá ăn sát bờ vào tháng 4, và hoa loa kèn khi cắt rồi thì củ để dưới đất ươm tiếp, mình cũng “nghe” sách cả thôi. Bao giờ về Hà Nội mình sẽ tìm lại quyển sách của Pôlác cho Miên đọc.

    - Thật chứ?

    - Thật. Có điều đừng đọc trong giờ của thầy “Tuấn bút chì” nữa và cũng đừng nhét Pôlác vào gầm lò cũ hay chạn thức ăn mà ông ta lại kiện mình.

    Im lặng.

    - Anh Lai này... Trong quyển sách thiên văn của Pôlác có viết về đêm không?... Anh bảo có à? -Tiếng Miên như từ sóng nước vọng lên - Bố em bảo em sinh ra vào lúc nửa đêm...

    - Một giấc mơ… Ừ, tên Miên... Nhưng với mình Miên sẽ là đêm, Lai như nói một mình. Rồi bỗng anh thốt lên: Miên xem kìa!

    - Trăng...

    - Không, đừng nhìn trăng. Vì sao đổi ngôi, Miên có thấy không? Hẳn một vệt sáng xanh... Nó rụng xuống đâu nhỉ?

    Im lặng.

    - Khuya lắm rồi.- Tiếng Lai như bừng tỉnh - Thôi Miên ngủ đi, lấy sức sáng mai còn đạp xe tiếp. Mình nhường cho cái bờ đầm này đấy. Nằm đây ngủ khoái hơn vào nhà.

    Lai đứng dậy nhìn quanh, rồi trỏ vào vạt cỏ ngay chân Luật sư:

    - Nằm đây này!

    - Còn anh?

    - Mình thức. Phái mạnh mà...

    Im lặng. Sóng xô nước vào bờ. Cùng với cảm giác một cái gì mềm mại lướt dưới lưng, Miên nghe tiếng Lai từ trong nhà cất lên:

    Thế... Ngủ đi, đừng sợ!

    *
    * *

    Tất nhiên không phải ngay trong lúc này tất cả những điều xảy ra trong đêm ấy đã trở về cùng lúc trong trí nhớ Miên. Mà phải một thời gian, một khoảng thời gian dài sau này, Miên mới có thể sắp xếp được những ý nghĩ của mình, sắp xếp được những gì đã xảy ra theo một trình tự rành mạch. Mới có thể mường tượng đến từng chi tiết nhỏ những gì đã có trong đêm đó. Còn bây giờ, trong cuộc gặp gỡ quá đỗi bất ngờ này chị chỉ kịp cảm thấy trong tâm hồn đang mệt mỏi của mình luồng gió năm xưa tươi mát ùa về. Những ngọn cỏ đâm vào chân buồn buồn. Đài hoa mảnh dẻ đỡ lấy năm cánh hoa trắng ngà, trên mỗi cánh hoa ấy có muôn vàn tia nước li ti chảy, những tia nước trong lành đã vọt lên từ mặt đất ẩm ướt trong suốt cả mùa xuân, qua thân cây xôm xốp. Rồi hương thơm của nó... thứ hương lúc thì dậy lên nồng nàn, lúc lại mất đi trong những đợt gió ào ạt đưa về từ phía bên kia bờ đầm. Và sau hết, trên tất cả, là âm hưởng của một giọng nói. Cái âm hưởng vừa giễu cợt, vừa trìu mến lạ lùng, nhớ lại chị chưa hề gặp ở một người nào khác.

    Phải chăng trọn vẹn những gì Miên mơ ước đều đã có trong đêm đó?

    Khoảng im lặng của những xao động trôi qua, Miên hỏi:

    - Anh em giờ thế nào nhỉ?

    - Anh Lai không phải anh trai em. Em sơ tán về làng đó, gặp rồi quen thôi. Ngày ấy anh Lai là một trong những sinh viên đi tiền trạm để lo xin đất, và lo chuyện làm nhà cho trường. Cho đến hôm đó anh Lai đã có tên trong danh sách đi bộ đội. Mắt anh Lai còn cận nặng hơn em rất nhiều, nhưng anh ấy không đeo kính. Anh Lai bảo tập cho quen đi, chứ có kính thì còn đánh đấm gì.

    Nhưng thực ra không đeo kính để được đi khám tuyển thì đúng hơn. Đã có tên trong danh sách đi bộ đội, nhưng vì chưa có người tiếp quản công việc, nên mặc dù rất sốt ruột anh ấy cũng phải ở lại. Còn bây giờ, chị hỏi anh Lai...

    Long quay đi, và cũng như đêm nào cái gọng kính lại in hình to kệch, kỳ dị, có khác chăng là in trên tường chứ không phải trên bờ cỏ tươi tốt năm nào.

    - Anh Lai mất đã năm năm. - Im lặng một lát Long tiếp - Hà Nội thế mà rộng. Sau “những ngày bê năm hai”(2) về em tìm chị suốt mà không thấy.

    Những năm sau cũng không hề thấy. Có cái này em vẫn giữ cho chị.- Long đặt trước Miên một phong thư đã cũ và nhàu, nét chữ ngoài bì không còn rõ nữa, nhưng lành lặn sạch sẽ. Thư không dán tem- Một người bạn anh Lai đã cầm về - Long giải thích và đứng dậy đi về phía cửa sổ.

    Trong phần đầu lá thư gửi cho Luật sư. Lai đã kể về cuộc sống của anh khi chuyển sang đơn vị mới. Bằng vào thư thì những gì anh đã trải qua trong những ngày này đều tuyệt vời hết sức. Cái giọng điệu “từng trải” trong thư, hẳn Lai rất hay dùng với Long, tuy không phải lúc nào anh cũng thành công. Nhớ đêm ấy Long đã tỏ ra ngờ vực hết sức khi nghe Lai nói về mặt trăng. Thậm chí nó còn hỏi thẳng thừng có phải chuyện của anh là bịa không. Còn phần sau của thư, cứ theo ngày tháng thì phần sau viết cách một khoảng thời gian dài.

    “Luật sư ơi, bọn anh giờ bắt đầu vào cuộc rồi. Có kể em cũng không hình dung hết được những gì bọn anh đã qua đâu. Em còn nhớ anh Kiệm không? Cái cậu beo béo, hay cười, cùng đi một đợt với anh ấy. Cách đây hai ngày anh và các bạn anh đã mai táng cho Kiệm cùng hai người nữa. Riêng Kiệm, thật thương tâm, thi hài cậu ấy chỉ là một mảnh áo...

    Cứ qua một đợt đơn vị lại vợi đi. Rất có thể ngày mai trong số vợi đi tiếp theo sẽ có anh. Nhóc vẫn hay giễu cợt, rồi lại bào chữa cho tính hay bịa đặt của anh. Nhưng trong những điều anh sẽ nói sau đây, em phải tin và đừng hỏi lại nhé. Trong khoảng thời gian thuộc về mình này sao anh nhớ Hà Nội, nhớ đêm trước mấy ngày nhập ngũ của anh, nhớ đến cồn cào. Tên chị ấy là đêm.

    Thật may mắn cho anh làm sao, vì như thế lúc này anh có cảm giác như chị ấy đang đứng ở đâu đó rất gần anh thôi. Cô bé có vầng trán thẳng dưới mái tóc hất ngược về phía sau... Vầng trán và đôi mắt…, mỗi lúc nhớ lại anh không khỏi liên tưởng đến những đám mây trắng, thứ mây vẫn thảnh thơi bay trên bầu trời, trong những sáng hè yên tĩnh...

    Nếu ngày đó anh hỏi địa chỉ thì trong từng ấy năm anh đã có thể biết được những gì đã đến với “cô bé” của anh. Giờ đây, nếu sau trận pháo này anh có mặt trong số vợi đi, thì nghĩa là cuộc gặp gỡ sẽ không bao giờ có. Luật sư sẽ bào chữa cho anh thế nào nhỉ? Anh đã chia tay không hề tìm cách biết thêm ngoài một đôi điều chị ấy đã nói, và cũng không hề tỏ ra cần biết tiếp về những gì sẽ đến với chị ấy. Đêm trôi qua dưới một vầng trăng màu đỏ, dòng người đổ đi vô tận qua các ô, lời kêu gọi của Gớt Hôn... Những ngày tháng dữ dội và khốc liệt đã bắt đầu, vậy mà tại sao anh lại chia tay với Miên như chia tay một cô bạn cùng phố, hết hè rồi sẽ gặp lại. Tại sao thế?

    Nhưng thôi, tìm cách giải thích những trạng thái tâm lý để làm gì. Tất cả đều kỳ lạ... chỉ chút nữa thôi mặt đất sẽ rung chuyển vì pháo của bọn anh và pháo của bọn nó, vậy mà, Nhóc có tin không, anh nghe thấy cả tiếng cá quẫy đấy. Anh đã để hụt nó. Lúc ấy em thở dài mới khiếp chứ. Lại còn bực lây với cả Gớt Hôn. Con cá hẳn không nhỏ. Nhưng anh có thể chú ý được đến điều ấy chăng, khi mà, trong cái dáng đang vươn về phía trước, chị ấy sao giống bông hoa loa kèn ở góc vườn đến lạ lùng?

    Bông hoa vươn thẳng, hắt một tia sáng trắng dịu lên vầng trăng đỏ ối , lúc này đây, giữa không gian khét lẹt và nóng bỏng, anh đã gặp lại hình ảnh này...

    Đọc tới đây, Vịnh ngừng lại. Anh để tập bản thảo xuống bàn, nơi từ đó đang vang lên tiếng con sâu nghiến vào gỗ kèn kẹt, rồi đưa tay lên xoa mãi vào trán và mắt.

    Cái đêm ấy, trong cuộc chiến tranh vừa qua, phải chăng niềm tin trong mỗi chúng ta đều tựa vào những điểm tĩnh đầy thơ mộng như thế, và với niềm tin đó chẳng có sự tàn bạo, khốc liệt nào đè bẹp nổi? Mọi người trong phòng im lặng. Họ đang theo đuổi ý nghĩ gì?

    Phần mình, tôi như chỉ thấy trước mặt một đầm nước rộng mênh mông, bên đầm nước, trong yên tĩnh đầy tin cậy, giấc ngủ hồn nhiên của cậu bé Luật sư và Miên. Làm sao không ngủ được khi vì sao của Lai đã rụng. Khuya lắm rồi... Làm sao không ngủ được khi hai tiếng “đừng sợ” đầy trìu mến đã cất lên?

    Bên giấc ngủ thật sâu của bông hoa và cậu bé ấy, Lai có biết rằng anh đã thực sự lên đường?

    Nhưng kìa, có tiếng chân ai vang lên ngoài hành lang... Tiếng dép kéo, rồi tiếng gì đó khua rủng rẻng. Cửa phòng bật mở, và người thường trực của cơ quan xuất hiện với chùm chìa khóa to tướng.

    - Chà, các vị! - Giọng ông cáu kỉnh. Sao giờ này mà chưa gửi chìa khóa? Bộ không cho người ta ăn cơm nữa sao? Họp thì phải báo trước chứ!

    - Xin lỗi bác, chúng tôi có chút việc.

    Nở một nụ cười biết lỗi với người thường trực, Vịnh quay sang mọi người:

    - Chúng ta về thôi chứ nhỉ?

    - Kẻng hết giờ lúc nào mà không nghe?

    Trong tiếng ghế xô, tiếng chân bước và tiếng cặp lồng va chạm, anh cán bộ đời sống nói to, hẳn cố ý để người thường trực nghe thấy. Đúng vào lúc này, chuông đồng hồ của thành phố điểm sáu tiếng.

    - Đúng là ngày tháng mười. Mới sáu giờ mà đã tối quá là tối.

    Trên dãy hành lang lặng tanh vẫn tiếng anh cán bộ đời sống vang lên.

    - Cậu về đâu? Đi bên tôi Linh khẽ hỏi.

    - Cuối phố Huế. - Tôi trả lời chị.

    - Xa nhỉ. Mà nhà cậu có gần chỗ bị bom không? Buồn cười, ngày mới lấy nhau “ông nặn tượng nhà mình” cứ lôi mình đến đấy suốt. Chả là dạo đó bạn bè anh ấy đang đắp phù điêu. Về sau nghe đâu người ta đã bỏ nó.

    - Phù điêu gì? - Sự chen vào.

    - Phù điêu trên bức tường của phố Huế. - Anh không biết à?- Linh hỏi lại Sự.

    - Ờ, ờ... mình là dân ngoại thành.

    - Các vị nhanh chân lên một tý để tôi còn khóa cầu thang. Cơm canh nguội tiệt rồi!

    Người thường trực lúc này đã xuống đến bậc thang cuối cùng, ông ta khua nắm chìa khóa lên và giục giã.

    Cả mấy người chúng tôi cùng vội vàng rảo bước. Và trong sự vội vàng đó Linh đã không nhắc lại câu chuyện về những phù điêu ở phố tôi. Thật may cho tôi, vì chính tôi, tôi cũng không hề biết những phù điêu ấy có còn hay không


    1981- Hà Nội, những ngày áp thấp
    P.T.M.T
    -----
    (1) Khi Mỹ ném bom Hà Nội và Hải Phòng ngày 16-4-1972, đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Mỹ lúc đó đang ở thăm Việt Nam đã ra lời kêu gọi này gửi nhân dân Mỹ.
    (2) Chỉ những ngày Hà Nội bị đế quốc Mỹ ném bom B52.
     
  4. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Nợ trần gian - Nguyễn Bản

    Mưa dầm dề, sùi sụt mấy ngày liền. Ngõ xóm lầy lội. Không ai muốn bước chân ra khỏi nhà, kể cả những người chuyên đi xem nhờ nhà hàng xóm. Thế mà tối, chị đội nón, khoác vải mưa lặn lội tới nhà Mận. Con trai Mận học bài xong đã ngủ rồi. Chị lặn lội tới nhà Mận để khóc. Chị leo lên giường Mận, nằm vào trong, thu người lại, nằm cò queo rồi khóc. Chị phải nằm cò queo, vì dưới chân, vướng chiếc hòm quần áo của Mận. Chị nằm cò queo, ngoảnh mặt vào tường, vì chị không muốn nhìn vào đâu cả. Chị muốn nhìn vào lòng mình, nghe tiếng mưa rơi. Chị bảo chị nhớ con, nhớ quá. Chị bảo, mưa thì mưa, mai chị cũng phải đi. Chị đến để chia tay với Mận, và chưa biết đến bao giờ mới gặp lại nhau, chị bảo chưa đi chị đã nhớ Mận, nhớ mọi người, nhớ làng xóm rồi. Nhưng chị còn nhớ con hơn. Mai chị phải đi. Con em dâu đã hẹn, nói chỉ chờ chị ở Đồng Đăng nhiều nhất là hai ngày, nếu không nó sẽ đi trước. Nó đi trước, chị sẽ không biết đằng nào mà lần. Tiếng chị chưa biết nhiều, vả lại tiếng mỗi nơi mỗi khác, lại không có nhiều tiền. Mọi người, bố mẹ, anh chị em, mỗi người cho chị một ít, người dăm chục, người vài ba chục, được ngót năm trăm ngàn, tính ra khoảng ba trăm tệ. Năm chục tệ, chị mang về, mới chỉ tiêu chưa hết hai chục tệ, mua mất gói kẹo gọi là có chút quà cho bố mẹ và các cháu, thế thôi. Trung Quốc tràn trề hàng hóa, hoa quả to ngon, bổ dược. Nhưng chị nghèo, nghèo lắm và còn nợ đầm đìa. Lúc về trong nhà chỉ có hơn một trăm tệ, chưa tới hai trăm nghìn tiền mình. Chồng chị bảo:

    - Mày cầm về cả, ba bố con ở đây sống bằng gì?

    Vì vậy, chị chỉ mang theo năm chục tệ. Con em dâu ứng tiền xe, tiền ăn đường cho chị. Nó quê ở Thái Nguyên. Nó đã bốn lần lấy chồng Tàu, hai lần ở Quảng Đông, một lần ở Quảng Tây, và bây giờ là em dâu chị. Nó về cùng chị. Nó có tiền. Nó về là để kéo người đi. Nói xui chị về kéo Mận đi - Chị kể chuyện về Mận với nó. Chị bảo Mận trắng trẻo, đẹp gái, cao hơn, đẫy đà hơn và ít tuổi hơn chị. Nó bảo nếu vậy, gặp chỗ khá, có thể được mấy vạn tệ, bét nhất cũng một vạn. Nó sẽ tìm được người mua ngay. Chị sẽ có tiền trả nợ. Vợ chồng chị hiện còn nợ hơn năm nghìn. Ba nghìn chồng chị vay để mua chị. Hai nghìn vay để góp tiền làm ma mẹ chồng. Con Tị bán chị được ba nghìn, cho bà mối hai trăm trừ năm trăm nghìn tiền Việt đưa cho chị để biếu bố mẹ lúc ra đi, trừ tiền tàu xe đem chị sang Tàu, tiền nuôi ăn nửa tháng, tiền mời y sĩ tới chữa hen cho chị, tất cả khoảng bốn trăm, còn lại khoảng hai nghìn nó hưởng. Chị không biết ngay khi chị ra đi, Mận đã đón được con về, đến nay đã gần được năm năm rồi, con Mận đã học lớp tám.

    Nghe chị vừa khóc vừa kể lộn xộn, Mận phẫn uất ngắt lời:

    - Mẹ nó, thế thì khác nào mình đi vay nợ để mua chính cái bản thân mình cho kẻ khác.

    - Lúc đầu, cũng tưởng được dăm trăm nghìn đó, gọi là đền đáp chút công sinh thành của bố mẹ, bây giờ lại ngửa tay nhận lại dăm trăm nghìn mọi người cho, mày bảo có tủi nhục tao không?

    Chị khóc nấc lên.

    Làng chị như vậy đã có tới năm người sang lấy chồng Tàu. Người nọ kéo người kia đi. Làng đã nghèo, lại toàn những cảnh hẩm hiu, lỡ làng. Lần ấy con Tị cũng gạ Mận. Nó bảo chẳng giàu sang, phú quý lắm, nhưng cũng sướng hơn ở làng nhiều. Nó bảo nó mang về hai chục triệu. Chẳng biết đúng hay không, nhưng nó biếu bố mẹ hai triệu, anh em mỗi người một trăm nghìn, các cháu mỗi đứa năm chục nghìn thật.

    Chị bảo như có ý trách Mận:

    - Lần ấy, mày không bỏ tao vào Buôn Mê Thuột, tao cũng chẳng theo nó đi đâu.

    - Chán chị chưa, em vào là để đón con em về kia mà.

    Phải, Mận vào là để đón con về. Khi bố nó đem nó vào, hắn nói dối cho vào chơi ít lâu, đỡ nhớ con. Rồi biệt tăm. Hai năm sau hắn ra đòi ly hôn. Mận khóc. Hắn bảo, đằng nào cũng chót có con với người khác rồi. Hắn bảo, hắn biết tính Mận, không đời nào chịu cảnh chồng chung, không đời nào Mận chịu bỏ làng vào sống chung trong ấy. Hắn bảo để hắn nuôi con. Hắn có điều kiện hơn. Hơn nữa, Mận đỡ vướng, dễ lấy chồng. Nhưng chỉ một năm sau đó, hắn xác xơ khánh kiệt. Hắn thuận để Mận đón con về.

    Chị thở dài:

    - Cũng là cái số cả. Tao cứ tưởng mày vào, nó dỗ ngon, dỗ ngọt sẽ ở luôn trong ấy, thiên hạ bây giờ thiếu gì cảnh chồng chung. Như tao ấy, chỉ mong làm lẽ cũng không xong. Vì thế mày đi rồi, tao mới theo con Tị.

    Tên chị là Bùi, đặt vần theo tên chị gái là Ngọt. Nhưng chưa bao giờ chị được nếm vị ngọt bùi. Số phận quá nghiệt ngã với chị. Chị đã đen, lại xấu, mắt một bên lại hơi bị nhài quạt, lại mắc bệnh hen. Nhưng chị hiền, sởi lởi và tốt bụng. Mận chơi thân với chị từ lúc mười bốn, mười lăm tuổi, từng đi dân công hỏa tuyến với nhau, cùng nhau đi nhổ rau má bờ đê, đi tuốt kê cỏ về chống đói, những năm Mận làm được tới gần bốn trăm công mà chẳng được cân thóc nào, lại còn bị âm gần bốn chục cân thóc, những năm đa số dân làng sống bằng thóc rơm, rau má và kê cỏ. Hai mươi tuổi, Mận lấy chồng, tình bạn nhạt nhòa đi đôi chút. Rồi bẩy năm sau xảy ra chuyện Buôn Mê Thuột, tối tối, Mận lại ra nhà chị, ôm nhau và khóc với nhau. Ngôi nhà hai gian lợp ngói móc, bố chị làm cho ở một góc vườn. Ngói loại hai, loại ba vênh váo, mưa hắt dột khắp giường, hai người nằm cạnh nhau, nghe tiếng giun dế và than thân trách phận.

    Chị tâm sự, thật ra chị chỉ cần một đứa con. Nghèo cũng được, khổ cũng được, nhưng là đàn bà mà không được làm mẹ thì không chịu nổi. Chị bảo, chị chỉ mong làm lẽ thôi cũng được. Nhưng bọn đàn ông đều muốn vợ lẽ phải trẻ hơn, đẹp hơn vợ cả. Mà chị thì xấu quá. Muốn đi kiếm bừa của một thằng đàn ông nào đó, một lão già cũng được, nhưng cũng không nổi. Bọn đàn ông kháo nhau, dưới Vạn Linh, gái ế mà lại xấu, muốn kiếm con phải mất một chỉ vàng, nhưng cũng chỉ được của thằng đánh rậm. Thật ra đã có một kẻ hỏi chị làm vợ lẽ. Trông cũng khỏe mạnh, tươm tất. Nhưng nó lại là thằng tù về. Nó trộm gà, trộm chó nhiều lần, lần cuối cùng bị bắt quả tang - Tù thì tù, chị cũng bằng lòng, nếu không, mã người như thế nó đã chả thèm đến chị. Mẹ chị cũng bằng lòng. Anh em chị đều bằng lòng. Nhưng bố chị không chịu. Bố chị quát:

    - Bà thích con rể biếu thịt gà, thịt chó lắm phải không? Bố chị vốn chỉ là một anh đồng nát bán hàn nồi, tới một làng khác, hàn nồi cho mẹ chị, lúc đó đang là một gái góa. Ông ta làm tới gần tối mới xong, đành phải nhờ nấu cơm ăn, rồi lại nhờ đi mua rượu.

    - Sao ông đưa nhiều tiền thế này.

    Ông ta cầm tay cô gái góa đẩy đi:

    - Cứ cầm lấy, mua cho tôi loại thật ngon vào.

    Ông ta uống hơi nhiều, rồi say, đi không nổi, lảo đảo ngã vào giường. Phải mất đến ba lần nhờ mua rượu, lần thứ tư, ông mới đón cô gái góa, cùng đứa con gái riêng, chính là thị Ngọt về nhà mình. Về đến nơi, mới biết hóa ra làm vợ lẽ. Nhưng trong bụng đã chót có chị rồi, và thời buổi ấy đâu có chuyện nạo hút thai dễ như bây giờ.

    Mẹ chị cãi:

    - Cứ làm như nhà mình danh giá lắm ấy. Chẳng qua cũng đồng nát chứ ngọc ngà châu báu gì.

    Bố chị đập bàn:

    - Đồng nát có danh giá của đồng nát. Đồng nát đem đúc lại cũng thành tượng đồng, chuông khánh để thờ.

    - Thì tù tội tu tỉnh lại cũng thành người chứ sao, chả khối người tù tội cũng ông nọ, bà kia.

    - Hừm, bà đang dạy con cái thói nóng đít rồi đó.

    - Phải, mẹ con tôi nóng đít, nóng đít nên mới bồng bế nhau theo ông về ăn đồng nát nhà ông.

    Bà khóc. Bà bù lu, bù loa đay nghiến thân phận bà. Gã đàn ông nghe chuyện chuồn thẳng. Mận thật thà hỏi chị:

    - Chị bảo chị cần kiếm đứa con, sao không bảo thẳng nó, sợ chó gì.

    - Nhưng nó lại là đứa đứng đắn. Nó bảo dù lẽ, cả gì cũng phải phép tắc cưới xin, cẩn thận. Mấy tối ngồi bàn chuyện ở bờ đê, nó ngồi cách ra, ngay ngắn, không ngả ngốn, bờm xơm, nên tao sợ nó khinh cho.

    Chị kể, ít lâu sau đó, một tay y sĩ về hưu, từ tỉnh bên cạnh đến lang thang chữa bệnh ở làng. Hắn đến chữa hen cho chị, vạch mông chị ra tiêm. Tuy chị đen, nhưng mông cũng trắng. Tiêm xong, hắn day mãi, bảo cho tan thuốc, nếu không dễ bị áp xe. Tối, hắn ăn cơm và nghỉ lại. Tờ mờ sớm, chị dậy nấu cám lợn dưới bếp. Hắn mò vào bảo ngồi sưởi ấm, đêm lạnh quá không ngủ được, rồi vật chị ra. Chị cho ngay, không phản ứng gì. Chị đang muốn thế. Nhưng không kết quả. Mà hắn lại về quê hắn mất rồi. Hắn nhắn, nếu muốn chữa bệnh hen cho khỏi hẳn, thì xuống nhà hắn. Chị nghĩ nhiều lắm. Người ta còn phải mất một chỉ kia mà. Mà lại chỉ của thằng đánh rậm. Đằng này y sĩ hẳn hoi. Chị mò xuống quê hắn hỏi thăm nhà. Y sĩ nào, làng này làm gì có ai là y sĩ. à, tay y tá bị đuổi việc ấy à, lối cuối xóm kia kìa. Chị chép miệng, mặc kệ, còn hơn thằng tù, đã chót đi mấy chục cây số, chẳng lẽ lại về không. Nhưng con vợ hắn đáo để quá. Đêm, hắn dậy đi giải, vợ hắn cũng đi giải, hắn dậy vờ hút thuốc, vợ hắn cũng dậy vờ khát nước... Hơn một tuần, chẳng nước non gì, chị đành khăn gói ra về.

    Chị bảo Mận:

    - Tao xấu quá, nếu được như mày, có khối đứa thèm. Khối đứa thèm Mận thật. Đứa thì vợ đẻ toàn con gái. Đứa con gái, con trai đủ cả, nhưng vợ lại mắt trắng môi thâm. Nhiều đứa ở xa cũng mò tới. Thằng chủ cá, đứa xe ôm, thằng thợ may, đứa thợ gò hàn. Mận cười bảo:

    - Về bỏ vợ đi rồi hãy đến.

    - Nhưng anh để em ở riêng cơ mà. Nếu cần em vẫn cứ ở nhà em, làng em.

    Mận bĩu môi:

    - Thôi đi, anh hãy để của quý của anh mà dùng, nhà tôi không có mả chồng chung.

    Mận đuổi đi có tới cả một tá. Nhưng trong lòng, không phải Mận không ước ao, thèm khát. Đến nhà ai, thấy vợ chồng người ta âu yếm nhau, Mận thèm lắm. Mận mong gặp được ai đó. Nhưng người ấy như thế nào nhỉ. Mận đã ba mươi, đã gái xề. Mận lại nghèo, chẳng hơn gì chị. Vậy người như thế nào sẽ chịu lấy Mận. Mận không thể hình dung ra nổi người ấy. Nhiều lúc Mận cũng muốn dấn thân, mặc cho số phận, đến đâu thì đến. Lắm lúc Mận như con dở: Hai người đang nằm khóc, Mận ngồi bật dậy diễn "Súy Vân giả dại" cho chị nghe. Rồi Mận bắt chước kẻ khóc chồng. "ới anh ơi, sao anh nỡ bỏ mẹ con em ở lại, anh đi thế này, bây giờ hồn anh lang thang vật vờ ở đâu..." Rồi Mận khóc thật, khóc như mưa. Rồi hai người lại cùng khóc. Mận nhớ con điên dại. Rồi Mận biên thư cho hắn. Rồi hắn thuận để Mận đón con về. Rồi Mận đi Buôn Mê Thuột. Và chị theo con Tị sang Tàu.

    Bây giờ Mận sống vững vàng cạnh con. Con Mận đã học lớp tám. Nó đang ngủ say tít chẳng biết hai người nói chuyện gì. Chị hỏi:

    - Nghe nói bây giờ học hành tốn kém, phải đóng góp nhiều khoản tiền lắm phải không.

    - Tốn kém lắm, em đến phát sợ.

    - Vậy mày xoay sở cách nào. Trông vào mấy sào lúa sao đủ được.

    - Đủ nghề chị ạ. Đông xuân đi chợ cá, hè đi bán giát giường, mùa thu đi bán chè. Nhưng kiếm được dăm ba nghìn, cũng có khi một vài chục nghìn, cũng khốn nạn lắm.

    Mận kể chuyện đi bán chè. Mua xong, thằng thì vuốt má: "Em xinh quá!", thằng thì cầm tay "tháng sau, nhớ đến nhé". Có thằng trắng trợn thộp luôn vào ngực. Có thằng pha thử một ấm to rồi chê không mua. Mận nói luôn: một lạng chỉ được năm sáu ấm, mất năm trăm của em rồi đấy. Nó sĩ diện quăng năm trăm ra trả.

    - Em đút túi liền, mẹ nó chứ, nửa quyển vở của con mình đấy.

    - Đi giát giường tươm hơn phải không?

    - Tươm hơn, nhưng cũng khốn nạn hơn, lắm lúc nghĩ như mình đang ăn thịt chính mình.

    Mận kể, có lần Mận đạp xe đi gần bảy mươi cây số đến tận mỏ Đông Triều. Đến nơi chỉ bán được mỗi một cái. May mà ngủ, ăn cơm nhà bà Thỉnh người làng, không thì tiền lãi không đủ ăn cơm hàng ngủ trọ. Hôm sau về sớm đến nông trường Sao Đỏ, Chí Linh, đành bán hòa ba chiếc, chả lẽ lại đèo về. Một lần rẽ vào một ngõ núi, một thằng mặt non choẹt hỏi mua. Mận nói năm mươi nghìn. Nó bảo: "Thôi, anh cứ trả ba nhăm nghìn, nếu bằng lòng mang vào lắp thử, rồi anh em mình cùng nằm thử với nhau". Mận đã định nói chua: "Tao có nằm thử thì thử với bố mày, chứ đâu với mày". Nhưng vắng vẻ sợ nó đánh, đành chửi thầm quay ra. Một lần khác, vào một làng, một thằng đòi bớt một chục sẽ mua cả hai chiếc. Nó đưa về nhà, chặt bớt cho vừa giường, lắp xong đâu đấy, nó bảo chịu tiền, tháng sau nó trả. Mận đành tháo ra định quấn lại, nhưng nó giằng co, bảo nó sẽ trả lãi tháng năm phần trăm. May lúc ấy có một bà gọi cổng, hóa ra nó đóng cổng từ lúc nào rồi. Lúc Mận ra, cùng đi, bà ấy bảo: may cho cô nhé, không thì mất cả chì lẫn chài, cái thằng chó má nhất làng đấy.

    - Hóa ra mày cũng khổ lắm nhỉ.

    - Cũng chỉ vì con cả thôi chị ạ.

    Chị cũng chỉ vì con. Bây giờ chị đã có hai con, hai con trai cả. Chị đã đạt được ước nguyện làm mẹ. Nhưng chị còn khổ hơn Mận nhiều.

    Chị vừa khóc vừa kể. Đi ô-tô, hai ngày một đêm mới đến nhà con Tị. Đường hai bên toàn núi với rừng, chỗ núi đất, chỗ núi đá. Đường đi chênh vênh, vòng vèo, lúc lên cao xuống thấp, có lúc nhìn sâu hoắm phía dưới chính là quãng đường mình vừa đi qua. Đến nơi, chị lăn ra ốm, rồi lại lên cơn hen. Con Tị mời y sĩ đến. Y sĩ bảo:

    - Bệnh này lâu rồi, mãn tính, có chữa, chỉ khỏi tạm thời.

    Con Tị quát chị:

    - Đáng lẽ bà phải bảo trước tôi chứ.

    Chị nhìn nó như van:

    - Hay mày đưa tao về vậy. Tiền mày đưa, chi phí bao nhiêu, tao hoàn lại tất.

    Nó nguýt chị:

    - Về bán nhà, bán vườn để trả hả. Tôi ở lại mấy tháng hay mấy năm để chờ chị bán. Thôi đã chót rồi, cứ để người ta chữa cho chị. Rồi tôi đi kiếm mối. Nồi méo úp vung méo vậy.

    Nó đi kiếm mối. Nhưng mối nào tới xem cũng lắc đầu chê xấu quá. Cuối cùng cũng có người mua. Đó là chồng chị. Chồng chị lúc đó năm tư tuổi, hơn chị hai chục tuổi. Đàn ông Trung Quốc ngoài bốn nhăm tuổi là không lấy nổi vợ rồi, hơn nữa lại nghèo, lại ở nơi heo hút, cách nhà con Tị một ngày đường, lấy được vợ cũng là may rồi, giá chị có tập tễnh thọt chân cũng lấy. Đấy là về sau, khi đã có con, chồng chị mới nói ra như vậy. Chồng chị có bốn anh em trai, chồng chị là anh thứ hai, con em dâu quê Thái Nguyên là vợ người thứ ba. Hai người còn lại đều lấy vợ Trung Quốc. Bốn anh em ở chung một nhà do bố mẹ để lại, ngăn vách ra làm bốn, chung cửa ra vào.

    - Hôm đến có cỗ bàn gì không? - Mận hỏi.

    - Cũng thịt một con ngỗng, thổi xôi, cúng bái. Mấy anh em ăn ăn uống uống, vui mừng lắm, nhưng líu la líu lường, chả biết nói những gì, chắc là trêu nhau.

    Để chị bớt buồn, Mận hỏi tếu:

    - Rồi tối?

    - Thì nằm ườn ra đấy, mặc xác nó vần vò thế nào thì vần vò.

    - Bao lâu thì có con?

    - Được năm tháng thì có chửa. Thằng lớn bây giờ ba tuổi rưỡi rồi. Thằng bé mới hơn một năm.

    - Thôi chứ?

    - Triệt chứ?

    - Triệt sản rồi.

    - Nó có nói được tí tiếng nước mình nào không?

    - Tao cũng dạy nó, nhưng nó chỉ nhớ được tiếng gọi "mẹ ơi". Nếu gọi mẹ bằng tiếng Tàu, tao không trả lời. Thế mới nhớ đấy. Lúc buồn, tao dạy nó hát "Bèo dạt mây trôi... chốn xa xôi...". Nó hát: "Pèo dẹ me chuôi..." Rồi lăn ra cười: "Tiếng Việt khó lắm, không học được!" Tao điên tiết phát cho mấy cái bảo: "Nhưng mẹ mày là người Việt, mày phải nói được tiếng Việt, hát được tiếng Việt, rồi có ngày còn về Việt Nam thăm ông bà, nếu không đừng có mẹ nữa". Nhưng khó lắm, đi làm suốt ngày, thời giờ đâu dạy nó.

    - Thế thì tiếng chị cũng khá rồi đấy chứ.

    - Cũng phải học chứ biết làm thế nào.

    - Có học chữ của nó không.

    - Chữ như que, gậy, có cái trông như cái cào răng, lại móc lên như lưỡi câu ấy, học thế nào được, mà học để làm gì.

    - Nhà có ti-vi chưa?

    - Lấy tiền đâu ra mua ti-vi, ngày hai bữa cháo ngô, một bữa cơm còn vất.

    - Sao bảo ti-vi đen trắng bên ấy rẻ lắm.

    - Rẻ, tính ra tiền mình chỉ hơn trăm nghìn, nhưng nợ như thế, bao giờ mua được ti-vi.

    - Thế mà làng mình bây giờ năm bẩy nhà một chiếc, mà hầu hết là mầu, tất nhiên hầu hết là mầu nội địa.

    - Chuyện, làng mình còn có ruộng, có nghề, ở đấy toàn núi, trồng sắn, trồng ngô thôi. Như nhà tao là chỉ có hai thước ruộng.

    Mận ngơ ngác hỏi, tưởng như nghe nhầm:

    - Hai thước ư, có khác thước mình không?

    - Như thước mình, hai bốn mét vuông.

    - Vậy làm ăn, sinh sống thế nào.

    Chị thở dài:

    - Phát nương, làm rẫy, làm thuê, chứ thế nào nữa.

    Ngừng một lát chị tiếp:

    - Mày biết không, ban ngày khí núi bốc ra nóng hầm hập, mùa đông, ngày cũng nóng muốn cởi trần, đêm thì mùa hè cũng lạnh, tối tắm vẫn phải đun nước nóng. Mỗi khi chiều xuống, bất kể mùa đông, mùa hè, trời và đất cứ tím sẫm lại, nhớ nhà ghê lắm.

    - Thế thì khác gì người Dao, người Mèo của mình.

    - Thì Mèo Dao thật chứ còn gì, người Choang cũng bao nhiêu giống khác nhau ấy chứ.

    - Thế thì sang làm chó gì nữa. Thôi, ở nhà.

    Mẹ chị, anh chị em chị cũng bảo thế. Con Tàu, chứ đâu phải con mình. ở nhà, xin đâu chẳng được đứa con đem về nuôi. Bây giờ chửa hoang, con hoang, vứt con lại bệnh viện vô khối. Ti-vi cũng nói thế cơ mà. Nhưng bố chị mắng: "Bỏ là bỏ thế nào" - Ông hàn nồi nói chữ "mẫu tử tình thâm, xui con cái chuyện thất đức".

    Phải, chị bỏ làm sao được. Nó là máu thịt của chị. Nó cười, nó khóc, nó hờn dỗi chị. Nó xú xí, hôn chị, ngả ngốn trong lòng chị. Nó lẫm chẫm tập đi, bập bẹ tập nói. Nó làm chị lo âu, vui mừng, sung sướng. Nó là thế giới sinh động của chị trong cái bầu trời và đất triền miên tím sẫm kia. Sao chị có thể bỏ được.

    Hôm chị về, chồng chị bảo:

    - Về xem thế nào, bán đất vườn đi lấy tiền trả nợ và nuôi con.

    Chị cáu tiết:

    - Nợ là anh vay để mua tôi, anh làm ra mà trả. Đất vườn của tôi, tôi cứ để đấy. Nếu sống ở đây khổ quá, tôi sẽ mang chúng nó về quê tôi, về Việt Nam tôi nuôi, tôi sẽ cho nó ăn học, nó sẽ thành kỹ sư, bác sĩ, anh hiểu không.

    Tới đây chị hơi vui bảo Mận:

    - Tuy vậy vẫn không giận tao đâu. Lúc bế con ra tiễn, vẫn tình cảm ra phết: "Về nhà, tối tắm, nhớ đun nước nóng, kẻo ốm" à, con mày có còn cuốn tập đọc lớp một không. Tao đã xin được cuốn vần vỡ lòng rồi. Tao sẽ mang sang dạy chúng, chúng phải nói được tiếng Việt, viết được chữ. Lần sau, tao về, có thể là dăm ba năm nữa, nhưng nó phải nói được chào ông, chào bà, xưng cháu, đọc được tên làng, tên xóm của mẹ nó, tao mới mang theo về.

    Mận biết, không ai có thể ngăn nổi chị đi, nhưng chia tay nhau buồn quá, nên gặng chị:

    - Hay ở nhà vài hôm nữa, hội chùa xong rồi hãy đi.

    - Thôi, tao nhớ con lắm, mà ở đấy cũng đầy lễ hội, nơi càng nghèo càng lắm hội hè.

    - Nhưng chị phải cẩn thận, kẻo con em dâu nó lại lừa bán chị đi nơi khác, lại mất cả con lẫn chồng, Trung Quốc bao la như thế biết đâu mà tìm.

    - Không lo đâu. Tao già rồi, lại xấu thế này, không bán nổi nữa đâu.

    Chị nói như mếu.

    Sáng hôm sau chị đi sớm. Chị nói dăm ba năm nữa chị lại về thăm nhà. Bao giờ chị mới trả xong nợ mà về.

    Mà đâu chỉ nợ tiền, những nợ khác còn nặng hơn nhiều lắm. Đến lượt Mận khóc.
     
  5. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Cô dâu trong thung - Hải Miên


    Đưa tay vặn ngọn đèn dầu xuống thật nhỏ, chị Nụ sẽ sàng nằm xuống chiếc giường tôi. Dù sẽ sàng, chiếc giường tre cũ vẫn kêu lên cọt kẹt.

    - Cái giường này đã già lão quá rồi, Gỗ nhỉ? Ngày trước mẹ bảo mẹ đã sinh chị ra trên chiếc giường này. Cả em cũng khóc chào đời ở đây. Những vệt thâm đen trên vạt giường là do nước đái của hai chị em mình để lại đấy.

    - Thế còn cái giường em đang nằm đây?

    - Tự tay bố hạ tre, đóng năm em lên 10. Bố nói con trai lớn phải ngủ riêng, không được nằm chung với mẹ và chị gái. Bố đóng giường em dài hơn chiếc giường bên này cả đoạn vì bố bảo nhìn giò biết em sẽ cao lắm. Em có nhận thấy không?

    - Có, nhưng em cứ tưởng khúc tre dài, bố tiếc không muốn cưa đi.

    Chị Nụ bật cười, tôi cũng cười rúc rích như chị em nhà chuột cắn lúa trong đêm tối.

    - Hai đứa mày không lo mà đi ngủ, khuya rồi - giọng anh tôi ngái ngủ. Tiếp theo là tiếng nói nhẹ nhàng và xa cách của chị dâu:

    - Mai cả nhà phải dậy sớm để dỡ đám khoai trên đồi, trưa ở lại luôn. Cô Nụ nhớ nấu cơm sớm và dỡ theo cho chúng tôi.

    Chỉ nghe tiếng chị Nụ trả lời khẽ: "Vâng", rồi tất cả chìm vào yên lặng. Hình như chị Nụ không ngủ được, lâu lâu lại nghe tiếng chị trở mình, tiếng thở dài cố nén.

    - Gỗ, em còn thức không?

    Tôi nắm lấy bàn tay 20 tuổi khô gầy của chị đang rờ nhẹ trên mặt mình, áp vào má. Bàn tay chị có mùi mặn mặn, tôi sực nhớ lúc chiều chị đã muối một vại cà bát và hai chum nhỏ cà pháo. Chị Nụ lại thở dài.

    - Gỗ này, chắc chị phải đi lấy chồng.

    Cố lắm tôi mới không kêu lên thảng thốt mà cũng thầm thì như chị:

    - Nhưng chị mù loà...

    - Chị cũng biết vậy - tiếng chị buồn và cam chịu - Nhưng chị không đến nỗi vô dụng. Chắc cũng có người đàn ông kém vẹn toàn nào đó muốn lấy chị làm vợ chứ, em có nghĩ vậy không?

    Đột nhiên chị im lặng giây lâu. Tôi quờ tay lên mặt chị chạm phải hai dòng nước mắt chứa chan.

    ***

    Gia đình tôi đã bao đời sống ở nông trang này, quây quần trong thung cùng hơn 50 nóc nhà khác. Bị chắn chung quanh bởi đồi, núi và một con dốc cao chót vót, những ngọn gió trong thung thường quanh quẩn khắp lượt các cửa nhà, những bàn chân trẻ con hiếu động cũng dừng lại trước vách núi và con dốc chắn. Nhưng chúng tôi không hoàn toàn bị cô lập. Phía bên kia con dốc là đường dẫn xuống chợ, xuống phố phường, cửa hiệu náo nhiệt tưng bừng.

    Chợ năm ngày một phiên. Với bọn trẻ con, xuống chợ là một phần thưởng năm chúng lên 10 tuổi, khi chúng có thể gánh đỡ bố mẹ hai mủng khoai, bắp cải hoặc lúa gạo. Rồi từ đó mỗi năm một lần, chúng lại được theo bố mẹ, ông bà hoặc anh em xuống chợ một lần vào dịp Tết. Để chuẩn bị cho đi chợ Tết, chúng phải để dành tiền xu quanh năm, nhịn thèm tất thảy đến mức nhìn những quả thông, quả ớt hay trái cà chúng đều thấy có hình que kem mát lạnh và viên kẹo mút ngọt lịm. Chúng dành tiền đi chợ Tết mua bong bóng, kẹp tóc, dép mới.

    Tôi đã đi chợ Tết bốn lần. Chị Nụ 20 tuổi chưa được đi chợ Tết lần nào bởi quãng đường đó xa xôi và lạ lẫm đối với một người mù như chị. Những người lớn ở nông trang chúng tôi vừa tự hào vừa tự ti về cái làng nhỏ của mình nên nhiều đời các cuộc hôn nhân chỉ chăng đèn kết hoa từ cửa nhà này sang cửa nhà khác ngay trong làng. Đến lứa của anh Cả, chị Nụ tôi thì các bậc cha mẹ đã phải nhờ đến ông mai bà mối cưỡi ngựa vượt qua thung, đi đến các làng khác để kén dâu tìm rể mặc dù điều đó trái với tục lệ của nông trang. Chị dâu tôi bây giờ cũng do một ông bà mối dẫn về từ một làng rất xa...

    ***

    Gia đình chúng tôi cũng từng vững chãi như mọi nhà khác trong làng, thời mà mỗi bữa ăn chị Nụ phải dọn ra mâm đủ sáu đôi đũa, sáu cái bát cho ông nội, bố mẹ và ba anh em. Thời đó nhà tôi có ông nội trông nhà, hạ tre ngồi đan thúng mủng, giần sàng và vót đũa dưới bóng mát của cây mít trước ngõ, có bố để anh cả theo sau đuôi trâu tập cày, có mẹ để bày chị Nụ nấu cơm, may vá và tôi còn cố trợn mắt trợn mũi nhai nuốt thật nhanh mỗi bữa hai bát cơm chan canh để tối được mẹ cho sờ tí.

    Ngày qua tháng lại, mắt bọn trẻ con chúng tôi xa dần, xa dần mặt đất thì những người già cứ mỗi ngày còng xuống gần hơn với đất, cho đến khi nằm hẳn xuống ngủ một giấc muôn đời. Ông nội tôi thở hơi cuối cùng khi mẹ đang hối hả đào hố trồng xuống sau vườn một cây ăn trái lâu năm. Đây là tục lệ của riêng người trong thung. Khi trong nhà có một người lớn tuổi về với đất thì người đàn bà của gia đình đó phải trồng xuống một loại cây lâu năm kịp trước khi người kia im hơi tắt tiếng. Linh hồn của người chết sẽ không chịu vùi sâu dưới ba tấc đất cùng thể xác của họ mà thoát ra, nhập vào thân cây ấy trong vườn nhà. Với những người trẻ, linh hồn sẽ bay đi nương vào một cây trên rừng. Hằng năm vào ngày mồng một Tết, chúng tôi có lễ thăm cây. Trước hết là thăm cây trong vườn nhà và sau đó toả lên rừng.

    Giờ ông nội đã trú ẩn trong cây mít trước ngõ, bố tôi ở cây xoài sau nhà và mẹ tôi ở cây xoan cạnh bờ mương. Mỗi khi buồn, chị Nụ hay ra tựa lưng vào gốc cây xoan, một chốc lại lẳng lặng quay vào, không muốn để ai nhìn thấy. Nhưng tôi biết bí mật của chị. Tôi còn biết từ dạo nhà có chị dâu, chị rất hay lén ra dựa gốc xoan...

    ***

    Tôi không chắc trong hai người, anh cả và chị Nụ, ai là người háo hức đón cô dâu mới hơn bởi anh luôn giữ vẻ mặt căng thẳng, lạnh lùng. Sau ngày đón cô dâu một thời gian cũng vậy. Chị Nụ vốn tính trầm lặng nhưng khi có chị dâu, chị bỗng trở nên hoạt bát và nói nhiều. Tuần đầu chị Nụ là bạn trò chuyện duy nhất của chị dâu. Chị kể rất nhiều về những người trong nhà, nhất là anh cả. Chị nói cho chị dâu biết về linh hồn của ông nội ẩn trong cây mít, bố ở ngoài cây xoài, mẹ nương cây xoan. Chị dâu rất ngạc nhiên, hồ nghi: "Ở làng chúng tôi không có tục lệ như vậy".

    Một cách chậm chạp nhưng anh cả ngày một đổi khác. Sau mỗi đêm ngủ dậy anh thường nói với chị em tôi, nhất là chị Nụ, những điều mới mẻ, lạ lùng. Nói một lèo, trơn tru, chặt chẽ. Chúng tôi vẫn yêu quý anh nhưng ngày một e ngại anh mình. Chị dâu chưa bao giờ rầy la hay tỏ ý không hài lòng về hai đứa em. Đến bữa ăn, chị dâu luôn ngồi ở đầu nồi, nhận lấy việc xới cơm cho cả nhà, và cả tôi lẫn chị Nụ, không ai bảo ai nhưng đều hết sức e dè khi đưa bát cho chị dâu xới bát cơm thứ ba. Rồi dần dà, dù đói dù no, chúng tôi luôn dừng ở bát thứ hai. Tội nhất là chị Nụ. Trước đây tôi là người gắp thức ăn cho chị trong mỗi bữa cơm, nhưng về sau này tôi thực thi nhiệm vụ của mình hết sức e dè, tiết kiệm. Chị dâu ít nói. Chị dâu xoay chuyển nếp sống của cả nhà theo ý riêng của chị bằng một uy lực vô hình.

    ***

    Nắm lấy tay tôi, quơ quơ cây gậy trên con đường làng nhỏ hẹp, lẫn lộn phân trâu phân ngựa, chị Nụ bảo: "Gỗ, em đi tới nhà bà Duyên với chị. Có em, chị vững tâm hơn". Bà Duyên chuyên làm nghề mai mối ở làng tôi. Bà dẻo miệng, có thể ghép duyên giữa một anh trai thọt chân với cô gái đẹp người tốt nết nhất làng mà không ai trách móc được bà. Giúp chị Nụ nhảy qua một con suối cạn và hẹp xong, tôi hỏi:

    - Việc này sao chị không nhờ anh cả đi giúp cho đỡ khổ?

    Chị cười, vẫn nụ cười và giọng nói cam chịu:

    - Đúng ra là phải như vậy, con gái mọi nhà khác đều để mẹ đi lo việc này. Ở nhà mình thì anh cả đi là phải lẽ nhất. Chỉ có hạng con gái không ra gì, không biết xấu hổ thì mới tự đi nhờ người kiếm chồng cho mình. Nhưng phận chị mù loà, có đáng gì mà chảnh choẹ, người ta sinh ghét thêm.

    Từ nhà bà mối Duyên trở về, chị bảo tôi khoan về thẳng nhà mà ngồi nghỉ chân bên lòng suối cạn một lúc. Hai chị em vục chân trong làn nước mát lạnh, trong veo, thấy rõ từng con cá bé bằng đầu tăm trong suối bơi dạt theo nước chảy. Chị vốc nước lên vã vào mặt, cho chảy ròng ròng xuống cổ, ướt cả ngực áo và tạt nước lên rửa chân tay. Tôi nhận ra chị Nụ của mình không hèn kém chút nào như đôi mắt mù của chị. Chân tay chị thon thả, trắng ngần và đẹp đẽ hơn của chị dâu tôi nhiều. Hái một chiếc lá sơn to gấp lại như chiếc phễu, tôi vớt được con cá suối nhỏ bằng đầu đũa, bảo chị khum tay lại rồi thả chú cá vào lòng bàn tay chị. Giơ cao bàn tay chụm lại, chị yên lặng để cho dòng nước tuôn theo những kẽ tay xuống suối. Khi cảm thấy được con cá búng trong lòng bàn tay, chị cúi người trả con cá nhỏ về với suối: "Nếu như chị không mù, chị đã có thể bơi xa như chú cá nhỏ kia rồi...".

    ***

    Không ngờ mọi việc tiến triển nhanh thế. Khi bà mối Duyên đến nhà báo cho biết đã có một đám bên kia núi chịu cưới chị Duyên cho con trai họ, với điều kiện nhà gái không đòi hỏi tiệc tùng, lễ vật thì đúng vào bữa cơm tối, có anh cả và chị dâu cùng nghe.

    Anh chị hơi ngạc nhiên nhưng không tỏ ý gì đặc biệt. Chị dâu nhẹ nhàng:

    - Mừng cho cô có nơi có chốn để nương tựa. So tuổi thì cô cũng hơi cứng rồi.

    Anh cả hỏi kỹ hơn về gia đình đằng trai và bản thân người chồng sắp cưới của chị Nụ. Bà mối Duyên trả lời qua loa, bảo:

    - Bên mình đừng đòi hỏi quá. Phận cô Nụ mù loà, có người chịu cưới cho là may lắm. Tôi phải trổ hết tài khéo của một bà mối giàu kinh nghiệm ra mới xong đấy.

    Tối đó, chị Nụ không ngủ được. Chị quay sang tôi:

    - Gỗ này, không biết mai sau đời chị thế nào nhỉ? Có được như chị dâu nhà mình không?

    Tôi chưa biết nói sao thì chị đã tiếp:

    - Chắc là không. Chẳng biết xứ ấy nó ra làm sao? Đã bao giờ em thả trâu sang tận xứ ấy chưa, có giống như ở đây không?

    Tôi chưa bao giờ biết xứ ấy cả, mà cả làng tôi cũng chưa chắc ai đã một lần đặt chân đến. Một làng ở sau núi? Sau ngọn núi cao dựng đứng vây bọc thung này, còn có một làng nào đó sinh sống ư? Hiểm trở, heo hút đến thế kia mà.

    Ngồi dậy uống một hớp nước để trong chiếc ấm đất ở dưới nhà, ngay cạnh đầu giường, chị nài nỉ tôi:

    - Hai hôm nữa tới phiên chợ, em dẫn chị đi chợ với nghe, Gỗ. Chị đi không được mau nhưng chị sẽ cố, miễn là em chịu đi chậm lại một chút. Chưa bao giờ chị được biết chợ cả, chị thèm lắm. Hồi xưa, mẹ có hứa sẽ đưa chị xuống chợ một lần cho biết, nhưng mẹ không kịp...

    Tối hôm sau chị Nụ xin anh cả cho tôi dẫn chị đi chợ, chị dâu sang nhà bác họ dạm đổi đỗ giống. Anh cả vào buồng một lúc, quay ra nhét vào tay chị Nụ mấy tờ bạc:

    - Em cầm lấy, xuống chợ muốn mua gì thì bảo thằng Gỗ nó dẫn đi mua. Anh thấy hôm chị nhập dâu về nhà mình, trên đầu chị giắt nhiều những thứ gì lóng lánh, trông đẹp lắm. - Ngập ngừng một lúc, anh cúi đầu thở dài - Lẽ ra anh phải cho em nhiều hơn, nhưng chị em có thai. Sắp tới sinh em bé, hao tốn lắm.

    Rồi anh vuốt vuốt mấy sợi tóc xoà xuống trán, còn vướng tro bếp của chị Nụ, nghẹn ngào:

    - Lẽ ra anh phải đưa em xuống chợ huyện nhiều lần rồi mới phải. Suốt mấy năm qua, từ khi...

    Để lẩn tránh phút yếu lòng, anh quả quyết đứng dậy, vớ lấy bó đuốc giắt sau chái bếp, gắp than bỏ vào rồi thổi bùng lên:

    - Anh đi đón chị về. Mới mưa đường trơn lại đang có mang.

    Dù không nói ra và vẫn giữ nét mặt phẳng lặng, hiền dịu vốn có của một người mù, nhưng tôi biết chị Nụ đang hồi hộp và lo sợ lắm. Lâu nay mọi việc nhà chị đều chu toàn, dù có hơi chậm chạp, là nhờ chị đã quen với mọi ngóc ngách và những trật tự không bao giờ thay đổi của các đồ vật trong nhà. Nay chị sắp sửa về một nơi xa hút, bước chân vào một ngôi nhà hoàn toàn xa lạ, phải mất bao nhiêu tháng chị mới quen được với những ngóc ngách và vị trí đồ vật? Biết có ai trong nhà ấy tốt bụng, thương chị mù loà để cầm tay dẫn chị từng li từng tí như ngày xưa mẹ đã chỉ dạy cho chị hay không?

    Sáng ấy hầu như cả thung ngưng làm việc, nhất là các bà và đám trẻ con. Họ đứng chật sân, giẫm nát cả đám cải con mới xoè ba lá sau giếng nước, chờ đợi đến ngộp thở người đàn ông sẽ đến lấy chị Nụ mù loà của tôi về làm vợ. Chị Nụ chân mang giày mới, đầu do chị dâu bới chải cầu kỳ, dắt những món trâm cài lấp lánh mà chị đã mua ở phiên chợ hôm đi với tôi, ngồi ngay đơ trên chiếc chõng tre của chị. Bên cạnh là tay nải quần áo, toàn đồ cũ, để chị mang theo, có một bộ mới duy nhất vừa may thì chị đang mặc trên người. Khi nghe đám con nít chạy như bay ngoài đầu dốc vào, cấp báo "Chú rể tới rồi, chú rể tới rồi!" chị kêu tôi lại khẽ khàng:

    - Gỗ này, tí nữa em đừng bỏ ra ngoài đó theo đám trẻ con mà hãy ngồi đây với chị. Em cố nhìn qua kẹt cửa xem chú rể là người như thế nào, tả thật tỉ mỉ cho chị nghe với. Tỉ mỉ hơn ngày em tả chị dâu nữa. Gỗ, em là đôi mắt của chị.

    Nói đến đó chị nghĩ tới ngày mai hay sao mà hai dòng nước mắt đổ xuống chứa chan.

    ***

    Đoàn nhà trai đã vào đến ngõ. Chẳng đông đúc, rầm rộ như những đám cưới khác. Đi theo chú rể chỉ có hai người đàn ông đã đến tuổi đổ dốc, một người dắt ngựa, một người bưng quả trầu cau bé xíu, ngả màu héo hon, nằm lọt trong khay trà rượu. Cả hai người đàn ông đều có dáng vẻ thảm hại do những gì họ mang lên trên người, mặt gầy choắt và đặc biệt đôi mắt mí sụp vằn lên những tia hung ác. Tôi lo sợ cho chị mình. Con ngựa trắng đang cõng chú rể trên lưng cũng lộ vẻ già nua, đói kém. Lông nó ngả màu khói như những đám cỏ nắng táp trên đồi.

