Truyện dài Bên Kia Giấc Mơ - Nhóm 4.0

Thảo luận trong 'Tự Sáng tác' bắt đầu bởi Nhom4.0, 3/2/20.

Moderators: nhanjkl
  1. Nhom4.0

    Nhom4.0 Lớp 3

    Khi cả hai trở về căn nhà gỗ thì trời đã xâm xẩm tối. Thấy vậy, June giơ cọ vẽ phác thảo vài đường nét. Những cột đèn lần lượt mọc lên ở hai bên đường, tỏa thứ ánh sáng vàng dịu, ấm áp. Không khí dễ chịu hơn khi đêm buông xuống vùng đất. Gavin nói với June, cảnh tượng này làm cậu nhớ tới những ngày tháng Chín ở thị trấn Shadowfield – nơi cả hai đã lớn lên.

    Thời điểm đó, người dân trong vùng nông trại ngoại ô sẽ bắt đầu thu hoạch táo. Sau khi sơ chế, chúng được phân phối tới các khu chợ đầu mối, siêu thị, cửa hàng nhỏ hay những xí nghiệp sản xuất rượu và nước ép trái cây. Vì bố Gavin làm quản lý nhân công cho một xí nghiệp sản xuất rượu táo đặc trưng của vùng nên cậu biết rất rõ. Để tự thưởng cho thành quả lao động của mình sau mùa vụ vất vả, họ thường tụ tập ở những điểm vui chơi hiếm hoi của thị trấn như quán cà phê, quán bar nhỏ, cửa hàng ăn... cùng nhau thưởng thức thứ rượu hoa quả trứ danh của vùng viễn Tây hoang dã, ăn món truyền thống và nhảy múa bên giai điệu vui tươi, phóng khoáng. Người lớn thích những hoạt động kiểu đó, còn đám trẻ nhỏ thường mơ tới những thành phố náo nhiệt và hoa lệ hơn. Ngay bản thân Gavin, nếu còn sống thì thể nào cậu cũng nộp đơn vào một trường đại học ở Los Angeles hay Columbus.

    Hai đứa bước lên bậc tam cấp dẫn vào nhà. Màn đêm yên tĩnh xóa bỏ phiền muộn trong lòng. June cảm thấy thoải mái, nhưng nó biết có điều gì đó vẫn còn vướng bận và chưa được giải tỏa ở Gavin. Nó nhìn thấy trong ánh mắt của cậu ấy.

    “Chuyện ban nãy vẫn ám ảnh cậu à, Gavin?” - June quay sang hỏi Gavin. Tiện tay, nó đẩy cánh cửa bước vào nhà. Không gian vẫn tối đen như hũ nút.

    “Không! Chỉ là…” - Gavin bối rối trả lời. - “Mình cảm thấy hơi căng thẳng chút thôi.”

    “Mình sẽ giúp cậu!” - June đáp.

    “Bằng cách nào?” - Gavin hỏi lại, không giấu khỏi ngạc nhiên.

    “Bí mật. Cậu hãy chờ xem!” - June nói, tỏ vẻ bí hiểm.

    Nó cười. Bằng động tác gần như thuần thục, nó giơ cọ vẽ lần nữa, thắp sáng căn phòng bằng những bóng đèn tròn lơ lửng, tỏa ánh sáng xanh lơ trông rất bắt mắt.

    June lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh Gavin trên chiếc ghế bành êm ái đặt giữa nhà. Phía bên dưới chân họ là một tấm thảm dày đặc biệt với họa tiết hình lá phong đỏ đơn giản. Nó nhớ trong căn nhà mới của Jess ở Dallas, mẹ đã từng sử dụng loại thảm này.

    “Cậu có muốn nghe gì đó không Gavin?” - June lên tiếng đề nghị.

    June muốn khuấy động không gian yên tĩnh, nhằm xua tan những dư âm xấu còn sót lại. Một phần như để khẳng định thêm lần nữa rằng, bản thân nó hoàn toàn điều khiển được thế giới này.

    “Đồng ý.” - Gavin cười nói, trong khi hai tay cậu vẫn khư khư ôm lấy chiếc ba lô của mình, như thể sợ ai sẽ lấy mất.

    “Thư giãn đi, Gavin!” - June cười, hơi ngả lưng về chiếc ghế bành êm ái, vẻ thư giãn.

    Rồi June nhắm mắt. Nó đang cố gắng tưởng tượng ra một chiếc máy nghe nhạc mp3 có loa ngoài đời đầu mà bố đã tặng nó vào sinh nhật mười một tuổi. “Cái máy ấy nếu còn giữ lại thì giờ cũng được xếp hạng ‘đồ cổ’ trên eBay rồi ấy chứ!”, June thầm nghĩ. Trên máy, bố Jared đã lưu sẵn một vài ca khúc nhạc country thịnh hành nhiều thập niên trước đây, của Johnny Cash, Dolly Parton hay Hank Williams. Bố bảo nó, đó thực sự là những kỷ niệm đẹp giữa ông và mẹ Jess. Họ đã nghe đi nghe lại những ca sĩ đó nhiều lần. Bố Jared chỉ nói vậy mà không kể thêm bất cứ điều gì nữa, cho tới giờ, June đôi khi vẫn không khỏi tò mò.

    June mở mắt, vài tia sáng xuất hiện trên lòng bàn tay nhỏ nhắn của nó. Chúng bắt đầu chuyển động, xoay tròn như nhảy múa. Rồi sau đó, biến thành chiếc máy mp3 quen thuộc một thời. Gavin tỏ ra vô cùng thích thú trước cảnh tượng ấy, còn June đắc chí thực sự. Nó tự hào với thành quả của chính mình.

    “Cậu thích nghe gì nào, Gavin? Mình sẽ là DJ của buổi tối hôm nay!” - June tuyên bố.

    Storyteller của Carrie Underwood chẳng hạn.” - Gavin gợi ý, cái tên ấy hiện lên đầu tiên trong đầu cậu.

    “Album gần đây của Carrie Underwood.” - June gật gù.

    “Mình nhớ album đó được phát đi phát lại trên radio hay trong siêu thị hàng chục lần mỗi ngày vào thời điểm phát hành.” - Gavin nói.

    June cười và không nói gì thêm. Trên màn hình chiếc máy nghe nhạc đã hiện hình ảnh nữ ca sĩ Carrie Underwood xinh đẹp. Dòng chữ cách điệu chạy ngang ghi“Storyteller.”

    June nhấn nút khởi động. Những giai điệu du dương của bài hát mở đầu Clock Don't Stop vang lên, chẳng mấy chốc chiếm trọn căn nhà gỗ. Nó thả lỏng người thư giãn, mắt nhắm lại như để cảm nhận bài hát. Một giai điệu rất đỗi thân thuộc! Bỗng chốc, June thấy mình như đang trôi trên dòng sông ánh sáng. Mọi thứ xung quanh thật sự dễ chịu biết mấy, nó thầm nghĩ.

    *

    Khi ấy, nó không còn ở trong căn phòng cùng với Gavin nữa, mà đang đi trên đường. Chính xác hơn là trên chiếc Fiat yêu thích của mẹ - chiếc xe đã gắn bó từ khi bà còn là sinh viên năm ba của trường nghệ thuật. Bà từng lái chiếc xe ấy vòng quanh các thị trấn nhỏ bé của Oklahoma và Arkansas.

    Mẹ đang cầm lái, bố ngồi bên cạnh, còn nó ngồi băng ghế phía sau. Cạnh nó là một cây guitar cũ - vật bất ly thân của mẹ. Ngày hôm đó, mẹ cũng đội một chiếc mũ cao bồi giống bố. Hai chiếc mũ như đánh dấu kỷ niệm ngày đầu tiên họ quen biết nhau.

    Chiếc xe đang lao vút ra phía ngoại ô. Nơi họ tới cách trung tâm thị trấn Shadowfield hơn hai dặm về hướng đông nam. Ở đó tập trung một số hồ nước nhỏ gần rừng cây đoạn và thủy tùng, nước hồ thường đóng băng vào mùa đông. Giữa tháng Tám hằng năm, bố mẹ thường dẫn June tới khu vực đó cắm trại và câu cá. Họ chủ ý chọn khu vực hẻo lánh để có không gian riêng, yên tĩnh.

    Bố Jared thường tỏ ra khó chịu khi lái xe trong im lặng. Ông có thói quen nghe bất kỳ gì từ hệ thống radio trên xe - bản tin thời sự địa phương, một quảng cáo mẫu xe kéo đời mới hay một giai điệu vui nhộn. Ông cho rằng như vậy thì sẽ “tập trung” hơn. Nhiều khi June thắc mắc, chẳng biết “sự tập trung” mà bố Jared thường nhắc tới ở đây nghĩa là tập trung vào chuyện lái xe hay suy nghĩ về công việc ở trạng trại như cách chăm sóc lũ ngựa non mới đẻ. Chỉ biết rằng, khi sống cùng bố một thời gian dài, nó đã nhiễm thói quen này.

    Ngay sau khi chiếc xe băng qua cây cầu cổ còn sót lại của thị trấn, Jared liền đề nghị họ nghe thứ gì đó. Mẹ mở radio lên, tay vặn nút dò chỉnh tần số. Tiếng rè rè ban đầu dần được thay thế bằng một giọng ca êm ái, đậm chất tự sự. Lắng nghe một lúc thì June nhận ra chất giọng đặc trưng của nữ ca sĩ hát nhạc country - Carrie Underwood với ca khúc Clock Don't Stop- cũng chính giai điệu ấy giờ đây đang vang khắp căn phòng chỉ có nó và Gavin ngồi.

    Chiếc xe của họ băng qua những cánh đồng trồng lúa mì, tiến sát tới bìa rừng, rồi chầm chậm dừng lại. Bố ra hiệu cho nó ra khỏi xe, trong khi ông khệ nệ chuyển đồ xuống. Họ quyết định cắm trại ở một bãi cỏ rộng gần hồ. Cỏ không còn xanh mướt như khi vào hạ, đôi chỗ đã bắt đầu chuyển sang màu héo úa. Bố Jared hướng dẫn nó cách dựng trại, trong khi mẹ Jess đang chuẩn bị một vài đồ ăn từ chiếc hộp của bà.

    Sau đó hai bố con mang đồ nghề ra hồ câu cá. Thi thoảng, nó và bố cười lớn khi câu được một con cá tầm. Mẹ chen ngang bằng câu hỏi, có chuyện gì mà khiến hai bố con vui đến thế. Một con cá đã nhảy thẳng lên bàn ăn của nhà ta rồi đây! Bố Jared sẽ đáp lại bằng một câu pha trò sến sẩm như thế.

    Rồi June đề nghị mẹ hát. Bên ánh lửa bập bùng của chiều tối muộn, mẹ cầm chiếc guitar, mắt nhắm, môi mấp máy thành lời, phiêu theo những giai điệu ngọt ngào của Elvis Presley. Hình ảnh đó in hằn trong tâm trí nó, mãi không quên.

    Lúc này tại căn phòng nhỏ, chiếc máy chuyển sang bài The Girl You Think I Am khiến June dứt khỏi dòng hồi tưởng. Không còn dòng sông ánh sáng nào. Nó đột ngột trở về. Bên cạnh Gavin vẫn đang chìm sâu vào trong những giai điệu.

    Hình ảnh của buổi dã ngoại lùi dần vào bóng đêm. Mọi thứ đang trở nên mờ nhòa. Ánh lửa trại yếu ớt, rồi tắt hẳn. Giọng hát của mẹ hòa lẫn vào trong tiếng gió rít, chẳng thể nghe được gì.

    ***

    Jess và Jared đang ngồi ngoài hành lang bệnh viện. Không ai nói với nhau câu nào sau cuộc cãi vã. Họ đều nhận ra chuyện cãi cọ giờ đây chẳng mang lại kết quả gì, nên cuối cùng đều chọn cách im lặng. Như vậy sẽ tốt hơn!

    Ánh sáng nhờ nhờ lan tỏa khắp hành lang. Jess đứng ngồi không yên, bà nhìn đồng hồ đeo tay, đã khoảng năm giờ rưỡi chiều. Trời mùa này tối nhanh hơn thường lệ. Jess vẫn chưa ăn uống gì tử tế, ngoài mấy lát bánh mì phết bơ ăn kèm với nho khô được Jared mang tới đầu giờ chiều. Jared muốn nhận trông June để bà có thể xuống phố và ăn chút gì cho đàng hoàng. Nhưng Jess thiết nghĩ, chẳng còn bụng dạ gì để ăn. Tâm trí bà chỉ để ý tới dáng hình nhỏ bé, yếu đuối của cô con gái đang nằm im trên chiếc giường trắng toát. Chiếm trọn không gian là mùi thuốc khử trùng - thứ mùi khó chịu, đặc trưng của bất kỳ bệnh viện nào trên thế giới này. June vẫn chưa có dấu hiệu tỉnh lại, từ sau khi trải qua ca đại phẫu kéo dài hơn sáu tiếng đồng hồ. Tính đến nay đã gần một tuần trời trôi qua.

    Tuy qua khỏi cơn nguy kịch nhưng June vẫn đang hôn mê sâu, chưa biết bao giờ mới hoàn toàn bình phục. Cả Jared và Jess đều cảm thấy lo lắng trước chuyện này. Chiều nay, Jess đã bày tỏ lo ngại về tình hình của con gái với vị bác sĩ trực tiếp thực hiện ca phẫu thuật. Tuy nhiên những gì ông làm chỉ là vài lời an ủi nhằm trấn an bà và Jared. Hơn hết, những gì ông ta nói với hai người, chỉ gói gọn đơn thuần trong hai từ “chờ đợi”. Trong quá trình đó, các bác sĩ sẽ tiếp tục lấy máu, xét nghiệm, chờ kết quả, chẩn đoán lại, rồi cuối cùng mới đưa đến những giải pháp cụ thể hơn nhằm giải quyết tình hình. Tình trạng hôn mê thực vật có thể kéo dài vài tuần, thậm chí là vài tháng nếu như bệnh nhân chưa thực sự có dấu hiệu hồi tỉnh. Jess đã đọc đâu đó trên một nguyệt san về sức khỏe cách đây không lâu.

    Jess bực bội khi nghe tới quy trình chẩn đoán nào đó. Bà càng nổi xung lên với hai từ “chờ đợi” đáng ghét, hay niềm “hy vọng” xa vời. Bà sẵn sàng chuyển viện tuyến trên và tìm bác sĩ giỏi nếu cần thiết. Jared khuyên bà nên lấy lại sự bình tĩnh cần thiết. Bà thực hiện động tác hít thở sâu nhiều lần trong nhà vệ sinh, vốc từng vốc nước lạnh lên mặt mình nhiều lần, cho thực sự tỉnh táo. Bởi lẽ, Jess biết rằng quãng đường phía trước vẫn còn rất dài. Bà phải luôn túc trực bên cạnh con gái mình.

    Nữ y tá truyền đạt lại dặn dò của bác sĩ yêu cầu về quan sát tình hình, nếu có gì bất ổn thì cần phải thông báo ngay. Bà cố gắng lắng nghe nhưng rốt cuộc mọi thứ vẫn chẳng giúp ích được gì.

    Jared muốn về nhà một lát và sẽ mang theo một chút đồ ăn nhanh, trà túi lọc hay cà phê pha sẵn khi quay lại. Lại mấy chuyện chết tiệt trong cái trang trại ấy với lũ gà, lợn và ngựa. Jess bâng quơ nghĩ ngợi khi bóng Jared đi dọc hành lang tối, rẽ trái rồi biến mất. Hơn hết, Jess cần sự im lặng, một mình bên cạnh con.

    Khi Jess trở lại phòng bệnh, nữ y tá vừa thay dịch truyền và kiểm tra máy đo nhịp tim. Đã hơn bảy giờ tối, căn phòng được thắp thứ ánh sáng vàng yếu, dễ chịu. Từ đây nếu như vào ban ngày, người ta có thể nhìn thấy một phần nhỏ của trung tâm thị trấn, phóng tầm mắt ra xa thì chiêm ngưỡng trọn vùng đất phía nam - nơi thường được dùng làm nông trại trồng trọt hay chăn nuôi gia súc. Người dân nào sinh ra ở thị trấn mà chẳng sở hữu vài héc ta đất. Thời điểm cuối tháng Tám, đầu tháng Chín, người dân ở đây đã thu hoạch phần lớn nông sản trong trang trại. Jared cũng có một trang trại khá rộng lớn ở khu vực đó, được thừa hưởng từ bố của mình, khi ông qua đời vì bạo bệnh năm Jared mười lăm, mười sáu tuổi gì đó. Jess không nhớ rõ lắm.

    Jess lại nhìn từ căn phòng bệnh xuống phía trung tâm thị trấn. Những ánh đèn lan tỏa trên con phố chật hẹp, đổ thành vệt loang loáng trên những vũng nước mà cơn mưa ban chiều để lại. Phía bên kia đường là một quán bar nhỏ với cái tên nghe khá mỹ miều - Blue Night. Ban ngày quán thường đóng cửa và tới khuya lại mở cửa, có khi mở thâu đêm. Gã chủ quán là một tay guitar cừ khôi, tôn thờ phong cách hippie. Tóc dài xõa vai, để râu rậm, mặc quần ống loe, áo cánh có họa tiết paisley, pop art lòe loẹt. Gã chuyên hát nhạc phản chiến của John Lenon, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link hay Bod Dylan. Sau này, gã trở thành bạn và là người chứng giám cho lễ kết hôn của họ.

    Chính tại nơi đó, dưới ánh đèn neon huyền ảo hòa quyện với những tình khúc ngọt ngào, ủy mị của Elvis Presley, bà đã nhận lời cầu hôn của Jared…

    *

    “Đã hơn tám giờ tối, bên trong Blue Night, tay Hippie đang lọ mọ sửa lại những chiếc bóng đèn neon. Phía bên quầy, Jess đang ngồi nhấm nháp một ly cocktail Caipirrinha trứ danh của Brazil. Những ánh mắt chẳng chút kiêng dè đổ về phía cô, bởi, không thể phủ nhận, Jess là cô gái nổi bật nhất trong quán. Lọn tóc nâu mượt buông xõa hờ hững trên bờ vai mảnh để trần, khéo léo khoe làn da hơi rám nắng. Dù chỉ vận bộ đồ đơn giản, nét tươi trẻ và phóng khoáng của tuổi đôi mươi ở cô vẫn đủ gây xao xuyến và trở thành chủ đề bàn tán. Nhưng đêm nay, Jess không lấy đó làm phiền, cô nhận thấy Shadowfield bớt tẻ nhạt hơn vào khoảng thời gian mùa hè, và cũng bởi khi ấy, cô đang ngồi đợi Jared.

    Một lát sau Jared tới. Anh bước vào, vẫn phong cách cowboy bụi bặm nhưng nay lại có phần chỉn chu hơn. Áo da sáng bóng, bên trong áo sơ mi trắng được là phẳng phiu. Anh không đội chiếc mũ cao bồi đặc trưng của mình. Mái tóc bóng lộn hất ngược về phía sau, gọn ghẽ khác thường. Những đôi mắt nhìn chòng chọc thô lỗ khi nãy lập tức cụp xuống khi nhìn thấy Jared “Cannonball” Walker.

    Nay anh chàng lại học đòi cách làm người lớn cơ đấy! Jess cười nhẹ trước sự thay đổi này, rồi trở lại với ly cocktail đã vơi nửa của mình.

    Nhạc bỗng thay đổi, giai điệu sôi động của The Eagles biến mất, thay vào đó là bài Can't Help Falling In Love của Elvis Presley. Jess nhướng mày về phía gã hippie như muốn hỏi nguyên do tại sao. Đáp lại, gã chỉ mỉm cười ẩn ý.

    “Jess.” - Jared lên tiếng.

    Lúc này, Jared đang ngồi rất gần Jess. Jess ngước lên, dù đã ngà ngà với ly cocktail thứ tư nhưng phần nào vẫn giữ được sự tỉnh táo.

    “Sao vậy, Jared?” - Jess cất tiếng, nghiêng đầu nhìn Jared.

    Jared đột nhiên trở nên bối rối hết sức, vẻ cứng cỏi tự tin thường ngày của tay đua công thức I khét tiếng giờ thay bằng sự rụt rè của cậu trai mới lớn. Thật lạ, Jess thắc mắc.

    Jared lập cập thò tay vào túi áo khoác để lấy ra chiếc hộp nhỏ bọc nhung đen.

    “Lấy anh nhé!” - Ba từ này thật sự rất khó để nói ra, nhưng cuối cùng thì anh chàng cũng nói được.

    Dưới ánh sáng mờ mờ của Blue Night, chiếc nhẫn trông đặc biệt rực rỡ. Với viền nhẫn mảnh và viên kim cương nhỏ cắt hình tròn, nó mang vẻ đẹp cổ điển và lãng mạn mà bất cứ cô gái nào cũng khó có thể chối từ.

    Mặt Jared ngượng chín, anh chờ đợi câu trả lời từ phía Jess.

    Elvis Presley vẫn đang phiêu diêu với đoạn điệp khúc. Tiếng cười nói râm ran thoắt im bặt, ai nấy đều đang chờ đợi. Jess cảm thấy bản thân mình đang trở nên quá đỗi quan trọng trong hoàn cảnh này. Ban đầu Jess nghĩ rằng Jared đang đùa, chẳng lạ gì khi một kẻ phiêu lưu như anh buông lời tán tỉnh với bất cứ cô gái nào anh thích. Nhưng lần này thì khác, sự rụt rè của Jared khiến cô tin rằng anh thật sự chân thành.

    Mọi con mắt một lần nữa đổ dồn vào Jess. Cô chợt nhận ra mình đã yên lặng khá lâu.

    “Em đồng ý!” - Jess nói.

    Khi ấy, Jess không thể nghe được gì ngoài tiếng hò hét tán thưởng của những người xung quanh, gã Hippie hào hứng lôi chiếc guitar của mình ra và nghêu ngao hát. Trái tim Jess đập liên hồi khi Jared đặt lên môi cô một nụ hôn say đắm.

    *

    Jess lắc đầu, cố gắng không để những dư ảnh từ ký ức khiến tâm trí rối loạn, không suy nghĩ thông suốt. Rồi bà tiến gần lại giường bệnh, ngồi xuống, nắm hờ đôi bàn tay của June. Gương mặt con bé thật bình thản. Không hề giống như một người vừa trải qua cuộc đại phẫu giành giật lại sự sống, càng không giống một người đang chìm sâu vào hôn mê thực vật và tạm mất đi phần ý thức. Trông con gái bà như đang ngủ mà thôi, chỉ là không thể đánh thức.

    Bất giác, một giai điệu thân quen vang lên trong đầu bà, như gợn từ sâu thẳm tiềm thức. Jess chợt cất lên thành tiếng, vừa hát bà vừa lấy tay vuốt ve mái tóc của con gái.

    Red dress, spilled wine

    Caught in a stupid fight

    He's wrong, she's right

    (No kiss goodnight)

    Ring ring, telephone

    Act like I'm not home

    Can't hear the tears cry



    The clock don’t stop ticking away

    It’s ticking away…

    Lời bài hát văng vẳng trong đầu Jess. “Kim đồng hồ vẫn cứ quay, cứ quay”… Dù ta vui buồn ra sao, đau khổ hay hạnh phúc thế nào, thời gian chẳng bao giờ chờ đợi ai cả. Phải, bao nhiêu thời gian đã trôi qua…

    Jess sinh ra trong một gia đình trung lưu tại thành phố Dallas, thuộc tiểu bang Texas. Bố mẹ đều hành nghề luật sư, cả anh chị cũng nối nghiệp bố mẹ, duy chỉ có Jess quyết định theo đuổi con đường nghệ thuật ca hát.

    Thời gian học đại học, Jess đã quen Jared - một anh chàng đến từ Oklahoma với phong cách đậm chất cao bồi miền Tây, áo khoác da đơn giản, quần jean bụi bặm và chiếc mũ đặc trưng. Cô hoàn toàn bị thu hút bởi tính cách phóng khoáng và tràn đầy năng lượng của Jared.

    Jared thực sự đam mê tốc độ, từng một thời nổi danh trong làng đua công thức I khét tiếng của vùng viễn Tây Oklahoma. Jared đã từng có mặt tại lễ hội tốc độ ở Goodwood, tổ chức thường niên vào mùa hè hằng năm ở Anh, để tham gia cuộc thi tài với những tay đua cự phách trên toàn thế giới.

    Những năm yêu nhau, Jared và Jess đã rong ruổi khắp vùng viễn Tây trên những chiếc xe “con cưng” của Jared. Họ đã đi dọc xa lộ Route 66 - con đường nổi tiếng nối liền tám tiểu bang của nước Mỹ, chạy ngang qua Illinois, Missouri, Kansas, Oklahoma, California… cuối cùng kết thúc ở Los Angeles. Có những lúc, họ ngẫu hứng băng qua vùng hoang mạc rộng lớn từ Arizona qua Nevada, để tới tận thành phố Las Vegas quyến rũ.

    Nhưng do một tai nạn ngoài ý muốn, Jared buộc phải từ giã sự nghiệp của mình, quyết định trở về Shadowfield để tiếp quản trang trại theo di chúc của bố. Jess đã đi theo Jared và họ nhanh chóng kết hôn sau thời gian đó.

    Về phần mình, Jared nhanh chóng làm quen với công việc trong trang trại và tỏ ra yêu thích chúng, như việc chăm sóc lũ ngựa và lái xe kéo. Nếu rảnh rỗi lại lôi đống phụ tùng ra, thử nghiệm việc sửa chữa trên những chiếc xe hỏng. Nhưng ít ai biết rằng, đó chỉ là những công việc giúp Jared quên đi quá khứ “hào hùng” của chính mình mà thôi. Jess nhớ lại những ngày cuối cùng ở Shadowfield.

    Jess ngồi tần ngần hồi lâu bên cây đàn piano từ sau bữa cơm tối. Bà vẫn chưa nghĩ ra sẽ phải chơi giai điệu nào. Đã lâu không thử chơi, bà sợ rằng đã quên đi nhiều bản nhạc, thậm chí cả kỹ thuật chơi.

    “Mẹ.” - June lên tiếng, phá vỡ bầu không khí im lặng, con bé đã đứng sau Jess được một lúc.

    “Con vẫn chưa ngủ sao, June?” - Jess vội xoay người lại. Khi June tiến lại gần, bà nắm lấy hai cánh tay của con bé và chăm chú nhìn. Bà nhận ra dạo này June có vẻ xanh xao hơn, hai quầng thâm dưới đôi mắt tròn to hiện rõ.

    “Con không ngủ được. Mẹ có thể ngồi với con một lúc được không?”

    Jess đồng ý. Sau đó, bà dắt tay con gái đi vào trong phòng ngủ của nó. Đèn bàn vẫn bật. Trên giường, Jess thấy một vài bức phác thảo vẫn còn dở dang.

    “Con vẫn chưa hoàn thành chúng sao?” - Jess thắc mắc.

    June lắc đầu và không nói gì. Đoạn, nó leo lên giường. Jess ngồi xuống mé giường, lấy chăn đắp ngang ngực con.

    “Mẹ có chuyện gì sao?” - June lên tiếng, như thể con bé đã muốn hỏi từ lâu nhưng chưa có dịp thích hợp.

    “Không có gì đâu con.”

    Jess phủ nhận nhưng chưa thể làm an lòng June. Ngay cả bây giờ, bà cảm thấy giọng nói mình không thể nào thuyết phục nữa. Jess dường như trốn tránh mọi câu hỏi kiểu như vậy, ngay cả với Jared.

    “Dạo gần đây con thấy bố về muộn hơn và hai người dường như không trò chuyện gì mấy?” - June lại hỏi.

    “Bố bận chuyện ở nông trại, huống hồ giờ đang vào mùa vụ. Con nên ngủ sớm đi để giữ gìn sức khỏe, mẹ sẽ vặn nhỏ đèn lại.” - Jess lái câu chuyện sang hướng khác, nhưng bà biết không thể giấu được June. Con bé đã mười ba tuổi, nó đủ nhận thức để hiểu mọi chuyện đang diễn ra gần đây.

    “Mẹ có thể ra ngoài chơi một giai điệu nào đó không? Biết đâu con sẽ ngủ được!” - Cuối cùng, June đề nghị, như muốn kết thúc sớm câu chuyện. Jess phần nào cũng thấy nhẹ nhõm hơn.

    Sau đó bà tắt đèn phòng, không quên hôn lên trán con gái. Bà lặng lẽ đi ra ngoài, khẽ khàng đóng cửa.

    Bà ngồi xuống ghế, nhìn đăm đăm vào phím đàn piano đen trắng, rồi bà liếc nhìn đồng hồ treo tường. Đã gần tám giờ tối, Jared vẫn chưa về. Vào mùa vụ ở Shadowfield, công việc chất lên như núi ngốn hầu hết thời gian trong ngày của Jared, từ việc thu hoạch nông sản, quản lý người làm thuê và ti tỉ những thứ khác cần lo. Jess luôn hiểu cho Jared và không tỏ ra phàn nàn về bất cứ chuyện gì. Giờ đây giữa họ dường như có một giao ước vô hình, mà hơn hết là sự tôn trọng ở mỗi người. Ở Jared là công việc, còn ở Jess là niềm đam mê âm nhạc. Không ai đả động vào công việc của ai, nhưng cũng chính điều đó đã tạo nên những vách ngăn giữa họ. Chỉ cần nhìn vào mắt Jared mỗi khi ông ấy trở về nhà với trạng thái rệu rã, mệt mỏi, Jess như hiểu tất cả, nhưng có điều, bà vẫn chọn cách im lặng.

    Jess suy nghĩ giây lát rồi lướt nhẹ những ngón tay thon dài trên phím đàn. Những giai điệu không lời cất lên, từ hòa tấu Sông Danube tới Autumn Leaves của Daniel Kajmakoski. Những lúc như thế này, Jess thấy tâm trạng mình trở nên bình an lạ thường, những mối lo toan hiện tại tạm dẹp qua một bên. Jess như trở lại với cuộc sống của cô gái thành thị tuổi hai mươi, cô sinh viên nhiệt huyết của trường Đại học Nghệ thuật Dallas. Một tâm hồn phiêu du, tự do tự tại, mang trong mình hoài bão về những chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới, cất lên tiếng nói từ con tim mình qua âm nhạc.

    Jess từng nghe vu vơ đâu đó về “mother’s guilt” - cảm giác tội lỗi của những người làm mẹ - cái bóng đen của nỗi sợ rằng “mình không đủ tốt”. Một người vợ - người mẹ có quyền đặt mong muốn của mình lên trên hết không? Jess biết mình chẳng thể nào đủ sức để trả lời câu hỏi ấy. Đôi lúc, khi nhìn lại quãng thời gian dài gắn bó với Shadowfield, từ hồi lấy Jared rồi sinh June cho tới khi con bé đã khôn lớn phần nào, Jess mới thực sự nghĩ tới những gì là của mình, về đam mê đã bị lãng quên một thời gian dài. Jess chỉ muốn sống lại con người của chính mình mà thôi, bà không thể sống đúng nghĩa nếu không có âm nhạc, điệu nhảy của đời mình. Jess yêu gia đình này chứ, rất yêu nữa là đằng khác; nhưng bà vẫn có quyền mơ về con người của nghệ thuật - bản ngã cho bà cái quyền được sống trọn vẹn, thay vì chỉ tồn tại một cách tạm bợ.

    Đồng hồ điểm chín giờ, những ngón tay của Jess đã ngừng lại trên phím đàn. Đêm về khuya, thảng hoặc nghe tiếng xe tải đường dài vọng lại từ xa lộ. Jared có lẽ sẽ ngủ lại trang trại cùng những người làm thuê. Nghĩ vậy, Jess lặng lẽ đi về phía phòng ngủ của mình. Tiện tay, bà tắt đèn, cả gian phòng tối đen như mực.

    Đó là quãng thời gian thật sự khó khăn đối với Jess, bà đã suy nghĩ rất nhiều. Thậm chí bà đã đặt nửa còn lại của cuộc đời mình lên một bàn cân để đong đếm. Chuyện ly hôn như kết quả tất yếu sau quãng thời gian dài đó, không hẳn là những mâu thuẫn trong cuộc sống với Jared. Họ đã từng có thời gian hạnh phúc, nhưng dường như khi đã sống với nhau một thời gian đủ lâu, Jess bỗng nhận ra rằng, bà đang sống cuộc đời của người khác chứ không phải chính mình. Bà đã từng yêu con người trong quá khứ, yêu những gì là quá khứ của Jared, còn ở hiện tại, bà cần sống với chính mình. Chính vì thế Jess đã đưa ra sự lựa chọn. Bà không còn nuối tiếc về quãng đời và lựa chọn ấy, nhưng lúc này, đứng trước trò đùa nghiệt ngã của số phận, bà không còn dám chắc về bất cứ điều gì.

    Đêm vẫn lặng im. Thảng hoặc nghe thấy tiếng đàn chim di cư bay ngang qua bầu trời, hòng tìm được một nơi chốn ấm áp trước khi mùa đông đến.

    “Mẹ xin lỗi, June. Mẹ thực sự xin lỗi.” - Jess cất tiếng trong không gian yên ắng, giọng điệu có phần nghẹn lại vì xúc động.

