Anh thấy chú rất là tổ lái, đang chủ đề này toàn hỏi những cái vu vơ lạc đề. Còn câu hỏi đó thì chịu, chưa nghe bao giờ BK (không phải là Bách Khoa đó chứ ) Hỏi thử @Que83 xem sao?
Chu Du nói thác ra là đi lấy Tây Xuyên và mượn đường qua Kinh Châu, nhưng chẳng thể che mắt được ai. Vì Tây Xuyên là một xứ cực kỳ hiểm trở và xa xôi, muốn lấy được cần một chiến lược và sự chuẩn bị rất chu đáo mà một đoàn quân lèo tèo (vài vạn), chuẩn bị không kỹ của Chu Du không thể lấy được. Mặt khác, Tào Tháo mới thua trận Xích Bích và thế lực vẫn đang rất mạnh nên nếu Chu Du xuất quân đi đánh Xuyên thì nước Ngô mất ngay và Chu Du cũng không còn lối về nếu đánh Xuyên thất bại. Đại khái nếu Chu Du nói đi đánh xứ khác dễ hơn thì người ta còn tin được 1, 2 phần (trong 10 phần), chứ đánh Xuyên thì không ai có thể tin nổi. Bonus bài Thục đạo nan của Lý Bạch để thấy được xứ Tây Xuyên như thế nào. Thục đạo nan Thịnh Đường » Lý Bạch Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link 蜀道難 噫吁戲! 危乎高哉! 蜀道之難難於上青天! 蠶叢及魚鳧, 開國何茫然。 爾來四萬八千歲, 不與秦塞通人煙。 西當太白有鳥道, 可以橫絕峨眉巔。 地崩山摧壯士死, 然後天梯石棧方鉤連。 上有六龍回日之高標, 下有衝波逆折之回川。 黃鶴之飛尚不得過, 猿猱欲度愁攀援。 青泥何盤盤, 百步九折縈巖巒。 捫參歷井仰脅息, 以手撫膺坐長歎。 問君西遊何時還? 畏途巉巖不可攀。 但見悲鳥號古木, 雄飛雌從繞林間。 又聞子規啼夜月, 愁空山, 蜀道之難難於上青天, 使人聽此凋朱顏。 連峯去天不盈尺, 枯松倒掛倚絕壁。 飛湍瀑流爭喧豗, 砅厓轉石萬壑雷。 其險也如此, 嗟爾遠道之人, 胡為乎來哉! 劍閣崢嶸而崔嵬, 一夫當關, 萬夫莫開。 所守或匪親, 化為狼與豺。 朝避猛虎, 夕避長蛇。 磨牙吮血, 殺人如麻。 錦城雖云樂, 不如早還家。 蜀道之難難於上青天, 側身西望長咨嗟。 Thục đạo nan Y hu hy Nguy hồ cao tai Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên Tàm Tùng cập Ngư Phù Khai quốc hà mang nhiên Nhĩ lai tứ vạn bát thiên tuế Bất dữ Tần tái thông nhân yên Tây đương Thái Bạch hữu điểu đạo Khả dĩ hoành tuyệt Nga My điên Địa băng sơn tồi tráng sĩ tử Nhiên hậu thiên thê thạch sạn phương câu liên Thượng hữu lục long hồi nhật chi cao tiêu Hạ hữu xung ba nghịch chiết chi hồi xuyên Hoàng hạc chi phi thượng bất đắc quá Viên nhứu dục độ sầu phan viên Thanh Nê hà bàn bàn Bách bộ cửu chiết oanh nham loan Môn Sâm lịch Tỉnh ngưỡng hiếp tức Dĩ thủ phủ ưng toạ trường than Vấn quân tây du hà thời hoàn Úy đồ sàm nham bất khả phan Đản kiến bi điểu hào cổ mộc Hùng phi tòng thư nhiễu lâm gian Hữu văn tử quy đề dạ nguyệt Sầu Không san Thục đạo chi nan nan ư thướng thanh thiên Sử nhân thính thử điêu chu nhan Liên phong khứ thiên bất doanh xích Khô tùng đảo quái ỷ tuyệt bích Phi suyền bộc lưu tranh huyên hôi Phanh nhai chuyển thạch vạn hác lôi Kỳ hiểm dã nhược thử Ta nhĩ viễn đạo chi nhân Hồ vi hồ lai tai Kiếm Các tranh vanh nhi thôi ngôi Nhất phu đang quan Vạn phu mạc khai Sở thủ hoặc phi thân Hoá vi lang dữ sài Triều tị mãnh hổ Tịch tị trường xà Ma nha doãn huyết Sát nhân như ma Cẩm thành tuy vân lạc Bất như tảo hoàn gia Thục đạo chi nan nan ư hướng thanh thiên Trắc thân tây vọng trường tư ta Dịch nghĩa Ôi, nguy hiểm thay, cao thay! Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh. Các vua Tàm Tùng và Ngư Phù ở chốn xa xôi biết bao! Từ đó đến nay, đã bốn vạn tám nghìn năm, mới thông suốt với chỗ có khói người ở ải Tần. Phía tây là núi Thái Bạch có đường chim bay, có thể vắt ngang đến tận đỉnh núi Nga Mi. Đất lở, núi sập, tráng sĩ chết, rồi mới có thang trời, đường đá móc nối liền nhau. Phía trên có ngọn cao sáu rồng lượn quanh mặt trời. Phía dưới có dòng sông uốn khúc sóng xô rẽ ngược. Hạc vàng còn không bay qua được; vượn khỉ muốn vượt qua, cũng buồn khi vin tới, leo trèo. Rặng núi Thanh Nê khuất khúc biết bao! Cứ trăm bước lại có chín khúc quặt vòng quanh núi non hiểm trở. Đứng trên cao, tưởng chứng như mó được sao Sâm, lướt qua sao Tỉnh ngẩng trông nín thở, đưa tay vỗ bụng, ngồi than thở hoài. Hỏi bạn đi chơi phía Tây, bao giờ trở lại ? Đường đi cheo leo, nguy hiểm, không với tới được. Chỉ nghe thấy tiếng chim kêu đau thương trong hàng cây cổ thụ, con trống bay theo con mái, lượn quanh trong rừng. Lại nghe thấy tiếng chim tứ quí kêu dưới bóng trăng đêm, buồn trong núi vắng. Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh. Khiến người ta nghe nói đến cảnh đó, phải héo hắt vẻ mặt trẻ trung. Các ngọn núi liền nhau, cách trời không đầy một thước. Cây thông khô vắt vẻo tựa vào vách đá cao ngất. Nước bay, thác chảy đua tiếng ào ào. Đập vào sườn núi, rung động đá, muôn khe suối vang ầm như sấm. Đường Thục hiểm trở là như thế! Thương thay cho các bạn, những người đi đường xa, tại sao đến nơi đây ? Miền Kiếm Các cheo leo, chót vót! Chỉ một người canh giữ ải, đến muôn người cũng không mở nổi. Những kẻ giữ ải có thể không phải là người thân, lại biến đổi thành ra loài sài lang. Còn những người đi đường thì ban sáng phải lánh cọp dữ, buổi tối phải tránh rắn dài; bọn chúng mài nanh, hút máu, giết hại người nhiều như cây gai. Thành Cẩm Quan tuy rằng có vui, nhưng sao bằng sớm trở về nhà. Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh. Nghiêng mình trông sang phía tây, than thở hoài. (Năm 732) Thục: tên nước cũ thời Xuân Thu, nay là tỉnh Tứ Xuyên. (nguồn để cop paste: Thi Viện)
Câu trả lời của bạn chưa đúng rồi. Câu trả lời không dễ nhưng cũng không khó, hihi. Mấy ngày cuối tháng âm lịch mình thường bận, hẹn sang đầu tháng tám tiếp.
Vậy chỉ còn một lý do là quân Chu Du đến Kinh Châu là thủy quân, Chu Du chỉ giỏi thủy chiến, Xuyên thì trên núi cao chót vót, thủy quân làm sao mà ngược dòng được? Nên thấy ngay sự vô lý. Chuyện muôn vàn khó khăn khác (theo đường bộ) như tôi bàn trên kia tạm chưa xét đến vội.
Vẫn chưa bạn nào lý giải đúng vụ Du xài chiêu Mượn đường diệt Quắc thại bại vì sao (loại trừ lý do Lượng bắt bài được Du nhé). Để xài được kế đó phải thỏa mãn một điều kiện kiên quýêt đó là... Không biết Du giận quá hóa dốt hay chưa học hết ý nghĩa chiêu đó nên mang ra xài để rồi anh hùng ngậm ngùi.
Đang đọc bộ TQDN do Tử Vi Lang dịch mới upload trên tve-4u cách đây không lâu, thấy bài Hậu xuất sư biểu có sự khác biệt giữa hai bản dịch của Tử Vi Lang và Phan Kế Bính, không biết thế nào mới chuẩn nhỉ? Bản Phan Kế Bính: "dùng Lý Phục mà Lý Phục nên công, dùng Hạ Hầu mà Hạ Hầu bại trận" Bản Tử Vi Lang "dùng Lý Phục mà Lý Phục lại ăn ở hai lòng ..." Ý nghĩa nói về Lý Phục khác hẳn nhau. Mà rốt cuộc Lý Phục là ai các bác nhỉ Lại còn năm lần đánh Xương Bá không được, bốn lần vượt Sào Hồ không thành là vụ gì thế
Đọc lại Tam quốc mới thấy lòi ra anh Tiêu Chu, sống từ thời Lưu Chương tới thời Lưu Thiện, thọ chẳng kém gì bác Liêu Hóa