    - Chú rể của chị đã xuống ngựa, có vẻ cao hơn anh cả nhà mình. Chú rể mặc đồ mới, trông chững chạc, đường hoàng lắm.

    - Sao chị nghe ngoài sân ồn lên ghê thế? Có gì không ổn hả em?

    - Các bà đang trầm trồ về chú ngựa tuyệt đẹp của chú rể đấy. Úi chà, chú rể có dáng đi thẳng và đẹp lắm chị ạ.

    Chị nghiêng tai về phía tôi, sốt ruột:

    - Em tả cho chị nghe về nét mặt của người ấy đi. Hiền hay dữ? Có hiền như bố không?

    - Mặt anh ấy vuông chữ điền, lông mày rậm và đen, mắt sâu, trông tình cảm lắm...

    - Gỗ, sao chị nghe ngoài sân xôn xao ghê vậy?

    - Em đoán anh ấy là người nhân hậu, chị à.

    Rồi tôi còn huyên thuyên một lúc nữa, nhưng nước mắt tôi đã lưng tròng. Tội nghiệp chị Nụ của tôi! Anh rể mặc áo mới, rộng thùng thình, đoán là áo mượn. Đầu tóc anh xù lên như một tổ quạ và luôn tay đưa khăn lên chấm nước dãi liên tục đổ xuống hai bên mép. Đầu anh ngoẹo sang một bên, dựa hẳn vào vai trái. Chắc chắn anh là người bị ngớ ngẩn, đần độn. Khổ thân chị tôi biết bao! Họ còn nói một thứ tiếng mà không ai ở thung chúng tôi hiểu được. Họ khác ngôn ngữ với chúng tôi! Nếu không có bà mối Duyên thông dịch thì hai bên đàng trai đàng gái đã như hai kẻ điếc trò chuyện với nhau.

    Bỏ chị Nụ ngồi lại trong nhà, tôi lao ra sân, vẹt đám các bà bu quanh để núp sau lưng anh cả. Tôi năn nỉ:

    - Anh cả ơi, anh đừng gả chị Nụ cho họ. Chị ấy chết mất! Có gì khổ lắm, mai em sẽ dẫn chị Nụ xuống phố chợ đi xin ăn. Còn hơn...

    Anh cả ngập ngừng, lưỡng lự, nét mặt anh tỏ vẻ kinh tởm khi nhìn thấy chú rể, con ngựa và hai người đàn ông đi họ. Nhưng rồi anh bắt gặp ánh mắt của người chị dâu...

    ***

    Tự tay tôi nắm dây mũi của con trâu già dắt ra khỏi chuồng. Con trâu mẹ này do bố mẹ chúng tôi để lại, đã đẻ cho anh cả ba con nghé đực, giờ anh chia con trâu mẹ cho chị Nụ đi lấy chồng, coi như của hồi môn. Một tay gạt nước mắt, tôi đỡ chị Nụ lên lưng trâu, dưới có lót tấm chăn cho chị đi đường xa đỡ mỏi người. Lúc tôi khoác tay nải quần áo của chị lên cặp sừng cong vút của con trâu mẹ, chị quờ tay nắm lấy tay tôi, cúi đầu xuống cho má chị áp vào mái đầu khét nắng của tôi.

    - Em đừng lo nhiều cho chị, Gỗ ạ. Dù họ có như vậy, anh ta có như vậy, chị vẫn tin là chị có thể sống được ở nhà người ta. Chắc dù sao họ cũng thương một kẻ mù loà như chị mà không đòi hỏi quá khắt khe. Em có nghĩ vậy không?

    Hoá ra chị Nụ biết hết. Và chị cam chịu đón nhận cái phận hẩm hiu mà số phận đã dành cho một cô gái mù như chị.

    - Em ở lại ngoan, đừng giận anh cả, đừng oán chị dâu, Gỗ nhé. Thực ra chị dâu không xấu gì với chị em mình đâu.

    Người đàn ông bên họ nhà trai cất giọng the thé xổ ra từng hồi. Tôi đoán là ông ta giục lên đường.

    Vẫn giữ nét mặt phẳng lặng của một người mù và nét dịu hiền vốn có, chị Nụ kéo mạnh dây mũi, thúc vào lưng con trâu mẹ. Con trâu mang chị đi được một quãng rồi cứ quay đầu trở lui. Tôi chạy theo gọi: "Chị Nụ, chị Nụ nhớ về thăm em!". Chị quay đầu lại, nghẹn ngào: "Em cố lớn nhanh băng núi vượt đèo lên thăm chị, Gỗ nhé. Xa quá thế này, chắc chẳng khi nào họ dẫn chị về lại nhà mình nữa đâu".

    Tôi leo lên gốc thị cụt ngọn ở đầu thung, ngóng theo bóng đoàn người mang chị Nụ tôi đi mỗi lúc một xa dần. Trước là chú rể cưỡi con ngựa trắng xỉn màu, sau là chị tôi ngồi nhỏ bé trên lưng trâu, hai bên hai người đàn ông loắt choắt. Rồi cứ khuất dần, khuất dần, cho đến khi tôi chỉ còn nhìn thấy một chấm đỏ xa mù, đó là tay nải áo quần của chị tôi đu đưa trên cặp sừng cong vút của con trâu mẹ...
     
  6. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Nỗi buồn rực rỡ - Quế Hương

    Anh nó dúi vào tay nó thùng đồ nghề sửa xe và bảo: “Làm việc cho đỡ buồn và đỡ đói”. Thế là nó trở thành anh thợ sửa xe trước một công viên nhỏ trong Thành Nội năm nó mười sáu tuổi.
    Họa hoằn mới có kẻ xìu lốp, trật sên ngang qua đó còn thì nó nằm dài trên ghế đá, bụng đói meo, ngắm mảnh trời xanh qua kẽ lá. Có khi nó nhìn tụi học trò đi qua. Mới năm ngoái nó còn như chúng! Nó nuốt ực nỗi tủi nghẹn xuống họng và vớ cái que vẽ đầy trên mặt đất những thứ ngổn ngang trong lòng nó. Nó vẽ giỏi hơn sửa xe đạp cả triệu lần. Khi bố mẹ còn sống, nó đã từng mơ trở thành họa sĩ.

    Mùa hè đến. Có một kẻ lạ xâm chiếm ghế đá của nó. Nhánh phượng trong tay cô chói chang như ngọn lửa. Bỏ thùng đồ nghề xuống, nó nghênh chiến:

    - Đi chỗ khác. Ghế ni của tui.

    - Ơ… ghế nhà anh chắc? - Địch thủ không vừa.

    - Như… ng… t… ui… giành… tr… ước

    - Ghế công viên ai đến trước ngồi trước.

    Đuối lý, nó ngồi bệt xuống cỏ. Nếu nó tiếp tục, nó chỉ rặn ra từng chữ làm trò cười cho cô ta. Bao giờ xúc động, nó cũng cà lăm rất nặng.

    Kẻ chiến thắng mân mê nhánh phượng, loay hoay đến nỗi làm rơi. Cô bé đứng bật dậy. Nhánh phượng ngay dưới chân mà cô cứ mò mẫm, sờ soạng dọc chiều dài ghế đá. Cơn giận đột nhiên tắt ngúm. Nó biết đó là một cô bé mù.

    - Đây nì! – Nó nhặt và đưa cho cô nhánh phượng.

    - Cám ơn… Trả ghế cho… đây!

    - Không cần nữa.

    - Rứa mình ngồi chung được không?

    Lần đầu trong đời, có đứa con gái đề nghị với nó như vậy. Nó cố đẩy tiếng “được” ra khỏi miệng nhưng âm và thanh cứ lấp ló sau lưỡi nên đành đứng lặng ngó cô. Bây giờ thì nó nhận ra cô bé rất xinh. Con gái cả trường nó không ai được như vậy. Cô áp má vào nhành phượng và bỗng nhiên nó muốn vẽ hình ảnh ấy đến cháy lòng.

    - Hoa phượng màu đỏ phải không? – Ngập ngừng cô tiếp - Màu đỏ ra răng ?

    - Hắn… như… màu… lửa… màu… ớt…

    Bối rối, nó lại cà lăm. Tả là phải so sánh. Cô không nhìn thấy làm sao hình dung?

    - Đẹp lắm phải không? Phải đổi hai con búp bê len đấy.

    - Không nói tui hái cho.

    - Đã quen mô mà bảo! – Cô cười, lúm đồng tiền dễ thương chi lạ!

    - Nó còn được gọi là hoa học trò phải không?

    - Ừ.

    - Có đi học không?

    - Nghỉ rồi.

    - Răng rứa?

    - Cha mẹ tui bị… tai… nạn chết… không ai nuôi.

    - Buồn quá nhỉ! Còn em thì chưa bao giờ thấy cha mẹ em. Ba em bảo sẽ cho em chữ nổi. Đọc ri nì… - Cô làm bộ sờ vào trang sách tưởng tượng.

    Nó im lặng. Tiếng “em” ngọt ngào làm nó sững sờ. Nhánh phượng trong tay cô đỏ nhức nhối. Trong lớp nó cũng có một cây, bây giờ đang thắp lửa. Tụi con gái sẽ năn nỉ tụi con trai khèo lén. Tại sao nó vĩnh biệt mùa hè sớm thế?

    - Anh mấy tuổi?

    - 18 – Nó thêm đại hai tuổi để chắc được gọi bằng anh.

    - Lần này em đoán trúng. – Cô thở phào – Có lần em gọi một thằng nhỏ 10 tuổi bằng anh. Giọng nó như ông cụ. Nì… anh có muốn làm bạn với em không? Sáng nào em cũng ra đây chơi. Em muốn có bạn lắm nhưng… ai chơi với em cũng chán. Em mù mà!

    - Không… ch…án… mô! – Nó dứt khoát.

    - Nghéo không?

    Cô giơ ngón tay út xinh như chồi lan đợi nó. Nó chùi tay vào quần rồi lồng ngón tay mình vào đó. Hơi run.

    Ngày tháng nhẹ thênh từ khi có bạn. Nó chẳng ngồi thừ hay nằm dài nữa. Nó đến sớm, cố ăn mặc sạch sẽ hơn dù cô không nhìn thấy nó. Cô hỏi nó đủ thứ trên đời nhưng ngôn ngữ nó quá nghèo nàn để mô tả. Những khi bí, nó thường cà lăm và cô chịu khó nhặt lấy từng tiếng. Giá cô nhìn thấy, nó sẽ vẽ chúng ra. Vẽ dễ hơn tả.

    Thường cô ngồi trên ghế đá với một nhúm len vụn đủ màu. Cô biến nó thành những con búp bê len xinh xinh còn nó giúp cô sắp xếp màu sắc. Có hai đứa những con búp bê len trở nên ngộ nghĩnh hơn. Nhiều khi cô thẫn thờ, không làm, không nói. Nó biết cô buồn, len lén thả vào lòng cô tặng vật ngớ ngẩn – chiếc lá, hòn sỏi… Cô ve vuốt chúng, đôi mắt vô hồn lặng lẽ mở to. Nó đọc thấy một tiếng kêu nghẹn tắc, da diết, tuyệt vọng: “ánh sáng! Hãy cho tôi ánh sáng!”.

    Một ngày, trên đường về, nó nhặt ở đống rác một chú mèo con gần chết. Một tháng sau, nó tặng cô. Con mèo vàng hơn nắng, trắng hơn tuyết, óng ả, mượt mà, bé bỏng và bàn tay cô cảm nhận được điều đó. Cô mừng đến nỗi không nói thành lời, chỉ chìa tay cô cho nó. Nó nắm lấy bàn tay thật xinh ấy, viết vào lòng bàn tay chữ mèo. Cô ngẩn người còn nó cắt nghĩa:

    - Tên hắn viết rứa.

    - Anh viết lại đi. Thật chậm – cô hồi hộp.

    Nó lặp lại từng nét rồi cầm tay cô viết vào lòng bàn tay nó. Sáng đó hai đứa không làm chi nữa ngoài chữ mèo. Chúng bò lổm ngổm trên mặt đất, chữ nọ chồng chữ kia nhưng cô sung sướng không tả xiết. Cô bảo: “Anh sẽ dạy em viết tên em, tên anh, tên mọi thứ quanh mình chứ?”. Nó trở thành thầy lẫn thợ trong suốt mùa thu, một mùa thu có “em ngồi đây tóc ngắn và mùa thu rải nắng ở chung quanh”. Học trò nó rất ham học. Nó mua cho cô phấn, bảng con và tập cho cô viết các chữ cái. Ngày cô ghép chúng là một ngày quan trọng. Cô ngồi trang nghiêm, bảng cầm tay. Nó hái một ngọn lá đặt vào tay cô rồi xướng to: “L… a… la… sắc lá…”. Cô nghiêng đầu lắng nghe như hứng từng âm thanh trước khi chúng rơi xuống mặt bảng. Chữ L và chữ A run rẩy chồng lên nhau hoặc có khi xa nhau cả quãng, dấu sắc lọt thỏm ở giữa nhưng cô bé thì tái nhợt vì xúc động. Thế giới tối tăm và tĩnh lặng của cô bị xáo trộn. Mọi vật không im lìm nữa. Chúng rạo rực dưới tay cô, hăm hở kêu lên: “Viết tên em đi! Tên em nữa! Em nữa…!”.

    Cô say sưa viết còn nó lặng lẽ vẽ khi không có việc. Con mèo luẩn quẩn bên cạnh học vồ những chiếc lá rơi. Đó là những ngày êm đềm nhất của nó từ khi cha mẹ nó mất. Nó vẽ những ngày vui ấy vào một quyển vở, vẽ cả ước mơ của cô và của nó. Trong đó dĩ nhiên cô hết mù và nó cũng hết làm thợ sửa xe. Nó đã quen việc nhưng không quen ý nghĩ làm anh thợ sửa xe suốt đời. Trong giấc ngủ nó cũng vùng vẫy thoát khỏi số phận.

    Mùa đông đến, vô cùng khắc nghiệt đối với người nghèo. Công viên vắng tanh. Khách không có, cô bé mù không đến. Nó co ro, môi thâm tím vì lạnh nhưng không bỏ đi chỗ khác. Kết quả nó ốm một trận nên thân. Khi nó đi làm lại, lác đác đã có người đến bán mai ở công viên, những cành mai đầy nụ phong kín nắng tháng chạp. Nó chờ hoài, chờ hoài nhưng cô bé mù bạn nó vẫn không đến. Những gì còn lại của cô là một con búp bê len, lem luốc, ẩm ướt, gần như vùi trong lớp lá.

    ***

    - Đi thôi em. Bức tranh có gì đâu mà xem hoài!

    - Nhưng em thích. Không biết có phải vì màu hoa chói chang như lửa đó không?

    - Hoa phượng đó mà!

    - Hoa phượng ư? Ôi hồi nhỏ em đã đổi hai con búp bê len lấy một nhánh hoa nhỏ xíu. Em đã thèm thấy nó xiết bao!

    - Hè đến tha hồ thấy. Chỉ cần đến một trường học.

    - Nó là hoa học trò phải không?

    - Ừ. Đi thôi!

    Nhưng người đàn bà đẹp, khá sang trọng cứ đứng chôn chân trước bức tranh vẽ một cô thiếu nữ ngồi trên ghế đá, áp má vào nhành phượng. Hoa phượng hắt cả nỗi buồn rực rỡ lên khuôn mặt cô. Bức tranh lạc lõng giữa đám bạn bè bí ẩn, xa xôi, đại diện cho các trường phái, khuynh hướng, chiếm một góc lẻ loi nhỏ bé ở tận cuối phòng. Có phải mùa hoa chói chang và nét buồn khôn tả của thiếu nữ trong tranh đã níu chân bà lại hay tại cách áp má vào hoa của cô ta quen thuộc quá chừng? Càng nhìn, những cánh hoa dường như càng xoè to, lập loè. Hàng mi dài như hai vệt tối của cô thiếu nữ động đậy, trào ra lai láng nỗi buồn. Hoa phượng rực rỡ, tuổi thanh xuân rực rỡ mà sao bức tranh vẫn buồn khôn tả. Bà nhắm mắt lại. Màu hoa vẫn sáng rực trong bóng tối. Khi bà mở mắt ra, một mùa hè xa xôi bỗng thức dậy, chói chang kỷ niệm. Bà tưởng như thấy một người nữa trước cô bé, một người bà chưa hề biết mặt. Người ấy xướng to: “L… a… la… sắc lá” bằng một âm sắc mà ngần ấy năm trời bây giờ bà vẫn nghe rõ dường như hôm qua. Bà ngửi thấy mùi hoa phượng hăng hắc, cả mùi dầu mỡ phả ra từ hoài niệm. Hai mươi năm. Đủ để làm nên phép lạ cho đời bà. Bà được đi xa chữa mắt. Được… Được… Nhưng còn người ấy?

    - Đi em!

    - Chút nữa!

    - Nếu em thích quá thì anh hỏi mua vậy. Họa sĩ ơi!

    Trong một góc, cái đầu bù xù động đậy.

    - Bức tranh vẽ cô gái với nhành phượng giá bao nhiêu? Không thấy đề giá.

    - Bức đó à? Tại sao không là bức khác?

    - Tại vì vợ tôi thích.

    - Nhưng bức đó không bán.

    - Bao nhiêu tôi cũng mua.

    - Rất tiếc. Đó là tranh người ta gửi.

    - Ông làm ơn cho tôi… gặp người ấy được không? - Người đàn bà xen vào.

    Người họa sĩ đứng tuổi có khuôn mặt mệt mỏi, nhàu nát nhìn người đàn bà chăm chú rồi thở dài:

    - Cả tôi cũng không biết bây giờ anh ta ở đâu, còn hay mất. Anh ta không phải là một họa sĩ nhưng anh ta vẽ dễ dàng như người ta thở. Chúng tôi tình cờ quen nhau. Thỉnh thoảng anh ta đến xem tôi vẽ. Rồi một ngày anh ta bỗng đem gửi tôi bức tranh này. Đó là tác phẩm sơn dầu đầu tiên của anh ta nhưng nó khá quá chứ. Chỉ với kỹ thuật thôi không thể được như thế. Tiếc là không có bức thứ hai!

    - Tại sao thé?

    - Anh ta gửi rồi đi… Đã nhiều năm rồi không trở lại. Tranh chẳng ai hỏi mua mà có hỏi mua tôi cũng chẳng nỡ bán. Đó có thể là tác phẩm đầu tiên và cuối cùng của một người. Giá bà nhìn thấy anh ta lúc gửi gắm cho tôi nửa tâm hồn anh ta nhỉ?

    Họa sĩ nhìn ra đường, ánh mắt xa xăm:

    - Bà thấy kia! Dòng đời như nước. Ai biết anh ta bị cuốn về đâu?

    Người đàn bà lặng lẽ khóc. Bà đã quen lối khóc không trào lệ cả thời thơ ấu tối tăm.

    - Nếu bà còn thích, một năm nữa bà quay lại. Tôi giữ thế cũng đã lâu rồi. Một năm nữa anh ta không trở lại, tôi sẽ trao nó cho người biết trân trọng nó.

    - Dạ.

    Tiếng “dạ” nhỏ nhẹ, thẫn thờ rút ra như tiếng thở dài khép lại cuộc đối thoại. Nó cũng mênh mang, bất định như cuộc đời. Người đàn bà đứng trước bức tranh với một dáng vẻ khiến người họa sĩ già không thể không phác họa bằng mắt. Bà lặng lẽ từ biệt nỗi buồn rực rỡ rồi đi ra khỏi phòng tranh.

    Họ đi rồi. Họa sĩ cảm thấy trống trải. Ông nhìn những bức tranh. Chúng cũng lặng lẽ nhìn ông, thì thầm trong vô thanh. Chụp lấy mũ, ông lê những bước chân cô đơn, mệt mỏi trên hè phố và mất hút trong dòng người nặng trĩu vui, buồn, bất an…
     
  7. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Cõi Linh - Lê Công


    Ẩn dưới chân núi Liang, dãy núi chạy dài theo bờ biển đến đây thì ǎn ra tận ngoài khơi, chia thành nhiều đảo nhỏ. Làng Trẻn trông như một con hổ xám khổng lồ không hề khuất phục trước những cơn đổ lửa của mặt trời thiêu đốt hoặc những trận cuồng phong của bão biển. Về mùa hè dân làng Trẻn còn phải chịu những cơn gió tây nóng rát chỉ còn chui vào bụi rậm mà nằm thoi thóp.

    Như vạn vật sinh ra trên đời, hắn có một cái tên: thằng Lù. Lù là lù mù, lờ mờ. Mẹ hắn bảo thế. Chẳng biết cha hắn vì bất đắc dĩ sinh ra hắn hay vì lẽ gì mà gọi hắn là Lù. Mọi đứa con sinh ra trên cõi trần đâu phải đều có chủ định. Lù luôn luôn tự hỏi mình là ai? Nguồn gốc của mình như thế nào. Tại sao cha mình không kể cho mình biết?

    Bất chấp nắng gió. Lù lớn lên như một mãnh hổ. Da dần sùi như da trâu. Tóc quǎn tít. Trán đóng chữ thập mỗi khi nhướn mày lên. Môi cắt ra có thể làm được một bữa nhậu. Lưng hắn như tấm phản. Giọng nói ồm ồm như nước chảy vào thùng rỗng. Hắn đi đứng khệnh khạng. Mặt lúc nào cũng cúi gằm xuống đất.

    Âm điệu giọng nói của Lù cũng như âm điệu giọng nói của làng Trẻn chính là do ǎn mắm. Làng này có cái lạ, cá mú để ươn bao giờ cũng đắt hơn cá tươi. Những người dân chài đến bán cá thường ngạc nhiên về dân làng Trẻn chọn mua những con xể ruột. Làng Trẻn làm nước mắm hoàn toàn khác với dân vạn chài. Họ mua cá ươn, ướp muối rồi bỏ vào vại. Dùng một tấm đan tròn bằng nứa ép lên trên, dằn đá rồi phơi ra nắng. Họ đặt chính giữa một cái ống nứa gọi là "lù" để chắt nước mắm ra ǎn mỗi ngày. Nhà nào cũng có một vại mắm để trước sân. Những ngày đẹp trời vạn chài được cá thì làng Trẻn cũng sặc mùi nước mắm. Mùa đông hoặc những nǎm mất mùa cá, làng Trẻn còn muối cả chân trâu, lợn, gà làm mắm. Bây giờ vạn chài sản xuất đủ loại nước mắm kể cả mắm viên nhưng làng Trẻn chỉ thích ǎn thứ nước mắm do chính tay mình muối. Thứ nước mắm mà Lù nhớ mãi, khi thả miếng thịt lợn luộc vào bát nước chấm mới chắt từ vại ra, lật qua lật lại cho mắm thấm đều vào mỗi thớ rồi thả tõm vào miệng nhai ngồm ngoàm đến đâu, chất béo trộn với vị đậm đà của mắm tan vào lưỡi ngất ngây đến đó.

    Hết chiến tranh, ông Sáng, cha của Lù trở về cày ruộng nuôi con. Với ông cuộc sống đã an bài. Tương lai chỉ nhìn vào người con trai đã lớn. Nhưng thằng Lù con ông thật lạ lùng. Ba tuổi, nó đã cào em chảy máu. Nǎm tuổi, nó cắn bạn cùng lớp đứt thịt không gớm mồm. Mười tuổi thì bơi với con Xuân, một con bé "mò cua bắt ốc" nổi tiếng bơi giỏi của làng. Hắn không bơi mà lặn xuống đáy sông tụt quần con Xuân rồi lên bờ ngồi, làm con bé khóc sướt mướt về mách cha mẹ nó. Ông Sáng buộc phải đến trực tiếp gặp thầy Nho, chủ nhiệm lớp bốn, nhờ kèm cặp cho Lù. Được ba bữa, thầy Nho đến bảo: "Thằng Lù lười học lắm. Lúc nào cũng chực ngồi, chực đứng, chực đi. Bài vở chẳng chịu làm". Ông Sáng dùng roi mây quất nó và bảo:

    - Muốn nên người thì phải học hành tử tế!

    Thằng Lù vẫn không chịu học. Chữ như gà bới, viết trang sau, xé trang trước. Vở lúc nào cũng nhàu nát. Nghe thầy Nho bảo, mặt hắn vằn lên những đường gân trắng. Chữ thập ở trán sâu hoắm. Môi hắn trề ra quá cằm. Ông Sáng quát: "Mày muốn đi học hay đi cày?". Hắn bảo: "Đi cày!".

    Ông Sáng bắt Lù mỗi ngày phải cày một thửa ruộng. Hắn hỏi một người làm thế nào để điều khiển được bò. Người ta bảo: "Phải hô "tắc, hò, rì". Hắn bảo: "Tắc, hò, rì là cái quái gì?" Xem người ta cày, hắn thấy "tắc, hò, rì" chẳng qua là bắt con bò rẽ phải, trái, và đi thẳng. Hắn bảo: "Gọi cha nó phải, trái, tiến cho xong". Hắn liền đập bò ra ruộng và cứ hô: "Phải, trái, tiến!". Con bò chẳng biết đi đường nào. Hắn liền dùng roi vọt quất vào mông con bò hằn lên những con chạch. Con bò đau quá bươn thẳng, kéo cả cày lẫn người ngã chổng khoèo. Cày thì gãy mà hắn thì bị sái chân. Hắn bò dậy nắm lấy dây thừng lần tới cái "trẹo" bằng ngọn hóp xuyên qua sóng mũi bò, giật mạnh làm con bò đứng ngắt.

    - Tao phải sống mái với mày!

    Hai tay hắn cầm lấy hai sừng con bò, chân cố gắng bám vào mặt đất. Lấy hết sức bình sinh, hắn vặn cổ con bò. Chú bò thuần mới đầu tưởng thằng bé giỡn chơi. Đến khi đau quá chú mới lật lại, húc vào thằng bé. Con bò và Lù đẩy tới đẩy lui. Biết mình không thắng nổi, hắn tháo lưỡi cày xỉa mạnh vào đầu con bò, bị trúng thóp bò quỵ xuống sùi bọt mép, đến đêm thì chết.

    Trước khi xử tội Lù, ông Sáng hỏi hắn một câu:

    - Mày không chịu học, cũng không biết cày ruộng, thì mày định làm gì?

    - Đi sǎn!

    Ông Sáng giật thót mình. Điều ông chôn chặt bấy lâu bỗng bùng dậy. Ông đã thường kể chuyện với con về sự trả thù của các loài thú. Ông đã nhắc đi nhắc lại với con trai hàng trǎm lần rằng: "Thú rừng cũng như người, chúng ham sống. Chúng cũng biết đau, biết giận và biết cǎm thù". Thế mà Lù không chịu nghe, bây giờ hắn lại hoác mồm ra bảo muốn đi sǎn...

    Để trừng trị tội giết chết con bò mộng và đề phòng Lù bỏ trốn lên rừng, ông Sáng trói hắn vào cột nhà. Hàng ngày bảo mẹ hắn chỉ cho ǎn một bát cơm, một ngày thả ra vài phút cho đến lúc nào hắn chịu thề hai điều: Một là không gây tội ác đối với bất kỳ một con súc vật nào trong nhà. Hai là cấm không được đi sǎn. Đến ngày thứ mười hắn vẫn không chịu thề. Người hắn gầy rộc chỉ con da bọc xương nhưng mắt hắn vằn lên tức tối. Cuối cùng ông Sáng phải thả hắn ra mặc dù hắn câm miệng. Tuy vậy ông dọa hắn nếu mò vào rừng thì ông sẽ chém. Nhưng chẳng bao lâu Lù đã biến khỏi làng.

    * * *

    Ông Sáng bảo vợ chuẩn bị tay nải để ông lên đường đi tìm con trai. Ông biết chắc chắn thế nào thằng Lù cũng đi tìm hổ-loại thú dữ được mệnh danh là chúa rừng xanh để đối chọi. Ông Sáng mang một bao tượng gạo, một ống muối mè. Mè của ông làm rất công phu. Rang giòn tỏa ra mùi thơm phức, cho vào cối bằng gỗ ổi giã. Gỗ ổi cứng hạt vừng bị chà xát biến thành bột mịn thả vào lưỡi tan ngay. Muối ông cũng dùng loại muối kết tinh bằng hạt đậu sáng lấp lánh, rang khô nổ lép bép, giã nhỏ trộn với mè thật đều, mỗi ngày chỉ cần ǎn hai muỗng mè là đủ chất. Ông Sáng quyết định đi về phía rừng Liang.

    Rừng Liang bây giờ cũng ít cây cối. Thú dữ vẫn còn nhưng ít hoạt động. Ông Sáng đi vào khu rừng mà cha ông chết ở đó. Ông lấy hương ra thắp. Bó hương bỗng cháy vụt lên thành một ngọn lửa. Trong ngọn lửa đó hiện lên mặt người đàn ông không có mắt. Bộ mặt bị cào cấu, vết máu đen lại khô cứng. Ông Sáng cố trấn tĩnh xem hình ảnh đó là thật hay mình tưởng tượng ra. Phải rất lâu bộ mặt đó mới biến mất.

    * * *

    Hồi ấy ông Sáng mười tuổi. Ngoài nghề trồng trọt, trai làng Trẻn còn nghề đi sǎn. Lão Mơ, cha đẻ của ông Sáng là một tay bắn cung thiện nghệ. Mỗi cuộc đi sǎn dù trai làng thất bại lão vẫn hạ được con nai, con đỏ, chưa bao giờ chịu về tay không. Mỗi mùa sǎn lão hạ được vài chục con thú.

    Những con gấu chó khỏe như Min, lão chỉ cần bắn một phát tin tim. Thợ sǎn làng Trẻn hiếu thắng nhất vùng. Họ tôn vinh lão Mơ làm thủ lĩnh. Vũ khí bấy giờ chỉ là tên, nỏ. Lão Mơ có cây nỏ siêu hạng, cánh cung bằng giang già. Dây cung bằng da Min do ông nội Sáng làm khi ông sǎn được con Min lớn nhất rừng Liang. Những thợ sǎn khác khó lòng mà giương nổi cung của lão nhưng lão Mơ chỉ giương một cái là được ngay.

    Để truyền nghề cho con trai, lão Mơ cho Sáng đi vào rừng mỗi chuyến sǎn. Khi đội sǎn đuổi theo những mãnh thú thì Sáng tìm những con nai tơ, đùa giỡn với chúng. Bỗng một con hổ vằn xám xuất hiện. Hai mắt nó mở to nhìn Sáng. Những chiếc rǎng nanh của nó như lưỡi cuốc chim. Sáng lạnh toát người chỉ biết đứng nhìn chằm chằm vào mắt hổ. Con hổ bỗng quay đầu bỏ đi. Sau này Sáng mới nghe dân làng kể, loài hổ rất sợ ánh mắt người nhìn vào mắt nó.

    Mùa sǎn nǎm ấy lão Mơ quyết tâm hạ con hổ vằn xám chuyên đi mây về gió. Tiếng gầm của nó làm đám thợ sǎn hạ đẳng sợ vãi linh hồn. Những tay thợ sǎn nổi tiếng nơi khác đều không dám động đến nó. Họ bảo rằng nếu bắn con hổ xám vằn thì không những mạng phải đổi mạng mà con cháu sau này cũng phải gánh chịu hậu quả vì sức mạnh của "ông ba mươi".

    - Tại sao phải giết nó hở cha? - Sáng hỏi.

    - Vì nó là chúa tể của muôn loài, ta phải giết nó mới trở thành người hùng làng Trẻn.

    Lão Mơ không sợ hổ, tuy vậy cũng không dám giáp mặt nó. Lão phải dùng mẹo. Sau một tháng dò dẫm đường đi lối về của hổ xám vằn, lão bắt đám thợ sǎn đào gấp gáp một cái hố sâu chừng thước, rộng vừa đủ để con hổ rơi gọn xuống hố. Lão cắm dày đặc chông tre, thứ tre già, vàng hươm, đặc ruột, lão vót nhọn, khắc ngạnh để khi đâm vào là không rũ ra được. Sau đó lão đậy miệng hố bằng những cành khô, mục, dễ gãy, phủ lá rừng lên mặt không để lại dấu vết. Sáng nói:

    - Con tưởng người hùng là tay không bắt hổ như Võ Tòng chứ cha?

    - Thằng nhãi này, con người hơn con thú là biết dùng mẹo chứ! - Lão Mơ quát.

    Con hổ vằn đi mây về gió gần nửa tháng thì trúng bẫy. Nghe tiếng gầm gào xé, đau đớn của con hổ, lão Mơ nhảy lên sung sướng. Lão dẫn Sáng tới xem. Con hổ sau khi vùng vẫy tìm cách thoát nạn đã bị chông tre đâm dày đặc lên mình. Nó kiệt sức đang nằm thoi thóp. Lão không manh động, mà trở về làng gọi đám thợ sǎn. Tất cả phải mang theo cung nỏ. Đến nơi, lão hết sức ngạc nhiên không hiểu con hổ bị trọng thương ấy làm cách nào mà thoát khỏi hố sâu, chỉ để lại một vệt máu dài trên đất. Lão Mơ lần theo vết máu lùng tìm con hổ. Sáng níu lấy tay cha bảo: "Tha cho nó đi cha!". Lão Mơ trợn mắt: "Đồ nhãi biết gì. Xéo! Khỏi vướng chân!" Lão Mơ xô Sáng ngã rồi lò dò quan sát xung quanh khi đã mất vết máu, chợt giật mình khi thấy trong đám lá của mấy cây rừng thấp lè tè, đôi mắt con hổ vằn xám đang mở trừng trừng nhìn lão. Lão ra hiệu cho đám thợ sǎn dàn hàng ngang, giương cung về phía con hổ.

    - Nhằm vào nó, bắn!

    Tiếng hô vừa dứt. Tên bay rào rào. Bỗng một luồng gió mạnh hơn bão táp ùa về phía lão Mơ, xô lão ngã xuống. Con hổ với sức bình sinh đã phóng ra chính xác đến kinh hãi, hai cặp móng trước móc vào đôi mắt lão Mơ. Cặp vuốt sau cặp vào xương chậu. Lão Mơ vật vã nhưng không thể thoát ra được. Con hổ đã chết khi vồ được lão Mơ vì ngấm thêm thuốc phát tên hiểm của lão. Đám thợ sǎn cố hết sức lôi xác hổ ra khỏi lão. Bộ vuốt trước đã móc sâu vào mắt lão vì vậy khi kéo ra hai tròng mắt lão cũng phọt theo. Bộ móng sau cào gãy bốn cái xương của lão. Sáng lao tới ôm lấy lão khóc: "Cha!"...

    - Bảo đám thợ sǎn moi tim con hổ cho ta ǎn! - Lão Mơ thét lên. Đám thợ sǎn cố hết sức moi tim hổ nấu cao. Một tay thợ sǎn lấy bộ móng treo trong nhà để rǎn đe con cháu bỏ nghề đi sǎn. Sáng vẫn trong trạng thái mộng mị. Cậu không ngờ rằng cha cậu lại chết đau đớn như vậy.

    Hàng đêm sau đó, Sáng cứ nghe tiếng hổ gầm ngoài mộ cha. Con hổ cái đánh hơi về làng. Dân làng kinh hãi không ai dám ra khỏi nhà. Khi không nghe tiếng hổ nữa, mọi người ra thǎm thì mộ lão Mơ bị bới tung. Xương thịt tanh bành, vương vãi khắp mọi nơi. Con hổ cái đã trả thù lão đến tận cùng. Dân làng lượm lặt từng mẩu xương, cất cho lão ngôi mộ khác. Từ đấy làng Trẻn bỏ nghề đi sǎn...

    * * *

    Gần một tháng, hết lội rừng lại đến các bản làng ven sườn núi để hỏi tin tức về thằng Lù, ông Sáng vẫn chưa gặp được nó. Ông chỉ biết rằng con ông đang lao vào một cuộc mạo hiểm. Đến đâu cũng nghe dân làng kể về đội sǎn của thằng Lù giết quá nhiều thú rừng. Chúng nó bắn bất kỳ con thú nào chúng gặp, lột da, nhồi bông đưa về thành phố bán. Nhiều đứa đã làm giàu nhờ sǎn gấu, hươu, nai và khỉ. Có tên bắn chết cả con tê giác quý hiếm. Có người kể, thằng Lù giết thú không gớm tay, không phải vì lợi mà để thỏa mãn tính ngông cuồng, khát máu của hắn. Hắn còn bảo phải giết được chúa tể của rừng xanh bằng một phát súng trường. "Phải ngǎn chặn hắn". Ông Sáng lẩm bẩm.

    ở một hẻm núi phía Tây rừng Liang nơi Lù cắm trại, Lù đang xách khẩu súng trường ra ngắm nghía. Già làng ở Krông-Knô kể, có con hổ xám thỉnh thoảng qua lại nơi đây, lúc ẩn, lúc hiện như một bóng ma. Lù không cho bất kỳ một tay thợ sǎn trong đội theo. Hắn muốn một mình sống mái với con hổ. Lù chuẩn bị súng ống thật cẩn thận. Loại súng trường hắn dùng là thứ vũ khí từ thời chống Pháp. Súng này chỉ bắn từng viên một. Bắn được rất xa và chính xác. Nhồi đạn vào súng, hắn đi ra khu rừng nơi già làng bảo con hổ thường đi qua. Hắn tìm một chỗ tương đối an toàn, thuận tiện, phục chờ.

    Màn đêm bắt đầu buông xuống với núi rừng Liang. Từng lớp sương mờ ở đâu xuất hiện rất nhanh trong các bụi cây. Rừng ở đây khác hẳn rừng nơi khác mà Lù đã đến là quá nhiều vắt. Buổi chiều Lù đã chuẩn bị hai hộp dầu cù là. Loại dầu này bôi vào chân làm vắt sợ mùi không dám bám. Hễ hết mùi là vắt lại bám chặt rứt không ra. Đêm ở đây cũng dày đặc hơn. Mặc dù đã chuẩn bị đèn sǎn, loại đèn pin chóa to, xài đến sáu cục pin vị chi là chín vôn nhưng tầm soi vẫn quá ngắn. Nếu con thú xuất hiện ở xa thì cũng khó nhận ra.

    Bỗng có tiếng gió ào ào rồi lá rừng xào xạc. Lù nghĩ chắc con hổ đang đến. Hắn không bật đèn vội mà cǎng tai ra nghe ngóng. Tuy trời tối nhưng mắt hắn cũng nhìn được trong phạm vi bán kính vài mét. Quả thực có tiếng quất vun vút trong gió. Đúng là hổ rồi. Lù để ý xem nó đi từ hướng nào. Cố gắng đoán định thật chính xác rồi bấm đèn pin. Bấy giờ khoảng cách chừng mười thước, một con hổ xám hiện lên. Nổi bật là đôi mắt đỏ, chói sáng của nó. Con hổ dài độ mét bảy, to lớn, dữ dằn. Vằn xám của nó chạy dài tới đuôi. Con hổ rất manh động vì vậy Lù phải nằm yên chờ cơ hội giương súng lên chĩa vào giữa hai đốm sáng màu đỏ. Loài thú này phải hết sức bình tĩnh, để nó thấy súng nó sẽ bỏ chạy và khó có thể gặp nó lần thứ hai. Cuối cùng thì Lù cũng đã nâng được súng lên.

    - Đòm!

    Phát đạn của Lù xé toạc không khí. Con hổ ngã xuống nhẹ tênh khiến Lù cũng ngờ vực. Chẳng lẽ mình bắn "tin" đến như vậy sao. Lù phải leo lên cây, bấm đèn pin xuống quan sát. Đúng là con hổ đã chết nằm bất động. Nhưng sao hình dạng của nó quái lạ thế kia. Lù nhảy xuống đất lò dò tới gần. "Ma quỷ gì thế này!". Hắn thấy lạnh cả gáy. "Người!" Ta đã bắn nhầm người. Hắn định tìm cách phi tang nhưng vừa chạm vào hắn đã bủn rủn cả chân tay. "Trời ám hại ta rồi. Cha ơi!...".

    Ông Sáng bị bắn xuyên ngực trái, ra nhiều máu và kiệt sức, Lù dìu cha về trại. Sau khi cứu chữa cho cha, hắn đưa ông về làng. Lù bây giờ đã chịu cày ruộng. Làng Trẻn sản xuất nhiều gạo tám thơm. Họ lại mua cá ươn vạn chài làm nước mắm. Làng xóm thanh bình. Ông Sáng bây giờ đã già yếu. Chỉ có Lù là khỏe như vâm. Tấm lưng trần luôn bóng nhẫy. Cơm ǎn ba đọi, nước chè mọi uống ba vò. Hắn đang là trụ cột của cả nhà.
     
  8. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Nước Trong Nguồn - Trần Hồng Long


    Hôm đó là một chiều cuối tháng giêng. Tôi vừa ở đằng nhà máy chà gạo của ông già vợ tôi về, chưa kịp nghỉ ngơi thì có tiếng gọi ở ngoài sân: "Cậu ơi! Làm ơn cho tôi hỏi thăm một chút!". Tôi bước ra ngoài thì thấy một người đàn bà chừng năm mươi tuổi, tay xách một chiếc xách đệm - hoàn toàn không phù hợp với dáng vẻ quý phái của bà trong bộ đồ bà ba màu tím than bằng gấm ngoại nhập đắt tiền làm tôn thêm làn da trắng và gương mặt thánh thiện như Đức bà Maria của bà. Tôi hỏi: "Thưa, bà muốn hỏi thăm gì ạ?". Bà không đáp mà cứ đăm đắm nhìn tôi, rồi bước vào đối diện với tôi, môi lắp bắp: "Khanh! Con có phải là thằng Khanh không?". Tôi ngạc nhiên lẫn ngờ ngợ: "Bà là...?". "Má đây! Con không nhận ra má sao Khanh?". Bà buông rơi cái xách, giang hai tay ra định đón tôi, để ôm lấy tôi. Nhưng tôi đã lùi lại tránh vòng tay thân ái của bà, mặc dù lúc ấy ký ức của những ngày thơ trẻ sống bên bà đã cho tôi biết bà là má của tôi. Tôi nhếch môi cười, không ra vui cũng không ra buồn: "Bà là má của tôi thật sao?". Bà vừa gật đầu, vừa đưa tay chặn nước mắt: "Thật, má là má của con, của thằng Kha, con Vy, con Thắm đây!". Tôi gằn giọng mai mỉa: "Bà mà còn nhớ tới ba đứa nó nữa à?". "Làm sao mà không nhớ được hả con? Các con là núm ruột của má mà!". Tôi bảo: "Thôi bà vô nhà đi! Chuyện dài lắm, để từ từ tôi kể cho mà nghe, đã hơn hai mươi năm rồi còn gì!"...

    Năm 1976, nhà tôi ở một vùng ngoại ô thị xã. Ba tôi chạy xe đạp ôm, còn má tôi thì bán xe nước mía dạo. Nhờ sự cần cù của ba má tôi, nên cũng đủ cho bốn anh em tôi đắp đổi qua ngày. Nhưng rồi định mệnh đã giáng xuống gia đình tôi. Chiều hôm ấy, ba tôi đang trên đường đạp xe về nhà sau một ngày cật lực mưu sinh thì bị một chiếc honda chạy ngược chiều tông phải. Kẻ gây tai nạn vô lương tâm đã rồ ga bỏ trốn, để lại ba tôi nằm ngất lịm bên đường. Những người dân tốt bụng đã đưa ba tôi vào viện cấp cứu... Hậu quả là ba tôi bị gãy cột sống, phải nằm bệnh viện mấy tháng liền. Để có tiền chữa trị cho ba tôi, mới đầu má tôi bán cái xe nước mía, sau thì bán luôn căn nhà. Vì ba má tôi đều là những đứa trẻ mồ côi lớn lên từ cô nhi viện, không có họ hàng để nương tựa, nên phải thuê nhà của dì Ba - một gái goá hàng xóm khá thân thiết với má tôi, làm nghề bán thuốc lá dạo ngoài bến xe - ở tạm, với giá rẻ như là cho không. Rồi ba tôi xuất viện trong trạng thái bất động toàn thân. Tiền bán nhà đổ vào thang thuốc cho người bệnh, cộng với năm miệng ăn của người lành chẳng mấy chốc đã hết. Má tôi đổ bánh bò đi bán dạo. Bạn thử nghĩ xem, một xề bánh bò hằng ngày thì làm sao có thể nuôi nổi một gia đình những sáu người? Vì vậy, chuyện chúng tôi ăn khoai, ăn cháo trừ cơm là chuyện thường. Trong lúc đói khổ như vậy, bỗng đâu có người đàn ông lạ đến ngỏ ý giúp đỡ má tôi một số tiền, nhưng má tôi nhất mực từ chối. Sau này, tôi được biết, ông ta là người tình cũ của má tôi. Vì chê má tôi là đứa con gái mồ côi mà ba má của ông ép ông phải cưới một cô gái khác, nhưng cuộc hôn nhân ấy không mang lại hạnh phúc cho ông, nên ông đã ly hôn. Vậy rồi, có một chiều má tôi đi bán bánh bò và đi luôn mấy ngày không về. Anh em tôi ngồi quanh giường ba khóc hết nước mắt. Còn dì Ba thì đi tìm má tôi khắp nơi. Một hôm vừa bước vào nhà thì dì đã la chúng tôi: "Tụi bây đừng có ở đó mà khóc lóc nữa. Nó đã bỏ tụi bây đi theo thằng chả mất rồi". "Chị nói cái gì hả chị Ba? Vợ tôi đã đi theo thằng ấy rồi à?". Ba tôi hỏi dì mà như hét. Dì Ba nói: "Thì hồi nãy tôi đến nhà thằng chả, để nhờ thằng chả đi tìm má tụi nó tiếp tôi thì mới hay thằng chả đã bán nhà một tuần nay rồi. Má tụi nó không đi theo thằng chả thì theo ai chớ? Thiệt là, tình cũ không rủ cũng tới, chứ đừng nói chi đã rủ!". Không biết ba tôi có nghe hết những lời dì Ba nói hay không mà đôi mắt ông đã khép chặt lại. Và, cũng kể từ đó trong tâm thức tôi không còn chứa đựng hình bóng yêu thương của một người mẹ tần tảo sớm hôm, mà chỉ tồn tại sự thù ghét căm hờn đối với một người đàn bà đã đoạn đành bứt lìa những núm ruột của mình, chỉ vì một người đàn ông.

    "Con hãy kể về cuộc sống của con, của các em con cho má nghe đi Khanh!". Tôi nói: "Chỉ e rằng bà không đủ can đảm để nghe thôi! Bà có biết không, khi ba tôi chết được hai ngày thì con Thắm bị nổi trái rạ, dì ba không có tiền đưa nó đi bệnh viện mà chỉ xin thuốc của mấy ông thầy lang. Trị hoài không hết, toàn thân nó lở loét đầy máu mủ đến nỗi không thể nằm trên chiếu được, tôi phải cắt lá chuối lót lưng cho nó, được ba hôm thì nó chết. Trước khi chết, nó còn khóc gọi má ơi!". "Thắm ơn, con chết thật rồi sao hả Thắm? Bà gào lên rồi lảo đảo khuỵu xuống nền nhà. Tôi đỡ bà đứng lên và dìu bà lại ghế ngồi, rót cho bà ly nước mát.

    Sau khi con Thắm chết mấy tháng thì dì Ba cho thằng Kha cho một ông chủ lò bánh Pía ở ngoài thị xã - ngày người ta đến dẫn thằng Kha đi, tôi và con Vy cố giành giựt nó lại nhưng không được. Người ta cho dì Ba một số tiền, dì bèn làm vốn nhảy dù gạo lên Sài Gòn. Mấy chuyến đầu trót lọt, nên dì gom hết cả vốn lẫn lời đánh lớn một chuyến mong có tiền bắt lại thằng Kha. Nhưng không ngờ chuyến ấy đứt dù, trắng tay. Dì định cho tiếp con Vy, tôi nói nếu dì cho con Vy thì tôi sẽ dẫn nó bỏ nhà dì đi bụi. Dì còn dùng dằng chưa quyết thì may sao có người bà con của dì ở quê lên chơi bảo rằng sẽ làm mai cho dì một ông sồn sồn đã chết vợ mấy năm, không con cái nhưng có nhà cửa đất vườn hẳn hoi. Nếu dì chịu thì ông ta sẽ rước về quê ở luôn và hai anh em tôi cũng được theo dì. Nói cho ngay, những ngày sống chung với dì dượng, tuy rằng có cực nhọc một chút nhưng chúng tôi không bị đói. Năm hai mươi mốt tuổi, tôi cưới vợ - hay nói đúng hơn là vợ tôi đi cưới tôi, vì vợ tôi là con gái của một ông chủ nhà máy chà gạo, khá giả - nhà này cũng do ông già vợ tôi cất cho. Còn con Vy thì lấy chồng sau khi tôi cưới vợ một năm. Vợ chồng nó cất nhà riêng tuốt trong Xẻo Lá. Bên chồng nó chia cho ba công ruộng, nhưng vì đông con nên đầu tắt mặt tối quanh năm mà vẫn không đủ ăn.

    "Còn thằng Kha, chắc là cuộc sống của nó có khá hơn?". Bà thở dài não ruột, rồi hỏi tôi. "Không đâu! Ngược lại còn bi đát hơn nhiều nữa kia - Tôi vừa nói thật, vừa cốt để hành hạ bà. Tưởng đâu nó về ở nhà giàu có thì sung sướng tấm thân. Ai dè người ta đày đoạ nó làm lụng cực nhọc ngay từ lúc nhỏ. Năm mười sáu tuổi thì nó bỏ nhà ông chủ lò bánh Pía mà đi hoang. Năm năm trước nó đánh đánh lộn gây thương tích cho người ta, phải ở tù hết ba năm!". "Trời ơi, các con của tôi vì đâu mà ra nông nỗi?". Bà lại khóc. Từ lúc đầu gặp tôi đến giờ lúc nào bà cũng khóc, tưởng chừng như nước mắt của bà đựng trong cái lọ để nằm nghiêng. Mặc dù tôi thừa biết bà đang rất đau khổ nhưng tôi vẫn không buông tha. "Vì đâu mà ra nông nỗi à? Vì chúng tôi không có mẹ đó, bà hiểu không". "Má hiểu, nhưng Khanh ơi... Mà thôi, cho dù má có nói gì đi nữa thì các con cũng không thể tin má. Mấy năm thằng Kha ở tù, con và con Vy có đi thăm nom gì nó không?". "Trong ba năm thằng Kha ở tù, tôi có đi thăm nó được hai lần. Còn con Vy, gạo không đủ ăn thì tiền đâu mà đi thăm nó chứ? Khi nó ra tù, tôi rước nó về đây ở để đi làm nhà máy cho ông già vợ tôi, chung với tôi. Làm đâu chừng hơn một tháng thì nó lại bỏ đi!". " Sao em con lại bỏ đi, hả Khanh?". "Vì nó đã quen lối sống giang hồ!" - Đó là tôi nói dối má tôi, chứ thật ra thằng Kha bỏ đi là do nó không thể chịu nổi khi hàng ngày nhìn thấy vợ tôi lấn lướt tôi, mà tôi thì cứ nhẫn nhịn, chịu đựng cho êm nhà, ấm cửa. Thật ra tôi cũng đâu phải là một thằng đàn ông nhu nhược, nhưng đã sống bên vợ đôi lúc cũng phải chịu sự lép vế. Vả lại, vợ mình mình sợ chứ có sợ vợ ai đâu mà lỗ chứ? - Má tôi hỏi; "Vậy, con có đi tìm em của con không?". Rồi má tôi hỏi thăm dì Ba. Tôi cho bà biết, dì Ba đã chết hồi năm ngoái, vì bệnh tim.

    Chuyện vừa tới đó thì vợ tôi và hai con của tôi đi chơi nhà ngoại hồi sáng về tới. Vợ tôi ngỡ ngàng nhìn người khách lạ: "Ai vậy hả anh?". "Má của tôi đó!". Nghe vậy, vợ tôi lại càng ngạc nhiên hơn. "Sao anh nói má anh chết hồi anh còn nhỏ mà?". Má tôi nói: "Má đi làm ăn xa, đã lâu không về nên thằng Khanh tưởng má đã chết!". Tôi bảo hai đứa con tôi thưa bà nội. Hai đứa nhỏ liền khoanh tay thưa bà. Má tôi mở cái xách lấy ra hai ổ bánh mì mềm èo, xẹp lép cho chúng. Vợ tôi nhìn hai ổ bánh, rồi nhìn cái xách chau mày. "Má định ở đây chơi mấy ngày rồi đi?". Tôi biết, má tôi cũng hiẻu cái nhìn và ẩn ý của vợ tôi trong câu hỏi ấy, nhưng bà vẫn nói: "Má tính về đây ở luôn với các con!". Vợ tôi giương mắt: "Ở luôn? Vậy còn nhà cửa có má thì bỏ cho ai?". "Má đâu có nhà cửa gì đâu con. Mà thôi, nếu như các con thấy má ở đây không tiện thì má sẽ vô ở với con Vy!". "Cô Tư à?" Cổ "nghèo khạc ra tro" thì làm sao mà...?". "Con cứ yên tâm, cho dù ở với đứa nào thì má cũng tự làm ăn được. Má không bắt đứa nào phải nuôi má đâu!". Tôi nghĩ, có lẽ má tôi đã bị người đàn ông kia phụ bạc, đuổi xua nên mới tìm chúng tôi để nương nhờ. Ngày xưa tôi đã từng tự nhủ, sau này nếu có gặp lại bà, tôi sẽ không bao giờ nhận bà là má của tôi. Nhưng, trong hoàn cảnh này thì một chút, chỉ là một chút tình mẫu tử còn lại trong tôi, làm tôi cảm thấy mủi lòng. Tôi nói: "Thôi, má cứ ở đây với tụi con, rồi từ từ tính. Em vô nấu cơm, ăn cho sớm để anh đưa má vô nhà con Vy!". Vợ tôi quạu quọ bỏ ra nhà sau. Rõ ràng em không vui trước quyết định của tôi.

    Nếu nói cuộc gặp gỡ giữa má tôi và tôi là ngỡ ngàng và xa lạ thì cuộc gặp gỡ giữa má tôi và con Vy mới khiên cưỡng, lạnh lùng làm sao. Con Vy không còn một khái niệm nào về má cả. Cũng phải thôi, vì lúc bà bỏ đi nó vẫn chưa đầy bốn tuổi mà bây giờ nó đã có bốn con rồi còn gì? Nó nói: "Kêu bà bằng má, làm tui mắc cỡ muốn chết đi được vậy!". Má tôi nói: "Không sao! Con kêu má bằng gì cũng được! Nhưng với má thì bao giờ con cũng là đứa con gái bé bỏng của má!". Con Vy cười như mếu : "Tui mà bé bỏng gì nữa hả trời? Già "cóp thùng thiết" rồi. Coi bộ tôi còn già hơn bà nữa không chừng!". Thằng chồng của nó thì ngồi im như khúc cây, giấu mặt trong bóng tối lờ mờ của chá đèn trứng vịt. Còn bốn đứa con gầy đét, đen thủi của nó thì túm tụm lại một chỗ trên chiếc giường tre, chóp chép nhai bánh mì của bà ngoại cho.

    Việc má tôi về ở với vợ chồng tôi, làm cho không khí gia đình tôi khá là căng thẳng - chỉ là tại vợ tôi không ưa gì bà mẹ chồng từ trên trời rơi xuống với hai bàn tay trắng, mặc dù má tôi luôn tỏ ra là một người mẹ, một người bà hết lòng yêu con, thương dâu và quý cháu. Má tôi chăm sóc hai đứa nhỏ từng li, từng tí từ giặt giũ, tắm rửa cho đến ăn mặc. Vậy mà vợ tôi luôn cáu gắt, thậm chí là thiếu lễ độ với má tôi. Có lần con tôi đùa nghịch vấp té, vợ tôi đã quát má tôi: "Bà đó! Chỉ có mỗi việc là coi chừng hai đứa nhỏ mà cũng không xong nữa!". Má tôi vừa giỗ cháu vừa nói: "Xin lỗi con! Vì má đang bận chắt nước cơm ở nhà sau!". Vợ tôi chừng mắt gầm lên: "Đồ báo cô ăn hại!". Đến nước ấy thì tôi không còn chịu đựng được nữa, tôi giơ tay lên định tát vợ tôi, nhưng má tôi đã kịp ngăn lại: "Thôi, cho má lạy tụi bay đi, lỗi là do má. Nếu tụi bây còn cãi nhau nữa má đập đầu chết bây giờ!". Nói rồi má tôi lủi thủi đi ra sau bếp, tiếp tục chuẩn bị bữa ăn chiều cho chúng tôi.