    Cảm giác nuối tiếc dâng lên trong lòng Jess. Bà tiếc vì đã không dành nhiều thời gian ở với June. Bà tiếc vì đã không học cách lắng nghe.

    “Mẹ không mong sự tha thứ, chỉ mong con mau tỉnh giấc, bởi còn nhiều điều mẹ muốn nói với con, June à!”

    Lần này, Jess nghẹn ngào thực sự. Bà bật khóc!

    Từ phía cửa chính có tiếng bước chân. Cửa bật mở. Jared lầm lũi đi vào phòng. Jess vội vàng lau nhanh những giọt nước mắt. Bà không muốn Jared chứng kiến cảnh tượng này. Jared dường như không để ý mà đi thẳng tới chiếc bàn, bày những thứ mang từ nhà đến - âu đựng thức ăn nhanh, vài quả táo và sữa trái cây đóng hộp. Một mùi ngai ngái tỏa ra khi Jared mở nắp bình cà phê pha sẵn.

    “Em đã nghỉ ngơi chút nào từ chiều chưa?” – Jared hỏi.

    Jess mở miệng, định nói gì đó. Rằng, bà chẳng có tâm trạng đâu để nghĩ cho bản thân chăng? Hay rằng, mỗi lần định ngả lưng, bà lo sợ sẽ bỏ lỡ một cử động nào đó, dù rất nhỏ, của con gái? Nhưng rốt cuộc, cơn mệt mỏi rã rời cũng đã xâm chiếm. Jess lắc đầu.

    Jared lặng lẽ rót cà phê ra hai chiếc cốc nhựa, một cốc đưa cho Jess. Bà cầm lấy, nói cảm ơn, rồi quay lại phía giường bệnh.

    “Chỉ là… thời gian phía trước còn dài. Cả hai chúng ta cần phải…” - Jared hơi ngập ngừng - “… sẵn sàng để đối mặt với mọi trường hợp xấu nhất có thể.”

    Jess nắm chặt cốc cà phê trong tay, bà chẳng cảm nhận được chút hơi ấm nào từ đó. Jess không nói gì nữa vì lòng bà nghẹn lại. Bà cũng chẳng để tâm tới Jared. Lúc này ông đã yên vị trên chiếc ghế bành, tiện tay vặn nhỏ đèn phòng lại.

    Cả hai người đều im lặng trong căn phòng tranh tối tranh sáng. Bên ngoài kia, cả thị trấn như đang chìm sâu vào giấc ngủ, mà chẳng biết khi nào thì cơn ác mộng tiếp theo sẽ ập tới. Đột ngột. Không điềm báo!
     
  2. Nhom4.0

    Nhom4.0 Lớp 3

    Gavin đang thiu thiu ngủ thì trời bắt đầu mưa. Tiếng lộp độp rơi trên mái nhà, va vào khung cửa sổ khiến cậu choàng tỉnh, mắt dáo dác nhìn quanh như sợ hãi điều gì. Chỉ là một cơn mưa thôi! Ngồi bên cạnh, June lập tức trấn an, cậu thoáng xấu hổ, nhưng rồi cũng không nén được tiếng thở phào nhẹ nhõm.

    Một lúc sau mưa mau hạt hơn, chẳng mấy chốc tiếng rào rào chiếm trọn khắp không gian. June thấy lòng mình chợt se lại. Nó nhớ vào những ngày mưa lớn như thế này, cả nhà thường ngồi trong bếp, cùng thưởng thức món trà gừng pha mật ong ấm nóng, ngon tuyệt của mẹ.

    “Cậu đang nghĩ gì thế June?” – Gavin thắc mắc khi thấy June ngồi bần thần.

    June lắc đầu. Để tránh phải trả lời câu hỏi của Gavin, nó bèn vẽ ra hai chiếc chăn giữ ấm với họa tiết paisley đơn giản, loại chăn này thường được dùng để ủ ấm cơ thể vào mùa đông. June quàng một chiếc lên người mình, cái còn lại trùm lên cho Gavin.

    “Cảm ơn cậu!” – Gavin trìu mến nói.

    June ghé đầu tựa vào vai Gavin. Ký ức của buổi dã ngoại vẫn còn sót lại trong lòng nó, nhưng chỉ còn lại những mảnh rời rạc và chắp vá. Có người nói rằng, khi bạn quên một chuyện nào đó thì hãy nhắm mắt và nín hơi một lúc ắt sẽ nhớ ra. Nghe thật hoang đường nhưng June vẫn cứ thử. Chẳng có tác dụng gì, June thu mình vào trong tấm chăn mỏng và đăm chiêu nghĩ ngợi.

    “Gavin này…” – June quay lại nhìn Gavin và nói kiểu nửa chừng.

    Khi ấy June chợt nhìn Gavin thật kỹ, mái tóc cậu rối bù chẳng bao giờ được chải gọn, sống mũi cao thẳng lấm chấm vài đốm tàn nhang, còn đôi môi mỏng lúc nào cũng mím chặt vẻ cương nghị. Dù coi Gavin là người hiểu nó nhất, June nghĩ sẽ vẫn khó để cậu hiểu hết chuyện gia đình nó, bởi gia đình luôn là chỗ dựa tinh thần của cậu, còn với June thì hoàn toàn ngược lại. Đã có lần nó cảm thấy đôi chút ghen tỵ với bạn mình.

    “Cậu có chuyện gì định nói à?” – Gavin hỏi.

    “Cậu có điều gì tiếc nuối về gia đình mình không? Một khoảnh khắc đáng nhớ nào chẳng hạn?” – June gợi ý.

    Gavin nghĩ một lúc.

    “Tớ chỉ muốn nhìn mặt em trai thôi.” – Gavin khẽ thầm thì. – “Khi… ừm… thì mẹ tớ cũng sắp sinh, nên thật ra tớ cũng ước được gặp nó, dù chỉ một lần.”

    “Vậy thế này nhé…” – Suy nghĩ một lúc, June đưa ra gợi ý. – “… Tớ sẽ tái hiện khung cảnh ở phòng hậu sinh trong bệnh viện Shadowfield, cậu tới thăm em trai mình ở đó. Đồng ý chứ?”

    “Thật sao?” – Gavin không giấu khỏi sự ngạc nhiên và vui sướng.

    “Dĩ nhiên.” – June gật đầu chắc cú.

    Sau cái ngày Louis – em trai của Gavin được sinh ra, nó đã tới bệnh viện thăm hỏi tình hình sức khỏe mẹ cậu. Chuyện em trai Louis sinh ra đáng yêu, khỏe mạnh, dường như khiến tâm trạng bà có khá hơn so với ngày Gavin mất. Việc nhớ lại ký ức của một năm về trước, giờ đây đối với June quả là một chuyện khó khăn, nó nhắm mắt và cố gắng tưởng tượng ra quang cảnh lúc đó. Đó là một ngày cuối tháng Mười hai lạnh giá, tuyết đã bao phủ hầu hết thị trấn Shadowfield.

    “Tớ sẽ dẫn cậu đi, Gavin.” – June nói, đồng thời đưa bàn tay mình ra.

    Gavin không suy nghĩ mà nắm lấy tay June. Căn nhà gỗ biến mất, thay vào đó là khoảng trời rộng lớn xám xịt dần hiện ra trên đầu, tấm chăn mỏng choàng lên người cũng rơi ra, chỉ có cơ thể hai đứa trở nên nhẹ bẫng, có phần khoan khoái. Theo đó, luồng ánh sáng mạnh xóa sạch màn đêm, dấu vết cơn mưa lớn ban nãy cũng không còn. Không gian lạo xạo tiếng gió cuốn lớp lá khô dưới mặt đất hất tung lên không trung, kèm theo những tinh thể tuyết màu trắng đang lặng lẽ rơi xuống bên ngoài khung cửa sổ, nếu nhìn ra sẽ chỉ thấy một màu trắng xóa và ảm đạm.

    Lúc này, June và Gavin đang đứng dọc hành lang bệnh viện trung tâm Shadowfield. Tối tăm và khá lạnh. Nguồn sáng duy nhất là vài bóng đèn màu vàng được giấu kín sau những chao đèn có hình thù của con sư tử biển. Bệnh viện này được xây dựng vào những năm 1860 từ nền của một tu viện cũ để phục vụ chiến tranh, ngày nay được sửa sang lại sử dụng vì mục tiêu chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Tất cả những kiến thức này đều nằm trong môn Lịch sử địa phương vùng Oklahoma chán ngắt mà June đã từng học ở trường.

    “Mẹ cậu đang nằm ở phòng hậu sinh cuối hành lang, cậu cứ đi thẳng rồi quẹo trái là tới.” – June nói. – “Cậu vào thăm mẹ đi. Tớ sẽ ở ngoài này, không làm phiền cậu.”

    “Đợi tớ nhé!” – Gavin tạm biệt June rồi chạy một mạch về phía cuối hành lang.

    Đợi cho tới khi bóng dáng Gavin khuất hẳn sau bức tường thì June mới quay đi. Mặc dù chưa biết đi đâu nhưng nó thấy tâm trạng phấn chấn hơn hẳn so với ban nãy, nó thầm cười trong lòng, ít ra cũng làm được một điều tốt đẹp, bù đắp cho mất mát của cậu ấy. June hy vọng sẽ làm Gavin vui!

    Lững thững bước đi dọc hành lang thiếu ánh sáng tự nhiên, June nhận ra những cánh cửa màu xanh xếp thẳng đều tăm tắp làm nó liên tưởng tới một bộ phim đã từng xem lúc còn nhỏ, nếu như ta mở một cánh cửa bất kỳ thì sẽ đến được một mảnh đất thần tiên nào đó. Trên mỗi cánh cửa còn gắn một con mắt thần để người bên ngoài có thể nhìn vào trong, June tò mò ghé mắt nhìn thử một cánh cửa. Tất cả đều tối thui! Nó chuyển hướng sang cánh cửa thứ hai, thứ ba rồi thứ tư... nhưng mọi thứ vẫn tối thui như thế. June suy nghĩ vài giây rồi quyết định đẩy bừa một cánh cửa; cửa bật mở, một hành lang có hình dạng một cái ống lớn dẫn nó ra một bãi cỏ lau khá rộng, những cây lau cao ngang ngực một người trưởng thành. Chẳng có gì bất ngờ, June thấy hơi thất vọng, nhưng nó dám chắc, Shadowfield không bao giờ có khung cảnh này, người ta đã biến tất cả những mảnh đất trống, cánh đồng hoang toàn cây thạch nam thành trang trại trồng trọt hoặc chăn nuôi gia súc. Trong năm năm thời kỳ Nội chiến, tất cả những nông trang ở hầu hết các tiểu bang miền Nam nước Mỹ đều được sử dụng vì mục đích chiến tranh, không sản xuất lương thực thì sẽ biến thành những bãi chiến trường đầy sự giết chóc.

    June nhìn thấy một con đường nhỏ đi thẳng vào bãi cỏ lau, nó chầm chậm rảo bước, đi được khoảng trăm mét, nó gặp một gò đất khá cao, trên gò đất mọc lên một cây bao báp lớn. June bước lên, từ gò đất này nó nhìn bao quát một khoảng rộng lớn, phía xa xa đường chân trời là những dải sáng màu xanh lam và tím đan xen vào nhau, không thể xác định được giờ đây đang là thời điểm nào trong ngày. June bèn vẽ ra một băng ghế gỗ, loại thường được đặt trong công viên, rồi nó từ tốn ngồi xuống.

    “Bụp!”

    Một tiếng nổ lớn vang lên sau lưng khiến June giật nảy mình. Nó đột nhiên quay lại để tìm hiểu nguyên do.

    *

    Lúc này, Gavin đang đứng trước căn phòng June đã nhắc đến. Cậu thấy khá hồi hộp, tim đập nhanh hơn bình thường. Hít một hơi thật sâu, cậu đặt tay lên nắm đấm cửa rồi khẽ khàng đẩy vào.

    Phòng bệnh khá rộng rãi và thoáng đãng, các đồ dùng bên trong đều có màu xám đậm được sắp xếp một cách ngăn nắp, cẩn thận. Trên giường bệnh, mẹ cậu vẫn đang thức, em trai thì thiu thiu ngủ, đầu tựa trên ngực mẹ. Em bé có vài sợi tóc hơi xoăn, miệng thì chúm chím, còn những ngón tay bé nhỏ đang nắm chặt lấy vạt áo của mẹ. Mẹ cậu đang cười, ánh mắt dịu dàng đặt lên hình hài tựa như một thiên thần nhỏ bé. Gavin chợt thấy lòng mình bình yên lạ thường. Đoạn, cậu từ từ tiến lại phía giường bệnh. Cậu thử đặt một tay lên gương mặt của em hay lên bàn tay của mẹ, nhưng tiếc thay những gì cậu làm được chỉ có thể là quan sát mà thôi. Gavin biết mình không thể chạm vào bất cứ thứ gì đang hiện hữu trong căn phòng này.

    Em bé đã bắt đầu tỉnh giấc và khóc lớn. Mẹ xuýt xoa dỗ dành một lát thì em nín. Bé mở to đôi mắt – đôi mắt màu xanh lá giống của cậu – nhìn ra quang cảnh xung quanh, mọi thứ hoàn toàn lạ lẫm với nó. Đã từng có những chiều Chủ nhật đi dạo cùng mẹ trong công viên, Gavin hào hứng với ý nghĩ một ngày nào đó sẽ đưa em trai đến đây, cùng chơi bóng hay ăn kem, và cậu có thể kể cho em nghe về thế giới rộng lớn. Nhưng giờ đây thì… em sẽ lớn lên mà không có mình. Cậu cố gắng kìm nén cảm xúc để không bật khóc.

    Cửa phòng bệnh bật mở khiến Gavin hơi giật mình. Vị bác sĩ có dáng người cao lớn đi vào, theo sau ông là hai y tá khác. Một nữ y tá đẩy theo chiếc xe để đồ chuyên dụng, y tá còn lại thì cầm theo cặp giấy, bút, cả ba người đều bịt khẩu trang kín mít chỉ để lộ hai con mắt.

    Họ đứng gần cửa sổ và trao đổi với nhau, chỉ thấy môi mấp máy, dù cố gắng tập trung nhưng Gavin không thể nghe rõ nội dung cuộc trò chuyện. Tiếng lầm rầm khiến cậu không khỏi tò mò. Nghĩ vậy, cậu thử tiến lại gần họ hơn để xem có nghe được gì không, dù gì họ cũng không thể nhìn thấy cậu. Nhưng bất chợt, một cảm giác rùng mình chạy dọc sống lưng khi nữ y tá đẩy xe nhìn chằm chằm về phía Gavin, xoáy ánh mắt vào cậu như thể cô ta biết sự hiện diện của cậu ở nơi đây. Không thể nào! Gavin phủ nhận ngay suy nghĩ đó. Bởi lẽ tất cả những thứ này chỉ được tạo ra bởi ký ức của June, nên không thể là thật được. Nhưng Gavin vẫn không thôi lo lắng, trong lòng cậu chất đầy những câu hỏi không có câu trả lời.

    Đoạn, nữ y tá chuyển hướng nhìn xuống chiếc xe để đồ, đẩy chiếc xe tiến gần phía giường bệnh của mẹ cậu; trong khi đó, vị bác sĩ cao lớn và y tá còn lại vẫn tiếp tục trò chuyện một cách say sưa.

    “Keng.”

    Tiếng kim loại va vào nhau khiến Gavin giật nảy mình. Cậu quay trước sau để tìm hiểu nguyên nhân thì phát hiện nữ y tá đã đánh rơi một chiếc kéo cắt băng gạc xuống sàn phòng. Nhưng dường như cô ta không để ý chuyện đó mà vẫn tiếp tục với mớ dây dợ bùng nhùng của mình. Theo phản xạ Gavin cúi xuống nhặt chiếc kéo lên. Có cảm giác. Cậu chạm vào và cảm thấy bề mặt kim loại lạnh ngắt. Không nghĩ gì thêm, cậu nhặt lên, đưa nó lại cho nữ y tá.

    “Của chị đây.”

    Cậu lên tiếng, nhưng không nghe rõ giọng mình như bị bóp méo bởi sức mạnh vô hình, kèm theo là tiếng rít nhẹ trong bầu không khí có phần u uẩn. Gavin tự trấn an rằng, vì đây là thời điểm giữa mùa đông nên không gian sẽ trở nên như vậy.

    Nữ y tá dừng tay và không nói gì, cô ta xoáy ánh mắt lạnh lùng có phần vô cảm vào cậu. Thoáng rùng mình nhưng Gavin vẫn giữ được sự bình tĩnh, chỉ là cảm giác thôi.

    Đột nhiên cửa phòng đóng rầm lại sau lưng Gavin, cậu hốt hoảng nhìn trước sau để tìm hiểu nguyên nhân. Nhưng khi quay lại phía họ đang đứng, Gavin thấy có sự khác thường đang diễn ra ở đây. Chiếc giường bệnh đã trống trơn, mẹ và em trai cậu không còn trên đó nữa. Gavin nhìn sang phía hai người y tá và vị bác sĩ thì thấy họ bắt đầu có sự biến đổi. Họ đứng nghiêm trang, cứng nhắc, đầu hơi ngửa lên trời trông giống hệt như những con rô bốt đang bắt đầu màn trình diễn, kế sau đó là sự co giật liên hồi như một dòng điện có điện áp cao vừa chạy qua người. Thân hình họ hơi phình to như bong bóng chứa khí he li, những cục thịt nổi to trên cơ thể làm rách nhiều chỗ quần áo đang mặc, chúng bục ra dưới cánh tay, phần hông và chân. Rồi những xúc tu nhớp nhúa bắt đầu mọc dài như xúc tu bạch tuộc. Gương mặt của họ kéo dãn, miệng rộng đến tận mang tai để lộ hàm răng hình lưỡi cưa nhọn hoắt, còn mắt trở nên đỏ quạch một màu, trông giống như gã quái nhân - The Crooked man nổi tiếng trong giai thoại xa xưa của người Anh.

    Gavin kinh hãi chạy về phía cửa chính hòng thoát thân, nhưng nắm đấm cửa tự dưng bị kẹt, cậu ra sức vặn nhưng không sao mở được. Lúc đó, Gavin thấy xúc tu nhớp nhúa của những quái nhân đã quấn lấy chân phải, kéo ngược trở lại khiến cậu té ngã sấp mặt xuống nền đá. Một cảm giác đau điếng chạy dọc sống lưng cậu, còn thần kinh căng lên như dây đàn. Gavin xoay người lại trên tư thế chống hai tay ra phía sau, rồi cậu nhanh trí bỏ ba lô ra khỏi lưng để lấy con dao có sẵn trong đó, nhanh chóng cắt phăng những xúc tu, chúng rời ra nhưng vẫn không thôi ngoe nguẩy trên sàn đá. Gavin lết thân mình dậy một lần nữa, cậu cảm thấy tứ chi đau nhức vô cùng, chân và tay dường như không chiều theo ý muốn của cậu nữa. Gavin cố hết sức để đẩy cánh cửa mắc kẹt, thậm chí dồn sức vào chân phải cậu đạp mạnh nhưng vẫn chẳng có chuyện gì xảy ra. Cánh cửa không suy suyển, đứng im một cách đáng nguyền rủa.

    Lúc này, những quái nhân xúc tu phát ra những tiếng kêu đáng sợ, hệt như mặt kim loại cạ mạnh nền đá, rin rít đến rợn người. Phía bên ngoài cửa sổ, đám mây như sà xuống gần mặt đất khiến căn phòng trở nên tối tăm hơn bình thường. Bao vây lấy Gavin, chúng như biết rằng cậu không thể nào trốn thoát được nữa nên bình thản di chuyển về phía cậu, kéo theo những chuyển động là tiếng khùng khục, chúng như muốn tra tấn cậu về tinh thần. Gavin oải thực sự, cậu dường như không còn sức lực nào để chiến đấu nữa. Một Thằng Ngốc trong mê cung đã là quá đủ với cậu rồi, cái thế giới quái quỷ này bao giờ mới thôi hăm dọa và hãm hại cậu đây?

    Rồi sau đó, Gavin nhắm tịt mắt, vung dao loạn xạ. Một cú giáng mạnh vào tay cậu khiến con dao văng về một phía. Gavin lao về phía con dao hòng đoạt lại, nhưng xúc tu của quái y tá đã ngáng chân khiến cậu té ngã. Cố rướn người, bằng một nỗ lực phi thường, cậu lấy lại được con dao đồng thời cắt phăng đi những xúc tu một lần nữa. Gavin vội đứng dậy trong tư thế sẵn sàng phản công. Một con quái nhân lao nhanh về phía cậu, nhe hàm răng nhọn hoắt đầy vẻ hăm dọa. Bị bất ngờ, không còn cách nào khác, theo phản xạ vô điều kiện, Gavin nhắm tịt mắt lại, đồng thời hai tay cầm dao giơ thẳng ra trước mặt.

    “Phập.”

    Một tiếng rú lớn, kinh hãi, vang vọng không gian. Gavin cảm thấy một chất lỏng nhễu ra bàn tay mình, ươn ướt và lạnh lẽo, mùi hôi thối bốc ra giống như mùi khí lưu huỳnh, cậu vội buông bỏ hai bàn tay và mở mắt ra, con dao đã không còn trên tay cậu mà đang cắm trên cổ của quái nhân. Nó run lên bần bật vì đau đớn, những giọt máu đen sì túa ra từ cổ nó chẳng mấy chốc đọng thành vũng trên sàn nhà. Gavin như muốn nôn thốc nôn tháo khi nhìn thấy cảnh tượng đó.

    Lúc này, Gavin kịp nhận ra rằng, cậu đã không còn món vũ khí nào nữa nên buộc phải quay lại với cánh cửa và làm mọi cách để có thể mở nó. Nhưng hai quái nhân còn lại không để cho cậu yên, những xúc tu của chúng dài thêm ra, trườn trên sàn nhà uyển chuyển như những con rắn, rồi chúng bắt đầu quấn vòng qua chân cậu, lên phần đùi, rồi phần hông và bụng. Gavin dùng tay cố gỡ chúng ra nhưng không được. Trong lúc tuyệt vọng, cậu lấy hết sức bình sinh để hét lớn. Cậu chỉ nghĩ tới June, giọng cậu vang vọng khắp không gian, cảm giác như các dây thanh quản sắp bị xé rách, nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng đến gai người và đắc chí của những quái nhân kỳ dị. Gavin không thể hét được nữa vì những xúc tu đã vòng quanh bụng cậu thắt chặt lại, lấn lên phần ngực rồi đến cổ khiến cậu thấy ngộp thở. Mắt Gavin nhòa đi, ứa lệ, cậu thấy mình như sắp chết một lần nữa.

    Không gian xung quanh căn phòng chợt tối dần, Gavin thấy thân thể mình như đang rơi xuống một cái hố sâu tăm tối và không đáy. Cậu không chắc đó có phải là địa ngục hay không nữa?

    *

    “Bạn làm tôi bất ngờ mỗi khi xuất hiện đấy!” – June nói một câu vô thưởng vô phạt với Cột Đèn.

    Vẫn hình dáng dài thòng và tư thế chống hai tay bên hông ngạo nghễ, Cột Đèn nhìn nó mỉm cười trìu mến. Hai người giờ đây đã thân thiết như những người bạn thật sự. June ra hiệu cho Cột Đèn ngồi xuống bên cạnh mình trên băng ghế.

    “Rất vui khi gặp lại cậu, June, thế cậu bạn trai kia đâu rồi? Chẳng phải hai người luôn đi với nhau sao?” – Cột Đèn ra vẻ thắc mắc khi thấy June chỉ có một mình.

    “Gavin đang có chút việc và mình không muốn làm phiền cậu ấy.” – June đáp lời ngay.

    Cột Đèn tiến lại gần June, rồi ngồi xuống bên cạnh nó. June cảm thấy hơi ngạc nhiên nhưng vẫn rất vui khi Cột Đèn xuất hiện - Vị thần may mắn đã dẫn đường cho nó lần trước.

    “Lần trước do cậu biến mất nên mình chưa kịp cảm ơn cậu về chuyện trong mê cung.” – June nói.

    “Không có gì. Vì cậu xứng đáng được như thế mà June.” – Cột Đèn nói.

    June mỉm cười và không nói gì.

    “Không biết cậu đã uống phương thuốc chưa nhỉ?” – Một lúc sau thì Cột Đèn thắc mắc chuyện cũ.

    Lúc này, June sực nhớ tới phương thuốc – phần thưởng mà nó giành được trong trò chơi mê cung. Sờ tay lên túi quần, June thở phào nhẹ nhõm khi phương thuốc vẫn còn đó, những tưởng nó đã quên mất nếu như Cột Đèn không nhắc lại.

    “Mình vẫn chưa uống kể từ khi có nó, suýt nữa thì quên đấy.” – June thật thà trả lời.

    Cột Đèn đột nhiên quay lại nhìn nó với vẻ ngạc nhiên, như thể muốn hỏi rằng tại sao tới giờ nó vẫn chưa sử dụng một phương thuốc tuyệt vời như thế.

    “Đừng nhìn mình với vẻ mặt đó...” – June lên tiếng như biện hộ cho mình. – “... chỉ là mình chưa thật sự sẵn sàng mà thôi.”

    “Chưa sẵn sàng? Cậu vẫn còn khúc mắc gì sao June, cậu có thể nói ra để chúng ta cùng nhau giải quyết. Được chứ?” – Cột Đèn đưa ra gợi ý của mình.



    June lại rơi vào trạng thái chần chừ như lần nọ, nó nắm chặt bên ngoài túi quần, và dễ cảm nhận thấy thứ ma lực mạnh mẽ của chiếc hộp nhỏ màu hổ phách vẫn đang thôi thúc ham muốn trong con người mình. Hãy uống đi và tôi sẽ giúp bạn quên đi mọi đau khổ. Một lần nữa, giọng nói vô hình ấy lại văng vẳng trong đầu nó, những mâu thuẫn xuất hiện trong tâm trí của June. Tại sao có thể uống phương thuốc này trong khi vài phút trước June vẫn nhớ tới bố và mẹ. Nhớ kỷ niệm về buổi dã ngoại cuối tuần bên bìa rừng, hay giai điệu của Carie Underwood trên chiếc xe của mẹ Jess vẫn vang vọng đâu đó trong tâm trí nó, chỉ là không thể xếp thành hình hài mà thôi. Rõ ràng là June vẫn luôn nghĩ về họ, thương nhớ họ. Vậy tại sao nó phải uống viên thuốc này chứ? Nhưng đồng thời nó cũng cảm thấy không hề muốn vứt bỏ lựa chọn này

    “June...”” – Cột Đèn lên tiếng khi thấy June im lặng quá lâu. – “... Nếu như không uống cậu sẽ bỏ lỡ một cơ hội tuyệt vời đấy! Nghe lời tôi, hãy uống phương thuốc đi!”

    Cột Đèn ra sức nài nỉ June.

    ...

    Á… á… á...

    Một tiếng hét lớn khiến June bừng tỉnh, nó vội vàng đứng dậy, nhìn về đằng sau. Là Gavin. June chẳng nói chẳng rằng, cũng không để ý tới Cột Đèn hay phương thuốc lãng quên nữa, nó cắm cúi chạy về phía bệnh viện. Bởi lẽ, Gavin đang gặp nguy hiểm.

    *



    “Gavin.”

    June ẩy mạnh cánh cửa cuối hành lang, rồi vội vàng chạy vào.

    “Cậu có sao không?”

    June chạy lại đỡ Gavin đứng dậy. Giọng nói quen thuộc của June lôi cậu trở lại với ánh sáng nhờ nhờ trong căn phòng, Gavin thấy mình đang nằm sõng soài trên nền nhà lạnh ngắt. Đồng thời, cảm giác thân thể cũng như được nới lỏng, luồng không khí nhanh chóng tràn vào trong lồng ngực khiến cậu thấy dễ thở hơn. Cậu nhìn xuống dưới chân, không còn xúc tu nào nữa, những quái nhân đã biến mất như chưa từng tồn tại. Giường bệnh vẫn trống trải, đồ đạc không hề bị di chuyển chút nào, Gavin lấy làm lạ.

    “June, cậu...” – Gavin lắp bắp không nói thành lời.

    “Ban nãy mình nghe thấy tiếng la thất thanh của cậu nên chạy vào ngay.” – June nói với giọng điệu lo lắng hết sức.

    Nó đỡ Gavin đứng dậy, đi ra khỏi phòng.

    “Mau... mau đưa mình ra khỏi đây, June.” – Gavin đề nghị.

    June không nói gì, vội xóa sạch khung cảnh ở bệnh viện, hành lang tối tăm và những căn phòng biến mất, hai đứa trở về với trảng cỏ xanh thẫm. Nó đỡ Gavin ngồi dưới một gốc cây cổ thụ, cậu vẫn chưa thoát khỏi cảm giác hãi hùng, gương mặt tái mét, mồ hôi nhễ nhại khắp người.

    “Nói cho mình biết đã có chuyện gì xảy ra, Gavin?” – June nóng lòng muốn biết mọi chuyện.

    “Tớ... tớ nhận thấy thế giới này không hẳn được vận hành theo ý muốn của cậu đâu... June à! Mọi chuyện... nằm ngoài sức tưởng tượng của chúng ta.” – Gavin gắng gượng trả lời.

    June không nói gì nữa, nhưng nó chắc chắn rằng phải tìm hiểu căn nguyên của những chuyện này. June chợt nhớ tới chuyện xảy ra trong mê cung với Gavin về Thằng Ngốc gớm ghiếc nào đó, nhưng khi ấy nó đã phớt lờ và coi như không có chuyện gì xảy ra.

    “Đi thôi, Gavin.” – June nói.

    “Đi đâu?” – Gavin hỏi lại.

    “Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu chuyện gì đang diễn ra ở thế giới này.” – June đáp, giọng chắc nịch.
     
  3. Nhom4.0

    Nhom4.0 Lớp 3

    June và Gavin đáp nhẹ xuống nền đá ẩm ướt, rêu mọc xanh rì. Gió thổi mạnh khiến mái tóc dài của June bay ngược về phía sau. Nếu phóng tầm mắt ra xa, có thể thấy mặt biển hiền hòa đang trải rộng, cả hai nhận ra mình đang đứng trên một vách đá cao, dựng đứng.

    “Chúng ta đang ở đâu vậy June?” - Gavin thắc mắc ngay khi thấy khung cảnh đó.

    “Đi theo mình.” - Không trả lời câu hỏi của Gavin, June rảo bước về phía trước.

    Gavin lấy làm lạ nhưng cậu đành phải lặng lẽ theo June, càng tiến gần tới rìa, cậu càng nghe thấy tiếng sóng đánh mạnh hơn vào những vách đá.

    “Cậu không thấy quang cảnh này quen thuộc sao Gavin?” - June quay lại hỏi.

    “Giống như vách đá Moher nổi tiếng ở Ireland.” - Gavin suy nghĩ một lát rồi trả lời.

    “Đúng rồi.” - June đáp lại.

    “Nhưng chẳng phải chúng ta vẫn còn nhiệm vụ...?” - Gavin lại thắc mắc.

    “Nào, Gavin...” - June vội ngắt lời. - “... Tớ đâu có quên nhiệm vụ của chúng ta. Tớ có ý tưởng này.”

    June nói rằng, nó sẽ tạo ra hai chiếc xe hơi gần như đã hoàn chỉnh, chỉ cần lắp ráp thêm một và 0069 chi tiết, phụ tùng nhỏ là có thể hoạt động được. Hai đứa sẽ dùng chiếc xe đó bay vòng quanh thế giới này, biết chừng sẽ phát hiện ra điều gì đó bất thường như lời Gavin đã nói.

    “Cậu thấy thế nào, Gavin?” - June hỏi lại sau khi đã trình bày một thôi một hồi về ý tưởng của mình.

    “Đồng ý.” - Gavin đáp lại.

    Sau đó June tạo ra một trảng đất trống khá rộng. Theo động tác đưa cọ vẽ thực hiện gần như đã thuần thục, nó tạo ra hai chiếc ô tô đã cơ bản lắp ráp xong các bộ phận quan trọng, giờ chỉ cần thêm một số phụ tùng là có thể chạy được. June mô phỏng theo chiếc Fusion mà bố Jared đã từng mua tặng nó.

    “Bắt đầu nào!” - June nói rồi xắn tay áo khoác lên, bắt đầu vào công việc ngay.

    Dù không được bố Jared chỉ dạy nhiều về cách lắp ráp, nhưng June biết phân biệt từng loại trong số chúng, cũng như công năng của từng phần, phần nào cần lắp trước và phần nào cần lắp sau. Bên cạnh mình, Gavin cũng tỏ ra hăng hái hết sức khi cậu khéo léo sử dụng những chiếc tuốc nơ vít vặn con ốc sao cho thật chặt, hay kiểm tra bộ phận phanh đã hoạt động tốt chưa. June luôn thích thú mỗi khi lắp ráp hay sửa chữa một chiếc xe. Có lần June đã nói với bố Jared rằng, nếu như sau này nó không đi học đại học thì sẽ xin một chân phụ giúp trong xưởng sửa chữa của ông, bố Jared thường mỉm cười mỗi khi nghe tới chuyện đó.

    June khéo léo di chuyển những bộ phận được lắp sau cùng bằng cọ vẽ của mình, mọi chuyện với chiếc xe dường như đơn giản hơn trong thế giới này, ít ra nó cũng không phải đụng chân đụng tay gì mấy. Sau khi xong phần mình, June quyết định quay sang giúp Gavin. Một lát sau, hai chiếc xe bóng loáng như mới hiện ra trước mặt hai đứa.

    “Lên xe thôi, Gavin.” - June vừa phấn khích nói, vừa lanh lẹ chui vào xe.

    Gavin cũng chui vào xe của mình.

    “Cùng khám phá thế giới nào!” - June nói lớn, gió bắt đầu nổi lên, át đi giọng của nó.

    June vặn chìa khóa, sang số rồi nhấn chân ga. Chiếc xe từ từ bay lên khỏi mặt đất, tựa như được nâng bởi một sức mạnh vô hình. Cả hai chiếc xe đang lơ lửng cách mặt đất gần mười mét, June có thể thấy mặt biển bắt đầu dậy sóng, chúng ngoác miệng, táp mạnh vào những vách đá đen ngòm.

    “Lên đường thôi, Gavin.” - June cười nói, nhấn sâu chân ga, chiếc xe lao vút về phía trước, chẳng mấy chốc mất dạng vào trong những đám mây trắng xốp, bồng bềnh.

    Gavin cũng làm theo tương tự.

    ***

    Khi Jared trở lại phòng bệnh thì thấy Richard - chồng hiện tại của Jess. Jared đã ngờ ngợ trong lúc tạt vào bãi đỗ xe bệnh viện, loáng thoáng nhìn thấy Richard bước ra từ chiếc BMV X3 sang trọng cùng với hai con, nhưng khi ấy ông đinh ninh rằng mình đang nhìn nhầm một ai đó chứ không phải ông ta.

    Jared đứng im hồi lâu bên ngoài cửa chính, vài người đi qua tọc mạch nhìn với vẻ mặt tò mò, sau đó Jared quyết định trở về nhà. Một mặt, ông không biết xử trí ra sao trong tình huống này, mặt khác, ông không muốn mặt đối mặt với Richard. Jared nghĩ rằng, gia đình họ cần một không gian riêng, nhất là Jess, bà ấy cần sự an ủi hơn bất cứ ai trong hoàn cảnh này.

    Jared lặng lẽ lái xe ra khỏi khuôn viên bệnh viện trung tâm thị trấn, rẽ trái ra đại lộ B, thẳng tiến về vùng nông trại ngoại ô. Khoảng mười lăm phút sau, Jared có mặt ở nhà. Ông tắt máy, xuống xe. Người hôi rình như cú, Jared nghĩ, cần phải tắm táp và nghỉ ngơi thôi.

    “Cậu về rồi!” - George từ phía nhà kho đi ra và nói lớn với Jared, ông lão hơi lãng tai một chút.

    Tay ông lão vẫn xách nguyên xô nước uống của lũ ngựa, quần áo thì lúc nào cũng lấm lem bùn đất. George là bạn chiến đấu cùng cha của Jared hồi Thế chiến thứ Hai. May thay, họ vẫn là những người sống sót, nhiều khi cao hứng, George thường nói với Jared như vậy. Sau này cha Jared mất vì bạo bệnh, khi ấy Jared mười sáu tuổi, chính George là người đã lo liệu đám tang. Thi thoảng nếu Jared vắng nhà, ông thường nhờ George trông nom, trợ giúp một vài việc vặt trong trang trại của mình. Giờ đây, trong thâm tâm Jared, lão George như người thân thiết duy nhất bên cạnh ông vậy.

    “Con bé thế nào rồi?” - George đặt xô nước xuống bậc thềm, bình thản ngồi xuống rồi hỏi tiếp. Tiện tay, lão rút tẩu thuốc được chạm khắc tinh xảo từ áo khoác kaki dày cộm ra, châm lửa rồi bắt đầu hút như một thói quen thường ngày.

    Hình ảnh này làm Jared liên tưởng đến bố mình, ông cũng nghiện hút thuốc bằng tẩu. Nhưng tiếc thay, khoảng thời gian bố còn sống, Jared dường như không có nhiều thời gian để ở bên cạnh ông, ngay cả khi ông đang lâm bệnh nặng, cũng chẳng mấy khi Jared có ở nhà. Jared nhớ, đường đua và tốc độ đã ngốn phần lớn thời gian của mình rồi.

    “June vẫn chưa có tiến triển gì, con bé đang trong tình trạng hôn mê thực vật và không có dấu hiệu tỉnh lại.” - Jared ngồi xuống cạnh George, buồn rầu thông báo.

    George chưa nói gì, lão vẫn luôn tỏ ra bình thản như thế, dù lão rất thương June. Tới độ tuổi nhất định, con người sẽ trở nên điềm tĩnh như vậy trước mọi sóng gió, nhưng tiếc thay, Jared chưa thể làm được điều đó. Khi nghe vị bác sĩ trực ca thông báo chính xác về tình hình của June, Jared đứng ngồi không yên.

    George tiếp tục phì phèo với tẩu thuốc của mình trên môi.

    “Đây mới là thời gian thử thách ban đầu thôi. Cố gắng lên Jared, bố cậu luôn hy vọng vào cậu. Lúc nào ông ấy cũng nghĩ thế. Tôi tin cậu sẽ vượt qua chuyện này sớm thôi.” - George nói.

    Sau đó, lão đứng lên, trao chìa khóa lại cho Jared. Lão nói thêm, nếu cần giúp đỡ điều gì thì hãy nói với lão, vì dù gì lão và cha của Jared cũng từng là những người bằng hữu rất thân thiết trên chiến trường hay cả khi họ rời xa quân ngũ, trở về quê nhà. Jared nhận lại chìa khóa và không quên nói lời cảm ơn.

    Jared chưa vội vào trong nhà, ông ngẫm nghĩ một lúc rồi lặng lẽ di chuyển về phía nhà kho. Kể từ ngày June gặp tai nạn, ông chưa một lần vào trong đó.

    Jared tra khóa mở cửa. Ánh sáng ban ngày lọt qua cánh cửa, soi rọi mọi thứ bên trong, lớp bụi bẩn được thể bám dày trên những đồ đạc không còn sử dụng, từ đống bàn ghế cũ, chiếc sofa họa tiết ca rô thủng lỗ chỗ hay thậm chí cả đầu của một chiếc máy kéo đã rỉ sét phần nhiều.

    Jared nhìn quanh một lượt, rồi từ tốn chỉnh lại chiếc ghế đẩu nằm chỏng chơ trên nền đất. Ông lặng lẽ ngồi xuống, hai tay chống cằm, mắt đăm đăm nhìn vào khoảng không vô định. Lúc này, Jared chợt nhận ra ở góc bên phải nhà kho, một vật thể được phủ lên một tấm vải trắng với hình dáng không rõ ràng như một đống bùi nhùi, lộn xộn. Jared chợt nhận ra đó là chiếc xe của June, sau khi cảnh sát xử lý xong hiện trường vụ tai nạn, họ đã cho người chở chúng về đây. Suýt nữa thì Jared đã quên béng đi sự hiện diện của đống đổ nát đó.

    Đoạn, Jared tiến lại gần, gỡ bỏ tấm vải trắng phủ lên chiếc xe. Hư hại khá nặng, Jared nhận định. Nắp ca-pô hõm sâu vào một khoảng lớn, phần thanh cản đã bung rời ra, còn toàn bộ phần kính chắn phía trước buồng lái gần như đã vỡ tan tành. Jared tạm thời chưa biết mình sẽ làm gì với chiếc xe này, nhưng với ông, nó mang một ý nghĩa rất quan trọng. Jared chợt nhớ tới bóng dáng con gái mỗi khi nó lái xe về nhà, đỗ xịch trước khoảng sân nhỏ nằm dưới tán cây sồi. Cửa xe bật mở, June từ từ bước ra, con đã mười sáu tuổi nhưng có bao giờ Jared để ý tới điều đó. Từ ngày Jess trở lại Dallas, hầu như hai cha con không trò chuyện gì nhiều, họa chăng chỉ vài câu hỏi thăm qua loa vào thời gian ăn tối ngắn ngủi.

    Jared ngẫm nghĩ một chút, rồi sau đó, ông quyết định mang một số đồ nghề của mình ra. Do tổn hại nhiều chỗ nên Jared cần nhiều thời gian, thậm chí ông sẽ phải gọi người mang tới xưởng để sửa chữa những chỗ quan trọng, nhất là phần kính chắn phía trước phải thay mới hoàn toàn. Jared hy vọng một ngày, con bé có thể nhìn thấy nó khi tỉnh dậy.

    Thời gian trôi nhanh hơn Jared nghĩ, chẳng mấy chốc mà đã năm giờ chiều, ông sẽ tới bệnh viện vào sáng mai, tối nay ông nghỉ lại nhà. Nghĩ vậy, Jared chùi vội tay vào chiếc khăn trắng đã cáu bẩn. Ông vào nhà, bật đèn, đi thẳng vào căn bếp nhỏ.

    Jared mở tủ chạn lấy chai rượu rum đã lâu không dùng, chai rượu này được George biếu tặng vào tháng Tư năm ngoái. Jared rót ra nửa cốc, rồi uống cạn một hơi. Đã lâu không uống, Jared hơi nhăn mặt khi thứ chất lỏng cay xè đi qua cuống họng, trôi xuống dạ dày. Jared thở khẽ, một cảm giác ấm nóng lan tỏa khắp người, ông ngả lưng ra ghế bành, vẻ thư giãn.

    Một lát sau, Jared thấy bụng hơi cồn cào, có lẽ do uống rượu suông nên mới thế. Nhưng ông cũng chưa biết sẽ ăn gì. Trong lòng ông luôn có một khoảng trống hoác vô định mỗi khi nghĩ về hình ảnh hiện tại của con gái. Jared thừa nhận mình đã không chăm sóc tốt cho con, nên mới ra nông nỗi này. Jared luôn im lặng xuyên suốt cuộc nói chuyện với Jess dù bà ra sức trách móc ông, Jared hiểu tất cả chuyện đó đều xuất phát từ sự lo lắng cho con mà thôi.

    Giờ này có lẽ Richard đã trở về Dallas, Jared nghĩ. Công việc làm ăn của ông ta ở đó có vẻ khấm khá, nghe đâu còn mở thêm chi nhánh tại một số thành phố lớn ở khắp các bang từ Texas tới New Hampshire. Jess đã có một cuộc sống tốt đẹp hơn sau khi rời khỏi Shadowfiled.

    Jared đột nhiên đứng dậy và thấy người hơi chếnh choáng. Ông đi về phía bệ bếp, rót một cốc nước lạnh. Jared ngửa cổ, tu một hơi cạn sạch, thấy tỉnh táo hơn đôi chút. Jared nhìn một lượt từ bếp ra phòng khách, mọi thứ vẫn được bài trí giống hệt căn nhà trong thị trấn mà trước đây họ đã từng ở. Lúc chuyển nhà tới đây, Jared cố tình sắp xếp như thế. Ông không biết chuyện mình đang làm có thực sự đem lại một ý nghĩa nào không, hay chỉ như đang níu kéo một thứ gì đó xa xôi trong quá khứ. Jared không cần biết, chỉ là ông không thể diễn tả bằng lời nói của mình. Đôi lúc Jared nghĩ, thứ gì đã biến một anh chàng tính tình hào sảng, phóng khoáng, đam mê tốc độ, từng là tay đua công thức I cự phách trở thành một người đàn ông thâm trầm, ít nói, ít bộc lộ cảm xúc ra bên ngoài, ngay cả với con gái mình. Hôn nhân, áp lực cuộc sống ư? Jared phủ nhận ngay. Bởi lẽ kết cục của gia đình họ là tất yếu; và việc của họ chỉ là chấp thuận mà thôi. Một tờ giấy để trên mặt bàn và chỉ cần hai chữ ký, vậy là xong! Nhưng mỉa mai thay, khi nghĩ về chuyện đó, giờ Jared chỉ thấy đau lòng.

    Đoạn, Jared tiến về chiếc máy cassette cũ mèm đặt trên tủ đứng nhỏ, nó đã bong tróc vài chỗ bên ngoài. Chồng đĩa CD vẫn để nguyên bên cạnh không suy suyển gì. Nếu trong căn nhà cũ thì vị trí đang đặt cái kệ này sẽ thuộc về chiếc dương cầm của Jess. Ngày bà ấy ra đi, nó cũng đã được chuyển về Dallas. Chỉ là một kỷ niệm thôi, Jared tự nhủ. Sau đó, ông miết nhẹ bàn tay thô kệch của mình lên chiếc máy, lên chồng đĩa. Jared nhắm mắt lại mường tượng, dường như ông có thể nghe được giai điệu nào đó đang vọng lại từ một chiếc đàn dương cầm. Ban đầu chỉ văng vẳng như thể âm thanh ấy lọt ra từ một quán bar kiểu cổ, khi ta ngẫu nhiên đi trên đường. Nhưng rồi chúng rõ dần thành những giai điệu hoàn chỉnh. Khi ấy, Jared thấy mình trở về thời điểm hơn ba năm trước, lúc họ vẫn còn là một gia đình.

    *

    Vào vụ thu hoạch, Jared dành phần lớn thời gian trong nông trại để đốc thúc những người làm thuê. Đôi khi còn phải ngủ lại đó với họ, công việc lúc nào cũng bộn bề.

    Hơn chín giờ, Jared lái xe một mình trên con đường tối thẫm, trở về căn nhà nhỏ. Đêm đã ập xuống, ánh đèn đường vàng vọt trải ra. Không khí thêm phần u buồn, duy chỉ có một vài địa điểm như một quán bar, quán cà phê âm nhạc là nhộn nhịp hơn hẳn. Tiếng nhạc xập xình quyện hòa với ánh đèn led đủ sắc màu. Jared chạy qua Blue Night và thấy gã Hippie đang cười đùa, tán tỉnh một cô gái tóc vàng hoe “lạc đường” nào đó. Shadowfield luôn chào đón những kẻ lạc đường. Jared chép miệng nói.

    Sau đó, Jared nhấn sâu chân ga, phóng nhanh về căn nhà nhỏ của mình. Về tới nhà thì đã gần mười giờ tối, Jared tắt máy, dừng xe. Trong không gian yên tĩnh, giai điệu bài Autumn Leaves của Daniel Kajmakoski nhẹ nhàng vang lên. Jared khẽ khàng mở cửa, ông không muốn gây ra tiếng động. Khi ấy, Jared nhìn thấy hình ảnh Jess bên chiếc đàn piano, từng ngón tay thon mềm thả nhẹ trên những phím đàn đen trắng một cách điêu luyện. Jess dường như không để ý tới không gian xung quanh, vì đang mải đắm chìm trong giai điệu của riêng mình. Jared cứ đứng đó nhìn Jess cho tới khi bản nhạc kết thúc. Không gian chợt im lìm. Jess đi vào phòng ngủ, tắt đèn. Jared bèn đóng cánh cửa lại, rồi lặng lẽ đi ra ngoài.

    Jared định trở lại nông trại, nhưng thiết nghĩ người làm công giờ này đã ngủ hết. Vả lại, ông không muốn làm phiền ai trong khoảnh khắc này. Cuối cùng, Jared phóng thẳng tới Blue Night. Con phố nhỏ dài hun hút, tối tăm, quán vẫn sáng đèn. Jared đẩy cửa bước vào, chiếc chuông gắn trên cửa kêu leng keng báo hiệu có khách. Một gã lang thang có vóc người to lớn, râu tóc rối bù ngoái đầu lại nhìn Jared với ánh mắt vô cảm, sau đó gã trở lại với ly scotch của mình.

    Jared cởi áo khoác ra mắc lên trên giá để ở góc phòng. Jared tiến thẳng về phía quầy, chỗ gã Hippie đang chăm chú đọc một cuốn tạp chí về bóng chày.

    “Chào Aiden, cô gái tóc vàng hoe ‘lạc đường’ khi nãy của cậu đâu rồi?”

    Jared lên tiếng bông đùa. Aiden là tên thật của gã Hippie. Nó có nghĩa là ngọn lửa nhỏ theo quan niệm xa xưa của người Celt trong thần thoại Celtic.

    “Chào Jared, sao cậu biết hay vậy?” - Gã Hippie ngạc nhiên hỏi lại, tiện tay lẳng cuốn tạp chí qua một bên, cuốn tạp chí không đặt lại đúng chỗ mà rơi thẳng xuống sàn nhà. Gã cũng không buồn nhặt lên.

    “Nãy từ nông trại về tôi có nhìn thoáng qua đây và thấy.” - Jared đáp, ngồi xuống chiếc ghế cao đặt cạnh quầy.

    “Vẫn như cũ chứ?” - Gã Hippie hỏi Jared, đồng thời với tay lấy đồ pha chế để trên giá.

    “Một cocktail Caipirrinha như mọi lần thôi.” - Jared đáp gọn lỏn.

    Gã Hippie cười không nói gì, sau đó gã chú tâm vào việc pha chế rượu.

    “Của cậu đây, Jared.” - Gã nói, đẩy ly cocktail Caipirrinha trứ danh của Brazil ra trước mặt Jared.

    Jared nói cảm ơn gã, rồi đưa môi nhấp khẽ một ngụm nhỏ. Jared cảm thấy người như sảng khoái, thư giãn hơn.

    Những giai điệu của Elvis Presley vẫn dìu dặt vang lên. Jared chợt nhớ lại chuyện cũ, vào cái lần mà ông đã tỏ tình với Jess tại đây. Lần đó, đúng là Jared có hơi ngượng ngùng thật! Thời gian trôi quá nhanh, đôi khi Jared chẳng còn nhận ra mình mỗi khi soi gương nữa, gương mặt có phần già nua và ánh mắt thì mệt mỏi. Phải chăng thời gian là thủ phạm đã gây ra sự biến đổi trong cuộc sống này? Mọi thứ đều biến đổi.

    “Có chuyện gì sao Jared, sao cậu lại ở đây giờ này?” - Gã Hippie nhìn Jared với vẻ mặt hết sức tò mò.

    “Không có gì, chỉ là... vài chuyện vặt vãnh trong trang trại với mấy tay làm thuê láu cá thôi. Cậu biết đấy, đó là vấn đề chung của những người làm chủ ở Shadowfield mà.” - Jared cố gắng nở một nụ cười đúng nghĩa, và ông cho rằng gã Hippie chẳng thể hiểu những gì mình đang nói, những tay chủ quán bar có bao giờ biết chút gì về việc ở trang trại đâu.

    “Jess sao rồi? Đã lâu tôi không thấy cô ấy?”

    Gã Hippie vẫn không buông tha, Jared cảm thấy hối hận đôi chút khi mình đã bước vào đây. Nhưng thiết nghĩ cũng chẳng nơi nào chứa chấp Jared vào giờ này, dù gì gã Hippie cũng là bạn của hai người.

    “Jess dạo này thường xuyên ở nhà, và... như cậu biết đấy, làm mấy việc ca hát, âm nhạc của cô ấy, rồi còn phải chăm sóc cho June nữa, con bé mười ba tuổi, cậu biết thừa là những chuyện gì dễ xảy ra ở độ tuổi này mà. Tôi cũng không muốn làm phiền, nên thường chú tâm vào chuyện làm ăn ở nông trại hơn...” - Jared ngập ngừng trong thoáng chốc. Tránh cái nhìn trực diện của gã Hippie, ánh mắt Jared chuyển hướng xuống ly cooktail màu trắng đục đã vơi đi một nửa của mình.

    Gã Hippie im lặng, ra chiều ngẫm nghĩ. Mắt gã lơ đãng lướt trên những bóng đèn neon đủ ánh sáng xanh đỏ phía trên đầu.

    “Tôi nghĩ là cậu và Jess cần nói chuyện với nhau nhiều hơn, Jared à!” - Sau cùng, gã nói.

    Một câu vô thưởng vô phạt nhưng chẳng hiểu sao lại khiến Jared phiền lòng như thế. Họ đã không có cuộc nói chuyện thẳng thắn nào trong thời gian gần đây, họ đã tránh mặt nhau. Bận tối mắt tối mũi cả ngày ở nông trại thì lấy đâu ra thời gian để chuyện trò chứ, Jared suy nghĩ như một sự mỉa mai chính bản thân mình. Nhưng dù gì nó chỉ là cái cớ, hình ảnh của Jess bên cây đàn dương cầm như ám ảnh tâm trí Jared mãi không thôi. Jared hiểu rằng, một phần tâm hồn Jess nằm bên trong những giai điệu và bản nhạc của bà. Jess khao khát về một thời quá vãng, nó luôn âm ỉ cháy bên trong bà, chỉ chờ ngày để bùng cháy trở lại. Jared chẳng biết đó là ngày nào khi vẫn cứ ngồi đây và mơ mộng về những tháng ngày đã qua. Con người ấy đã chết - con người của nhiệt huyết, hào sảng, của tốc độ đã chết. Jared chẳng thể sống lại những năm tháng tuổi trẻ của mình thêm lần nữa sau tai nạn năm đó. Nhưng Jess thì hoàn toàn có thể, bà ấy hoàn toàn có thể sống lại với con người của chính mình.

    “Cho tôi thêm một ly nữa được không Aiden, nhưng lần này là Tequila nhé!” - Jared quay sang phía gã Hippie với ánh mắt gần như khẩn cầu. Jared chẳng thể che giấu gì được nữa.

    Gã Hippie chẳng nói chẳng rằng, rót ra một ly Tequila, loại ly một shot.

    “Cậu có cần uống đúng cách không?” - Gã Hippie hỏi, nghĩa là cần thêm chanh và muối hay không. Đó là cách để thưởng thức một ly Tequila đúng nghĩa.

    “Không cần.” - Jared lắc đầu nói, rồi tống thứ rượu màu ngà ngà vàng, cay xè vào thẳng trong cuống họng. Ông cảm thấy một vị cay nồng như thiêu đốt cổ họng và khoang bụng của mình. Đã lâu rồi Jared không thử uống một ly rượu mạnh như thế này. Nhưng Jared thây kệ, đêm hẵng còn dài.

    “Cậu ổn chứ Jared?” - Gã Hippie tiếp tục hỏi, giọng hết sức quan tâm.

    Lúc này trong quán chẳng còn ai. Gã râu tóc bù xù ban nãy đã biến mất không dấu vết, hệt như một bóng ma.

    “Uống với tôi vài ly được không Aiden, cũng đã lâu rồi chúng ta không uống với nhau, phải hơn nửa năm rồi ấy chứ. Hôm nay tôi muốn say một trận.” - Jared đưa ra lời đề nghị.

    Gã Hippie nhìn Jared tần ngần hồi lâu với vẻ mặt ái ngại.

    “Được thôi...” - Gã nói. - “... Nếu chuyện đó làm cậu cảm thấy ổn hơn. Tôi sẽ chiêu đãi cậu một chầu ra trò vào đêm nay. Blue Night luôn đón tiếp những kẻ không thích ngủ mà.”

    Gã cười khẩy, sau đó lấy thêm một chai whisky ngô từ trên giá xuống. Gã rót ra hai chiếc cốc cỡ lớn. Một gã cầm, một đưa cho Jared.

    “Cho những phiền muộn và... cho tuổi trẻ.” - Gã giơ cốc rượu sóng sánh thứ ánh sáng vàng sậm phản chiếu với đèn neon ra trước mặt; và gã nói với thứ ngôn ngữ có phần văn hoa.

    Jared cũng làm theo tương tự.

    “Cho hai người đàn ông đơn độc bậc nhất Shadowfield.” Jared pha trò, chạm mạnh vào ly của gã Hippie, khiến rượu sánh ra ngoài một chút.

    Jared tu một hơi dài, gần cạn ly, thứ chất lỏng này không còn khiến ông cảm thấy chếnh choáng như ban đầu nữa. Chỉ là, ông càng cảm thấy lòng mình trở nên trống rỗng mà thôi.

    Nhạc đã tắt từ bao giờ. Giữa đêm khuya thinh lặng và tăm tối, cả thị trấn nhỏ vẫn chìm sâu trong giấc ngủ!

    *

    Chuông đồng hồ điểm đúng bảy tiếng. Jared tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trên ghế bành, toàn thân đau nhức. Đèn vẫn bật, cả không gian nhuốm một màu vàng nhàn nhạt, bẩn thỉu. Đồ đạc trong cảnh tranh tối tranh sáng hiện ra có phần trừu tượng hơn.

    Jared thấy hơi váng đầu, có lẽ do ly rượu rum ban nãy. Jared ngồi thẳng dậy, tay day trán cho tới khi chúng tấy đỏ. Jared sang tủ thuốc lấy mấy viên aspirin để uống, nhưng lát sau vẫn không thấy ổn lắm. Jared nghĩ mình cần tắm rửa, ăn gì đó rồi đi ngủ một giấc.

    Ngày mai hãy còn dài và nhất là những thách thức vẫn còn ở phía trước. Ai cũng có “cuộc chiến” của riêng mình. Ngay cả cha của Jared, trước khi lìa đời, cũng chưa từng thôi chiến đấu cho bản thân mình hay cho những người khác. Điều đó luôn làm cho những người bạn như lão George tự hào. Jared nghĩ vậy, và ông cảm thấy bản thân nhẹ nhõm hơn đôi chút. Jared ngầm hiểu rằng, cả ông và Jess đều đã có những lựa chọn của riêng mình, đã từng có những khoảng thời gian quá khứ đẹp đẽ. Nhưng khi ngoảnh nhìn lại, quá khứ đã cách một khoảng khá xa đủ để thấy một bức màn đã được dựng lên, và đang ngăn trở mọi thứ. Jared nhận thấy mình cần thỏa hiệp với nó, để ông có thể trở về với hiện tại của mình. Rất có thể trong suốt những năm tháng sau cuộc hôn nhân đổ vỡ, “người đàn ông” trong Jared đã chọn một “cuộc sống tạm” với những ti tiện, ích kỷ. Vậy nên giờ đây, Jared cần trung thực với chính mình. Jared chợt nghĩ tới June, hình ảnh con gái cầm cọ vẽ hay tự bước xuống từ chiếc xe mà nó lái, Jared như thấy vững lòng hơn.

    Jared nghĩ vậy, rồi đi thẳng vào nhà tắm. Một lát sau chỉ còn nghe thấy tiếng xả nước vào bồn, tiếng xả nước trên cơ thể, hoặc nếu lắng nghe kỹ thì chỉ là một tiếng động kỳ lạ phát ra từ những cánh đồng tối thẫm vọng tới.

    Tắm táp xong xuôi, Jared kiểm tra tủ lạnh xem còn thứ gì ăn được không. Hầu hết những đồ tươi như rau củ và trái cây đều đã bốc mùi. Ông thẳng tay liệng chúng vào sọt đựng rác, chỉ còn vài món đồ hộp là có thể dùng được. Jared mở một hộp cá mòi và đào đóng hộp, ăn với vài lát bánh mì nho đã trở nên khô cứng.

    Chuông điện thoại réo lên từng hồi, buộc Jared bỏ dở hộp cá, chạy lại phía bàn cầm chiếc điện thoại lên. Suốt cuộc trò chuyện ngắn ngủi, ông chỉ trả lời những từ ngắn gọn như “được rồi”, “tôi hiểu” và kết thúc bằng câu “tôi sẽ đi ngay”. Sau đó, Jared cúp máy, khoác vội chiếc áo mới, nhanh chóng xỏ giày vào chân. Y tá vừa gọi báo tình hình của June, nên Jared phải đi ngay bây giờ, không thể chậm trễ được.

    Jared mở khóa, sang số rồi nhấn sâu chân ga, phóng thẳng về phía thị trấn trong đêm tối mịt mùng.
     
  4. Nhom4.0

    Nhom4.0 Lớp 3

    Đám mây trắng xốp tan dần, mọi thứ hiện rõ hơn. June đột ngột thắng gấp, suýt nữa thì Gavin đã đâm sầm vào nó. June quay đầu lại trêu ngươi cậu, sao chậm như rùa bò vậy Gavin? Nó đắc chí phóng vút về phía trước. Sao mình lại có thể thua kém cậu được chứ! Gavin trộm nghĩ.

    “Đợi đấy June!” – Gavin la lớn như muốn thách thức June.

    Cậu nhấn sâu chân ga tăng tốc, chiếc xe hơi mất dạng.

    June chẳng nghe thấy gì, dù loáng thoáng một chút. Nhưng nó chắc mẩm, Gavin đang muốn nói gì đó. Nó thắng phanh lần nữa, rồi từ từ quành lại, chiếc xe hơi chao đảo. Lánh ra khỏi những tảng mây xốp dày, xám xịt, nhưng lúc này June chẳng thể thấy Gavin đâu. Có lẽ cậu ấy lại lạc đường nữa rồi.

    Đoạn, June quyết định cho xe chạy chầm chậm, từ từ. Mây tan dần, cho tới khi quang hẳn. Khung cảnh của vùng đất rộng lớn dần dần hiện rõ hơn. June ngoái đầu lại sau thì phát hiện mình đã bỏ xa mặt biển. Những vách đá chỉ còn là chấm nhỏ li ti. Nó cũng không còn nghe thấy tiếng sóng nữa, chỉ có gió rít bên tai. Mình đã đi được xa thế sao, June thầm nghĩ. Tiến một đoạn nữa thì không còn dấu hiệu của mặt biển. Cảnh trí lùi dần về phía sau. Phía dưới mặt đất, mọi thứ đang bắt đầu biến đổi.

    June thấy vậy bèn gạt cần xuống (chiếc cần này được nó thêm vào xe với chức năng nâng lên hay hạ xuống). Chiếc xe xuống gần mặt đất hơn, giờ đây nó có thể nhìn rõ hơn mọi thứ.

    Một con đường rộng lớn, rải nhựa đâm thẳng về phía chân trời xa tắp. Hai bên đường, những ngôi nhà theo lối kiến trúc cổ, san sát mọc lên thành dãy, thẳng đều tăm tắp. Cửa chính sơn màu xanh vẫn đóng im lìm. Có lẽ chẳng ai sống trong đó cả. June liên tưởng tới hình ảnh những thị trấn bị bỏ hoang ở Ba Lan trong thời kỳ phát xít Đức chiếm đóng. Nó rẽ trái, vòng ra phía sau.

    Cánh đồng rộng lớn trải ra, giống như vùng nông trại ở thị trấn Shadowfield. June hạ xuống thấp hơn, gần như chiếc xe có thể chạm vào ống khói của mái nhà. Những đốm nhỏ xíu màu tím xuất hiện trên cánh đồng xanh thẫm. Nheo mắt nhìn thật kỹ, June biết được, đó là hoa cây thạch nam. Loại cây dại thường mọc ở nơi không canh tác. Những đốm tím xuất hiện nhiều dần, chúng mau chóng lan ra, phủ kín cả cánh đồng rộng lớn. Khung cảnh này rất đỗi quen thuộc. Nhưng tạm thời June không thể nhận ra là mình đã từng thấy đâu đó.

    Điểm tô giữa bức tranh màu tím nhạt trong hơi sương nhờ nhờ của ban mai. Vài cái cây lớn trông như cây tuyết tùng cũng từ từ mọc lên, tán rộng rợp bóng. Nhìn về phía dãy núi, những tia sáng ló rạng, chẳng mấy chốc tỏa ra, bao phủ khắp cả không gian xung quanh. June không ngừng thắc mắc, vài câu hỏi cần lời giải đáp ngay bây giờ.

    Chuông nhà thờ chợt ngân lên từng tiếng. June giật thột mình quay lại. Tiếng chuông bắt nguồn từ thị trấn. Rõ mồn một bên tai, nó nghe thấy đâu đó, dọc khắp các con đường, dãy nhà cổ, tiếng bước chân lạo xạo, như từng dòng người đang đổ về nhà thờ vào ngày Chủ nhật. Có lẽ họ đang đi cầu nguyện. June quành xe lần nữa, bỏ lại sau lưng khung cảnh mặt trời mọc tuyệt đẹp, mà nó vẫn chưa thể giải đáp. Sự kỳ lạ nối tiếp nhau khiến nó không thôi tò mò.

    Chiếc xe đáp xuống mặt đường trơn ướt. June cho xe chạy chầm chậm. Tiếng chuông vẫn ngân vang lên từng tiếng. Đi hết con đường lát đá, June chẳng thấy bóng dáng con người nào tồn tại ở đây cả. Tiếng bước chân ban nãy cũng không còn. Phải chăng tất cả chỉ là ảo giác thôi! June đi tiếp. Tiếng chuông nhà thờ nhỏ dần, rồi cuối cùng thì im bặt.

    Đi thêm được đoạn, June phát hiện ra một căn nhà khá lớn nằm tách biệt so với khu phố liền kề. Kiểu nhà này dễ nhận thấy ở vùng ngoại ô Shadowfield, có bãi cỏ, sân vườn, xích đu... thậm chí cả một nhà kho lớn dùng để chứa đồ cũ. Khi họ chia tay nhau, bố Jared đã chuyển nhà về khu đó.

    June lái xe đi thẳng vào bãi cỏ xanh mướt, nó đứng tần ngần trước căn nhà gỗ nhỏ. Một cảm giác thân thuộc sượt qua người nó, nhưng tiếc rằng chúng chẳng hề rõ ràng. June cố gắng tập trung suy nghĩ, rồi cuối cùng nó quyết định thử bước vào căn nhà xem sao.