    Sau lần cãi vã ấy hai hôm thì má tôi hỏi mượn vợ chồng tôi năm chục ngàn để làm vốn đổ bánh bò bán. Tôi chưa kịp nói gì thì vợ tôi đã la lên: "Trời đất ơi! Bộ má muốn cho thiên hạ nguyền rủa vợ chồng tôi sao hả má?". Má tôi vẫn nhẹ nhàng: "Cái gì mà thiên hạ nguyền rủa hả con? Má biết, vợ chồng con nuôi má cũng đầy đủ lắm. Nhưng má còn sức thì phải biết bươn chải chứ. Vả lại, bán bánh bò là nghề của má, giờ nghỉ ở nhà ngồi không cũng buồn!". Vợ tôi nói: "Đó là tự má muốn đó nghen! Tui mà nghe má kêu rêu là vợ chồng tôi bắt má làm là không được với tôi đâu à!". Nói rồi vợ tôi móc tiền ra đếm đủ năm chục ngàn dằn trước mặt má tôi. Má tôi lấy tiền, bơi xuồng ra chợ rồi đem về nào cối xay bột, cái bồng, cái thau và cả gạo nữa... để làm bánh. Chẳng biết má tôi thức dậy xay bột đổ bánh từ lúc nào mà trời vừa tờ mờ sáng thì bà đã đổ và cắt xong những ổ bánh. Rồi bà chất đầy một cái thau nhỏ, chống xuồng vô Xẻo Lá cho mấy đứa con của con Vy. Khi bà trở về thì trời cũng đã sáng rõ, bà xếp bánh vào thau bưng dọc theo xóm bán dạo và không quên để lại nhà cho hai đứa con tôi những miếng bánh đã chan sẵn nước cốt dừa. Hễ bán hết bánh trở về thì má tôi lại lao vào công việc nhà và chăm sóc hai thằng cháu nội. Rồi lại ngâm gạo, chuẩn bị đổ những ổ bánh cho ngày mai. Tối tối, lúc đã xong hết công việc nhà, má tôi lại sang nhà hàng xóm - chuyên chầm lá vàng đốp bán cho ghe chở đi miệt trên - để chầm mướn tận mười một, mười hai giờ khuya mới về. Vậy mà sáng ra bà vẫn có bánh để bưng đi bán. Đâu chừng hơn mười hôm thì bà trả năm chục ngàn tiền vốn đã mượn của vợ tôi. Và, dường như đã thành quy luật, cứ cách một tuần thì bà mua gạo, dầu lửa, nước mắm, tiêu ỏi, bột ngọt... đem vô Xẻo Lá tiếp tế cho con Vy - nhưng xem ra sự lo lắng của bà đối với nó cũng không làm cho tình cảm của nó đối với bà khá hơn. Mỗi lần tôi gặp con Vy, nó đều bảo, hồi đó bà bỏ anh em mình đi bây giờ bà muốn chuộc lỗi đó mà - và cứ cách hai tuần thì bà lại ra thị xã, đến nhà ông chủ lò bánh Pía, hỏi thăm tin tức của thằng Kha. Lần gần nhất má tôi về với vẻ mặt đầy đau khổ: "Thằng Kha phạm tội giết người, đang bị Công an truy nã, bây giờ không biết nó trốn chui, trốn nhủi ở đâu? Trời ơi, con tôi!". Bà nói rồi ngã vật xuống giường, nức nở.

    Rồi, một thời gian sau, tôi không nhớ rõ là bao lâu, má tôi ốm đi nhiều. Da không xanh, nhưng lại tai tái màu nghệ non, hai mắt đờ đẫn có màu vàng nhạt. Có lúc đang làm việc gì đó bà lại bỏ tắt ngang leo lên giường nằm thở dốc, lại có lúc tôi thấy bà chải đầu mà tóc rụng ra cả nắm. Tôi nói: "Má bệnh rồi, để con đưa má lên huyện khám, nghen má!". Má tôi trấn an tôi: "Không sao đâu con! Má lên chùa hốt vài thang thuốc uống sẽ khỏi thôi mà!". Chiều bà lại lên chùa hốt thuốc đem về và tự sắc uống một mình. Thấy bà đang trong thời gian uống thuốc mà vẫn không chịu nghỉ ngơi, tôi khuyên: " Thôi, má nghỉ đi, chừng nào khỏe hẵng hay!". Bà bảo: "Má phải dành dụm chút ít tiền, nó rất cần cho thằng Kha sau này, con à!". Tôi hiểu, má tôi nói như vậy có nghĩa là bà đã biết một ngày nào đó thằng Kha sẽ bị tù và bà cần tiền để thăm nuôi nó.

    Mặc dù má tôi uống thuốc đã nhiều thang, nhưng sắc diện vẫn không khá hơn, ngược lại càng lúc càng kém đi nhiều. Một đêm, tôi giật mình tỉnh giấc thì gnhe tiếng rên khe khẽ ở dưới nhà sau. Tôi tốc mùng chạy xuống thấy má tôi đang nằm trên giường vẻ đầy đau đớn, bên cạnh bà là thau gạo đang xay dở dang, nước bột trong cối vẫn còn nhểu ton tỏn. Tôi gọi bà: "Má, má sao vậy, hả má?". Bà thều thào: "Má hơi mệt một chút thôi con!". "Để con đưa má đi bệnh viện!". Má tôi gượng dậy cản tôi, nhưng không được. Tôi biết bệnh của bà đã nặng lắm rồi, nên bồng bà xuống xuồng đưa lên huyện ngay trong đêm.

    Má tôi nằm ở bệnh viện huyện được hai ngày thì người ta chuyển lên bệnh viện tỉnh. Sau khi đã làm đủ các xét nghiệm, một bà bác sĩ gọi tôi lên phòng làm việc của bà cho biết, bệnh của má tôi cần phải kịp thời chuyển lên Sài Gòn điều trị thì mới khỏi. Tôi hỏi bà, lên Sài Gòn thì tốn bao nhiêu tiền, bà bảo, chừng vài chục triệu. Vài chục triệu thì tôi không thể nào kham nổi. Vì vậy, tôi đành phải đưa má tôi về nhà sống những ngày còn lại. Chở má tôi về nhà chưa được nửa ngày thì vợ tôi đã đùng đùng thu xếp đồ đạc, chuẩn bị dẫn hai đứa nhỏ về ở bên nhà mẹ đẻ. Má tôi nói: "Vợ thằng Khanh à, con kỹ càng như vậy là phải. Nhưng má đã tính rồi, má sẽ vô chùa nằm chờ ngày theo ba con và con Thắm!" - Nhà tôi ở gần ngôi chùa cổ, đã từng nhận nuôi những người già yếu, những người bệnh tật mà không muốn lụy phiền cho người thân. Tôi nói: "Má tính như vậy không được đâu má! Dù sao thì má cũng còn có hai con, có con Vy mà!". "Má biết, má vẫn còn hai con, và cả hằng Kha nữa. Nhưng để má vô chùa nằm cho các vãi sắc thuốc, biết đâu phước chủ may thầy, má sẽ qua khỏi!". Suy đi nghĩ lại, lời của má tôi nói cũng phải

    Hàng ngày, ngoài những giờ đi làm ở nhà máy, tôi đều tranh thủ lên chùa thăm má tôi. Còn con Vy thì chỉ thỉnh thoảng, chẳng trách vì hoàn cảnh của nó khổ hơn nhiều. Lần nào gặp tôi, má tôi cũng nhắc tới thằng Kha, rồi khóc. Mặc dù được các vãi tận tình chăm sóc, nhưng càng lúc má tôi càng teo tóp lại. Những ngày sắp đi bà chỉ còn da bọc lấy xương. Có lần tôi hỏi: "Má sống với người chồng sau này có con cái gì không? Nếu có thì má cho con biết tụi nó ở đâu để con đi cho hay!". Má tôi chỉ khóc mà không nói. Thấy vậy, tôi cũng không hỏi thêm.

    Một hôm tôi ở đằng nhà máy về muộn - vì phải xay cho hết lúa của một bà hàng xáo - ăn vội mấy chén cơm, tắm rửa qua loa, rồi ra cây rơm vấn con cúi để lên chùa thăm má tôi. Vấn chưa xong con cúi thì thấy lù lù một người vai quảy túi xách, đầu đội nón sùm sụp bước đến bên tôi, gọi khẽ: "Anh Hai!". Thì ra là thằng Kha. Tôi buông rơi con cúi lôi nó tuồn tuột vào nhà, cài chốt cửa lại. Vợ tôi buông một câu mất dạy vô cùng: "Cô hồn nào nữa đây?". Có lẽ vợ tôi không nhận em tôi, vì râu ria lởm chởm. "Thằng Kha đó! Làm ơn tóp cái miệng lại giùm chút đi!". Thằng Kha móc con giao bấm thảy lên bàn cái cộp. Vợ tôi run như cua nướng, hai hàm răng va vào nhau lập cập. "Chị đừng sợ! Tôi sẽ không làm gì chị đâu, nếu như chuyện tôi về đây chị không nói cho ai biết!". Vợ tôi gật đầu lia lịa. Rồi em tôi kể vì sao nó phạm tội giết người.

    Sau khi bỏ nhà đi, em tôi xin làm lơ xe được một thời gian thì nó quen với hai anh em nhà thằng kia, là dân đầu trộm đuôi cướp - thằng em trước đây cũng là dân tài xế. Cả bọn bàn nhau thuê xe mười hai chỗ ngồi chạy tuyến Sài Gòn - Cà Mau để hành sự. Lần ấy, lên xe của chúng, ngoài những hành khách là người trong nước, còn có một bà Việt kiều chở theo nhiều đồ đạc, trong đó có chiếc vali mà lúc nào bà cũng ôm kè kè bên mình. Dưới con mắt nhà nghề, bọn chúng hiểu trong đó đựng gì. Xe chạy đến địa phận tỉnh... thì trời sụp tối, bọn chúng đưa mời khách những chia nước suối đã bơm sẵn thuốc mê. Khi khách đã mê man, đến đoạn đường vắng chúng hè nhau thả họ xuống đường sau khi đã lột sạch tư trang, tiền bạc. Rồi cả bọn về chỗ chia tài sản vừa cướp được. Khi đã cạy được nắp chiếc vali, ngoài những thứ quà cáp đắt tiền mang từ Mỹ về chúng còn đếm được tất cả hai trăm ngàn đô la. Hai anh em thằng kia chơi tồi, định cuỗm sạch số tiền đó nên một cuộc ẩu đả đã xảy ra. Em tôi vốn giỏi võ nên giết chết thằng anh và đánh cho thằng em què quặt. Song, lại bị lực lượng tuần tra của Công an phát hiện, trước khi chạy trốn em tôi đã kịp mang theo hai trăm ngàn đô la. Nó thay tên đổi họ ẩn náu rất nhiều nơi, cuối cùng thì thì cũng bị nhận dạng, nên nó chạy về đây tạm vài hôm rồi sẽ tìm đường qua Miên. Thật lòng tôi không chấp nhận việc làm của nó. Và, tự trong thâm tâm tôi rất mong có tiền để trị bệnh cho má tôi. Tôi bèn kể cho nó nghe chuyện má tôi về đây... Cuối cùng, tôi nói: "Hay là em để lại một ít tiền để anh đưa má đi Sài Gòn trị bệnh!". Nó nạt: "Tôi không có má nào hết há! Nếu tôi có má thì tôi đâu bị người ta bán đi, tôi đâu bị người ta đày đoạ, để rồi cuối cùng tôi phải đi hoang, tôi phải là một tên ăn cướp, một tên giết người đang bị truy nã chứ? Bà chết hay sống không liên quan gì tới tôi, cũng như tôi sống hay chết đâu liên quan gì tới bả!". Tôi biết trong nhất thời khó mà làm cho thằng Kha chấp nhận một người mẹ đã từng bỏ rơi nó, nhưng chưa kịp thì đã nghe tiếng của cô vãi từ ngoài sân vọng vào: "Cậu Khanh ơi! Cậu lên chùa ngay đi! Má của cậu đang hấp hối ở trển!". "Như vậy là không còn kịp nữa! Nghĩa tử là nghĩa tận, em hãy đi gặp má lần sau cùng, đi Kha!". Em tôi còn chần chừ, tôi bèn nắm tay nó đứng lên, vợ tôi cũng dắt hai con cùng theo. Chúng tôi vào phòng của má tôi. Mắt má tôi nhắm nghiền, bà hỏi: "Vợ chồng thằng Khanh đến chưa hả Vy?". Tôi nói: "Tụi con đến rồi nè má! Má coi con đưa ai đến đây nè!". Má tôi mở mắt và rút bàn tay gầy guộc ra khỏi mền nắm lấy tay thằng Kha. "Trời ơi! Thằng Kha, con của má đây sao?. Còn thằng Kha thì máy móc đưa tay cho bà và nói như người trong cơn mê sảng: "Tại sao? Sao lại là bà được chứ? Trời ơi!". Tôi hết ngỡ ngàng nhìn thằng Kha, rồi nhìn má tôi: "Má! Chuyện gì đã xảy ra vậy hả má? Má hãy nói cho chúng con biết đi má!". Má tôi vẫn nắm chặt tay thằng Kha và đảo mắt một lượt nhìn tất cả chúng tôi. Rồi, bằng một giọng chậm dần đều má tôi kể về quãng đời nghiệt ngã của mình.

    " Các con có biết không, chiều hôm ấy má bưng xề bánh bò đi bán. Đi rất xa mà bánh vẫn còn nhiều, má sợ bán không hết thì sáng mai sẽ không có tiền đong gạo cho các con, nên mặc dù trời đã sụp tối má vẫn quẹo xuống đường sông, với hy vọng bán thêm chút ít nữa. Nhưng, không ngờ, má lạc vào bãi đáp của một nhóm người chuẩn bị vượt biên. Vì sợ bị lộ nên họ định thủ tiêu má. May sao có một người đàn bà bảo rằng, giết người trước lúc ra đi là một điều hết sức xui xẻo, tàu của họ sẽ không đến được bến bờ cần đến, hay là để cho má cùng đi luôn. Má van xin họ hãy thả má ra cho má về, vì chồng của má đang bệnh ở nhà, các con của má còn nhỏ. Má hứa với họ là sẽ không nói cho ai biết chuyện này. Mặc cho muốn van xin khóc lóc, họ vẫn đẩy má xuống hầm tàu. Không biết qua bao nhiêu ngày đêm thì tàu cập đảo. Và, má cũng không nhớ mình đã ở trong trại tị nạn bao nhiêu năm thì mới được gọi phỏng vấn. Những thuyền nhân nói với má rằng, nếu má khai thiệt chuyện của má bị ép lên tàu thì họ sẽ nhốt má trong trại đến suốt đời. Cuối cùng thì má được định cư ở Mỹ. Hàng chục lần má gửi tiền về cho các con - qua dì Ba thì cũng hàng chục lần bị hoàn trả, vì không có người nhận. Rồi khi Nhà nước mở cửa cho Việt kiều về thăm quê má đã ba lần về Việt Nam tìm các con, thì cũng ba lần má đều phải trở về Mỹ với niềm đau khôn tả. Nhưng bằng linh cảm của một người mẹ, má tin rằng một ngày nào đó má sẽ tìm được các con. Quả nhiên một hôm má cũng gặp được một người quen cũ, hiện đang sống ở Mỹ, biết được dì Ba đã lấy chồng và đem các con về xứ này... Má lập tức rút hết tiền ở ngân hàng mà gần hai mươi năm má dành dụm là hơn hai trăm ngàn đô la để về Việt Nam cùng sống với các con, cho bõ những tháng ngày khắc khoải nhớ thương. Má dùng số tiền lẻ để mua vé máy bay và quà cáp cho các con, còn số chẵn má để trong vali để chia đều cho bốn đứa - Vì bà ấy không nói cho má biết là con Thắm đã chết, có lẽ bà ấy không nỡ làm cho má đau lòng khi vừa biết được tin của các con. Khi má xuống phi trường Tân Sơn Nhất cũng đã ba giờ chiều, lẽ ra má phải nghỉ ở Sài Gòn, nhưng vì nóng lòng muốn gặp các con nên má lên xe đi luôn... Khi má tỉnh lại thì thấy mình nằm trong bệnh viện. Bác sĩ bảo, lúc trời sáng có anh xe lôi thấy má và mấy người nữa nằm bất tỉnh bên vệ đường, nên đưa vào bệnh viện cấp cứu, rồi, có một người đi nuôi bệnh thương tình cho má ba chục ngàn để đi tìm các con!".

    Tiếng sụt sùi của những người đàn ông, tiếng nức nở của những người đàn bà hoà cùng tiếng cú kêu ở ngoài hậu viên nghe não nùng bi thiết làm sao. Và, tôi cũng đã hiểu rồi, chuyện ông ấy - người tình cũ của má tôi ngày trước - bán nhà đi đâu đó hoàn toàn không có liên quan gì đến má tôi, đó chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên mà con tạo đã tàn nhẫn sắp bày. "Má ơi! Sao má không nói cho chúng con biết để chúng con cứ mãi trách móc, oán hờn má?". Má tôi nói: "Làm sao má có thể nói được khi mà tiền bạc đã mất, hộ chiếu cũng không còn hả con? Kha ơ! Hãy nghe lời má, ra đầu thú để hưởng lượng khoan hồng, mong có ngày về đoàn tụ với anh, với em của con! Con có hứa với má không Kha?". Thằng Kha gục đầu lên ngực má thổn thức: "Dạ, con hứa, con hứa với má, má ơi!". Má tôi thở hổn hển, gấp gáp: "Vợ chồng thằng Khanh nghe má dặn nè, tụi con là anh, là chị thì phải biết chăm sóc các em của mình, nghe con!". Vợ chồng tôi cùng nói: "Dạ, con hiểu rồi, má ơi!". Má tôi nở một nụ cười mãn nguyện, rồi bà như hét lên: "Khanh ơi, Kha ơi, Vy ơi! Các con đâu hết rồi? Sao má không thấy đứa nào hết vậy? Các cháu ơi, sao bà cũng không thấy đứa nào hết vậy?". Tay má tôi từ từ vuột khỏi tay thằng Kha. Nó gào lên điên dại: "Má ơi! Con đã giết chết má rồi, má ơi!". "Má! Má ơi! Má không thể chết được đâu!". Chúng tôi cùng lay gọi bà, nhưng bà đã ra đi về miền vĩnh cửu.
     
  9. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Con chim quên tiếng hót - Nguyễn Quang Sáng

    Bà nội tôi là kho chuyện đời xưa, mỗi đêm một chuyện cho đàn cháu nội, cháu ngoại, lũ nhỏ vây quanh bà trên bộ ván ngựa gỗ giữa nhà trong ánh sáng tù mù của ngọn đèn dầu.
    Chuyện này không phải là chuyện đời xưa. Chuyện của nhà mình nhưng lúc đó bà còn trẻ, tụi con chưa có, vậy cũng là chuyện đời xưa phải không? Đêm ấy, bà kể:
    - Ông tôi có nuôi một con nhồng. Con nhồng đẹp lạ lắm. Nó như một cô công chúa khoác chiếc áo choàng đen, ấy là bộ lông mượt mà của nó, từ mí mắt kéo đến cổ nó là một đường vàng hình lưỡi câu. Viền quanh cổ là một đường mầu trắng, như công chúa quấn qua cổ chiếc khăn bằng lông cừu, mỏ vàng và đôi chân cũng vàng. Ông tôi vốn là một thợ mộc, cho nên cái lồng của nó như một cái lâu đài. Con nhồng lúc nào cũng vui tươi, nhảy nhót trong chiếc lồng lộng lẫy treo trước hiên nhà. Vừa đẹp, lại vừa biết nói, nó là niềm vui của cả xóm, không chỉ cho trẻ con mà cho cả người lớn. Thấy có người thoáng qua, nó cất tiếng: "Chào khách". Khi người dừng lại trước mặt nó, nó hỏi: "Khỏe không". Ai hỏi gì thì nó dạ. Nó bắt chước giọng ông, nó gọi bà: "Em ơi, em". Nó bắt chước giọng bà, nó gọi ông: "Anh ơi, anh". Trong nhà đang nói chuyện, bỗng chợt nghe tiếng cười, nó cười: "Khậc khậc" y như giọng cười của ông. Thỉnh thoảng nó lại cất tiếng: "Thôi, thôi thôi" nghe như lời can gián thiết tha của một cô gái.
    - Khách ! - Ngồi trong nhà nghe nó nói, biết là có khách sắp vào nhà.
    Người lớn hay trẻ nhỏ hàng xóm, mỗi lần đến chơi với nó cũng cho nó một trái ớt. Thò mỏ gắp trái ớt, nó mừng nó nhảy.
    Trong nhà ai cũng dạy nó tiếng nói lịch sự, lễ phép. Nhưng hình như bấy nhiêu tiếng đó, nghe hoài cũng nhàm, bớt vui. Chẳng biết đứa nhỏ nào cắc cớ dạy thêm cho nó vài tiếng chửi cục cằn: "Đồ đểu, cút, cút đi".
    Ngày đầu, nghe những tiếng lạ lùng đó, bọn nhỏ vỗ tay và nó được nhiều ớt hơn mọi ngày. Nhỏ vui đã đành, người lớn cũng vui... nghe nó chưởi "đồ đểu" người nghe không nghĩ là mình đểu nên chẳng ai giận, nghe nó bảo "cút, cút" người ta không cút mà cười và lại thưởng cho nó ớt ngon hơn, nhiều hơn. Nó nói riết thành quen không ai để ý nó quên tiếng hót từ lúc nào.
    Bỗng một hôm có một chiếc xe hơi đậu lại trước nhà. Quan huyện từ trong xe bước ra. Một người to lớn bệ vệ trong bộ đồ tây trắng, cà vạt đỏ, giày đen. Quan huyện đến để đặt ông đóng nhái bộ salon thời Louis. Đã là quan thì phải oai quyền, trước mặt ai không chào không hỏi.
    Quan huyện vào tới cửa thì con nhồng cất tiếng:
    - Đồ đểu!
    Quan huyện giật mình:
    - Đồ đểu! Đồ đểu!
    Thấy quan huyện không thưởng cho nó trái ớt, nó lại cất tiếng:
    - Đồ đểu! Đồ đểu!
    Quan huyện trợn tròn hai con mắt. Ông tôi thấy vậy sợ điếng, vội cúi rạp mình rước quan vào. Ông liếc nhìn bà. Hiểu ý ông, bà rối rít mời quan ngồi, rót nước mời quan uống.
    Đang chào đang hỏi khách, bà bỗng nghe bên ngoài có tiếng đánh "bốp" một cái. Bà bước ra, bà thấy con chim bị ông đập vào cây cột, nát đầu. Trên thân cột còn một đốm máu bê bết, còn con nhồng thì nằm dưới đất như một miếng giẻ rách đen. Chẳng biết ông sợ hay ông giận, bà chỉ nghe ông lẩm bẩm:
    - Không! Nó bảo "cút đi" thì nhà này chỉ có chết.
    Thương con nhồng, bà tôi quỳ xuống trước cái xác của nó. Chẳng biết lúc ấy bà tôi đau đớn thế nào, bây giờ trong ánh đèn dầu, tôi thấy hai giọt nước mắt của bà.
    Con chim chết, hết chuyện, bọn tôi có đứa thò chân xuống đất, bà đưa tay kéo lại. Và sau câu chuyện bao giờ bà cũng rút lời răn dạy:
    - Cho nên, biết thì nói, không biết thì đừng nói theo lời người khác, chết oan đó, các con!
     
  10. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Con Gấu

    Nguyễn Quang Huy


    Nàng là một cô gái ngoại thành, con nhà trồng hoa. Từ ngày lên thành phố ở, nàng không trồng hoa nữa, nhưng vẫn rất yêu hoa. Hình như mỗi một loài hoa, đều mang một phần cái hồn trinh nữ của nàng, mong manh, e ấp, mộc mạc, thấm đẫm hương đồng nội. Nàng hay đi chợ và mua hoa lúc chín, mười giờ sáng, lúc ấy mới có hoa tươi vừa cắt ở vườn, chứ còn đi sớm quá, có khi lại là hoa từ chiều qua. Nàng chẳng lầm giữa hoa tươi và hoa cũ, nhưng nàng không muốn nhìn thấy vẻ rầu rĩ của những bông hoa hái qua đêm. Còn những bông hoa mới cắt xong, ngay hít thở cái mùi hương dịu lành của nó, cũng thấy thơm mát vào tận da, và nước từ cuống hoa rịn ra nơi vết dao cắt, cũng thoáng làm nàng chạnh nhớ một thời trinh bạch đã qua...

    Nàng đang vừa mải chọn hoa, vừa nghĩ, thì cảm thấy có một cái gì mềm mại cọ cọ dưới chân mình. Nàng nhìn xuống, và mừng rỡ thốt lên:

    - Ôi! Gấu! Sao mày lại ở đây hả?

    Con chó - Gấu là tên nó - ngước cái mõm đen mượt hít hít tay nàng, và nàng cảm thấy cái lưỡi mềm ấm của nó rụt rè, chứ không vồn vã như mọi khi.

    - Sao lâu lắm rồi, mày không đến chỗ chị? Thôi nào, đợi chị chọn mấy bông hoa nữa, rồi thì về...

    Nàng vỗ nhẹ mấy cái lên đầu nó, rồi chọn tiếp. Con Gấu quanh quẩn đi theo.

    Nó là một con chó Mẹo to, đậm. ức nở, cổ lực lưỡng, vai tròn, xuôi xuống phía lưng. Mõm ngắn, hàm khỏe, với hàm răng sắc, nhọn và đều. Mắt nó mầu đen, giống như mầu cánh của con bọ sừng, có cái nhìn lung linh mầu hổ phách. Ðuôi nó cụt ngủn, toàn thân phù hợp với lớp lông đen dày, vừa cứng vừa mềm mại. Trông nó hệt như một con gấu và có bản lĩnh của một con gấu: những cử động từ tốn và điềm tĩnh, chắc chắn và uyển chuyển.

    Nàng đã chọn xong hoa, bảo:

    - Về đi, Gấu ơi!

    Con chó đi cách nàng vài bước, lững thững chứ không có vẻ tung tẩy, ra chiều đang nghĩ một điều gì đó.

    Ðến một tòa nhà to, ở tách biệt, nàng mở cổng, rồi mở cửa bước vào. Con chó đứng ngoài cửa, không vào theo. Nàng lắc đầu, bảo:

    - Vào đi, Gấu! Không có ai đâu! Ðây này...

    Và nàng mở toang cửa chính, cửa sổ, rồi ngồi xuống một chiếc ghế bọc đệm nhung mầu mận chín. Con Gấu chậm rãi đi đến cạnh nàng, ngồi xuống, áp cái mõm của nó lên đùi nàng, mắt lim dim.

    Nàng đưa bàn tay mềm mại, thơm tho kê dưới mõm nó.

    - Chủ mày có khỏe không? Sao lâu nay không thấy mày đến chơi với chị? Chị buồn lắm, Gấu ơi!

    Hình như cái giọng nghèn nghẹn của nàng làm con Gấu chợt run rẩy. Nó thè lưỡi liếm lòng tay nàng, ngọ nguậy cái mõm.

    - Mày thương chị, phải không, Gấu? Sao dạo này mày gầy vậy? Chắc chủ mày vất vả lắm phải không?

    Con Gấu vẫn nhắm mắt, chỉ có cái tai hơi động đậy, và thỉnh thoảng nó lại thoáng rùng mình nhè nhẹ.

    - Thôi, để chị đi lấy cái gì cho Gấu ăn nhé! Ngồi đây!

    Nàng đứng dậy, xuống bếp, mang lên một cái bát to cơm, canh và mấy miếng thịt quay - cái món mà Gấu thích. Nhưng, Gấu không ăn ngay. Nó cứ ngồi như thế, ngước mắt nhìn nàng.

    - Gấu cũng nhớ chị à? Hay muốn nói điều gì với chị? Thôi nào ăn đi đã...

    Con Gấu nhởn nha ăn. Hai chỗ hõm ở hông nó phập phùng. Nàng thích cách ăn của con Gấu, biết rằng nó ít khi được ăn ngon. Bàn tay mềm mại của nàng đang vuốt dọc lưng con vật, bỗng dừng lại. Một nỗi buồn cứ từ từ dâng lên, đầy ắp trong nàng, rồi những giọt nước mắt cứ lần lượt ứa ra, nhỏ xuống bát cơm của con Gấu... Con Gấu làm nàng nghĩ đến chủ của nó, và thân phận của mình. Cứ thế, nàng lặng lẽ khóc...

    *
    * *

    Chủ của con Gấu, một anh giáo trường làng, mồ côi bố, ở với mẹ bệnh tật. Và nàng, một cô con gái nhà trồng hoa ngoại thành, xinh đẹp nết na, thi không đỗ đại học. Ðã có một thời, họ sống thật hạnh phúc với nhau dưới mái nhà vá víu bằng đủ mọi thứ vật liệu. Chàng dạy học trường làng, nàng trồng hoa. Một mảnh đất nhỏ thôi, nhưng cũng đủ cho một gia đình sống đơn giản và ấm cúng. Sáng sáng, nàng dậy sớm, cắt hoa mang đi chợ bán. Con Gấu đưa chân nàng đến tận đầu làng, mãi khi nàng bảo:

    - Thôi Gấu, đi về trông nhà đi!

    Con Gấu dừng lại, đứng nhìn theo mãi cái dáng đi mềm mại của cô chủ, đến khi nó chỉ còn là cái bóng mờ mờ, rồi phi một mạch về nhà. Cũng đôi lần, nó lặng lẽ theo nàng đến tận chợ. Nàng mua cho nó mấy miếng dồi lợn, gói bằng một nửa tàu sen. Nó nằm, thong thả nhai từng miếng vẻ khoái trá, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn cô chủ nó đang bán hoa cho khách...

    Cuộc sống của nàng, có lẽ cứ lặng lẽ trôi đi, nếu bàn tay của tạo hóa không bày ra những trò cay nghiệt để thử lòng dạ con người. Ðầu tiên, là lấy nhau hai năm rồi, nàng vẫn chưa có một mụn con. Theo lời thầy thuốc ở bệnh viện, thì lỗi ấy do chồng nàng. Họ nội của chàng, ba bốn đời chỉ có một con trai. Thôi thì, có một con trai hay một con gái cũng được! Nàng an ủi chồng vậy. Chút tiền bán hoa ít ỏi, đắp cả vào việc nuôi mẹ chồng và chạy chữa cho chồng, nàng cũng chẳng hề kêu ca. Nhưng, hình như trời không thương nàng, cố tình phụ công nàng. Ðã có lúc, chồng nàng bảo:

    - ở với tôi, mình khổ đã đành, lại uổng một đời con gái. Hay là...

    Nàng hốt hoảng:

    - Hay là... sao...?

    - Hay là... mình kiếm lấy một đứa con để nuôi. Là con của mình... Người ta nói con gái có thì...

    - Anh bạc lắm! Nàng khóc.

    Nhưng cái thực tế phũ phàng, cay nghiệt kia, nàng đã lờ mờ cảm thấy, song từ lâu, nàng cố coi như không có nó. Nay cả chồng và mẹ chồng đều nhắc đến, thì nó lại hiện diện, rõ rệt, tàn nhẫn, lý trí yếu ớt của nàng làm sao chống lại nổi. Và, nàng mặc cho nó dày vò mình. Nàng sống như một người chết đuối vớ phải một mảng bèo, liền bám lấy nó và để mặc cho dòng nước dữ cuốn đến đâu thì cuốn. Thôi thì, trăm sự nhờ vào may rủi...

    Cho đến một hôm, nàng đi chợ bán hoa như mọi sáng...

    - Hoa tươi quá... Chỉ tiếc người hơi héo! Có bán cả không em?

    Nàng chợt ngẩng lên, toan mắng người ấy, thì nhận ra người làng.

    - Tưởng ai, ra anh!

    Rồi nàng nhoẻn cười. Một bên má lúm đồng tiền.

    - Sao lâu rồi, không thấy anh về làng?

    - Còn ai nữa mà về! Còn em, thì em... Dạo này, sao em khác quá!

    - Vừa già, vừa xấu...?

    - Cũng có gầy đi, trông vất vả hơn. Còn xấu thì... Em vẫn đẹp như trước, có khi còn duyên hơn...

    Thoáng chút hồng trên má nàng. Nàng hơi cúi mặt xuống, cắn cắn môi dưới.

    - Nhà anh gần đây, em đến chơi! Tiện thể, chọn cho anh một ít hoa và cắm bình hộ anh!

    - Em còn phải bán nốt, kẻo héo mất.

    - Nhanh thôi mà. Em đến cho biết nhà... Ðưa anh gánh cho.

    Nàng không có lý do để lưỡng lự, gánh hoa đi theo người đàn ông ấy. Mà, nàng đã đến cái nhà mà bây giờ nàng đang ở. Còn người đàn ông ấy, chính là chồng nàng bây giờ.

    Cho đến bây giờ, nàng cũng không hiểu ma đưa lối, quỷ đưa đường như thế nào, mà nàng lại rơi vào cái nhà này, lại chấp nhận làm vợ anh ta. Anh ta không gài bẫy nàng. Anh ta chỉ nói thẳng với nàng những đề nghị của mình, với sự tính toán trần trụi, chính xác và chí lý. Em còn trẻ, lại đẹp, lại nết na. Em lấy anh giáo làng, nghèo kiết xác, lại mẹ già, đau ốm luôn, không hy vọng gì ở đường con cái. Bây giờ, thì em còn có thể chịu đựng được. Nhưng dăm ba năm nữa, ở hoàn cảnh ấy, em sẽ già rất mau. Em sẽ xấu xí, sẽ nhăn nheo như một bà cụ già, người sẽ héo quắt đi. Như vậy, có ích gì cho em, và cũng chẳng ích gì cho mẹ con người ta. Rồi cuộc sống túng quẫn liệu có giữ mãi được cái tươi vui của gia đình hay không? Còn em ở với anh, nhà này là của em, của các con em. Tiền anh kiếm được cũng là của em, em toàn quyền quản lý, chi tiêu. Em sẽ chẳng phải làm gì cả, chỉ đi chợ cơm nước, quán xuyến nhà cửa giúp anh...

    Không phải anh ta nói một lúc tất cả những điều ấy trong lần đầu tiên nàng đến nhà anh ta, mà là nói dần dà trong những lần sau, mỗi khi nàng đi chợ bán hoa và anh lại mời nàng đến nhà. Anh ta cứ nhẩn nha, ung dung, tự tin mà đi đến cái đích của mình. Giống như đêm tân hôn, người đàn ông cứ từ từ lột từng thứ quần áo trên người đàn bà. Dù người đàn bà có yêu người đàn ông ấy hay không, nhưng mặc nhiên cam chịu, hoặc thích thú. Sự e lệ, trinh bạch lúc ấy chỉ còn là một trò giả vờ cố ý... Nàng cũng vậy. Những lời nói của anh ta, lần lượt tước bỏ dần những dằn vặt, cái băn khoăn của nàng lần lượt dồn nàng vào cái thế phải chấp nhận. Nó không hẳn là tự nguyện, nhưng nàng lại không thể làm khác. Nó đúng, nhưng tàn nhẫn, khốc liệt và man rợ. Ngay cả khi anh ta ôm nàng, ghì riết thân hình nàng bởi một vòng tay mạnh mẽ, phả vào mặt nàng cái hơi thở hầm hập, gây gây của một giống đực, thì nàng cũng không còn một chút ý chí nào để chống cự. Cả người nàng mềm lả. Nàng nhắm mắt, chấp nhận cuộc hành quyết, để mặc cho cái cảm giác đau đớn, tủi hổ tràn vào, lấp đầy con người nàng với cường độ của những cơn xoáy lũ. Nàng hoàn toàn đầu hàng số phận. Nàng chấp nhận cái chết của kiếp sống này, để đổi lấy một kiếp sống khác, mà cũng chẳng cần biết nó sẽ như thế nào, mà giống như một sự giải thoát nhục nhã.

    Nàng đổi kiếp sống mà không gặp phải sự ngăn trở gì nhiều nơi gia đình chồng cũ. Người làng có trách móc, thì nàng có bao giờ về đâu mà nghe. Ðến mẹ anh giáo mất, nàng cũng không dám về, dẫu nàng biết là nghĩa tử là nghĩa tận, và biết nếu vậy thì nàng là một con đàn bà khốn nạn. Nàng không đủ can đảm. Nàng chỉ khóc rấm rích và tự xỉ vả mình suốt những đêm sau đó. Sợi dây duy nhất nối nàng với quá khứ là con Gấu. Những ngày mới lìa bỏ ngôi nhà dột nát của anh giáo, nàng sợ gặp người làng, nhưng vẫn không thể không đi chợ mua hoa. Những đóa hoa tươi làm lòng nàng dịu lại. Nhưng một nỗi đau không tên cứ âm ỉ thiêu đốt nàng, mỗi khi nàng bước chân đến cái chợ quen thuộc. Rồi sự gặp gỡ với con Gấu. Nó ngạc nhiên lắm, khi nàng là người mua hoa chứ không phải là cô chủ bán hoa của nó. Chắc nó tìm nàng mấy hôm rồi, hôm nay mới gặp. Nàng bảo nó về nhà. ấy là lần đầu, nó bước vào cái ngôi nhà đồ sộ kia. Chắc nó ngạc nhiên tại sao cô chủ nó lại ở cái nhà này. Nó cứ ngồi im mà quan sát tất cả mọi đồ vật trong ngôi nhà với vẻ cảnh giác, sẵn sàng bỏ chạy hoặc tự vệ. Chỉ có thái độ của cô chủ cũ làm nó hơi yên tâm. Khi cô cho nó ăn xong, đang nói chuyện với nó, thì người chồng mới của cô chủ bước vào. Anh ta giật mình, lùi lại một bước:

    - Con chó nhà ai đấy? Sao lại đưa nó vào nhà!

    Cẩn thận đấy!

    Nàng vỗ vỗ con Gấu:

    - Chó nhà em đấy mà! à... Nhà trước. Không sao đâu, nó hiền lắm...

    Con Gấu yên lặng quan sát anh ta, không tỏ thái độ gì. Nhưng khi anh ta vừa bước một bước đến phía nàng, nó liền nhếch mép, để lộ một khóe hàm răng trắng ởn. Nàng phải đưa tay ôm lấy đầu nó:

    - Gấu, ngoan nào...

    - Tốt nhất là tống ngay nó đi...!

    Nàng nhíu mày, nhưng cũng đứng dậy, kéo con Gấu đi theo. Nàng mở cổng, ngồi xuống, nâng đầu con Gấu lên, nhìn sâu vào mắt nó:

    - Thôi, Gấu về đi, về đi! Từ nay đừng tìm chị nữa! Nhớ chưa?

    Cái động tác lắc lắc đầu của nàng và ánh mắt nàng chắc con Gấu hiểu. Nó đưa lưỡi liếm liếm, hít hít bàn tay nàng, rồi phóng thật nhanh ra cổng...

    Sau cái lần ấy, nàng không mua hoa ở cái chợ ấy nữa, mà đi chợ khác, xa hơn. Và con Gấu cũng không đến nhà tìm nàng. Không hiểu sao, hôm nay, nàng lại trở lại cái chợ cũ, và gặp con Gấu ở đấy...

    Con Gấu cọ cọ cái mõm đen mượt của nó vào lòng tay nàng, làm nàng sực tỉnh. Nàng biết, giờ này chồng nàng sắp về. Nàng không muốn để anh ta gặp con Gấu, và chắc con Gấu cũng không muốn gặp anh ta. Nàng lý giải vẻ bồn chồn của con Gấu như vậy. Nó cứ định đứng lên, rồi lại thôi, hết nhìn ra cổng, lại nhìn nàng, và trong đôi mắt nó, cái ngọn lửa mầu hổ phách cứ lung linh, lung linh.

    Nàng đứng dậy, lấy một chiếc dép của chồng, đưa vào mũi Gấu, và bảo:

    - Nào, về thôi, Gấu! Kẻo họ sắp về rồi đấy!

    Con Gấu, sau khi hít hít cái dép, như hiểu, đứng dậy theo nàng ra ngõ. Nó lủi thủi đi sau, cái đầu cúi thấp.

    - Ðừng giận chị nhé, đừng trách chị, Gấu nhé!

    Và nàng mở cổng. Con Gấu nhìn nàng, tru lên một tiếng, rồi phóng đi.




    Nàng đóng cổng, ngồi thừ một lúc trên chiếc ghế bọc nhung, rồi uể oải đứng dậy nấu cơm trưa, vừa làm, nàng vừa nghĩ miên man. Và, cái cảm nhận cuối cùng, là nàng vừa tự trách mình, vừa tự thương thân. ở với người chồng mới, nàng là một người làm công, một con ở, một kẻ tù giam lỏng hơn là một người vợ. Công việc của nàng: Là quét dọn, giặt giũ, đi chợ, cơm nước, coi nhà và những công việc khác để hầu hạ chồng - ông chủ. Ngay tiền đi chợ, anh ta cũng khoán cho nàng từng ngày, nếu cần thì phải xin, trừ cái dây chuyền hai chỉ và một cái nhẫn một chỉ anh ta mua tặng nàng hôm cưới. Nàng hiểu, ngay cả những thứ đó, cũng không phải của mình, bởi anh ta để mắt đến chúng luôn. Những người giàu có thường ích kỷ và keo kiệt, hay chính vì ích kỷ và keo kiệt mà họ giàu có? Nàng không muốn nghĩ nhiều đến điều này, bởi dẫu sao thì cuộc đời nàng cũng đã như thế rồi...

    *
    * *

    Sáng sớm hôm sau, con Gấu lại đến nhà tìm nàng.

    Mõm nó tha một chiếc dép đứt quai. Thấy cổng còn đóng, nó lấy hai chân trước giật giật vòng xích khóa. Không có nàng ra mở cửa, nó bỏ chiếc dép xuống, chõ vào trong nhà sủa. Nghe tiếng con Gấu, nàng vội vã chạy ra, không giấu nổi vẻ mừng rỡ:

    - Gấu đấy à? Ðợi chị mở cổng cho mày ngay đây!

    Con Gấu tha chiếc dép chạy vào trước. Ðến thềm nhà, nó bỏ chiếc dép xuống, rồi đợi nàng và tru lên mấy tiếng thảm thiết. Nàng nhận ra chiếc dép nhựa cũ của anh giáo, và chợt hiểu:

    - Thì ra vậy đấy! Chủ mày ốm phải không, Gấu?

    Nàng vừa nhặt chiếc dép lên, dứ dứ vào mũi con Gấu, vừa nói vậy. Con Gấu lặng lẽ nhìn nàng, như cầu khẩn, rồi đứng dậy, cắn gấu quần nàng, lôi ra phía cổng.

    Nàng ngồi xuống đưa hai tay giữ nó lại:

    - Không được đâu, Gấu ạ! Chị không đi được!...

    Nàng lắc đầu, và kéo con Gấu vào phòng:

    - Thôi, phải ngồi đây! Ðể chị đi lấy cái gì cho mà ăn, rồi về...

    Con Gấu không động đến bát cơm. Nó cứ quanh quẩn bên nàng, tru từng tiếng ngắn trong cổ họng. Nàng bối rối và bất lực. Chợt nàng "à" một tiếng, và đi xuống bếp. Lần này, con Gấu đi theo nàng. Nàng mở chạn, lấy một cái bánh giò mà nàng mua ăn sáng, một miếng chả to, hai quả cam và nửa cân đường. Nàng gói các thứ vào một túi nilon rồi bỏ vào một cái túi vải có quai. Xong xuôi, nàng bảo:

    - Thế là được rồi! Nào Gấu, chịu khó một tí nhé! Không nặng lắm đâu!

    Nàng quàng cái túi vải vào cổ con Gấu, dẫn nó ra cổng:

    - Bây giờ, thì Gấu về ngay đi! Ði đi! Mai lại đến nhé...

    Gấu co cẳng một mạch, quên cả từ biệt nàng. Nàng biết là anh giáo đang ốm nặng. Nàng cứ bần thần, bởi một ý nghĩ: anh giáo sẽ biết những thứ con Gấu mang về là của nàng, anh sẽ không thèm động đến. Tự nhiên, nước mắt nàng ứa ra, những giọt nước mắt tủi hổ của một người vợ trót bội bạc. Nhưng không, chắc anh ấy sẽ ăn. Anh ấy đang ốm mà. Nếu anh ấy không ăn, thì con Gấu cũng sẽ không ăn. Nó không bao giờ ăn trước chủ. Mà anh ấy thì quý con Gấu, thương con Gấu lắm. Bây giờ anh ấy chỉ có một mình nó...

    Sáng hôm sau con Gấu lại đến, tha theo cái túi vải. Nhìn thấy cái túi, nàng mở ra nhẹ nhõm. Anh ấy hiểu mình và anh ấy vẫn còn thương mình. Một nỗi đau cứ thế nhói lên, làm nàng không chịu nổi. Nàng ghì đầu con Gấu vào ngực mình:

    - Chủ mày không giận chị à? Chủ mày vẫn còn thương chị à?

    Rồi nàng lại vội vã bỏ các thứ vào túi vải, quàng lên cổ con Gấu, những thứ mà sớm nay, nàng đã kịp đi chợ mua.

    *
    * *

    Cứ như vậy, con Gấu đến nhà nàng, ba, bốn lần sau đó, đều trót lọt, chồng nàng không hay biết.

    Rồi một tối, khi ăn cơm, anh ta hỏi:

    - Cái con chó nhà cô nó vẫn đến đây phải không?

    Nàng đang gắp thức ăn, dừng đũa, không dám ngẩng lên ngay:

    - Ðâu có, chắc anh nhìn nhầm con chó nhà ai đấy!

    - ờ... cũng có thể! Nhưng cô vẫn cứ cẩn thận. Nó thả rông thế, dễ mắc bệnh dại lắm! Nó mà cắn tôi, thì cô cứ liệu!

    - Nhưng mà em khóa cổng kia mà...

    - Cô mới học đâu cái kiểu cãi giả chồng thế hả! Tôi nói thế thì phải biết im đi mà nghe!

    Nàng nín lặng, cố nuốt nốt miếng cơm. Chiều hôm sau, anh ta về sớm, quăng gói giấy báo cái "bịch":

    - Cô không thích ăn thịt quay, nên mua miếng thịt cũng chẳng ra hồn. Từ nay, cô cứ để tôi khi nào thích ăn thì mua...

    Nàng lẳng lặng mang gói thịt xuống bếp thái. Miếng thịt to, nàng bớt lại một phần, để sáng mai cho con Gấu mang về. Nàng cất miếng thịt trong chạn, úp một cái bát lên trên, yên tâm vì biết anh ta chẳng bao giờ thèm ngó ngàng đến bếp núc.

    Sáng sớm hôm sau, con Gấu đến. Nàng mở chạn, lấy miếng thịt quay gói lại cho vào túi vải, cùng với những thứ khác, vội vã giục nó về ngay. Nàng sợ chồng bắt gặp con Gấu.

    Buổi chiều, nàng cảm thấy ruột gan cứ bồn chồn không yên. Cái tâm trạng ấy, khiến nàng như mất hồn, hết đứng lại ngồi, đi ra lại đi vào. Không phải vì chiều nay, chồng nàng ở nhà. Anh ta cũng chẳng quan tâm đến trạng thái ấy của nàng, cứ nửa nằm nửa ngồi trên đi văng, vừa nghe nhạc, vừa đọc chưởng.

    Bỗng có tiếng tru thảm thiết của con Gấu ở ngoài cổng. Nàng run bắn người, linh cảm thấy có một tai họa khủng khiếp. Nàng không đủ sức đứng lên mở cổng nữa. Chồng nàng hỏi:

    - Cái con chó đen nhà cô phải không? Nó chưa chết à?

    Nàng tái mặt lắp bắp:

    - Anh... anh... bảo... bảo... ai ... Ch... chết?

    - Con chó nhà cô ấy. Nó không ăn cái miếng thịt quay ấy à? Tôi đã tẩm thuốc độc vào đấy đấy!

    Nàng ngã khuỵu xuống, như một cây chuối thối gốc:

    - Giời ơi là giời... Anh giết anh ấy rồi...

    Nàng khóc và ngất đi. Chồng nàng hoảng sợ, vội vớ lấy dầu bạc hà xoa cho nàng, lay gọi nàng:

    - Cô nói làm sao? Ai chết? Tôi giết ai? Cô điên rồi à?

    Nàng dần dần tỉnh lại, cũng với tiếng hờ khóc càng to hơn:

    - Giời ơi là giời... Anh giết anh ấy rồi... Anh ấy ốm... Tôi lấy miếng thịt bảo con chó mang về cho anh ấy... Ðồ độc ác... Ðồ dã man!...

    Anh ta cho nàng một cái tát, hai cái tát. Nàng choáng váng, nín bặt, nhìn trừng trừng:

    - Mày đánh nữa đi! Mày giết nốt tao đi! Tao có cần sống đâu mà... Quân giết người!

    Anh ta dằn từng tiếng:

    - Này! Cô nghe đây! Tôi định giết là giết con chó. Tôi ghét vì nó cứ lui tới đây tìm cô. Cô tưởng cô giấu tôi cho nó mà lọt à! Tôi biết hết! Nhưng tôi lại không ngờ anh ta lại ăn tranh của chó. Chính cô mới là người giết chết anh ta!

    Nàng giận bắn người, miệng há hốc, mắt trợn trừng. Nàng ghê sợ cái suy nghĩ, cái cách nói trần trụi, tàn nhẫn của con người đó, nàng lảo đảo đứng dậy, xiêu vẹo đi ra phía cổng, nơi con Gấu đang đu người lên mà tru từng hồi. Anh ta quát to:

    - Cô không được mở cổng! Tôi cấm cô!

    Nàng không thèm nghe. Nàng đang ở vào cái trạng thái không biết sợ một cái gì - kể cả cái chết. Nàng mở toang cửa, ôm lấy đầu con Gấu mà khóc không thành tiếng. Nước mắt của con Gấu cũng ướt cả tay nàng. Rồi nó toài ra, ngoạm tay nàng kéo đi. Nàng đắn đo giây lát, rồi bảo:

    - Gấu, ở đây nhé. Ðợi chị.

    Nàng ấn con Gấu ngồi bên góc cổng, rồi rảo bước vào nhà. Nàng nói với chồng, nhỏ nhưng quyết liệt:

    - Tôi phải đi! Anh có cấm, tôi cũng đi! Nếu anh cấm tôi, tôi sẽ tố cáo anh. Rồi ra sao thì ra.

    Anh ta nhìn vẻ mặt nàng, nhìn ánh mắt điên dại của nàng, nghĩ một lát, rồi gằn giọng:

    - Thôi được cô cứ đi, nếu cô thích. Nhưng tôi nói để cô biết, cái mặt cô cũng chẳng đẹp đẽ gì, nên cứ liệu đấy mà phơi ra...

    Nàng không thèm trả miếng, hấp tấp quay ra cổng, con Gấu vẫn đứng đấy, vội vã vượt lên trước, cứ một quãng, nó lại đứng đợi, vẻ bồn chồn. Mãi đến khi đi một quãng xa, nàng mới sực nhớ ra mình chẳng có một đồng nào cả. Nàng gọi:

    - Gấu lại đây đã!

    Và nàng đi đến một tiệm vàng. Nàng tháo chiếc dây chuyền, cái nhẫn, chủ tiệm nhìn vẻ mặt nàng, không hỏi, đem đi cân, thử, và nói giá, tính tiền, đếm tiền. Nàng lặng lẽ cầm bọc tiền và lặng lẽ ra khỏi tiệm.

    Trên đường đi, cho đến lúc này, nàng mới nhớ lại tình cảm của mình. Và, những lời nói của chồng, làm nàng phải cân nhắc: "Có nên đến thẳng chỗ anh ấy không?"

    Nàng hình dung ra căn nhà tồi tàn không khí lạnh lẽo của nó, vẻ mặt khổ não và ảm đạm của người quá cố, ánh mắt của người làng... Nàng thoáng rùng mình và do dự. Nàng thấy tốt nhất là hãy cứ sang nhà bên cạnh xem sao đã. Hai vợ chồng ông lão hàng xóm vốn phúc hậu, rất quý nàng, khi nàng còn là vợ anh giáo. Vả lại, trời cũng đã nhá nhem, ít người nhận ra nàng...

    Ðến gần ngôi nhà cũ, nàng thấy người vào ra thì đông mà tiếng khóc thì thưa thớt, nàng thấy mình có tội với anh ấy, thấy mình chẳng còn mặt mũi nào mà bước vào ngôi nhà đó, nhìn mặt người chồng cũ lần cuối. Nàng vội vã rẽ vào nhà bên cạnh, lén lút như một con ăn cắp. Gặp bà cụ, nàng òa khóc:

    - Anh ấy đi rồi à, bà ơi?

    - Tội nghiệp... sao chị biết mà về?

    - Con Gấu nó đến báo cho cháu...

    - Lạy giời Phật! Thảo nào... vừa mới trưa, nó sang nhà tôi. Ông lão nhà tôi đang nghỉ. Nó cứ vừa tru, vừa ngoạm tay ông lão lôi dậy. Sang, thì anh giáo đã đi rồi. Người ta bảo là do ốm sẵn mà ngộ độc thức ăn... Ðồ nóng anh giáo không ăn mà chỉ ăn đồ nguội. à... à... ra con Gấu nó đến báo cho chị đấy...!

    Những lời của bà già làm nàng buốt nhói đến tận ruột gan. Nàng muốn nói "Bà ơi! Chính cháu đã giết anh ấy!", mà không dám. Một cơn ớn lạnh làm nàng rùng mình, nàng vội giở bọc tiền, dúi vào tay bà lão, mếu máo:

    - Bà ơi... cháu có lỗi với anh ấy... Cháu chẳng còn mặt mũi nào mà nhìn anh ấy nữa. Số tiền này, cháu dành dụm được, nhờ ông bà với hàng xóm láng giềng lo cho anh ấy. Thôi thì, trăm sự nhờ cả ông bà...

    Bà lão, thấy nàng như vậy, cũng mủi lòng:

    - Chị nghĩ vậy, là phải! Ðể tôi đi gọi ông lão về!

    Nàng vội níu tay bà cụ:

    -Thôi bà ạ! Cháu xin phép bà, cháu phải về ngay đây!

    Nàng nấc lên, vội vã đi như chạy ra khỏi cái ngõ hẹp nhà bà cụ. Và cứ thế, nàng lầm lũi đi. Con Gấu không biết nàng về. Nó bỏ nàng ngay từ lúc nàng đến gần nhà. Nó làm thế là đúng thôi. Chỉ có nàng mới là kẻ phụ bạc.

    Ðêm! Trăng suông. Con đường vắng. Những ngọn gió hoang thỉnh thoảng lại cồn lên, nàng có cảm giác đó là âm hồn đang đi lang thang...

    Có tiếng chân chạy phía sau, làm nàng giật bắn người. Một bóng đen vụt qua, rồi đứng khựng lại. Con Gấu, nàng mừng rỡ, ngồi thụp xuống, ôm lấy đầu nó và cảm thấy trống ngực vẫn đập thình thình.

    Con Gấu đi cùng nàng đến đoạn đường sáng đèn phố, thì dừng lại. Nó để yên cho nàng vuốt ve một lúc, rồi vùng chạy ngược về nơi mà nàng đã từ bỏ.
     
  11. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Ông gàn

    Ngô Bằng Dực

    Mắc tiếng gàn mà tự nghĩ không có điều gì gàn, thì ông gàn cho là đời nói càn, không để ý đến. Nhưng sau thấy vợ rầy-rựt, vì ông chồng gàn mà bà vợ bị giễu là "bà gàn", nên muốn tìm người hỏi xem mình gàn về nỗi gì. Một hôm dạo sơn-thủy, gặp một ông cụ ở trên một ngọn núi cao, bèn đem câu chuyện ra hỏi.

    Ông cụ hỏi: "Thế anh có hay nói chuyện đạo-đức không?"

    Ông gàn đáp: Thưa cụ, có.

    - Thế là một tội gàn rồi! vì người ta đều nói chuyện lợi danh, sao anh lại nói chuyên đạo-đức.

    Ông cụ lại hỏi: "Thế anh còn tròn không?"

    - Thưa cụ, không, cháu tất phải bánh chưng ra góc mới được.

    - Thế là hai tội gàn rồi! Sao người ta tròn như cây gỗ, lăn đâu cũng được, mà anh lại bánh chưng ra góc cho chướng đời.

    Ông cụ lại hỏi: "Thế anh có hay ngâm thơ không?".

    - Thưa cụ, có.

    - Thế là ba tội gàn rồi! đời bây giờ người ta tranh nhau vì miếng ăn, giết nhau vì đồng tiền, nghĩ nát óc vì cách cướp ăn, vét tiền mà anh ngồi ngâm thơ thì sao hợp thời được. Cái gàn của anh ở đây chứ ở đâu. Anh phải biết: phàm trái với đời là gàn, dẫu mình phải mười mươi cũng mặc. Nhưng thôi! sẵn tiền đây, anh có bán cái gàn ấy, lão mua.

    - Thưa cụ, nếu thế là gàn, thì cái gàn ấy bao nhiêu tiền cháu cũng không bán. Muốn tạ cụ có lòng chỉ giáo, cháu lại xin ôm cái gàn này về nhà.

    Thực là:

    Gàn cũng năm bảy đường gàn,
    Bàn tay bưng miệng thế-gian được nào
    Ðời này còn muốn thanh-cao,
    Khen chê thôi có để vào chi tai.


    Thời-hài
    (Nhà in Ngô Tử-Hạ, Hà-Nội)
     
  12. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Con hổ mun

    Ðặng Thư Cưu

    Ông Trì Gầm ngồi yên lặng như một gốc cây cổ thụ, đăm đăm nhìn mặt trời đỏ sậm màu máu, hạ chầm chậm xuống mặt đầm lầy mù mù chướng khí. Những tia nắng cuối cùng sáng rực, lấp lánh như nhiều mũi giáo nung già lửa trong lò, đâm xuyên qua làn sương trắng. Cánh rừng bao bọc chung quanh dần bắt đầu ngả màu đen sẫm. Gió đứng. Bầy muỗi bay lào xào, thỉnh thoảng va mạnh vô khuôn mặt sạm màu sắt, lạnh câm như đẽo trên tảng đá. Tiếng loài thú nhè sột soạt trong lùm bụi phía rừng chồi. Tiếng cá sấu thở cạnh bờ sông nghe như tiếng rên trầm trầm. Muỗi táp vô mặt ông mỗi lúc một nhiều bám đầy trên cái đầu cạo nhẵn. Ông hậm hực:

    - Hổng ngồi yên được với cái đám muỗi rừng ôn dịch này.

    Ông đứng dậy chậm rãi. Dáng cao lớn gù gù như một con gấu lực lưỡng. Bắp thịt ngực phồng to, chắc nịch loáng thoáng những vết sẹo dài, nổi vồng lên có màu tai tái. Ông Trì Gầm nhóm lửa bằng những nhánh bằng lăng khô. Ngọn lửa vàng cam hắt ánh sáng lên mặt ông, rung rinh, chờn chợn những nét vẻ kỳ quái. Chỉ có đôi mắt nhỏ và sâu, lạnh và bén, xọc thẳng vào màn đêm vừa chớm như mắt thú rừng. Ðó là thứ vũ khí phòng vệ chắc chắn, đáng tin tưởng của những con người đặt chân lên vùng đất hoang vu ở phương Nam này.