    Nó đi thẳng lên bậc tam cấp dẫn lên thềm nhà làm bằng gỗ. June đẩy vào, chiếc chuông nhỏ gắn ở cửa kêu leng keng. Âm thanh thật vui tai! June thầm nghĩ rồi đi thẳng vào trong. Đồ đạc chẳng nhiều nhặn gì. Ngoài bộ ghế sofa cũ kỹ đặt giữa phòng khách, phía bên dưới là một tấm thảm dày mang họa tiết boho bắt mắt. Một gian bếp nhỏ có thể dễ dàng nhìn thấy từ đây, đồ đạc để ngăn nắp gọn gàng. Bộ dao, thớt treo ngay ngắn trên tường, tủ chạn nhỏ xinh xắn, bên cạnh là một tủ đựng thuốc dán hình chữ thập đỏ. Ắt hẳn chủ nhân của ngôi nhà này phải là một người tinh ý lắm.

    June tò mò muốn khám phá ngôi nhà thêm. Nghĩ vậy, nó bước tiếp lên phía hành lang gỗ. Tiếng cọt kẹt vang lên sau mỗi bước chân. Một căn phòng với cửa màu cánh gián, nắm đấm cửa màu đồng đã bong tróc. Trên cánh cửa, tấm bảng được in ngay ngắn dòng chữ: “Không phận sự miễn vào.” Hơi chần chừ đôi chút khi đặt tay lên nắm đấm cửa, nhưng cuối cùng June vẫn quyết định đi vào. Nó không nghĩ rằng, mình đang xâm phạm quyền riêng tư của bất cứ ai trong chính thế giới do mình làm chủ.

    Căn phòng khá tối, June thử tìm công tắc để bật đèn nhưng không có. Trong khung cảnh tranh tối tranh sáng, June vẫn nhận ra cách bài trí này. Chiếc giường nhỏ với ga trải giường màu xanh vintage. Những bức tranh dán chằng chịt trên khắp bức tường, hay ảnh của một vài ngôi sao nhạc đồng quê như Johnny Cash, Carrie Underwood... June tiến lại gần hơn những bức ảnh, nhưng mọi thứ mờ nhòa dần khiến nó không nhìn rõ.

    Một lát sau, June quyết định đi ra khỏi căn nhà sau khi đã tìm hiểu. Hơi có chút bất thường, tuy nhiên chẳng có gì phải sợ hãi những thứ này cả, huống chi chúng lại còn mang cảm giác thân thuộc nữa.

    June lái xe ra con đường phía trước mặt. Con đường dẫn June ra một quảng trường khá rộng. Giữa quảng trường một tượng đài được dựng lên, phía dưới chân là những đóa hồng trắng đã héo úa. Đó là một người đàn ông, với bộ râu khá rậm, miệng ông ta ngậm một tẩu thuốc. Vẻ mặt cao ngạo hơi ngước về phía bầu trời.

    June bước xuống xe, tiến lại gần bức tượng, sờ thử, một cảm giác lạnh lẽo chạy dọc cánh tay. Những thứ đang hiện hữu ở đây vừa mang lại cảm giác thân thuộc, vừa xa lạ. Nó thấy mình như đang đứng trước một màn sương mờ ảo, dẫu có giơ tay ra phía trước nhưng chẳng thể chạm vào. June bước đi tiếp. Phía sau tượng đài là những lùm cây dẻ sum suê, hoa nở màu trắng. Nó nhớ, mùa hoa dẻ ở Shadowfield thường bắt đầu vào tháng Chín.

    June bước qua hàng cây dẻ xuống một con đường nhỏ. Rồi đi tiếp về bên trái. Một khoảng sân hình tròn xuất hiện, giữa khoảng sân là đài phun nước nhỏ có đặt tượng Đức Mẹ đang ôm Chúa Hài Đồng vào lòng. Tượng được dựng lâu ngày nên dấu vết của thời gian in hằn lên trên nó, tạo cảm giác cũ kỹ và hoài niệm.

    Cánh cửa trước nhà thờ đóng chặt. June tiến tới, thử đẩy cửa. Cửa không hề khóa. Nó đẩy khẽ, tiếng két lớn vang dài trong không gian yên ắng. Nó quét ánh mắt một lượt. Nhà thờ được mô phỏng theo lối kiến trúc điển hình của nhà nguyện Sistine, nhưng quy mô nhỏ hơn. Nó nhớ đã đọc đâu đó trong một cuốn sách.

    June bước vào, từng hàng ghế được sắp đều, tăm tắp, bụi phủ kín mặt ghế vì lâu ngày không được lau chùi.

    Trên bức tường, những chiếc đế đựng nến vẫn còn vài cây nến cháy dở, sáp khô đọng lại, tràn ra cả phía ngoài. Lối kiến trúc Gothic là sự chuyển tiếp giữa kiến trúc La Mã và kiến trúc Phục Hưng, với những phần khung vòm nhọn, có sườn chống đỡ khung vòm trên trần nhà. June ngước lên trên, một bức tranh khổng lồ với những hoạt cảnh khác nhau của Thiên đàng và Địa ngục, câu chuyện về sự Sáng thế hay sự kiện con người bị Chúa Trời đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng... Điểm nhấn của nhà thờ có lẽ là những khung cửa sổ đầy sắc màu xanh tím đan xen, nó luôn cảm thấy thích thú mỗi khi tới nhà thờ Shadowfiled vào ngày Chủ nhật. Nó nhớ, đã từng dành hàng giờ để ngắm những ô cửa đầy sắc màu ấy.

    June từ tốn ngồi xuống băng ghế sau cùng; và cảm thấy bình yên trong không gian này. Nhìn lên những ô cửa sắc màu một lần nữa, June bỗng nhận ra, tất cả sự biến đổi này đều không phải do nó tạo ra trực tiếp. Chúng hình thành gián tiếp qua những bức tranh mà nó từng vẽ, hay những bức tranh nó đốt thành tro bụi. Tất cả, một lần nữa được tái hiện tại đây. Từ cánh đồng hoa thạch nam, khu phố cổ được xây dựng ở Shadowfield từ những năm 1840, quảng trường nhỏ hay nhà thờ trung tâm này.

    Tiếng sấm rền đột ngột cắt ngang dòng suy nghĩ của June. Nó vội vàng đứng dậy, đẩy toang cánh cửa nặng trịch, chạy nhanh ra bên ngoài. June nhận ra bầu trời đang chuyển màu. Khoảng trời xanh dần dần bị xâm chiếm bởi những đám mây đen kịt đang ùn ùn kéo về từ mọi phía.

    Nó ba chân bốn cẳng chạy về phía con đường nhỏ, băng qua hàng cây dẻ, tới được quảng trường. Một lằn chớp xanh lè, ngoằn ngoèo rạch ngang bầu trời. Sấm tiếp tục rền vang khiến mặt đất rung chuyển. June đột ngột khụy xuống, theo phản xạ nó bèn ôm lấy đầu. Nhưng nhận ra không có gì nguy hiểm cả, chỉ là hiện tượng tự nhiên thôi, nó tự trấn an mình, rồi tiếp tục chạy.

    Lúc này June đã tới được chỗ để xe. Nó vặn khóa, sang số rồi nhấn ga, không quên gạt cần bay. Chiếc xe từ từ bay lên, nó nhấn sâu chân ga. Xe lao vút về phía nền trời xám xịt. Mải mê vì những khung cảnh quen thuộc ban nãy, mà June đã quên béng đi Gavin. Cậu ấy đang ở đâu? June tự hỏi.

    Bay lên phía trên những tầng mây, nhưng không gian vẫn mịt mù. June không tài nào xác định được phương hướng. Phóng qua đám mây này tới đám mây khác, khiến June chán nản thực sự. Nó gào to tên Gavin đến khản cả cổ, nhưng tiếng gió rít mạnh át cả tiếng của nó. Vô ích thôi! June hạ xe xuống thấp hơn, dưới mặt đất, từng đám bụi cuốn trong không khí, tung mù mịt. Theo đó những khu phố biến mất, con đường lớn chạy thẳng về phía chân trời cũng không còn. Cánh đồng hoa thạch nam, quảng trường, nhà thờ... cũng chìm nghỉm giữa đống hỗn độn ấy. Một lần nữa, June gạt cần bay lên. Nó quay ngoắt 180 độ, chiếc xe quay vòng, vật lộn giữa trận cuồng phong. June bực dọc, thế giới này chẳng tồn tại một cái la bàn sao. Nó liên tiếp đập tay trên bản đồ tọa độ điện tử, nhưng vô ích.

    June phóng thẳng về phía trước với tốc độ lớn. Nó không nghe thấy gì ngoài tiếng gió rít mạnh bên tai mình. Nó hy vọng thoát khỏi trận bão này.

    “RẦM.”

    ***

    Jared phóng nhanh trên con đường tối thẫm hướng vào thị trấn. Đầu vẫn đau như búa bổ nhưng ông thây kệ, hai bàn tay trơn ướt vì mồ hôi vẫn nắm chặt lấy vô lăng. Mười lăm phút sau, Jared đã có mặt ở bệnh viện. Ông lao ngay tới khu vực cấp cứu, Jess đang ngồi ở hành lang. Gương mặt bà tỏ rõ sự lo lắng và sợ hãi.

    “Con bé làm sao vậy?” – Jared hỏi.

    Lúc này Jess mới nhận ra sự hiện diện của Jared. Bà nhìn ông trân trân một hồi lâu, không trả lời, như thể bà không nhận ra Jared là ai nữa.

    Jess mệt mỏi thực sự, bà bưng hai tay lên mặt như muốn khóc. Jared lặng lẽ ngồi xuống cạnh bà an ủi.

    “Con bé sẽ ổn mà, bác sĩ đã nói sao?” – Jared cố gắng trấn an Jess.

    Bà lên tiếng, giọng có chút nghẹn lại.

    “Em không biết, ban nãy cơ thể con có hiện tượng co giật, nhịp tim tăng cao đột ngột. Em gọi bác sĩ, rồi họ vội đưa con bé vào phòng cấp cứu ngay.”

    Jess nói, bà đã cố gắng chạy theo hỏi. Nhưng những gì nhận lại chỉ là sự lắc đầu, từ chối của y tá.

    “Không có chuyện gì xảy ra đâu đúng không Jared?” – Jess hỏi.

    Jared im như phỗng. Ông không thể nói gì, dẫu chỉ một câu an ủi. Jared nắm lấy bàn tay đang trở nên trơn ướt của Jess. Thứ duy nhất họ làm được lúc này chỉ là chờ đợi mà thôi.

    Jess thi thoảng nhìn trân trân vào bức tường màu be lợt lạt phản chiếu với thứ ánh sáng nhờ nhờ nơi hành lang. Họ không vào phòng chờ như mọi khi, nên ngồi thẳng trước cửa khu cấp cứu. Đôi khi Jess nhìn vào khung cửa, dù bà chẳng thể nhìn rõ được gì. Bóng dáng bác sĩ và y tá đi lại tới lui trong gian phòng chỉ khiến Jess thêm bồn chồn mà thôi. Vài tiếng ỉ ôi trong căn phòng đối diện của những bệnh nhân khác càng khiến bà bực dọc thêm. Jess nhìn đồng hồ, đã gần một tiếng trôi qua mà chưa có động tĩnh gì.

    Cửa phòng ngoài bật mở. Vị bác sĩ đi ra cùng hai người y tá khác. Ông tháo bỏ khẩu trang. Đó là bác sĩ Bracher – người đã thực hiện cuộc đại phẫu lần trước cho June.

    “Hai người đi theo tôi.” – Ông ấy cất tiếng với giọng điệu bình thản như mọi lần.

    Cả hai theo ông lên phòng 210 như lần trước. Nghe rõ từng bước chân nặng nề của mình, Jess thấy lòng chùng xuống. Bà thầm nhủ, có lẽ chuyện không hay sẽ xảy ra chăng?

    Bác sĩ Bracher mở cửa, cả ba bước vào phòng. Ông yêu cầu hai người ngồi xuống chiếc bàn thấp kiểu Nhật. Bên trên đặt một bộ ấm trà làm bằng gốm, được chạm trổ khá tinh xảo. Có lẽ ông ấy đang cố gắng tỏ ra thân thiện hơn, nhưng những cử chỉ này càng làm Jess thêm bồn chồn mà thôi. Bà cố nuốt nước miếng vài lần, nhưng cổ họng khô khốc, nghẹn ứ lại và đắng ngắt. Jess và Jared cùng ngồi xuống.

    “Hai người dùng trà hay một chút cà phê cho tỉnh táo?” – Bracher lịch sự hỏi.

    “Không cần đâu. Ông cứ dùng tự nhiên.” – Jess bèn nói.

    Bracher chưa vội nói gì. Ông đi thẳng về phía máy pha cà phê sẵn, rót ra một cốc. Ông ngồi xuống trước mặt hai người, từ tốn uống, trước khi bắt đầu vào câu chuyện. Jess thấy lòng mình như lửa đốt, nhất là trước sự điềm tĩnh của vị bác sĩ mà bà cho là có phần hơi thái quá này. Nhưng Jess vẫn tôn trọng ông và giữ sự im lặng cần thiết.

    “Con bé thế nào rồi bác sĩ? Có chuyện gì đã xảy ra? Tại sao lại đưa nó vào khu vực cấp cứu?” – Jared hỏi dồn, ông hơi mất bình tĩnh.

    “Đã xảy ra hiện tượng co giật, nhịp tim tăng cao bất thường ở bệnh nhân. May mà chúng tôi được thông báo kịp thời, nên đã không để chuyện gì đáng tiếc xảy ra cả.” – Bracher thông báo với giọng điệu đều đều như cái máy.

    Jess thở phào nhẹ nhõm trong lòng, như trút được thứ gì đó đè nặng mình lúc trước. Nhưng thật lạ, bà thắc mắc, tại sao bác sỹ Bracher không thông báo ngắn gọn với hai người luôn tại tầng dưới mà phải lên tận phòng ông.

    “Cảm ơn ông.” – Jared nói.

    “Tuy nhiên... Bracher nói, giọng có chút ngập ngừng... có một chuyện khá hệ trọng đã xảy ra. Vậy nên, tôi mới đích thân mời hai ông bà lên đây để trò chuyện. Đúng hơn là... nó giống như một quyết định vậy.”

    Vậy là đã rõ, Jess thấy tim mình thắt lại. Bà chợt thấy ngột ngạt và khó thở. Linh tính mách bảo, bà đã đúng phần nào.

    “Một quyết định nghĩa là sao hả bác sĩ?” – Jared bèn hỏi.

    Bracher nhấp thêm một mụm cà phê nữa. Ông thực hiện động tác tháo kính ra khỏi mặt, khẽ đặt xuống bàn. Đôi mắt xanh xám vẫn nhắm nghiền, ông dùng một tay day day hai bên thái dương. Có lẽ chính bản thân ông cũng cảm thấy khó khăn khi nói ra quyết định này. Jess chẳng muốn nghe nữa, bà muốn chạy ngay ra khỏi căn phòng tù túng này. Những ý nghĩ tiêu cực khiến bà chết lặng, bởi lẽ bà nghĩ rằng, giờ đây chẳng có lời nguyện cầu nào có thể trở thành hiện thực.

    “Chắc hẳn ông bà đã từng đọc một chút ít thông tin về bệnh hôn mê thực vật rồi đúng không?” – Bác sĩ Bracher hỏi, như thể trong cung cách nói chuyện của họ luôn bắt đầu bằng những câu hỏi như thế, trước khi đi vào vấn đề một cách sâu hơn.

    Jared gật đầu, nhưng không nói gì thêm.

    Bracher bèn nói tiếp:

    “Tình trạng hiện giờ của June không có gì nguy hiểm tới tính mạng. Tuy nhiên, một vấn đề khác lại tiếp tục nảy sinh mà trong y học hiện nay, chúng tôi vẫn chưa thể tìm ra câu trả lời. Tình trạng hôn mê thực vật của June có thể sẽ kéo dài thêm một thời gian nữa... Và chúng tôi cũng không chắc chắn rằng con gái ông bà khi nào sẽ tỉnh lại. Ông bà biết, có trường hợp bệnh nhân bị hôn mê thực vật, sau nhiều năm mới có thể bình phục.”

    Như sét đánh ngang tai, bà câm lặng vì chẳng nói được gì, cố gắng kìm nén cơn xúc động của mình lại, trước khi bật khóc thành tiếng. Bất giác, bà nắm chặt lấy một bàn tay của Jared. Ông liếc nhanh sang Jess vẻ ngạc nhiên nhưng không nói gì.

    “Không còn cách nào sao bác sĩ?” – Jared lại hỏi.

    “Cũng không hẳn. Về phía bệnh viện, chúng tôi đang thử liên hệ với một số cơ quan chức năng, bệnh viện tuyến trên hay xin ý kiến của một số chuyên gia đầu ngành để xem họ có thể giúp gì được không?”

    Bracher nói thêm, về những thành tựu mới của nền y tế thế giới hiện nay, nên họ sẽ đề ra những phương pháp hay một liệu trình điều trị mới.

    “Vậy quyết định ở đây là gì hả bác sĩ? Chúng tôi sẽ phải quyết định điều gì?”

    Jess cuối cùng cũng lên tiếng, bà tỏ rõ bực bội trước sự không dứt khoát của Bracher. Bà chẳng biết sự thành ý ở đây nghĩa là gì, trong thâm tâm bà, những hy vọng dường như bay biến mất.

    Bracher chưa vội nói, ông trầm ngâm suy ngẫm, trán nhăn lại, lấm chấm vệt mồ hôi.

    “Ông bà phải quyết định xem, sẽ để June tiếp tục sống trong tình trạng hôn mê thực vật hay sẽ dừng lại.” – Bracher dứt khoát.

    Dừng lại ư? Những âm thanh bùng nhùng bên tai Jess. Bracher đang nói cái quái gì đây. Không thể nào, Jess lắc đầu nguầy nguậy, không thể nào!

    “Không thể...” – Jared lên tiếng, vẻ như kiên quyết. – “... Chúng tôi sẽ không bỏ cuộc đâu. Vậy nên các vị hãy sẵn sàng cầu cứu bất cứ nơi nào đi. Bất cứ nơi nào các vị nghĩ là có thể.” - Jared nhấn mạnh thêm lần nữa.

    “Tốt thôi! Chúng tôi tôn trọng ý kiến của hai người. Chúng tôi sẽ thông báo cho hai vị khi có thông tin mới nhất. Và... sẽ phải chờ đợi thêm.” – Bracher nói rồi ông đứng dậy ngay. Cuộc trò chuyện kết thúc.

    “Cảm ơn ông, Bracher.” – Jared đứng dậy chìa tay bắt.

    Sau đó, ông đỡ Jess đứng dậy. Họ rảo từng bước chân nặng trịch để trở về phòng bệnh.

    Jess khóc nức nở sau khi bước ra khỏi phòng, người bà run lên bần bật. Bà không thể kìm nén sự xúc động của mình nữa. Jared đỡ bà về phòng bệnh. Ông nhìn đồng hồ, đã hơn 8 giờ tối rồi.

    Hai người bước vào phòng, điện bật sáng trưng. Cửa sổ hé mở, gió bên ngoài khẽ lay động tấm rèm. Thấy vậy, Jared bèn đóng cửa sổ lại.

    Bên giường bệnh, June vẫn đang nằm im, nhịp tim đã bình thường trở lại. Những vệt bầm tím trên cổ tay, phía dưới cổ không còn thấy rõ như trước nữa. Gương mặt con bé vẫn hết sức bình thản, chỉ như đang ngủ.

    Jared đỡ Jess xuống chiếc ghế sofa. Bà dường như kiệt sức, đổ gục xuống, người vẫn không thôi run bần bật. Jared đi về phía chiếc tủ bàn đầu giường, ông kiểm tra các ngăn kéo một lượt, rồi lôi ra một chiếc chăn mỏng cỡ vừa, loại thường dùng để giữ ấm.

    Jared choàng nó qua người Jess và hỏi:

    “Jess, em có sao không?”

    Một lát sau, khi đã định thần lại đôi chút, Jess mới trả lời:

    “Không sao, do em hơi chóng mặt thôi.”

    Jared đứng dậy lấy cho bà cốc nước.

    “Cảm ơn anh.” – Jess nói rồi hớp một mụm nhỏ.

    “Em có cần ăn gì không Jess? Để anh xuống dưới phố mua?”

    “Một chút gì cũng được.” – Jess nói.

    Jared khoác áo, đi ra khỏi phòng. Giờ chỉ còn một mình, Jess nhìn trân trân vào thân hình bé nhỏ của con gái. Lòng bà thắt lại một cảm giác khôn tả. Bà cố gắng xua tan những ý nghĩ tiêu cực, nhưng chẳng hiểu sao chúng cứ quanh quẩn trong đầu bà.

    Không gian im lìm. Từng thời khắc trôi qua trong vô định. Jess ngả người ra ghế, rồi sau đó bà thiếp đi tự lúc nào không hay.

    ***

    June hầu như không nghe thấy gì ngoài tiếng rầm lớn ấy. Thứ gì đó đã tông mạnh vào xe nó.

    Chiếc xe bỗng khựng lại đột ngột. Trong thoáng chốc, June thấy người mình lao về phía trước, nhưng dây an toàn đã kịp giữ lại. Tay trượt khỏi vô lăng, đập vào bảng điều khiển, đau rát. Chiếc xe lộn nhào mấy vòng trong không trung, rồi rơi xuống. June thấy người choáng váng, mọi thứ xung quanh nó nhòe đi. Khoảng không gian xung quanh cũng tối dần. Nó không thể nhìn thấy gì nữa.

    Nó loáng thoáng nghe thấy tiếng ai đó gọi mình, nhưng không gian đen đặc, dẫu cho có mở mắt cũng chẳng thấy.

    Tiếng tít tít liên hồi bên tai, tiếng người gọi nhau í ới, rồi cả tiếng bước chân, thậm chí cả tiếng khóc ti tỉ day dứt... June như lạc lối trong hàng tá những âm thanh hỗn độn đó. Nó cảm thấy khó chịu vô cùng. Thụp người xuống, nó lấy tay bịt kín hai tai. Nó chẳng muốn nghe gì, mọi thứ chỉ khiến đầu óc quay cuồng như muốn vỡ tung ra mà thôi.

    Rồi sau đó, June như không cảm nhận được đôi bàn chân mình. Đôi tay nó biến mất, cả thân thể như đang hòa lẫn trong bóng đêm mịt mùng. June chợt nhận ra, phần linh hồn mình đang mắc kẹt nơi đây – thế giới huyền ảo. Còn phần thân xác thì đang nằm trên chiếc giường của bệnh viện trung tâm Shadowfield. Trên đường trở về nhà, nó đã gặp tai nạn.

    Những hình ảnh của vụ việc lướt qua đầu June, hệt như một thước phim được tua nhanh. Một chiếc xe tải lao tới với tốc độ khủng khiếp, chiếc xe hơi đã không kịp phanh lại. Vụ va chạm cực kỳ nghiêm trọng, nó nghe thấy những tràng còi hú dài từng hồi, có thể là còi xe cảnh sát, rồi cả xe cứu thương. Một vài người vây quanh giường bệnh nó, gương mặt họ toát lên sự căng thẳng, lo lắng.

    Đột nhiên, giữa hàng trăm những hình ảnh dội về tâm trí nó, June loáng thoáng thấy vẻ mặt của bố mẹ. Họ đang rất lo lắng. Mẹ Jess đi lại trong hành lang nhập nhoạng ánh sáng. Bố ngồi trên chiếc ghế đặt giữa phòng, ông có uống một chút gì đó. Thậm chí nó còn nghe thấy tiếng họ đang tranh cãi... June cảm giác như đang đứng rất gần họ, nhưng nó chẳng nghe thấy, chẳng thể nhìn rõ gì, rồi tiếng họ ngớt dần. Thứ âm thanh lạo xạo, kỳ lạ cũng nhỏ dần. Cuối cùng, tất cả chìm trong sự im lặng. Vô tận.

    “June... June… mau tỉnh lại đi.”
     
  5. Nhom4.0

    Nhom4.0 Lớp 3

    June mở mắt và nhận ra Gavin đang bên cạnh mình. Ánh mắt cậu hiện rõ sự lo lắng. Nó biết, một tai nạn khủng khiếp vừa xảy ra. Xe của nó và Gavin đã va chạm vào nhau.

    June vội nhỏm người dậy. Nó thấy mình đang ngồi trên một trảng cỏ xanh mướt. Phía xa xa, chiếc xe hơi màu trắng bạc nằm bẹp dúm, phần kính trước vỡ tan. Hai chiếc bánh sau tháo rời, nằm chỏng chơ một cách nực cười trên lùm cỏ. Thật thảm hại, June trộm nghĩ, may thay tụi nó vẫn còn sống.

    “Chúng mình đã va xe vào nhau.” – Gavin thông báo với June.

    Nó hỏi Gavin có sao không. Cậu lắc đầu, rồi đỡ nó đứng dậy, từ từ. Cả thân người vẫn đau nhức, nhất là phần đầu, nó cảm thấy choáng váng như thể vừa nốc nửa chai rượu Bourbon vào trong người vậy. Tệ thật, June đứng thẳng người dậy, nó nhìn về phía chiếc xe một lần nữa, vẻ như luyến tiếc.

    Đoạn, hai đứa ngồi xuống gốc cây sồi cổ thụ, tỏa bóng mát sum suê. Phóng mắt ra xa, June có thể thấy dòng sông đang chảy lững lờ. Một trong những khung cảnh đầu tiên mà nó gặp khi tới vùng đất này. Nhưng nó không dám chắc, có đúng là khung cảnh lần đó không. Nó định hỏi Gavin, nhưng nghĩ không cần thiết nên đành thôi. Bởi lẽ, nó có chuyện quan trọng hơn để nói với cậu ấy.

    “Ban nãy cậu đã đi đâu June?” – Gavin hỏi.

    “Tớ nghĩ cậu bị lạc nên đã đi tìm cậu, nhưng không thấy.” – June cười nói.

    “Cậu có thấy thế giới này có gì bất thường không? Tớ đã lái xe một vòng nhưng chẳng nhìn thấy gì ngoài màn sương mờ mịt luôn che khuất tầm nhìn, khiến mình mất phương hướng.” – Gavin trình bày. Chẳng trách cậu không thể tìm thấy June.

    “Tớ có thấy chuyện đó.” – June đăm chiêu một hồi rồi mới nói.

    “Thật sao?” – Gavin ngạc nhiên hỏi lại.

    June gật đầu. Nó bắt đầu kể cho Gavin nghe. Từ chuyện nó thấy thị trấn bỏ hoang được mọc lên với những dãy phố, con đường lớn đâm thẳng phía chân trời. Rồi, căn nhà gỗ nhỏ có sân vườn xanh mướt mà nó đã vào, cho tới chuyện nhà thờ hay cả trận cuồng phong vừa rồi nữa. Gavin tròn mắt, ngây ngô hệt như một đứa trẻ trước những gì nó nói.

    “Chuyện là vậy đó, Gavin. Tớ đã thấy tất cả. Rồi tớ nhận ra, mọi thứ đều không do mình chủ ý tạo ra, nhưng chúng đã xuất hiện. Hơn nữa, chúng còn gợi nhớ cho tớ rất nhiều chuyện.”

    “Chuyện gì chứ?” – Gavin đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác.

    June hít thở một hơi thật sâu rồi mới nói:

    “Những khung cảnh được tái hiện lại qua những bức tranh mà tớ đã từng vẽ.”

    June nói rành rọt từng lời. Gavin dường như á khẩu, cậu chẳng thể hiểu nổi cái thế giới kỳ quái này khi nào mới thôi diễn những trò hề này. Tất cả chỉ là sự bịp bợm.

    “Và rồi tớ biết được một sự thật...” – Cuối cùng June cũng nói ra mấu chốt của chuyện này... – “Tớ đã bị tai nạn ở thế giới thật. Thân xác tớ đang ở đó, ở bệnh viện Shadowfield, còn phần tồn tại ở đây chỉ giống như phần linh hồn mà thôi. Chỉ có điều tớ chưa thực sự chết, tớ đang trong tình trạng hôn mê.”

    Cả hai cùng im lặng. Chắc hàng tá câu hỏi đang ở trong đầu chúng. Ánh nắng xuyên qua tán lá dày, rọi xuống những nhánh cỏ, phản chiếu với giọt sương khiến mọi thứ lóng lánh. Con sông khẽ trở mình, những gợn sóng táp vào bờ, tạo thành tiếng ì ọp. Đột nhiên, một con chim lạ nào đó gần bụi rậm ven bờ, giật thột mình bay vút lên nền trời trong xanh. June đưa mãi ánh mắt theo con chim lạ, tới khi nó biến mất vào những tảng mây trắng xốp.

    Bên cạnh nó, Gavin vẫn không nói một lời. Cậu đăm chiêu suy nghĩ điều gì to tát lắm.

    “Cậu nên trở về June ạ, trở về với cuộc sống thực.”

    Gavin nói những điều tận sâu đáy lòng mình, cậu muốn June trở về tiếp tục cuộc sống của một người bình thường. Bởi lẽ chẳng có gì quý giá hơn việc đó, dù chuyện gì đã xảy ra chăng nữa.

    “Nhưng... còn cậu. Nếu tớ đi thì đồng nghĩa với chuyện cậu sẽ biến mất.” – June lo lắng nói.

    Gavin mỉm cười nhìn June, ánh mặt cậu có phần trìu mến. Cậu bèn nói:

    “Tớ đã chết rồi, June.”

    June im lặng áy náy. Nó chẳng hề muốn rời xa Gavin một chút nào, lúc nào nó cũng nhớ về cậu ấy.

    Lúc này, Gavin bèn đứng dậy, chìa tay ra trước mặt nó và nói:

    “Đi thôi, June!”

    “Nhưng đi đâu cơ chứ?” – June hỏi lại.

    “Tìm đường về nhà cho cậu chứ sao?”

    “Nhưng tớ đâu...”

    June chưa kịp nói hết câu, thì từ phía xa xa, con sông đang bắt đầu nổi sóng, nước dâng cao như sẵn sàng đổ ụp xuống. Gió cũng mạnh dần lên. Cuốn từng lớp đất, bụi tung mù mịt. Không gian xung quanh hai đứa tối sầm.

    “Chuyện gì vậy June?” – Gavin gào to lẫn trong tiếng gió rít mạnh.

    “Tớ không biết. Chạy thôi!” – Nó nắm vội lấy bàn tay Gavin tháo chạy.

    Hai đứa chạy thục mạng, mãi tới khi đôi chân nhỏ bé mỏi rời. June quyết định dừng lại. Gió cũng ngừng theo. Cả không gian lặng im tuyệt đối. June thở dốc, lấy tay quệt mồ hôi ướt đẫm trên trán. Lúc này, June mới để ý không gian xung quanh đang chìm đắm trong một lớp sương mờ huyền ảo, ma mị.

    Hai đứa thận trọng tiến từng bước về hướng bất kỳ. Một dải sáng xanh leo lét thoắt ẩn thoắt hiện trong không khí như trêu ngươi tụi nó. Màn sương tan dần. Hai đứa chợt nhận ra, trước mặt mình là một cây cầu nhỏ bằng đá. Xa hơn nữa, một hình thù khổng lồ quái dị, sừng sững hiện ra.

    “Một tòa lâu đài ngược ư!” – Gavin thốt lên.

    Đúng hơn là một tòa tháp lộn ngược. Phần chóp nhọn chạm đất, còn phần đáy thì ở phía trên cùng. Cây cầu đá trước mặt - có lẽ là con đường duy nhất để dẫn vào tòa tháp.

    Hai đứa lặng lẽ di chuyển về phía trước, bước từng bước cẩn trọng, vì mặt cầu đang trơn trượt. Hai bên thành cầu, dãy tượng đá được dựng lên hiên ngang. Không rõ hình thù gì, lúc thì như một hình nhân, lúc lại giống một con quái vật, trợn trừng mắt, sẵn sàng nhe nanh vuốt hòng nuốt chửng người nào dám nhìn chúng. June thấy lạnh toát cả sống lưng, nó bước gần tới Gavin hơn. Tim thì đập thình thịch, liên hồi.

    Cây cầu đá dẫn tới một khoảng sân rộng lớn, gấp ba lần sân bóng rổ thông thường. Tòa tháp ngược vẫn nằm cách chúng một khoảng cách khá xa, chừng gần một dặm. Ngổn ngang trên khoảng sân là những phiến đá khổng lồ, nặng chừng vài tấn. Chúng mang những hình thù khác nhau, có hòn được dựng lên, có hòn được xếp chồng, nhưng có hòn lại để nghiêng, như thể vừa có sức mạnh lớn tác động lên.

    Gavin đi vòng quanh những tảng đá một hồi để xem có gì bất thường không. Cậu thực hiện động tác gõ gõ, rồi rà tay lên chúng vài lượt như một nhà khảo cổ học thực thụ. Lúc này June thú thực, nó chẳng muốn tham gia vào trò phiêu lưu này tẹo nào. Nó muốn trở về căn nhà gỗ ấm áp bên thảm cỏ hay dòng sông. Và nghĩ xem, ngày mai mình sẽ làm điều gì kỳ diệu cho vùng đất. Bầu không khí ớn lạnh bao quanh đã khiến nó có ý định bỏ cuộc.