    - Sao ổng chặt mây lâu dữ vậy cà?

    Như trả lời câu hỏi một mình của ông, một tiếng thú vang lên cuồn cuộn như tiếng bão. Nó chứa đựng một sức mạnh man dã, rừng rú. Nó trườn qua khu rừng, dội mạnh vào những gốc cây già, lướt trên chồi xanh, phá vỡ cái tịch mịch nặng nề của đầm lầy và sau cùng hòa tan vào những âm thanh rì rầm bất tận của dòng sông.

    Ông Trì Gầm nhếch môi:

    - Ông đã về.

    Ông quay vào chòi lá lấy một tảng thịt rừng khô treo trên mặt đám than hồng. Phút chốc mùi thịt nướng ngọt đậm lan rộng. Cái giọng ngập ngừng nhưng sang sảng như tiếng đá vỡ:

    - Chà... màn nguyên... màn nguyên... ta đói bụng quá.

    - Tôi chờ ông từ hồi mặt trời còn ở trên đọt rừng bằng lăng.

    - Hà... hà... màn nguyên... màn nguyên... Ta chém được cái đuôi của con tinh khù lỳ.

    Người đàn ông xuất hiện nhẹ nhàng như một con beo đen. Ông liệng bó mây nước xuống sân và quăng trước mặt ông Trì Gầm một vật vằn vện dài hơn thước tay. Ông già lặng lẽ nhìn cái đuôi cọp mềm mại như còn rung động:

    - Sao không chặt luôn ổng?

    Người đàn ông cắm cây mác thông xuống đất, xếp bằng ngồi cạnh đống lửa:

    - �n uống đi rồi... màn nguyên... ta kể cho nghe.

    Ông già rót rượu ra chén, xé thịt nướng đưa cho người đàn ông. Ông ta uống đánh ực một hơi cạn chén, bỏ thịt vô miệng nhai ngồm ngoàm khoái chí. Ðôi mắt to của người đàn ông rực lên như hai hòn than cháy.

    Ông già yên lặng ngắm người bạn rừng. Chính ông cũng không biết rõ tuổi tác thật sự của người đàn ông là bao nhiêu? Với tấm thân đen bóng, dè dặt như các sớ gỗ mun cùng mái tóc rối bời bò xấp xõa ngang vai tạo cho người đàn ông một nét man dại cổ sơ. Ông già đánh bạn với người đàn ông trên hai năm nay. Cũng là dân lưu lạc xuống vùng đất rừng hoang vu này, nghề nghiệp khác nhau. Ông Trì Gầm chuyên nghề câu sấu đem bán ngoài xóm dân. Dụng cụ của ông là lao mun, là câu móc, là dây thừng. Người đàn ông là thợ săn cũng là người chặt mây rừng đem đổi chác ngoài xóm. Những lần dừng chân bên bờ sông, qua chén rượu, bên bếp lửa đêm, những thỏi thịt rừng, thịt cá sấu đã cho hai người cái tình bạn thật tự nhiên như cây rừng, như đầm nước. Nó không pha tạp một thứ gì hết. Nó trong vắt như nguồn sông nguyên khai. Nó đậm dà như mật ong mùa tháng giêng. Ðất rừng hùng vĩ, phong phú nhưng cũng đầy nghiệt ngã, nguy hiểm. Trong cuộc sinh tồn đơn giản đó, họ thấy cần nhau, thương nhau một cách lặng lẽ.

    Bằng cái giọng ngập ngừng, phải lót thêm tiếng đệm vô nghĩa nhưng quen thuộc, người đàn ông kể cho ông già việc ông chặt đứt đuôi cọp mà ông gọi là tinh thù lỳ. Khi vô tới khu vực có mây nước mù thì trời đã xế. Người đàn ông ăn gói cơm nắm xong tính đốn mây rồi về sớm vì đã hẹn với ông già uống rượu đêm nay. Ông lần vô cụm mây già đủ tuổi thì một con hổ vằn chặn đường. Có lẽ nó qua đói vì không tìm được mồi, chớ bình thường ít khi nó dám tấn công ông một cách trực diện như vậy. Con hổ gầm gừ, quật đuôi liên tục và ứa bọt miệng trắng xóa. Người đàn ông bực tức giơ cao ngọn mác thông:

    - Màn nguyên... màn nguyên... ta chém chết bây giờ. Con hổ bươn tới chầm chậm vì cái đói cồn cào nơi bụng. Bất ngờ nó đập mạnh đuôi về phía trái. Theo kinh nghiệm, người đàn ông hiểu con dã thú sẽ tấn công bên mặt. Ông tràn ngang và ngọn mác thong sắc bén trên tay vớt ngược, dọc theo sườn con thú. Sức mạnh ghê gớm của người thợ rừng đã chém ngọt một phần đuôi con hổ vằn và thuận đà rẹp thêm mấy cây mây gai góc. Con gổ hộc lên một tiếng kinh hoàng, vụt vào bụi, lê theo mấy vết máu đỏ thẫm.

    Ông Trì Gầm rót thêm rượu:

    - Thật là may cho lão. Tui tin rằng ông sẽ chém đứt hông lão chỉ với một nhát thôi.

    Người đàn ông cười sằng sặc:

    - Màn nguyên... ta cũng không muốn chặt lão chút nào hết... miễn là lão đừng động chạm tới ta.

    Tảng thịt rừng còn trơ lại khúc xương bị gặm nham nhở. Ông già liệng thêm nhánh khô. Bếp lửa bùng cháy. Gió đêm bắt đầu hú ầm ào. Bầy muỗi rừng chốn biệt. Thật ra tiếng hổ gầm no mồi như uất nghẹn.

    Ðột ngột hai người thợ rừng im bặt, nghiêng đầu nghe ngóng, mắt quắc lên, rực lửa. Người đàn ông đứng dậy ngó ra bờ sông. Tấm thân cuồn cuộn bắp thịt sừng sững, hắt lên trong bóng lửa chập chờn như một hình thần linh. Giữa cái âm thanh rì rầm như than thở của dòng sông họ nghe rõ tiếng mái chèo rẽ nước. Ai dám vào tận cùng ngọn rạch sâu thẳm giờ này?

    Tiếng động của chiếc ghe mỗi lúc một gần. Tiếng người nói chuyện thì thầm. Ông già bật dậy, lao ra bờ sông:

    - Ai?

    Trăng lùi lũi chui vào cụm mây mù. Góc rừng tối sầm lại như vừa có một cơn bão đen lướt qua thật chậm chạp. Bếp lửa chỉ còn những vụn than hồng. Ông già không nhóm thêm để lắng nghe người khách lạ kể chuyện. Cả ba ngồi quanh bếp than. Vụn than nổ lép bép, vụt sáng bừng, rọi lấp lánh lên mớ râu muối tiêu phất phơ dưới cằm của người khách lạ. Ông nâng chén rượu của bạn rừng mới, uống một hớp:

    - Tôi và chiếc ghe này đi lang bạt giang hồ. Rất nhiều khu rừng phương Nam đã có dấu chân tôi. Tôi là dân ăn ong các bác à! Các bác có nghe chớ? - Ông Trì Gầm và người thợ rừng nói lắp im lặng gật đầu.

    - Nghề này không đụng chạm tới ai. Ong của rừng. Chỉ tội là phải lặn lội vất vả. Nhiều khi dân rừng không hiểu, hay nghi ngờ, làm khó dễ. Ong nhiều lắm. Ong là vị ngọt, là hương thơm của rừng. Mật không của riêng ai. Ông Trì Gầm nhếch môi:

    - Tui nghe người ta nói mật của thần rừng.

    Người khách lạ ngước mặt lên nhìn sâu vào thăm thẳm bóng đêm. Trăng vàng quạch phía rừng già:

    - Dà. Bác đã nghe nói đến thần rừng là bác biết nghề của chúng tôi rồi. Nó như một lời nguyền truyền kiếp. Phải cúng tế, phải van vái. Nhiều dân ăn ong bỏ qua tập tục này, không tin tưởng thì suốt mấy tháng liền không kiếm được một giọt mật, rồi ốm đau liên miên, vốn liếng cạn sạch, thân sơ thất sờ. Ghê gớm vậy đó bác.

    Người thợ rừng nói lắp nãy giờ câm lặng như đêm, chợt lên tiếng:

    - ... Màn nguyên... mà cúng bằng gì?

    Người khách chưa kịp hiểu câu nói của người thợ rừng. Lát sau, ông nghĩ ra, vui vẻ:

    - Có gì cúng nấy bác à. Cái cần là do lòng thành của mình, lời hứa của mình. Khi thì heo quay, thủ vĩ luộc. Cũng có khi...

    Người khách chợt cắt ngang câu nói. Âm thanh rơi hẫng vào màn đêm mất hút. Người khách quay đầu ngó xuống bờ sông. Ông Trì Gầm chợt nhớ ra lúc ra đón chiếc ghe, ông nhác thấy dáng một người thật nhỏ nhắn, lúi húi trong mui bằng lá chàm. Người khách quay lại:

    - Nhiều khi cúng cả con cái mình.

    Ông già ngạc nhiên:

    - Ông nói thiệt hay nói giỡn?

    - Rừng linh thiêng lắm, không nói chơi được. Nhiều khu rừng quá nặng ám lực huyền bí, cúng vật chết không làm ăn được phải tế bằng vật sống.

    - Rồi con người bị cúng đó ra sao?

    - Cũng về với gia đình thôi. Chưa thấy thần rừng nào nhận hết, nhưng không có lời van vái, thành thật thì không làm ăn được. Tôi cũng không hiểu.

    Ðêm đã khuya. Trăng khuất dưới tán rừng đen kịt. Tiếng thú kiếm ăn cũng vắng bặt, chỉ có đám côn trùng rì rì suốt đêm. Người khách từ giã hai người thợ rừng để xuống ghe.

    - Tôi còn ở đây, mình còn nhiều dịp để tâm sự, nếu thần rừng ở đây cho phép tôi xin ít mật của rừng.

    Ông Trì Gầm đứng lên, dúi vào tay người khách thỏi thịt rừng phơi khô và một nắm muối. Người khách nhìn ông, lòng cảm tạ ngập ngời trong ánh mắt. Ông Trì Gầm trở vô chòi. Người thợ rừng nói lắp đã nằm yên trên sàn lót bằng những thân gỗ tròn, bóc vỏ. Ông Trì Gầm nhồi thuốc vào cái vố bằng gốc tre, bước ra ngoài châm hút và đứng tựa ngó mông lung về dải rừng xa hun hút. Mảnh đất hoang vu này còn chứa biết bao nhiêu điều mà ông không thể hiểu hết. Ðời người quá ngắn ngủi trước bí mật của thiên nhiên. Với ông thì ông có thể tự hào về sự am hiểu các bãi cạn, các vực xoáy, những con lạch đầy bùn dẫn vô đầm lầy, chỗ nghỉ ngơi của bầy cá sấu. Ðánh bạn với người thợ rừng nói lắp, ông biết thêm về cây mây đầy gai, những con chồn làm ổ trong bụi chà là hay những cái trứng rắn hổ mây to lớn. Bây giờ nói chuyện với người khách lạ ăn ong, ông hiểu rừng chỉ mới ban phát cho ông một vài vấn đề thông thường. Còn nhiều cái chất chứa ngập trong lòng khối đen thẫm trước mặt, trong muôn ngàn âm thanh kỳ quái của rừng đêm... Nhất là thần rừng. Cái bí lực huyền hoặc đó có thật không? Có tham dự thật sự vào những đời sống đơn giản của những người thợ rừng hay không? Ông Trì Gầm nghe giữa ngực có một cái gì đó nặng như treo lên một khúc gỗ mun. Ông đằng hắng một tiếng lớn, khạc mấy sợi thuốc vướng trong cổ họng. Ðêm lạnh câm đầy đe doạ. Bỗng nhiên đêm rừng nay khác hẳn mọi đêm khác. Nhiều dấu hỏi hiện ra trong đầu ông ngoằn nghèo như những con rắn hổ đất con vừa mới nở.

    Hai cha con men theo ven đầm lầy đi một quãng khá xa mới tới vùng gò tranh. Mùi bùn, mùi nước đọng quanh năm, mùi cỏ ướt như quyện kín lớp không khí yên ả buổi sáng. Qua cánh đồng tranh hai cha con bắt đầu đi vào vùng trời tím nhạt của cánh rừng bằng lăng đang độ trổ bông. Tiếng ong rì rầm không ngớt. Người cha hít thật sâu mùi hương ngây ngất. Ðứa con gái hái một nhánh bông cầm nơi tay. Không ai có thể ngờ được rằng với những bước chân thong thả, nhẹ nhàng như một cuộc dạo chơi đó, hai cha con đang dẫn nhau đi tế thần rừng. Cuộc sống dềnh ra trước mặt bằng những bí ẩn chập chờn, bằng một sức mạnh mà con người chỉ thấy qua hơi thở. Rừng lặng im như chất chứa ngồn ngộn sức sống. Nó sẵn sàng dâng hiến và cũng sẵn sàng tiêu diệt.

    Qua rừng bằng lăng, mặt đất đổ dốc, nghiêng xuống một dải rừng tràm mịt mùng không nhìn thấy giới hạn. Mùi bông sực nức trong gió và tiếng ong rộn rã một giai điệu bất tận. Người cha ngó đăm đăm vào rừng tràm mường tượng nhìn thấy một dòng mật màu hổ phách, trong suốt, đặc quánh chảy trong đó. Người cha nói với đứa con gái:

    - Hãy thành tâm cầu nguyện với thần rừng cho cha con mình may mắn trong chuyến làm ăn này đi con. Ðứa con gái ngước mắt nhìn dải rừng có màu sáng xanh yên bình. Nắng đọng thấp thoáng trên tán rừng những vệt màu hồng tươi. Cô ngửi thấy mùi hương bông, mùi mật đến mùa. Người cha đứng bên cạnh nói lớn:

    - Xin thần rừng cho phép cha con tôi được ăn ong trong khu rừng này tròn một vòng trăng. Tôi hứa sẽ không phá hại của cải của rừng. Ðêm trăng tròn tới tôi cho con gái tôi một trinh nữ mười tám đến tạ ơn thần rừng. Số phận của nó tùy ý quyết định của thần rừng.

    Tiếng nói chậm rãi, gọn gàng từng âm một như liệng vào rừng yên ả những hòn sỏi của số mệnh. Thốt nhiên người con gái rùng mình. Cô cảm thấy có một nỗi bứt rứt kỳ lạ chạy rần rật trong máu. Cô nắm lấy tay người cha:

    - Ba! Con thấy sợ.

    Người cha quay trở lại:

    - Con yên lòng. Mình chỉ dâng phần tinh thần cho rừng. Rừng không bắt con đâu. Như những lần trước.

    - Nhưng đêm qua con chiêm bao.

    - Con thấy gì?

    - Con cỡi trên lưng một ông hổ bay vun vút, qua hết một dãy rừng thiệt dài. Sau đó con thấy mình hóa thành hoa rừng, một bụi hoa có màu đỏ như máu.

    Người cha im lặng một lúc. Ông tin tưởng sự có mặt linh thiêng của thần rừng nhưng ông không ưa chiêm bao, mộng mị. Nó dễ làm cho người ta xiêu lòng. Ông an ủi con:

    - Tại trước cảnh lạ, lòng con hốt hoảng hay nhìn thấy bậy bạ.

    - Mấy bác thợ rừng nói ở đây có nhiều ông hổ.

    - Thì cũng như mấy khu rừng miệt trên thôi. Cha tin ở con.

    Hai cha con không nói chuyện gì với nhau khi đi qua đồng cỏ tranh. Phía đầm lầy mà sương còn quánh đặc, lơ lửng trên mặt đầm cái màn trắng mờ, rung rinh huyền ảo. Chợt người cha nói to một mình:

    - Cầu nguyện với rừng, lần này làm ăn khấm khá, có một số vốn, cha con tôi sẽ định cư ngoài bờ sông. Không vào rừng nữa.

    Bất ngờ một tiếng hổ gầm vang lên thật gần phía rừng bằng lăng như trả lời người cha. Âm thanh dội mạnh, kéo dài ra thành tiếng rền u u rồi lắng tan, đứa con gái siết chặt bàn tay người cha. ánh mắt trong sáng của cô vừa lướt qua một bóng mây hãi hùng.

    *

    Thời gian được tính thành vòng cung mặt trời lên ở phương đông và lặn ở phương tây. Ðơn giản như cuộc sống của những người thợ rừng, kể cả người khách lạ ăn ong. Mỗi người một việc. Họ không làm phiền nhau cũng như ít khi giúp lẫn nhau. Ông Trì Gầm thì mải mê với những con lạch đầy muỗi dẫn vô đầm lầy và tiếng sấu thở trầm trầm. Người thợ rừng nói lắp thì gắn bó với rừng mây đầy gai nhọn. Cha con người ăn ong lầm lũi về phía rừng tràm nức hương mật. Không biết do lời cầu nguyện đã đến tai thần rừng hay do nguồn mật dồi dào của cánh rừng hoang dã mà những lu, hũ của ông ta đã đầy ăm ắp?

    Một đêm khi vòng trăng bắt đầu trở lại, người khách mang lên chòi một tảng mật lớn pha vào rượu. Ðứa con gái lo nướng một con cheo bị bẫy. Họ ngồi túm tụm nhau như đêm đầu tiên bên bếp lửa nhóm bằng nhánh bằng lăng khô. Rượu rót đầy chén, thơm ngát mùi mật, ngọt đẫm đầu lưỡi và họ uống không biết say vì đêm nay có lẽ là đêm chia tay.

    Ông Trì Gầm vẫn với cái nhìn lạnh căm như dòng nước đêm:

    - Cha con ông có thể ra đi được rồi. Rừng quá rộng rãi với cha con ông.

    - Vầng trăng đã trở lại. Thời hạn xin làm ăn ở đây đã hết. Chắc kỳ này tôi sẽ dành dụm làm vốn, định cư ngoài vàm sông và lo cho nó một tấm chồng.

    Ðứa con gái bẽn lẽn cúi mặt dấu vào mái tóc dài óng ả. Người thợ rừng nói lắp bật cười:

    - Mắc cỡ làm chi con? Về xóm sống cho thoải mái. Rừng khắc nghiệt lắm con ơi.

    Ông Trì Gầm ngó mông về hướng rừng đêm.

    - Còn lời cúng tế?

    Người khách quấn một điếu thuốc lớn, nghiêng đầu châm vào bếp lửa:

    - Phải trả chớ.

    - Ông bỏ đi không được sao?

    - ồ không. Lời hứa vẫn là lời hứa. Số mệnh là số mệnh. Phụ lời nguyền tôi không hiểu hậu quả sẽ ra sao?

    - ...Màn nguyên... nghĩa là ông giao con cho rừng?

    - Phải vậy thôi. Ðêm mai, đúng kỳ trăng tròn trở lại, tôi đưa con gái tôi vào trong rừng. Sau đó nếu thần rừng tha cho nó thì nó sẽ theo tôi về xóm.

    - Thần rừng cho hổ ra đánh với con gái tôi. Nó đã thắng tất cả và như thế thì lời cúng tế của tôi như đã xong.

    Hai người thợ rừng mở tròn mắt nhìn hết người khách đến cô gái bé nhỏ. Họ vẫn im lặng như câu chuyện đó thật bình thường, như việc dùng dao tre gạt cái túi mật căng tròn, tươm ra một dòng vàng sánh, óng ả.

    - ... Màn nguyên... thiệt à? Ta chưa nghe nói như vậy bao giờ?

    Người khách nâng chén rượu uống một hơi dài. Cô gái vẫn nhìn vào bếp lửa. Thỉnh thoảng cô liệng vào một nhánh khô. Lửa bùng lên, uốn éo, so rạng gương mặt trông dễ thương của cô gái.

    - Ðêm mai tôi mời hai ông chứng kiến một cuộc trả lễ. Tôi tin rằng chúng tôi sẽ ra đi an toàn. Họa hoằn... đó là số mệnh...

    Người khách không nói tiếp. Tiếng chim rừng rít lên thảm thiết ở một góc trời.

    Ðêm im sững không một chút gió. Trăng lên ngang đỉnh đầu, tròn vành vạnh, sáng lóa. Quãng đất trống ngăn vạt cỏ tranh và dải rừng già trắng lạnh. Ba người đàn ông dừng lại. Cô con gái bước tới sau lưng. Người khách quay đầu lại:

    - Xong chưa con?

    Cô gái gật đầu. Cô mặc bộ đồ đen. Quần túm ống. Một chiếc khăn buộc chặt ngang cái bụng nhỏ xíu. Mái tóc dài được bới cao gọn ghẽ. Cô cầm trong tay một cây roi vừa tầm làm bằng một thứ cây rừng vừa dẻo, vừa nặng. Người khách cùng cô con gái bước ra khoảng đất trống. Ông nói to, chậm rãi như ném tiếng vào rừng già:

    - Thưa thần rừng linh thiêng, ngày trăng trở lại đã tới, tôi đã được ít mật của rừng cho. Như lời xin, đêm nay tôi đưa con tôi đến cho thần rừng, mong thần rừng thương nó còn bé bỏng. Số phận nó trong tay ngài. Tôi chỉ trông cậy vào tình thương của ngài.

    Hai người thợ rừng ngồi lại trong đám cỏ tranh. Lần đầu tiên họ rùng mình trước lời van vái khủng khiếp. Người khách quay lại ngồi với họ. Ðêm rừng im phăng phắc. Cô gái chống roi đứng giữa vùng trăng sáng, rực rỡ như huyền thoại, ma quái vào bí ẩn như đời rừng.

    Ðột nhiên tiếng chim lạ gào lên như âm thanh một tiếng khóc nức nở. Rồi tiếp theo là một tràng cú rúc kinh hoàng. Dáng nhỏ nhắn người con gái vẫn bất động. Phía rừng già vang ầm ào như có gió lốc xoáy lên. Một tiếng gầm dũng mãnh ác độc và đe doạ ập tới như có thể sờ thấy nó lướt ngang mặt cỏ tranh sắc cạnh. Con hổ vằn to lớn vọt ra từ trong rừng già co người lại tụ hình trước mặt cô gái. Cụm lông bạc phía dưới hầu như phát sáng trong ánh trăng. Con hổ lom lom nhìn cô gái bằng cặp mắt hừng hực lửa. Cô gái vẫn đứng bất động. Cô đã chết đứng rồi chăng? Con hổ vẫn vươn mình, mềm mại, uyển chuyển thành cái bóng trườn dài ra, phớt tối như một ánh mây vừa che lấp mặt trăng. Và người ta nghe thấy tiếng roi vun vút, xé gió cuộn ánh trăng thành những chùm bông kim ngân tơi tả. Con hổ gầm gừ, vây phủ cô gái bằng những cái vuốt xoè ra và đôi nanh ướt đẫm. Cô gái như đã biến thành bóng khói nhẹ lướt êm như sương né tránh những cái vồ độc hiểm. Cô tiếp sát vào sườn con dã thú, ngọn roi đánh đúng vào xương sống rồi đốc roi hất ngược lên giữa ức con vật. Con hổ hộc lên một tiếng văng ra và biến vào màn đêm đen kịt.

    Hai người thợ rừng thở phào. Họ nghe như cái khối nặng nãy giờ treo trên ngực đã được cất đi. Họ toan đứng lên những người khách vội níu lấy vai họ dằn xuống, thì thào:

    - Thần rừng mới thử sức thôi chưa đấu thật đâu.

    Ðúng như lời nói, khoảng đất trống lại xuất hiện một con hổ khác. Con này chỉ bằng bảy phần con hổ vằn, thong thả từng bước mềm oặt. Nó mang bộ lông màu xám trắng. Những vằn đen hằn mờ mờ. Con hổ xám có vẻ thận trọng và cô gái cũng không đứng thản nhiên như trước. Cô lùi lại cầm ngang ngọn roi. Con hổ xám tiến tới trước mặt cô gái. Nó chụm hai chân trước lại, thân hình vươn dài, áp sát xuống mặt đất như chờ đợi một sự âu yếm. Cái hung hãn, dữ dằn của nó chỉ ngập ngời trong ánh mắt biếc xanh.

    Cô gái và con hổ nhìn nhau thật lâu như thôi miên, như tìm kiếm sơ hở, như uy hiếp tinh thần đối thủ:

    Một đám mây phớt qua ánh trăng. Con hổ hực một tiếng nhỏ nhưng sắc rồi chồm tới. Một chân nhắm vào bả vai, một chân nhắm vào cổ họng và cái miệng rộng ghê gớm sẵn sàng bẻ gẫy những đốt xương cổ của con mồi. Cái phóng mình của nó thật khít khao và lẹ như một tia chớp. Cô gái cuộn mình lăn tròn dưới ức con vật, lòn ra sau và dùng đầu roi đâm mạnh vào hạ bộ còn vật. Ngón sát thủ trong đường tơ, kẽ tóc. Con hổ xám bây giờ mới chịu vang lên tiếng gầm nhưng là một âm thanh nghẹn đi của sự chiến bại. Nó rớt xuống đất và lết vào khu rừng già thật hèn hạ.

    Người khách dợn mình muốn đứng lên. Ông nghĩ thần rừng đã thử sức với cái vật tế nhỏ nhoi đó. Nhưng thần rừng như đang giận dữ vì tài năng cô gái mỏng manh kia. Rừng không tha thứ. Con hổ thứ ba tiến ra. Ðó là một con hổ mun, thật nhỏ, hiền hậu, nhút nhát và non nớt, nếu như nhìn thoáng qua vóc dáng bên ngoài của nó. Nó không thị uy bằng tiếng gầm giận dữ, bằng cái dáng điệu sẵn sàng uống máu con mồi. Con hổ mun tiến ra khoảng đất trống, rụt rè nhìn cô gái như một con vật nhỏ ngoan ngoãn. Nó đi vòng vòng chung quanh với những bước chân mềm mại, uyển chuyển. Cô gái chống cây roi, tấn công vững chắn như không quay đầu theo con hổ mun vì cô thừa hiểu đó là một cách phân tán sức lực của cô. Mồ hôi đẫm ướt chân tóc. Thần kinh cô căng thẳng dữ dội vì cô đang đối đầu với một đối thủ hết sức nguy hiểm. Cô gái không theo dõi con hổ mun bằng ánh mắt mà cô nghe ngóng bằng toàn thân, bằng xúc giác đang gợn lên trong làn da, bằng thính giác của một con người đứng bên bờ vực lắng nghe tiếng gió hú từ đáy sâu của cái chết. Con hổ mun bình thản như một con vật đang dạo chơi. Nó có vẻ như không chú ý tới cô gái.

    Trăng sụp nhanh xuống mí rừng. Khoảng đất vụt tối. Con hổ mun lẹ làng tấn công từ phía sau lưng cô gái bằng cú vồ nhẹ nhàng không tiếng động. Cô gái xoay người như đã nhìn thấy bằng đôi mắt ẩn sau búi tóc. Ngọn roi đâm vào ức con vật. Nó uốn mình như một tay làm xiếc và rớt xuống bên phải cô gái nặng không hơn chiếc lá rụng. Cuộc chiến đấu thầm lặng. Những người ngồi quanh chỉ nghe thấy hơi thở nặng nề của cô gái. Nắm tay người khách siết chặt một gốc cỏ tranh và nhổ bật nó khỏi mặt đất.

    Cô gái đã đuối sức vì qua nhiều lần chiến đấu cũng như cách vờn mồi nguy hiểm của con hổ mun. Cô nhất quyết đánh đòn sau cùng. Cô run người xuống, xoay cây roi thành vòng tròn... Nhưng bất ngờ mái tóc dài óng mượt của cô sút ra, xoã tung và cuộn lấy một phần roi như một sợi thừng đen biếc. Cô gái lúng túng, vướng vít với chính mái tóc của cô. Con hổ mun chờ có vậy, nó chồm lên, trườn mình như một cơn gió đen.

    - Cha ơi!...

    - Cha ơi!...

    Tiếng con hổ mun gầm lên thanh và sắc. Tiếng gào chiến thắng của nó biến mất như chưa hề xuất hiện. Cô gái nằm sóng xoài trên mặt đất. Người khách rùng mình chấn động. Ông Trì Gầm đứng vụt dậy. Người thợ rừng chụp lấy ngọn mác thông chồm người tới từ khi tiếng kêu vĩnh biệt, đau đớn của cô gái vang lên, từ khi con hổ mun còn há họng rú lên kiêu hãnh và ác độc. Nhưng người khách ấn tay lên vai ông, lắc đầu:

    - Không. Phải giữ tròn lời hứa với thần rừng. Số mệnh là số mệnh.

    - Con ông đã phải chống chọi quá sức.

    Giọng người khách cố ngăn nỗi nghẹn ngào, ăm ắp trong cổ họng:

    - Nó đã làm rạng danh. Nó đã hiên ngang chống chọi với mãnh lực của thần rừng. Hãy để nó ngủ yên với cái vinh quang của con nhà rừng và lời cúng tế. Số mệnh đã khép lại nơi mảnh đất xa lạ này.

    Người đàn ông đứng lên tiến ra khoảng đất trống. Ông Trì Gầm thấy ông chợt già đi thêm mấy mươi năm. Nỗi đau đớn của người cha đang vât ngã ông từng bước. Rừng đã rộng rãi cho ông nhưng cũng hết sức khắc nghiệt khi cố tình cướp khỏi đời ông người con gái thân yêu. Ông quỳ xuống, nhỏ bé hơn bao giờ hết.

    Chiếc ghe của người khách ăn ong đã đi xa. Trên ghe chỉ còn một mình ông. Ông thật đơn côi và yếu đuối. Cô gái ở lại bên góc rừng. Nắm đất nhỏ nhoi cùng ngọn roi cắm đứng trước mộ như một tấm bia.

    Nhiều lần ông Trì Gầm ra đứng trước mộ cô gái. Rừng vẫn vang động những âm thanh trầm trầm hoang vắng. Rừng chất chứa nghìn trùng bí ẩn vừa quyến rũ, vừa nghiệt ngã. Con người tới với rừng bằng sức lực mỏng manh, bằng trí khôn và cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp diễn. Rừng không từ chối cũng không bao dung.

    Ông ngó ngôi mộ và tự hỏi, không biết có con hổ mun thật không? Hay tất cả chỉ là một giấc chiêm bao?
     
  13. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    O tôi - Lê Tri Kỷ

    Người đàn bà mặc áo ni-lông tím Huế dài bết gót, quần xa-tanh trắng rộng thùng thình, chít khăn nhiễu xanh, xô đẩy mọi người, ào vào nhà như cơn gió:

    - Thằng K. mô?... Thằng K. mô?... úi chao, răng mi giống cha mi rứa?

    Chưa nói xong, chưa hỏi xong đã ôm chầm lấy vai tôi, cười ra rả.

    Tôi nhận ra ngay o tôi, o Toản.

    Lạ thật! O tôi giống đúc như hồi tôi ra đi, từ khuôn mặt cởi mở, dáng điệu lúc nào cũng nhanh nhảu, đến tiếng cười giòn tan, cười đầu xóm, cuối xóm nghe được. Có lẽ đây là một trường hợp hiếm hoi trong những cuộc đời xưa nay chưa có đau khổ nào quật nổi chăng?

    Trước Cách mạng Tháng Tám, o tôi là một người nghèo rớt mồng tơi. Hầu như lúc nào, ở trong nhà, tôi cũng thấy o tôi chỉ mặc mỗi chiếc yếm, để dành chiếc áo cánh độc nhất cho những lúc ra đường. Không chịu đi ở, o tôi ở nhờ nhà cha tôi. Cũng không chịu cảnh làm tôi đòi gián tiếp cho anh, o tôi hàng ngày mò cua bắt ốc đem bán chợ kiếm tiền mua gạo, coi như chỉ nhờ cha tôi có cái mái nhà thừa tự của tổ tiên để lại. Vì vậy, o tôi không dám nghĩ tới chuyện lấy chồng. Mà có nghĩ tới, cũng chẳng ai lấy...

    Nhưng sự trớ trêu ấy không bao giờ làm cho o tôi bận tâm. Trái lại, hình như thỏa mãn với cuộc sống tự lập của mình, o tôi lạc quan yêu đời một cách lộ liễu, tuy rằng cuộc đời những người như o tôi trước cách mạng có gì để mà yêu đâu?... Một chuyện vui nho nhỏ nào cũng làm cho o tôi cười ra rả, điều mà đàn bà, con gái thời trước rất kiêng, nhưng o tôi thì không hề chú ý.

    Cách mạng Tháng Tám thành công, o tôi lấy một anh xã đội. Không bao lâu dượng tôi hy sinh. O tôi chỉ bỏ cười cho đến ngày sinh được đứa con trai, thì đâu lại vào đấy. Ngày tôi ra đi thì người em trai mới tròn một tuổi, còn o tôi thì trở về công việc mò cua, bắt ốc nuôi con...

    Nhìn bộ cánh sặc sỡ o đang mặc, tôi đùa:

    - Trông o diện quá!

    - Tội chi mà không diện? Tao còn định bán tấm ván lim trên nhà để sắm đôi dép cườm đi cho mát chân...

    Khoe chưa hết o đã cải chính ngay:

    - Nói cho vui cửa vui nhà chớ có phải mô? Nghe tin mi về, tạo chạy sang mượn áo quần của mụ Hội khoác vào cho mi khỏi khinh, chớ tao thì có... cứt!

    O lại cười toáng lên khiến mọi người cười theo.

    Bác dâu tôi mời o ngồi lên phản và xin o miếng trầu. O vén chiếc áo dài tím lên, để lộ ra chiếc yếm đầy cáu ghét. Thì ra o không có lấy một chiếc áo cánh. O kéo từ túi yếm ra một cái ví làm bằng bẹ chuối ép, móc ví lấy một nhúm sợi khô đét trông như cỏ và một lá trầu to rộng bằng hai ngón tay. O nhường lá trầu cho bác tôi, còn mình thì nhai nhúm cỏ. Bác tôi không chịu, bị o tôi mắng ngay:

    - Cứ ăn đi! Trời sinh voi sinh cỏ, vàng bạc chi mà quý?

    - O nhai thứ chi rứa? Trầu đâu? - Tôi hỏi.

    - Mần chi có trầu? Trầu phải mua từ Vĩnh Linh vô, đắt hơn vàng lá. Cả làng bây chừ đều nhai thứ cỏ ni cả.

    O tôi lại cười, mặc dầu chuyện ấy cứ làm tôi nhói ở tim. Manh áo, điếu thuốc, miếng trầu có khi làm khổ con người hơn miếng cơm. Càng hiểu điều ấy, tôi càng ngạc nhiên thấy những thiếu thốn day dứt ấy không hề làm cho o tôi bận tâm, như là cả cuộc đời mình, o tôi không biết lo là gì.

    Chuyện trò một lúc, tôi mới biết o tôi cũng có một điều lo lắng ám ảnh suốt hai mươi năm: lo cho con.

    Người con trai độc nhất ấy, o tôi để gần hết đời mình ra lo cho nó thoát khỏi kiếp đi lính và có một nghề làm ăn. Xin được một chân lao công cho sở Mỹ, o tôi mừng rơn. Nhưng chỉ tháng sau, bị tố giác là con xã đội, người con suýt bị tù. O tôi đem con về làng, bán nửa mảnh vườn nhà chồng, đút tiền xin được cái giấy chứng nhận là con "tư sinh", có nghĩa là con chửa hoang. Yên trí về lý lịch rồi, o đem con sang huyện khác xin việc. Lại một người quen khác tình cờ đi qua huyện đó. Việc lộ. O đem con lên tỉnh. Tất nhiên là cũng không trốn tránh được bao lâu vì tỉnh lỵ là nơi dân các xã, huyện hay về. Từ đó, o tôi sang hẳn các tỉnh khác. Huế, Ðà Nẵng, Phan Thiết, Nha Trang, nơi lâu thì dăm năm, nơi chóng thì dăm bảy tháng là bị lộ. Cái khổ để kiếm miếng ăn không thấm chi bên cạnh cái khổ bị hắt hủi. Một người mẹ với đứa con "tư sinh"!. Tội thì giả, nhưng nhục thì thật. Với bản tính lúc nào cũng cười được của o tôi, thiên hạ mỉa mai "một đứa con tư sinh còn là ít"! Không ai thèm giúp đỡ. Ðến khi hàng xóm láng giềng bắt đầu hiểu ra, và nhìn hai mẹ con với đôi mắt tình cảm hơn, thì cũng là lúc o tôi tính đường đem con đi nơi khác. Hai mươi năm dài chỉ biết có khinh bỉ!

    Ngày Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link o tôi mới trở về quê, dựng cái mái lán trên nửa mảnh vườn còn lại của nhà chồng bên kia sông Thạch Hãn. Người con đã 25 tuổi, không có một nghề trong tay, nhưng vẫn mừng là đã thoát được nghề cầm súng cho Mỹ ngụy. Giấy khai sinh vẫn ghi là con "tư sinh".

    - Mi nghĩ có ức không? Con liệt sĩ phải khai con chửa hoang. Tao mà muốn chửa hoang thì con đã khắp xứ!

    O tôi cười rộ lên.

    Bác tôi mắng yêu:

    - Gần miệng lỗ rồi mà cứ như con nít!

    O tôi phản công lại ngay:

    - Chết à! Ði tứ xứ không chết thì thôi, nay về đến làng rồi mà chết được tui còn khó!

    Thì ra cuộc đời của o tôi cũng không thoát khỏi bi kịch. Một bi kịch kéo dài như vậy, mà o tôi vẫn sống cho đến lúc hạ màn, không hề giảm một chút nào tính lạc quan, yêu đời, thì quả là một sự lạ rất khó giải thích.

    Cuối cùng, điều duy nhất o cần đến tôi là:

    - Chừ mi về đây, mi phải lo cho tao việc đó!... Tao đã trót khai hắn là con tư sinh!... Thành giấy tờ nhà nước rồi... Chừ phải khai lại cho hắn. Chính phủ mình, tao chắc là được. Nhưng làm thế nào, mi làm cán bộ thì phải bày vẽ cho em mi... Mai, mi sang nhà tao, tao sẽ cho mi ăn một bữa no nê. Cua lột hẳn hoi... Chi chớ cua lột thì tối nay tao chỉ xách nơm đi một lúc là đầy một nồi ba!

    Sau khi dặn lui dặn tới tôi thế nào cũng phải sang sớm, o tôi vội vã ra về "để trả quần áo cho mụ Hội kịp đi chợ", điều mà o tôi vừa giải thích vừa cười ra rả.

    Hôm sau tôi sang nhà o tôi rất sớm.

    Chắc chắn là đêm qua o tôi đã vác nơm, dọc theo bờ sông Thạch Hãn, kiếm thừa nồi cua bể. Thời cha con tôi ở nhà, o tôi cũng hay mời cha tôi sang ăn như thế.

    Vừa đến cổng tôi đã nghe trong nhà có tiếng khóc thảm thiết và nhiều bóng người đi lại khác thường.

    Người con trai - đứa con "tư sinh" - ra đón tôi òa khóc.

    O tôi vừa chết.

    Lúc bổ củi luộc cua, lưỡi dao của o tôi vấp phải một quả bom bi Mỹ lẫn trong cỏ...

    Tôi đã gặp lại một trong những người thân cuối cùng trên quê hương như thế đó.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Quảng Trị được giải phóng từ đầu năm 1973.
     
    Chỉnh sửa cuối: 2/1/16
  14. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Ông lão vẽ tranh - Nguyễn Ðình Thi

    Người làng Cun nhìn thấy ông cụ từ trên đỉnh đèo lất phất sương đi xuống mấy quả đồi ven sông. Ông cụ mặc bộ quần áo cánh vải nâu, chân đi dép rơm, tay chống gậy, bên vai đeo ống bương cùng với chiếc tay nải. Đến mỏm đồi sát bờ nước, ông đứng nhìn quanh những bụi sim, bụi mua, rồi rẽ cỏ lần tìm một lúc. Gần đỉnh đồi đến một chỗ quang, ông ngồi xuống bên cạnh một nấm mộ cũ lẫn trong cỏ dại, mắt đǎm đǎm nhìn xuống dòng sông lǎn tǎn, ông ngồi quên tất cả, lúc lâu sau mới đứng dậy đi vào trong xóm.

    Chiều hôm ấy thì dân làng đã biết ông cụ chính là người xóm Đồi, ông bỏ làng ra đi từ hơn sáu mươi nǎm trước. Ngày bấy giờ trong xóm có thằng cu Dần mồ côi cả cha lẫn mẹ, ở với bà ngoại. Nǎm bà cụ mất, cậu bé theo người trong xóm chôn bà trên mỏm đồi sau cǎn nhà lá, rồi một hôm ra đi biệt tích. Vậy mà nay ông Dần vẫn còn sống mà trở về quê ngoại, sau cả một đời lưu lạc. ít bữa sau, ông cụ đến ở nhà bác phó may Chiểu cuối phố Cun, cái phố nhỏ bờ sông có mấy cửa hàng buôn nứa, gỗ, củ nâu, cánh kiến, sa nhân, mộc nhĩ để bán về xuôi. Và chẳng bao lâu dân trong phố đều biết ông cụ có nghề vẽ truyền thần.

    Bác Chiểu góa vợ đã lâu, ở vậy nuôi đứa con gái, nǎm ấy nó đã được mười ba tuổi. Nó câm và dở người, nhưng chǎm nấu cơm và quét tước nhà cửa... Khu nhà từ mấy đời các cụ để lại được miếng vườn rộng, bác thu dọn để ông Dần ở gian nhà gỗ cuối vườn, có hàng hiên trông thẳng ra sông.

    Ông già rất xuề xòa, hằng ngày ông thường ở ngoài hiên, chỉ có chiếc võng tơ đã cũ để ngả lưng, với chiếc chõng tre, cái bàn gỗ tạp để vẽ. Con bé Hồng mọi khi một mình lủi thủi, bây giờ có ông già, tự nhiên rất nhanh nó đã quấn lấy ông, nó bắc một cái kiềng bếp ở góc hiên để nấu nướng lặt vặt hầu hạ ông cụ.

    Dân phố Cun khen bác Chiểu khéo đón được ông già có nghề lạ. Ai đến xin vẽ, ông Dần mời ngồi chơi uống nước, ông ngồi lâu, chỉ nhấp nước trà, nhìn người khách, hỏi chuyện nọ chuyện kia. Rồi ông mài mực, soạn bộ bút lông hàng chục chiếc to nhỏ các cỡ. Đến lúc ông ra bàn, cầm bút thong thả đưa lên tờ giấy bản hoặc tấm vải lụa, ông đưa nét bút nào là in nét ấy, không sửa hoặc tô đi tô lại. Thay vài lần bút, một lúc đã được bức tranh, nét mặt người trong tranh thật hệt, mà hai con mắt như có thần. Những lúc vẽ, ông Dần ít cho người lạ đứng xem. Chỉ có con bé Hồng chạy ra chạy vào, đun nước, thay trà, hoặc đứng lặng một góc, ngây người nhìn.

    Ông cụ vẽ tranh không đặt giá tiền công, tùy tâm người đến xin truyền thần đưa bao nhiêu ông cũng cầm, bỏ vào một cái tráp gỗ nhỏ. Có người nghèo, dắt ông bố hoặc bà mẹ già đến xin ông Dần vẽ cho bức tranh để thờ sau này, chỉ có đấu gạo, con gà, nải chuối, ông cũng vui vẻ nhận vẽ cho.

    Cũng có khách từ xa tìm đến. Một buổi phiên chợ, dân phố Cun thấy hai người lạ mặc quần áo chàm, đầu bịt khǎn chàm, quàng gươm dài sau lưng cưỡi hai con ngựa ô hỏi thǎm đến nhà ông lão vẽ tranh. Bác phó Chiểu sau kể lại đấy là người nhà chúa Nùng trên Cao Bình đến mời ông Dần lên tận trên ấy vẽ cho nhà chúa. Nhưng ông Dần từ chối vì đã cao tuổi, sợ không chịu nổi nhọc mệt dọc đường. Mặc dù vậy, người nhà chúa nơi biên ải cũng biếu ông cụ một sấp lụa Tàu loại quý. Ông Dần hôm ấy mới giở cái ống bương lớn, lấy ra một bức tranh lụa vẽ phong cảnh gửi biếu lại ông chúa Nùng mà người ta nói là Đức Vua ta dưới Kẻ Chợ cũng nể.

    Nhưng câu chuyện dân phố chú ý nhất là một hôm có hai bố con người Tàu đi đò dọc theo lái buôn từ Kẻ Chợ lên. Ông bố đã đầu râu tóc bạc, người con trai nói tiếng ta rất sõi. Ông Dần đón khách trên cái hiên nhà tuềnh toàng vậy mà ông già Tàu lộ vẻ trọng vọng lắm. Lần ấy bác phó Chiểu mới biết ông cụ Dần nói được tiếng quan hỏa, ông cùng người khách trò chuyện cả buổi sáng. Đến trưa, bác thợ may mời khách cùng ǎn cơm, ông cụ Dần khẽ cho bác biết: Ông già Tàu này làm chức quan nhỏ ở tỉnh Phúc Kiến, bị án oan phải tội, ông bỏ trốn sang nước ta, tìm đến người đồng hương ở đất Kẻ Chợ nương náu làm ǎn đã hai mươi mấy nǎm. Cơm nước nghỉ ngơi xong, ông Dần đem khung lụa ra ngoài hiên ngồi vẽ. Hai bố con người khách cũng ra ngồi phía sau cùng với bác phó Chiểu và cô bé câm, không ai nói một tiếng. Tất cả cùng nín lặng dõi theo bàn tay ông cụ. Bức tranh này ông Dần vẽ lâu hơn thường ngày, thay nhiều cỡ bút, dùng cả mực đen và mầu nước. Trên vuông lụa như trong mơ dần hiện lên một cánh rừng phong đỏ sẫm bên một dòng sông mờ khói sương, trên một sườn đồi lúp xúp mấy nóc nhà có một bóng người đội nón tu lờ gánh củi dưới dốc đi lên, xa phía sau trong những lớp mây ẩn hiện mờ ảo mấy bóng núi cao chạm trời. Khi ông cụ buông bút đứng dậy lấy khǎn tay lau mồ hôi đầm đìa trên mặt thì ông già người Tàu đến trước bàn nhìn lặng một lúc rồi bỗng hai mắt đỏ hoe, chắp tay vái bức tranh. Ông gọi người con đến nói một hồi dài. Anh con trai đến vái ông cụ Dần và nói: "Con xin tạ ơn cụ. Hôm nay con được nhìn thấy phong cảnh nơi quê cha đất tổ". Hai bố con cung kính đưa ông cụ một hộp nhỏ bọc giấy hồng điều. Ông Dần đưa chiếc hộp cho bác phó Chiểu, bác vâng dạ đem lên nhà trên, giở giấy bọc, hé mở nắp hộp thấy bên trong có một xếp vàng lá.

    Thấm thoắt đã sang thu. Mỗi buổi sáng, trong mảnh vườn mấy luống cúc tỏa nhẹ một làn hương thoang thoảng. Chiều chiều khi vầng mặt trời sắp khuất sau dãy núi ở chân mây, cả một dải đồi cọ suốt dọc bên kia sông ánh rực lên, những cây cọ lóe sáng trên chỏm, trông như hàng nghìn vạn ngọn nến thắp lên vàng chói.

    Ông cụ Dần dạo này không nhận vẽ truyền thần nữa. Chỉ có một lần ông nể lời sư cụ chùa làng, lên chơi chùa và vẽ một bức cho sư cụ. Chiều hôm ấy hai ông già uống rượu với nhau và nói nhiều chuyện cũ, mới. Sư cụ đem khoe một bộ đá hiếm, có viên đá giống hình cây nấm, có viên giống vỏ sò, có viên như hình con dơi, có viên đỏ tuyền không một vết gợn một đường vân, có viên trắng như mỡ, có viên ánh biếc như cánh chim bói cá. Sư cụ đắc ý nhìn ông Dần và hỏi: "Cụ xem có phải vừa lạ, vừa kỳ, vừa quái không? Đúng như trong sách cổ đã dạy!". Ông Dần cười: "Cụ bây giờ có nhẽ hằng ngày nói chuyện với đá". Sư cụ gật gật: "Vâng. Vâng. Cũng thu nhặt dần mãi đấy ạ. Tôi ít dám cho người ngoài xem bộ đá này". Sẩm tối, ông Dần chống gậy về đến nhà, vẫn đang ngà ngà say. Hôm ấy ông thức khuya bên đĩa đèn dầu trám, ngồi rót rượu uống một mình trong đêm thu tịch mịch, có lúc ông cầm mãi chén rượu, nước mắt lã chã rơi xuống.

    Sau bữa rượu ấy, mấy hôm bác phó Chiểu thấy ông già như người tâm trí để ở đâu. Bữa ǎn, bác ngồi hầu cơm thấy ông cụ vẫn gắp mà không biết mình ǎn gì. Rồi bất ngờ buổi sáng hôm ấy, ông Dần đi dạo hồi lâu quanh vườn, khi trở vào bước lên hiên nhà, ông gọi: "Hồng ơi, con đặt cho ông ít cơm nếp". Trong lúc con bé ra giếng lúi húi vo gạo, ông cụ mài mực, và đem một tệp giấy ra bàn rồi bắt đầu vẽ. Hôm sau rồi hôm sau nữa, ông vẫn mải miết vẽ từ sớm đến chiều. Ngày tiếp ngày ông cụ vẽ không còn biết gì giờ giấc, thường đến bữa ǎn, cô bé câm phải ra kéo vạt áo ông làm hiệu, ông mới nhớ. Ông cụ vẽ trên giấy bản hết tờ này đến tờ khác, có bức đậm nhạt đen trắng, có bức nhiều mầu, ông thường nằm võng rất lâu, mở mắt mà như không trông thấy gì, có lúc nhắm mắt như ngủ, rồi thình lình nhỏm dậy ra bàn cặm cụi trên tờ giấy. Mỗi buổi chiều, khi ông cụ buông bút vào nhà, những tờ tranh vẽ trong ngày vẫn bỏ trên mặt bàn, mặt chõng, có hôm tranh rơi cả xuống đất, bay cả ra vườn. Bác thợ may lại cùng đứa con gái đi nhặt từng tờ một đem lên nhà trên cất kỹ. Và tối khuya khi ông cụ đã tắt đèn đi nghỉ thì ở nhà trên hai bố con thắp mấy cây nến đem những tờ tranh ra xem. Bác Chiểu thấy ông cụ vẽ nhiều cảnh, nhiều người, nhiều nơi chốn rất khác nhau. Có núi, có biển, có sông ngòi, có rừng, có bãi, có đồng ruộng, làng xóm đình chùa, có bến sông thuyền bè, có hàng quán nơi phố chợ. Có tranh chỉ vẽ một đóa hoa cúc, một tảng đá, một bụi lau, một con chim đang rỉa cánh, có tranh vẽ một đàn ngựa thồ đang leo dốc, có tranh vẽ mấy con trâu đang đầm mình dưới hồ, có tranh vẽ một đàn chim nhạn lượn trên một mái nhà tranh bốc khói hẻo lánh. Có cả nhiều cảnh vui, buồn cười, trẻ con chơi nhảy dây, ông thầy bói ngồi bên bình vôi dưới gốc đa, bên chuồng lợn một bà vén váy hốt hoảng vì con rắn trườn qua dưới đất, mấy cô gái ở trần tắm dưới đầm sen, mấy người đàn ông đóng khố trên chiếc bè gỗ đang chống sào vượt dòng nước xoáy, hai anh đô vật, một anh nắm chiếc khố anh kia nhấc bổng lên. Mỗi lần giở một tờ tranh, bác thợ may lại xuýt xoa không biết ông cụ đã đi những đâu bao nhiêu nơi. Con bé câm ghé bên cạnh, nét mặt nhanh nhẹn khác ngày thường, có lúc bật cười, có lúc môi chúm lại, có lúc hai mắt sáng lên, long lanh trong ánh nến. Bác phó Chiểu bỗng thấp thỏm thầm nhận ra là đứa con gái bác không dở người, nó biết cả, chỉ không nói được.

    Gần một tháng trời như vậy, mỗi buổi sáng con bé Hồng vẫn đun nước pha trà cho ông cụ rồi ngồi nín lặng ở bậc cửa. Hai ông cháu bây giờ đã thuộc tính nhau. Con bé cứ ngồi đợi, khi nó thấy ông cụ đến kéo chiếc ghế đẩu trước bàn vẽ, nó cũng đứng lên, khẽ đến phía sau. Ông Dần cũng đã quen như vậy, ngồi vẽ, ông biết có đôi mắt đứa bé lặng im nhìn theo từng nét bút của ông.

    Bữa ấy buổi sáng trời hiu hiu nhiều mây. Ông Dần nằm không nhúc nhắc trên chiếc võng, tay chân như đâu mất. Hình như tất cả thân thể ông nhẹ bỗng. Ông nằm nhắm mắt không nghĩ gì rõ nữa. Hình như ông vừa lịm đi lâu lắm, hình như ông vừa chợp ngủ. Ông choàng mở mắt và thấy đứa bé câm đang bưng chiếc khay trà đứng ở bên võng. Ông Dần ngồi dậy, rót nước trà, tay run rẩy cầm chiếc chén, ông nhắp một ngụm thơm nóng. Con bé vẫn đứng hai tay bưng chiếc khay, miệng như khẽ mấp máy và ông Dần thấy hai mắt đứa bé nhìn ông, đôi mắt đen chưa gợn một chút bụi của cuộc đời đang nhìn ông với niềm thương không lời nào nói được. Trời ơi! Ông Dần đứng dậy, bước tới chiếc chõng tre và bảo: "Cháu lại đây! Ngồi đây! Hôm nay cháu mài mực cho ông".

    Bên chiếc chõng, ông già và đứa bé hí hoáy với hàng chục chiếc đĩa bát nhỏ đựng các thỏi mực, thỏi son, các loại bột nhiều mầu sắc, các miếng vỏ cây, rễ cây, củ khô mà chỉ có ông già biết. Con bé câm hai mắt sáng vui sướng làm theo lời ông cụ chỉ dẫn, đã bao nhiêu ngày nó nhìn và thuộc cách ông cụ mài mực pha mầu rồi.

    Ông Dần vào nhà tìm một khung lụa to, đem ra đặt kín mặt chiếc bàn. Ông chưa biết mình sẽ vẽ gì, chỉ cần có cái khoảng trống mịn trước mặt, nhìn vào đấy, ông như đến trước khoảng không vô tận đang đợi ông. Trong đầu lâng lâng thanh thản, ông thấy như đang ở nơi nào rất xa, trên cao phóng tầm mắt nhìn trùng trùng điệp điệp những dải đồi, những lớp núi mãi không hết. Ông nhìn mãi, có lúc đã cầm lấy cây bút lông xoay xoay trong tay một hồi lại bỏ xuống. Cả ngày như vậy, khung lụa vẫn trắng nguyên.

    Hôm sau ông Dần vẫn chưa vẽ gì. Gần đến bữa trưa, ông bảo con bé: "Hôm nay cháu cho ông bát nước cơm". Hai ông cháu ngồi ǎn dưới đất ngay cạnh bếp. Ông cụ bưng bát nước cơm nóng uống từng ngụm, thốt lên: "Thơm quá! Ngon quá! Không gì bằng được hạt gạo giời cho, cháu ạ!". Ông ǎn một bát cơm với muối vừng rồi ra võng nằm nghỉ. Buổi chiều, ngồi trước khung lụa, đôi mắt nhǎn nheo của ông như xa đi trong một nỗi buồn thương lặng lẽ. Con bé ngồi phía sau sợ hãi không dám thở mạnh. Tới lúc nó thấy ông cầm bút chấm vào một bát nước mầu rồi vẽ lên bức lụa một đường mảnh như một làn sóng. Ông cụ bỏ bút đứng dậy, đến dắt tay con bé, dịu dàng vuốt tóc nó "Thôi, ông cháu ta nghỉ thôi".

    Nét sóng ấy buổi sáng hôm sau đã thành một mỏm đồi thoai thoải, sườn đồi trơ trụi đất sỏi, đây đó rải rác mấy tảng đá. Một vệt đường mòn lượn từ trên đồi xuống đến một bãi cỏ. Nền trời bên trên mỏm đồi âm u, những vùng mây lớn cuộn lên xô đẩy nhau, trông mênh mông dữ dội. Con bé Hồng đứng cạnh ông già từ lúc nào, hai mắt nó náo động nhìn những đám mây bay cuồn cuộn. Ông già quay sang, gật đầu nói rất khẽ "Trên này gió lắm..."

    Buổi chiều, ông Dần miệt mài vẽ tiếp. Trên mỏm đồi, đầu vệt đường mòn, hiện dần lên một cây mai già, thân cây đen sắt lại, những cành cây vươn lên gân guốc, trần trụi. Những cành cây tỏa ra nhiều nhánh thanh mảnh dần. Ông già thở một hơi dài, dừng lại thay bút, mặt ông đỏ hồng lên, những cành cây gầy dần lốm đốm những điểm hoa trắng giữa những chồi lá biếc non, tất cả như đang rung lên trong gió. Đứa bé câm đứng mở to mắt, hai bàn tay nó xòe ra, như muốn nhúc nhắc múa. Nó im lặng cười một mình, chạy ra bếp, xắm nắm đun nước để pha một ấm trà mới. Khi nó bưng khay đến bên ông cụ thì trên bức tranh gần bên cây mai đang hiện lên một cô gái. Cô mặc áo cánh bông, trên đầu đội chiếc thúng, cô bước đi trên vệt đường từ mỏm đồi xuống. Ông Dần vẫn luôn thay bút, bàn tay ông đưa rất nhẹ và mặt cô gái rõ dần mũi, miệng, đôi nét lông mày rồi đến hai con mắt đen. Con bé Hồng tròn mắt, nó nhận ra cô gái đúng là nó nhưng lại lớn hơn, đã chừng mười bảy, mười tám tuổi. Đôi mắt cô gái trong tranh như đang lạ lùng vì những gì cô đang nhìn thấy. Ông Dần cầm bút quay lại nhìn đứa bé câm, ông mỉm cười lấy ngọn bút chỉ vào nó rồi chỉ vào cô gái trong tranh và đỡ lấy cái khay. Con bé Hồng hai mắt như có ngấn nước chạy quanh.