    Gavin vẫn chưa dừng lại. Cậu tiếp tục kiểm tra những phiến đá, như bị chúng mê hoặc. Nhưng không phải, chỉ là những giọng nói. Đúng như thế, Gavin nghe thấy đâu đó trong những tảng đá, tiếng thầm thì của một ai đó, thậm chí là tiếng cợt nhả. Lúc nghe rõ mồn một, nhưng vài giây sau chỉ như thoảng qua mà thôi.

    “Có chuyện gì với mấy phiến đá vậy, Gavin?” – June thấy hành động kỳ lạ của cậu nên hỏi.

    “Hả?...” – Gavin vội ngước lên, vẻ hoảng hốt, khi ấy cậu mới thoát ra khỏi ma lực những giọng nói... – “Không có gì. Chúng ta đi tiếp thôi.”

    Cậu xốc lại ba lô trên lưng, rảo bước nhanh, tiến về tòa tháp ngược. Băng qua mê trận đá, June càng cảm thấy không khí trở nên lạnh lẽo hơn. Một dự cảm chẳng lành về nơi này. June trộm nghĩ. Khi đã băng qua mê trận đá, June quay lại khoảng không gian phía sau đang trở nên mịt mùng, nó chẳng thể nhìn thấy cây cầu đá cheo leo ở đâu nữa, cả vùng đất như biến mất. Thật kỳ lạ!

    Tòa tháp ngược được dựng lên trên một bàn đá nhẵn phẳng, khổng lồ. Nếu muốn đi lên đó, thì phải leo lên những bậc thang được tạc sâu vào trong vách đá.

    “Có lẽ những bậc thang này là lối dẫn lên tòa tháp?” – Gavin nhận định.

    “Mình cho là thế. Nhưng chúng ta không nên đi xuống không Gavin à!” – June bèn nói.

    Gavin suy nghĩ một lát rồi cậu trả lời:

    “Mình có một linh cảm rằng tòa tháp chứa đựng một bí mật nào đó về thế giới này. Nên mình chợt nghĩ ra ý tưởng... đó là chúng ta sẽ đi sâu vào khám phá. Biết đâu lại tìm được đường về nhà.”

    “Không thể...” – June phản bác – “... Mình có linh cảm khác Gavin à, sẽ rất nguy hiểm nếu chúng ta đi vào đây. Tin mình đi.”

    “Chẳng phải cậu đang muốn trở về nhà sao June. Không chừng tòa tháp kỳ lạ này sẽ cho chúng ta biết được điều gì đó.” – Lần này Gavin quyết không chịu nhường nhịn June như mọi lần nữa. Cậu nhìn nó với ánh mắt có phần cương quyết.

    “Nhưng tớ lo cho cậu, Gavin.” – June nói.

    “Đừng thương tiếc quá nhiều cho người đã chết chứ. Đi thôi June.” – Gavin cười nói, rồi cậu lôi June đi bằng được.

    Leo hết những bậc thang tạc vào vách đá, cuối cùng hai đứa cũng đứng trước cánh cửa dẫn vào tòa tháp ngược. Một cánh cửa to lớn, nom chừng nặng trịch có màu đồng đen. Và trên mỗi cánh cửa, một biểu tượng hình tròn kỳ dị hiện ra trông như mặt trăng.

    “Là gì nhỉ?” – June tò mò chỉ tay lên và hỏi.

    “Tớ không biết. Nhưng có lẽ đây là lối để vào tòa tháp.”

    Gavin nói cậu định đẩy cánh cửa ra, nhưng June đã ngăn lại:

    “Hẵng khoan Gavin, như ban nãy tớ nói, chúng ta nên dừng lại thôi. Tớ thật sự không muốn vào.”

    Gavin câm lặng, ra chiều suy ngẫm. Rồi cậu vẫn quả quyết:

    “Tớ sẽ vào một mình. Linh cảm mách bảo tớ, đó là một lối ra hay một chiếc chìa khóa nào đó. Tớ sẽ giúp cậu!”

    Không để June ngăn mình lại, Gavin vội đẩy mạnh cánh cửa phía trước mặt. Một làn khói trắng xộc ra rồi tan nhanh vào không khí. Chẳng nói chẳng rằng, cậu lao nhanh vào bên trong. June ra sức ngăn cản nhưng cậu không nghe thấy gì nữa. Cánh cửa đằng sau chực đóng sầm lại.

    Gavin chúi người về phía trước, ngã sõng soài trên nền nhà trơn trượt. Cậu chống tay đứng dậy, quét ánh mắt quanh gian phòng một lượt. Nó rộng lớn hơn so với tưởng tượng ban đầu của cậu. Ngước nhìn lên, cậu dễ dàng nhận ra lối đi. Đó là hệ thống cầu thang hình xoắn ốc, được dựng lên bởi những phiến đá gồ ghề, lỗ rỗ như đá ong. Cậu dạo quanh căn phòng một lượt, trước khi quyết định đi lên phía trên đó. Trên mỗi bức tường là khung cửa giả, đặt ở giữa một bức tượng canh gác. Gavin đếm có mười hai cánh cửa tất cả. Cậu không dám tiến lại gần những bức tượng. Trong ánh sáng nhờ nhờ, chúng toát lên vẻ hung tợn, như thể đang hăm dọa cậu. Bất giác Gavin giật lùi người lại đằng sau, suýt nữa thì ngã. Cậu có cảm giác những ánh mắt bằng đá vô hồn đang theo dõi nhất cử nhất động của cậu. Thần hồn nát thần tính, hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh, rồi Gavin mau chóng leo lên những bậc thang lắt léo. Do ánh sáng yếu ớt, cậu di chuyển thật khéo bằng cách rà tay theo những bức tường phủ kín rêu, lạnh ngắt.

    Đi được một đoạn, Gavin gặp phải chướng ngại vật khác nhau. Lúc thì là một tảng đá khá lớn nằm chặn giữa đường đi, buộc cậu phải trèo qua. Đoạn, cầu thang như rung chuyển, như mọi thứ sẵn sàng đổ ụp xuống. Cũng có đôi chỗ hành lang hẹp như một tấm ván nhỏ, cậu phải cố bám víu vào bức tường để không bị rơi xuống. Gavin thấm mệt, dừng chân nghỉ. Cậu không biết June có còn đợi mình bên ngoài không? Hay cậu ấy đã trở về căn nhà gỗ rồi không chừng? Cậu không biết, ý nghĩ tìm được một lối ra nhằm giúp đỡ June, hối thúc cậu đi tiếp.

    Thảng hoặc, gặp phải chỗ thiếu ánh sáng tự nhiên, Gavin phải dùng tới đèn pin trong ba lô của mình. Loại đèn pin chuyên dụng cho những buổi dã ngoại. Cậu chẳng nhớ nổi những buổi dã ngoại đó đã diễn ra thế nào? Cậu có từng hào hứng về chúng không? Những ý nghĩ kiểu này chỉ khiến cậu thêm mỏi mệt mà thôi, nó sẵn sàng hạ gục cậu ngay bây giờ.

    “Cậu chỉ là một linh hồn thôi.”

    Bấc giác, Gavin nghe thấy một giọng nói kỳ lạ. Loáng thoáng trong đầu, cậu không tin nổi vào tai mình. Đứng khựng lại tại chỗ, cậu dáo dác đưa mắt nhìn ra xung quanh, rồi nói lớn:

    “Ai thế?”

    Nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng, rợn người. Gavin đi tiếp, những bước chân dần trở nên nặng trịch. Đôi lúc, cậu như muốn gục xuống. Không có giọng nói nào cả, chỉ là cậu đang tự nhát mình thôi. Gavin tự trấn an.

    “Cậu chỉ là một linh hồn thôi, Gavin.”

    Giọng nói mơ hồ, kỳ quái ấy một lần nữa lại vang lên. Rõ ràng. Sắc lạnh. Một cảm giác rùng mình chạy dọc sống lưng cậu. Gavin khựng người lại, những tế bào như đông cứng. Cậu sực nhớ tới những tiếng thì thầm của tảng đá ngoài mê trận lúc này. Nghĩ vậy, cậu bèn áp tai vào tường đá ẩm ướt, nhưng rốt cuộc chẳng nghe thấy gì cả.

    Cậu mệt mỏi bước tiếp. Một tiếng cười rít lên, rõ mồn một. Vẻ như khoái trá vô cùng, phát ra từ những bức tường đá. Áp tai vào lần nữa, Gavin đã nghe thấy, không thể phân biệt được là giọng đàn ông hay đàn bà. Cậu chỉ biết, mình đang gặp nguy hiểm.

    “Cậu không còn tồn tại, vậy việc gì phải cố gắng.”

    Cố xua đi những giọng nói đang vang vọng trong đầu mình hay từ bức tường đá, cậu lao mình đi tiếp. Tiếng cười càng trở nên man rợ hơn.

    “Chẳng phải cậu luôn sợ hãi sao Gavin. Chẳng phải cậu đã chết rồi. Và chẳng ai cần cậu giúp cả.”

    Giọng nói ma quái vẫn đi theo cậu. Cậu la lớn, đập tay liên hồi vào tường đá:

    “Đừng nói nữa! Mau cút đi! Ta không muốn nghe người nói.”

    Tiếng cười như vọng khắp không gian, át cả giọng Gavin. Cậu vội vàng tháo chạy, bước nhanh lên những bậc thềm, rồi lao xuống những đoạn dốc. Cậu chạy nhanh tới nỗi, chỉ nghe thấy tiếng gió rít mạnh bên tai mình. Đột nhiên, vấp phải một tảng đá, cậu bổ nhào về đằng trước. Khi ấy, cậu như rơi xuống một cái giếng, cậu không thể la hét. Cả thân thể bị màn đêm nuốt gọn.

    *

    Lúc này, June vẫn ngồi thừ phía bên ngoài tòa tháp. Chốc chốc, nó nhìn lên cánh cửa màu đồng đen. Vẻ sốt ruột hiện rõ trên gương mặt tái xanh. Nó thắc mắc, không biết Gavin đã đi được bao xa? Có gặp nguy hiểm không? Hay cậu ấy lại lạc đường mất rồi? Những ý nghĩ đó khiến nó thấy ruột gan mình cồn cào như lửa đốt. Cảm giác áy náy dâng lên trong lòng, khiến nó thấy khó chịu. Đã vài lần, nó bật dậy, dùng tay định đẩy cánh cửa. Nhưng rồi lại chần chừ, nó vội rụt tay, ngồi phịch xuống những tảng đá. Lớp sương mù bí ẩn bao phủ khắp không gian làm nó liên tưởng tới bộ phim Quái vật xương mù xem hồi bé. Cảm giác ớn lạnh và sợ hãi nhen nhúm trong người nó như đang ngăn cản mọi thứ. Nó hít thở sâu vài lần, nhưng vẫn chẳng có tác dụng gì cả.

    Nó lại nghĩ tới Gavin. Nó đã muốn chạy theo cậu ấy, nhưng chính sự hèn nhát này đang ngăn cản nó lại. Sao lại như thế June? Sao mày có thể đớn hèn như vậy? Chẳng phải Gavin đang tìm cách giúp mày trở về sao? Và cậu ấy đã không quản ngại những nguy hiểm? Những giọng nói vô hình vang vọng trong đầu nó, một phần lương tâm đang cắn dứt và hành hạ. June thụp người xuống, lấy hai tay ôm đầu, vẻ như đau đớn lắm.

    Sau đó, nó gắng gượng đứng dậy. Cơn đau nửa đầu vẫn đang hành hạ, nó đặt tay lên cánh cửa, đẩy vào dứt khoát. Tiếng kèn kẹt khiến nó khẽ rùng mình. Bên trong khá tăm tối. Nó từ từ bước vào. Đó là một căn phòng rộng lớn, hình tròn. Nơi đây chào đón June bằng thứ mùi lẫn lộn. Hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh, nó đi tiếp.

    Càng đi vào phía trong, ánh sáng soi rõ hơn. Nó bắt đầu nhìn rõ quang cảnh. Từng cánh cửa hình vòm được gắn ngay ngắn quanh bức tường quây tròn, nó liên tưởng tới những đấu trường La Mã xưa. Nơi người ta thả thú dữ để chiến đấu với con người, chẳng hiểu sao nó chỉ nghĩ tới những cảnh tượng giết chóc máu me vào lúc này. Một cảm giác quặn thắt dưới dạ dày khiến nó thấy khó chịu. Không khí dường như loãng hơn bình thường.

    June đi về phía những cánh cửa và nhận ra, đó chỉ là cửa ra, được dùng để trang trí. Đặt trước mỗi cánh cửa là một bức tượng với dáng hình kỳ lạ. Ánh mắt như có hồn, June tránh cái nhìn trực diện. Nó vội vàng quay đi, chẳng kịp đếm xem có bao nhiêu bức tượng như thế. Nó bắt đầu để ý tới hệ thống hành lang hình xoắn ốc. Lối kiến trúc này thường thấy ở những pháo đài thời Trung cổ, hành lang bao quanh bên trong tiến dần lên phía trên.

    June đi lên, cẩn trọng từng bước chân, tay dò dẫm theo bức tường phủ kín rêu lạnh ngắt để xác định phương hướng. June đoán Gavin đã đi theo lối này. Và cậu đã đi được một chặng khá xa, vậy nên nó cần đuổi nhanh theo cậu ấy, trước khi có chuyện không hay xảy ra.

    Nó leo nhanh qua những bậc đá ẩm ướt, cố gắng bám sát tường. Đôi khi nó phải nhảy để băng qua những chướng ngại vật đang cản đường. Càng đi lên phía trên, không gian càng trở nên đen tối. Sự im lặng, rợn người. Gavin! Cậu đang ở đâu thế? June thầm thì trong bóng đêm. Nhưng đáp trả lại chỉ là sự tuyệt vọng. June không thể đi nữa. Nó bèn ngồi thụp xuống một khoảng tối trong tòa tháp. Nó bắt đầu suy nghĩ.

    Những hình ảnh của Gavin đến trong đầu nó. Không còn giống như một thước phim tua nhanh. Mọi thứ đều chậm rãi. Nó nghĩ tới kỷ niệm giữa hai đứa lúc còn học trung học ở Shadowfield hơn một năm về trước. Nhớ lần đầu tiên Gavin chủ động bắt chuyện với nó. Không giống như hầu hết những đứa con trai ngỗ nghịch đồng trang lứa chỉ chăm chăm vào mấy tạp chí bóng chày, xe đua đời mới hay trố mắt khi nhìn một cô nàng xinh đẹp nào đó. Gavin như một người đàn ông trưởng thành trong dáng hình của một cậu con trai mười lăm tuổi. Nó nhớ những lần hai đứa phóng vút về đại lộ ngoại ô, trên những con đường thẳng tăm tắp chạy qua vùng nông trại. Nhớ những lúc giận hờn, Gavin luôn là người chủ động làm lành. Cậu ấy luôn luôn nhường nhịn nó, bất kể khi nào.

    Đột nhiên, một tiếng la thất thanh kéo June ra khỏi những hồi tưởng. Nó trở về thực tại. Không gian vẫn tối tăm và lạnh giá như thường. Là Gavin, tiếng la hét của cậu.

    “GAVIN.” – June gọi lớn.

    Rồi nó cắm cúi chạy đi lên trên cầu thang lắt léo, nó chẳng buồn để ý tới gì nữa. Tâm trí nó chỉ nghĩ về Gavin mà thôi.

    “Gavin ơi! Cậu đang ở đâu.” – Nó la lớn lần nữa, nhưng Gavin không đáp lại. Không gian trở nên im lìm, chết chóc.

    June băng qua một lối đi khá dốc, rồi nó trượt xuống một hành lang, qua một con đường hình ống nước trơn trượt. Nó đáp phịch xuống nền đá lạnh lẽo. Một hành lang rộng lớn, hệt như trong một tòa lâu đài thời cổ. Những cột trụ với chu vi lớn có chức năng nâng đỡ phần mái vòm. Nó ngước lên, vẫn là một khoảng trời đen thẳm. Đi dọc hành lang, tới một ngã rẽ, nó quyết định đi theo phía tay phải. Lối đi trở nên nhỏ hơn, như đi trong hành lang nhà tù. Bức tường đá ong xù xì, có những chấm li ti hệt như một con mắt đen láy. June kinh hãi khi thấy chúng cử động, đồng tử trợn ngược lên, nhìn nó với vẻ thách thức. June giật lùi lại, ngã ngửa. Đau điếng người. Nó lết người tháo chạy. Phía trước nó, bỗng chốc, con đường hóa tăm tối. Không thể nhìn thấy được, nhưng nó vẫn cứ chạy, chạy mãi.

    “Hụt.”

    Nó chới với rơi xuống. Chết chắc rồi, June thầm nghĩ. Không la hét, nó chỉ nhắm tịt mắt. Rồi nó rơi phịch xuống dưới, nằm đè lên một tấm thảm nhưng chẳng mấy êm ái. Nó từ từ mở mắt ra và biết mình còn sống. May thay, nó nhỏm dậy. Lại một hành lang nữa. Nó nheo mắt nhìn kỹ trong không gian nhờ nhờ ánh sáng. Phía xa xa, cách chỗ nó đang đứng khoảng chừng hơn trăm mét, một dáng hình nhỏ bé đang nằm co ro trên nền đá ướt nhẹp, lạnh lẽo. Nó nheo mắt thật kỹ. Là cậu ấy – Gavin. Như mở cờ trong bụng, June vội vã chạy lại.

    “Gavin.” – Nó đỡ cậu ấy lên và nói.

    Gavin vẫn nhắm tịt mắt, người cậu rũ xuống mềm oặt. Gương mặt tái xanh vì sợ hãi, đôi môi mỏng mím chặt thì tái nhợt đi. Cậu ấy đã gặp chuyện gì nguy hiểm? June nghĩ vậy. Chợt, một cảm giác hối hận dâng lên trong lòng nó. Là lỗi của nó, nó đã để cậu ấy đi một mình. Nó đã không đi cùng cậu ấy, để đến nông nỗi này. Tất cả là lỗi của nó. Một cảm giác nghẹn lại nơi cổ họng June. Mọi thứ đều trở nên khô khốc và đắng ngắt. Nó cố gắng lay Gavin, dùng hai tay cật lực ấn vào ngực cậu. Nhưng Gavin vẫn không có dấu hiệu tỉnh lại. Hai cánh tay buông thõng xuống nền nhà. Bất lực.

    June chợt khóc, những giọt nước mắt lăn nhẹ trên gương mặt lấm lem và có phần thảm hại. Rồi nó nức lên thành tiếng, nghẹn ngào.

    Khi ấy, Gavin tỉnh lại, cậu từ từ mở mắt ra; và thấy June đang khóc trước mặt mình. Cậu ngạc nhiên nhưng cũng vui sướng chẳng kém khi thấy June. Cả thân người đau nhức, nhưng vẫn ráng vực cái thân thể èo uột, nặng nề của mình dậy. Cậu cố gắng nói:

    “Ju... June.”

    June ngước mắt lên. Gavin đã tỉnh dậy. Nó chẳng nói chẳng rằng mà ôm chầm lấy cậu, tiếp tục khóc.

    “Cậu vẫn còn sống, Gavin. Tớ xin lỗi.” – June nói.

    Gavin khẽ cười. Đúng là “mình còn sống.” Sau đó, cậu bám vào cánh tay June, từ từ đứng dậy.

    “Tớ không sao. Tại sao cậu tìm được tớ vậy, June?”

    “Tớ đi theo lối những bậc thang xoắn, rồi khi cậu la hét, tớ cứ thế cắm cúi chạy cho tới khi vô tình rơi vào đây.” – June trình bày ngắn gọn.

    “Tớ đã nghe thấy những giọng nói.” – Gavin nói, giọng toát lên sự sợ hãi.

    “Giọng nói nào?” – June ngạc nhiên hỏi lại.

    “Không rõ. Nhưng mình cảm thấy sợ, như chúng đang cố đe dọa và uy hiếp mình.” – Gavin nói.

    “Vậy chúng ta mau ra khỏi tòa tháp này thôi. Tớ luôn có cảm giác ớn lạnh, rùng mình khi ở đây.” – June đề nghị.

    Gavin lại chần chừ. Cậu vẫn còn nhiệm vụ nên không thể rời bỏ tòa tháp được, khi chưa giải mã được bí ẩn của nơi này. Bởi lẽ, cậu đinh ninh rằng, nơi đây chính là một chìa khóa, một lối ra. Nghĩ vậy, Gavin càng quyết tâm hơn. Cậu bèn nói:

    “Không được. Mình không thể rời khỏi đây. Huống chi...”

    “Không có lối ra nào cả Gavin...” – June ngắt lời Gavin, tỏ rõ sự bực bội... – “Cậu đừng mơ mộng nữa. Tớ chấp nhận bị mắc kẹt ở thế giới này với cậu, chẳng cần phải tỉnh lại nữa. Nghĩ xem, nếu trở về hiện tại thì cũng có chắc mọi thứ sẽ ổn không. Cậu biết đấy!”

    Gavin biết June đang nói tới chuyện gì.

    “Không đúng.” – Cậu phủ nhận. – “Ai cũng mong chờ cậu tỉnh lại. Cậu biết điều đó mà June.”

    “Nhưng...”

    “Không nhưng nhị gì nữa. Mình đi thôi.”

    Không đợi June đồng ý, Gavin nắm lấy bàn tay nó lôi đi, mất dạng trong bóng đêm.

    Hai đứa tiếp tục băng qua hàng chục cái hành lang tối tăm như vậy. Có những chỗ của tòa tháp, ánh sáng không rọi vào được. Nhưng cũng có những chỗ ánh sáng xâm chiếm mạnh khiến mọi thứ chói lòa. Cuối cùng, chúng dừng lại ở một căn phòng lớn, ngổn ngang các loại vật dụng, như thể đây là một nhà kho chứa tất cả những thứ đồ vứt đi. June quét quanh căn phòng một lượt, nó nhìn thấy những khung vẽ, những cây cọ khô đầu, tuýt màu... nằm lăn lóc mọi nơi, mạng nhện chăng đầy khắp.

    June tiến lại, nó cầm thử chiếc cọ vẽ lên, quét ngang một lượt. Những bụi sáng li ti hiện ra như đuôi ngôi sao chổi quét ngang qua bầu trời, thoáng chốc rồi mất hút. Nó định bụng chỉ cho Gavin thấy điều đó, nhưng dường như cậu không để ý. Gavin đang chăm chú nhìn về phía những lối đi sâu hoắm, mở rộng tựa như miệng của một cái hang đen ngòm.

    “RẮC.”

    Tiếng gãy rắc, đanh gọn khiến hai đứa giật mình. June đánh rơi cây cọ, nó chạm xuống nền đất rồi biến mất. Gavin nhướng mắt, dáo dác tìm hiểu nguyên nhân. Tiếng động phát ra từ một trong những cái hang sâu hoắm kia. Căn phòng bắt đầu rung chuyển, như có thứ gì sắp trồi lên từ dưới nền đá. Đúng như vậy. Nó đâm toạc rồi vươn lên, hệt như cảnh trong bộ phim Jack và cây đậu thần. Gavin bàng hoàng ngã ngửa. June thét lên kinh hãi, nó chạy sang đỡ cậu. Đó là một rễ cây lớn, với những cái gai dài tua tủa, sắc nhọn.

    June quay sang Gavin như muốn hỏi, phải làm thế nào đây. Nhanh như cắt, Gavin đẩy nó vào một trong những cái hang sâu hoắm kia. Một phiến đá rơi xuống chắn lấp kín cửa hang.

    “JUNE.” – Gavin thét lớn.

    Rồi sau đó, cả căn phòng từ từ sụt xuống, nền đất rung chuyển, có sức mạnh đang cày xới từ bên dưới. Vội cúi xuống nền đất, hai tay cậu ôm lấy đầu. Lần này chết chắc rồi. Gavin thầm nghĩ. Một lần nữa, cậu lại nghe thấy những âm thanh lạ, tiếng gào thét, tiếng giận dữ, tiếng khóc lóc nỉ non... như vọng từ địa ngục. Cậu biết mình sắp chết thêm lần nữa.
     
  6. Nhom4.0

    Nhom4.0 Lớp 3

    Khi Jared quay trở lại thì Jess đã tỉnh ngủ. Bà thấy đầu đau như búa bổ, thân thể mỏi rời. Jared đặt lên trên bàn hai cái bánh humburger cỡ lớn. Một cốc nước ép hoa quả và một cốc cà phê còn nóng, khói lơ lửng bay lên, mùi ngai ngái lan tỏa khắp gian phòng lạnh ngắt. Tháng Mười hai, trời trở lạnh đột ngột. Tuyết đã bắt đầu rơi trên những tuyến phố.

    Jared đưa cho bà phần bánh và cốc nước quả. Jess cầm lấy, thầm nói cảm ơn. Rồi bà ăn ngấu nghiến, như thể đã nhịn đói mấy ngày. Jared từ tốn cầm phần bánh còn lại và cốc cà phê, ông đi về cửa sổ, lặng lẽ ăn. Thi thoảng ông đánh ánh mắt về phía Jess như muốn nói điều gì nhưng rồi lại thôi. Ông tiếp tục ăn cho tới khi hết phần bánh của mình, rồi mới quay lại nói:

    “Em nên về nhà nghỉ! Đã thức mấy ngày liền rồi. Đêm nay anh sẽ trông coi June.”

    Jess bằng lòng, bà không muốn đôi co với Jared nữa. Phần nào đó, thì hai người đã làm hòa. Vả lại bà cũng cần chăm lo cho bản thân, trước những khó khăn mới. Ngày mai, hãy còn dài. Jess thầm nghĩ.

    Jared đưa cho bà chìa khóa xe và nhà, nhắc nhỏ bà nên lái xe cẩn thận. Mùa đông, đường trơn trượt, huống chi trời đã sập tối. Jess chẳng nói chẳng rằng, bà cầm lấy chìa khóa, sang bên giường hôn nhẹ lên trán June, vuốt ve mái tóc con vài lần rồi mới đi về.

    Jess lái xe ra khỏi khuôn viên bệnh viện, rẽ trái, từ đó cứ hướng thẳng đại lộ B là về tới nông trại của Jared. Lúc đi ngang qua con phố nhỏ dẫn ra đại lộ, vài con mèo nhảy phốc từ thùng rác xuống khiến Jess phanh gấp, tiếng kít vang dài. Lũ mèo hoang chết tiệt, bà rủa thầm rồi mới lái xe tiếp. Ánh đèn đường trải xuống vàng vọt khiến thị trấn nhuốm thêm vẻ u buồn. Ngang qua Blue Night, bà không quên ngó vào trong đó. Gã Hippie ngồi tần ngần bên quầy pha chế đang chăm chú đọc một thứ gì đó. Jess chợt nhớ lại những kỷ niệm, chiếc nhẫn cưới, ly cocktail caipirrinha trứ danh của Brazil hay giai điệu Elvis Presley... nhưng hầu như chẳng rõ rệt chút nào. Giờ mọi thứ chỉ là những dư ảnh rời rạc, dẫu có chắp vá thì cũng chẳng thành một bức tranh hay tấm ảnh hoàn chỉnh. Suy nghĩ vẩn vơ, sau đó Jess nhấn sâu chân ga, phóng vút về phía bóng đêm đang phủ xuống đen đặc.

    Bà không muốn những thứ đó gây ảnh hưởng không tốt tới tâm trạng của mình, nhất là vào lúc này. Đầu Jess vẫn choáng váng, thông báo của Bracher như một nhát búa bổ mạnh vào đầu bà. Dư âm còn sót lại của nó vẫn là nỗi đau âm ỉ, vô hình. Cứ mỗi lần nhắm mắt, Jess lại thấy nó dâng lên, lấp đầy lồng ngực mình, khiến bà thấy khó thở vô cùng.

    Đột nhiên, Jess dừng xe lại. Bà táp bên lề đường, chỗ có trạm dừng xe buýt. Nguồn sáng phát ra từ tấm biển quảng cáo đủ để cho bà đỗ vào một khoảng nhiều ánh sáng hơn. Jess nhìn trân trân vào tấm biển quảng cáo. Một gia đình đang quây quầy bên bữa ăn, vẻ như ngon miệng. Người bố và người mẹ nhìn sang đứa con với ánh mắt trìu mến. Chỉ là quảng cáo một loại gia vị thôi, nhưng sao nó lại khiến Jess buồn và trống rỗng đến thế.

    Đoạn, Jess bèn ra khỏi xe, tiện tay lấy bao thuốc và bật lửa từ chiếc túi xách. Một năm trở lại đây, Jess bắt đầu hút thuốc. Dĩ nhiên không bao giờ hút trước mặt các con; và cũng hiếm khi hút trước mặt Richard. Bà không muốn thói quen này gây ảnh hưởng xấu tới những người xung quanh mình, nhất là người thân. Những gì đã gây ra cho June là quá đủ rồi.

    Jess tựa người vào nắp capo. Chiếc Mustang 1969 cũ kỹ của Jared. Bà nhớ nó là một trong những chiếc xe hiếm hoi mà Jared giữ lại trong bộ sưu tập của mình. Nhớ lần gặp phải sự cố đó, Jared đã bán gần hết những chiếc xe mà ông từng gọi là “cục cưng” chỉ để đầu tư vào xưởng sửa chữa hiện giờ. Có lẽ, Jared sẽ chẳng bao giờ quên được biến cố đó. Một sự kiện đáng buồn, khó quên trong cuộc đời. Jess mỉa mai nghĩ vậy. Nhưng cuộc đời bà cũng mỉa mai không kém phần ông đâu. Đôi lúc bà cũng muốn biết cách ông ấy đã dễ dàng vượt qua và đối mặt với mọi chuyện như thế nào.

    Jess châm điếu và hút. Rít một hơi thật sâu, bà từ từ nhả đụm khói ra không khí. Chúng tan nhanh vào thinh không, giá lạnh. Đêm về khuya, trời như lạnh hơn. Jess thu mình vào trong chiếc áo khoác gió mỏng. Bà tiếp tục rít thuốc, một vài chiếc xe phóng vụt trước mặt. Đám thanh niên ngỗ ngược lại tìm cách trốn khỏi thị trấn để đến những tụ điểm ăn chơi ở thành phố. Chúng hò hét, buông dăm câu cợt nhả khi thấy Jess. Jess chẳng buồn đáp lại, tiếng cười cợt nhỏ dần, trả lại màn đêm lạnh, se sắt hơn. Jess vứt điếu thuốc hút dở xuống đất, không quên dùng chân di di vài lần cho tắt hẳn.

    Bà lên xe, phóng thẳng về nông trại của Jared. Khoảng sân được thắp sáng bởi cột đèn cao áp loại nhỏ. Jess dễ dàng đậu xe trong khoảng sân vườn, cách gốc sồi cổ thụ vài bước chân. Lúc còn nhỏ, June luôn mơ ước có một cây cổ thụ trong vườn nhỏ để treo chiếc xích đu. Jess không cho xe vào gara mà đỗ gần thềm sân, bà chẳng biết xoay xở trong đó như thế nào. Chưa bao giờ sống ở đây, dù chỉ là một ngày nhưng bà luôn có một cảm giác khá thân thuộc, không thể diễn tả thành lời.

    Jess tắt máy, xuống xe. Rảo bước nhanh qua bậc tam cấp vào trong nhà, bà tra chìa, rồi đẩy cửa vào. Chuông gắn cửa kêu lên từng tiếng leng keng nghe vui tai. Bà lần mò công tắc điện trong bóng tối. “Tách”. Theo đó, thứ ánh sáng vàng dịu lan tỏa khắp căn phòng, nom chừng ấm áp. Cởi áo khoác ra, Jess treo ngay ngắn trên mắc, thẳng tay lẳng chiếc túi xách xuống ghế sofa, rồi bà thả người xuống đó, thở dài một hơi đầy mệt mỏi. Jess ngả người, nhắm mắt, lấy hai tay day day thái dương. Cơn đau đầu vẫn âm ỉ mãi không dứt. Sau đó, bà quyết định đi tắm.

    Tắm xong, Jess vào trong gian bếp kiểm tra tủ lạnh xem có gì ăn được không. Vài thứ đồ tươi đã bắt đầu phân hủy, tiện tay bà quẳng chúng vào sọt đựng rác. Xem chừng chỉ còn vài thứ đồ hộp là ăn được thôi. Một hộp cá mòi, một quả táo và vài muỗng siro dâu tây. Coi như cũng phần nào làm nguôi đi cơn đói. Jess thầm nghĩ.

    Vừa ăn bà vừa quét ánh mắt qua gian phòng vài lượt, cách bài trí chẳng khác gì so với căn hộ cũ của họ trong thị trấn, chỉ là mọi thứ trông rộng rãi và thoáng đãng hơn. Vẫn là bộ sofa cũ mèm có họa tiết ca rô. Tấm thảm trải sàn mang phong cách boho khá bắt mắt. Một vài chiếc chuông gió được treo bên cửa sổ. Từ gian phòng nhìn thẳng vào căn bếp nhỏ, chỉ vừa kê một chiếc bàn ăn hình tròn, màu cánh gián. Dao và đồ dùng bếp được treo ngay ngắn trên bức tường, một chạn tủ nhỏ để đựng bát và đĩa. Phía bên phải phòng khách, cách cửa sổ lớn vài thước, rèm cửa màu xanh lạt im lìm. Chỗ đó vẫn để trống. Jess nhớ rằng, nếu như ở căn nhà cũ của họ, thì chỗ đó sẽ dùng để đặt cây đàn dương cầm cũ của bà. Khi trở về Dallas, Richard đã dành nguyên một căn phòng nhỏ chỉ để đặt chiếc dương cầm mới cáu, mà ông mua tặng bà nhân dịp sinh nhật năm kia. Cây đàn dương cầm cũ cũng được để trong đó, nhưng phủ vải trắng; và Jess chưa bao giờ dùng lại nó cả.

    Jess bỏ chiếc thìa còn nguyên siro sang một bên. Bà nhắm mắt, chợt nhớ về giai điệu. Một hình ảnh của Jess còn trẻ, những ngón tay nõn nà, thả nhẹ trên phím đàn đen trắng. Những giai điệu cất lên, từ bản The Blue Danube Waltz sâu lắng của Johann Strauss Jr, tới giai điệu du dương của Autumn Leaves. Jess cứ thế thả trôi mình trong những giai điệu ấy.
    Tiếng cạch của một vật thể lạ rơi bên phía ngoài căn nhà, khiến Jess dứt khỏi dòng hồi tưởng. Có lẽ do một con mèo hoang nào đó hay bà đã quá mệt, khiến tâm trí liên tục gây ra những ảo giác, nhiễu động.

    Đoạn, Jess bỏ hộp cá mòi ăn dở trở lại tủ lạnh; cả hộp siro dâu tây, vài lát bánh mì nho khô cứng bà cho hết vào sọt rác. Jess uống một vài viên aspirin trước khi đi ngủ. Đêm nay, bà sẽ ngủ lại trong căn phòng của con.

    Sự mệt mỏi tạm thiêu rụi đi những phiền muộn trong lòng Jess. Bà thiếp đi, may sao chẳng có cơn ác mộng nào ghé thăm.

    *

    Jess chẳng nhớ là đã ngủ trong bao lâu. Tiếng chuông điện thoại réo lên từng hồi bên góc nhà đã đánh thức bà. Do điện thoại sập nguồn nên Jared đã gọi vào số cố định. Jared có một ý tưởng, ông ấy đã trình bày qua điện thoại, giọng Jared có vẻ hào hứng. Bà chỉ đáp gọn lỏn bằng những từ ngắn gọn, bà đồng thuận với ý kiến của ông.

    Jared muốn bà mang tới phòng bệnh vài bức vẽ của June, hiện đang nằm trong phòng con bé. Jess vội vàng nhỏm dậy, cảm thấy người đã đỡ mỏi nhức hơn hôm qua. Bà nhìn quanh căn phòng một lượt. Khá bừa bộn, Jess trộm nghĩ, cần phải dọn dẹp lại nơi này. Sau đó, Jess xuống nhà vệ sinh cá nhân và ăn sáng. Phía bên ngoài trời, những tia nắng hiếm hoi xuyên qua lớp mây bàng bạc, dày đặc chiếu thẳng vào khung cửa.

    Ăn sáng xong, Jess cầm máy hút bụi lên phòng June. Đồ đạc khá bừa bộn, June chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện dọn phòng nó. Jess nhớ có lần con nói rằng, bừa bộn tạo nên sự sáng tạo nghệ thuật. Nếu không biết đến những tin nhắn bắt nạt trong điện thoại thì khi nhìn căn phòng này, người ta chỉ liên tưởng đến một học sinh cấp ba rất đỗi bình thường. Bà dọn đống sách bừa bộn trên bàn học, vài cuốn sách nằm chỏng chơ khắp gian phòng, mỗi nơi một ít. Rồi bà phân loại chúng. Sách văn học, sách thiên văn hay sách về nghiên cứu mỹ thuật. Có một vài cuốn sách cũ, Jess để trong bìa các tông.

    Rồi bà nhặt lên cuốn Cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn. Đó từng là cuốn sách mà June thích đọc nhất. Sinh nhật năm chín tuổi, bà đã tặng cuốn sách đó cho con. Jess vẫn nhớ lời đề tặng của mình. Bà vội vàng mở ra, vài trang giấy long ra vì sách đã cũ. Jess nhặt lên, bao gồm cả trang có lời đề tặng.

    “Cho tưởng tượng, giấc mơ và những chuyến phiêu lưu kỳ diệu. Mẹ yêu con! June”.

    Jess nhìn dòng chữ nhỏ nhắn một hồi lâu. Sau đó, bà quyết định lấy keo dán và kim để khâu lại cuốn sách. Bà không để cuốn sách vào thùng các tông nữa, mà sẽ đem nó tới phòng bệnh cùng với các bức tranh.

    Jess chuyển sang gấp lại đống quần áo trong tủ, bỏ hết những quần áo nhăn nhúm qua một bên, bà quyết định sẽ giặt và là lại chúng ngay. Sau khi đã gần như xong xuôi mọi thứ, Jess mới xem tới những bức tranh nằm ngổn ngang bên góc phòng, có một vài phác thảo vẫn nằm nguyên trên giá. Khung cảnh ấy mới xong được một nửa, trên bầu trời vẫn thiếu những đám mây. Jess xem xét một bức tranh. Bà lục tìm dưới gầm giường thì thấy một tập phác thảo, khá dày dặn, một vài bức còn mới, số còn lại như đã vẽ từ lâu. Bà phủi bụi, ngắm nghía. Chẳng hiểu sao con bé lại bỏ nó dưới gầm giường.

    Jess tiến lại bên khung cửa sổ đầy đủ ánh sáng hơn, rồi ngồi xuống ghế. Bà bắt đầu lật giở từng bức tranh trong tập phác thảo. Con bé vẽ khá nhiều. Tất cả những gì vẽ trong tranh đều tái hiện lại khung cảnh của thị trấn Shadowfield. Một vài bức vẽ lại chân dung Jared đang hì hụi sửa chữa chiếc xe hỏng, thậm chí con bé còn vẽ cả chân dung khắc khổ của lão Geogre đang ngậm điếu thuốc trên môi, vẻ trầm tư. Jess dừng lại trước một bức tranh vẽ bà. Bà nhớ June đã từng vẽ bà vào cái lần dẫn con bé đi chơi quanh thị trấn, khi cả hai ngồi trên thảm cỏ. Con bé đã hứa rằng, nó sẽ cho bà xem lại bức tranh đó. Bẵng đi một thời gian, Jess quên khuấy đi mất, để rồi mọi lời hứa lại chìm vào lãng quên. Jess thầm trách sự vô tâm của chính mình.

    Jess tiếp tục lật giở tập phác thảo. Đột nhiên, bà dừng lại. Trước mặt bà những bức tranh có vẻ gì đó khác biệt. Hình ảnh của một cô gái bí ẩn nào đó, trạc tuổi con bé. Có đôi chỗ không rõ ràng, có vài bức khi vẽ xong, June lấy màu khác vẽ đè lên như để che giấu một bí mật. Chúng khác biệt so với hầu hết những bức tranh đã xem, như thể không phải do June vẽ. Ai đó đã nhét nhầm vào đây sao? Jess tự hỏi. Bà xem xét kỹ các bức tranh một lần nữa, rồi phát hiện ra tất cả đều là do June vẽ, vì phía góc trái của mỗi bức tranh đều ký tên June, gồm cả ngày, tháng, năm hoàn thành.

    Jess nhìn trân trân vào một phác thảo đầy đủ nhất. Cô gái lạ với mái tóc vàng sáng ngắn cắt bằng hiện ra mang gương mặt lạnh lùng, có vẻ gì thách thức. Ánh mắt màu xám tro thì toát lên vẻ sắc lạnh, gây chút khó chịu cho người đối diện. Vài bức phác thảo khác, hình ảnh của một mặt trăng ma quái đang tỏa thứ ánh sáng xanh lá ma mị. Cô gái này là ai? Một người bạn cùng trường của con bé chăng? Tại sao bà chưa thấy nó bao giờ? Biển suy nghĩ hỗn loạn khiến tâm trí Jess rối bời, mà chẳng biết xử trí ra sao. Rồi sau đó, bà gói ghém tất cả những bức tranh lại, bỏ vào một chiếc túi. Bà lái xe thẳng tới bệnh viện.

    Jess đi lên phòng bệnh, Jared đang ngồi đọc báo trên ghế. Thấy Jess tới, ông bèn dẹp tờ báo qua một bên.

    Jess ngồi xuống, lấy từ trong túi xách ra những bức tranh kỳ lạ. Bà bắt đầu vào chuyện.

    “Anh đã bao giờ thấy những bức tranh này chưa?” – Jess hỏi, giơ tranh ra trước mặt Jared.

    Ông cầm lấy, xem xét, vẻ đăm chiêu. Sau đó Jared lắc đầu nói:

    “Anh e là chưa. Con bé chưa bao giờ chia sẻ những bức tranh của nó với anh.”

    Jess trầm ngâm một hồi, bà chưa biết nói gì, ngoài những ngờ vực đang dâng lên trong lòng.

    “Anh có biết những người bạn của con bé không?” – Jess lại hỏi.

    “Dĩ nhiên. Nhưng con bé chẳng chơi thân với ai, ngoài thằng bé nhà White. Là Gavin White đó.” – Jared trình bày.

    “Trong số những người bạn của June, có ai giống như này không. Cô gái trong bức tranh này.” – Jess tiếp tục hỏi.

    Jared tần ngần, ông đưa bức tranh lên ngắm nghía một lần nữa, đăm chiêu hết sức. Cố lục lại trong suy nghĩ của mình những hình ảnh, nhưng Jared chẳng tìm được một chút thông tin nào. Con bé chưa bao giờ chia sẻ về chuyện trường lớp. Có lần Jared gặng hỏi, nhưng con bé nổi cáu nên ông đành thôi. Từ đó ông chẳng bao giờ dám đả động trực tiếp, thi thoảng chỉ dò hỏi tình hình qua Gavin hay cô Marry. J – giáo viên chủ nhiệm lớp.

    “Anh e là không. Không hề có cô gái này.” – Jared trả lời.

    “Tại sao?”

    Jared bèn lắc đầu, ông không nói thêm nữa. Trong đầu ông giờ đây cũng có những nghi ngờ tương tự Jess. Ông nghĩ, có thể là một người bạn mới quen của June, nhưng tại sao ông chưa bao giờ thấy con bé nói về chuyện đó.

    Cuộc trò chuyện bị cắt ngang bởi Bracher. Ông bước vào phòng, yêu cầu hai người đi ra ngoài, để ông và các y tá có thể kiểm tra định kỳ tình hình của June. Jared và Jess đi ra ngoài. Trên tay Jess vẫn cầm theo bức phác thảo. Cô gái ánh trăng, bà tạm gọi như vậy. Sau đó, bà đề nghị Jared gọi điện tới trường học để gặp Marry J.

    Không lạ gì là cô Marry J khá bối rối khi Jared gọi. Cô hiển nhiên không rõ về mối quan hệ của học sinh với nhau nhưng cũng cố gắng chứng tỏ điều ngược lại. Dù vậy, Marry J vẫn có thể cung cấp một số thông tin, sau khi gửi lời thăm hỏi dành cho June. Một lát sau, Jared thông báo với Jess.

    “Marry J. nói, trong lớp không có cô gái nào như thế cả. Và ở trường, June cũng không chơi với ai ngoài Gavin White.”

    Mọi thứ vượt ra ngoài trí tưởng tượng của Jess, bởi lẽ cô gái trong bức tranh không có thật. Jess nhìn lại bức tranh một lần nữa, đôi mắt màu xám tro như xoáy sâu vào trong mắt bà, khiến bà thoáng chút rùng mình.

    Jared và Jess cùng trở lại phòng bệnh khi Bracher đi ra. Ông ấy nói tình hình của June vẫn ổn định, dù không có tiến triển gì thêm. Jess nghe vậy liền thấy lòng chùng xuống. Thà ông ta chẳng nói còn hơn, nhưng thiết nghĩ đó là công việc. Jess cảm ơn Bracher, rồi bà đi thẳng vào phòng, trên tay vẫn nắm chặt những bức vẽ của June.

    Sau đó, bà lặng lẽ treo chúng lên, thậm chí ngay bên giường bệnh. Còn bức họa phác thảo cô gái ánh trăng, Jess vẫn giữ bên mình. Bà cảm thấy không thật sự cần thiết, hoặc chút gì đó bất an. Trực giác đã mách bảo bà như vậy, dẫu mọi thứ không hề chắc chắn.

    Bà ngắm nhìn thành quả của mình. Những bức tranh trở nên sinh động hơn, giá như con bé có thể tỉnh lại để xem cảnh tượng này. Nắm lấy bàn tay bé nhỏ, khá lạnh của June. Jess nhớ lại.

    *

    “Bây giờ, thằng Tom đã gần khỏi hẳn. Nó buộc viên đạn vào một cái dây đeo lên cổ để làm cái đồng hồ và thỉnh thoảng lại giở ra xem giờ.

    Tôi không biết viết gì thêm nữa cho cuốn sách này. Nếu như tôi biết là viết một cuốn sách sẽ khó khăn như thế nào thì tôi chẳng viết, mà cũng không có ý định viết nữa. Nhưng dù sao, tôi cũng phải đi ngay đến địa phận của những người da đỏ vì dì Saly định nuôi tôi và khai hóa cho tôi; mà tôi thì không chịu được điều đó, tôi đã thừa biết về nó rồi.”

    Jess ngừng, bà gập lại cuốn sách, chăm chú nhìn vào June. Con bé bèn lên tiếng:

    “Như vậy là cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn và Jim sẽ không bao giờ kết thúc phải không?”

    Jess gật đầu và nói:

    “Hai đứa sẽ xuôi mãi theo dòng Mississippi, và những gì còn lại đều đẹp đẽ như thế. Tình bạn và sự hi sinh cho nhau.”

    Jess cảm thấy câu nói của mình có phần hơi trừu tượng nên bà bèn dừng lại, vì sợ con khó hiểu. Dẫu biết rằng, người Mỹ nào cũng cần hiểu về Huck hay Mark Twain. Đặt cuốn sách xuống chiếc bàn bên cạnh đầu giường, Jess vuốt ve mái tóc của June, nhìn âu yếm.

    “Sau này con cũng sẽ thực hiện những cuộc phiêu lưu như Huck và Jim, con sẽ băng qua những vùng hoang mạc của nước Mỹ, và thậm chí là xuôi theo dòng Mississippi. Khi đó, ba mẹ đừng cấm cản con điều gì nhé!”

    Jess chỉ cười và sau đó bà nói:

    “Không hề. Mẹ và ba Jared sẽ chẳng bao giờ ngăn cản ước mơ của con. Nhớ giữ lấy nó.”

    Jess nắm chặt tay đứa con gái bé bỏng, và nói thêm:

    “Giờ thì đi ngủ thôi.”

    June mỉm cười, rồi nhắm tịt mắt. Bà hôn nhẹ lên vầng trán của con, cầu chúc những điều tốt đẹp.

    *

    Tiếng gió đập vào cửa khiến Jess giật thột, choàng tỉnh. Bà dáo dác nhìn quanh, vẻ như hoảng hốt. Bà đã thiếp đi một lúc. Nhìn về phía cánh cửa, rèm bay phần phật trong cơn gió rít mạnh từng lần.

    Cơn gió thổi mạnh, hất tung những bức tranh ban nãy bà không treo lên. Jess vội vàng thu lượm lại. Khi ấy bà nhận ra phòng vẫn chưa bật đèn, thứ ánh sáng duy nhất hắt từ bên ngoài hành lang vào. Bà vội nhặt lại những bức tranh, rồi đóng chặt cánh cửa. Jess ngồi xuống ghế, trong ánh sáng tờ mờ, những hình nét về cô gái ánh trăng hiện rõ, phủ một lớp ma mị trên gương mặt lạnh tanh. Đôi mắt dường như đang trở nên sống động. Jess hoảng hốt gấp chúng lại, để sâu vào trong ngăn kéo.

    ***

    Tảng đá nặng trịch rơi xuống lấp kín cửa hang. Trời bỗng tối như bưng, June lấy tay mò mẫm, rồi nó nhận ra xung quanh toàn đá là đá.

    Nó không còn nghe thấy tiếng la hét của Gavin nữa. Tiến lại gần cửa hang, nó rà tay quanh tảng đá xù xì, dính thứ gì đó nhớp nhúa. Biết không thể dùng sức, nhưng nó vẫn cố gắng ẩy thân hình nhỏ bé về phía tảng đá. Lát sau, nó ngồi bệt xuống đất, thở hổn hển, bất lực. Nó nghĩ mình sẽ bị mắc kẹt ở đây mất thôi.

    Một lát sau, June quyết định đi sâu vào trong hang, biết đâu lại tìm ra một lối khác thì sao. Nó đã từng đọc đâu đó về trường hợp tương tự như vậy. Khi cửa hang bị lấp kín, người ta sẽ đi sâu vào trong, thể nào cũng sẽ có lối thông thoát. Nghĩ vậy, nó đứng dậy, dò dẫm từng bước về phía trước. Nó đi mãi, tới khi vài tia sáng xuất hiện. Nó phát hiện ra một lỗ hổng trên trần hang. Nó bèn trèo lên. Lần thứ nhất, nó ngã phịch xuống đất, đau điếng người, vì những phiến đá trơn nhẵn như bôi mỡ không thể trèo lên được. Nỗ lực lần thứ hai, thứ ba đều thất bại.

    Sau đó, nó bèn nghĩ ra một kế. Nó quyết định lấy những phiến đá vừa nằm rải rác trên mặt đất, xếp chồng lên nhau. Vì trần hang cũng không quá cao, nếu xếp tới độ nhất định, nó có thể trèo lên phía trên được. Khoảng ba mươi phút sau, nó đã tạo được một bục đứng khá cao từ những phiến đá vụn. June trèo lên và nhìn thấy phía trên là một hành lang rộng, khoảng không gian như bị thứ ánh sáng mạnh hắt vào. Dụi mắt vài lần June mới nhìn rõ mọi thứ. Nó đặt hai tay lên mặt sàn đá, dồn lực, bật mạnh chân. Nó nhảy lên trên, thoát khỏi cái hang tăm tối. Lại là một hành lang rộng lớn khác trong tòa tháp. Giờ nó không biết được mình đang ở tầng thứ bao nhiêu của tòa lâu đài. Nhưng thây kệ, nó tiến thẳng về phía trước. Nó chỉ nghĩ tới Gavin thôi. Nó hy vọng sẽ tìm được cậu ấy.

    Đi tới cuối hàng lang, nó buộc phải rẽ phải. Hướng đi bị thu hẹp lại rất nhiều. Không gian phía trước mờ mịt dần, màn sương trắng làm giảm tầm nhìn của nó, nhiệt độ cũng giảm dần, nó cảm thấy khá lạnh.

    Rồi June thận trọng từng bước. Đột nhiên, nó cảm thấy như ai đó đang bước đi sau mình, nhưng khi dừng lại thì mọi thứ lại im lặng. June bước tiếp, tiếng bước chân rõ hơn. Nó dừng lại. Im lặng. Nó bước tiếp. Vẫn là tiếng bước chân đó. June quay lại nhưng chẳng thể thấy gì.

    “Ai đó?” – June cất tiếng hỏi.

    Đáp lại chỉ là tiếng vang của chính giọng nó.

    Sau đó, June rảo bước thật nhanh, gần như là chạy. Nó nghe rõ mồn một, tiếng bước chân đuổi theo. Nó chạy nhanh hơn, gió rít mạnh bên tai. Nó bước hụt xuống một cái hố. Chết chắc rồi. Nhắm tịt mắt lại, nó thấy mình rơi mãi, như thể rơi xuống một cái hố không đáy vậy.

    June ngất đi một lúc. Nó biết điều đó, bởi trong vô thức nó cứ rơi mãi cho tới khi đáp xuống một căn phòng có dạng hình tròn. Toàn bộ được lát thứ gạch màu đen huyền bí, bóng loáng. Nhìn xuống dưới chân, nó thấy hình ảnh phản chiếu méo mó của bản thân. Gương mặt chảy xệ, hai tròng mắt đen ngòm rơi ra khỏi hốc mắt, lăn tròn trên nền đất.

    Nó thét lên kinh hãi.

    “June.”

    Nó choàng tỉnh. Hóa ra chỉ là cơn ác mộng. Khi ấy, nó nhận ra mình đang nằm sõng soài ở trong căn phòng vừa mơ ban nãy. Sàn nhà lạnh ngắt như sân trượt băng. Hơi thở nó yếu ớt, làn khói trắng mỏng phả ra từ miệng. Đây là đâu? Nó tự hỏi.

    “Cậu tỉnh rồi.” – Một giọng nói mơ hồ vang lên khiến June khẽ giật mình, dáo dác nhìn quanh để tìm hiểu.

    Đoạn, nó gắng dậy, dù thân người đau nhức vô cùng. June quét quanh căn phòng một lượt, cho tới khi ánh mắt của nó dừng lại ở một người. Dáng hình cao dong dỏng quen thuộc và mái tóc ngắn cá tính. Lucine! Chính là cô ấy!

    “June.” – Lucine gọi, nó gần như á khẩu chẳng thốt thành lời.
     
  7. Nhom4.0

    Nhom4.0 Lớp 3

    Mặc cho June đứng đó, trố mắt ngạc nhiên. Lucine vẫn chằm chằm nhìn nó. Đôi mắt màu xám tro kèm ánh nhìn sắc sảo, mà June đã dành cả tiếng đồng hồ để vẽ. Nó chợt nhớ lại những hình ảnh của Lucine.

    Nó đang ngồi co ro trên ghế đá giữa sân trường. Tháng Mười một trời lạnh như cắt da cắt thịt. Vài tia nắng hiếm hoi của mùa đông chiếu rọi chẳng đủ để xua tan sự lạnh lẽo và ấm ức trong nó.

    June nhìn lại, chiếc áo khoác bên ngoài ướt nhẹp đang bốc mùi chua lòm. Vài đứa con trai đi qua huýt sáo, tỏ ý cười cợt. June lườm nguýt chúng, nó nhận ra một tay là bạn của Max trong đội bóng rổ - thằng Cody mặt choắt trông như mặt chuột.

    “Trời vẫn chưa đủ lạnh sao June dị hợm.” – Cody nhìn nó rồi la lớn, vẻ giễu cợt.

    “Cút đi, đồ mặt chuột.” – June gằn lên từng tiếng.

    Cody và đám con trai bỏ đi. Chuyện thi thoảng vẫn xảy ra như vậy ở trường, nên June chẳng bận tâm. Đám con gái trong đội cổ vũ của Ruby đã rình lúc nó vào nhà vệ sinh, rồi đổ ụp cả thùng rác chứa lẫn nước xuống người. May thay, nó lấy cặp che lên đầu, nhưng thân người vẫn bị ướt. Nó bực tức quay ra để hỏi cho ra nhẽ, nhưng chúng đã tháo chạy về các ngả dọc hành lang.

    “June.” – Gavin từ đằng xa hớt hải chạy lại và nói, vẻ mặt cậu ngạc nhiên khi nhìn thấy bộ dạng thảm bại của nó.

    “Lại là đám con gái trong đội của Ruby đúng không? Lũ đó hết trò rồi sao, để mình đi báo cho cô Marry Jane, sau đó có thể phản ánh lên Hội đồng phụ huynh nữa...” – Gavin nói một thôi một hồi.

    “Thôi nào Gavin...” – June ngắt lời Gavin – “... mình không muốn làm tới. Vả lại mình cũng chẳng muốn dây dưa gì tới cái Hội đồng phụ huynh chết tiệt đó. Bố Jared của mình đã quá nhiều chuyện cần quan tâm hơn rồi.”

    “Nhưng không thể để cậu chịu mãi ấm ức như vậy được.” – Gavin lại nó.

    Lúc này June mới để ý thấy Gavin đang cầm một tập tài liệu về thiên văn học. Thấy vậy, nó bèn nói:

    “Chẳng phải chiều nay cậu có hẹn bên Hội nhóm Thiên Văn Học gì đó sao, Gavin.”

    “Khoảng 3 giờ chiều, nhưng giờ cậu nên đi với mình tới phòng của cô Marry Jane.” – Gavin vẫn chưa buông tha.

    Nó cảm thấy thật sự mệt mỏi trước sự thái quá của cậu. Dường như nó chẳng bao giờ bận tâm tới những gì vừa xảy ra với mình, dẫu thực sự tồi tệ.

    “Việc cần thiết bây giờ là làm sạch chính bản thân mình đã. Cậu không thấy người mình bắt đầu chua lòm rồi hay sao.” – June cười nói, nhướng mày về phía chiếc áo khoác giờ đang nằm dúm dó dưới chân ghế đá.

    Vài thứ nhơm nhớp, kinh tởm vẫn bám dính trên đó. Đủ hiểu những thứ trong thùng rác gớm ghiếc thế nào rồi.

    “Cậu tính về thế nào. Hay để mình đưa cậu về?” – Gavin ngỏ lời.

    June không muốn làm phiền Gavin nên khéo léo chối từ.

    “Không cần đâu, mình đã nhắn tin cho bố Jared tới đón rồi. Giờ thì cậu mau đi lên sinh hoạt hội Thiên Văn gì đó đi. Mình gặp sau.”

    “Vậy thì mình đi trước nhé! Có chuyện gì nhớ báo cho mình ngay. Nhớ chưa!” – Gavin nói, rồi cậu nhanh chóng biến mất sau dãy tường lát gạch đỏ, nơi có những sợi dây trường xuân leo, phủ kín tới tận khung cửa sổ.

    Trong môn Lịch sử địa phương có nói, trường trung học Shadowfiled được dựng trên nền tảng của một tu viện cũ vào cuối thế kỷ XIX, nên hầu như mọi kiến trúc đều mang dáng dấp cổ kính. June chưa bao giờ thích môi trường này, dù thư viện là nơi đã mê đắm nó. Hay từ ban công tầng bốn của khu nhà học, nó có thể nhìn thấy thị trấn bé nhỏ đang thay đổi từng ngày. Những căn nhà hiện đại mọc lên dần thay thế dãy nhà gạch cũ kỹ, mục nát. Vài rạp chiếu phim hiện đại và quán bar. Đôi lúc nó nghĩ chẳng biết mình có thuộc về nơi này không nữa. Bởi lẽ, bên trong nó luôn thường trực cảm giác lạc lõng và cô độc.

    Sự ấm ức vẫn còn nguyên trong nó. Đoạn, nó nhặt chiếc áo khoác từ dưới đất lên, cuộn lại rồi cho vào túi nilon, buộc chặt. Nó cố gắng lái suy nghĩ sang hướng khác, về những ý tưởng chẳng hạn, hơn là về bản mặt đáng ghét của những đứa con gái trong nhóm Ruby.

    Nó chưa gọi cho bố Jared, vào giờ này ông vẫn bận ở xưởng. Bố đã nhắn tin cho nó bảo rằng, đã chuẩn bị sẵn thức ăn trên bàn, chỉ cần hâm lại trong lò vi sóng là có thể ăn được. Nó chẳng bao giờ phiền lòng bởi điều đó cả. Chuyện đã xảy ra cả tuần nay rồi.

    June quyết định đi xe buýt, người phụ xe nhăn mặt khi thấy nó lên xe. Ông ta cũng cố gắng hỏi chuyện nhưng nó chỉ ậm ừ. Chọn một hàng ghế cuối, June ngồi yên, tựa đầu vào cửa kính, lơ đãng nhìn ra ngoài. Xe chuyển bánh qua khu phố cổ, hướng ra đại lộ B, từ đó đi chừng vài dặm nữa là về đến nhà.

    Xe tăng tốc, hai hàng cây bên đường lao vun vút về phía sau, nhạt dần. June thấy đầu hơi choáng váng, bèn dùng tay day mạnh hai thái dương. Đèn đỏ, xe thắng gấp, nó hơi chúi người về phía trước. Đột nhiên, phía bên kia con đường, xuất hiện một cô gái kỳ lạ. Người dong dỏng cao, váy buông dài tới đầu gối, chiếc váy với những họa tiết mang phong cách boho có phần bắt mắt. Nó để ý trên cổ của cô gái còn đeo những chuỗi hạt lấp lánh, lạ kỳ. Thật tuyệt! June thốt lên trong lòng. Ấy vậy mà, lũ con gái trong nhóm của Ruby luôn mở miệng chê bai gu thời trang dị hợm của nó. Nghĩ vậy, June định giơ điện thoại lên chụp, nhưng cô gái đã đi mất. Hết đèn đỏ, xe bus lại chạy tiếp.

    Hình ảnh cô gái vẫn ám ảnh tâm trí June cho tới khi về nhà. Nó ao ước có một người bạn để sẵn sàng sẻ chia điều gì đó. Về sở thích vẽ vời, về thời trang hay những chiếc vòng đeo tay bắt mắt. Còn Gavin thì sao, dù gì cậu ấy cũng là con trai. June thừa biết đám con trai mười bốn, mười lăm tuổi thường nghĩ về điều gì. Không bóng rổ thì cũng mê đắm những tờ báo về khúc côn cầu, bóng chày, thậm chí cả những tạp chí người lớn nóng bỏng. Gavin không hẳn nằm trong số đó, nhưng đôi lúc có những chuyện, June chẳng thể chia sẻ với cậu.

    Nghĩ vậy, khi vừa bước vào trong phòng mình, June bèn quăng chiếc cặp cùng với túi áo khoác sang một bên. Nó chạy lại góc nhà, cầm cọ, bóp tuýp màu ra bảng, rồi bắt đầu vẽ một cách say sưa, quên cả giờ giấc.

    Nó đưa cọ phác thảo phần gương mặt có phần nhỏ nhắn, rồi tới mái tóc xoăn dài luôn phủ kín hai vai. Riêng phần đôi mắt, June đã dành một khoảng thời gian khá lâu để vẽ, sắc màu xám toát lên vẻ vừa lạnh lùng, vừa sắc sảo.

    Sau đó, June bắt đầu lấy vài tập tranh trong gầm giường ra, những thứ đã từng vẽ trước đó, về Ruby, đám con trai trong lớp, thậm chí cả người thủ thư khó tính... Nó tiến ra bãi cỏ sau nhà, châm lửa đốt. Nó thực sự hả hê trước cảnh tượng ấy, bao nhiêu ấm ức ban nãy như mau chóng được xua đi.

    *

    “June.” – Lucine cất tiếng khiến June giật mình quay trở về với thực tại.

    Chẳng có tia nắng nào rọi vào căn phòng cả. Cũng chẳng còn những bức tranh, bảng màu và cọ vẽ. Nó trở về với căn phòng tranh tối tranh sáng trong lâu đài. Không gian thì u ám, lạnh ngắt. Nó nhận ra mình vẫn đang đứng trân trân một cách quê mùa.

    “Lu… Lucine.” – Khó khăn lắm June mới cất lên thành tiếng.

    Vẫn khoanh hai tay trước ngược, Lucine rảo bước tự tin lại gần. June nhận ra tình trạng thảm hại của mình. Tóc rũ xuống vai áo ướt nhẹp, đôi tay thì lấm lem bùn đất. Bộ dạng đó khiến nó bối rối. Chưa biết xử trí ra sao thì Lucine đã chìa hai bàn tay của cô ấy ra. Không chút chần chừ, nó bèn nắm lấy tay Lucine. Bàn tay khá lạnh nhưng chẳng hiểu sao nó lại cảm thấy an tâm hơn.

    June đứng dậy. Lucine bèn ôm chầm lấy nó như người bạn cũ lâu ngày không gặp mặt.

    “Gặp lại cậu vui quá, June!” – Lucine nói.

    “Mình... mình cũng vậy, Lucine.” – June ngập ngừng trả lời.

    “Chúng ta đi thôi.” – Lucine đề nghị.

    “Nhưng đi đâu?” – June hỏi lại.

    “Rời khỏi tòa tháp đáng sợ này chứ sao.” – Lucine giải thích.

    Không nói thêm gì nữa, Lucine nắm chặt lấy bàn tay June lôi đi. Nó thấy thân thể mình nhẹ bẫng như đang bay. Mọi thứ xung quanh nó nhòe dần.

    *

    “Dừng lại đi, Lucine.” – Được một lúc sau thì June hét lớn vì cảm thấy chóng mặt; cảm giác nôn nao chộn rộn.

    Thấy vậy, Lucine bèn dừng lại. Hai người đang đứng ở một căn hầm, trông giống như hệ thống cống ngầm ở các thành phố lớn. Lucine nhìn June, vẻ lo lắng hiện rõ trên gương mặt thanh tú ấy - gương mặt mà June đã mất hàng giờ để có thể tưởng tượng và vẽ ra thành hình.

    “Sao vậy June? Cậu thấy chóng mặt hay khó chịu sao?” – Lucine hỏi.

    June gật đầu trả lời.

    “Mình thấy hơi chóng mặt và buồn nôn.”

    “Vậy thì ngồi xuống đây nghỉ một chút!” – Lucine đề nghị.