    Cả ngày hôm sau, ông già vẽ bãi cỏ rộng dưới chân đồi. Ông thay bút luôn, chấm mầu đưa nét rất nhỏ, những ngọn cỏ xanh nõn cứ mọc lên dần trước mắt, tỏa một vùng sáng dịu. Có lúc ông dừng lại nói chuyện với đứa bé. "Cháu ạ, lá cây ngọn cỏ nó cũng sinh nở, sống chết, nó cũng có hồn của nó. Giá mà giời cho ông sống được đến trǎm tuổi thì may ra ông vẽ được hồn chúng nó đấy". Con bé câm hớn hở nhìn những chấm nhỏ tim tím hồng hồng. Ông già lại quay sang: "Hoa nghệ rừng đấy". Những đốm tím hồng vẫn dần lan rộng mãi. Ông già cười nói: "Cháu xem có ông hoàng bà chúa nào được mặc đẹp như một bông hoa dại này không!". Cả một vùng bãi cỏ xanh non lúc này ánh hồng lên, mỗi đốm hoa ngọn cỏ như mủm mỉm nói: Bây giờ là mùa xuân rồi.

    Bức tranh đã hình thành, mấy ngày sau, ông Dần chỉ nằm võng, thỉnh thoảng mới ra bàn lấy bút điểm thêm hoặc xoa đi một hai nét. Bữa ấy, ông lấy chai rượu, ngồi rót uống một mình, thấy con bé Hồng đang ngồi nhóm bếp, ông gọi: "Hồng lại đây". Đứa bé rụt rè bước đến. Ông già cười: "Hôm nay cháu lại cho ông ǎn cơm nếp nhé. Cháu ngồi đây. Cháu có thích bức tranh này không? Ông cho cháu đấy. Cháu rồi như cô gái trong tranh này, đừng sợ gì cả". Ông già ôm đầu đứa bé gái, đôi mắt ông nheo lại phảng phất những ý nghĩ xa xôi. Mùa thu đã đến những ngày cuối cùng. Đêm ấy nổi gió mùa, cả một dải ven sông ào ào không ngớt cho đến sáng. Trời đột ngột trở lạnh.

    Ông Dần nặng nhọc ra ngoài hiên. Cũng như mọi ngày đứa bé câm đã ngồi bên bếp, đợi ông ra để đun nước pha ấm trà buổi sớm. Ông Dần ra nằm võng, hai mắt ông nhìn nhòa đi dần. Ông thấy trên mỏm đồi xa xa, cây mai già tỏa một vùng hoa trắng rung động trong gió. Đôi mắt đen nhìn ngỡ ngàng. Ông bay đến bãi cỏ, ông bước lướt trên mặt cỏ xanh non đẹp quá, chung quanh ông những đốm hoa óng ánh, những đốm sáng hồng vẫn bay khắp bốn bề, ông ngồi xuống sờ lên những núm cỏ, ông muốn nói gì mà không nói được, ông cũng không muốn nói gì nữa, cả người ông nhẹ bỗng, ông bay lướt đi, chân không còn chạm đất, tất cả mờ dần mờ mãi...

    Đứa bé câm bưng chiếc khay đến, thấy ông cụ hai mắt nhắm nghiền, đầu ngật ra ngoài võng, không còn động đậy. Con bé mở to mắt kinh hoàng, miệng nó mấp máy, cả người nó run bắn, cái khay rơi xuống đất, nó thét lên một tiếng dài. Bác phó Chiểu từ trên nhà hớt hải chạy xuống, thấy đứa con gái đang ngồi sững bên chiếc võng, bỗng nó bật gào lên: Ông ơi! Ông ơi!
     
  15. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Con ruồi - Nguyễn Nhật Ánh


    Con ruồi nhỏ, nhỏ xíu, vậy mà cái nhỏ xíu đó đôi khi lại là nguyên nhân của những việc tày đình. Rất có thể hai vợ chồng đâm đơn ra tòa ly dị nhau chỉ bởi một con ruồi. Ai mà lường trước được những việc thần kỳ đó!

    Tôi ốm. Ðiều đó vẫn thỉnh thoảng xảy ra cho những người khỏe mạnh. Và vợ tôi pha cho tôi một ly sữa. Tôi nốc một hơi cạn đến nửa ly và phát hiện ra trong ly có một con ruồi. Con ruồi đen bập bềnh trong ly sữa trắng, “đẹp” kinh khủng!

    Thế là mọi chuyện bắt đầu.

    Tôi vốn rất kỵ ruồi, cũng như gián, chuột, nói chung là kỵ tất thảy các thứ dơ bẩn đó. Tôi đang nằm mà nghe tiếng chuột bò sột soạt trong bếp là tôi không tài nào nhắm mắt được. Thế nào tôi cũng vùng dậy lùng sục, đuổi đánh cho kỳ được. Bằng không, thì cứ gọi là thức trắng đêm.

    Vậy mà bây giờ, một trong những thứ tôi sợ nhất lại nhảy tót vào ly sữa tôi đang uống, và đã uống, nói trắng ra là nhảy tót vào mồm tôi. Biết đâu ngoài con ruồi chết tiệt trong ly kia, tôi lại chẳng đã nuốt một con khác vào bụng. Mới nghĩ đến đó, tôi đã phát nôn.

    Thấy tôi khạc nhổ luôn mồm, vợ tôi bước lại, lo lắng hỏi:

    - Sao vậy anh?

    Tôi hất đầu về phía ly sữa đặt trên bàn:

    - Có người chết trôi kia kìa!

    Vợ tôi cầm ly sữa lên:

    - Chết rồi! ở đâu ra vậy cà?

    - Còn ở đâu ra nữa? Ố! Tôi nhấm nhẳng: Ố! Chứ không phải em nhặt con ruồi bỏ vào ly cho anh à?

    Vợ tôi nhăn mặt:

    - Anh đừng có nói oan cho em! Chắc là nó mới sa vào!

    - Hứ, mới sa hay sa từ hồi nào, có trời mà biết?

    Vì tôi đang ốm nên vợ tôi không muốn cãi cọ, cô ta nhận lỗi:

    - Chắc là do em bất cẩn. Thôi để em pha cho anh ly khác.

    Tôi vẫn chưa nguôi giận:

    - Em có pha ly khác thì anh cũng đã nuốt con ruồi vào bụng rồi.

    Vợ tôi trố mắt:

    - Nó còn trong ly kia mà!

    - Nhưng mà có tới hai con lận. Anh uống một con rồi.

    - Anh thấy, sao anh còn uống?

    - Ai mà thấy!

    - Không thấy sao anh biết có hai con?

    Tôi tặc lưỡi:

    - Sao lại không biết? Uống vô khỏi cổ họng, nghe nó cộm cộm là biết liền.

    Vợ tôi bán tín bán nghi. Nhưng vì tôi đang ốm, một lần nữa cô ta sẵn sàng nhận khuyết điểm:

    - Thôi, lỗi là do em bất cẩn! Ðể em…

    Tôi là tôi chúa ghét cái kiểu nhận lỗi dễ dàng như vậy.

    Do đó, tôi nóng nảy cắt ngang:

    - Hừ, bất cẩn, bất cẩn! Sao mà em cứ bất cẩn cả đời vậy?

    Vợ tôi giật mình:

    - Anh bảo sao? Em làm gì mà anh gọi là bất cẩn cả đời?

    - Chứ không phải sao?

    - Không phải!

    A, còn bướng bỉnh! Tôi nheo mắt:

    - Chứ hôm trước ai ủi cháy cái quần của anh?

    - Thì có làm phải có sai sót chứ! Anh giỏi sao anh chẳng ủi lấy mà cứ đùn cho em?

    - Ái chà chà, cô nói với chồng cô bằng cái giọng như thế hả? Cô nói với người ốm như thế hả? Cô bảo tôi lười chảy thây chứ gì? Cô so sánh tôi với khúc gỗ phải không? Ái chà chà…

    Thấy tôi kết tội ghê quá, vợ tôi hoang mang:

    - Em đâu có nói vậy!

    - Không nói thì cũng như nói! Cô tưởng cô giỏi lắm phỏng? Thế tháng vừa rồi ai làm cháy một lúc hai cái bóng đèn, tháng trước nữa ai phơi quần áo bị đánh cắp mà không hay? Cô trả lời xem!

    Vợ tôi nhún vai:

    - Anh lôi những chuyện cổ tích ấy ra làm gì? Hừ, anh làm như anh không bất cẩn bao giờ vậy? Anh có muốn tôi kể ra không? Tháng trước ai mở vòi nước quên tắt để cho nước chảy ngập nhà? Anh hay tôi? Rồi trước đó nữa, ai làm mất chìa khóa tủ, phải cạy tủ ra mới lấy được đồ đạc?

    Tôi khoát tay:

    - Nhưng đó là chuyện nhỏ nhặt! Còn cô, năm ngoái cô lấy mấy ngàn bạc cho bạn bè mượn bị nó gạt mất, sao cô không kể luôn ra?

    - Chứ còn anh, sao anh không kể chuyện anh đi coi bóng đá bị mất xe đạp? Rồi năm ngoái, ai nhậu xỉn bị lột mất đồng hồ?

    Cứ như thế, như có ma quỷ xui khiến, hai vợ chồng thi nhau lôi tuột những chuyện đời xửa đời xưa của nhau ra và thay nhau lên án đối phương, không làm sao dừng lại được. Tôi quên phắt là tôi đang ốm. Vợ tôi cũng vậy. Chúng tôi mải mê vận dụng trí nhớ vào việc lùng sục những khuyết điểm từng từng lớp lớp của nhau. Và thật lạ lùng, có những chuyện tưởng đã chìm lấp từ lâu dưới lớp bụi thời gian, tưởng không tài nào nhớ nổi, thế mà bây giờ chúng lại hiện về rõ mồn một và chen nhau tuôn ra cửa miệng. Từ việc tôi ngủ quên tắt ra-dô đến việc vợ tôi mua phải cá ươn, từ việc tôi bỏ đi chơi ba ngày liền không về nhà đến việc vợ tôi đi dự sinh nhật bạn đến mười hai giờ khuya, v.v…và v.v… chúng tôi thẳng tay quậy đục ngầu quá khứ của nhau và vẽ lên trước mặt mình một bức tranh khủng khiếp về đối tượng.

    Trời ơi! Thế mà trước nay tôi vẫn sống chung với con người tệ hại đó! Thật chẳng thể tưởng tượng nổi! Tôi cay đắng nhủ thầm và bùng dậy quyết tâm phá vỡ cuộc sống đen tối đó. Tôi đập tay xuống bàn, kết thúc cuộc tranh cãi:

    - Thôi, tra khảo hành hạ nhau thế đủ rồi! Tóm lại là tôi hiểu rằng tôi không thể sống chung với cô được nữa. Tôi ngán tới tận cổ rồi!

    Vợ tôi lạnh lùng:

    - Tùy anh!

    Câu đáp cộc lốc của vợ không khác gì dầu đổ vào lửa. Tôi nghiến răng:

    - Ðược rồi! Cô chờ đấy! Tôi làm đơn xin ly hôn ngay bây giờ.

    Tôi lập tức ngồi vào bàn và bắt đầu viết đơn. Ngòi bút chạy nhoáng nhoáng trên giấy với tốc độ 100 km/giờ. Viết và ký tên mình xong, tôi đẩy tờ đơn đến trước mặt vợ. Cô ta cầm bút ký rẹt một cái, thậm chí không thèm liếc qua xem tờ đơn viết những gì.

    Thế là xong! Tôi tặc lưỡi và thở ra, không hiểu là thở phào hay thở dài. Cuộc đời cứ như xi-nê-ma, nhưng biết làm thế nào được?

    Ký tên xong, vợ tôi đứng lên và cầm lấy ly sữa.

    - Cô định làm gì đấy?

    - Ðem đổ đi chứ làm gì?

    - Không được, để ly sữa đấy cho tôi! Tôi phải vớt con ruồi ra, gói lại, đem đến tòa án làm bằng cớ.

    Ðặt ly sữa xuống bàn, vợ tôi lẳng lặng đi vào phòng ngủ, đóng sập cửa lại. Trong khi đó, tôi hùng hục lấy muỗng vớt con ruồi ra.

    Tôi ngắm con ruồi nằm bẹp dí trên đầu muỗng và có cảm giác là lạ. Tôi đưa con ruồi lên sát mắt, lấy tay khảy nhẹ và điếng hồn nhận ra đó là một mẩu lá trà.
     
  16. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Ông và cháu - Đỗ Kim Cuông


    Vị tướng ấy đã ngoài tuổi bảy mươi, nhưng vóc dáng còn khỏe mạnh, da đỏ au. Từ Hà Nội vào Nha Trang ông không đi bằng máy bay theo đoàn, chỉ mất có hơn hai giờ đồng hồ mà ông lại ngồi tàu xuyên Việt. Thời gian đi có dài hơn, những hai ngày một đêm. Miền Trung lại đang mùa mưa bão. Lụt trắng Huế, cầu đường bị hư hại nhiều chỗ. Cùng đi với vị tướng còn có một cô bé cũng đã ngoài tuổi đôi mươi xinh đẹp và nhí nhảnh: "Sao không đi máy bay hả ông?". Ông tướng cười nhìn cô cháu gái, giọng bình thản: "Biết còn có dịp nào ông lại được đi trên con đường này, hả cháu. Tuổi ông già rồi... Như cái bóng...". "Cháu xin lỗi ông... Cháu cũng thích đi tàu được nhìn ngắm phong cảnh. Đi máy bay thì chẳng thấy gì hết". Ông như không nghe thấy lời cô cháu gái, trôi trong niềm suy tư. "Người già sống bằng kỷ niệm, cháu ạ. Có đi như thế này, ông mới nhìn thấy những đỉnh núi Trường Sơn, nhìn thấy dòng sông Bồ, sông Hương, sông Thu Bồn, sông Trà, Đèo Cả... Tuổi trẻ của ông gửi lại ở đấy cháu ạ. Ôi, cái thời "Nam tiến". Ông và đám bạn trai Hà Thành cất vang câu hát "Ta đi, ta đi mang hồn sông núi..." Và ngâm hoài câu thơ: "Từ thuở mang gươm đi mở nước. Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long".

    Tàu hỏa đến Nha Trang vào một buổi chiều. Tàu dừng, hai ông cháu hòa vào dòng người đi ra cửa ga. Không ai đến đón ông cả. Vả chăng, vị tướng cũng muốn thế. Ông đã cố ý đi tới trước một ngày theo như giấy mời của Ban lễ tân "23 tháng Mười". Và ông cũng đã tự chọn cho cả hai ông cháu một khách sạn rẻ tiền - đúng hơn là một nhà khách của một cơ quan. Nhưng từ chỗ ở, ra biển chỉ có hơn trăm bước. Ông cảm thấy mình có lý khi chọn phương án đi sớm một ngày. Chiều mai ông sẽ gặp bạn bè từ trong Nam ngoài Bắc đổ về đây. Lại những cái bắt tay, những lời hỏi thăm và câu chuyện sẽ cuốn hút ông vào những vại bia quanh bàn tiệc.

    Sau bữa cơm chiều, trời còn sáng, vị tướng dắt cháu ra biển. Cô cháu gái có dịp trút bỏ bộ quần áo đi tàu và diện một chiếc váy hoa sáng, đẹp ngời ngợi. Lần đầu cô gái đến Nha Trang, đứng trên bờ cát chỉ cách có mươi bước chân đã là những đợt sóng trắng luôn tung bọt trắng xóa. Chiều biển động, nhưng lại tạo ra một vẻ đẹp mê hồn. "Nửa thế kỷ trước, đây là chiến địa đấy cháu. Máu đổ, chết chóc, khói bụi mịt mù và cả bầu trời râm ran tiếng đạn pháo... Này cháu, cháu có thấy cái mỏm đồi có mái nhà ngói đỏ nhô lên kia không?". "Dạ có ạ!". "Gọi là đồi La San. Lúc ấy, ông ở đấy với hai khẩu sơn pháo 75 ly. Đứng từ đấy, ông có thể quan sát tới tận Cầu Đá. Có lúc ông lại leo lên đỉnh Tháp Bà nhìn qua sông để xác định điểm chuẩn cho pháo bắn...". "Chiến tranh là bắn giết nhau hở ông?". "Phải, bắn giết nhau - nhưng là một cuộc chiến đấu có mục đích. Một bên là những người giữ đất, còn phía bên kia là những kẻ cướp nước". Mai sớm, ông sẽ đưa cháu lên chơi Tháp Bà và sẽ đưa cháu xuống thăm một cái xóm chân cầu". "Có gì lạ lắm không ông?..." "Không có gì lạ với mọi người, như ngàn vạn xóm chài khác. Có chăng, chỉ riêng ông...".

    - Ông kể cho cháu nghe đi!

    Cô gái cầm tay vị tướng và dìu ông ngồi xuống một chiếc ghế đá lạnh băng.

    - ờ thì ông kể. Dù chả mấy người biết chuyện này, kể cả bố cháu. Bố cháu là một nhà khoa học, chỉ quen nhìn cuộc sống theo những lo-gic của toán học. Ngọn núi là ngọn núi. Rừng cây là rừng cây, mà ít chịu hiểu rằng trong đất còn có cả máu. Trong mỗi thân cây còn có cả mầm mống luôn động cựa... cháu ạ, ở cái xóm chân cầu giữa những ngày lửa máu ngút trời ấy, ông đã yêu và được yêu.

    Vào mỗi buổi tối, khi tiếng súng tạm ngưng, chiến sự im ắng, ông và vài chiến sĩ xong ca trực lại xuống chân đồi trú trong những nhà dân. Dạo ấy, ông mới chỉ là anh lính pháo thủ. Trẻ khỏe, yêu đời, vô tư. Người con gái ông quen và yêu ngày ấy là con của một chủ tiệm tạp hóa nhỏ. Cha cô có một con thuyền đi đánh cá, còn bà mẹ và cô con gái vừa lo việc nội trợ vừa bán hàng. Vào những ngày chiến tranh bùng nổ, cả xóm chân cầu trở thành nơi đóng quân của bộ đội, tự vệ. Những trái đạn pháo từ tàu chiến của Pháp ngoài biển bắn vào, đạn moóc-chi-ê từ các phòng tuyến của địch ở trong phố bắn sang đều rơi xuống triền đồi phía tây hoặc vào bãi cát ven biển. Dân trong xóm Cầu, trai tráng khỏe mạnh thì đi dân công vác đạn, gánh gạo, tải thương. Các bà các chị thì nấu cơm, vắt cơm cho bộ đội.

    Cháu ạ! - Vị tướng già im lặng trong giây lát nhìn vào khoảng không gian bao la của biển cả trong ánh hoàng hôn của buổi chiều tà. Mặt biển đang dần sẫm lại. Trong lúc ở vùng trời phía tây vẫn le lói lên những ánh vàng. Ông lại tiếp: Ông đã nhớ không rõ mình được gặp cô gái bán hàng xén mấy lần. Không có những cuộc dạo chơi. Không thư từ hò hẹn. Điểm duy nhất để ông có thể gặp gỡ trò chuyện cùng với cô ta là ở khoảng sân dưới tán cây trứng gà xanh um, sai trái. Ông ngồi xay bột. Cô gái ấy ngồi bên vừa đổ nước vào chiếc cối vừa trò chuyện vui vẻ.

    Phải mất 6 năm sau, ông và người con gái ấy mới chính thức được là vợ chồng... Đám cưới được tổ chức trong rừng, ở một bản người Ê Đê dưới chân đèo Ma-đơ-rắc. Không biết ai báo tin cho cô gái. Cô đã cải trang làm người buôn hàng chuyến và đi tìm ông. Và ông cũng chỉ sống với "bà ấy" được vừa đúng ba đêm, rồi chia tay nhau. Dạo ấy, Pháp đang đổ quân lên càn Tây Nguyên. Đơn vị ông phải đi chiến dịch.

    Thêm 5 năm nữa, vào năm 1955, ông mới nhận được tin tức của vợ con. Người ta dẫn đến cho ông một đứa trẻ 5 tuổi, gầy yếu. Những dấu sẹo ghẻ lở in đầy trên hai bàn tay và cặp chân nó. Chỉ nhìn đôi mắt, khuôn mặt của đứa trẻ ông biết chắc đó là con mình. Đó cũng là bố của cháu bây giờ, cháu ạ.

    - Còn người con gái ông yêu...?

    - Là bà nội cháu. Vị tướng nói chậm rãi - Chỉ tiếc rằng bà nội không còn sống. Những đồng chí cán bộ ở vùng này tập kết ra Bắc, bảo với ông rằng: sau lúc sinh con được vài tháng, bà đã mất vì băng huyết.

    - Vậy mà ông sống chừng ấy năm để nuôi bố cháu? - Cô cháu gái như muốn chia sẻ nỗi vất vả của người ông.

    Vị tướng như không nghe thấy điều thắc mắc của đứa cháu nội, hoặc giả ông tránh trả lời - Cháu ạ! Đời người thực ngắn. Nhưng với ông lại là quá dài... Chỉ từ ngày có cháu, niềm vui mới trở lại với ông... Cháu mang hình bóng của bà.

    Mặt biển đã sẫm lại và vô số những con thuyền đánh cá ngoài khơi đã tỏa sáng ánh đèn, kéo thành một dãy dài như một đường phố nổi. Vị tướng hít từng hơi dài không khí trong lành của biển cả. Ông cảm thấy sảng khoái và dễ chịu. Ngày mai "hội quân", ông sẽ gặp lại vô số bạn bè từ thời trai trẻ. Nhưng tự trong sâu thẳm của lòng mình ông biết rằng dù có vui bao nhiêu đi chăng nữa, ở ông vẫn len vào một khoảng trống vắng không có gì bù đắp nổi.

    Lấp lánh trên bầu trời là những vì sao.

    Gió thổi ào ạt trên những chòm lá dừa.
     
    Chỉnh sửa cuối: 2/1/16
  17. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Con yêu con ghét - Vũ Thị Thường

    Bớt vừa đi vào đến giữa sân, bà Ngải ngồi trong nhà đã chì chiết:

    - Sao chị chả đi chơi lấy một lúc nữa hãy về, cơm nước đã có con già ở nhà nó thổi!

    Bớt đang hớn hở bỗng sững lại. Bớt đi tát cá cả buổi hôm, Bớt có đi chơi đâu mà mẹ cũng mắng. Bớt vùng vằng, vất cái giỏ lấm như trát bùn xuống đất. Cái giỏ lăn chiêng, một con cá trê từ trong giỏ rơi ra, quẫy đành đạch. Con mèo mướp từ nãy vẫn khoanh tròn trên đầu hè lim dim ngủ, lúc này bỗng nhảy vụt ra như một mũi tên, gừ gừ sắp sửa vồ lấy con cá.

    Bà Ngải cuống quít hét lên the thé:

    - Kìa! Mèo nó vồ cá kia! Bớt!...

    Bớt chộp lại được con cá nhét vào giỏ rồi, bà vẫn còn thở hồng hộc chưa thôi.

    - Cha tiên nhân quân trắng mắt! Quân trắng mắt nó ra gan với tôi! Suýt nữa không có tôi thì con mèo nó vồ mất con cá!

    Những cơn chửi mắng vô lý thế, chẳng mấy ngày là Bớt không phải chịu. Thường mẹ mắng, Bớt chỉ lặng im. Bớt quen rồi. Mẹ chửi quá thì Bớt bỏ đi, sang hàng xóm vá vẩn hộ bà cụ Xã, hoặc đi kiếm lá hòe về vò đầu trốc cho con chị Hồi. Ði chán chốc về, mẹ lại có cớ chửi cái tội con gái đi ngồi lê, mẹ chửi thêm cho một chập nữa.

    Song cũng có những lúc Bớt tủi thân muốn. Ấy là lúc mẹ âu yếm chị Nở, âu yếm thằng Tấn, đối xử chênh lệch hẳn với Bớt. Thằng Tấn là con giai, nó lại là em Bớt. Bớt chả thèm suy tị nó làm gì, nhưng đối với chị Nở thì sao...? Thì sao mẹ lại thế? Này nhé, có những hôm Bớt đi cắt cỏ về, giời thì nắng, mắt Bớt hoa lên, cổ khe khé, người hầm hập nóng, nóng như than và mặt, mắt đỏ dứ đỏ dừ. Bớt cảm. Nhũng lúc ấy mẹ đã không thương Bớt thì chớ, mẹ còn lườm còn nguýt Bớt, làm như Bớt chỉ giả ốm đau để mà trốn việc! Mẹ kể lể:

    - Ôi dào! "con gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu", ngày xưa tôi bằng tuổi các chị, đố ai bắt được tôi nhức đầu, xổ mũi lấy một buổi.

    Nhưng chị Nở, giá đi về có hơi hu hi, mẹ đã giục chị lên giường nằm, rối rít sai Bớt đi nấu cháo, đi rang cám, đánh cảm cho chị. Thỉnh thoảng nhà mua được ít đường ngoài hàng hợp tác, mẹ lại dành dụm cho chị Nở. "Chị mày nó nhiệt, có tí đường để cho nó hòa với bột sắn sống nó uống. Mày thì nồi bảy quăng ra, nồi ba quăng vào, hàn nhiệt gì mà phải ăn đường nào?".

    Chị Nở đi đâu, mẹ cũng phần cơm, phần canh cho cẩn thận. Chị Nở về, chỉ việc trèo lên giường, chĩnh chệ ngồi ăn, hiềm nào! Còn Bớt đi thì đi, về thì về, mẹ mặc thây. Mẹ không phần. Ðói, Bớt phải đi lục niêu vét cơm nguội ăn. Mẹ lại ngồi kể xấu Bớt:

    - Rõ đẹp mặt con gái chưa kìa! Chửa về đến nhà đã hục vào buồng, cạo nồi xoèn xoẹt? Cứ bảo sao tao lắm điều? Con gái, con đứa, ăn uống xấu thói thế, ở nhà mẹ không dạy, mai kia đi lấy chồng, nhà chồng nó lại không đào mồ cuốc mả lên nó chửi, tao chớ kể!.

    Bớt đi ngang qua chỗ mẹ, mẹ cũng nhìn theo chê bai:

    - Con cái Bớt này giống bà Dẫn ngoài đó, hai cái chân thì dài như chân cò dóc; ngồi, đầu gối quá tai; má thì má có bớt; mũi, mũi nhòm mồm chỉ có ăn; miệng thì miệng chum chúm thổi lửa, hơi ai nói gì, ngồi ngoài cũng hơn hớt hơn hớt cái miệng nói leo được. Người hình dạng đã xấu, có cái nết thì mười nết bỏ đi cả mười, khổ thân đời nó vậy.

    Một lần chị Nở với Bớt đi cất vó tôm. Ði một lúc buổi tối, về được lưng cái rá nhỡ tôm, toàn những con tôm càng to tướng, nhảy tanh tách, chị em rủ nhau bỏ vào rổ, trên đậy sàng cạp chặt, xong đem thả lơ lửng xuống ao, sáng mai đem đi chợ bán. Sáng mai, mẻ tôm chỉ còn vài chục con, rang lên khéo chỉ được một đĩa. Mẹ tiếc của chửi mãi. Mẹ không chửi cả hai, chỉ nhè một Bớt chửi. Nở đã không bị sao còn nói hùn vào, đổ tại Bớt tối qua đi sống, đã đốt đèn lại nói oang oang, để lão Nhờ nhà bên kia ao nghe thấy, đêm khéo lão lần sang lão đổ mất.

    Cả con ngan thằng Tấn mua về nuôi cũng thế. Ðược hôm trước, hôm sau mở cửa chuồng, đã thấy con ngan nằm chết cứng giữa chuồng, cái mình màu vàng nghệ bẹp dí xuống đất. Mẹ lại nghiến ngẩm Bớt, đổ chỉ tại hai con ngan lớn của Bớt nuôi riêng, vật cũng giống chủ ác, giẫm chết con ngan bé!

    Những chuyện bất công ấy, giá Bớt có phàn nàn thì mẹ đã ầm lên:

    - Phải rồi! Mày cứ chửi tao đi. Tao chỉ con yêu con ghét thế thôi. Mày cũng là con tao đẻ ra, mày có làm sao, tao mới ghét mày chứ!

    - Rồi mẹ ngồi mẹ so. Nào là Bớt vô ý vô tứ. Bớt cục cằn, Bớt hay đi ngồi lê, hay cãi mẹ... Thôi thì hàng thúng tội. Còn chị Nở thì khôn ngoan. Chị Nở nhiệm nhặt. Chị Nở biết thương mẹ, quý mẹ, vun vén cho mẹ.

    -... Cái đứa khôn, có phải ai dạy nó mới khôn. Con cái Nở năm nó mới lên năm, bé lũn chũn vừa bằng cái nấm, ấy thế nhưng ra đồng thế này, gặp nhà ai rỡ khoai, con bé cũng tìm cách lần vào, xin. Người ta thấy con bé bẻo lẻo thì người ta lại cho, chốc con bé đã kệ nệ ôm về năm, bảy củ to kếch. Còn Bớt ấy à? Nhà đáng có thứ gì cất kỹ trong buồng, ai đến hỏi, mẹ còn đang chối không, con đã tông tốc đem ra cho người ta; người tử tế họ vay họ còn giả, phải cái người tham là thôi, mình mất không. Con, có đứa làm giàu làm có, lại có đứa chỉ có làm hại... Ðấy, cứ bảo sao con yêu con ghét?

    Từ sau ngày chị Nở đi học lớp ươm tơ một tháng về, ra làm ở đội chăn.nuôi, mẹ lại càng quý chị. Trời mưa, mẹ thương chị đi hái dâu, ướt át tội nghiệp. Trời nắng, mẹ chép miệng chèm chẹp:

    - Tội con bé? Nắng này mà ngồi ươm được mẻ tơ thì còn gì là hơi sức. Chỗ ươm tơ tao vào rồi, tao biết. Chỉ có ba gian, cũng kích thước như ba gian nhà này mà đây một lò, kia một lò, bảy, tám lò ươm, toàn lò đun than, các cô thợ ươm, cô nào cô nấy mồ hôi cứ đẵm như tắm. Chả trách con cái Nở này ăn không ăn được, gầy rộc đi đêm tao sờ, trên lưng nó phải có đến trăm cái mụn đầu đanh - đến đây mẹ lại lườm Bớt -Thế giá có bảo nhường nhịn cho con bé ít đường, mặt nó đã sưng lên bằng cái thớt!

    Mẹ làm như cả nhà đói hay no là trông cả vào số điểm chị Nở làm ra, còn công Bớt chăn trâu, cắt cỏ, công Bớt đi mò, đi tát, đi cất vó, bỏ chỗ - chả ngày nào là ngày không được cá, được cua, hết bán lại ăn - thì mẹ không kể.

    Bớt càng lớn lên, mẹ càng ghét Bớt. "Con gái đâu có con gái mười đêm đi ngủ lang cả chín, tao sợ lại không có ngày mà bôi gio trát trấu vào mặt tao ấy à?" Mẹ nhiếc thì nhiếc; Bớt vào dân quân, Bớt phải đi ngủ tập trung, ban đêm còn canh phòng tuần tiễu trong làng với chị em, Bớt chả làm chuyện gì xấu. Mẹ chửi Bớt: "Cha tông môn quân trắng mắt! Quân trắng mắt, việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng", Bớt chỉ lặng thinh, càng hùng hục làm cho mau việc nhà, nhưng đến lúc đứng lên đi họp, mẹ vẫn không hết chửi. Làm thế nào được? Ðoàn phân công cho Bớt công tác, Bớt phải làm, không lẽ Bớt bỏ? Mẹ chê tướng Bớt đi như tướng đàn ông, đúng tướng khổ, khổ thì khổ, Bớt là quân báo. Bớt còn tập sao cho Bớt đi nhanh nữa, đi nhanh như bay. Ðêm, mẹ nằm nhà, mẹ không biết: "anh" quân báo, ban đêm, bất cứ lúc nào, hễ có lệnh ới một tiếng là đã phải vùng dậy đi ngay. Không phải đi mà là chạy. Chạy sao cho từ xã lên huyện, lại từ huyện đem lệnh về xã, chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ, đi cho có tướng nhàn thì có mà... hỏng việc!

    Chị Nở đã được mẹ chiều, lại càng hay về hùa ton hót với mẹ:

    - Bu có bảo cái Bớt thế nào không? Tối qua họp đội bên sân kho, ông Thanh ăn cắp thóc của đội hay không thì kệ ông ấy, nó cũng nói. Nói, bà ấy mới chửi cho: "chị có bắt được tay, day được tóc chồng tôi không mà chị nói?". Bu bảo thế nó có dơ không?

    Mẹ nghe chị Nở, mẹ lại lườm, chửi Bớt:

    - Thế mới đẹp mặt giống mỏng môi ! cứ để người ta đánh, người ta xé nó ra, cho nó chừa cái tính hay hớt!

    Mẹ chửi rồi, mẹ vẫn còn tức. Không chỉ tức một cái nhẽ "để vợ ông Thanh chửi cho" m� c�n tức v� nhiều nhẽ kh�c. Ừ, của - của hợp tác - ai khiến nó mà nó lanh chanh nó giữ? Cái năm nọ cũng thế. Mùa đến, con người ta đi mót đông mót tây cả, con nhà mình, ai giục, chỉ được mỗi cái Nở chịu đi (mà con bé đã đi là nó phải mót được bằng người ta chứ nó không chịu kém). Còn cái Bớt đã không đi, nó còn quay cổ lại nó đe con cái Nở: "Chị cứ đi đi, hôm nào sinh hoạt đội, tôi đưa ra!" Nó đe là con cái Nở lại sợ, lại rụt vào không dám đi. Con đâu có con tai hại!

    Chị Nở lại xúi mẹ: Bớt đã khỏe đi họp, đi công tác thế, mẹ cứ cho phắt Bớt ra ăn riêng. Tưởng mẹ với chị nói đùa, Bớt cũng cười ngay thật:

    - Ðược! Bu cứ chia thóc ra cho tôi, mai tôi ăn riêng ngay. Mẹ chửi:

    - Ðừng có mà đòi tao chia thóc, tao vạc mặt ra bây giờ.

    Chị Nở hùa vào:

    - Mày làm điểm à? Ðiểm của con, còn thóc của bu, bu nhỉ?

    - Phải rồi! Mai mấy đứa thổi cơm, dứt khoát đừng thổi cho con Bớt. Nó ở đâu có cơm ăn, đi công tác được thì nó ở. Tao già rồi, việc gì tao phải còm cọm làm nuôi báo cô nó mãi.

    Người lành thì ra dễ cục. Bớt tức, khóc ầm ĩ:

    - Bu đừng có con yêu con ghét? Ðược, đã thế xem sau này bu già, một mình cái Nở có nuôi được bu không, hay lúc ấy lại phải gọi đến tôi?.. Nay bu dọa đuổi ra ăn riêng, mai bu dọa đuổi ra ăn riêng... Tôi đi công tác chứ tôi có đi đánh đĩ?...

    Bà mẹ cười khẩy:

    - Phải, tôi chỉ đối xử thế thôi. Chị tức th� chị đ�m đầu xuống s�ng, xuống ao kia m� chết. À, chị lại đe tôi nữa kia! Mai sau tôi già cái Nở, thằng Tấn nó không nuôi nổi tôi thì tôi đi ăn mày thiên hạ tôi sống, tôi không thèm nhờ cái mặt chị đâu, tôi bảo cho chị biết thế...

    2

    Sang năm sau, cả Bớt và Nở đều đi lấy chồng. Nở lấy chồng bên kia sông - đám mà bà Ngải vẫn thường khoe với bà con một cách hãnh diện:

    Ðám này nhà cháu nể nhời bà Lân bên ấy quá, phiên chợ trước, nhà cháu có rẽ vào... Vâng, cũng phải xem cửa xem nhà thế nào mới dám định đoạt cho cháu chứ ạ! Nhà bên ấy cũng còn lợp rạ, nhưng nhà xây năm gian, cửa toàn cửa kiểu mới, chả có kiểu cổ cửa bức bàn như ta thế n�y đ�u. Ấy, hôm nọ bà Lân lại sang, nhà cháu cũng tiền tiện thế nào xong thôi, chỉ xin đôi hoa tai, cái nhẫn, hai thứ hai đồng cân, đôi áo bô-lin, đôi quần lụa, cái khăn len, cái áo len. Còn tiền mặt thì xin ba trăm. Ba trăm chỉ vào khoản giầu nước, với lại thế nào cũng phải chạy lấy dăm, ba mâm mời bà con trong họ khéo thiếu đấy ạ? Bà tính đời người mới có một lần, tôi cũng xin cho cháu gọi là cho cháu khỏi tủi... Không ạ! Ông bà bên ấy ưng ngay. Hoa, nhẫn thì người ta đã sắm trước - từ những ngày vàng mới lên năm mươi. Bảo chỉ khó có cái khăn len, đằng mười sáu đồng hai hào, đi tìm khắp mấy cửa hàng, lên cả cửa hàng bách hóa trên huyện cũng không có, chỉ có đằng mười hai đồng bốn hào, xấu hơn, họ lại không dám mua, lại nhờ bà Lân sang nói hay là họ gửi tiền, nhưng cháu nó không nhận.

    Ấy là đám cưới cô con gái lớn. Nhưng đến đám cưới Bớt giá có ai nhắc đến, là bà Ngải mặt đã tái ngăn ngắt:

    - Tôi có gả bán đâu, bà? Tôi không thừa con tôi gả cho đứa không cha, không mẹ, không cửa, không nhà cơ mà! Nói, bà tha phép, tôi bảo con cái Bớt: Ðấy, mày dại đi theo nó thì mày cứ theo, nhưng đừng có mở mồm xin tao một xu tao cũng không thí cho đâu... Ôi dào! Bà bảo cán bộ xã còn chả ăn ai nữa là cán bộ đội sản xuất! Nếu có tử tế, nó đã chả tự do đem con Bớt lên xã đăng ký...

    *
    * *

    Ba năm sau, Tấn đi bộ đội. Dạo ấy, Nở mới đẻ đứa thứ hai. Bà Ngải vét tất hai ổ gà đẻ, mua thêm nữa đầy đủ năm chục trứng xếp vào cái bị có lót trấu, lễ mễ xách sang cho con gái. Tưởng ở chơi với cháu dăm ba bảy ngày đỡ nhớ rồi về, chẳng ngờ con rể, con gái giữ ở dịt. Bà giẫy lên:

    - Còn gà, lợn của tao ở nhà?

    Gà, lợn thì con rể dồn vào một gánh - bên rọ lợn, bên lồng gà gánh cả sang bên này nuôi khó gì.

    Mùa đến, bà cụ cuống cuồng:

    - Cho tao về, tao còn gặt ruộng phần trăm, còn xem hợp tác chia chác thóc lúa ra sao, rồi mùa tao lại sang, chứ bắt tao ở đây bây giờ thì tao chết.

    Con gái, con rể lại thu xếp khéo léo:

    -... Ruộng phần trăm - cả phần của cậu Tấn - được năm miếng chứ gì thì gặt mấy lúc! Còn thóc lúa hợp tác xã chia cho, bao nhiêu đã có phương án, giấy trắng mực đen rành rành đấy rồi, ai bớt xén được? Bà không phải về, để chúng con về, chỉ vài buổi là xong, được bao nhiêu, chúng con gánh tất sang đây, quây riêng ra cho bà, bà giữ.

    Ðấy được hai cái mùa còn rành mạch, của mẹ riêng, của con riêng, chưa có chuyện gì xảy ra cả. Nhưng dần dà, lúa thóc của bà gộp lại với nhà nó lúc nào không biết. Con lợn nuôi đến cuối năm đem bán - nào có bán cho Nhà nước, lại bán thầm bán vụng cho mấy anh chuyên đi giết lợn lậu! - được một trăm bốn chục đồng. Món tiền ấy bà giữ trong người khéo chỉ được nửa tháng, rồi thì con gái vay, con rể vay, nay năm đồng, mai một chục, quanh quẩn mà rồi hết nhẵn.

    Cho đến một hôm, ấy là hôm bà cụ nhận được thư của cậu con trai. Trước khi đi xa, Tấn gửi thư về xin mẹ một trăm đồng để mua đồng hồ với mấy thứ lặt vặt. Bà cụ quýnh lên, hỏi Nở. Nở làm ra bộ ngơ ngác:

    - Tiền gì bà nhỉ?

    Bà cụ gắt lên:

    - Tiền bán lợn chứ còn tiền gì. Phiên chợ hôm mười sáu tháng giêng, chị hỏi vay tôi mười đồng, tôi đưa chị hai tờ giấy năm đồng thì một tờ có vết mực tím. Ðến phiên chợ hôm mười một tháng hai, anh ấy lại hỏi vay mười lăm đồng, bảo đi mua cái gì? có phải cái dũi dũi cắt tóc không nhỉ?... Lại cái hôm có ông cụ bên Sở...

    Nở ngắt ngang:

    - Con tưởng bà sang ở bên này với chúng con, tiền nong, thóc lúa mẹ con có gì thì tiêu chung, chứ ai biết đâu bà lại...

    Bà cụ choáng cả người. Nó nói thế là làm sao? Chả có nhẽ ngay con gái mình nó cũng định cướp không của mình con lợn với mấy chục thùng thóc. Ruột bà nóng điên lên, bà bỏ bữa cơm trưa hôm ấy không ăn. Nở cũng lờ đi, bế con đi chơi hàng xóm. Ðợi đến tối, con rể về, bà lại hỏi, hy vọng nó là đàn ông biết điều, chắc nó phải thu xếp nó giả. Nhưng thằng chồng cũng chẳng hơn gì con vợ. Nó cũng làm bộ ra ngơ ngẩn - ngơ ngẩn ăn người - hỏi lại vợ:

    - Kìa mình? Tiền gì mà mình nợ bà nhỉ?

    Vợ nó nói buông xõng:

    - Nợ gì? Bà muốn đòi thì đòi chứ nợ gì?

    Bà cụ khóc lóc, làm toáng lên. Nghĩ tức mất của thì ít, mà tức con gái, con rể thì nhiều. Chẳng thà nó xin, nó lại dáo dở! làm toáng lên thì chỉ mệt bà; một đồng cũng không cạy được ở chúng nó. Thằng chồng còn hầm hầm chửi vợ:

    - Ông đã bảo mày rồi, có sai đâu, rằng mấy đứa bé ấy thì tống nó vào nhà trẻ hợp tác! Cứ vẽ sự, để bây giờ điếc tai ông, điếc tai hàng xóm.

    Nó chửi vợ nó thế là nó chửi mình rồi còn gì? Bà cụ điên tiết, chửi con rể, con gái một thôi, xong cắp quần áo về ngay tức khắc hôm ấy.

    Về đến nhà, việc đầu tiên là bà cụ nhờ một em học sinh gần nhà viết cho bà một lá đơn - lá đơn thật dài kể các chi kỳ việc, kể hết.

    Ðơn được viết xong, b� gấp cất đi cẩn thận, định bụng mai thứ hai, Ủy ban huyện làm việc là bà lên tận nơi đưa đơn. Ðúng lúc ấy thì Bớt tìm đến.

    Từ khi đi lấy chồng, dù ở đầu làng - cuối làng, Bớt cũng ít khi về nhà thăm mẹ. Bớt không giận gì mẹ, nhưng cứ nghĩ đến cái đận đi lấy chồng nhục nhã thì Bớt lại buồn tênh, lại chả muốn về chơi làm gì. Anh Sâm, hồi chưa đi nhập ngũ có lần cũng bảo với Bớt:

    - Mẹ đã rẻ rúng thế thì thôi, đến in ít chứ. Ðến luôn, có khi mẹ lại tưởng hay là mình định bòn rút gì mà đến, thật đấy. Cứ để khi nào mẹ già mẹ yếu, không làm gì được nữa, lúc ấy mình hãy đến. Cần thì mình đem mẹ về, san sẻ nuôi mẹ. Tôi không phải cái đứa mẹ mày mẹ tao đâu, cô không phải lo.

    Cho nên lần này, nghe biết chuyện, Bớt lật đật đến ngay. Vừa ngồi xuống phản Bớt đã hỏi mẹ:

    - Bu định... bu định kiện chị Nở hay sao đấy?

    Giá là ai khác, có lẽ bà cụ đã kể ra rông rốc một thôi. Kể cho nó hả, với để tìm lấy một thái độ đồng tình. Nhưng đằng này lại là Bớt: "Khổ! Xưa nay thì mình vẫn cứ ngỡ con cái Nở nó hiếu nghĩa!".

    Bớt mở ghim băng, rút ở túi ra một cuộn tiền đưa cho mẹ. Thoạt đầu bà lão còn ngẩn ngơ, chưa chi đã ngờ cái Nở nó nghĩ lại, nó gửi tiền sang cho em nó giả mình? Nhưng đến khi Bớt bảo là "tiền Bớt bán đi ổ lợn chín con với một mớ ba mươi quả mít cho người ta buôn, bòn tất cả được trăm mốt bạc, đem lên xem bà có cần gửi đi cho cậu Tấn" thì bà cụ khóc, khóc rưng rức, và nhất định đẩy cuộn tiền ra, không lấy. Bà cụ muốn kêu lên rên rỉ: "Ôi! Xưa nay mẹ đối xử với con bất công, giờ mẹ lại cầm tiền của con thì ra mẹ là giống chó".

    Bớt nhặt cuộn tiền, cố nhét vào túi áo mẹ:

    - Còn kiện cáo thì thôi thôi, bu nghe con, chuyện mẹ con trong nhà, bu bới ra làm gì, rồi người ta cười cho chả bõ - Bớt đứng dậy cười to. Ðấy rồi bu xem, đố rồi chị ấy có bỏ được bu, bu có bỏ được chị ấy.

    3

    Vài hôm sau, bà cụ Ngải khóa cửa, xuống cuối làng ở với mẹ con Bớt, ngày nọ - ngày bà cụ còn ghét bỏ con gái ấy - thoạt nghe tin con rể đi bộ đội, lại nghe con gái được cử ra thay, làm đội phó đội sản xuất, thì bà cụ đã cười, mỉa mai:

    - Con Bớt mà cũng làm đội phó, chả trách làng này bây giờ hết người!

    Và cứ nghĩ đến cái tính lành chanh của Bớt ngày bé, bà cụ lại lẩm bẩm:

    - Rõ mới thối!

    Ngày ấy cũng có người đã hỏi:

    - Sao bà không xuống trông cháu, đỡ dần cho cô Bớt? Chú ấy thì đi bộ đội vắng, cô ấy thì bận công tác đi suốt ngày, lại con cái...?

    Bà cụ chỉ lặng thinh hoặc gượng gạo đổ lỗi cho con rể, con gái:

    - Chị ấy có thèm nhờ đến tôi đâu? Cả anh ấy nữa, khi đi chẳng thà anh ấy bảo tôi lấy một câu "nhờ bà ở nhà" hay là sao? Ðã không nhờ đến tôi thì thôi, tội gì tôi lại phải ngửa tay ra xin việc ấy nhỉ?

    Nhưng bây giờ, thoạt bước chân vào sân nhà Bớt, nhìn cái nhà khóa cửa để đấy, cái bếp thì gà qué bới tung hoăng, trấu lộn với gio, cái vung đất vỡ làm đôi nằm lăn lóc bên mấy ông đồ lốc, còn hai đứa bé, chả hiểu mẹ nó gửi nhóm trẻ ở tận đâu thì bà cũng nhận ra mình bây giờ mới đến với mẹ con nó là muộn quá.

    Ừ, hoàn cảnh như con cái Nở thì việc gì mình phải đến bế con nó giúp nào? Không phải vợ chồng nó dáo dở với bà rồi bà mới nghĩ thế, nhưng cái Nở thì công tác gì, còn thằng chồng nó béo khỏe như vâm, cứ đợt nghe sắp tuyển binh, lại thấy nó nhăn nhó kêu đau tim, với thấp khớp... mưu mẹo trốn nghĩa vụ đấy!

    Thấy mẹ đem quần áo, nồi niêu đến ở chung, Bớt rất mừng. Nhưng chị cố gặng mẹ cho hết lẽ:

    - Bu nghĩ kỹ đi. Chẳng có sau này lại phiền bu ra, như chị Nở thì con không muốn...

    Nghe con nhắc thế thì bà cụ lại ngượng. Bà cụ gượng cười:

    - Mày khác, nó khác. Với có gì mà phải nghĩ hở con? Ðây này, bu cứ tính thế này: bao giờ đánh xong thằng Mỹ; bố con Hiên với cậu Tấn nó về, lúc bấy giờ ở đâu rồi hãy hay. Còn bây giờ thì bu cứ ở đây với mẹ con mày, chứ bu ở trên ấy một mình vong vóng cũng buồn, mà mẹ con mày dưới này thì lại bấn quá. Mày thì đã lắm thứ công tác. Lại còn lo làm lấy điểm lấy thóc nuôi con...

    Từ ngày có bà đến ở chung, Bớt như người được cất đi một nửa gánh nặng trên vai. Giờ Bớt chỉ còn lo công tác với ra đồng làm, giá có phải đi họp hay đi học dăm, bảy ngày liền như lớp học chống sâu bệnh cho lúa vừa rồi, là Bớt có thể yên trí đùm gạo đi được, không phải như cái đận ngày xưa vừa họp đấy, mà bụng thì nôn lên với mấy đứa con còn vất vạ ra ở nhà, gửi liều cho hàng xóm. Mấy đứa trẻ được bà trông, chỉ vài tháng đã lớn, béo ra trông thấy. Cái Hiên con đã chập chững bước nhanh, cứ bà đi trước, cháu đi sau, hai bắp chân có ngấn, lảo đảo như anh say rượu. Còn con Hiên lớn, giống mẹ ngày xưa như đổ khuôn, da cũng ngăm ngăm đen, lông mày cũng rậm cũng to chỉ khác má không có cái bớt. Tội con bé, cả cái tính lủi thủi hay làm cũng giống mẹ. Mới bốn tuổi đầu đã nhớn nhao gì, cứ cái xảo với cái liềm cùn, lê la một mình ngoài ngõ cắt cỏ. Cắt được một dúm cỏ cháu lại khệ nệ bê xảo về, đổ vào chuồng lợn, bắt chước người lớn làm phân đấy. Bà sợ cháu mỏi tay, gọi cháu về ăn hạt mít, cháu mải cắt không về, bà nghĩ thương (có phải chỉ thương nó, mà là bà thương cái hình bóng ngày xưa của mẹ nó), bà lại ôm cháu, nựng:

    - Cháu bà chăm làm quá? Mai kia hợp tác cân phân, đổi cho thóc, bà bảo mẹ mày cho hai đồng, bà cháu ta đi chợ mua đôi ngan con về nuôi, công cái Hiên cắt cỏ bỏ lợn nhỉ.

    Chiều về, nghe bà kể chuyện, Bớt móc túi chìa ra cho con hai con niềng niễng chị vừa bắt được ở ngoài ruộng.

    - Ðây con ngoan, mẹ cho con. Ừ, con đưa bà, chốc bà nấu cám bà nướng cho. Ðừng ăn sống. giun sống, nó vào nó đục bụng cho đấy, Hiên ạ?

    Bớt kéo con vào lòng, vạch tóc con ra, và chỉ vào cái sẹo to bằng cái trôn bát ở gần đỉnh đầu, vô tình kể với bà:

    - Còn bố nó ở nhà, bố nó thương con này nhất, bố nó cứ bảo: Tội! Con gái xấu xí.

    Bà cụ thở dài, và buột ra cái điều mà bà vẫn lấy làm ân hận:

    - Ừ, đáng ra thì thế, con nào chả là con. Có mẹ cổ nhân cổ sơ, ngày xưa mẹ mới dọa ra thế chứ!

    Bớt vội buông bé Hiên, ôm lấy vai mẹ:

    - Ô hay? Con có nói gì đâu, sao bu cứ nghĩ ngợi thế nhỉ.
     
  18. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Phiên chợ Giát - Nguyễn Minh Châu

    1
    Lão Khúng thức giấc. Lão chợt thức giấc vì một giấc mê khủng khiếp. Trong cơn mê ngủ, lão Khúng trông thấy một lão già thân hình cao vóng lại lủng củng đầy những xương cùng xẩu, mái tóc cắt ngắn cứng như rễ tre, mớ đổ phải, mớ đổ về phía trước trán, sợi đen sợi trắng loang lổ, mặt mũi gồ ghề, hai con mắt nhìn gườm gườm, với những mảng tiết bò còn ướt hoặc đã khô dính bết trên các bắp thịt nổi cuộn ở bả vai và bắp tay ; cái lão già ghê tởm ấy giang cả hai cánh tay nâng một chiếc búa to nặng như búa của thằng phụ lò rèn ở đầu làng Khơi bổ xuống giữa đầu một con bò, cú đánh của chiếc búa tạ làm lún một mảng trán sát hai con mắt của con vật, khiến cho một con mắt dính đầy máu trồi ra ngoài. Trời đất hỡi, đúng là con bò của nhà lão Khúng, con khoang đen nhà lão, "mụ già khụt khịt hay cảm cúm" của nhà lão, "bà đội trưởng" của lão Khúng, con bò nhà lão kêu rống lên một tiếng nghe ghê rợn, thứ tiếng kêu phát ra vào buổi mờ sáng từ nhà a ba toa phố Cầu Giát mà từ nhỏ những bận đi củi qua đó, qua các nhà a ba toa có ánh sáng ngọn đèn bãi chiếu như hắt ánh sáng ra ngoài, lão Khúng đều phải bịt cả hai lỗ tai lại, vắt chân lên cổ mà chạy. Nào có phải đứa dát, là đứa trẻ tợn tạo nhưng lão Khúng từ nhỏ đã không chịu nổi bất kỳ con vật gì kêu khi sắp chết. Ai ? ai đã giết con khoang đen nhà lão, người bạn đời của lão ? Lão nào ? Thằng già chết tử chết tiệt nào, đứa thần trùng nào, bọn trộm cướp giết người của dân kẻ bãi hay sơn tràng nào ? Thì lão chứ ai ! Ðứa hung thần là lão Khúng chứ ai ! Kẻ nâng chiếc búa tạ lên đánh vào đầu con vật là lão chứ ai ! Tay chân run lẩy bẩy, mồ hôi toát ra khắp sống áo đầm đìa, lão Khúng sợ quá. Lão đã trở nên độc ác quá mức, thật là vô cùng ác độc, mà lão đã trở nên độc ác ngoài sức nghĩ của con người từ bao giờ vậy ? Giá như người khác, là người biết ngoan ngoãn tuân phục một thứ tôn giáo nào thì chắc chắn lúc này, giữa đêm hôm khuya khoắt, lão đã lập tức quỳ sụp xuống mà hối hả đọc kinh, đập đầu xuống đất mà van nài kẻ tôn thờ, trút lòng ăn năn xám hối trước đấng thiêng liêng ở trên đầu trên cổ. Ðằng này là một kẻ vô đạo, lão Khúng chỉ biết lật mình ngồi dậy trên tấm phản gỗ mà run sợ một mình, vật vã đau khổ một mình, tự mình lại lấy làm sợ hãi trước chính mình. Lão mở trừng trừng hai con mắt mà nhìn lên hung thần đồ tể vừa nhập vào lão, ngay khi lão bình yên ngủ trên tấm phản quen thuộc giữa nhà mình.

    Ðoạn rồi như một kẻ vừa may mắn thoát hoạ, lão Khúng thở phào. Thực may ! may quá ! Vậy là không phải, chỉ là trong giấc mơ. Không phải thực. Ðúng, mà đây rồi, con khoang đen nhà lão lúc này đang khụt khịt ở ngoài gian bò sau nhà bếp. Lão yên tâm nằm xuống. Và nghĩ về giấc mơ tiếp sau đó. Pin ! pin ! pin ! Lạ lùng sao, con bò bỗng kêu rống lên lanh lảnh như tiếng còi ôtô vậy nhỉ ? Mà hoá ra ôtô thật, trong giấc mơ lão Khúng chẳng thấy con bò nhà lão ở đâu nữa, mà từ phía sau lưng lão, ngật ngưỡng lao vút đến một chiếc xe commăngca đầy oai vệ. Chiếc xe đít tròn không chạy trên đường mà bay là là trên mặt đám ruộng trồng khoai lang, bay qua đoạn mương dẫn nước trước nhà lão Khúng rồi lại bay qua mảnh sân nề vôi, bốn bánh xe không hề chạm mặt đất !

    Lão Khúng cứ trương mắt đứng ngó trân trân vào cái mặt kính chắn gió. Lão trông thấy loang loáng ở đằng sau có một người đàn ông thân hình phương phi, mặt tròn vành vạnh và đỏ rực như vầng mặt trời mới mọc, mặc sơ mi cụt tay màu trứng sáo đã hơi nhùng nhục, đội chiếc mũ cát két xám. Người ngồi ôtô hớn hở tươi cười nhìn lão, chém chém vào không khí, giống hệt bàn tay của các lãnh tụ trên lễ đài mà lão Khúng đã nhìn thấy nhiều lần ở trong phim. Người đang ngồi trong chiếc xe đít tròn biết bay chính là ông Bời bí thư huyện uỷ, con người đang nổi tiếng khắp đài báo trong cả nước và là bạn thân của lão Khúng. Nghĩ tiếp về giấc mơ đến đoạn đấy thì lão không nghĩ thêm nữa. Lão vẫn giữ nguyên tư thế nằm ngửa, chỉ động đậy hai cẳng chân duỗi thẳng, toàn thân hơi mềm ra. Lâu nay thỉnh thoảng có đôi lúc lão đã thấp thoáng nghĩ đến cái chết. Ðêm lão nằm mê thấy những chuyện vui thì ít, rủi ro, tai hoạ là nhiều. Cho nên mỗi lần nằm mê thức dậy bao giờ lão cũng mừng, rút cục là một nỗi mừng rỡ, âm thầm mừng rỡ như mọi lần, cái thế giới trần ai đầy nhọc nhằn, đầy thân thiết lại trở về với lão trước tiên ở thính giác, từ đôi tai đầy nhậy bén của lão. Lão nghe được gần như cùng một lúc hai hột sương rơi trên tàu lá chuối bên hồi nhà và trên ngọn đu đủ sau nhà. Hai con chó rất khôn của nhà lão thì vẫn im hơi lặng tiếng.