    June được thể ngồi xuống. Lucine cũng vậy. Nó mất một lúc để lấy lại bình tĩnh. Có lẽ mọi thứ tới quá nhanh, như chuyện Lucine xuất hiện ở đây vậy. Vả lại vẫn còn Gavin nữa, June suýt nữa thì quên mất. Nó đinh ninh, cậu ấy đang lạc ở đâu đó trong lâu đài bí hiểm này. Nghĩ vậy, nó bèn quay lại Lucine và nói:

    “Mình đang đi tìm Gavin. Cậu biết Gavin chứ?”

    Lucine gật đầu đáp lời:

    “Mình biết, nhưng chẳng phải Gavin đã chết rồi sao?” – Lucine thắc mắc liền sau đó.

    “Đúng vậy! Nhưng trong thế giới này, Gavin tồn tại dưới một dạng ký ức của mình. Giống như cậu vậy, Lucine.” – June trình bày ngắn gọn.

    Lucine gật gù như thể đã hiểu rõ mọi chuyện. June nhớ đã từng kể cho Lucine biết đôi chút về Gavin trong cuốn nhật ký mà nó từng viết hơn nửa năm trước. Nó không thể nhớ chính xác những gì đã viết trong cuốn nhật ký đó, nhưng nó từng kể cho Lucine về gia cảnh của Gavin, về niềm ao ước có thêm một đứa con của mẹ cậu ấy. Cả chuyện sau này cậu ấy sẽ lên New York hay Columbus để học đại học. Rồi chuyện đáng buồn nhất – cái chết của cậu ấy. Vậy nên Lucine cũng hiểu được phần nào. Nó hồi hộp chờ phản ứng từ cô ấy.

    “June này, cậu có biết ý nghĩa của tòa tháp này không?” – Lucine quay lại, nhìn thẳng vào nó và hỏi.

    June bối rối thật sự, nó lắc đầu đáp:

    “Mình không biết. Mình cảm giác nơi này thật sự đáng sợ thôi. Nhất là khi đã gặp phải những chuyện kỳ cục.”

    Nó bắt đầu kể cho Lucine. Từ chuyện kỳ lạ về những giọng nói thì thầm vọng từ vách đá. Những con mắt lạnh lùng gắn trên bức tường hay bức tượng canh gác với ánh nhìn ma quái. Lucine lại gật gù như thể đã hiểu hết mọi chuyện. Ánh mắt sắc sảo trở nên khó hiểu vô cùng.

    “Cậu có biết tại sao lại như thế không June?” – Lucine lại hỏi, giọng nói tựa hồ bí ẩn.

    June một mực lắc đầu. Lucine bắt đầu giảng giải mọi chuyện. Cô ấy nói lâu đài này là hiện thân cho những nỗi sợ hãi của nó. Sự dằn vặt, lo lắng, hay những phiền muộn lâu nay. Tất thảy đều được cất giấu ở đây. Tòa tháp này như tấm gương tương phản giữa những điều tốt đẹp và phần xấu xa nhất được chôn giấu tại đây.

    “Mình chưa hiểu, Lucine.” – June cảm thấy xấu hổ khi phải thú nhận sự thật này.

    Bởi lẽ, nó chẳng hiểu cái quái gì đang xảy ra ở đây cả. Giống như chuyện đang cảm thụ một bức tranh siêu thực. Những hình khối kỳ quái được bện lại bằng những sợi len rối, xoắn vào nhau. Nó đã từng xem bức tranh đó ở trung tâm triển lãm Dallas vào lần đầu lên thăm mẹ Jess.

    Lucine chẳng bộc lộ cảm xúc gì trước sự ngờ nghệch của nó. Cô ấy chỉ im lặng, ngước mắt nhìn lên trên. Vài giọt nước nhỏ xuống từ vách đá, thấm nhanh vào trong nền đất ẩm lạnh. Một mùi khó chịu bốc lên.

    “Mình đang so sánh tòa tháp này và thế giới ngoài kia. Ở đây mọi thứ đều xấu xa. Nỗi sợ hãi. Sự dằn vặt, hay thậm chí cả mối bận tâm, lo lắng của cậu đó nữa June. Cậu hiểu điều tớ đang nói chứ?” – Lucine lại hỏi.

    June ngập ngừng chẳng nói thành lời. Mối bận tâm ư! Nó hiểu, Lucine đang đề cập tới chuyện gì.

    “Thế giới ngoài kia chẳng phải tốt đẹp hay sao? Cậu sẽ chẳng phải lo lắng chuyện gì, chẳng phiền muộn hay vướng bận điều gì. Thế nên, chúng ta chẳng việc gì phải lưu lại nơi này một giây, một phút nào nữa.” – Lucine nói một tràng dài.

    Vẫn hơi chần chừ, bởi nó ghét cay ghét đắng việc lựa chọn hay đưa ra quyết định. Rồi nó nói:

    “Nhưng còn Gavin. Cậu ấy đang lạc đâu đó trong lâu đài, khi con quái vật đang tấn công hai đứa. Cậu ấy đẩy mình vào một góc tối và cứu mình. Mình không thể bỏ rơi Gavin được.”

    Lucine ra chiều suy ngẫm, đi tới đi lui trong một khoảng đất nhỏ phía dưới chân, hai tay vẫn khoanh ngay ngắn trước ngực. Đôi môi mỏng dài bặm lại như có điều khó nghĩ. June thì mải mê nghĩ tới Gavin, nó không thể rời bỏ tòa lâu đài khi chưa tìm thấy cậu ấy. Nếu như vậy thì sự dằn vặt trong nó sẽ chẳng bao giờ được ngủ yên.

    Cả hai người im lặng một quãng khá lâu. Thời gian chầm chậm như hàng tiếng đã trôi qua. Thi thoảng, June thở dài đầy mệt mỏi.

    Lucine lên tiếng phá vỡ bầu không khí u ám. Cô ấy nói:

    “Vậy thế này đi, chúng ta sẽ cùng nhau đi tìm Gavin. Sau đó mới đi phía ngoài, được chứ June?”

    “Dĩ nhiên rồi.” – June bèn nói như mở cờ trong bụng. Nó cảm ơn rồi ôm chầm lấy Lucine.

    “Vậy đi thôi!”

    Lucine rảo bước đi đằng trước, trong ánh sáng nhập nhoạng như ngày tàn, nó cố gắng theo sát để tránh bị lạc đường. Tòa tháp bí ẩn vẫn toát lên vẻ kỳ lạ, ma quái.

    *

    Chúng quyết định đi xuống. Vì June cho rằng, khi căn phòng sụt xuống thì Gavin đã rơi vào một khoảng không gian khác. Khả năng cao cậu ấy vẫn đang mắc kẹt trong đó. Lucine đồng ý với June.

    Thận trọng từng bước xuống bậc thang chạy xoắn quanh lâu đài, June cố gắng xác định nơi nó đã ngã nhưng không thể. Bên cạnh mình, Lucine chẳng tỏ vẻ sợ hãi gì cả. Mặc cho bóng tối bao phủ, cô ấy vẫn phăng phăng tiến về phía trước. Có đôi lúc, June lạc mất Lucine. Nó co giò chạy vội, may thay mà theo kịp. Lucine chẳng nói chẳng rằng, khiến nó sợ hãi hơn. Cả thân người lạnh ngắt, run lên bần bật. Nghĩ vậy, nó bèn lôi cọ vẽ trong túi áo khoác ra. Nó nhắm mắt, quét ngang. Những bóng đèn trong lần lượt hiện ra, xếp thẳng đều tăm tắp, dọc hành lang đi xuống, soi rõ mọi thứ. Như vậy sẽ tốt hơn, June trộm nghĩ trong lòng. Nó giắt cọ vào bên trong túi áo khoác, tự tin bước về đằng trước.

    Lucine đột nhiên quay lại nhìn nó và hỏi:

    “Cậu đang làm gì vậy June?”

    “Mình chỉ muốn thắp sáng một chút thôi, vì không gian tối quá, mình chẳng thể thấy đường.” – June đáp lại.

    Lucine chẳng nói gì nữa, cô ấy rảo bước nhanh về đằng trước, gần như là chạy. Đi hết hành lang xoắn dẫn đến một hành lang rộng hơn. Cảnh tượng quen thuộc trong những tòa lâu đài thời cổ, cột đá nhô cao lên chống đỡ phần mái vòm hình tròn rộng lớn. June ngước lên, một dải sáng leo lét bắt nguồn từ một góc. Nó chuyển động rồi cuối cùng mất hút vào một trong những đám mây đen kịt. June chưng hửng, nó tưởng rằng mình sẽ thấy một cảnh tượng kỳ lạ nào đó. Mây bắt đầu ló dạng. Một hình thù có dáng tròn vành vạnh, hiện ra một nửa, tỏa thứ ánh sáng xanh ma mị.

    “Nhìn kìa, Lucine.” – June la lớn, chỉ tay lên phía trên.

    Lucine ngước lên. Mặt trăng liền mất dạng sau đám mây dày đặc. Khoảng trời tối sầm.

    “Cái đó là gì?” – June thắc mắc.

    “Không gì cả, nhưng cũng chẳng có gì tốt đẹp. Mình mau đi thôi June. Không còn nhiều thời gian để thưởng lãm đâu.” – Lucine thúc giục.

    Chúng băng nhanh qua hành lang rồi rẽ trái, đâm thẳng ra một cái hang rộng lớn. Bên trong hang được nong rộng ra, vài chiếc máy bay trực thăng dễ dàng đậu xuống đây. June nhận định. Đoạn, nó và Lucine lách người qua những cột đá nằm sững sững ngổn ngang trên mặt hang. Phía trên đầu, những măng đá chĩa xuống nhọn hoắt. June thoáng rùng mình, một ý nghĩ khủng khiếp chạy qua đầu nó, nhỡ những măng đá này rơi xuống thì chết chắc. Chưa dứt lời, một măng đá rơi xuống, cắm thẳng phía trước mặt tụi nó. June nhìn sang Lucine, mặt cắt không còn một giọt máu như thể cầu cứu.

    Lucine vội nắm lấy tay June, kéo nó lách qua những cột đá. Nó chỉ kịp ngước nhìn lên trần hang vài giây, trước khi cả thân người bị lôi đi với tốc độ khủng khiếp. Khi ấy, những măng đá bắt đầu rụng xuống, vài cái vỡ tan tành khi va chạm với cột đá, vài cái cắm phập xuống nền đất.

    “Uỵch.”

    June thấy mình lao vào một không gian tăm tối khác, ngã chúi về đằng trước. Lộn vài vòng rồi mới dừng lại. Một tiếng tách vang lên mơ hồ. Theo đó, thứ ánh sáng kỳ lạ bắt đầu soi rõ mọi thứ. Lại trong một căn hầm hình ống. Lúc này phát hiện phần dưới hông trở xuống đang ngập ngụa trong một lớp sình lầy, nó phát hoảng, cố gắng cử động chân nhưng bất lực.

    Từ đằng xa, nó thấy Lucine bắt đầu gượng dậy. Thân người cô ấy khẽ chao đảo, một lát sau mới lấy lại được sự cân bằng. Tiến nhanh lại phía June, Lucine hỏi với giọng điệu lo lắng vô cùng.

    “Cậu có sao không June? Đưa tay đây cho mình!”

    June đưa tay, Lucine nắm lấy, kéo lên. Lớp sình lầy không để lại dấu vết trên người June mà chúng dễ dàng trượt xuống khi rũ. Thật kỳ lạ!

    “Chúng ta đi tiếp thôi, nhưng lần này đừng bỏ tay mình ra nhé!” – Lucine đề nghị. Nó chẳng nói thêm gì, chỉ răm rắp nghe lời. Cảm giác sợ hãi đang dâng lên trong người nó tột độ.

    Hai đứa lại đi tiếp. Qua mấy dãy hành lang, những đường ống ngầm, thậm chí tiếp tục đi xuống những bậc thang lắt léo, nhưng vẫn chẳng thấy tăm hơi Gavin đâu. Lạc đường rồi, June trộm nghĩ. Nó mệt mỏi thực sự, bàn tay trơn ướt muốn vuột khỏi bàn tay của Lucine. Đoạn, nó khụy người xuống nền đá lạnh lẽo. Cả thân thể rã rời, đổ ụp xuống, nó chẳng thể tiếp tục được nữa.

    “June, cậu sao thế?” – Thấy vậy, Lucine bèn hỏi.

    June lắc đầu nói:

    “Mình chỉ thấy mệt thôi. Nghỉ một lát là đỡ.”

    Lucine đỡ nó ngồi xuống nền đá ẩm. Tim nó đập thình thịch, người vã mồ hôi như tắm. Một lát sau, khi đã lấy lại sự bình tĩnh, June và Lucine đứng dậy đi tiếp. Lúc này, hành lang dẫn vào một gian phòng hình tròn, đá nhẵn thín và bóng loáng như gương. Nó ngó mình xuống dưới, cả thân hình méo mó hiện ra, chẳng thể nhìn rõ gì.

    “Cậu có nghĩ đã có chuyện gì xảy ra với Gavin không June?” – Lucine dò hỏi.

    June lắc đầu nói:

    “Mình không biết, cảm giác như chúng ta đang bị lạc.”

    “Mình cũng nghĩ thế. Và mình còn nghĩ tới một trường hợp xấu hơn.” – Lucine nói.

    June biết cô ấy đang đề cập tới chuyện gì, đó là trường hợp xấu nhất. Có thể, nó sẽ chẳng bao giờ tìm thấy Gavin nữa, thứ gì đó đã nuốt chửng cậu ấy chẳng hạn. June lắc đầu nguầy nguậy, không thể nào. Nó cố gắng xua tan ý nghĩ tiêu cực đó.

    “Không thể...”– June thẳng thừng phủ nhận... – “Gavin sẽ không sao đâu. Đi tiếp thôi!”

    Lucine thở hắt ra một cái, vẻ chán chường hiện rõ trên gương mặt cô ấy.

    Khoảng im lặng trở lại giữa hai người, từng khoảnh khắc chầm chậm trôi. Lucine lên tiếng:

    “Cậu biết tại sao khi ở đây, cậu luôn có cảm giác sợ hãi, lo lắng không June?”

    “Vì những thứ đó được cất giấu ở đây. Cậu đã nói thế.” – June đáp lời.

    “Đúng! Mình đã nói thế, nhưng mọi chuyện không đơn giản như vậy đâu. Cậu có nhớ những hành động của mình trong quá khứ không, vào những lúc cậu tỏ ra bực bội. Bị đám con gái trong nhóm của Ruby chòng ghẹo. Lần đó cậu đã làm gì?” – Lucine lại hỏi.

    “Mình...” – June ngập ngừng nói chẳng thành lời.

    “Cậu đã đốt những bức tranh. Có phải hành động đó khiến cậu cảm thấy như giải tỏa được những phiền muộn, ấm ức, thậm chí cả những nỗi đau ở hiện tại, đúng không?”

    June lặng lẽ gật đầu. Lucine bèn nói tiếp:

    “Ở thế giới thực, mọi sự đau khổ, áp lực mà cậu phải chịu đựng hằng ngày, ở trường lớp, thậm chí là ở nhà. Chúng sẽ dần lớn lên trong cậu, trong khi bản thân cậu quá nhỏ bé để có thể chịu nổi chúng. Từ đó mới sinh ra những hành động tiêu cực như vậy. Còn ở thế giới này, cậu sẽ chẳng bao giờ chịu áp lực, rồi buộc phải nổi giận như thế. Huống chi ở đây cậu chẳng đang cầm nắm chiếc chìa khóa - cây cọ vẽ để tạo ra những điều kỳ diệu hay sao.”

    Nó vẫn im lặng, một cảm giác gì đó như sự hối hận dấy lên trong người. Nó nói:

    “Mình xin lỗi, Lucine. Mình sẽ không bao giờ như vậy nữa. Mình hứa.”

    Lucine mỉm cười, rồi cô ấy ôm chầm lấy thân thể nhỏ bé, yếu ớt của nó.

    “Đừng lo, June! Có mình luôn ở bên cạnh cậu, bất cứ khi nào. Còn giờ mình đi ra ngoài thôi, bên ngoài thế giới.”

    “Nhưng còn Gavin nữa?” – June thắc mắc.

    “Gavin ư! Chúng ta đã đi tìm cậu ấy, nhưng cậu biết kết quả như thế nào rồi June. Những cạm bẫy giăng mắc khắp tòa tháp này, nếu còn ở lại, mình e rằng, chúng ta khó có thể thoát ra. Không thể bị chôn vùi ở đây được.” – Lucine giải thích một lần nữa.

    June vẫn chần chừ không nói, vì chưa biết tình trạng của Gavin giờ ra sao. Nhưng ngẫm lại cảnh tượng khủng khiếp ban nãy trong hang đá, nó lại thấy rùng mình ớn lạnh. Sự mâu thuẫn lại xuất hiện trong lòng, nó chẳng biết thế nào. Nó căm ghét những quyết định hay lựa chọn. Lucine vẫn nhìn nó dò hỏi, như cầu khẩn nó mau đưa ra quyết định của mình. Gavin đã nhiều lần xả thân để cứu mạng nó. Hồi còn học ở trường, chẳng phải lúc nào cậu ấy cũng ở bên nó sao, nhất là những khi nó buồn? Và chẳng phải cậu là người nó luôn nhớ tới sao, ngay cả trong thế giới này?

    “Đừng chần chừ nữa, June, chúng ta mau đi thôi!” – Lucine giục June.

    “Gavin đã từng cứu mình, Lucine. Hơn một lần.” – June quả quyết.

    “Điều đó cũng chẳng có nghĩa lý gì, khi cậu ấy chỉ tồn tại dưới dạng linh hồn thôi. Sự dằn vặt trong cậu đang ngăn cản cậu đó. Biết không?” – Lucine nói lớn, gần như là hét.

    “Sự dằn vặt ư?” – June ngạc nhiên hỏi lại.

    “Cậu luôn luôn dằn vặt về cái chết của Gavin mà. Cậu ấy rơi xuống vực ngay trước mắt cậu.”

    Lucine nói thêm, nếu như nó rời khỏi tòa lâu đài này thì sự dằn vặt về cái chết của Gavin sẽ được chôn vùi ở đây. Cậu ấy cũng sẽ không hối hận, hay tự trách móc bản thân về bất cứ điều gì nữa.

    June im lặng. Khi ấy, Lucine vẻ như mất bình tĩnh. Cô ấy vội buông tay June ra, đứng nghiêm trang, nhắm nghiền mắt như lẩm bẩm điều gì đó. Đột nhiên, một luồng sáng tỏa ra từ người cô ấy. Theo phản xạ, June nhắm tịt mắt lại, một lát sau mới mở ra.

    Trước mặt nó chính là Gavin. Nguyên vẹn, hoàn hảo. June á khẩu chẳng nói được gì. Lucine lên tiếng, đồng thời nở một nụ cười bí hiểm:

    “Chẳng phải Gavin đó sao, cậu ấy chỉ tồn tại giống như một linh hồn nhỏ bé, dễ biến mất bất cứ khi nào và ngược lại. Mình dễ dàng tạo ra hàng trăm ngàn phiên bản như thế này.”

    June tiến gần sang phía Gavin. Ánh mắt cậu nhìn về khoảng không trung. Trống rỗng. Vô hồn. June thử chạm vào bàn tay cậu, một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng. Nó rùng mình lùi lại.

    June nhận ra, đó không phải là cậu ấy. Chỉ như một bản sao rỗng tuếch, không có linh hồn.

    Nó nhìn về phía Lucine đầy vẻ ngờ vực.
     
  8. Nhom4.0

    Nhom4.0 Lớp 3

    Jess nhón lấy một tập san về sức khỏe định kỳ dưới quầy ăn nhanh bệnh viện. Bà vừa ăn vừa xem vài mẩu tin quảng cáo về một số phòng khám tư hay bệnh viện hòng tìm thấy một địa chỉ đáng tin cậy hơn nhưng không có. Jess bực dọc, bà chẳng thể tìm thấy chút thông tin hữu ích nào cả. Jess tiện tay lẳng luôn chiếc bánh hamburger đang ăn dở vào thùng rác, vẻ mặt bà tỏ rõ sự mệt mỏi, chán chường.

    Jess quay lại phòng bệnh, đã hơn 7 giờ tối. Jared đang chăm chú vào chiếc điện thoại của mình.

    “Em đã đi đâu đấy?” – Jared hỏi khi thấy Jess bước vào phòng.

    “Ăn chút gì đó thôi.” – Jess đáp gọn lỏn.

    “Anh có tìm thấy một cơ sở khá tốt ở Chicago, chuyên điều trị hôn mê thực vật. Chúng ta thử liên lạc tới đó xem sao?” – Jared trình bày sau khi rời mắt khỏi màn hình điện thoại.

    “Anh ghi số điện thoại và địa chỉ ra giấy đi! Chúng ta sẽ thử liên hệ xem sao.” – Jess đáp lại như thể cho có; giờ bà chẳng tin nổi mấy thứ thông tin rác rưởi trên internet nữa.

    Jess ngồi lại bên giường bệnh, vẻ mặt thẫn thờ, vô hồn.

    Mấy hôm nay hai người chia nhau tìm thông tin trên mạng internet, tra cứu mục sức khỏe, hay hỏi đáp trực tuyến với những chuyên gia có tiếng. Thậm chí Jess đã nhờ tới sự hỗ trợ của Richard – chồng mình, nhưng kết quả vẫn chỉ là con số không. Những người hàng xóm của Jared cũng lần lượt động viện họ, nhưng Jess chán ngấy những chuyến thăm hỏi như thế; hơn hết, con gái bà cần một không gian thật sự yên tĩnh để có thể hoàn toàn bình phục.

    Có tiếng gõ cửa nhẹ, đều đặn phía bên ngoài. Jared vội đứng dậy, mở cửa.

    Đó là ông bà White – bố mẹ của Gavin. Họ đang đứng trước cửa, mỉm cười thân thiện, trên tay còn xách theo một giỏ hoa quả đầy ụ; lúc nào họ cũng chu đáo như thế.

    “Ông bà White...” – Jess đứng dậy, có phần luống cuống... – “Mời ông bà vào chơi.”

    Hai người gật đầu như nói cảm ơn, rồi từ tốn bước vào phòng. Bà White tiện tay đưa giỏ trái cây cho Jess.

    “Chúng tôi biết tình hình của June đã lâu nhưng do không sắp xếp được công việc nên bây giờ mới tới thăm được. Mong ông bà thông cảm.” – Bà White nói, trong khi ông White đang thì thầm điều gì đó với Jared bên cửa sổ.

    “Không có gì...” – Jess bèn nói. – “... Ông bà bỏ chút thời gian tới là chúng tôi vui rồi, nhớ hồi đó June và Gavin lúc nào cũng kè kè bên nhau như hình với bóng. Nhưng tiếc thay...”

    Jess có phần ngập ngừng trong giọng nói, bà White thấy vậy liền lên tiếng:

    “Không sao, chúng tôi hiểu những gì hai người đang trải qua, vì chúng tôi đã từng ở trong tình cảnh đó rồi. Điều bà cần làm bây giờ là sự bình tâm thôi Jess ạ! Hãy chờ đợi!”

    Sau đó, mẹ của Gavin đỡ tay Jess ngồi xuống ghế, tiện thể rót một cốc nước, đưa cho Jess.

    “Cảm ơn bà.” – Jess cầm lấy và nói.

    Hai người đàn ông vẫn thì thầm bên cửa sổ. Bà White ra hiệu cho chồng ngồi xuống bên mình. Jared cũng nhấc chiếc ghế ở bên cạnh giường bệnh và ngồi xuống. Phía bên ngoài, dưới ánh đèn trầm đục, Jess như thấy những tinh thể màu trắng đang lặng lẽ rơi xuống. Tuyết đầu mùa, Jess thầm thì trong lòng.

    “Sắp tới Giáng sinh rồi, không biết hai ông bà có ý tưởng nào về buổi lễ không?” – Một lát sau bà White đưa ra gợi ý; ông White cũng mỉm cười đồng thuận.

    “Thú thực là chúng tôi chưa có ý tưởng nào về chuyện này cả, nếu như bà không nói, tôi đã quên luôn ngày lễ này rồi.” – Jared lên tiếng thú nhận.

    “Mải nghĩ tới con bé mà tôi đã gần như quên béng đi dịp lễ quan trọng này.” – Jess đế thêm.

    “Chúng tôi có ý kiến thế này. Không biết là ông bà có bằng lòng không?” – Ông White lên tiếng.

    Họ đã có ý định từ trước, về việc lên kế hoạch tổ chức một buổi lễ chào đón Giáng sinh sớm ngay tại bệnh viện này. Mọi thứ sẽ được tổ chức đơn giản nhất có thể. Không ồn ào, phô trương. Ông bà White cũng nói thêm, họ đã chuẩn bị hầu như đầy đủ mọi thứ, chỉ còn chờ sự đồng thuận từ Jared và Jess mà thôi. Cả hai người chấp thuận sau khi đã thảo luận với nhau.

    Họ cũng nhận được sự chấp thuận từ phía bệnh viện. Sau đó, những chiếc đèn led, đèn neon được trang trí bên cửa sổ, trên bức tường, thậm chí cả bên giường bệnh. Ông bà White còn cho đặt một cây thông Noel nhỏ ngay giữa căn phòng, phía bên dưới là cơ số những hộp quà tượng trưng. Họ tổ chức bữa tiệc Giáng sinh sớm trong sự lặng lẽ và cùng nhau cầu nguyện.

    ***


    Gavin men theo những bức tường ẩm ướt trong tòa lâu đài. Ánh sáng dần bị bóng tối xâm chiếm nên không thể nhìn thấy gì. Bước đi chậm rãi hết sức, thi thoảng cậu sơ ý giẫm phải một vũng nước đọng lại trên đường. Gavin đang cố gắng đánh lạc hướng con quái vật. Cậu thắc mắc không biết June đã chạy thoát khỏi tòa lâu đài hay chưa? Cậu lo lắng nửa như muốn quay lại, nhưng hiện giờ cậu đang bị lạc đường. Con quái vật cũng không thấy tăm hơi đâu nữa. Thảng hoặc, vọng lại từ đằng xa là những tiếng động kỳ lạ, nghe rợn người. Đoạn, Gavin rảo bước nhanh, gần như là chạy.

    Cố giữ cho tâm trí bình tĩnh nhất có thể, nhưng cứ mỗi bước chân Gavin lại thấy tim mình đập nhanh hơn bình thường, cảm tưởng như muốn nhảy phắt ra khỏi lồng ngực. Đôi chân cậu bủn rủn. Thi thoảng vừa đi cậu vừa ngoái lại đằng sau để xem xét tình hình, nhưng con đường ngày càng tăm tối, mịt mù hơn.

    Đột nhiên tiếng cộp cộp vang lên đều đều, như ai đó đang nện mạnh gót giày xuống nền đá. Càng tiến về đằng trước, Gavin như dự cảm được sự chẳng lành. Tiếng động lạ ngày một rõ hơn. Theo đó, những quầng sáng xuất hiện khiến mọi thứ hiện ra rành rành.

    Gavin thấy lối đi như được mở rộng, con đường dần hiện rõ với dáng vẻ trầm mặc. Nhưng không hẳn là một con đường, cậu phủ nhận, mà là một hành lang vô cùng rộng lớn. Phía bên cạnh là những cột đá cao chừng hai mươi mét với chu vi lớn. Không giống những cột đá trơn nhẵn được chạm khắc hoa văn phức tạp, mà chỉ là những phiến đá xù xì, góc cạnh được xếp chồng lên nhau, khéo léo từng viên một cho tới khi tạo nên một cột đá thẳng đứng, khổng lổ. Gavin ngước nhìn lên trên, những cột đá có chức năng nâng đỡ phần mái vòm cũng khổng lồ không kém. Phần mái vòm có phần đặc biệt với những họa tiết kỳ quái, mang màu sắc u tối, tạo nên một bức tranh siêu thực vĩ đại. Gavin nghĩ, có ngồi hàng giờ đồng hồ thì cậu cũng không thể nào lý giải nổi chúng.

    Một dải ánh sáng leo lét xuất hiện trên bức tranh mái vòm. Ban đầu chỉ dài hơn phần cánh tay một chút, nhưng sau đó nó bắt đầu chuyển động theo hình zíc zắc. Gavin tò mò đi theo chuyển động đó, cho tới khi nó dẫn tới trung tâm của bức tranh. Một mặt trăng to, tròn vành vạnh hiện ra và đang tỏa ra thứ ánh sáng xanh lá cực kỳ ma quái. Thứ ánh sáng dường như khiến Gavin nhức nhối. Cậu dụi mắt mấy lần rồi cắm cúi chạy nhanh về phía trước.

    Tới một đoạn, Gavin buộc phải rẽ trái vì không có hướng đi nào khác. Con đường dẫn cậu ra một căn phòng rộng lớn, hình tròn. Cậu ngước nhìn lên trên, chẳng có phần mái vòm nào cả, mà chỉ là một khoảng trời rộng lớn. Trên đó, những dải sáng đủ màu sắc bắt đầu cuộc trình diễn, như hiện tượng bắc cực quang nổi tiếng của vùng cực. Bên bức tường, xếp đều đặn những cánh cửa màu đồng đen, nom nặng trịch. Khung cảnh này khiến Gavin liên tưởng tới đấu trường La Mã huyền thoại trong truyền thuyết. Tuy chỉ khác một điều, cậu không phải là một đấu sĩ quả cảm, mà chỉ là một ký ức tồn tại đang ra sức bảo vệ cô bạn thân của mình mà thôi.

    Những cánh cửa dần hiện ra rõ hơn. Không phải màu đồng đen như Gavin thấy ban nãy mà là màu cánh gián, nhẵn bóng và không có nắm đấm cửa. Trên mỗi cánh cửa còn được khắc một dấu hiệu bí ẩn có hình dạng tròn. Gavin xoay người, thử đếm xem có bao nhiêu cánh cửa. Cậu nhận ra có tất cả năm cánh cửa, trên mỗi cánh cửa cũng đánh số thứ tự La Mã từ một đến bốn, cánh thứ năm lớn hơn thì không ghi gì.

    “Cạch.”

    Đột nhiên, cánh cửa I bật mở. Làn khói đen ngòm xịt ra, thoáng chốc rồi tan nhanh vào không khí. Một hình hài hiện ra trong ánh sáng. Với thân hình chỉ cao chừng một mét, cái đầu trọc nhẵn thín không mọc tóc. Hắn có đôi mắt xếch, đồng tử màu trắng dã, còn cái tai thì nhọn hoắt trông như một tên yêu tinh trong giai thoại xa xưa của người dân Bắc Âu.

    Hắn từ từ bước ra, dáng đi hơi chúi về phía trước. Tay trái hắn còn kéo lê theo một cây chùy lớn, trên đó gắn đinh lởm chởm. Tên quỷ lùn giương đôi mắt trắng dã về phía Gavin, miệng nở một nụ cười khinh khỉnh để lộ những chiếc răng vàng khè to bản, bẩn thỉu.

    Hắn quăng chiếc chùy đang cầm trên tay vào Gavin, nhưng cậu nhanh chóng thụp người xuống né kịp. Chiếc chùy lao trúng phía đối diện, một mảng tường lớn vỡ vụn và rơi xuống đất. Nếu như Gavin né không kịp thì có lẽ cậu đã tiêu đời rồi. Gavin cố gắng lục lọi xem trong ba lô của mình có thứ gì dùng được không, cậu không thể sử dụng con dao như những lần trước nữa. Phải có thứ gì đó lớn hơn; may thay, cậu tìm được một chiếc rìu chặt cây cỡ nhỏ được ba cậu chuẩn bị cho những chuyến dã ngoại.

    Bằng một sức mạnh thần bí, chiếc chùy ngay lập tức quay lại, nằm gọn trong bàn tay tên quỷ lùn. Hắn nắm chặt cả hai tay vào chùy, giơ cao lên và lao thẳng về phía Gavin. Cậu giơ rìu lên đỡ, sém chút nữa thì chiếc rìu đã văng khỏi tay cậu, một cảm giác bỏng rát lan khắp bàn tay rồi tới cánh tay.

    Lúc này, tên quỷ lùn mau chóng thực hiện đòn tấn công thứ hai với tốc độ nhanh hơn. Gavin né người sang bên trái, cú đánh này dù né được nhưng cũng khiến cậu loạng choạng rồi ngã uỵch xuống đất, đau điếng. Tên quỷ lùn vẫn chưa tấn công, dù hắn chỉ đứng cách cậu chưa đầy hai mét. Gavin lấy làm lạ trước cảnh tượng này – hắn đứng hơi nghiêng, đầu cúi xuống, tai như dỏng lên để nghe ngóng gì đó. Gavin chợt nhận ra, hắn không nhìn thấy cậu. Hắn chỉ có thể tấn công nương theo tiếng động mà thôi.