    Nằm trong nhà, lão vẫn nghe tiếng chân chúng đi tuần ngoài sân, trong lúc chó nhà thiên hạ đang sủa ran lên. Lắng nghe tiếng chó sủa xa cứ râm ra, như cắn đuổi ma đang bắt đầu lục đục ru về các chốn gió bụi, lão đoán biết ít nhất cũng đã hai ba giờ sáng chứ không ít. Bao nhiêu thứ ánh sáng cùng cái thứ tiếng máy đằng khu công trường lớn, cả trong khe Ðá Dầu cũng đã tắt hết tiệt cả. Ðêm tối thui và sâu. Ðâu, đã từ lâu lắm lão Khúng lại mới cảm thấy một vẻ im ắng về ban đêm như thế này khiến cho lão hơi sờ sợ một nỗi sờ sợ nguyên thuỷ y như có ai lại vừa ném lão trở vào một cái làng đất sâu hun hút và tối tăm - từ ở đấy lão đã ra đời, và cũng từ đấy ông bà tổ tiên lão đã ra đời, để sinh ra lão. Biết rằng dẫu muốn thì cũng không tài nào ngủ lại được nữa, lão Khúng đã toan trở dậy nhưng cái cảm giác tối tăm nặng nề ban nãy như một hòn đá tận dưới lòng đất sâu nối với thể xác lão bằng một sợi dây rất dài vô hình cứ níu kéo không cho lão ngồi dậy. Nhưng là một con người vốn quen săn sở đối với công việc, lão đã bật dậy : sáng nay lão Khúng phải đi xuống chợ Giát bán con bò. Và lão đã rắp tâm dắt con bò đi thật sớm...

    Suốt đời lão, trong muôn vàn những điều bực bõ, không thực hoàn toàn thoả mãn về chính mình, có một điều thỉnh thoảng lão lại cảm thấy là không biết cách sắp xếp cho có thứ tự những thứ chứa ở trong cái đầu của lão, cũng không biết cách diễn đạt thành lời cho rành rẽ - tất nhiên là chỉ diễn đạt với mình - cái bầy ý tưởng rối rắm, tăm tối lại hay trái ngược lẫn nhau, lại đầy gai ngạnh, như nhiều đàn bò của nhiều nhà tự nhiên đem nhốt chung vào một chuồng và suốt đêm chúng nó húc nhau, rượt đuổi nhau lung tung beng cả lên, ở trong ngăn chuồng quá đỗi chật hẹp là cái đầu của lão. Lão ngồi bật dậy trên tấm phản mọt rồi lập tức thả hai bàn chân trần xuống đất lạnh cóng. Lão làm thế, một cử chỉ đầy kiên quyết và dứt khoát là theo kinh nghiệm sống của lão, nhằm để khắc phục cái sự dùng dàng phân vân trong một công việc trọng đại, nó quá trọng đại - có thể nói như thế - mà sáng nay lão phải làm, dứt khoát lão phải làm. Tì một bàn tay xuống mép phản, lão rọi cặp mắt nhìn vào bóng tối trong nhà. Lão trông thấy có một tấm lưng trẻ con nằm vắt trên miệng cái cối xay thóc kê ở gần cửa ăn thông giữa nhà ngoài và buồng trong của mụ Huệ. Lại thằng Bút rồi ! lão nghĩ. Ðây là thằng con trai út củ lão, mới lên sáu tuổi. Cái thằng "đầu bò" ấy đêm nào cũng ngủ chung với bố trên tấm phản nhà ngoài nhưng nửa đêm lại có thói quen hay rúc vào buồng ngủ với mẹ. Thằng bé thường bước chập chững vừa đi vừa ngủ, trên dọc đường nó vấp phải con chó đang nằm ngủ thì ngã nhào xuống ôm lấy con chó mà ngủ tiếp luôn cho đến tận sáng. Cuối cùng thì chẳng có lần nào nó đi tới được với mẹ mà sáng ngày ra chẳng hôm nào thấy nó ngủ ở trên giường, trên phản. Hôm thì ôm lấy cái cối xay thóc, hôm nó ôm lấy cái chổi mà ngủ. Như hai tên tuần đinh mẫn cán ở ngoài sân hai con chó vẫn ngậm miệng đi đi lại lại. Một trời sao dày như mắt sàng sáng long lanh và ướt át. Sương khuya rơi lộp bộp nặng trĩu từ trên những tàu lá xuống mặt đất chung quanh nhà vốn đã ướt đẫm sương. Lão Khúng như một cái thân cây khô đầy mấu mắt và vặn vẹo đứng im thít giữa mảnh sân một nên vôi trắng toát đang hướng mặt về phía biển, lão cùng ngôi nhà đều đang hướng mặt về phía biển, về hướng cái làng Khơi chôn rau cắt rốn của lão, của tổ tiên lão ở dưới ấy. Về hướng ấy chân trời như thấp hẳn xuống và nhoè nhoẹt trong sương luôn luôn như dội tới hai bên lỗ tai đầy thính nhậy như lỗ tai loài vật của lão những tiếng rì rào, rì rầm của sóng biển của đất đai quê nhà và mồ mả cha ông, cũng chả biết đó là những âm thanh có thực, lão nghe thấy thực hoặc chỉ là do lão đã từng nghe thấy từ đời tám hoánh nào, từ khi còn nằm trong bụng mẹ.

    Lão cúi khom lưng bước nhanh vào trong nhà bếp. Hai bàn tay lão sờ soạn trong góc tối. Mùi cám lợn chen lẫn mùi phân dê vừa chua lòm vừa nồng nàn xộc vào mũi lão nhưng những thứ mùi ấy đã trở nên quá quen thuộc đến mức lão chẳng ngửi thấy gì cả. Lão lôi được từ trên cái giàn tre gác bếp xuống một vòng dây chão mới và một vòng dây đã cũ. Gian bếp tối như hũ nút lão chỉ có thể phân biệt, được đấy là hai vòng dây chão mới và cũ bằng cảm giác trên những ngón tay. Trong ngày phiên chợ sắp tới lão chẳng hề có ý muốn làm đỏm làm dáng cho con bò nhà lão sắp đem bán một tý nào nhưng bằng những ngón tay lão cảm thấy cuộn dây cũ đã quá cũ, nó đã mòn vẹt, thậm chí lão có thể ngửi thấy được cả mùi mồ hôi của con vật rịn ra từ những lô chân lông ở trên hông nó trong những buổi cày ngày này sang ngày khác đã thấm vào trong cái vòng dây chão. Con khoang đen đã già yếu quá, từ lâu lão Khúng đã biết vậy. Lão biết vậy từ đầu năm ngoái. Thậm chí các bà con trong xóm người ta không nói nhưng đã biết như vậy trước cả vợ chồng lão Khúng, người ta nhận ra nó đã già lão từ năm ngoài. Con bò đã hom hem như một bà lão vậy mà cáo sợi dây chão lại cũ, không khéo người ta nhìn vào lại càng thấy nó già yếu hơn ? Lão Khúng đứng trong bóng tối và đang tính toán mọi đường hơn lẽ thiệt về cái uy thế của con bò nhà lão lúc ra đứng ở giữa chợ.

    Trong bóng đêm tối thui lão Khúng đứng nhìn sợi dây chão đã từng cột cổ bao nhiêu con bò, đã từng gắn bó với đất cát nhà lão, đã từng đi qua đời lão, phải rồi ngày xửa ngày xưa đấy là sợi dây chão vẫn còn mới nguyên, những sợi lạt giang mới cứ trắng tinh như lụa bện chặt vào nhau mà lão đã mang từ chợ Cày về cùng với mồ ma con vá lưng, lão đã dùng sợi dây này dòng con vá lưng tận trong chợ Cày về, và cũng trong cái bận đi tậu bò ấy, lão đã giáng cho cái thằng cha lái bò trong chợ Cày một bài học đáng đời , lão đã làm cho hắn được một mẻ ngượng ngay giữa chợ. Là bởi vì cái thằng cha bủn xỉn quá thể đã bán con bò cho lão, cầm trên tay cả một đống giấy tiền lớn cuộn tròn to bằng cả cái khăn xếp vậy mà còn định cởi ra khỏi cổ con vật cái dây chão. Vậy thì để cho lão phải cởi dải rút ra mà dắt con bò về à ? Quả thực thì sợi dây trông còn mới quá, còn mới hơn rất nhiều cái cuộn dây mới lão Khúng đang cầm trên tay bây giờ.

    Nghĩ thế rồi lão Khúng quay trở vào cất cuộn dây mới lên gác bếp. Lão xách cuộn dây cũ ra. Chậc, dù chỉ là cái vặt nhưng cũng phải xuất tiền ra mua chứ chả ngửa tay xin không được của ai bao giờ, lão nghĩ vậy trong khi bước qua một lối đi rải vỏ ngao từ nhà bếp ra chuồng bò. Ði qua cái chum vỡ miệng chứa nước múc dưới giếng lên, lão cầm cái gáo dừa múc nước trong chum tu một ngụm, súc miệng sùng sục. Con khoang đen đã trông thấy bóng lão Khúng ngay từ lúc lão vừa thức dậy đi qua sân vòng ra căn nhà bếp đứng đái ồ ồ rất lâu ở cái thùng đựng tro đặt sau chuồng lợn. Mặc cho trong đêm tối, con bò cũng rất dễ nhận ra hình của lão Khúng. Hơn chục năm nay, con vật đã quá quen với một cái hình dáng con người, đứng trên hai chân y như một cái cây dại tự nhiên từ trong đất mọc lên, con vật chỉ khụt khịt lỗ mũi vài cái đã có thể đánh hơi thấy từ xa mùi mồ hôi muối thân thuộc và lập tức đánh thức dậy trong trí lử u tối của nó một ý chí thuần phục đầy khủng khinh. Như tuân theo một thứ quán tính, trông thấy lão Khúng vừa đưa ống tay áo chùi nước hai bên mép vừ bậm bạch đi tới trước cửa giàn, con bò đã toan bấm móng xuống đất đứng dậy nhưng lại như một đứa trẻ quen làm nũng nó biết rằng cần phải tỏ ra khủng khỉnh đôi chút, lão Khúng cũng thừa biết vậy, lão đưa bàn tay vỗ nhè nhẹ lên cái cổ vươn dài ra ngoài then cửa nhưng khi con bò ngoan ngoãn đứng dậy, bàn tay lão trở nên run run khi buộc sợi dây chão vào cổ con vật.

    Lão Khúng biết rằng cái nốt buộc lần này sẽ không bao giơ cởi ra nữa, lão đang cột cái chết vào cổ con vật. Con bò già nua làm sao thấy được một giọt nước mắt của lão Khúng vừa lăn vào lớp cỏ ống nhầu nát dưới bàn chân lão trong lúc lão oằn người giang hai cánh tay thúc cái then cửa giàn về một bên để mở cửa giàn bò cho con bò đi ra. Với chiếc dây chão cũ rích nằm vắt hai vòng trên cặp sừng rồi bỏ thõng xuống một bên bả vai đã sần sùi như da cóc vì suốt đời mang ách, con Khoang đen già nua lững thững đi ra khỏi cửa giàn, bốn móng chân nó giậm lộp bộp trên nền đất bột của mùa hanh khô vương đầy rơm rạ cùng những cọng cỏ tươi đã lấm láp. Ra khỏi cửa giàn mới dăm bước, con vật liền đứng lại. Nó khụt khịt ỗ mũi đánh hơi mùi đất ẩm sương đêm lẫn mùi ngai ngái hăng hắc xông lên từ một cái quang cỏ còn nguyên vẹn nén chặt trong bốn sợi dây thép, toàn cỏ ống đã rửa sạch mà con Nghiên, đứa con gái áp út của lão Khúng vừa đi cắt tận trong chân núi, lúc nhập nhoạng tối. Con vật thè cái lưỡi ram ráp bứt một ngọn cỏ trong chiếc quang nhai trệu trạo giữa hai hàm răng trắng nhởn, liên tiếp giậm bốn móng xuống đất tỏ ý ngạc nhiên chứa đầy bất mãn đối với lão Khúng vì nó cảm thấy đêm vẫn còn sâu sao mà lão Khúng đã lôi nó dậy đi cày sớm quá. Nhưng rồi như một thói quen mỗi buổi sáng ra ruộng, con khoang đen già nua ngước mõm lên trời kêu lên một tiếng "ngọ" khàn khàn đầy não nề làm rung chuyển màn đêm.

    Cũng theo thói quen mỗi lúc ra ruộng, lão Khúng đánh con bò ra khỏi giàn liền chạy đi nhặt một chiếc rỗ thưa bật vành dính đầy tro lẫn phân bò khô đem đặt giữa hai chân sau của con vật. Ngay từ khi con khoang đen đang còn là một con me mới ra đời 14 năm trước, nhìn tướng mạo lão Khúng đã lấy làm bằng lòng khi trông thấy cái xoáy chỗ mút mông lão biết suốt đời con vật sẽ ỉa trước khi ra đồng, lão nuôi nó sẽ không bao giờ mất phân, hơn nữa, cái cuống đuôi không tròn vo mà bèn bẹt như đầu con cá chai : con vật sẽ ban thưởng cho lão sức lao động của nó, những hòn phân ra hòn phân cứ chắc nịch chứ không bao giờ ỉa té re. Lão đứng trước cửa giàn lơ đễnh nhìn những ngôi sao trên trời chờ con bò đại tiện và lấy làm tiếc từ nay nhà lão không còn nguồn phân ngồn ngộn của con khoang đen để hằng ngày hót đổ xuống cái hố ủ bên cạnh giàn bò nữa. Hai cánh mũi hít hít cái mùi phân vừa trút ra khỏi cơ thể con vật còn nóng ấm và đầy nồng nàn đang tan vào không khí về sáng hơi giá buốt, lão cầm đầu dây chão dắt con bò ra chỗ gốc cây vối ngoài đầu ngõ, ở đấy một chiếc xe bò bánh lốp ô tô đậu nép bên hồi nhà bếp chỗ đầu hồi hơi nhô ra, nơi đặt chiếc cối giã gạo đạp bằng chân, hai bánh lốp ôtô của chiếc xe bò được quấn một sợi dây xích cột vào bên chân cối giã gạo. Lão Khúng nhìn qua một đống củi lẫn những bó chè xanh chất cao lù lù trên thùng xe, trông thấy một mái đầu bịt khăn quàng đen đang ẩn hiện ở bên kia chiếc xe, lão hơi giật mình biết là mụ Huệ đã thức dậy, vợ lão đã thức dậy cùng lúc với lão trong cái giờ phút trọng đại vĩnh biệt con bò. Mụ Huệ không hề lên tiếng cứ như người ngậm tăm, lão cũng vậy. Lão đứng hơi né ra một bên khi người đàn bà đi tới gơ tay cầm lấy một bên chiếc sừng nhẵn bóng, dắt con vật sang bên kia thành xe.

    Lão Khúng đi quanh một vòng thít lại sợi dây mây chằng những bó củi rồi ra chỗ gốc vối ngồi xổm xuống, kẹp chiếc điếu cày giữa hai đầu gối, những ngón tay tự nhiên tê cứng run rẩy mãi mới châm được mồi thuốc lào vào cái nõ điếu bằng gỗ thị. Lão ngó nhìn chung quanh một lát mới bật cái bật lửa, thu thu ngọn ửa trong tà áo để khỏi rọi ánh sáng vào nhà khiến lũ con có thể tỉnh giấc vào lúc này. ánh sáng từ chiếc bật lửa trên tay lão rọi một khoảng trăng trắng trong lòng chiếc chậu sành da lươn. Trước mặt lão, mụ Huệ ngồi xổm còn con bò đang đứng sung sướng thè lưỡi liếm thứ cháo nếp đặc sánh vô cùng thơm ngon mà mụ Huệ đã nấu sẵn từ đầu hôm. Nó có cái gì giống như bữa tiệc thết người trước khi bước lên đoạn đầu đài. Con bò già nua ăn chậm chạp, chiếc cổ cúi xuống gần như không động đậy, chỉ có chiếc yếm đã nhẽo ra hơi run rung, thỉnh thoảng con vật lại đưa chiếc lưỡi ram ráp liếm ngược lên theo thành chậu rồi âu yếm liếm trên hai bàn tay đã dăn deo vì lam lũ của mụ Huệ đặt thõng trong lòng chậu cháo. Chờ cho con bò ăn xong, mụ Huệ đưa bàn tay vẫn còn dính những hạt cháo nếp vuốt ve nhiều lần lên cổ con vật, đoạn dắt nó đến bên càng xe. Lão Khúng vội vã chạy tới vứt chiếc điếu cày lên đống chè xanh trên nóc xe đoạn cúi gò lưng nâng bổng cả hai chiếc càng xe lên khỏi mặt đất, đặt chiếc ách gỗ mặt trong đã mòn lõm vào cổ con vật. Hai vợ chồng lão Khúng đứng nhìn con bò rồi nhìn nhau một lúc trong đêm vắng. Cả hai vẫn lặng im. Lão Khúng biết không thể dùng dằng được nữa, không phải dùng đằng đối với mụ Huệ mà chính lão sợ con Nghiên và thằng Bút ngay lúc này trong nhà thấy động chúng thức dậy. Ai chứ thằng Bút, thằng "đầu bò" sẽ nằm lăn quay ra trước xe, thậm chí ôm chặt lấy ha chân trước của con bò không cho bố đem đi đâu cả. Nhất là con Nghiên, năm nay mới 9 tuổi đầu nhưng từ hi biết cầm cái lềm, là đứa con gái bé nhất của lão đã biết ngày ngày chăm chỉ đi cắt cỏ, mỗi ngày một gánh đầy, để cho con khoang đen ăn no để đi cày, có hôm nó đi cắt tận trong khe núi giáp Diễn Châu, gánh gánh cỏ đi lạc mãi trong những dãy núi, vừa sợ, vừa đói chín mười giờ đêm mới tìm được đường về làng. Lão hấp tấp trèo lên ngồi chênh vênh trên thành xe, kêu lên những tiếng "hầy, hầy" đầy gắt gỏng. Nhưng đâu có phải chờ lão giục, con bò đã vươn dài cổ kéo chiếc bánh lốp đã mòn vẹt lọc cọc lăn qua trước mặt Huệ đang đứng câm lặng bên gốc vối. Ra khỏi nhà một đoạn, lão nhảy xuống. Con đường dốc sục lên những đất bột tự nó kéo chiếc xe lăn tuồn tuột xuống dốc.

    Lão Khúng bước cao bước thấp, hai tay cố níu giữ chiếc xe đi chậm lại, lão quay ngoái cổ, bằng con mắt con vật, nhìn một lần cuối cùng ngôi nhà với cái dốc tường hình tam giác trắng nhờ nhờ in bật trên nền trời sao đêm về sáng đang nhấp nháy liên hồi, bỗng giật mình chợt nhìn thấy bên gốc vối không phải chỉ có một mình vợ lão mà còn thêm một cái bóng bé bỏng, trời ơi, con Nghiên ! con Nghiên ! sao nó biết mà dậy ? Lão Khúng thấy vướng vức trong lòng vô cùng. Suốt tối qua, chiều qua và cả ngày hôm nay, cả hai vợ chồng lão đã đồng lòng giấu biệt không cho lũ con biết sớm nay sẽ đem bán con bò của nhà. Vậy mà đứa con gái đã biết mà thức dậy, đứa con gái hai bàn tay lúc não cũng sây sát ứa máu vì công việc cắt cỏ cho con bò ăn để đi cày. Thực ra con bé thức dậy tự lâu lắm, trước lão Khúng và dường như là suốt đêm đêm nó không ngủ. Con bé lên chín sứt răng, bằng mối mẫn cảm đặc biệt của dòng máu gia đình nông dân, nó biết tính toán rồi ra trước sau không còn cách gì khác, nhà nó cũng phải bán con khoang đen đi để lấy tiền cho bố đi vào Ðắc Lắc một chuyến nữa, để làm nhà làm cửa cho vợ chồng anh Lạc nó đang đi "kinh tế mới" và đang gặp khó khăn ở trong đó, trong đó là câu ? Ðắc Lắc, Ðắc Lắc, cái xứ đất rất xa lạ ngoài sức tưởng của nó, ngoài tầm tay với đầy tình thân yên nhưng ngắn ngủi của nó đối với người anh mà cứ mối lần có ai đang nói chuyện nhắc đến hai tiếng Ðắc Lắc là con bé dỏng tai lên nghe hóng, không khỏi mủi lòn bùi ngùi sực nhớ ngay đến vợ chồng anh Lạc, người hiền như đất, tính tình như con gái mà nó thân nhất nhà, thương nhất nhà.

    Hồi tháng một năm ngoái lão Khúng đã đi thăm con một chuyến trong Ðắc Lắc, về cái công chuyện này cũng có đôi lúc lão Khúng nghĩ mà lấy làm buồn rầu. Dù sao đời lão đã phải bỏ làng xóm, bỏ mồ mả tổ tiên ở dưới biển để lên tận đây, cái miền ngược ma thiêng nước độc này để khai khẩn đất cát kiếm miếng sống, lão vật lộn với miếng đất rừng này đến giờ đã gọi được là tạm mát mặt, hòn đất đã bớt đi rất nhiều mầm cỏ dại, hòn đất đã gần hoá thành hòn đất thuộc, lão đã tưới đến gần cạn kiệt mồ hôi cho mảnh đất này thì đời con lão lại phải bỏ đây để đi đến những miền khác, những miền rừng khác xa xôi hơn, mịt mùng hơn. Chả lẽ đời của lão, cái số phận của lão, của vợ chồng, con cái lão là phải như vậy, cứ phải như vậy ? Ôi, lão Khúng nghĩ, giá không phải chạy theo đưa con để bù trì nâng giấc cuộc sống ban đầu cho nó ở cái nơi đất khách quê người chắc chắn hôm nay lão không phải rong con khoan đen xuống chợ Giát từ nửa đêm thế này ? Mà cái con khoang đen nó đã già gì, vẫn
    biết rằng nó đã 8 răng, đã đoạn từ lâu, nhưng của bền tại người, ông Bời bí thư huyện uỷ nói đúng, trong các xã có con bò nào béo gầy, bảo già thì hãy cứ giắt lên vùng trên giao cho ông Khúng nuôi hộ. Chỉ nửa năm chúng sẽ trở thành trai tơ, gái tơ, lại kéo cầy được ! Một cái bóng mảnh nhỏ trong đêm như chiếc lá cỏ vụt bay ra khỏi gốc cây vối, vật tượng trưng cho cái ngõ ra vào của nhà lão. - Họ, họ... Miệng kêu khẽ bằng cái giọng âm thầm của một người quen ăn to nói lớn, hai tay giữ chặt lấy càng chiếc xe không cho hai bánh lốp nhúc nhích.

    Lão Khúng đứng làm cái phanh xe hồi hộp đợi đứa con gái chạy xuống và trong bóng tối lão trong thấy chạy phóng lên phía trước đứa con gái là hai con chó nổi tiếng của gia đình lão : con mực và von vàng. Chẳng hiểu sao hai con chó cũng trở nên đầy quyến luyến đối với con bò, chúng chạy quẩn quanh chân con bò, hai con vật giữ nhà đưa mũi hít hít trên những chiếc óng sừng của con vật kéo cày, trong lúc con Nghiên nước mắt giàn giụa sụp xuống ngồi xổm dưới tấm yếm thõng thẽo, rồi con bé xoã cả mái tóc ngắn đỏ quạch chưa kịp cặp lại bằng chiếc cặp ba lá từ khi nhảy choàng ra khỏi giường, để cho mái tóc trùm lên đầu, lên cổ con vật, hai bàn tay bé nhỏ không ngừng vuốt ve hết mũi miệng, đến đầu cổ con vật. Con bò cũng tỏ vẻ buồn bã, hay là đên lúc này bằng bản năng loài vật, nó đã cảm thấy được nó đang đi chuyến đi cuối cùng của đời nó, giữa đêm khuya ? Con Nghiên chừng như không còn chịu đựng nổi nếu đứng mãi bên con vật mà suốt đời nó chăm sóc, con bé liền chạy lại gục đầu vào ngực bố bởi nó biết chính lúc này bố nó cũng đang đau khổ vì phải đem bán con bò.

    Lão Khúng đưa một bàn tay lên vuốt vuốt trên phiến lưng gầy guộc của đứa con gái chăm làm nhất nhà. Lần đầu tiên lão nhận thấy từ mái tóc và hơi thở của đứa con gái nhỏ phả
    ra mùi của các loài cỏ rất tươi non của đồng nội, vừa đắng vừa ngọt, phải lát lâu sau khi đứa con đã rời lão và khụt khịt như đang khóc vừa chạy vụt trở về với mẹ bên gốc cây vối, lão mới âm thầm nhận ra trên cơ thể của nó cái mùi cỏ ống vừa cắt, cả mùi đất rừng hoang dã rất xa xưa đã ngủ trong ký ức của lão nhiều năm về trước, khi lão còn là một chàng trai cùng mụ Huệ vừa từ dưới làng Khơi lần mò đặt chân lên đây. Thời bấy giờ con Nghiên hãy còn chưa đẻ, hơn một nửa số con cái của lão hãy còn chưa đẻ, con khoang đen cũng đang còn nằm trong bụng mẹ nó là con vá lưng mà lão sắp sửa đi tậu từ trong chợ Cày. Những ngày tháng ấy như thuộc vào thời kỳ mới có loài người, lúc bấy giờ trong cái "ổ gấu chó" của gia đình lão, cái gia đình loài người độc nhất giữa lòng rừng này mới có thằng Hùng, thằng Dũng và thằng Lạc mới sinh được hai tháng đang còn đỏ hỏn nằm trong lòng mụ Huệ.

    Y như thế ngày ấy mặt đất đâu đâu cũng là rừng rú, người thì ít lác đác, quá ít, chỉ có một gia đình lão do táo tợn mới dám chạy lên lập nghiệp, ấy thế vậy mà cái sợ lại không nhiều như bây giờ.
    Con người ta sợ nhau nhiều hơn là sợ beo trăn, cọp hổ, mới nói thê, nhất là từ ngày có cái công trường của nhà nước. Ngày trước cái gì bỏ đâu còn đó, thậm chí một cái ruột áo bông mới mua để mặc rét, suốt mùa hè vứt ngoài khe đá mà có ma nào lấy ? Ai lấy ? Lão sống như người rừng, đánh mất luôn tính cách một người ở đồng bằng, một anh nông dân bon chen ở làng. Vợ lão vốn một người thành phố lại càng thay đổi nhiều. Cả hai vợ chồng trở nên lầm lì, tính nết cũng âm âm u u như tính nết của rừng. Ngày đó, lắm lúc lão Khúng nhìn những đứa con chơi với nhau bên hang đá, đầu ngọn suối, lão ứa nước mắt, nói dại, lão cứ nghĩ không biết chúng nó là con lão hay là con của loài cầy cáo, beo trăn, mỗi lần nghĩ dại thế, lão lại lăn ra cười một mình, cười lăn cười lộn như một kẻ điên, trước cái sự vây bọc tưởng không bao giờ thoát ra nổi của hoang vu. Bây giờ con người đã đông hơn con vật, sắt thép đã đông hơn cây cối vậy mà lão lúc nào cũng nơm nớp. Vụ đông năm ngoái, cánh công
    nhân cơ giới hái trộm mất của nhà lão cả gần sào cà chua vừa độ chín rộ. Còn năm nay, mới tháng trước, con Hương, đứa con gái nổi tiếng xinh đẹp của lão đi học dưới trường cấp III của huyện được về nhà chiều thứ bảy. Mới nhập nhoạng tối chứ đã khuya khoắt gì, lão ngồi xổm trước thềm đang lúi húi dở nồi khoai lang luộc, trông qua làn khói, lão phát run lên, vừa tức giận, trông thấy con gái mặt cắt không còn giọt máu, guốc, dép vứt đằng guốc dép, chạy bán sống bán chết từ dưới con dốc trước nhà lên, hốt hoảng như bị lợn rừng rượt...

    2
    Con bò già, lão Khúng cùng chiếc xe vẫn chưa mò mẫm ra khỏi cái hỗm đất dưới chân dốc trước nhà. Ðất bột sục lên ngang bắp chân hắt lên trời một cái quầng trắng nhờ nhờ. Khắp mặt đất xó nào cũng vứt ngổn ngang từng đống thanh sắt hoặc cuộn dây thép hoặc những cái hòm gỗ cao to lừng lững như những cái nhà khiến lão Khúng phải nhảy xuống dắt con bò đi len ỏi giữa những khoảng bóng tối của đám vật liệu công nghiệp vít mất hết cả đường xá. Con
    mực, con chó có tính hay phất phơ, lang thang vẫn lẽo đẽo chạy theo lão. Lão đứng lại, quay đầu chiếc roi chỉ về hướng nhà rồi cất tiếng đằng hắng. con chó đen liền cun cút quay trở lại để giữ nhà. Ra đến đường, trời đất hình như có sáng hơn một chút. Một vệt đất nhẵn chìm ngập trong rừng cỏ may lẫn sim mua của những vạt đồi nằm nghiêng nghiêng nhấp nhô hai bên, đến lúc này lão Khúng mới cảm thấy ớn lạnh, cái lạnh như từ những vạt sao xanh ngời ngời tận trên đỉnh trời tiết ra theo từng nhịp ánh sáng nhấp nháy. Lão quài tay ra sau túm ngay được chiếc áo dạ cứt ngựa mà mụ Huệ đã chu đáo nhét vào giữa những bó củi ngay sau lưng chỗ lão ngồi. - Chậc, trời với đất..., lão thốt lên một câu nửa chừng rồi im, không dám thú nhận với mình đã dại dột đánh con bò đi quá sớm. Ðáng lý có thể để cho nó và cả lão đàng hoàng ngủ thêm một giấc đẫy nữa rồi hẵng ra đi cũng vừa. Bỗng nhiên lão Khúng có cảm tưởng mình là một tên đêm lén lút đi ăn trộm bò của nhà ai và lấy làm bực cả mình. Cũng tại cả cái con vật này nó đã không cho lão ngủ, nửa đêm đầu hôm thức chong, nửa đêm về sáng vừa chợp mắt lại nằm mê thấy nó... Khoác hờ chiếc áo dạ ở một bên vai ngồi co ro trên thành xe, lão đưa mắt nhìn đau đáu vào cái khoảng cổ đã trụi hết lông và sần sùi da cóc của con vật trên đó chiếc ách cổ đang xiết chặt lấy làm phát ra những tiếng lọc cọc trong đêm vắng, và một khoảng bóng tối đen kịt cứ như đóng đinh vào phía trước mặt con bò, một khoảng bóng tối chừng như quá sâu, quá đầy, còn lâu mới chọc thủng, và dưới chân lão Khúng và con vật tất cả đất đai cùng cỏ cây đều đang còn nồng nàn trong giấc ngủ say như chết, những con chim sâu lẩn lút trong đám cỏ may cũng chưa hề cất lên tiếng kêu chích chích, lão chỉ nghe tiếng côn trùng tỉ tê rất xa, và bốn phía trời đất dường như đang còn mịt mùng chìm đắm trong khoảng bóng tối của âm ti.

    Ngồi một mình, lúc này lão Khúng đang nghĩ đến cái lúc nay mai lão phải báo tin đã bán con bò khoang đen cho tất cả chín đứa con của lão biết, từ thằng Bút đứa con trai út đầy dại dột cho đến con Hương đang học lớp 12 dưới phố Cầu Giát, cho tới thằng Ðoan, con Lê nửa ngày đi học nửa ngày đi làm với vợ chồng lão ở nhà, rồi những đám vợ chồng thằng Dũng, đang ở trong tỉnh, vợ chồng thằng Lạc ở tận Ðắc Lắc. Ôi, mới đáng sợ làm sao, cả một thời trẻ thơ của từng đứa con lão cũng như cả một đời làm lụng vất vả trong gia đình của từng đứa một đều gắn bó với con vật này, đã từng chăn dắt đùa nghịch với con vật rồi đi cày đi bừa, thức khuya dậy sớm, con khoang đen này suốt 18 năm nay đã trở thành một người trong gia đình lão, một thành viên trong gia đình lão, dường như đến tận bây giờ lão mới thấu hiểu rõ cái điều hiển nhiên này. Có đi nhanh lên không nào, lão Khúng lấy làm bực mình vô cùng lên tiếng quát thật lực, đi nhanh lên ! rào bước đi nhanh lên, mà chết cho sớm sủa ! để cho người ta nện một búa vào đầu mày cho nhanh lên, đồ quỷ ạ ! Rồi đến lượt tao, tao cũng phải tìm cách "báo cáo" với chúng nó, với những đứa con trai lẫn con gái của tao rằng tao đã phải bán mày, rằng từ nay trong nhà không còn mày nữa, rằng tao đã giết mày ! Mà mày cũng đã già nua tuổi tác rồi chứ chả còn là thiếu nữ hay nạ dòng gì nữa, ông trời sinh ra số kiếp mày đã như thế, suốt cả một đời nai lưng kéo cày, già thì giết thịt ! Có ai để cho một con bò già rồi chết để làm đám tang cho thật to, thật linh đình bao giờ ?

    *
    * *

    Trong thế giới bao la giữa đêm tối sâu thẳm tĩnh mịch, chỉ những ngôi sao xanh ngời ngời và ẩm ước đang nhấp nháy tận đỉnh trời là có thể nhìn thấy hai giọt nước đặc quánh như một thứ chất đầu đang dâng lên tận trong khoé mắt lão Khúng. Lúc này bằng những lời nói âm thầm từ trong lòng lão, lão đang báo tin việc bán con bò với thằng Dũng, "báo cáo" cái việc này với đứa con thứ hai của lão đã hy sinh trên chiến trường Cămpuchia cách đây hai năm. Ðấy là thằng con trai đích thực mang dòng máu thay đổi, lão đâm ra hay nghĩ, không hùng hục chỉ biết làm như trước. Sau khi nỗi thống khổ đã dần dần qua đi nhưng vẫn âm ỉ như một đợt sóng biển phủ vào đất liền đã rút nhưng vẫn để lại cái chất mặn làm xót cây khoai, cây lúa, dường như là lần đầu tiên lão nghĩ đến nỗi nhọc lòng mà từ nay đời lão phải gánh chịu : một nỗi đau đớn không bao giờ nguôi quên vì cái chết của thằng dũng. Ðiều này chỉ có mụ Huệ là người có thể thấu hiểu hết được cõi lòng của lão. Ðó là một buổi chiều cách đây hai năm, lúc ấy đã nhập nhoạng tối, chỉ còn một mình lão với con khoang đen ở nán lại bên một đống đá xếp vuông vức bên bờ một mảnh ruộng mới khai phá tận trong khe Ðá Dầu. Lão gắt mù lên với cái con vật lúc bấy giờ có cái gì làm nó sốt ruột cứ lồng lên kéo chiếc xe chở đá về nhà.

    - Họ... họ... Khoan đã nào ! Mày tưởng tao không biết đói bụng đấy hử ?
    Nói nhẹ không xong, lão nhiếc móc nó, nào đồ siêng ăn nhác làm, đồ rắn mặt, đồ khó bảo, những con vật vẫn vươn cổ, bấm bốn móng xuống, kéo bánh xe lăn đi. Lão vội vã hất hòn đá màu gan gà to bằng cái cối đang ôm trước bụng vào giữa lòng chiếc xe chất ngổn ngang những đá là đá, lão muốn tranh thủ chở hết đống đá về nhà trong dăm ba buổi chiều cho xong để kịp xây lại bức tường phía sau nhà bếp thay vào chỗ bức vách đã nát. Mà sao cái con vật hôm này bỗng giở chứng, mọi ngày có bướng thế đâu, lão thủng thẳng đi phía sau, vừa đi vừa nghĩ, thỉnh thoảng đưa tay đẩy giúp cho con bò đỡ nẵng mỗi lúc chiếc xe chở đá lắc lư bò qua một khúc suối nước chỉ xâm xấp mắt cá chân, với những bụi cây rậm rạp hai bên đã chứa đầy bóng tối. Lão và con bò chưa về đến gốc vối đầu ngõ đã nghe trong nhà khóc ran lên, những tiếng khóc đầy đau đớn thảm thiết. Cả dưới bếp lẫn nhà trên tối mò mò, chả đèn đóm. Một cái gì xụp đổ xuống trong người lão. Ðể mặc kệ con khoang đen một mình đang gò cổ vồng lưng lên gần như chết đứng với xe đá trên lưng chừng cái đốc ngay trước nhà, lão Khúng đã thấy tối tăm cả mặt mũi nhưng vẫn cố gượng để đừng ngã vật xuống, lão cố lê bước lên dốc. Chưa bao giờ quãng đường ngắn ngủi chỉ dăm bước chân trên lối đi về nhà đối với lão lại xa như thế, khó nhọc như thế, tưởng sức lão chẳng bao giờ đi thấu. Lúc bấy giờ con Lê, đứa con thứ 5 sinh cặp kè sau con Hương, một đứa con gái trông thô kệch, nhưng đa cảm, đen như cột nhà cháy, đứa con gái ấy đã gần như hoá dại, khóc lóc không thoả nó chạy ra ôm lấy ngang thân cây vối ở đầu ngõ, đập đầu chan chát vào cái cành mà lão Khúng vừa cưa cụt.
    - Bố ơi, anh Dũng chết rồi !

    Có lẽ suốt đời lão sẽ không bao giờ quên được cho nổi mấy cái tiếng ấy, nó sao mà xót xa, não nề và đầy bất lực của đứa con gái đứng gục đầu vào gốc cây vối với hai con mắt trợn ngược lên như hoá dại trước ngõ, đang nói lên cái lời báo tử cho người anh của nó ngay trước ngõ. Cũng vào trong lúc bấy giờ lão chợt nhận ra rằng, lúc này, lão phải làm một cái cột chống ở trong nhà. Mọi sự như thể và đại thể lão đã hiểu. Vợ con đầu đã ngã gục xuống cả thì lão càng phải đứng thẳng. Lão đứng tại chỗ một lát để định thần lại, khi đã đỡ hoa mát rồi quay trở xuống dốc bằng những bước bình thản, lão cúi xuống lấy hết sức liên tiếp bắt bánh giúp con khoang đen lúc bấy giờ đã gân ngã gục xuống lôi chiếc xe đá nhích dần lên. Rồi vẫn bằng những bước đi bình thản, lão đi vào nhà. ở trong nhà bếp vợ lão ngất đi, vừa tỉnh lại được và cái anh bộ đội lạ mặt mới hỏi thăm đến nhà lão Khúng cách đây chưa đầy nửa
    tiếng đồng hồ bây giờ đã như một người trong nhà, tự động mò mẫm trong khắp các hốc cột lôi ra được chiếc đèn dầu hoả. Anh ta châm đèn, ngồi tựa lưng vào chiếc ba lô dính đầy đất cát vứt ngay bên chân cột nhà đối diện với lão Khúng, người lính bắt đầu tường thuật vắn tắt đầu đuôi trường hợp hy sinh của thằng Dũng mà lúc ấy anh cũng có mặt ngay bên cạnh cho lão Khúng và mụ Huệ nghe.

    Ngày thường, những người trong xóm "Thống Nhất" vừa muốn đi lại chơi bời với gia đình lão Khúng lại vừa có ý e ngại, hơi xa lánh. Với cái thứ tính nết chật chưỡng đầy trái khoáy của lão Khúng, người ta chỉ muốn tránh nhưng nói cho công bằng thì cũng chẳng ai nỡ tâm ghét lão bởi xét cho đến cùng thì lão cũng không phải con người lèo lá, nhớp bụng, tham vặt hoặc độc địa, độc ác. Lão chỉ có một cái tật là chẳng giống ai, lão là lão Khúng, chỉ đáng trách có thế. Ngoài ra ngày mụ Huệ hãy còn trẻ mụ đã làm đám đàn ông trong xóm phân tâm không ít, đám đàn bà trong cả xóm khai hoang sinh lòng ghét, cũng chả phải mụ lẳng lơ (lẳng lơ gì với những lão đàn ông vốn là chồng của các mụ người nào cũng đầy tục tằn và bẩn thỉu) mà chỉ vì mụ Huệ đi đâu, đứng đâu cũng như một bằng chứng để cho đám đàn ông phân tâm, ngơ ngơ ngẩn ngẩn. Trong cái buổi chiều tang tóc đổ ập xuống mái nhà của lão, nếu không có bà con láng giềng trong xóm xúm vào giúp đỡ thì lão lúng túng quá. Guồng máy lao động của cái gia đình ấy xưa nay như một cỗ máy tra kỹ dầu mỡ. Thế mà trong khoảng khắc đã gãy vụn, vợ lão Chắt Hoè, bây giờ là chỗ thông gia với gia đình lão Khúng, phải cùng với mấy mụ đàn bà khác ra tay cho lợn cho gà ăn rồi chạy ra các góc vườn hoặc xó buồng, lôi ra những đứa con của lão Khúng trở dậy, vỗ về dỗ dành chúng.

    Lão Khúng tỏ ra cứng cỏi nhưng cố lắm lão cũng chỉ giữ được cái vẻ bề ngoài. Cho tận đến sáng ngày hôm sau lão mới biết xẩm tối hôm qua, lúc tháo ra khỏi chiếc xe đá lùa con khoang đen vào chuồng, lão đã lú lẫn quên cài then, thậm chí quên cả cho con bò ăn, suốt đêm con vật phải nhịn đói không có được cọng cỏ nào vào bụng. Anh bộ đội người Thanh Hoá, bạn thân của thằng Dũng đã cùng mấy anh em trong tiểu đội chôn cất đứa con trai lão Khúng trong một khu rừng Tây Bắc Cămpuchia giáp nước Thái Lan, việc ấy xẩy ra đã
    gần nửa năm trước khi anh lính về nhà lão. Sáng hôm sau, người lính quê Thanh Hoá xin phép vợ chồng lão ra đi từ tờ mờ đất. Hai ngày sau mụ Huệ vẫn không gượng dậy được, không hề ăn một miếng, nỗi đau khổ của con người chỉ có nỗi đau khổ của kẻ khác là cởi giải được phần nào. Mụ Hái, đã ngoài 60, vừa con trai vừa con gái từ ngày cái trận Ðiện Biên đến giờ đếm trên đốt ngón tay đã có ba người hy sinh ở các mặt trận, chẳng biết làm cách nào, mụ Hái đã bắt mụ Huệ ngồi dậy húp được nửa bát cháo. Sang ngày thứ ba, mụ Huệ vịn tay vào bức vách vừa rên rỉ một mình vừa lục tìm chiếc nồi hông bằng đất đem ra giếng cọ rửa
    chuẩn bị nấu đĩa xôi cúng con.

    Lão Khúng xách chiếc rựa ra bụi tre sau nhà chặt một cây vác vào ngồi chẻ ra, đan một tấm phên để thiết lập cái bàn thờ thằng con trai thứ hai bên gian trái. Lão đã làm xong cái bàn thờ đứa con. Lão ngắm nghía cái công trình đơn sơ vừa hoàn thành sau hi trải lên mặt tấm phên tre mảnh ni lông màu đọt chuối mà con Nghiên thường dùng khoác đi cắt cỏ, lại bày lên mặt tấm ni lông một cái bát sành đựng gạo. Vợ lão từ nhà bếp lên, ngó cái bàn thờ mới rồi ngó sang lão Khúng bằng cái nhìn trân trân, vô hồn, không còn là hai con mắt của mụ Huệ mọi ngày mà là hai cái vực thẳm người ta vừa tát cạn hết nước. Lão Khúng thầm cám ơn vợ ; mấy ngày qua mụ Huệ đã không hề thốt lên, dù rằng chỉ thốt lên qua tiếng khóc kể lể cái cơn bốc đồng của chí khí ái quốc của lão ngày ấy - từ đó thằng Dũng mới nắm lấy mấy câu khích lệ đầy cao hứng của bố để đòi đi bộ đội cho kỳ được. Thực tình thì ngày ấy trong nhà đã có thằng Hùng, thằng anh đang ở lính, nó xung phong đi là chính chứ có ai bắt, và ngày đó một mình mụ Huệ không làm sao mà ngăn cản, cầm chân cầm tay cái thằng Dũng của mụ. Chính vào lúc này lão Khúng cũng phải tự gồng mình lên để cố giữ lấy trong người lão cái ý nghĩ rằng thằng Dũng đã hy sinh vì Tổ quốc. Cái ý nghĩ ấy như một tấm ván lát cầu ao đã lâu năm vừa nhún nhẩy vì mỏng manh lại vừa hay trùng triềng. Lão chỉ lơ là một chút, lãng quên đi những điều tâm niệm thiêng liêng chỉ một chút là lập tức xỉa chân xuống và nỗi niềm âm thầm của cái sự thực trần trụi và đơn giản. Trong một thoáng chốc, lão đâm ra sợ cả chính mình, như một con chiên sợ đánh mất đức tin lão đã đánh mất đứa con, lại đánh mất luôn cả những ảo ảnh về nó. Con ơi, giá những ngày còn sống bàn thờ của con lúc này. Bố sẽ xuống phố cầu Giát thuê người ta phóng đại, tô màu, cái bức ảnh sẽ mãi mãi suốt đời đem đến cho bố nỗi khuây khoả và niềm vinh dự... Hiệu ảnh ở dưới ấy thiếu gì mà bố cũng thiếu gì tiền ? Hồi ở nhà mày hay trêu bố keo kiệt nhưng trong cái việc này... phóng đại, tô màu một bức ảnh anh bộ đội đã hy sinh ở trong nhà...

    ** *

    Lão lục tung mớ giấy má của gia đình cất trong một đoạn ống bương có nắp đậy và vẫn còn giữ được nguyên vẹn cả một đoạn dây đeo bằng bả có thể choàng qua vai - vật còn lại của quãng đời nông ngư xam bán thỉnh thoảng "đi nghề" ra biển đánh cá, trong những năm lão hãy đang còn trẻ trai ở dưới làng Khơi. Bỗng lão Khúng sực nhớ ra chiếc ba lô của thằng Dũng do anh bộ đội người Thanh Hoá đã mất công phu khoác về từ bên nước Cămpuchia cho gia đình lão. Mấy ngày nay lão đã cẩn thận đem cất trong một cái chum đựng khoai lang khô tận trong buồng vợ và lão quên khuấy đi. Lão vội vã chạy vào trong buồng mụ Huệ ôm cái ba lô ra nhà ngoài. Lão tin chắc thế nào cũng tìm thấy một bức ảnh của thằng Dũng thật đẹp, thật oai phong, đàng hoàng, trong bộ quân phục mới là thẳng nếp. Nhưng lão Khúng chỉ thấy dội lên tận đáy lòng một nỗi đau xót tận lúc này lão mới có dịp nhìn kỹ cái kỷ vật vô cùng quy báu của đứa con đã chết để lại : cái ba lô sao mà bẩn thỉu, rách rưới, y như chiếc đẫy của đứa ăn mày, không cầm lòng đặng lão bật lên một tiếng khóc hu hu, kêu lên một tiếng rồi im bặt, lẳng lặng lôi các thứ đựng bên trong ra. Chẳng có gì ngoài vài cái quần, cái áo bộ đội cũng đã cũ rách và hôi hám như chiếc ba lô, một mẩu sắt tây hình tròn chạm hình một vũ nữ Cămpuchia đứng múa uốn éo, cùng với một đôi đũa mà chắc con lão đang vót dở bằng một thứ gỗ gì dó hết sức lạ lùng, thớ gỗ nhỏ mịn và rắn như đá, màu đỏ sậm. Lão cắp cái đẫy lính vào bên nách, xăm xắm bước ra ngõ.

    Trên dọc đường lúc băng qua ruộng lúa qua xóm, lão chả thèm nhìn ai, gần như chả trông thấy ai, người ta chào hỏi, lão cũng làm thinh. Lão đi thẳng đến trụ sở xã. Hai dẫy nhà nằm theo hình thước thợ cửa giả mở toang, cả nếp nhà trên đứng trên bậc thềm cao lẫn dãy nhà dưới chất một đống cây lạc, đứng ngoài ngó vào chỉ thấy những chiếc ghế băng cùng với những cái nồi nhôm đựng bã chè xanh vứt lăn lóc. Một cái mặt người vừa mảnh vừa khô như chiếc lá tre rụng ló ra giữa đống cây lạc. Lão Khúng nhận ra ngay là lão Kẹp chồng mụ Hái, giữ chức trách giao thông của uỷ ban kiêm đóng, mở cửa trụ sở. Trông thấy chồng mụ Hái, không biết nghĩ thế nào lão Khúng liền quay ngoắt trở ra và cứ thế hai chân bước thẳng một mạch trở về nhà. Vứt cái đẫy lính bẩn thỉu ra giữa thềm, lão chạy vào nhà xách ra chai rượu trắng cùng với hai chiếc chén. Lão rót ra đầy cả hai chiếc chén, nhón những ngón tay đẩy về phía trước mặt một chén, miệng lầu bầu :
    - Uống đi, con ! ngày xưa bố cấm mày nhưng rồi mày vẫn uống, húp xoàm xoạp như húp canh rồi nhăn răng ra cười, rồi sặc, rồi nói năng lung tung với mấy đứa em... từ đấy mẹ mày đe tao ;... ừ, mà bây giờ thì chắc mẹ mày cũng chẳng đe tao nữa. Bố cũng chẳng cấm nữa ! Uống đi, uống đi con !

    Chừng như lão đã say. Ngồi tựa vào bậc cửa ngay trước dải thềm nhà, lão cầm mân mê trên bàn tay khô rám của lão đôi đũa mà con lão đang vót dở, ừ, một đôi đũa dùng ăn cơm cũng như đũa con lão dùng ở nhà, nhưng đây là một đôi đũa vót bằng cái thứ gỗ màu hồng rắn như đá, thớ gỗ mà y như thớ đá đầy, nhỏ mịn, và lão nghĩ đến cái đất nước Cămpuchia lạ lẫm có thứ đất mọc lên giống cây gỗ lạ lẫm này - ở đấy con lão đã chiến đấu và đã ngã xuống. Giữa lúc ấy, Mụ Hái từ đưới bếp đi lên trông thấy cái người bố đau khổ đang ngồi gục đầu xuống đầu gối, đôi đũa bằng gỗ hồng sắc để rơi dưới chân - Bỗng lão Khúng như bừng tỉnh ngủ ngước lên nhìn người đàn bà bằng hai con mắt trống rỗng vằn đầy tia máu từ đó những giọt nước mắt rơi xuống lã chã.
    - Ông Khúng ạ, mụ Hái ngồi xuống bên cạnh lên tiếng an ủi lão, cháu Dũng dù sao cũng đã mất. Tôi biết là cái việc này nó nhọc lòng lắm. Ông chỉ mới có một lần đi qua cái cầu này chứ tôi với ông Kẹp đã đi qua đến ba lần. Tôi đã mất đến những ba đứa con... Nghe mụ hàng xóm nói đến đấy, lập tức lão nhổm dậy, hai con mắt vằn đỏ ghé sát tận mặt mụ Hái, lão mếu máo quát tướng :
    - Ba đứa con của mụ cũng không bằng một đứa của tui. Hừm, nói vậy mà cũng đòi nói...

    3
    Những chiếc móng bò gieo xuống chậm rãi, có phần quá chậm rãi đến lề mề nhưng đều đều trên nền đất cứng của vệt đường vặn vỏ đỗ.
    Lão Khúng chợt rùng mình vô cớ, có lẽ bởi lão thấy đêm vẫn bát ngát và sâu hút chẳng có vẻ gì đêm tối của cõi dương gian cả. Con khoang đen và, chậc, biết đâu đấy, cả lão đang đi đến chỗ chết ? Lão biết thế còn con vật có biết không nhỉ ? - Chắc là nó biết, lão Khúng nghĩ. Sống gần chọn một khúc đời nhọc nhằn nhất của lão trên vùng rừng với con vật, lão Khúng cũng không hiểu hết nó, con vật bầu bạn, chả biết nó thông minh hay ngu si ? Người ta bảo : "Ngu như giống bò" thật không đúng một tí nào, bởi lắm trường hợp nó còn hiểu ra được đôi ba điều trước cả lão, lão chưa kịp hiểu ra nó đã hiểu, nhưng nói chung thì ngu, một sự ngu si đần độn cố hữu đầy hoang sơ và chả có gì đáng chê trách, thậm chí vì thế mà lão Khúng càng yêu nó vì sự nghễnh ngãng, khờ khạo. Con vật thân quen của lão giống như một đứa trẻ thơ chẳng bao giờ lớn khôn lên được mặc dầu cái xác to kềnh càng. Chiếc xe lắc một cái mạnh. Lúc bấy giờ, cuộn tròn mình trong tấm áo rét bằng dạ cứt ngực đã sờn cũ, lão Khúng chợt nhìn thấy một ngôi sao sa ở mép trời, thật ra lão không nhìn thấy ngôi sao lúc trước đấy và sau đấy, mà chỉ nhìn thấy ở cuối chân trời đàng tây chợt léo lên những đốm lửa bùi nhùi rơm rồi tắt ngấm mất hút. Lão cố tìm nhưng không thấy còn để lại cái gì cả. Phải không, như thế là điềm báo vừa mới có một người chết ?

    Trên mặt đất mênh mông vô tận này có ai vừa mới chết, hoặc sắp chết ? Ngôi sao vừa sa xuống đó chắc hẳn không phải là điềm trời báo hiệu rằng con khoang đen nhà lão Khúng sắp "tử". Lão tin chắc chắn như thế, bởi lẽ Nam Tào, Bắc Ðẩu hoạ là có rỗi rảnh lắm lắm mới làm cái việc ấy. Mà cũng không bao giờ người ta ban đặc ân cho con khoang đen cả một ngôi sao chiếu mệnh, mặc dầu nó đã có công cày vỡ bao nhiêu là đất cát, điều ấy chỉ có lão Khúng mới biết. Hay ngôi sao sa vừa rồi là ngôi sao của con lão, đấy là vệt đường đi về cõi trời của một người anh hùng cứu quốc, của chính thằng Dũng cầm súng chiến đấu ở bên chiến trường Cămpuchia ? Cũng chắc không phải, lão nghĩ tiếp, trên thực tế thằng Dũng đã chết một năm rưỡi nay rồi cơ mà ? Hay là điềm trời báo trước cho lão biết : lão sắp chết ?
    Tự nhiên lão lo quýnh lên, hai bả vai và tấm lưng rắn chắc cựa quậy hoài huỷ trong tấm áo lụa. Lâu nay lão hay ho, hay nhức xương, lại hay nằm mê, mà toàn nằm mê gặp người chết. Mà tính nết thì hay quên, hay lú, lắm khi ăn rồi lại bảo chưa, trời vừa chập tối cứ ngỡ sắp sáng, giục giã con gái trở dậy đi làm cứ toáng lên khiến trong nhà rối tinh rối mù. Nhưng nghĩ đi rồi nghĩ lại, lão Khúng thấy bình tâm hơn, bởi một anh nông dân suốt đời đi sau mông con bò như lão thì cái thá gì mà cũng đòi có mọt ngôi sao ứng mệnh ở tận trên trời ? Có mà đến Tết ! ngồi thèo đảnh rên cái càng xe bò, tự nhiên lão Khúng tự thấy ngượng nghịu, tõn tẽn vì đã đề cao cá nhân mình lên quá mức, y như cái lần ông Bời cứ bắt buộc lão lên ngồi ghế chủ tịch đoàn trong đại hội nông dân xã. Rồi lão chặc lưỡi một cái thật kêu. Cái lão Khúng này thiết đếch gì ! Sao với lại chả trăng ! Cho cái mặt trời, ông cũng đếch thiết nữa là ! Lão chỉ thiết cái mặt đất ở dưới chân với mảnh ruộng vỡ hoang được thuộc sở hữu gia đình lão.

    Tuy thế lão Khúng vẫn ngửa mặt lên trời, rọi mắt lục tìm khắp bốn phía chân trời với một sự tò mò vừa kính cẩn vừa có ý khinh xuất. Lão ngắm kỹ lưỡng một vài đốm sao sáng xanh, những vì sao to nhất, sáng nhất, và lão đinh ninh đấy là những ngôi sao định mệnh của các vị vua chúa hoặc lãnh tụ. Chao ôi, cả một trời sao trên đầu, càng nhìn càng thấy lắm, trong khi ấy thì ở dưới mặt đất vào lúc này dường như chỉ có một mình lão và con bò đang thập thõm, mò mẫm đi giữa mặt đất bao la và tối tăm.

    Bất giác trong khi vẫn ngửa mặt lên trời hứng bóng tối dày đặc và một làn gió đêm lạnh buốt, bỗng lão không kìm được, tự nhiên bật lên một tràng tiếng cười khùng khục từ trong cổ họng, khiến cho con bò đang đi phải dừng lại. Lão không dùng doi mà đưa tay đét một cái vào giữa cái chỗ uốn vồng lên của cuống đuôi con vật :
    - Ði, đi ! không có việc gì cả đâu, lão vẫn tiếp tục cười khùng khục và đàm đạo với con vật bạn đường, đi đi, không phải tao cười mày. Hì... hì... tao đâu dám cười mày ? Ðấy là tao đang cười những ông sao trên trời ! Vua chúa hoặc đại thần danh tiếng của thời nay cả đấy ! Họ đang sông cả đấy ! Ngôi sao mà chúng cứ ngỡ mình đang soi sáng mặt đất, không có mình thì mặt đất biến thành hũ nút, hàng nghìn, hàng triệu người mở mắt cũng không nhìn thấy lối mà đi ! Vậy mà khổ chưa kia, không biết cơ man nào là sao, có ít ỏi đâu, các chư vị đang thi nhau nhấp nháy, đang toát mồ hôi hột ra để rặn ra ánh sáng như đàn bà rặn đẻ, không phải một ông mà nhiều ông, cả một trời sao đang chiếu sáng thế mà mặt đất thì vẫn tối thui tối mò thế này, con đường chúng mình đi xuống chợ Giát vẫn tối như hũ nút thế này ? ấy thế mà mới tài tình chứ. Lão đã nghiệm thấy lão và con bò đi đêm nhiều nhưng chưa bao giờ lạc. Không phải chỉ trên mặt đất mà lão Khúng cảm thấy trong cái đầu ngồn ngang đầy ý nghĩ của lão cũng tối mò mò, chỉ được một điều là lão có hai con mắt do ông trời cho tinh như mắt cú, có thể đi trong tối. Lão, một anh nông dân suốt đời đi sau con bò vạch những luống cày trong đêm tối...

    *
    * *

    Một lần nữa lão quay nhìn về phía ngôi sao vừa tắt, vừa rơi tõm vào bóng tối như đốm lửa trên đầu que đóm hút thuốc lào. Lão phỏng đoán có lẽ đây cũng chỉ là một ngôi sao be bé, vừa phải, hay đấy chính là ngôi sao chiếu mệnh của đồng chí bí thư huyện uỷ nổi tiếng vừa mới đây đã thôi ngồi chiếc ghế ấy. Quả có vậy thực thì đáng buồn thay và có lẽ đấy là luật lệ mới ở trên đời : người có chức quyền không còn giữ được chiếc ghế nữa thì sống cũng như chết, ngôi sao chiếu mệnh cũng tắt ? Thực tình mà nói, tận cho đến lúc này lão Khúng cũng không hiểu mình yêu hay ghét, ưa hay không ưa cái con người quyền uy lớn nhất huyện, quen thân với Tổng Bí thư Ðảng đồng thời lại rất thích lão Khúng, coi lão như bạn.

    Về phần lão Khúng, mặc dầu ông Bời lúc nào cũng tỏ ra thân mật, bình đẳng nhưng riêng lão Khúng bao giờ cũng để một khoảng cách với kẻ bề trên. Tuy vậy, lão Khúng cũng có phần bái phục con người ấy, đầy trái ý, đầy hoài nghi nhưng vẫn phải bái phục. Con người lãnh đạo ấy xuất thân là dân buôn bò, cũng là anh nông dân từ chỏm tóc đến gót chân như lão Khúng vậy mà không bao giờ thèm nghĩ những điều nhỏ mọn, tủn mủn như lão Khúng. Lão Bời toàn nghĩ những cái to tát phải dùng tới hàng trăm hàng nghìn người làm cật lực với những cờ quạt trưng ra rợp trời. Lão thích đông người, thích náo nhiệt, rất lãng phí sức người, làm hỏng cũng nhiều mà làm được cũng lắm. Cái gì lão làm được, dân đều biết cả !
    Lão Khúng nghĩ : rồi cũng khó tìm ra một kẻ thay thế được lão Bời : lão không tham vặt, khó có người hiểu nông dân và lợi dụng tâm lý nông dân giỏi như lão, một con người lãnh đạo dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, luôn luôn suy nghĩ, luôn luôn đi, luôn luôn nói, luôn luôn bày ra việc để làm, mà toàn bày ra những việc to tát, vĩ đại ; lão Khúng nghĩ một cách bái phục lão Bời : đó là một con người mà mọi điều khôn dại trong công ăn, việc làm sẽ còn khuấy đảo sự làm ăn, no đói của hàng vạn người trong nhiều năm về sau này nữa. Ôi khủng khiếp quá, nhất là thời gian lão tiến hành đại cơ khí hoá nông nghiệp toàn huyện, lão đã xoá tên các làng xóm, ba xã đem gộp làm một xí nghiệp, đền chùa, miếu mạo bị dẹp đi, và không biết lão lôi ở đâu về mà nhiều máy móc đến thế, máy móc bò trên đường dưới ruộng như cua, trâu bò tưởng đã trở thành kẻ thất nghiệp ! Nhà cách mạng thường trực trong cái hồi ấy lúc nào cũng như một cái chảo nước đang sôi, hễ thích làm gì là làm, làm bất chấp tất cả, mà toàn chỉ thích làm những việc đảo lộn cả trời đất. Người lãnh đạo huyện xuất thân cùng tầng lớp với lão Khúng ngày đêm lúc nào cũng chỉ nhằm "cách cái mạng" (1) của người dân quê muôn đời nghèo khổ. Trong những năm này, uy tín ông Bời tăng vọt lên, ai cũng sợ, bởi gần như đã trở thành kẻ gần gũi, người thực thi mọi ý đồ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nông thôn của các cấp ở trên cao.
    (1) Chữ trong AQ của Lỗ Tấn.

    *
    * *

    Từ thuở "hàn vi" khi đang còn làm chủ tịch huyện ông Bời đã thích kết thân với lão Khúng.
    Lão Khúng thấy cũng là một sự lạ đời : ông chủ tịch huyện thỉnh thoảng đánh xe con lên rủ lão đi chơi lang thang ở đây đó và trên dọc đường bắt buộc lão phải tranh cãi với ông về một chuyện gì đó. ừ thì có khó gì, và lão Khúng sợ gì, lão đã tranh cãi những trận kịch liệt với người lãnh đạo huyện, cả hai mặt đỏ gay gắt, sùi bọt mép mà không phân thắng bại trong mọi chuyện. Về sau khi đã ngồi vào ghế bí thư thì ông chủ tịch huyện không làm cái trò chơi dại ấy nữa. Có người lãnh đạo nào lại thích sự phản bác, trái ý !

    Ngay từ ngày đầu, lão Khúng cũng đủ khôn để biết thế cho nên thực ra lão cũng chỉ tranh cãi giả vờ, không bao giờ lão chịu nói ra ý nghĩ thực của lão với chủ tịch huyện. Mà cũng chính vì thế cho nên mối dây quan hệ bè bạn giữa lão với người cầm quyền còn giữa mãi được đến tận bây giờ. Tuy thế, trong con mắt nhìn của lão Khúng đó là những thời kỳ mà con người ấy thật đáng mến vì người ta còn ít sợ. Ngày ấy ông Bời rất "mê" con khoang đen, ngày ấy ông Bời đang còn biết yêu trâu bò, súc vật. Vừa ngủ gà ngủ gật, lão Khúng đang nhớ lại những năm mới hoà bình chống Mỹ xong, cả huyện đang xúm vào xe cát làm đại công trường thủ công xây dựng đồng muối Quỳnh Thuận để cứu đói cho mấy ngàn dân biển : trâu bò trong toàn huyện đã kéo về tập kết ở đấy - mà ông Bời đặt tên là cuộc hội quân lớn về sức kéo. Phải, hồi bấy giờ thằng Dũng hãy còn nhỏ, là một đứa chúa nghịch ở trong xóm, con khoang đen tuy đã đẻ vài lứa nhưng trông vóc dáng bề ngoài còn là một ả gái tơ đầy quyến rũ và cũng không hiểu sao y như thường xẩy ra với những người đàn bà đặc biệt hấp dẫn đàn ông - những lão bò đực đầu đàn đầy hung dữ của ngoài chục xã cứ lăn xả vào mà húc nhau, rượt nhau, gây ra những trận kịch chiến khủng khiếp để quyết giành lấy con khoang đen cho kỳ được. Cũng từ ngày sinh ra đời chưa bao giờ con khoang đen và thằng Dũng được sống dưới bầu trời rộng rãi và náo nức là thế, trong một khung cảnh lao động lãng mạn là thế - một công trường thủ công - đúng như tên trong các sách vở của Mác thường nói và chủ tịch Bời là người đã có công biến thành sự thực nhãn tiền : khắp mọi xó xỉnh trong cả huyện, đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con được điều về đông nghìn nghịt, người đã đông mà trâu bò lại càng đông hơn ; dân các xã cùng trâu bò trước khi kéo quân về đã được phiên chế thành cơ ngũ : tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn đâu ra đấy với các vị tư lệnh cùng chính uỷ, kèn tiến quân, kèn lui quân, trống cái, trống ếch, cờ đuôi nheo, cờ lá chuối, cờ rước thần, cờ đỏ sao vàng, những phù hiệu cấp chức bằng vải, bằng giấy loè loẹt trên các bả vai và ống tay áo, loa phóng thanh từng buổi, từng giờ vang vang công bố cho toàn công trường những kỷ lục năng suất.

    Sau ba tuần lễ tắm mình trong không khí đại công trường, hai cha con lão Khúng cùng con bò được trở về nhà. Hai cha con cùng với con vật về đến truông ách thì gặp chiếc xe của chủ tịch huyện cũng đang ngược dốc đi lên. Lúc bấy giờ lão Khúng trên dọc đường đang cáu. Lão đang tiếc của đến đứt ruột cho nên cáu gắt ầm ĩ. Ông Bời phóng xe com măng ca vượt lên trước, ngoái về sau trông thấy một lão già xương xẩu và gân guốc từ trên chiếc xe bò bánh
    lốp nhảy xuống vừa lớn tiếng mắng mỏ thằng con trai đang ngồi đực mặt trên càng xe. Chủ tịch Bời "à" lên một tiếng, vui vẻ lập tức nhận ra cái con vật đang đi nhởn nhơ phía trước càng xe như một vũ nữ. Ông nhận ra đó là cái "ả đàn bà" đã từng gây náo loạn dưới đồng muối, con bò cái khoang đen bất trị ! những đoàn xe chở cát dài dằng dặc từ dưới biển lên đang xếp hàng đi đứng có hàng ngũ bỗng chỉ cần cái ả đàn bà với bộ cánh màu đen loang lổ này xuất hiện hoặc từ rất xa thốt kêu lên một tiếng "ngò" khàn khàn là lập tức hàng ngũ đoàn xe bị phá vỡ không có cách gì thiết lập lại trật tự quân sự. Chủ tịch huyện bảo cậu lái xe con dừng xe giữa truông ách. Vốn xuất thân là dân buôn bò cho nên ông có con mắt sành sỏi.
    "Chả trách, chả trách" ông chủ tịch huyện đi sát lại bên con khoang đen với một nỗi đam mê của tay buôn bò khi đã bị quyến rũ không dứt ra được, cũng không kìm được lời tấm tắc khen ngợi phải thốt lên thành lời.

    Máu mê dân buôn bò sống lại trong ông chủ tịch huyện, ông đi thêm mấy vòng để nhìn kỹ dung nhan phía trước mặt, càng nhìn càng ưng ý không thể chê được một nét gì.
    - Chao ôi, nó đẹp quá, một con bò cái đẹp như Tây Thi - ông Bời cuối cùng thốt kêu to lên như thế rồi quay sang ngắm bố con người chủ bò và chiếc xe bò.
    Lão Khúng đã thôi không mắng mỏ thằng Dũng nữa nhưng lão vẫn tiếc của đến đứt ra từng khúc ruột, lại thấy ức như bị bò đá - vì thằng con lão và cả lão nữa đã lơ là, để chúng nó tháo mất bộ díp xe. Cả một bộ díp ôtô mà lão đã phải cất công ra tận thủ đô Hà Nội, cả nhà ông chú ngoài đó phải xoay trần ra mới lùng được cho lão cùng một lúc "đồng bộ" cả ổ bi, trục xo, bánh lốp... Vậy mà chúng nó "ăn cướp" mất của lão cái bộ dịp bằng thép ! Biết bao giờ mới tậu lại được cho nổi ? Lắm khi có tiền cũng không sắm được. Cho nên từ sáng đến gờ, từ lúc xuất phát ra đi để trở về nhà mỗi lần lão đi qua một quãng đường dốc gập ghềnh, lão lại
    nhảy xuống chổng mông lên trời vừa cáu gắt nhặng xị vừa mắng mỏ thằng con trai, vừa dương mắt nhìn vào cái khoảng trống để lại dưới sàn xe - một cái khoảng trống do bàn tay bọn ăn cắp để lại kỷ niệm cho lão : nơi cái bộ díp ôtô tải đã bị ăn cắp mất, nơi táng cái mả bố chúng nó đấy ! Dù sao thì việc ông chủ tịch huyện ngay giữa đường phải dừng xe lại để ngắm con vật nhà mình cũng làm lão Khúng phần nào vơi đi nỗi khổ tâm vì cú mất của quá xót.
    Vượt qua đoạn dốc cuối cùng của truông ách, lão Khúng và nhà cầm quyền sóng vai nhau đi bên chiếc xe, người nào cũng tỏ ra không kém phần thông thạo trong khi bình phẩm tướng mạo và nhan sắc của con vật.
    Nhưng khi ông chủ tịch huyện lân la hỏi sang cảm tưởng những ngày lao động xã hội chủ nghĩa đầy náo nhiệt vừa qua thì cái nỗi xót ruột bởi chuyến đi mất của lại đùng đùng trỗi dậy giữa cuống ruột cái lão già nông dân.
    - Công trường với lại công triếc, toàn một lũ ăn cắp !
    Ông chủ tịch huyện đã cảm thấy bị xúc phạm, da mặt đỏ gay, tuy vẫn cố kìm giữ :
    - Sao thế ?... Có việc gì thế hả ông lão ?
    - Toàn một lũ ăn cắp... Ông coi, chúng nó tháo mất của tôi cả một bộ díp - lão Khúng càng cau mặt lại - quân ăn cướp chứ không phải là ăn cắp nữa, cái quân công trường ấy !
    Chủ tịch Bời thường ngày đã không thể nghe ai nói một lời đụng chạm đến cái công trường kiến thiết nại muối.
    - Chả lẽ ông nỡ... nói đến vậy, hả ông lão ?
    - Thưa ông, mất cắp thì tôi nói mất cắp, mà rõ ràng là mới mất đêm qua, ở dưới công trường...
    - Ðúng chứ ?
    - Chẳng lẽ bằng chừng này tuổi đầu, không mất tôi lại nói mất ?
    - Biết vậy, biết vậy, ông người xã nào ở vùng trên này vậy hả ?
    - Hùng Tráng.
    - Tên ông là gì ?
    - Ông hỏi để làm gì ?
    -...
    - Tôi tên là lão Khúng, ai cũng biết.
    Chủ tịch huyện tròn xoe mắt :
    - Ông... ông chính là lão Khúng ở Hùng Tráng đấy ư ?
    - Phải.
    - Nào, cho chủ tịch huyện bắt tay ông Khúng một cái đã nào.

    Ông Bời mặt mũi mồ hôi, hai chân đi ủng dậm lộp bộp xuống mặt đường, ngó người đối thoại đầy tò mò và kính cẩn như ngó một người đã có công khai sơn lập địa của thời hồng hoang vừa mới hiện về đang đứng trước mặt.

    Hai tháng sau, vào thời vụ cày vỡ đất của Hùng Tráng, tháng vất vả nhất của trâu bò và người đàn ông trong gia đình, ông Bời đánh xe lên thẳng nhà ông Khùng, tuyên bố sẽ ở nhà lão khoảng một tuần lễ để học cách làm ăn, cùng ở, cùng làm với gia chủ. Lão Khúng ban đầu đã chả tin một tí nào. Và cả nhà lão cứ sớn sác, lo sợ, tưởng lão vừa mắc vào cái tội gì to tát đến nỗi ông chủ tịch huyện phải thân hành đến tra xét. Mụ Huệ vội vã tuồn những chiếc bong bóng lợn chứa đầy rượu lậu giấu dưới đáy mấy cái chum ở trong buồng mụ sang nhà hàng xóm để giấu. Bữa cơm đầu tiên, mụ Huệ xua được một con gà mái vào nhà bếp, túm lấy hai cẳng, đã toan cắt tiết thì lão Khúng giơ tay ngăn lại : "thường ngày nhà mình ăn thế nào thì dọn cho ông khách ăn vậy. Như thế mới là ba cùng" - lão giải thích ý nghĩa công việc của vị khách cho vợ hiểu - nhưng mụ Huệ vừa thả con gà ra lão đã chộp lại, đề nghị mụ cứ cắt tiết. "Chậc, phàm là con người ai chả thích ăn ngon ? Chưa thể biết rõ hết mục đích lão đến ở nhà mình để làm gì thì hãy thết lão một bữa cơm thịt gà cái đã. Một ông chủ tịch huyện
    chứ có phải ít ỏi đâu ? ấy, mà biết đâu lão đến ở nhà mình cũng có thể làm cho lão nên danh nên giá, và nhà mình cũng nên danh nên giá ? Sự đời đôi hi có nhiều cái lạ lắm". Lão nghĩ trong đầu và mỉm cười.

    Thế là suốt một tuần lễ, mọi sinh hoạt trong gia đình lão Khúng bị đảo lộn lên hết. Từ thằng Bút, hồi ấy bấy giờ chưa đầy năm, đang men bờ hè tập đi cũng trở nên nhút nhát, lúc nào cũng nem nép, lấm lét, suốt cả ngày rúc dưới gian bếp với mẹ, dương hai con mắt mở thao láo nhìn ông khách lạ mới đến ở trong nhà, cái nhìn đầy thù nghịch. Cả hai vợ chồng lão Khúng cố tạo bầu không khí tự nhiên nhưng cả xóm vẫn cứ phải để con mắt tọc mạch nhìn vào cái ngôi nhà ngói có cây vối trước ngõ, ở đấy đang diễn ra một sự kiện đầy lạ lùng : ông chủ tịch huyện không ngồi com măng ca giơ tay vẫy quần chúng đang cày cuốc hai bên đường, cũng không diễn thuyết thao thao trên bục gỗ của nhà hội trường huyện, cũng không khề khà ăn tiệc, đánh chén mà lại xắn quần lên tận bẹn cùng sát vai bên cạnh cha con lão Khúng làm lụng quần quật từ sáng đến tối. Ðã thế lại còn đòi ăn uống kham khổ, mụ Huệ bưng lên một cái mâm gỗ có hai cái bát, hai đôi đũa cho chồng và ông khách ăn riêng thì ông khách lập tức bưng xuống nhà bếp, tự tay lượm một cái ghế con đến ngồi bên một góc cái mươn tre, hoà mình giữa đám con nhỏ vô cùng đông đúc của nhà chủ, cùng ăn những bát cơm khoai lang khô thái lát chỉ dính vài hạt cơm làm phép như chúng.

    Lão Khúng và cả mụ vợ đã lấy làm bực bõ lắm, như thấy con mắt người ngoài, một kẻ cao sang lúc nào cũng nhìn soi mói vào tận đáy bát cơm nhà mình, và bàn tay thò vào cuộc sống hàng ngày của mình. Dù không ăn cắp, ăn trộm của ai nhưng cũng như mọi người, vợ chồng lão Khúng cũng không muốn người bên ngoài biết hết những cái không cần thiết của nhà mình, kể cả những cái sự nhếch nhác, túng đói, cũng như cái sự sung túc, no đủ, kể cả những cái sự sống thực với nhau lặt vặt hàng ngày ở trong nhà. Tất cả những cái điều riêng tây đó, ông Bời không hề biết và ông chỉ lấy làm bằng lòng về mình vô cùng : ông biết rằng chẳng chóng thì chầy những hành vi của ông ở đây sẽ loang đi trong khắp huyện, khắp tỉnh, được những cái miệng cán bộ lẫn dân thường bàn tán đến nát ra. Ông đã nghĩ rất đúng, trong cả huyện, ông chọn nhà lão Khúng để đến ở : đây là dinh luỹ cuối cùng của sự làm ăn cá thể và chả biết ông nghĩ thật hay ông nghĩ đùa : ông phải biến lão Khúng thành một con người mới xã hội chủ nghĩa, ông tự giao cho mình công việc ấy như một nhà hành giáo tự nguyện dấn thân vào vòng nguy hiểm và đầy cam go. Mặc cho ông chủ tịch huyện lợi dụng mọi hoàn cảnh để lùa lão Khúng vào vòng tranh cãi với ông về lý luận "hai con đường", lão Khúng bao giờ cũng cố nín lặng lắng nghe ông chủ tịch nói một câu cung kính, cố dấu cái lưỡi thật kín để đừng dại dột thốt lên cái câu "Tôi gần 10 đứa con vào hợp tác xã để mà chết đói à ?" đã lấp ló ở cửa miệng.

    Phải nói rằng hồi bấy giờ, trong cái tuần lễ đầy trọng đại ấy, cả gia đình lão Khúng chỉ có khoang đen là kẻ dám ra mặt trò chuyện với vị khách một cách sòng phẳng, thẳng thắn mặc dầu thiếu tinh thần lịch sự, tôn trọng khách : Chưa một lần nào ông Bời đặt nổi cái ách lên lưng nó và một lần nó đá vị chủ tịch huyện một phát vào giữa bụng khiến cho ông ta ngã bổ nhào, úp cả khuôn mặt phương phi đầy cởi mở vào giữa đám ruộng.

    - "Lúc bấy giờ mày còn nhớ không - tự nhiên lão Khúng nói to thành tiếng cho con bò đang bậm bạch đi phía trước nghe được - tao đã phải vội vàng chạy lại giơ hai tay nâng ông chủ tịch huyện dậy rồi sau đó nhặt chiếc roi cày từ trong tay ông ta vừa văng ra, tao đã quất cho mày một trận. Có ông trời ở trên đầu chứng giám, ăn ở, làm lụng với nhau cả một đời, có bao giờ tao nỡ đánh mày một roi đâu, thịt da của mày cũng là thịt da của tao, đúng sự thực là thế, mày đau tức là tao đau, vậy mà lần ấy trước mặt ông chủ tịch huyện đang nằm ôm bụng quằn quại, miệng kêu hừ hự, ngay giữa luống cày, tao đã nỡ lòng trở đầu roi cày để đánh mày, đánh thực lực, tay đánh miệng chửi bởi, nguyền rủa không còn sót một thứ lời lẽ độc địa nào nữa. Cũng phải nói thêm : lúc ông chủ tịch bị mày "chơi" cú đá hậu, cái thằng Dũng đang đứng trên bờ đừng có nhăn răng ra cười, hềnh hệch đầy khoái chí một cách vô ý thức đến thế... thì chưa chắc tao đã phải đánh mày nặng tay đến như vậy. Có phải không, cái thằng Dũng đến là ngu ! Nó trẻ dại chưa biết cách cư xử ! Ðáng lẽ những lúc như vậy dù tức cười đến vỡ bụng cũng phải mím chặt miệng lại. Ðừng có bao giờ cười cợt chế nhạo cấp trên... Người ta đường đường là chủ tịch huyện... Không biết trước khi chết, cái thằng con của lão có khôn ngoan hơn lên được tí nào không ? Nhưng cái tính khí thẳng ruột ngựa của nó cũng là tính khí của mình hồi trẻ, của cái lão Khúng ngất ngưởng này trút sang cho nó từ trong máu thịt... Bây giờ nó ở đâu, cái thằng Dũng vô ý vô tứ ấy, bây giờ con đang lang thang ở đâu ? 4

    Gần sáng lão Khúng đã ngủ quên mất. Sương rơi những hột to bằng hạt ngô, lộp bộp bên móng guốc của con khoang đen khiến con vật cũng thấy cong cóng dưới chân và nó phản ứng lại bằng cách đi nhanh hơn.

    Phía biển ngập chìm trong sương trắng, thỉnh thoảng xuất hiện giăng giăng một hàng hạt cườm lóng lánh trong thoáng chốc rồi lại tắt. Ðấy là ôtô tải chạy thành đoàn dưới đường Một vừa đi vào cái khúc ngoặt ở đầu phố cầu Giát. Con đường đồi mang tên "Dốc bò lăn" thầy trò lão Khúng đang đi sắp phải vượt qua một cái truông chắc chắn đất vừa mới được cày vỡ chiều hôm qua, một vùng đất mới cày bát ngát... Con khoang đen lấy làm sung sướng chun mũi hít hít, chỉ có nó mới cảm nhận được đầy đủ mọi hương vị của đất mới được cày lật lên đang toả ra từ hai bên vệ đường.

    Lão Khúng ban đầu còn dứt tai vò tóc cố chống cơn buồn ngủ đang ập đến giữa trí não đã trở nên tối lại mò mò. Cũng tại vì tự nhiên thấy đau lưng, lão tựa sát vào những bó củi, lão thấy thực dễ chịu, lại còn nghĩ được : lần này vợ lão gửi xuống cho con Hương toàn loại củi cành, rồi nó sẽ khó bán ! chả biết bán đến mấy phiên chợ mới hết ? Rồi lão quờ tay sang bên đẩy cái đẫy đựng đầy khoang lang khô, lẫn gạo, phần ăn của đứa con gái trong nửa tháng, tay đẩy nhưng đầu lại tựa vào đấy lão cảm thấy êm ái quá ! Có lẽ hoàng đế ngủ trong cung điện cũng chỉ sung sướng đến thế này là cùng - lão nghĩ một cách hài hước, tự nhiên hai tay bắt chéo trước bụng, khép chặt hai vạt áo dạ cứt ngựa vào sát thân mình - Kệ con khoang đen, kệ mụ già ấy ! sau cái ý nghĩ buông thả, hưởng lạc ấy là óc lão tối hẳn, không sao tự kiểm soát được nữa. Lão ngoẹo đầu về một bên, buông thõng hai tay, miệng bắt đầu ngáy một cách thực ngon lành theo cái điệu ngáy vo vo quen thuộc của lão ở nhà.

    Lúc bấy giờ con khoang đen đã biết tỏng lão đã ngủ tuy nó không quay lại nhìn. Con vật bình thản một mình kéo chiếc xe lên dốc lại xuống dốc. Nếu lão Khúng vẫn ngủ tịt cho đến tận sáng thì con bò vẫn có thể tự lực đưa lão cùng chiếc xe xuống phố cầu Giát, vào tận khu tập thể học sinh cấp ba ở nội trú tận bên kia cầu xi măng. Nó đã thuộc con đường ấy, qua nhiều lần xuống chợ Giát. Một luồng ánh sáng chiếu sáng quắc từ phía sau. Trong khi chiếc xe tải lao vụt qua, con khoang đen cẩn thận đi sát vào bên đường, nó gần như dừng hẳn lại không bước tiếp nữa. Cái quầng sáng lai láng đầy chói chang của cặp đèn pha chiếu từ phía sau cùng tiếng bánh xe lao ầm ầm ngay bên cạnh vẫn không thể đánh thức nổi lão Khúng, nhưng nó đã đánh thức dậy giữa giấc ngủ của lão với giấc mơ khủng khiếp khi ở nhà : lão lại nằm mơ, nhưng khác với lần trước, là chính lão bị đánh bằng búa tạ, chính lão là con bò ! Lão tự nhìn mình trong cái thân hình nửa bò nửa người, máu mê đầm đìa, mà lão vẫn bình thản y như thân thủ một cái điều đương nhiên mà trong những khi thức lão không hề được biết. Vẫn bằng cái hình thù gớm ghiếc ấy, lão đang cùng bí thư Bời sóng đôi bước đi trên một dải đất bằng phẳng trên một vùng cao nguyên nóng như rang. Mang thân hình nửa bò nửa người, lão cùng lão Bời đi theo sau thằng Lạc, thằng con trai của lão đang đi khai hoang ở Ðắc Lắc, ba người cứ ngật ngưỡng đi như người đi kheo trên suốt một vùng đất được treo lên giữa lưng chừng trời, suốt một ngày đi không có một chỗ nào có được một giọt nước. Ðất dưới chân lão Khúng bây giờ là một thứ đất đầy màu mỡ, khô không khốc đỏ như son mài, mới được cày vỡ bằng máy, từng làn đất bột màu hồng bay là là dọc theo những cánh rừng tốt tươi, lá cây cứ xanh biếc như vẽ.

    Ðêm tối sập xuống, bóng tối nhẹ như bấc và đầy huyền ảo, con bò hoá thân của lão Khúng bỗng chốc trở nên say sưa, ngây ngất trước hương vị của đất cày. Ðến bây giờ nó đang đứng chỉ có một mình giữa vùng đất cao nguyên Ðắc Lắc mới được bàn tay những người khai hoang cày vỡ và nó thấy chỉ chốc lát nữa, trời sẽ sáng và nó phải rời những luống cày để trở về sống trong rừng cây xanh biếc kia. Nó chính là loài thú hoang, hay đúng hơn, một con vật gia súc đã trở nên hoang dã, đã tìm trở lại được cái cuộc sống tự do muôn thuở của nó.

    Ðến lúc này thì lão Khúng tỉnh ngủ. Lão lại trở về kiếp sống làm người như bình thường hàng ngày lão vẫn sống, tuy vậy vẫn chưa dứt bỏ được những ám ảnh cảm giác của loài vật do giấc mơ đã để lại giữa trí não. Lão duỗi thẳng chân tay, sờ nắn từng cái bắp tay, bắp chân một, thấy vẫn là loài người nguyên vẹn, lão lấy làm yên tâm.

    Vẫn nằm ngả đầu vào bì khoai lang khô lẫn gạo đem xuống cho đứa con gái, vốn tính cẩn thận lão lại nắn tay nắn chân một lần nữa, lại còn sờ ra sau mông xem mình có còn cái đuôi hay không, lần này thì lão xác định hoàn toàn không có gì đáng lo ngại, tuy vậy hai mắt lão Khúng vẫn không rời cái hình dáng con bò với bốn cái chân đang đi từng bước thủng thỉnh trong đêm vắng phía trước mặt lão, ngay trước con mắt lão. Vẫn y như hình dáng của chính lão - cái hình dáng thật mà chỉ một lần lão vừa được nhìn thấy.

    Rít xong một mồi thuốc lào, lão trở nên hoàn toàn tỉnh táo, và càng tỉnh ra, càng ngồi suy nghĩ, cái ý niệm lẫn lộn giữa mình và con bò lại cứ trở về lởn vởn trong trí óc lão. Lão nhớ lại cánh rừng ở trong giấc mơ với toà lá xanh thẫm, cây lim lẫn thông già mọc trên vách đá, những con bò hoang dã đi đứng trên vỉa núi đá đầy cheo leo hoặc bình yên gặm cỏ giữa những khoảng rừng bằng ngập đầy nắng. Trong đàn bò kia đã từng có mặt lão, cái dáng dấp thong dong và thư thái nhất trần đời của lão. Chuyện này giá có đem kể lại, chắc chả có một người nào tin. Thế rồi đột nhiên lão Khúng đi đến một quyết định đầy điên rồ : lão quyết định giải thoát con vật ! Tự nhiên lão thấy lão đang làm một công việc vô cùng vô nhân đạo. Cả một đời con vật nai lưng ra kéo cày để nuôi sống gia đình lão, và bây giờ lão đền ơn trả nghĩa cho con vật bằng việc đem bán no cho người ta giết thịt ? Lão thấy lão không còn là giống người nữa chứ còn đâu nửa người nửa thú vật ? Một lát sau lão không lên án, tự xỉ vả mình nữa mà chỉ thấy trong người mình một cái nhu cầu đầy bức bách tự giải thoát. Con bò đang kéo chiếc xe đi qua một quãng rừng thưa thớt.

    - Họ... họ...
    Lão lên tiếng gọi con vật bằng cái giọng tự nhiên hơi sẵng. Con bò dừng bước, có vẻ nó lấy làm ngạc nhiên. Lão nhảy xuống, đi đến bên cạnh con vật, đặt cả hai bàn tay lên cái cổ sần sùi đang đầy hơi sương lẫn mồ hôi, lão vỗ vỗ con vật một hồi rồi cầm cái ách đặt xuống bên cạnh hai chân trước của nó. Con vật ngẩng cao cổ, thè lưỡi liếm lên vai, lên cổ lão, mỗi lần
    cái lưỡi mềm và ram ráp đụng vào da thịt, lão lại sởn gai ốc, tưởng như con vật đã cảm thấy được lão đang nghĩ gì ; đang toan tính những gì ; lão đang cởi ách suốt đời cho nó ! Lão Khúng tự nhiên trở nên vội vã, lão kéo chiếc xe sang vệ đường, đem dấu sau những đám bờ bụi lúp xúp lẫn những tảng đá rồi trở về bên con vật đang đứng đó, nguyên tại chỗ. - Nào, bây giờ thì tao giải thoát cho mày, lão lầm rầm nói với con vật thân yêu bằng cái giọng hơi cau có, mày hầu tao thế là đủ rồi đấy con ạ, bây giờ thì mày hãy đi đi, hãy vào rừng mà sống, cỏ đấy, cỏ trong rừng thiếu gì, mày ăn suốt đời không hết, khát thì có nước suối. Mày muốn sống một mình hay sống trong bầy cũng được. ở đây đi sâu vào bên trong sẽ có một bầy bò hoang. Chúng nó sướng như những bà hoàng ông hoàng giữa núi non, cây cỏ, chẳng bao giờ phải kéo cầy, kéo xe... Hãy đi đi, nào ! Lão cuộn vào năm ngón tay trái cái dây chão đã được tháo ra khỏi mõm con khoan đen, dùng đầu dây đánh một cái thật đau và bên hông, bắt nó phải chạy té vào rừng. Con đường đi đến thế giới tự do của con khoang đen thật chẳng khác nào con đường đi đày. Sau lưng nó, lão Khúng lúc nào cũng hầm hầm hè hè giơ cao thanh roi sẵn sàng quất vào mông đến đau điếng nếu nó dừng lại, hoặc ngoái nhìn trở lại.

    Cuộc xua đuổi cứ thế diễn ra lặng lẽ giữa đêm trường. Càng xua được con vật dấn mình vào giữa rừng sâu càng xa con đường "bò lăn" ở ngoài kia, lão Khúng càng thấy yên tâm, lại thấy có một cái gì khoái lạc, tự thoả mãn, chẳng lẽ lão cảm thấy được lão đang xua đuổi cái số phận quá đỗi nhọc nhằn của lão ra khỏi đời lão, cái số phận nửa người nửa con vật ? Càng đi sâu vào, rừng càng dày. Những thân cây dổi lâu năm ôm trên mình toàn lá rậm rịt. Qua hai ba ngọn suối thì đến một khu rừng cũng toàn dổi mọc trên dãy núi đá. Rừng tối hơn. Ðây là gian sơn, nơi trú ngụ của bầy bò hoang. Từ ở đây vào những tháng hè nắng ráo, những con bò đã từng là gia súc thường nhớ vị mặn của muối, đêm đêm lần xuống các gia đình người kinh, sục vào bếp, thè lưỡi liếm hối hả lên mặt những chiếc kiềng sắt hoặc đầu ông núc. có đôi khi vào nửa đêm lắm sao hoặc có trăng sáng, chúng kéo nhau từng bầy năm bảy con xuống phá phách hoa màu trên nương của bà con đồng bào địa phương ở bên kia sườn núi đá. Người ta rình, tổ chức phục kích, đào hào cắm chông nhưng vẫn chưa bắt được của chúng một con nào. Cái giống bò sống hoang đã thật ranh khôn...

    Cuộc xua đuổi đã kéo dài hàng tiếng đồng hồ. Lão Khúng đã mệt nhoài nhưng vẫn chưa chịu cho vật dừng lại. Nó phải đi thật xa, phải bắt nó vào thật sâu giữa rừng thẳm, để không còn lối nào trở lại với lão. Rồi thì mai đây khi trở về nhà, lão nghĩ, lão sẽ nói thật với mụ Huệ, lão đã không đem xuống chợ Giát để bán mà trên dọc đường đã giải thoát cho nó, trả lại cho nó cuộc đời tự do, lão đã xua nó vào rừng, vào giữa giang sơn của một bầy bò hoang... Chắc hẳn mụ Huệ cũng không mè nheo lão. Mụ sẽ thông cảm với lão, với việc làm của lão. Sau khi xua được con vật sang bên kia sườn núi đá, lão Khúng âu yếm chia tay với người bạn đời bằng cách trở đầu roi, cầm trên tay đánh một trận thực lực, tay đánh miệng chửi bới nguyền rủa. Giữa lúc con vật đau điếng, đang quằn quại suýt quỵ bốn chân xuống thì lão Khúng đột ngột quay lưng lại phía nó. Không nói thêm một lời nào. Lão bỏ đi, mất hút vào đêm tối. Lão trở về bên chiếc xe bò khi màn đêm đã nhợt trắng. Lão biết rằng từ đây trở đi chỉ còn một phần ba đường đất và đường sá cũng đỡ khốn khổ hơn.

    Lão xem lại dây chằng những bó củi cùng đống chè xanh trên nóc xe, tranh thủ rít thêm một mồi thuốc lào rồi một thân một mình, lão kéo chiếc xe ra giữa đường cái, tiếp tục cuộc hành trình về xuôi.

    Mùi mồ hôi bò khai khai, lâu đòi phả ra nồng nặc trên cái ách gỗ đang bắt đầu thấm ướt đẫm mồ hôi muối của lão. Trên đầu lão, trời sao thưa ra, ngôi nào ngôi nấy trắng nhợt như sắp rơi rụng hoặc đi trốn vào bóng tối hết. Lão kéo chiếc xe lăn bánh lọc cọc giữa hàng đoàn những chiếc xe khác do trâu hoặc bò kéo đang vượt lên trước lão, thỉnh thoảng lại có một đoàn xe sộc chở than hoặc gỗ súc trẩy xuống chợ Giát trong tiếng kêu ken két rất là não nề. Khoảng bảy giờ sáng lão Khúng mới lôi được chiếc xe xuống đầu phố cầu Giát. Ðến lúc này trên con đường số Một không còn lối mà len chân nữa.

    Lão Khúng tháo ách ra khỏi vai, ngồi xếp bằng ngay bên vệ cỏ của đoạn mút con đường bò lăn đã rải đá răm. Lão ngẩng cao cổ phóng tầm mắt nhìn theo con đường bò lăn cắt ngang con đường số Một để đi thẳng xuống miền biển. Ðấy là con đường duy nhất để lão đi về làng, rải toàn đá lèn ban đêm cứ trắng lộm lốp. Lão ngồi xếp bằng ở đấy để nghỉ chân có lẽ đến nửa tiếng đồng hồ, ngay bên vệ đường, sau khi rít một lúc hai điếu thuốc lào thông, lão cảm thấy mệt đến đứt hơi nhưng lại khoan khoái vô cùng, như làm được một việc từ trước đến gờ lão vẫn hằng mơ ước nhưng chưa có cách gì để làm. Con người lãi lúc này như đã phân thân ra, một nửa đang sống cuộc đời con khoang đen nhởn nhơ giữa nội cỏ trong rừng thẳm, một nửa đang là chính hình ảnh cuộc sống của lão trong hiện tại : một lão già nông dân đầy nhọc nhằn một mình với chiếc xe bò giữa đường.

    Phố cầu Giát, cái phố huyện nổi tiếng sầm uất đang bừng bừng sống dậy trong phiên chợ.
    Ðoạn đường số Một chạy qua phố cầu Giát kể cả bên này và bên kia cầu dài có đến gần hai cây số. Cho đến lúc này một bên phía lề đường bên kia đã sực nức mùi thơm của cá nước cùng mùi tanh tưởi của cá tươi, và một bên phía lề đường bên này đang xông lên ngùn ngụt mùi phân trâu bò : rùng rùng từng đàn bò, đàn trâu, con kéo xe, con đi không, đang đổ tất cả về phía chợ, cái đoàn súc vật cứ phình to ra mãi, lúc nào cũng chực lấn chiếm hết cả mặt đường. Người ta thấy từ ngả rừng xuống cũng như ngả biển lên, người cứ đùn lên từng đám, từng đoàn, không lúc nào ngớt. Cùng với người là tiếng cười nói, tiếng cãi vã, tiếng bánh xe gỗ rú rít đầy riết nóng và não nề, tiếng đòn gánh kĩu kịt, tiếng trâu bò "nghé ọ", tiếng roi quất vào không khí vi vút hoặc đánh trúng hông trâu bò cứ đen đét. Từ trong cái đám súc vật lì xì đang lặng lẽ cất bước đều đặn bỗng các thứ xe cộ khiến thiên hạ vụt hét toáng...

    Nhưng bặm trợn nhất, cứ xô giạt hết cả các đoàn súc vật lần ôtô tải mà len lên, mà chạy giần giật về phía trước, là những đoàn đàn bà chạy cá tươi từ dưới biển lên. Họ chạy thành từng đám dăm bảy mụ, mươi mụ, mụ nào cũng cao lớn như hộ pháp, váy mụ nào mụ nấy bị xét gần tới đầu gối, yếm áo tơi tả, mà phần lớn ở trần, mồ hôi nhẫy ra, họ vừa chạy vừa la hét dẹp đường, vũ khí tấn công cũng như tự vệ là cặp khuỷu tay lúc nào cũng chĩa ra hai bên... Lão Khúng cố ý tránh xa đám đàn bà "kẻ biển" đang say sưa "chạy cá". Lão sợ trong đà chạy đám "liễu yếu đào tơ" ấy có thể vô ý xô đổ cái xe bò chở củi lần chè xanh chất cao ngất ngưởng, lại chỉ có một mình lão đang ra sức kéo về phía bên kia cầu. Chẳng biết làm thế nào khác hơn là cứ lẽo đẽo theo sát một chiếc xe tải chở đầy lợn đang tiến về phía trước như người dẫn rượu. Như thế chiếc xe củi được an toàn mà lão đỡ mệt. Dù sao thì cho đến lúc này lão đã thấm mệt. Bởi vì càng tiến gần đến cổng chợ, cái đám người và súc vật đường hình càng trở nên quay cuồng mà mật độ càng lớn. Trong một lúc nào đó lão Khúng đưa cánh tay áo lau dòng mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt và lúc hai con mắt đã sáng sủa hơn, lão nhìn ra hai bên và phía trước, phía sao lão thấy toàn cả một đám đông đúc xám xịt toàn trâu bò già người ta đập đi chợ để bán thịt. Chung quanh lão y như có ai bày ra cái trò gì để trêu lão ? Bất giác lão nhìn sâu vào cặp mắt của một con bò đang mệt nhọc bước đi từng bước ậm ạch, lọc cọc ngay sát bên chiếc xe của lão. Ðấy là một con bò đực ít nhất cũng đã từng sống trên vài chục năm, con vật gần như đã trụi hết lông, yếm chảy sát gối, và đặc biệt hai con mắt toét nhèm của nó nhìn sao mà cứ hướng vào lão - hai con mắt đầy âm thầm và nhẫn nhục của con vật già nua đang bình thản đi đến chỗ chết.

    Lão Khúng cố xoay xở lôi chiếc xe củi ra khỏi đám trâu bò già đem bán thịt.
    - Chào ông Khúng ! Mời ông quá bộ vào ăn bát phở sốt vang nào !
    Lão vừa kéo được chiếc xe ra bên vệ đường, ngước lên đã thấy lấp ló sau hàng cây vông đồng cả một hàng những quầy thịt bò treo giăng giăng cứ đỏ ối cả một dãy quán phố, người vừa đon đả mời chào lão Khúng vẫn không ngừng tay thái thịt, lão bí mật quờ tay ra véo vào bên mạng sườn đầy non tơ của cô vợ vừa trẻ vừa đẹp đang đứng ngay phía sau lưng, rồi quay ra đon đả, mời chào :
    - Quá bộ vào làm một bát sốt vang thịt bò tươi với bánh mướt nào ông Khúng ! Trâu bò của nhà đi đâu cả mà ông phải gò lưng làm bò kéo xe thế này ?

    Lão gập lưng kéo chiếc xe đi nhanh qua cái quán phở mà lão chủ quán có quen biết lão từ nhiều năm nay. Nhưng kéo xe qua đoạn phố nào lão cũng chỉ thấy một mầu đỏ đầy ghê sợ của những quầy thịt bò treo trên những hàng móc sắt. Dân buôn, lái xe, cán bộ đi công tác, khách lai vãng từ Bắc vào hoặc từ phía Nam ra, mấy ai bỏ lỡ cơ hội mua một ít thịt bò tươi ở cái phố huyện nằm ngay trên đường Một, cái thịt trấn sầm uất đang khủng hoảng thừa bò cày cũng như bò thịt thậm chí những người có đầu óc làm ăn kinh doanh của địa phương lại đang còn tính toán hùn vốn mua một hai chiếc xe có thiết bị ướp lạnh. Cái thứ thực phẩm cao cấp ở đây mỗi sáng sớm sẽ được chuyên chở cấp tốc ra Hà Nội hoặc đi các thành phố đang khan hiếm thực phẩm để cung cấp cho các cửa hàng ăn. Như một kẻ đang chạy trốn một cuộc tàn sát đầy tàn nhẫn, lão Khúng hối hả kéo chiếc xe củi sang bên kia cầu. Nhưng bên kia cầu cũng vẫn thấy khắp nơi cái mầu đỏ ối của thi thể những con vật kéo cày. Lão rẽ vào một con đường lát đá phiến khấp khểnh, đi qua một cái nhà thờ đạo đầy vẻ tĩnh mịch rồi tiếp đến những dãy bức tường gạch sứt mẻ của nhà kho hợp tác đã bỏ hoang phế. Ngôi trường cấp ba mà con gái lão đang theo học lớp 12 đây rồi, đập ngay vào cảm giác lão là một sự bình yên của không khí nghiêm trang của các lớp đang giờ học, khiến cho lão trở lại bình tâm
    được đôi chút. Lão kéo chiếc xe củi đi vòng ra phía sau trường, đi qua mấy bãi mạ thì đến khu nhà nội trú của học sinh gia đình ở xa, mấy dãy nhà tranh vách đất đổ nát chả khác nào lán trại của dân công.

    Lão Khúng đi thẳng đến trước một gian phòng ở cuối dãy mà lão vẫn quen thuộc, ở đấy con gái lão ở chung với mấy cô bạn học lớp dưới. Gian phòng của con lão khoá kín cửa. Lão đang toan dở đống củi xuống trước cửa phòng con gái lão thì tự nhiên lão ngớ ra : lão vừa nhìn thấy một con bò đang nằm nhai cỏ bên vạt sân bóng chuyền của đám con gái ở bên hồi nhà. Ngay lập tức lão giật nẩy mình sực nhận ra đích thị là nó, con khoang đen của nhà lão, cái con khoan đen mà trong đêm khuya khoắt lão đã đích thân dắt vào tận trong rừng thật sâu, rồi lại còn phải dùng roi vọt đánh đập vô cùng tàn nhẫn để xua nó đi với cuộc sống tự do.
    Con vật ngước cặp mắt đầy nhẫn nhục và sầu não lên nhìn lão Khúng. Ðó là cái nhìn của một sinh vật tự nguyện chấp nhận số phận. Ðứng lặng thinh bên chiếc xe chất đầy củi mà lão đã thay nó toát mồ hôi một mình kéo về được đến đây, lão Khúng cũng chả biết nói gì với con vật, lại càng không thể trách móc, lão chỉ đưa mắt nhìn người bạn đời làm ăn thân thiết bằng cái nhìn cũng đầy sầu não và phiền muộn.
     
  19. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Dải lụa

    Dương Duy Ngữ

    - Ông cụ Vạn ở xóm giếng héo sữa rồi.
    - Sao cụ ấy về dễ dàng thế. Chiều hôm qua tôi còn gặp chăn bò trước cửa chùa Hoa Đào.
    - Thế mới gọi là tiên cảnh ngàn thu. Ông cụ đi như đi ngủ. Mười giờ đêm còn ngồi xem phim Tam Quốc diễn nghĩa. Cứ tấm tắc khen cái đoạn Tào Tháo và Lưu Bị uống rượu luận anh hùng. Một lúc sau kêu tức ngực, lên giường nằm thế là đi luôn.
    Chuyện cụ Vạn quy tiên chỉ một lúc sau đã lan truyền khắp làng Thượng.
    Nghĩa tử là nghĩa tận, bà con làng xóm, họ hàng nội ngoại đều xếp sắp công việc đến chia buồn với gia đình người quá cố và tiễn đưa linh cữu đến nơi an nghỉ cuối cùng, đào sâu, chôn chặt, mồ yên mả đẹp.
    ở làng Thượng từ xưa, không ăn uống, rượu chè trong đám hiếu. Các cụ bảo, người than khóc sầu não về nỗi mất mẹ, mất cha, kẻ ngồi chè chén còn ra làm sao nữa! Nhưng làng cũng có lệ sau khi phát tang, thường lưu giữ thi hài người quá cố, nhất là người cao tuổi, con cháu đề huề, ở trong nhà một đêm để kèn trống và để họ hàng, bằng hữu xa gần phúng viếng. Gần đây lại phục hồi tục: Khi sinh thời yêu ai sâu sắc thì lúc về cảnh tiên, người bạn tình đến vĩnh biệt và đặt ngang quan tài một dải lụa hồng. Ngày xưa, con gái lấy chồng, con trai lấy vợ là do bố mẹ sắp đặt. Còn yêu nhau, bởi phận tơ hồng trời se. ý trời hẳn phải hơn ý người. Nhưng đến khi một người sang cõi vĩnh hằng, người còn ở lại mới dám công khai. Điều đó, khiến người đời thêm tò mò, phỏng đoán.
    Có người đến viếng ông cụ Vạn xong còn ngó vào tận linh cữu xem đã có dải lụa hồng nào chưa. Và khi quay ra, họ lắc đầu, bảo:
    - Quan tài còn trống lắm. Tịnh chưa có một dải lụa nào. Cái đám này buồn bỏ mẹ. Chả bù cho đám bà Lý. Vừa đúng ba cỗ dải lụa hồng nhé.
    - Bì thế nào được với bà Lý. Bà ấy đẹp người đẹp nết nên nhiều ông mê là phải.
    - Bà Na chả đẹp ư? Vậy mà khi hết cơm, hết gạo chả có một dải lụa nào. Con cháu cứ buồn thiu.
    - Cái bà ấy lúc nào cũng cay cảy, cay cảy, có ma nó mê. Lấy được chồng là may. Đẹp thế, đẹp làm gì!
    Con cháu bà Lý có mặt trong đám ma cụ Vạn có vẻ tự hào, mãn nguyện về mẹ, về bà mình lắm. Họ tự hào, mãn nguyện là phải. Họ đã đón tiếp những người bạn tình của mẹ mình niềm nở, trân trọng và biết ơn. Bởi những người ấy, đã dám vượt lên mọi hoàn cảnh để đến với mẹ mình thật đúng lúc.
    Người đời thật lạ. Sinh thời, chúa ghét chuyện gió trăng. Rồi ghen tuông, oán hờn, thù giận tình địch của mình. Vậy mà khi người thân ra đi, lại cảm thấy tủi phận, trống vắng nếu như trên nắp quan tài không có lấy một dải lụa hồng. Người ta bảo nhau, ông ấy, bà ấy phải là người trai tài gái sắc thế nào mới được nhiều người yêu đến thế. Tục ở làng Thượng, người nào càng giữ chặt được mối tình của mình ở trong lòng đến lúc nhắm mắt xuôi tay, con cháu mới biết thì tình yêu ấy mới thật sự cao quý, thiêng liêng. Còn để lộ ra, làng biết cả rồi, còn mang lụa đến làm gì nữa.
    Phải giữ được bí mật như ông Dinh, xóm Đình mới tài. Trước khi cải tạo tư thương, ông Dinh làm chủ ba quả lò vôi. Ông ngược xuôi bán vôi khắp Hà Nội, Sơn Tây, chả có điều gì. Khi sắp lâm chung, ông Dinh mới chỉ chỗ cho vợ con đào hai cái ấm tích lên, bảo: "Số vàng này đã chia theo di chúc. Cúng ba ngày xong mới được thực hiện. Và phải điện khẩn cho người này, người này...". Bấy giờ vợ con mới vỡ nhẽ, ông có ba người tình. Vàng chia cho vợ, cho người yêu và các con trai con gái như nhau. Khi linh cữu ông Dinh còn quàn trong nhà, có hai bà người Hà Nội về vắt hai dải lụa lên. Còn bà ở Phú Thọ, mãi hôm cúng ba ngày, mới tất tưởi đem dải lụa vắt qua nấm mộ... Di chúc ông còn nói rõ rằng sở dĩ ông có được bấy nhiêu vàng là nhờ vào công sức của tất cả các bà.
    Trở lại chuyện đám ma cụ Vạn.
    Gần như cả buổi sáng hôm sau, chốc chốc lại có người làng Thượng ngó vào linh cữu. Người sau theo người trước, họ lắc đầu quay ra. Điều đó, khiến vợ con cụ Vạn tủi thân lắm.
    Những người đi đào huyệt đã về. Xóm làng rộn rịp chuẩn bị đưa cụ Vạn đến nơi an nghỉ cuối cùng.
    Giữa lúc đó, một người trung niên, mái tóc lốm đốm bạc, ăn mặc kiểu thành phố, vét tông màu đen, đeo băng tang đen thong thả đi vào sân. Trông cặp mắt, bước đi đều tỏ ra điềm tĩnh, tự nhiên. Ông cung kính cúi chào bà con, đúng theo nghi lễ làng Thượng rồi không phải hỏi thăm ai, bước tới trước mặt người em ruột cụ Vạn, chắp tay, cúi đầu, nói nhỏ mấy câu. Ông cụ mở tròn mắt nhìn người khách lạ rồi gật gật đầu. Bấy giờ khách mới từ từ đi vào bên linh cữu nhìn rất lâu vào gương mặt vàng bệch của cụ Vạn qua tấm kính. Đoạn người khách gục xuống quan tài đau đớn kêu lên một tiếng như vỡ ra tự trong tim:
    - Bố ơi!
    Người làng Thượng chăm chú theo dõi từng cử chỉ của ông khách chưa một lần xuất hiện, cùng thốt lên:
    - Con cụ Vạn.
    - Thảo nào, tôi đã nghi nghi từ đầu.
    - Trông cũng nhang nhác giống cụ Vạn.
    - Giống như hai giọt nước chứ nhang nhác gì.
    - Không phải hỏi thăm ai mà biết cụ Thọ là chú ruột mới tài.
    - Mẹ của ông ấy còn hay mất mà không thấy nhỉ?
    *
    * *
    Mồ côi cha mẹ từ bé, anh em ông Vạn mỗi người phiêu dạt một nơi mãi sau ngày giải phóng Điện Biên, mới gặp nhau. Ông Thọ bị mẹ mìn đem lên mạn ngược bán cho người Thổ. Rồi tham gia quân đội, chiến đấu ở vùng Thượng Lào.
    Còn ông Vạn đi ở chùa Hoa Đào. Đó là một ngôi chùa nhỏ nằm ẩn mình dưới chân núi Phượng Hoàng, một quả núi đá vôi cao chót vót và có nhiều hang động thuộc địa phận làng Cả, cách làng Thượng một cánh đồng. Xung quanh chùa trồng toàn đào ăn quả. Mùa xuân về, hoa đào thắm hồng một sườn núi. Lúc còn nhỏ, ông Vạn trông coi vườn đào, quét chùa, chăn bò. Lớn lên, ông Vạn trở thành lực điền của nhà chùa. Năm ông ngoài hai mươi tuổi, sự cụ trụ trì có thêm đồ đệ mới. Chú tiểu nữ, có dáng người tầm thước, da trắng như trứng gà bóc, đôi mắt lóng lánh luôn luôn nhìn xuống. Chú sáng dạ, chăm làm, thông tỏ kinh Phật, thuộc làu Chư Kinh nhật tụng, lại giỏi việc nhà, thạo việc đồng áng, từ xay lúa, sàng gạo đến tát nước, nhổ mạ, cấy, gặt, hái rau. Nhiều trưa, tiểu không nghỉ, xay ầm ầm mấy thúng thóc liền. Có hôm thóc hết tự lúc nào, răng cối va vào nhau xàn xạt, thớt trên rung bần bật như lên đồng mà chú vẫn mải mê... Không việc gì, tiểu không làm được. Ngoài sư cụ, không ai biết tiểu là gái Hà Thành, tên gọi Hoàng Tú Oanh, sinh trưởng trong một gia đình buôn bán giầu có, được dạy dỗ, học hành chu đáo. Mười sáu tuổi, bố mẹ cho cô đi tu. Bởi đi xem ở đâu người ta cũng bảo số cô nặng căn lắm, lại đào hoa bạc mệnh nên phải gửi thân ép xác cửa thiền. Cô được gửi gắm người cô họ đang trụ trì chùa Vân Hồ, một chùa lớn bên hồ Bảy Mẫu, phía nam Hà Nội. Ba năm sau, sư cụ Vân Hồ thấy mỗi ngày tiểu một đẹp rực rỡ, sợ để ở chốn Hà Thành đô hội, thường ngày tiếp xúc với biết bao giai nhân, tài tử thì khó mà ép xác cho tròn quả phúc, bèn gửi cho người bạn đồng đạo ở chốn thôn quê hẻo lánh.
    ở chùa đã khổ hạnh, chùa nghèo, chùa nhỏ ở chốn thôn quê còn khổ hạnh bội phần. Quanh năm chỉ có cơm gạo cũ với rau muống già chấm tương. Thỉnh thoảng có bữa "cá" kho. Đó là những quả mướp đắng, cắt khoanh, om tương. "Cá" nhà chùa, ăn đắng từ trong ruột đắng ra. Thoạt đầu tiểu Oanh nôn mật xanh, mật vàng. Sau rồi quen đi, lại thấy ngon. Con gái ở tuổi dậy thì, ăn bao nhiêu cũng chẳng biết no, nhịn vài bữa cũng không thấy đói, ăn khổ mấy vẫn thấy ngon miệng. Cơ thể tiểu Oanh cứ rừng rực, rừng rực như bốc lửa. Lửa bốc từ trong lòng bốc ra. Thức thâu đêm, đọc bao nhiêu kinh cũng không dập tắt được. Nhiều đêm lửa còn thiêu đốt cả kinh kệ, chữ nghĩa nhà Phật. Tiểu Oanh bỏ kinh đi xay lúa, giã gạo. Càng xay, càng giã, lửa càng bốc cao. Ba bốn giờ sáng, trời lạnh cứa da, cứa thịt, tiểu Oanh lội xuống ao vớt bèo những mong cái buốt cái rét giá thấu xương dập tắt ngọn lửa lòng đi...
    Sư cụ và các vãi vẫn thầm khen, tiểu Oanh chịu khổ xác. Chăm làm như anh lực điền Vạn cũng lắc đầu, không sao theo kịp tiểu Oanh.
    Năm ấy, mùa hè, anh Vạn cày bừa mấy thửa ruộng ở phía sau chùa. Đi vòng vài trăm bước qua đầu núi là về đến "nhà". Về chùa dềnh dàng sợ nghỉ lâu. Trưa nào, tiểu Oanh cũng mang cơm cho anh Vạn. Tiểu không bao giờ gọi, chỉ lẳng lặng để cơm vào chỗ cửa hang hình khum khum tựa mái chòi, nơi anh lực điền vẫn nghỉ trưa rồi lội xuống ao muống ở sát chân núi, cặm cụi hái từng ngọn rau già. Anh thợ cày ngẩng lên thấy tiểu hái rau, biết đã có cơm. Anh cho trâu xuống một cái chuôm gần đó cho nó đằm còn mình thì rửa chân tay, lên hang ăn cơm.
    Trưa hôm ấy, nắng chết cá. Anh vừa bừa, vừa vớt được bao nhiêu là cá. Anh chỉ dám cho trâu đằm một lát rồi dắt lên hang cho nó nghỉ. Vậy mà tiểu Oanh vẫn cắm cúi hái rau. Ngọn rau vừa bứt khỏi tay đã héo ràu ràu. Rau đã già lại héo thế kia thì răng nào nhai nổi. Chỉ khổ tiểu và mấy người thợ cấy, thợ cày. Anh Vạn đánh bạo gọi:
    - Nhà chùa nghỉ tay một lát đã. Rau già lại héo, răng chúng tôi không dứt nổi đâu.
    Chẳng rõ chú tiểu có nghe rõ không mà chẳng hề có hồi âm. Anh Vạn lại gọi. Tiểu vẫn mải mê hái rau. Anh Vạn đâm lo. Khéo tiểu say nắng, gục xuống thì chết mình. Sư cụ quở trách, biết nói thế nào. Thế là anh lực điền đâm liều. Anh lội ào xuống ruộng muống, cầm tay tiểu vừa kéo lên bờ vừa nói:
    - Nhà chùa muốn chết nắng à?
    Lần đầu tiên, anh thợ cày nhìn trực diện vào gương mặt, vào cặp mắt tiểu Oanh. Chao ôi, nó cứ bừng bừng, như thiêu như đốt anh. Chẳng hiểu do nắng lửa, hay do anh cầm vào cổ tay tròn lẳn của tiểu mà cặp mắt, đôi gò má tiểu bừng bừng như thế.
    Tiểu Oanh ngồi thụp xuống cửa hang, thở dốc từng hơi dài, đôi bờ vai rung lên. Anh lực điền sợ lắm! Tiểu Oanh cảm thật rồi, hơi thở nóng như hơi lửa. Anh thì thầm:
    - Tiểu ốm rồi. Để tôi đưa về.
    Anh lực điều cúi xuống cầm cánh tay tiểu định đỡ tiểu đứng dậy. Chợt tiểu giật bắn người, toàn thân co dúm lại.
    - Đừng động vào người tôi. Đừng động vào tôi.
    Nhưng lúc ấy, anh thợ cày đã cảm thấy trong lòng rạo rực. Anh trở nên liều lĩnh, bất cần và hành động hoàn toàn theo bản năng sai khiến. Lúc anh cảm thấy cái hang đá chao nghiêng ngả thì tiểu bất thần kêu:
    - ối! Mẹ ơi, con chết mất!
    Rồi tiểu lịm đi. Đôi mắt nhắm nghiền. Chân duỗi thẳng, hai tay dang rộng. Anh thợ cày sợ hoảng hồn. Mồ hôi vã ra như tắm. Chợt tiểu mở mắt, mỉm cười:
    - Anh đừng sợ. Không sao đâu.
    Ba tháng sau, người làng Cả thấy vắng bóng chú tiểu Oanh. Các vãi tò mò hỏi. Sư cụ trụ trì chùa Hoa Đào bảo:
    - Tiểu Oanh về Hà Nội học thêm kinh kệ.
    Dần dần, trong ký ức của mình, người làng Cả đã quên hẳn tiểu Oanh. Chỉ một vài người già sống cùng thời với tiểu là còn mang máng nhớ, cái năm sư cụ xây Tháp Xá Lị, có chú tiểu ngoài Hà Thành đẹp lắm về tu ở chùa làng mình. Được vài ba năm thì chuyển đi nơi khác. Từ đó đến nay trải mấy chục năm rồi. Đã có mấy đời sư trụ trì ở chùa Hoa Đào. Nếu tiểu Oanh còn sống cũng phải ngót tám mươi.
    Thực ra, tiểu Oanh được bí mật đưa về nhà bố mẹ đẻ chứ không phải đi học thêm kinh kệ như cụ nói.
    Sáng sớm hôm ấy nhà chùa sai anh lực điền Vạn đi tát nước ở mãi cánh đồng Chắt, cách làng Cả phải tới năm dặm đường. Buổi tối, anh Vạn về không thấy tiểu Oanh đâu. Hỏi ai cũng lắc đầu không biết. Anh đánh bạo hỏi sư cụ. Sư cụ cầm miếng trầu quệt ngang môi, bảo:
    - Tiểu về Hà Nội rồi.
    Anh hỏi tiếp:
    - Bạch cụ, tiểu đi có lâu không?
    Sư cụ bảo:
    - Hỏi làm gì. Nhà chùa tha tội chết cho con đấy.
    Anh lực điền Vạn sa sẩm mặt mày, tưởng đổ gục xuống như cây chuối hột bị một nhát dao sắc lẹm phạt ngang gốc. Thảo nào, cả ngày hôm ấy, anh làm việc gì cũng hỏng. Ruột gan nóng cồn cào. Anh tát nước, liên tục va miệng gàu vào bờ. Anh làm cỏ, cây thường mực không nhổ, toàn nhổ vào dảnh lúa. Mấy bà cùng làm với anh kêu trời kêu đất:
    - Nhà chú phải để tâm vào chứ. Làm ăn thế này thì sư cụ đuổi bỏ.
    Đận ấy, anh lực điền Vạn đổ ốm một trận tưởng chết. Hàng tháng trời, anh không ăn, không ngủ, cổ họng khô bỏng, đắng ngắt, ngực đau tức như có cái cối đá đè lên. Mỗi ngày vuốt đầu, tóc rụng đầy kẽ ngón tay. Nỗi đau lặn vào lòng, không người chia sẻ, không người hỏi han. Anh tưởng được sống hạnh phúc một đời với tiểu Oanh. Hai người đã bàn nhau bỏ trốn. Tiểu Oanh bảo đợi đến cuối tháng, đêm tối trời, hai đứa cuốc bộ ra Canh Diễn rồi vẫy xích lô ra ga xe lửa xuôi xuống Phòng(1). ở Phòng, Oanh có bà dì ruột thương Oanh lắm. Bà đã cực lực phản đối bố mẹ đưa Oanh vào nương nhờ cửa Phật. Bà bảo:
    - Cứ quẳng nó vào đời đi, cho nó bơi, nó ngụp. Nếu nó không tìm thấy nguồn vui, không tìm thấy hạnh phúc, lúc ấy đi tu cũng chưa muộn. Việc gì phải nghe mấy ông thầy số làm khổ con bé.
    Bây giờ, gặp cảnh ngộ này, nhất định dì sẽ bí mật giúp Oanh.
    Nhưng cuộc sống đã không như tiểu Oanh mong ước. Tiểu bị giam cầm trong nhà. Mẹ không rời Oanh nửa bước. Mấy lần Oanh định liều chết mà không xong. Thiếp đi thì thôi, chứ tỉnh dậy là tiểu Oanh ngồi xếp bằng quay mặt vào bức tường trông về phía chùa Hoa Đào, nơi có anh lực điền Vạn, hẳn cũng đang phải trải qua sự mất mát, đau đớn nhất trong đời. Tại sao số phận lại run rủi tiểu Oanh với anh thợ cày nghèo khổ ấy. Họa có trời mới biết. Mẹ bảo:
    - Đó là éo le của tạo hóa. Bởi vậy bố mẹ đã cho con thoát tục mà vẫn không sao tránh được khổ đau. Con còn vương vấn với cuộc đời thì còn khổ cực, đắng cay lắm.
    Sau khi sinh nở mẹ tròn con vuông, bố mẹ giữ thằng Chít lại nuôi dạy và bắt tiểu Oanh bước tiếp con đường tu hành.
    Thằng Chít được cái khỏe mạnh thông minh. Nó không hề biết cha mẹ mình là ai. Thỉnh thoảng sư bà vẫn đến nhà thăm hỏi ông bà ngoại và mua quà cho nó. Tốt nghiệp phổ thông, Niên, tên thật của thằng Chít, nhập ngũ vào binh chủng pháo binh, chiến đấu trong Vĩnh Linh. Sau hiệp định Pa-ri, Niên được giải ngũ. Anh theo học trường Đại học tài chính. Bây giờ, anh đang làm giám đốc một công ty trách nhiệm hữu hạn chuyên buôn bán máy tính điện tử.
    Vào những năm cuối thập kỷ tám mươi, chùa Hoa Đào bỗng nhiên thiếu sư trụ trì. Chẳng rõ có phải do điềm trời không, mà hai ba ni cô thay nhau về chùa được dăm ba tháng lại bỏ đi. Người sau cùng là ni cô Đàm Tú. Các cụ vãi làng Cả bảo, mắt sư cụ tinh lắm, còn xâu kim được. Nhưng răng thì chả còn chiếc nào. Sư cụ ăn quả trứng chưng tương còn độc, chỉ có ăn mướp đắng kho tương được thôi. Hết mùa mướp đắng thì ăn củ rau khô dầm tương. Sư cụ thông tỏ kinh Phật lắm.
    Từ ngày sư cụ Đàm Tú về trụ trì, cảnh chùa Hoa Đào ngày một khang trang, sầm uất. Sư cụ chữa chùa, sửa tam quan, tô tượng, xây tháp chuông. Người trong vùng kéo đến quy y đông lắm. Tiếng tăm, công đức sư cụ lan truyền khắp mọi nơi. Không đám hiếu nào, sư cụ không cầm tích trượng đi làm phúc cầu hồn cho người quá cố được siêu sinh, tịnh độ.
    Cái chết của ông cụ Vạn trên làng Thượng đã gây một cơn sốc lớn trong lòng sư cụ. Nhiều hôm, ông cụ Vạn chăn bò trước cảnh chùa, sư cụ Đàm Tú vẫn mời ông cụ vào chùa uống chén nước nụ vối. Sư cụ ngồi đối diện với cụ Vạn, vừa bỏm bẻm nhai trầu vừa lặng lẽ ngắm nhìn cụ Vạn không chán mắt. Lúc ông cụ ra về, bao giờ sư cụ cũng gửi chút lộc Phật, khi là phẩm oản đường, khi quả chuối, phẩm oản nếp cho các cháu và tiễn đưa ra tận cổng chùa, quyến luyến một lúc mới chia tay.
    Cụ Vạn cung kính, chào:
    - Bạch cụ, tôi về.
    - A-di-đà Phật.
    Sư cụ cứ ngỡ ông cụ Vạn tai đã nằng nặng, mắt không còn tinh nữa, hẳn không thể nhận ra hình dáng tiểu Oanh khi xưa mà cụ đã nặng lời thề nguyền.
    Sư cụ đã tưởng được yên thân đến khi thác về cõi Phật.
    Không ngờ chiều hôm đó, ông cụ Vạn ngồi uống liền hai chén nước nụ vối và trân trân nhìn sư cụ. Sư cụ giật mình, hỏi:
    - Cụ có điều gì?
    - Bạch cụ. Tôi... tôi hỏi khí không phải xin cụ thứ lỗi.
    - A-di-đà Phật.
    - Bạch cụ. Con... con... của... của... có còn không?
    - Thưa cụ, còn... còn ạ.
    - Bạch cụ, trai hay gái.
    - Thưa cụ... trai... ạ.
    - Bạch cụ, con... có tử tế, nên người không?
    - Thưa cụ, con được ông bà ngoại nuôi dạy chu đáo lắm.
    - Bạch cụ, tôi muốn... muốn... gặp nó có được không?
    - Thưa cụ, mong... mong cụ hiểu cho. Con chưa biết bố mẹ mình là ai?
    - Bạch cụ, tôi hiểu, tôi hiểu... Tôi chết nhắm mắt được rồi.
    Hóa ra ông cụ Vạn dở chứng về trời.
    Tục lệ của làng Thượng đã đẩy sư cụ Đàm Tú vào thế vô cùng khó xử. Sư cụ ngơ đi cũng chả ai biết đấy là đâu. Nhưng cái tâm không thể nào yên. Dù có lên cõi Niết bàn cũng vẫn còn day dứt, khổ đau. Suốt cuộc đời sư cụ chịu khổ xác cũng chỉ mong cho cõi tâm được nhẹ nhõm, thanh thản. Bởi thế sư cụ Đàm Tú đã quyết định ra mắt con trai và báo cho nó biết cha nó là ai. Hậu quả việc này rồi sẽ ra sao? Đã có người đời phán xử.
    Sư cụ Đàm Tú chống tích trượng vào đám hiếu ông cụ Vạn. Người làng Thượng cung kính chào:
    - Niệm Nam mô A-di-đà Phật! Bạch cụ đi làm phúc.
    Sư cụ cúi chào, đáp lễ rồi đi thẳng đến bên linh cữu ông cụ Vạn. Bấy giờ sư cụ mới bỏ tấm khăn nâu để lộ ra tấm khăn xô và lấy trong túi ra một dải lụa hồng, trân trọng vắt ngang qua linh cữu ông cụ Vạn...
    Làng Gồ Cả
    Giờ Thìn, ngày Nhâm Tý, tháng Bính Tuất, năm ất Hợi
     
  20. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Phố nhà binh - Chu Lai


    Tất nhiên căn phố dài một ngàn hai trăm mét đó có tên gọi đàng hoàng nhưng lâu nay, do quen miệng, người ta cứ kêu là phố Nhà binh cho khỏi lẫn với các khu phố dân sự khác.

    Chỉ mới cách đây chừng đôi ba năm thôi, cảnh sắc nơi này còn vắng lặng thâm trầm lắm. Dường như tất cả các căn hộ to nhỏ, ngắn dài đều bảo nhau khinh khỉnh xây lưng ra đường, khiến cho dãy phố đã tăm tối lại càng hun hút nỗi đe dọa rập rình mỗi khi ai đó có việc phải đi sớm về khuya qua đây. Chao ôi là những đêm đông khuya khoắt, cả dãy phố chỉ độc tôn còn lại tiếng giày đinh quân cảnh gõ uể oải hai bên hè, tiếng trai gái run rẩy thì thầm nhòa chìm vào những vùng tối gốc cây và tiếng cành sấu khô rụng đơn côi xuống mặt đường mỗi khi có làn gió lạnh thổi qua...

    Vậy mà bỗng một ngày, lại như tuân thủ nhất loạt một khẩu lệnh của đấng toàn năng, sau vài đêm hỗi hả đục tường, trổ cửa, nới mái... phắt một cái, các căn hộ rùng rùng chuyển động ngỡ ngàng quay mặt ra với cuộc đời. Bao mảng tường rêu phong tựa hồ đã bị bỏ quên hàng ngàn năm in nhờ nhờ dấu chịn ngọt ngào của thân người bỗng phát khởi thành những khuôn sáng vuông tròn chan hòa đủ màu đỏ, vàng, xanh, của đủ loại kiốt thấp cao: mỹ phẩm, uốn sấy tóc, photocopi, giày dép da, điện lạnh, cà phê Berr, cà phê Noa, bún phở, xe máy, thuê và ghi hình video và sự sang trọng đến ngốt người của các đại diện giao dịch Mếch này, Tếch kia... Phố nhà binh ngày ngày bị phá vỡ cấu trúc từ bên trong để hóa thân thành một khu phố thương mại náo hoạt. Và người nhà binh cũng tự vặn mình phá vỡ mọi mặc cảm, định kiến, mảnh giáp trụ quân phục, vị thế cố hữu của phẩm hàm tướng tá, gia phong gia phả... để cố gắng hòa nhập vào dòng đời đang cuộn chảy bên ngoài, mong tìm được cuộc sống khả dĩ còn gọi được là... Cuộc sống.

    Tôi cũng có một anh bạn thân ngụ tại một căn hộ trong phố đó mà mỗi khi về Hà Nội, tôi không thể không ghé qua ăn nghỉ. Sau một ly rượu ngà ngà, nhìn Thẩm (tên người bạn) trẻ trung, cường tráng, lanh lợi và có đôi phần viên mãn, lại liếc nhìn căn hộ hai buồng không to tát nhưng xinh xắn, tiện nghi và ấm cúng, tôi bất giác buột miệng nói ra một câu mà đáng lẽ ở vào cái tuổi tôi chẳng nên nói:

    - Giả dụ như mình Thẩm ạ... Tất nhiên nói theo cảm nhận cá nhân thì... thì mình...

    - Thì dù có ăn rau ăn cháo, một thằng đàn ông chân chính không bao giờ được phép để vợ đi như thế chứ gì? - Thẩm nói tiếp hộ tôi với cái cười dễ dãi, rất tươi - Khỏi lo đi! Mỗi người một quan niệm, mỗi người một hoàn cảnh, một phận số, mình tin ở cô ấy. Mà... Hả? Dù có thế đi nữa thì đã làm sao nào? Miễn là khi cô ấy trở về, bọn mình sẽ sống ổn hơn, nhân quyền hơn, tương lai con bé Hương Thảo sẽ được đảm bảo. Đó là cái chính, chứ ông bảo lứa bọn mình còn làm được gì nữa, coi như bỏ đi rồi. Hả?

    Nó "hả" cái kiểu nện quả tạ vào mặt người ta như thế thì còn cách nào khác là lặng lẽ gật đầu. Rồi tôi cũng bỗng dưng bật cười vì cái suy nghĩ ngồ ngộ rằng không còn nhận ra thằng Thẩm ngày xưa nữa. Một thằng Thẩm to cao như lực sĩ, cười ha hả, giọng oang oác, vui chửi tục, buồn cũng chửi tục, mặt mày lúc nào cũng tươi tỉnh rỡ ràng như sắp sửa vào cơn hưng phấn. Còn giờ đây, bộ pi gia ma trưởng giả đã thay thế cho chiếc quần cụt thể thao nó thường mặc ở nhà, thoạt trông giống như cái thằng đàn ông mắc bệnh phong tình, bữa cơm đã có cốc nước đá lạnh để cạnh mâm, vừa ăn vừa chiêu dần dà, xem ra lời ăn tiếng nói, dáng đi dáng đứng đã mềm mại khoan thai lên nhiều lắm. Còn Hương, vợ Thẩm, vốn là con một vị tướng tư lệnh binh chủng, Căn hộ hai buồng dễ thương này là ông cho con gái rượu. Trước đây hai người cùng công tác trong một đơn vị công binh cầu đường, chỉ khác kẻ ở văn phòng, người nằm sâu dưới đơn vị. Yêu cái vẻ yêng hùng chiến trận, yêu tính cách đàn ông khoáng đạt bạo liệt của chàng kỹ sư tiểu đoàn trưởng vốn gốc gác con nhà làm ruộng, cô đã lạnh lẽo khước từ không ít chàng trai tốt người đẹp mẽ, học vị đến nơi, lại con nhà môn đăng hộ đối để chấp nhận tình yêu của Thẩm, tất nhiên sau khi đã quần cho cu cậu chỉ còn thiếu nước đập đầu vào tường.

    - Này - Tôi hỏi - Đằng nào thì cậu cũng đã trót khoét tường, trổ cửa rồi, cớ sao không cho thiên hạ thuê mở cửa hàng mỗi tháng kiếm vài trăm ngàn nuôi con?

    - Chả bõ. Thà đất đai rộng rãi như mấy ông tướng về hưu ở phố này, mỗi tháng ít nhất cũng trên dưới một triệu tiền cho thuê mặt bằng thì lại đi một nhẽ. Nói đùa! Chờ mẹ bé Hương Thảo về đã. Hình như cô ấy có ý định làm ăn lớn, cứ nhắn về là đừng ham lợi nhỏ, tập trung cho con bé có khoảng tĩnh tối thiểu để học hành, chớ để con sớm va đập vào chuyện buôn bán lời lãi, méo mó đầu óc đi. Mình ô kê ngay! Nàng còn dặn: ba tháng sẽ gửi về một va li, nửa năm gửi về một cái kích, cứ bán đi mà tiêu, đừng dành dụm.

    - Cậu hạnh phúc thật!

    - Thật lòng đấy chứ?

    - Hương vẫn như ngày nào, đảm đang, tốt bụng và rộng rãi.

    - Còn cậu - Đôi mắt khá đẹp của Thẩm ánh lên vẻ cảm động chấp chới - Cũng phải tìm đường làm một cú mã hồi về Hà Nội đi. Hơn bốn chục tuổi mà vẫn cứ thanh gươm yên ngựa mãi?

    - Stop - Tôi lấy lại cái giọng của Thẩm - Mỗi người một quan niệm, một lối sống. Dòng người còn trôi chảy dài dài, cứ thử xem từng số phận sẽ lênh đênh đến đâu. Dẹp! Kiếm rượu uống bậy cái đã.

    Thế đấy! Không gặp thì nhớ, gặp rồi lại thường cãi lộn những chuyện không đâu và bao giờ cũng được kết thúc bằng mấy chén rượu cay nồng ở cái quán chè khuya gần đầu đường như thế!

    Phố vắng, gió lạnh, ngọn đèn dầu cháy thắc thỏm, các cánh cửa chính, cửa sổ của mọi ngôi nhà đã lần lượt được khép kín, xa lắm mới có một tiếng rao bán bánh khúc nóng khàn khàn vẳng đến. Có lẽ chỉ về đêm, cái phố nhà binh đang biến tướng này mới yếu ớt phục hồi lại cái vẻ thâm trầm xưa cũ. Vẫn lại tiếng cành sấu rơi, tiếng đế giày quân cảnh, tiếng quét rác... Chỉ khác, cả chiều dài dãy phố không còn những cặp tình nhân đứng lả người trong tay nhau.

    Khoảnh khắc ấy, tầm mắt đã có chiều bảng lảng của tôi không hiểu sao lại vô cớ ngập ngừng dừng ở góc phố, nơi có một gia đình nhỏ đang loay hoay tìm chỗ ngủ đêm. Một luồng đèn pha xe máy từ đâu đó xa lắm quét tới, đủ cho tôi kịp nhận ra đó là một cặp có vẻ là vợ chồng, một cởi trần vận quần đùi hay vận khố gì đó, một bế đứa con đang ngủ tựa một cái xác trên tay. Vang lên tiếng nhai mía rôm rốp của người đàn ông và tiếng nựng à ơi vụng dại nhọc nhằn của người đàn bà...

    - Uống đi, để ý làm gì, cảnh đời thường ở đâu chẳng có.

    Mặc Thẩm huých nhẹ vào vai, mắt tôi vẫn dán vào đấy.

    - Đôi vợ chồng từ quê lên ăn xin à? Hay dân Phúc Xá chạy lụt?... Nhưng mùa này đâu có phải là mùa lũ?

    - Không biết!

    - Hay dân chạy chợ, dân lỡ độ đường? Có cả đứa bé nữa kia kìa!

    - Ơ hay cái cậu này! - Giọng Thẩm đã cao lên - Ra đây uống rượu hay điều tra xã hội học đấy?

    - ờ... Vừa có tốp quân cảnh đi qua, sao không thấy họ xua đuổi như mọi bận?

    - Đuổi cả tỉnh, cả nước - Thẩm gắt khẽ - Nếu xỉn rồi thì mời ông về ngủ, ông ạ!

    Có lẽ động lòng trước cái vẻ ngơ ngơ của một kẻ ở xa đến như tôi, chị hàng nước lúc này mới cất tiếng khẽ khàng.

    - Họ đã cư trú ở đây gần một năm rồi đấy chú ạ! Tội lắm! Mưa thì chạy vào núp trong hàng hiên toà báo, tạnh lại dắt díu nhau ra đây. Mùa hè còn đỡ, đông về, cha con vợ chồng ôm nhau thành một cục tránh gió. Cũng có đận họ bỏ đi đâu cả tháng, tưởng đi luôn cũng mừng, nhưng rồi lại thấy họ trở về xơ xác, tiều tụy hơn. Đứa bé này mới sinh được có sáu tháng. Con gái, còi cọc chỉ bằng đứa mới nở.

    - Sinh ngay trên hè phố ạ? - Tôi buột miệng.

    - Còn chỗ nào khác nữa!

    - Trời đất! �n ở vật vã thế này mà lại còn bày chuyện đẻ đái! Rồi đứa bé sẽ

    ra sao? Rồi họ lấy gì mà sống?

    - Vậy mà vẫn sống đấy - Chị hàng nước cười hiền từ - Sống quấn quít đáo để. Còn đứa nhỏ, dường như ông trời cũng thương, cấm có bệnh tật sài đẹn bao giờ.

    - Hết chưa? - Thẩm đột ngột đứng dậy.

    - Cái gì hết?

    Thẩm bật cười:

    - Là tôi hỏi cái cơn tò mò của cậu đã qua chưa?

    - Cậu về trước đi! - Đến lượt tôi gắt lại - Cứ mặc tôi ngồi đây một mình.

    - Tuỳ! Cấp thêm cho cậu một thông tin để có cớ mà tò mò: người đang ngồi chuyện trò với cậu là một giáo sư đại học vừa về nghỉ tạm không ăn lương.

    Nói xong, Thẩm quay người đi vào. Đến lúc này tôi mới chú mục nhìn chị bán quán. Khoảng bốn mươi nhăm tuổi, tóc uốn cao, cặp mắt hay nhìn lơ đãng lên vòm cây, miệng thi thoảng lại cố tạo ra một cái cười mỉm nhẫn nại.

    - Xin lỗi! Chị dạy ở trường nào ạ? - Tôi hỏi.

    - Thôi! Biết làm gì chú. Mỗi người một cảnh, chẳng nên nói ra, mà có nói cũng đâu có ai thông cảm, có khi còn gây bực mình. Đấy, cứ ngẫm như cái đôi vợ chồng khốn khổ kia kìa. ở đã mòn cả vỉa hè rồi nhưng tịnh chưa thấy một ai tỏ ý giúp đỡ, chưa thấy một ai hỏi han trò chuyện nửa câu. Thiên hạ coi đó như việc tất nhiên, dễ hiểu. Buồn không? Ôi dào! - Chị thoắt thở dài - Cũng một kiếp người, đêm ôm nhau ngủ còng queo như con sâu cái kiến, ngày chồng bế con èo ẽo cho vợ đi kiếm tiền.

    - Chị ta làm ở tổ sản xuất thủ công nào ạ?

    - Tổ thủ công... chợ. Ra chợ, ai thuê gì làm đó, không ai thuê, nói phải tội, đành phải chôm chỉa, con móc túi. Miễn là có tiền. Nói vô phép chú, thậm chí có lần ông nhà tôi còn bắt gặp cô ta đi bắt khách ngoài ga. Khổ! Người ngợm cóc cáy, thịt da tong teo như thế có ma nào nó màng. Nếu có thì lại là mấy gã du côn, say rượu chơi quỵt, vừa chơi vừa trấn, có đồng nào mất hết.

    - Anh chồng chấp nhận?

    - Sao chú lại hỏi thế? Trên thế gian này thử hỏi có người chồng nào lại chấp nhận cho vợ mình đi làm cái việc kia, nhưng đói thì đầu gối phải bò thôi. Song cũng sầu thảm lắm! Hầu như không đêm nào cậu ta không đánh vợ, có bận đánh thâm tím cả mặt mày, tôi phải đỡ vào nhà lấy rượu mật gấu xoa bóp cho. Vậy mà chị ta không hề hé răng chửi lại, cãi lại một câu, cứ như con nô lệ tận tụy, cung cúc. Tối tối vẫn mang về cho chồng nào rượu, nào thuốc, có bữa còn khệ nệ cả một xoong to thứ bốc mả toàn xương bò.

    - Vậy ra anh chồng lại chỉ lo làm nhiệm vụ trông con ạ?

    - Cũng tùy lúc. Những buổi chiều mưa, nhìn cậu ấy bế con, mắt nhìn ảm đạm ngọn sấu già, thương lắm! Lại còn thỉnh thoảng ru con nữa chứ. Tiếng ru như tiếng nấc khan. Vào những ngày đông gió hay cô vợ ốm mệt, không ra chợ được, cậu ta trao con lại, một bị một gậy đi trèo sấu. Trèo cả ngày, có bận ngã trẹo xương vai, may lắm mới kiếm đủ tiền mua một vài cân gạo.

    Nghe tới đó, tôi đứng dậy:

    - Chị cho tôi mua gói thuốc.

    - Thuốc gì?

    - �... Du lịch thôi. Thuốc ngon hơn không đủ tiền. Lính mà.

    - Đừng lo, chú cứ cầm gói Hê rô, tất cả đã có chú Thẩm thanh toán. Chú ấy là con người đàng hoàng, trọng nghĩa khinh tài, thỉnh thoảng vẫn sai con bé Thảo đem ra cho đôi vợ chồng kia lúc thì hộp sữa, khi lại gói thuốc, cân đường. Mà... gói này vẫn đang còn nhiều, chú mua làm gì nữa?

    - Muốn ra chuyện trò với họ một chút.

    - Thôi đi chú ơi! Cậu ta chả mở miệng đâu. Suốt ngày lầm lì, buồn thì nhai mía, vui thì ngơ ngẩn cười, mắt lúc nào cũng gườm gườm như sắp sửa đánh nhau với ai. Có lẽ cậu ấy mặc cảm?

    - Đã khi nào chị nghĩ rằng cậu ta là người đã từng có tiền án chưa?

    - Ôi giời, mấy cái ông này! Nhìn đâu cũng thấy tội phạm cả. Cậu ấy là bộ đội đấy, bộ đội đóng ở biên giới hết nghĩa vụ trở về. Nhà ở cách đây vài dãy phố thôi, nghe nói cũng khá giả và nền nếp. Vậy mà chả rõ phải lòng phải dạ, bắt tình bắt thóp nhau thế nào mà lúc trở về lại dẫn một cô gái giang hồ, gia đình làm nghề trồng mía về theo. Tức là cô gái này đấy. Tất nhiên là gia đình không chấp nhận, đuổi thẳng. Vậy là kéo nhau ra tá túc ở đây. Công an khu vực cũng đã có đôi phen làm dữ, tống xuất họ ra khỏi thành phố, đưa đi tập trung cải tạo ở tận đẩu tận đâu nhưng cũng chỉ ba bảy hai mốt ngày là đâu lại nguyên đấy. Rút cuộc công an họ cũng chán, thây kệ không phải chỉ có một gia đình này đâu. Ôi, thời buổi nó vậy. Chả nhẽ thiên hạ đua nhau đục tường trổ cửa, kiếm tiền ngàn tiền triệu như chơi mà lại nỡ khép những con người khốn khổ vào khuôn vào phép? Đằng kia có ánh sáng, đằng này cũng phải nhường cho người ta một khoảng bóng tối chứ. Tất cả còn đang bung bét, tất cả đang đòi hỏi phải sắp xếp lại kia mà.

    Tôi chán nản đứng dậy. Đành rằng câu chuyện chị kể là có thật, lại kể bằng một cái giọng hết sức xót xa nhưng sao tôi vẫn không muốn nó được nói ra từ chị, từ một người đàn bà đã giảng dạy qua cấp đại học. Lạ thế!

    - Chào anh!

    Tôi cố dọn một nụ cười thân thiện, một giọng nói bỗ bã có thể và chìa gói thuốc ra trước mặt người đàn ông đang gặm mía. Nhìn cái cách anh ta gặm mía mới khiếp chứ! Gần như ăn cả vỏ, ăn cả bằng răng hàm lẫn răng cửa, chỉ ba cái rốp rốp là bay gọn một đẫn dài, bã mía đùn dưới chân cả đống. Anh ta lầm lì rút một điếu thuốc giắt chéo lên vành tai. Im lặng... Vẫn chỉ là tiếng nổ rốp rốp trong cái miệng khá rộng.

    - Rét vậy mà ăn mía không cóng răng sao ông bạn? - Tôi ngồi hẳn xuống.

    Ông bạn không trả lời, chỉ gúc goắc cái đầu to tướng. Lại im lặng... Lại rốp rốp... ánh sáng đèn cao áp xanh lét vừa đủ để soi tỏ một khuôn mặt không ra già, không ra trẻ, xanh bợt, tóc gần chấm vai, cặp môi dày trễ ra, thâm xì như cái vẻ lúc nào cũng thèm ăn thèm uống. Tóm lại là một khuôn mặt hơi bệnh hoạn và gần như không có tư duy. Anh ta chỉ mặc độc một chiếc quần đùi rộng ống đã rách te tua ở gấu, để lộ đôi bắp chân dài thõng sần sượng nhưng có vẻ còn săn rắn, vắt trên vai là chiếc áo bộ đội nhàu nát đang bốc ra mùi chua lòm khen khét.

    Lui về sau một chút, chị vợ đang âm thầm ngồi ôm con sát chân tường. Nghe được cả tiếng muỗi vo ve bay ra từ đó. Cũng là khuôn mặt nửa già nửa trẻ, tiều tụy, không rõ hình nhưng đường nét gãy gọn, nhìn kỹ thấy cũng có duyên. Bất ngờ, chị ta nháy mắt với tôi và làm một động tác xin thuốc rất láu bằng hai ngón tay đen đúa, khô xác.

    - Cái gì?

    Bất thần anh chồng quát lên một tiếng quát hùng dũng, có lẫn cả đờm, có cả nước mía bắn ra. Như bị điện giật, hai ngón tay kia vội thụt lại, cùng lúc mái tóc xơ xước chắc tới hàng tháng nay không được chải gội gục xuống cam chịu như một tội nhân tử hình.

    - Này - Tôi vỗ vỗ vào xương vai hắn - Cô ấy muốn hút thuốc thì để cô ấy hút, cũng là một cách chống lạnh.

    Không thèm trả lời, hắn chuyển ánh mắt gườm gườm dài dại từ người vợ lên cành cây rồi lại... rốp rốp...

    Biết rằng có nán lại cũng vậy thôi, có khi còn làm cho cái gã quân chủ độc tài đầy quyền uy này nổi quạu, tôi lén để gói thuốc xuống mép chiếu rồi lẳng lặng đi trở về. Đuổi theo tôi là tiếng ru con nghèn nghẹn như nói mơ của người vợ, và trên cao, trong một căn hộ còn sáng đèn, có một nét nhạc gầm gào vọng xuống.

    Thẩm vẫn thức chờ tôi bên bản vẽ thiết kế.

    - Đã chưa? - Không ngẩng lên, nó hỏi.

    - Chưa.

    - Cậu vẫn như cũ, ngớ ngẩn và lành bụng. Hơi khó chịu một tí nhưng ít nhất tôi cũng còn có một thằng bạn ra bạn để chơi.

    - Cám ơn!

    - Cám ơn cái con khỉ. Rượu nữa không? Hay nước mát?

    - Cậu vẫn vẽ thuê đấy à?

    - Không! Vẽ công trình thứ thật. Lạy Phật! Từ ngày cô ấy đi đến giờ, mình đã thoát được cái kiếp gục đầu đi nhận vẽ cầu tiêu hố xí cho bọn trọc phú mới. Mặc sức đi sâu vào nghiên cứu, cũng thú. Hả?

    Tôi gật đầu ừ hữ và rón chân đi đến giường bé Hương Thảo. Nó đang nằm nghiêng, một bàn tay kê dưới má, tay kia buông xuôi theo người, thỉnh thoảng lại chun mũi một cái như vừa ngửi thấy mùi kẹo thơm trong mơ, đôi mi dài và cong tự nhiên của nó khẽ động đậy tưởng chừng sắp mở bừng đôi mắt to giống mẹ ra mà quàng cánh tay mũm mĩm ôm níu lấy cổ tôi: "A!... Chú Hà! Chú Hà bế Thảo... ". Trời đất! Thì ra cái sinh vật xinh xắn dễ thương này mới là lý do chính yếu và sâu xa để mỗi lần về Hà Nội không thể không ghé qua chứ chưa hẳn đã là tính tình của bố nó, vẻ dịu dàng đoan trang của mẹ nó cũng như sự tiện lợi, ấm cúng của căn hộ mặt tiền.

    - Cậu có thấy con bé khi ngủ, nó bỗng khoác một đôi cánh thiên thần như thế nào không? - Thẩm cũng khẽ đến bên tôi, giọng nói không giấu được một chút tự hào chìm đắm - nếu đẻ thì nên đẻ con gái đầu lòng cậu ạ! Vừa ngoan, vừa là bạn tâm sự của bố lúc chẳng may cơ nhỡ. Mà cuộc đời, cơ nhỡ nhiều chứ may mắn được mấy... Mình nhớ có khi tiễn cô ấy ra sân bay, cả hai mẹ con đều thi nhau khóc. Lúc máy bay cất cánh rồi, nó còn thất thanh hét với theo: "Mẹ Hương ơi!... Mẹ Hương đừng bỏ con nhé!". Mình cũng khóc.

    Tôi tin điều đó vì lúc này kể lại, cặp mắt của Thẩm cũng đang rơm rớm ướt thật. Bị lây cái cảm xúc muôn thuở ngậm ngùi của nỗi chia ly, tôi nói rì rầm như cầu nguyện:

    - Cầu mong cho cô ấy mau trở về. Cứ về cái đã rồi mọi chuyện tính sau. Trẻ con có thể sống xa bố nhưng xa mẹ, trông tội lắm! Cậu có để ý thấy ngấn nước còn đọng ở khóe mắt nó không?

    - Không... Làm gì có. Không có!

    Thẩm trả lời yếu ớt và vội vàng. Bỗng dưng tôi khẽ rùng mình khi chợt thấy một vệt xám nhờ bay rất nhanh trong đôi mắt vừa mới đây thôi còn trong trẻo, rờ rỡ yêu thương của Thẩm.

    Tôi bỏ vào phòng trong, buông màn đi nằm. Đêm ấy, trong giấc ngủ nặng nề, dường như bên tai tôi lúc nào cũng nghe văng vẳng tiếng ru còn ngàn ngạt của người mẹ trẻ trộn hòa vào tiếng muỗi ong ong dưới chân tường. Rồi cuộc sống của họ sẽ đi đến đâu? Bình ổn dần? Đi tập chung vĩnh viễn? Hay một ngày nào đó lại cùng rủ nhau vào nhà giam trong một tội danh hình sự giết người cướp của nào đó? Hoặc... Tôi bỗng ngồi phắt dậy, mồ hôi túa ra khắp lưng khi cái hình ảnh đứa bé chết cóng trên tay mẹ vụt nóng đỏ trong đầu.

    Sau đó phải bẵng đi đến hơn một năm, do công việc của quân khu quá bận rộn nên tôi không lựa được dịp nào rảnh rang để về thăm bé Thảo.

    Vào khoảng trung tuần tháng giêng, khi công việc đã vãn vãn, tôi nhận được thư của Thẩm. Vẫn cái giọng bỗ bã:

    "...Này bỏ ngay cái lối phản bạn phản bè ấy đi nhé! Hiện giờ cậu đang ở đâu, làm gì, đang phải lòng con nào, vẫn công việc cũ hay đã bỏ đi đào vàng, đào đá thì kệ cha cậu, tôi đếch biết! Nhưng cậu không được mất mặt như thế chứ. Sư cậu! Chỉ khổ cho đứa con gái bé bỏng của tôi nó cứ nhắc tới thằng bạc tình bạc nghĩa hoài. Lại còn ăn cắp thuốc lá của tôi nhét đầy gối cho hôi sặc lên, bảo là để dành cho cậu nữa!".

    Đọc đến đây, sống mũi tôi cay cay, nước mắt chực ứa ra... Những dòng tiếp theo, tôi chỉ lướt mắt gọi là...

    "... Tin vui đây: tháng sau mẹ Hương Thảo sẽ về! Có nên soạn một mâm tế sống ngài Hen-mút Côn không nhỉ? Nhờ ngài và sự chuyển động chính trị thần thánh trong tổ quốc ngài mà bà xã của tôi sẽ làm cú mã hồi với một lưng vốn kha khá. Hai mươi ngàn đê mác, gần mười tám ngàn đô la, tức là tương đương 150 triệu tiền mình, cậu nghe rõ chưa? Từ nay đến ngày về, cô ấy nói sẽ cố kiếm thêm vài nghìn đô nữa. Chịu đàn bà thật!

    Vì thế, chúng tôi muốn cậu, cha đỡ đầu của bé Hương Thảo sẽ có mặt trong ngày ấy. Phải có mặt! Tiền của tôi cũng như tiền của cậu, thằng bạn duy nhất còn sót lại của tiểu đoàn công binh đã cõng tôi vượt suốt mười cây số đường rừng. Chỉ bằng một phần mười số tiền trời cho đó, chúng tôi sẽ lấy vợ cho cậu, kiếm cho cậu một căn hộ và buộc cậu từ bỏ núi rừng ở lại phố luôn với chúng tôi. Được chưa?

    Bù lại, cậu chỉ cần làm độc một việc: thiết kế cho tôi một căn hộ ba tầng với đầy đủ tiện nghi ở ngay trên nền nhà cũ. Có ban công uống trà, sân thượng trồng hoa, có các cánh cửa sắt đóng mở tự động bằng điện tử, có ga ra xe máy, có máy lạnh, bồn tắm và có cả nơi nuôi vài con chó giống ngoại cho vui, có... Mà thôi, để cậu về, ta bàn kỹ. Tóm lại, hai tầng để ở, còn bảy chục mét vuông tầng trệt sẽ cho một công ty, một đại diện sang trọng, làm ăn đứng đắn nào đó thuê. Có thể là hãng JVC hoặc hãng VIETRONICS của Sài Gòn, theo ý của cô ấy. Tôi muốn chính tay cậu vẽ bởi vì trong đó có cả diện tích của... vợ chồng cậu.

    Tin thêm: Tôi vừa nhận hàm thượng tá. Thượng tá! Khỉ không? Đáng lẽ phải đại tá luôn cho rảnh một chuyện. Đang thượng chuyển sang đại bây giờ đang đại lại hất xuống thượng. Không hiểu các cụ nhà ta còn ngẫu hứng điều lệnh đến tận bao giờ? Cũng chẳng sao. Tôi dự định nếu cô ấy về, vui thì a lê hấp! Tôi sẽ xin về hưu, giã từ binh nghiệp. Giã từ cơ chế bụi bặm luôn. Phần đời còn lại lo đọc sách, thăm thú bạn bè, trồng tỉa mấy cây hoa và cái chính là chăm bẵm cho bé Hương Thảo nên người.

    ... Đừng nôn! Chắc thằng bạn lẩn thẩn của tôi lại đang cáu kỉnh muốn biết về thân phận cảnh đời? Thí dụ: Phố Nhà Binh (tên gọi của cậu) đã sắp sửa thành một thứ Hàng Ngang, Hàng Đào. Gia đình ông tướng Điều Lệnh vẫn bán cà phê, ông tướng Bảo Vệ vẫn cho thuê hàng điện lạnh, ông tướng Cán Bộ đợt này nới rộng cho thuê cả hai mặt tiền - nói chung, khi đã làm ông tướng thì đời nào cũng sướng - Và, gia đình đôi vợ chồng kẻ khó ấy (đúng tủ chưa?) vẫn kiên trì bám trụ ở đầu đường. Hình như cô vợ lại đang có chửa đứa thứ hai, sức sống của nhân dân bất diệt thật!

    Điều chót cùng: sự phá vỡ kiến trúc của một dãy phố là phản ánh cái trở dạ đau đớn của lề thói suy nghĩ cũ, đồng thời sẽ dẫn đến phá vỡ sự ổn định cổ kính trong từng gia đình, từng số phận, có thể tốt lên nhưng cũng có thể xấu đi. Ví dụ như gia đình tớ...".

    Rút cuộc cô ấy đã trở về. Dù sao cũng đã trở về. Chỉ cần như vậy thôi. Tôi thở phào, trút được cái day dứt nặng nề đã mai phục kín trong lòng bấy lâu nay.

    ***

    Ấy vậy mà tôi vẫn về chậm mất gần một năm so với cái thời điểm hệ trọng đó. Một công trình xây dựng liên doanh với Bạn đã giữ chân tôi suốt một mùa mưa bên kia biên giới Việt - Lào.

    Trở lại Quân khu, tôi tính nhảy ô-tô về Hà Nội luôn nhưng hỏi cậu văn thư không có lá thư nào gửi cho mình, lại ngần ngừ. Nó giận ư? Hay Hương chưa về? Không về? Hoặc... Đã nghĩ thì nghĩ cho đủ hướng theo đúng tác phong tác chiến người lính, hoặc nó đã nghĩ lại về cái gọi là một phần mười tính sẵn cho tôi? Không có lý. Nó không phải là người như thế và tôi cũng chẳng phải là cái thằng dễ chấp nhận mọi sự cưu mang của người đời. Khổ! Khi còn nghèo, bạn bè đến chơi với nhau dễ dàng biết bao, bây giờ khá giả rồi, mỗi sự đến là nỗi đắn đo hèn cả người. Song tôi vẫn quyết định đi, bởi lẽ có một sinh vật đứng trên mọi đắn đo tầm thường đó. ấy là bé Thảo, hơn hai năm không gặp nó rồi.

    Đến Hà Nội, trời vừa sập tối. Tôi bước về phía nhà Thẩm mà chân tay líu ríu như bước về chính ngôi nhà của mình, bụng dạ cứ cồn lên không hiểu giờ đây ngôi nhà nó ra sao?

    Muốn đến Thẩm, tôi buộc phải đi qua các gia đình của kẻ ăn mía đêm độ nào ở góc phố. Đúng là phố Nhà Binh năm nay đã ra cái dáng vàng son choáng ngợp của một vị thế thương trường buôn bán lắm! Mải nhìn ngó, tôi đập mắt vào góc phố lúc nào không hay. Và hơi dừng lại. Góc phố trước trống trơn nay đã mọc lên vài ba hàng quán, đèn điện sáng trưng. Nơi có chiếc chiếu rách trải ra năm nọ lúc này là một điểm chữa xe máy bình dân với đầy đủ các loại đồ nghề vá chín, cờ lê, mỏ lết... nằm xếp lớp trong thùng gỗ. Gần đấy, có chừng hai, ba chiếc cúp xanh đỏ đang chờ đến lượt mình được sửa chữa. Quái lạ hơn, quái lạ đến nỗi tôi khó có thể tin vào mắt mình được nữa; tay thợ xem ra có vẻ đầy uy tín nghề nghiệp đó lại chính là... gã đàn ông hay ăn mía đêm ngày nào! Thùng thình trong bộ quần áo bò Liên Xô lem luốc mỡ dầu, một hàng râu quai nón chạy lộn xộn xuống tận cằm, anh ta rõ ràng ra phong thái một tay thợ lành nghề đang hết sức càu cạu vì cớ sao cho đến tận giờ này vẫn còn khách đến quấy rầy! Quả thật nếu không nhờ vào cặp môi dày phồn thực vẫn đang trễ xuống kia và cái lối nhìn gườm gườm đầy tính quân chủ độc tài ấy thì có lẽ tôi đã không tài nào nhận ra anh.

    Lia mắt sang phòng nhỏ tuềnh toàng như chiếc lô cốt còn nguyên màu vôi ve nham nhở quét ẩu bên cạnh, tôi lại vấp tiếp phải một điều quái lạ nữa: người đàn bà cóc cáy làm nghề chôm chỉa giờ đây đang ngồi trước bàn bán tiết canh cháo lòng, gọn gàng, tươi tắn và không ngơi tay múc cháo cho khách. Tất nhiên, cái để tôi nhận ra vẫn là đôi mắt lá răm liếc xéo xéo qua mặt mọi người và điếu thuốc lá loại rẻ tiền ướt nhoèn đang gắn trên môi.

    Chưa hết! Bên trong, trên một chiếc giường ọp ẹp, giữa vùng ánh sáng đỏ quạch, có hai đứa nhỏ, con chị nựng con em đang cười rinh rích. Cha trời! Chả lẽ đây là hai sinh mạng đã được ra đời trên cùng một vỉa hè võng vãnh muỗi bay?

    Bất giác tôi quay người đi nhanh sang bên kia đường. Chán quá! Thì ra người ta không chỉ chạy trốn những ấn tượng nặng nề mà còn có xu hướng trốn chạy cả những cú sốc ngọt ngào mà trái tim chai sạn ít khi được nếm trải.

    Quán nước quen thuộc có ngọn đèn dầu thắc thỏm dường như đang chờ tôi trong vẻ buồn tênh cố hữu của nó. Người đàn bà giáo viên không còn ngồi ở đó với nụ cười cố tạo ra nữa. Chị đã được người ta mời đi dạy trở lại. Thay chị bây giờ là ông chồng, vốn là đạo diễn phim tài liệu vừa nghỉ hưu hoặc do công việc làm nhiều người khôn của khó mà xin về nghỉ sớm (?). Chính nhà đạo diễn đã có một thời tên tuổi này kể cho tôi nghe đoạn đời kế tiếp của gia đình gã đàn ông hay gặm mía kia. Từ nơi đóng quân cạnh vườn mía. Anh ta quyết định thuê dài ngày một chiếc xe đạp Vĩnh Cửu ngày ngày thồ mía từ Đan Phượng đi buôn bán ở các huyện. Sau mấy tháng kèo kẽo, người gầy rộc đi đến năm cân, anh ta đã có một khoản tiền để đầu tư vào lò đường của chính ông bố vợ trên mạn ngược. Lỗ cùng chịu, lãi chia đôi, lại trúng. Một năm sau, anh ta rút chân ra khỏi nghề đường, tạm biệt vợ con, nhảy tàu vào Đà Nẵng tìm gặp một người bạn cùng đơn vị cũ, học nghề sửa chữa xe máy. Hai tháng sau trở về, anh ta bỏ tiền thuê dài hạn cái nhà kho bỏ đi này, sang sửa một chút ít và quyết định sống suốt đời ở đây, nơi góc phố có nhiều kỷ niệm...

    Câu chuyện giống như một dòng sông mùa hạ mát mẻ mà tôi vừa được trầm mình xuống. Tôi không muốn hỏi thêm về Thẩm bởi lẽ tôi muốn dành cho chính tôi một sự bất ngờ mới mẻ tiếp theo. Vậy là dòng đời đang xuôi chảy thuận chiều. Gia đình kẻ khó đã có bát ăn bát để, bà giáo thạo việc đã trở lại bục giảng và Thẩm, chắc chắn đang tồn tại ở một cấp độ khác hơn.

    Tôi bước đến ngôi nhà ba tầng của nó... Chao ôi, màu sắc, đường nét, sự bề thế mới gợi lên dáng dấp một cái vila sang trọng làm sao! Chợt thấy buồn... Rốt cuộc, nó vẫn có được tất cả mà khỏi cần đến tôi. Thôi được, miễn là nó đã có. Thế là mừng.

    Phía bên cánh cửa xếp bằng sắt sơn nhũ bạc là tấm bảng đề: đại diện hãng X thành phố Hồ Chí Minh. Chà! Gớm thay cho vợ chồng nhà này, nghĩ gì làm đó, ghê thật! Tôi bấm chuông... Cùng với tiếng chó hộc lên ồm ồm, một khuôn mặt thiếu niên chất phác ló ra trên khoen tròn cánh cửa nặng nề đang đóng kín.

    - Bác tìm ai ạ? - Cậu thiếu niên hỏi, tiếng nói vẫn còn ngầy ngậy chất quê.

    - Mình là Hà, bạn thân của ông chủ nhà đây.

    - A... Bác là bác Hà! Cô chú cháu nhắc đến bác luôn. Bác tránh ra tí để cháu mở cửa... Thế!

    Sao lại phải tránh? Tôi lùi lại và nghe tức khắc tấm cửa đồ sộ được dồn xếp sang hai bên ngọt xớt. Khá, hóa ra cửa tự động thật! Tôi thầm kêu lên và không thể không né người đi tránh qua mõm con béc-giê lông xám to tướng đang nằm phục ở góc nhà, bên cạnh những đống vỏ đồ hộp JVC rỗng không. Khá! Tôi lại thầm kêu lần nữa.

    - Chú cháu có nhà không? - Tôi hỏi khẽ.

    - Có ạ!... - Nó trả lời ngập ngừng - Để... Để cháu lên báo.

    - Vẽ! Tao là chiến hữu ruột, báo biếc gì.

    - Dạ, nhưng...

    Vừa lúc đó, từ trên tầng gác sáng xanh ánh đèn nê-ông bay xuống một tiếng trẻ khóc ré, liền đó là một cái bát hay cái cốc đập choang vào tường. Rồi một tiếng rít nhừa nhựa:

    - Mày có câm đi không, cái con tội nợ kia! Không ăn thì cút xéo đi chứ không phải bữa nào cũng chống đũa, nước mắt ngắn nước mắt dài như thế.

    Tiếng khóc được kìm nén khổ sở, chuyển sang tức tưởi. Tiếng khóc của bé Hương Thảo! Bỗng dưng thấy xót ruột, tôi bước nhanh lên cầu thang... Trời ơi, cái gì thế kia? Trước mặt tôi, qua cánh cửa khép hờ là một người đàn ông râu ria xa lạ, tóc dài bờm xờm, áo quần nhàu nát ngồi bên mâm cơm lỏng chỏng mấy cái bát, cái đĩa lạnh ngắt, bên cạnh có chai rượu trắng đã cạn gần sát đáy. Bằng đôi mắt đỏ quạch và u tối, ông ta gằn gằn nhìn vào góc tường, nơi bé Hương Thảo tội nghiệp của tôi đang đứng khoanh tay, mặt úp vào cánh cửa sổ đóng kín, đôi vai thon nhỏ cứ từng chập từng chập rung lên... Tôi vẫn đứng chết sững. Sao lại thế này? Thằng Thẩm đâu? Mẹ Hương nữa đâu? Gã đàn ông phàm phu điên dại kia là ai?

    Chả lẽ lại là bố dượng ư?

    - Mày còn thương lắm à? Hừ? - Tiếng quát tiếp tục bật ra từ bộ râu lùng nhùng nửa trắng nửa đen.

    - Cút! Cút đi theo con đĩ mẹ mày! Cút! Giời ạ! Sao tôi khổ nhục thế này?

    Lão ta lúc lắc cái đầu to tướng, mặt nhăn quắt lại ghê sợ và, thật bất ngờ, từ hai hốc mắt sâu hoắm của lão, anh ánh hai giọt nước mắt rịn ra... Tôi bỗng rủn người! Thằng Thẩm!... Chính thằng Thẩm chứ không phải ai khác. Ngày xưa, trước nấm mồ đồng đội, mặt nó cũng nhăn quắt lại tột cùng đớn đau và nước mắt cũng chỉ âm thầm rịn ra như thế này.

    - Mẹ ơi!...

    Tiếng con chim non bật lên ai oán gọi mẹ đây đó đã đẩy tôi lùi nhanh trở lại. Tôi không đủ can đảm đứng đó lâu hơn nữa và cũng không đủ tỉnh táo để bước vào với cha con Thẩm lúc này.

    Cậu thiếu niên chất phác ngửa mặt đón tôi ở chân cầu thang, đôi mắt mở to đầy vẻ dáo dác:

    - ồ bác... Bác sao lại xuống ạ?

    Tôi kéo nó ra một góc sát cửa.

    - Này! Nói đi! Cái gì đã xảy ra ở đây thế?

    Da mặt cậu bé thoắt tái nhợt, khẽ rùng mình một cái rồi nhìn lảng đi, nước mắt rơm rớm:

    - Đã một tháng nay rồi, tối nào chú cháu cũng như thế này! Khổ lắm! Trước kia...

    Giọng cậu bé vừa sợ hãi vừa rề rà đến sốt ruột. Tôi cắt ngang:

    - Trước kia làm sao? Cháu là thế nào với chú Thẩm?

    - Chú Thẩm là em ruột bố cháu, ở mãi tận dưới quê kia, khi cô cháu về, bố cháu cho cháu lên đây phụ giúp công việc với chú. Lúc ấy cô chú cháu vui vẻ lắm, lúc nào cũng nói cười như nhà có hội, thỉnh thoảng lại cho bé Thảo lên xe máy đi chơi, có bận đi đúng hai, ba ngày mới về. Khi cái chú gì tre trẻ, nói tiếng Nam Bộ, nghe nói là giám đốc hãng điện tử cùng với ba người nữa đến thuê nhà làm cửa hàng, lại càng vui, không ngờ...

    - Không ngờ cái gì? - Tôi gắt khẽ - Nói nhanh đi!

    - Có một lần cô cháu bảo đi thăm bạn gái cùng ở bên kia hai ba ngày nhưng đến ngày thứ tư cũng không thấy về. Ngày thứ năm thì chú cháu có giấy khẩn gọi ra Sầm Sơn nhận thân nhân bị nạn... Lúc trở về, chú cháu bỗng trở nên như thế này.

    - Biết rồi, nhưng ai bị nạn? Bị nạn thế nào?

    Cậu bé cúi gằm đầu xuống, nói lí nhí:

    - Chết đuối... Chết đuối cả hai! Chỉ tại không biết bơi mà lại đưa phao ra xa nên bị sóng đánh tuột tay... Mãi ba ngày sau xác mới nổi, vẫn đang còn dính cứng vào nhau, bụng nghe bảo trương to lắm...

    - Ai dính cứng? - Tôi gần như nắm lấy ngực áo cậu bé - Dính cứng cái gì?

    - Dạ!... - Mắt cậu ta nhớn nhác nhìn lên gác - Dạ, dính vào chú giám đốc thuê nhà ở tầng dưới ạ!... Khi cái phao không giạt vào bờ, mấy ông đánh cá đêm còn bảo... Nói bác bỏ lỗi, vẫn còn giắt lại hai cái đồ lót đàn ông và đàn bà...

    - Thôi... Im đi!

    Tôi gần như nhao ra mặt đường, đầu óc choáng váng không hiểu mình đang ở đâu, mình vừa nghe thấy gì nữa. Phố Nhà Binh lúc ấy vẫn đang chan hòa ánh sáng và ngan ngát hương thơm mỹ phẩm.

    Sầm Sơn, 25-8-1991
     
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này