    Như hiểu ra mọi chuyện, Gavin gắng gượng đứng dậy, dù cả phần thân dưới đau điếng. Cậu như nín thở, lặng lẽ di chuyển về phía bức tường, chậm, thật chậm. Tên quỷ lùn vẫn không ngừng nghe ngóng, hắn dỏng tai lên, tiến thoái tới lui trong một khoảng diện tích khá nhỏ dưới chân mình. Trên tay hắn vẫn lăm lăm cây chùy sẵn sàng tấn công khi có thể. Lúc này Gavin đã tiến gần tới bức tường, chỗ đất đá vỡ vụn dưới nền đất do chiếc chùy của tên quỷ lùn gây ra. Gavin hít một hơi thật nhẹ qua lỗ mũi, trái tim đập dồn như trống trận của cậu cần một chút dưỡng khí. Liệu tên quỷ lùn kia có nghe thấy mình không? Hay là hắn đang cố gắng ngửi một cái gì đó; Gavin biết, một số sinh vật không thể nhìn nhưng bù lại chúng có thính giác cực kỳ tốt. Mồ hôi ướt đẫm trên mái tóc, khuôn mặt cậu, nỗi sợ hãi tới một ranh giới nào đó như muốn ăn mòn tâm trí cậu.

    Đoạn, Gavin từ từ ngồi xuống, cậu cố gắng nắm thật chặt chiếc rìu đang trở nên nặng trịch, như muốn ghì bàn tay mình. Lỡ như chiếc rìu rơi xuống, hay chỉ cần chạm khẽ vào nền đá thì chắc cậu tiêu đời. Rồi, Gavin nhanh tay lựa một hòn đá cỡ vừa. Cậu đứng thẳng người, lấy hết sức ném mạnh vào bức tường đối diện. Hòn đá ném trúng cánh cửa đồng, tạo nên một tiếng choang lớn giống như tiếng cồng. Tiếng động lớn khiến tên quỷ lùn giật nảy mình lùi lại vài bước, như thể hắn sắp té ngã tới nơi. Nhưng không, hắn bắt đầu xoay người tứ phía vẻ như hoảng hốt. Không để cho hắn có cơ hội, Gavin nhặt viên đá thứ hai ném mạnh về phía trước, nhưng lần này cậu chọn một hướng khác. Tên quỷ lùn xao nhãng, hắn đang cố lắng nghe để xác định đúng hướng tấn công, nhưng vô ích. Nắm được thế chủ động, Gavin tiếp tục ném đá loạn xạ theo những hướng khác nhau, tên quỷ lùn dường như bực tức vì hàng tá tiếng động đang khiến hắn mất phương hướng. Nhân lúc đó, Gavin lăm lăm chiếc rìu trong tay chạy nhanh về phía hắn, cậu giơ chiếc rìu lên, bổ một nhát chí mạng xuống đầu tên quỷ lùn.

    Hắn bàng hoàng ngước lên, nhưng không kịp trở tay nữa khi lưỡi rìu của Gavin đã cắm xuống, bửa đôi cái đầu nhẵn thín của ra. Hắn há hốc miệng đầy kinh hãi. Một dòng máu đỏ sậm túa ra, rồi lơ lửng bay trong không trung. Thân hình rúm ró của hắn đổ ụp xuống, chảy xệ ra như tảng sáp bị hơ nóng quá mức, cuối cùng chỉ là đống bầy nhầy, kinh tởm. Thứ sót lại chỉ là những hạt bụi lấp lánh phản chiếu với ánh sáng, một lát sau thì hoàn toàn biến mất khỏi căn phòng.

    Hai cánh cửa tiếp theo đánh số II, III lần lượt được mở ra. Khi làn khói biến mất, những hình thù quái dị dần dần hiện rõ. Chúng có hình dáng của một người trưởng thành, gương mặt dài giống như một con dê với cặp sừng dài, mắt sáng như những sinh vật sống về đêm, hai cánh tay hình thanh kiếm dài ngoằng, nhọn hoắt. Gavin cố gắng lục lọi trong tâm trí để có thể hình dung rõ ràng về sinh vật này nhưng cậu không thể.

    Chúng ngước nhìn lên khoảng trời u tối phía trên đầu. Hàng chục đốm sáng bắt đầu xuất hiện nhưng không phải những ngôi sao. Đám mây đen đặc bắt đầu tách ra, nhường chỗ cho một mặt trăng tròn vành vạnh. Những ánh mắt sáng quắc phản chiếu với ánh trăng. Không gian càng trở nên ma mị hơn. Chúng ném cái nhìn đầy hăm dọa sang bên Gavin khiến cậu rùng mình, ớn lạnh.

    Một con phóng nhanh về phía cậu, chĩa cánh tay dài nhọn của nó hòng đâm một nhát trí mạng. Gavin né nhanh người sang bên trái như một kỵ sĩ thực thụ. Con quái thú mất đà suýt nữa đâm sầm vào bức tường đối diện. Cú mất đà làm nó chững lại đôi chút. Nhanh chóng quay người, cậu đẵn một nhát rìu vào ống quyển khiến nó khụy xuống, hai cánh tay ôm lấy chân vẻ đau đớn. Nhân cơ hội đó, cậu bổ nhát rìu ngay giữa lưng con quái thú, nó gục xuống đất nhưng vẫn chưa chết, mà đang gắng gượng bò dậy. Thấy vậy, cậu tiếp tục bổ thêm một nhát rìu nữa trúng gáy con quái thú, cái đầu gần như lìa khỏi cổ nó. Con quái vật im hẳn, không cựa quậy được nữa, dòng máu đen sì bắt đầu rỉ ra từ cổ, rồi sau đó, cả thân thể nó dần xẹp lép, rữa ra và tan biến.

    Mải để ý tới những hạt bụi lấp lánh bay lên sau đó, một cú thúc vào mạn sườn bên phải khiến Gavin đau nhói, cậu la lên. Con quái thú còn lại đã đâm lén khiến Gavin ngã lăn ra, chiếc rìu liền rơi khỏi tay cậu. Gavin thử sờ tay lên mạn sườn, cảm giác ươn ướt, hình như máu đã bắt đầu chảy. Cậu cố gắng hít một hơi thật sâu, cung cấp ôxi cho hai buồng phổi. Lúc này Gavin không chắc, mình có thể cầm cự trong bao lâu nữa. Định thần lại Gavin mới phát hiện ra, mình đã ngã lên một vật thể cưng cứng nào đó trong ba lô. Cậu nhấc người lên thì phát hiện, đó là chiếc đèn pin chuyên dùng cho những buổi cắm trại.

    Từ đằng xa, trong ánh sáng nhập nhoạng, Gavin nhìn thấy hai con quái thú còn lại đang lao nhanh về phía cậu, chĩa những cánh tay nhọn hoắt ra tấn công. Gavin không còn cách nào khác, theo phản xạ, giơ chiếc đèn pin rồi bật lên. Mắt vẫn nhắm nghiền, cậu nghĩ rằng, chỉ còn nước chết thôi, những thanh kiếm sẽ đâm toạc bụng cậu. Nhưng lạ thay, một âm thanh kỳ lạ phát ra từ những con quái thú, giống như tiếng kêu rin rít nhẹ, nhưng gây ra đau đớn nghiêm trọng. Gavin bèn mở mắt, tay phải vẫn nắm chặt chiếc đèn pin, hóa ra ánh sáng từ chiếc đèn pin đã gây lóa mắt khiến chúng đau đớn. Con quái thú đang khụy người xuống. Nhanh như cắt, Gavin vội lấy lại chiếc rìu của mình.

    Tay trái cầm đèn pin, tay phải lăm lăm chiếc rìu, Gavin chạy lại, mau chóng tiêu diệt con quái thú còn lại. Từng nhát rìu trí mạng bổ xuống cơ thể nó, những dòng máu đen sì không ngừng xối ra, bay lơ lửng trong không trung như bong bóng, rồi bỗng chốc tan biến, hóa thành những hạt bụi lấp lánh như ban nãy.

    Bỗng nhiên, một thứ gì đó tác động mạnh đến tâm trí Gavin. Vài dư ảnh thoáng qua, không rõ ràng. Cậu chực đổ ụp người, tay vẫn cầm chặt chiếc rìu chống xuống, hai đầu gối khụy xuống nền đất.

    “Cạch.”

    Cánh cửa đánh số IV mở ra. Làn khói đỏ xịt ra giống như lúc mở đầu màn kịch, và diễn viên sẽ bước ra sau đó. Nhưng trong hoàn cảnh này, sẽ không có diễn viên nào cả. Gavin tự nhủ, không biết thứ quái quỷ nào sẽ lại xuất hiện đây.

    Khói biến mất. Một dáng hình nhỏ nhắn hiện ra. Mái tóc nâu dài thẳng, rũ xuống, rối bời.

    “June. Là cậu?” – Gavin ngạc nhiên thốt lên.

    June không nói gì mà tiến lại phía Gavin, đôi chân trần trắng nhợt chầm chậm bước đi, không gây tiếng động. Gavin để ý trên tay phải của June có cầm theo cả chiếc cặp giấy, tay trái thì cầm cọ vẽ te tua.

    “Chẳng phải cậu đang ở ngoài tòa tháp sao June?” – Gavin vẫn không thôi thắc mắc.

    June đang đứng trước mặt, nhưng tại sao cậu ấy lại im lặng như thế? Lẽ nào là ảo giác? Lẽ nào chỉ là một cái bóng mà thôi? Gavin không thôi tự hỏi bản thân, nhưng đầu óc cậu trống rỗng, chẳng thể tìm ra câu trả lời.

    June tiếp tục nhìn cậu, xoáy ánh mắt lạnh lùng, vô cảm khiến cho Gavin thoáng rùng mình lùi lại.

    “Cậu làm sao vậy June?” – Gavin mất bình tĩnh, cậu dùng hai tay lay mạnh bả vai June.

    Gavin thấy người June lạnh như băng. Vẫn không có biểu cảm gì, trông June khi ấy chẳng khác gì một con rối vô hồn đang được nghệ nhân điều khiển. Đột nhiên, cậu ấy ngước lên bầu trời đang tỏa ra thứ ánh sáng xanh ma mị, mắt đỏ khé một màu, toàn thân co giật. Gavin thét lên kinh hãi. Cậu giật lùi lại phía sau, té ngã. Đó không phải là June!

    Con rối lao vào Gavin, vươn đôi tay gớm ghiếc thộp lấy cổ họng cậu, bóp chặt. Gavin thấy khó thở, mắt cậu ứa lệ. Không gian xung quanh cậu cứ mờ nhòe rồi tối dần. Cậu cố gắng dùng hai tay để gỡ ra nhưng không thể. Nó càng siết chặt hơn, tiếng khè khè đắc chí phát ra từ khuôn miệng rộng đen ngòm.

    Quơ quào xung quanh, cậu chộp được chiếc rìu, giáng mạnh một cú vào đầu nó. Cậu thấy cổ họng dần dần được nới lỏng, không gian sáng rõ trở lại. Gavin nhận ra con rối đang loạng choạng, mất phương hướng, có lẽ nó hơi choáng sau cú đập ban nãy. Không để nó trở tay, cậu vung rìu lên, bổ xuống. Con rối đổ gục dưới chân cậu như một đống giẻ lau bùi nhùi, bẩn thỉu. Nó mau chóng rữa ra rồi biến mất như những con quái vật ban nãy.

    Đột nhiê,n vài hình ảnh chạy nhanh qua đầu cậu, hệt như vừa trải qua một giấc mơ, một thước phim tua nhanh. Gavin nhìn thấy một cô gái tóc dài lang thang đi một mình trong khuôn viên trường học, tay ôm khư khư xấp giấy vẽ được xếp gọn gàng. Lại một hình ảnh khác, vẫn là cô gái ấy. Cô đang ngồi trong lớp nhưng mắt lơ đãng nhìn ra ngoài khung cửa sổ, như đang tưởng tượng điều gì. Ở khung cảnh cuối cùng, cô gái ngồi một mình trên thảm cỏ, xung quanh là những tiếng la ó, cười cợt của đám hình nhân không nhìn rõ mặt. Gavin chợt hiểu ra, những con quái vật mình vừa giết ban nãy là tượng trưng cho những nỗi sợ hãi của June; chừng nào cậu ấy chưa thôi sợ hãi thì chúng vẫn tồn tại.

    Cánh cửa lớn không đánh số cuối cùng cũng bật mở. Từng tiếng dậm chân mạnh khiến cả gian phòng rung lên bần bật. Một sức mạnh khủng khiếp! Gavin bèn đứng dậy, tay nắm chặt lấy chiếc rìu, sẵn sàng tư thế phản công. Một bàn chân to lớn, gớm ghiếc. Con quái vật dần dần ló mặt ra. Nó cao hơn hai mét, với những chiếc rễ cây sần sùi bện chặt lại, hay xoắn vào nhau tạo nên những bộ phận trên cơ thể. Hai cánh tay khổng lồ dài ngoằng, tua tủa những chiếc gai sắc nhọn. Đôi mắt và miệng của hắn là hai cái hốc tối đen ngòm, không có tròng mắt.

    Hắn không buồn đe nạt tinh thần của Gavin mà lao vào tấn công ngay. Vươn một cánh tay lên không trung, rồi hắn quất mạnh xuống nền nhà, những viên gạch vỡ vụn, văng lên tung tóe dưới sức mạnh khủng khiếp ấy. Gavin lăn người qua bên phải né kịp, đồng thời cậu bổ chiếc rìu xuống, một đoạn rễ lớn đứt lìa khỏi cánh tay. Tuy nhiên ngay sau đó, từ chỗ bị chặt đứt bỗng nhiên mọc ra một nhánh khác, y như ban đầu.

    Gavin kinh hãi hòng tìm cách trốn chạy khỏi căn phòng, nhưng đầu óc cậu quay cuồng không thể xác định được phương hướng. Một cánh tay của con quái vật quật trúng người khiến Gavin văng ra một khoảng cách khá xa. Lưng đập vào tường đá, cậu có cảm giác như vài chiếc xương sườn đã gãy. Gavin thấy khó thở, cổ họng nghẹn ứ lại, nhưng cậu vẫn gắng gượng đứng dậy. Lúc này, một chiếc rễ đã quấn chặt lấy chân, cậu ra sức chặt, chiếc rễ đứt lìa, cậu toan bỏ chạy. Gavin nhận ra mình không thể đấu lại con quái vật này. Nỗi sợ hãi vẫn còn trong lòng June, nếu như cậu vẫn cố gắng chiến đấu thì chẳng khác nào tự sát cả.

    Gavin cố lách người, trườn thân mình khỏi những chiếc rễ đã bắt đầu lan ra, tua tủa, đâm toạc xuống nền gạch, xới tung căn phòng. Những nhánh cây lan nhanh tới một cái hốc như thể muốn bịt nó lại. Đó chính là lối ra, Gavin mừng rỡ thốt lên trong lòng.

    “Gavin! Cậu đang ở đâu thế?” – Giọng nói quen thuộc của June vang lên, lọt vào căn phòng.

    Lấy hết sức bình sinh, Gavin chạy lại, khéo léo băng qua những nhánh rễ đang xâm chiếm căn phòng, rồi cậu quăng mình qua cái hốc đang bắt đầu bịt lại. Gavin chẳng thèm để ý nó sẽ dẫn mình đi tới đâu. Cậu chỉ thấy mình như đang trượt trong một đường ống khổng lồ. Cậu trượt mãi, cho tới khi rơi phịch xuống nền cát ẩm. Vội đứng dậy, cậu nhận ra mình đang ở một đường hầm tối thui. Phía cuối đường, một tia sáng le lói giống như một cánh cửa đang hé mở. Gavin cắm cúi chạy một mạch về hướng đó.
     
  9. Nhom4.0

    Nhom4.0 Lớp 3

    Gavin tiếp tục chạy, gió rít mạnh hai bên tai. Gã quái vật rễ cây vẫn kiên trì truy đuổi. Liếc nhanh sang hai bên, cậu thấy những nhánh cây vẫn lan ra, bò lổm ngổm trên tường, cả phía dưới chân xới tung lớp nền đá. Mấy lần chúng ngáng qua đường tạo thành chướng ngại vật, phải khó khăn lắm Gavin mới vượt qua.

    Càng chạy cậu càng thấy ánh sáng soi rõ hơn, phía trước mặt là một căn phòng hình tròn. Cậu nhìn thấy hai dáng người nhỏ bé đang đứng đó. Gavin bèn tăng tốc, hai dáng người hiện rõ dần. Một người chính là June. Cô gái lạ mặt còn lại thì cậu chưa nhìn thấy bao giờ. Đúng lúc này Gavin nhận ra gã quái vật không còn truy đuổi nữa, những nhánh cây thu lại, lùi dần vào bóng đêm, rồi bất chợt mất dạng.

    “Gavin...”

    June vội lên tiếng khi nhận ra Gavin. Nó chạy lại xem cậu có làm sao không. Mồ hôi ướt đẫm người, còn gương mặt thì tái mét, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập. Gavin vẫn còn sợ, dù June không biết cậu đã gặp sự cố khủng khiếp như thế nào. Nó dùng tay áo lau mồ hôi trên trán, hai bên má của cậu. Một mặt giữ cho cậu bình tĩnh, mặt khác như muốn nói rằng cậu đã an toàn rồi.

    “Mình không sao...” – Gavin hổn hển đáp. – “... Chúng ta... mau rời khỏi nơi này thôi June. Không thể ở đây thêm một phút nào nữa.”

    “Sao cơ?” – June hỏi lại.

    “Cậu phải rời khỏi thế giới này ngay lập tức.” – Gavin đáp gọn lỏn.

    June dường như vẫn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra; nhìn thấy bộ dạng lấm lem và sợ hãi như mọi lần của Gavin, nó chỉ thấy lo lắng cho cậu. June không nghĩ được gì trong tình huống này.

    “Cậu không nhìn thấy những gì vừa xảy ra hay sao?” – Gavin lại hỏi.

    June vẫn chưa trả lời. Thi thoảng nó đánh ánh mắt như cầu cứu sang bên cạnh mình, phía Lucine. Nhưng cô ấy vẫn khoanh tay đứng đó, vẻ mặt đang tỏ ra hết sức bình thản và có phần lạnh lùng.

    “Tất cả những chuyện này, cậu không thấy sao June. Mê cung khổng lồ, căn nhà gỗ, lũ lợn, chiếc xe biết bay và những vùng đất mọc lên một cách bất thường. Mọi thứ đều chỉ là sự giả dối mà thôi!” – Gavin nhìn thẳng vào mắt June như khẩn cầu nó tin vào những gì cậu đang nói.

    June im lặng, như thể có thứ gì đó đang bóp chẹt cổ họng khiến nó không thể diễn tả thành lời.

    “Cậu đang nói cái gì cơ? Giả dối, ảo tưởng ư? Thật nực cười làm sao! Gavin!”

    Một giọng nói rành rọt mang âm hưởng sắc lạnh vang lên trong khoảng không tăm tối. Cô nàng lạ mặt ban nãy chầm chậm bước ra, hai tay khoanh trước ngực, tự tin, gương mặt khẽ hếch lên trời mỉm cười tự mãn, khiêu khích.

    Lúc này Gavin mới hoàn toàn nhìn thấy khuôn mặt của cô gái lạ. Ánh mắt màu xám toát lên vẻ lạnh lùng và bí ẩn. Mái tóc xoăn dài được thả tự nhiên chứ không buộc gọn. Vài giọt nước bám trên lọn tóc nhỏ xuống chiếc áo màu vàng mang những họa tiết kỳ quái, sự pha trộn khá ăn ý giữa phong cách gypsy và hiện đại. Bất chợt, cô gái xoáy ánh mắt của mình vào Gavin khiến cậu có dự cảm chẳng lành. Theo phản xạ cậu lùi về phía sau vài bước, cảm giác lạnh toát chạy dọc sống lưng.

    Hít một hơi thật sâu, Gavin lấy lại sự bình tĩnh cần thiết. Cậu lại lên tiếng:

    “Tôi chỉ đang nói sự thật thôi, những gì tôi từng thấy và đã trải qua. Cậu không thấy ban nãy thứ gì đã đuổi theo tôi sao. Là một gã quái vật rễ cây. Gã đã suýt lấy mạng tôi nếu như tôi không chạy kịp.” – Gavin đang cố gắng chứng minh những gì mình thấy là đúng, nhưng có lẽ cậu đang trong tình thế bị động với dự cảm về mối hiểm họa đang sẵn sàng xảy đến với cậu.

    Lucine cười khẩy, cô ta vẫn không thôi xoáy ánh mắt vào Gavin, ném cho cậu một cái nhìn khinh khỉnh chẳng mấy dễ chịu.

    “Tôi chẳng thấy thứ gì đang đuổi theo cậu cả Gavin, chỉ thấy cậu đã bỏ rơi June và tôi đã là người tìm thấy. Vả lại, cậu đâu còn sống nữa hỡi linh hồn tội nghiệp.” – Lucine mỉa mai nói.

    “Tôi bỏ rơi June sao. Không đời nào! Khi đó tôi đang bận đánh lạc hướng con quái vật rễ cây để June có thể chạy thoát.”

    Lucine cười lớn, vang vọng khắp không gian thâm u.

    “Xin nhắc lại, tôi chẳng thấy con quái vật nào cả. Cậu đang nằm mơ giữa ban ngày sao Gavin.” – Lucine nói, lúc này cô ta đang đứng rất gần Gavin. Cậu có thể nhìn rõ đôi mắt xám điểm thêm vài tia hạch đỏ nối với đồng tử. Ánh mắt đó như sẵn sàng phóng những tia lửa điện nhằm hạ gục cậu bất cứ lúc nào.

    Gavin lên tiếng hỏi lần nữa, cậu nhận ra giọng mình trở nên khản đặc:

    “Cậu là ai? Tại sao... lại nói những lời dối trá như thế?”

    Cậu cảm thấy giọng mình lạc hẳn đi.

    “Dối trá ư?... – Lucine vẫn không thôi công kích Gavin – “... Một người đã cứu June mà cậu lại cho rằng người đó dối trá. Tôi đã cứu June khi cậu ấy ngất lịm đi.”

    Gavin dường như bất lực, dù bộ mặt thật của cô gái lạ mặt kia đã lộ rõ nhưng cậu lại chẳng thể nói được gì. Gavin tiến lại gần phía June, cậu ấy như đang bất động, khuôn mặt đờ đẫn không còn tí nét sắc nào cả.

    “Cậu nói gì đi June? Tại sao cậu lại im lặng như thế?” – Gavin dùng hai tay đặt lên đôi vai June, lay mạnh nhưng cả thân thể nó như nhũn ra, rã rời.

    Gavin buông tay. June ngồi thụp xuống.

    “Cậu coi chừng đó, nếu như cậu còn làm thế với June. Tôi cảnh cáo cậu đấy Gavin!” – Lucine gằn lên trong họng, từng tia giận dữ của cô ta nhắm thẳng vào Gavin càng làm cậu thấy kinh hãi hơn.

    Lucine tiến lại gần June hơn, dùng tay mình như muốn đỡ June dậy, nhưng cơ thể mềm oặt của June chỉ chực chờ đổ ụp xuống ngay cả trước một sự tác động hết sức nhẹ nhàng, y hệt những quân cờ domino vậy. Cô ta trưng ra vẻ mặt lo lắng trong khoảng không gian tranh tối tranh sáng. Gavin vẫn tiếp tục quan sát nhất cử nhất động.

    “Cậu còn nhớ phương thuốc lãng quên chứ June?” – Lucine tiếp tục sử dụng những chiêu trò của mình nhằm hạ gục Gavin.

    Gavin nghe và không hiểu những gì cô ta vừa nói. Phương thuốc lãng quên ư? Tại sao June chưa hề nhắc đến nó? Tại sao June lại giấu giếm cậu? Trong lòng cậu có hàng tá những câu hỏi kiểu vậy hiện hữu.

    June ngước nhìn Lucine, rồi nó nắm tay phía ngoài túi quần, phương thuốc vẫn còn đó, cảm giác như thứ ma lực vô hình lại tác động lên tâm trí nó lần nữa. Những giọng nói thầm thì như mời gọi, khiến nó có cảm giác muốn lôi nhanh phương thuốc ra khỏi túi, mở nắp rồi uống cạn ngay tức khắc.

    “Cậu vẫn còn giữ phương thuốc chứ June?” – Lucine lại hỏi.

    “Mình còn giữ.” – June nói.

    “Đó chẳng phải là điều tốt đẹp nhất sao? Cậu nên nhớ rằng, những gì mình nhìn thấy, cầm nắm được thì mới là thực. Còn những gì thuộc về ký ức thì sẽ nhanh chóng chìm vào sự quên lãng mà thôi.” – Lucine nói một thôi một hồi.

    June im lặng. Gavin chăm chú nhìn nó như đợi một câu trả lời rõ ràng nhất có thể.

    “Còn Gavin, cậu chỉ đang tồn tại như một dạng ký ức do June tạo ra mà thôi. Cậu không hề có thật.” – Lucine quay lại phía Gavin và nói với giọng điệu có phần đắc chí.

    “Không thể nào.” – Gavin thét lớn.

    “Không thể ư?” – Lucine tiếp tục, như nắm được điểm yếu của Gavin, cô ta bắt đầu lấn lướt.

    “Dù tôi không có thật, dù chỉ là tồn tại như một linh hồn không hơn, nhưng những gì cô vừa nói ban nãy đều là sự dối trá mà thôi. Hãy suy nghĩ đi June? Mình cần cậu tỉnh táo.” – Một lần nữa Gavin nhìn thẳng vào mắt June và nói, ánh mắt hiện rõ sự khẩn cầu và mong muốn được đáp lại.

    June vẫn câm lặng. Nó không nói được một lời nào trong mấy phút qua, cảm giác như thời gian dài đằng đẵng, trôi vô định. Những gì còn lại là sự hỗn độn, hàng tá câu hỏi không thể trả lời. Phía trước mặt nó, Lucine vẫn tỏ ra cực kỳ điềm nhiên, bình thản. Cô ấy chắp hai tay sau lưng, thi thoảng mắt ngước nhìn lên trên, nơi những hành lang sâu hun hút hình xoắn ốc kéo lên tới tận đỉnh, một khoảng trời chỉ bé bằng cái vung hiện ra.

    Bên cạnh nó, Gavin vẻ mỏi mệt. Cậu ngồi thụp xuống một phiến đá nhẵn nhụi loang loáng nước, hai tay ôm lấy đầu, bứt rứt mãi không thôi. Có lẽ Gavin đã quá mệt mỏi rồi, June trộm nghĩ. Nó nhìn quanh căn phòng một lượt. Một bên là Lucine đang đứng, một bên là Gavin. Nó buộc phải lựa chọn ư? Ý nghĩ đó như muốn thiêu đốt nó cháy rụi như những bức tranh đã từng vẽ, cháy rụi như cánh đồng cỏ nghi ngút khói ở Shadowfiled mỗi khi cuối vụ. Tâm trí nó lạo xạo những hình ảnh, còn bản thân nó đang trôi vô định giữa đống hỗn độn đó chẳng thể nào thoát ra. Tại sao mọi chuyện lại tới nông nỗi này? Tại sao nó không chết quách đi trên giường bệnh để không còn ai phải lo lắng cho mình nữa? Nó chợt liên tưởng tới hình ảnh bố Jared và mẹ Jess đang ngồi bên giường bệnh. Nó vẫn nằm im, gương mặt họ thì tiều tụy, hốc hác vì lo nghĩ. Những hình ảnh đó như nhát dao cứa sâu vào lòng nó, để lại một vết thương đang từ từ rỉ máu. Những suy nghĩ vây kín thành một nỗi tuyệt vọng sẵn sàng hạ gục nó. June ước, giá như có ai đó kéo nó ra khỏi vũng bùn này!

    *

    Bờ sông Little River có lẽ đẹp nhất khi vào hè. Những lùm cỏ xanh mướt mọc um tùm ven bờ. Khi ấy lũ chim sẽ bắt đầu về đây làm tổ, kết những cây cỏ lại thành một mái nhà nho nhỏ nhưng ấm cúng. June ngồi thừ, mắt lơ đãng nhìn về phía mặt sông loang loáng phản chiếu với ánh nắng mặt trời như được tráng lớp bạc.

    Nó vẫn chưa vẽ được chút gì kể từ khi tới đây, đã gần một tiếng rồi. Không một ý tưởng nào nảy sinh trong đầu June, bình thường nó sẵn sàng nghĩ ra hàng tá ý tưởng trong đầu, nhưng tiếc là không phải hôm nay. Từ dạo quen Lucine, nó cảm thấy cuộc sống mình dễ chịu hơn, bởi lẽ Lucine luôn là người lắng nghe nó. Cô ấy không bao giờ phàn nàn về bất cứ chuyện gì. Chứ không phải như bố Jared, một điều thế này, hai điều thế kia. Nó chán ngấy những dặn dò của ông rồi.

    Đôi khi trong những giấc mơ ngắn, nó thường gặp Lucine. Chẳng khác mấy so với tưởng tượng của nó. Lucine hiện ra như một mẫu người lý tưởng mà June ao ước bấy lâu nay. Có đôi lúc June cảm thấy cực kỳ ghen tức với cô ấy, dẫu chỉ là một người bạn trong trí tưởng tượng của mình. Từ ngoại hình xinh đẹp mà nó chắc chắn sẽ thu hút được mọi ánh nhìn của bất kỳ cậu con trai nào trong trường Trung học Shadowfield. June dám cá như vậy.

    Tõm. Cái gì đó vừa rơi xuống mặt sông khiến June giật thột quay lại. Gavin đang đứng đó, mỉm cười dù bị bắt quả tang.

    “Cậu làm mình giật mình đấy Gavin?” – Nó lên tiếng vẻ như trách móc.

    Gavin từ tốn ngồi xuống bên cạnh nó.

    “Mình đi tìm cậu khắp thị trấn, nhưng rồi chợt nghĩ ra chỗ này.” – Gavin nói.

    “Mình cần một chút yên tĩnh thôi. Cậu cũng biết mọi chuyện xung quanh tớ luôn tệ đến thế nào mà.” – June nói, giọng buồn thiu.

    “Chuyện lần trước mình đã báo cho cô Marry J. rồi. Cô ấy nói sẽ báo cáo lên Hội đồng Phụ huynh. Lần này đám con gái trong nhóm của Ruby chết chắc rồi.” – Gavin mừng rỡ thông báo với June như thể nó sẽ vui vẻ khi nghe chuyện đó, nhưng không. Nó dường như chẳng bận tâm tới chuyện đám con gái ngỗ ngược đó ra sao, chúng có trả thù June trong những lần tới không? Thú thực, June chẳng hề bận tâm.

    Nó mỉm cười, thầm cảm ơn Gavin, rồi đưa ánh mắt nhìn về phía con sông, trong những bụi cây um tùm ven bờ đó, ắt hẳn lũ chim đang miệt mài xây tổ để đẻ trứng.

    “Cậu sao vậy June, có chuyện gì buồn à!” – Gavin lên tiếng khi thấy nó im lặng như thế.

    “Không…” – Nó bèn lắc đầu phủ nhận... – “Ngược lại, dạo này mình thấy tâm trạng ổn hơn bao giờ. Cậu biết đấy!”

    Gavin nhìn nó ngạc nhiên, cậu chẳng biết chút gì. Cậu hỏi lại:

    “Mình chẳng biết gì cả, cậu có chuyện gì giấu mình sao. Hay lại về những ý tưởng của cậu, chúng luôn ngốn hết phần lớn thời gian của cậu mà. Đưa mình xem.”

    Không cần sự chấp thuận từ June, Gavin vội chộp lấy tập vẽ từ trên tay nó. Gương mặt cậu toát lên vẻ háo hức lạ thường. Cậu chăm chú lật giở từng bức tranh một, cho tới khi dừng lại trước bức phác họa về Lucine. Gavin bỗng khựng lại, June thấy vậy bèn nói:

    “Đó là một người mình đã từng thấy trên đường về nhà.”

    June không muốn Gavin đi sâu vào chuyện này, dù cậu là bạn thân của nó, nhưng đôi khi ai cũng cần có những bí mật của riêng mình.

    “Ấn tượng sâu sắc đến thế sao?” – Gavin bâng quơ hỏi, mắt cậu vẫn không rời khỏi bức tranh vẽ cô gái xa lạ. Có lẽ là một bí mật nho nhỏ của June. Gavin thầm nghĩ, rồi sau đó cậu đem trả chúng lại cho June.

    “Mình không rõ, nhưng chúng cũng như một ý tưởng chợt lóe trong đầu mình vậy. Một trong những khoảnh khắc cuộc sống.” – June phá lên cười sau câu nói của mình.

    Sau đó, June không muốn Gavin đề cập tới chuyện này nữa, bèn lái cuộc trò chuyện sang hướng khác. Nó hỏi Gavin:

    “Dạo này mình thấy cậu hay dành nhiều thời gian cho mẹ cậu?”

    Gavin gật đầu đáp lời:

    “Mẹ mình đang mang bầu nên thi thoảng mình hay dẫn mẹ đi tản bộ ngoài công viên. Bác sĩ bảo đó là một phương pháp tốt cho em bé sau này.”

    “Không biết cảm giác có thêm một đứa em gái hay em trai sẽ thế nào nhỉ? Mình chưa bao giờ tưởng tượng ra chuyện đó.” – June bâng quơ nói.

    Gavin mỉm cười chưa vội đáp lời, cậu hết sức thận trọng trong từng lời nói. Cậu không muốn làm June buồn. Chuyện gia đình của June. Gavin biết điều đó.

    “Thì khi đó cậu sẽ phải học cách nhường nhịn thôi, nên cũng chẳng sung sướng gì đâu.” – Gavin kết thúc câu chuyện bằng một câu pha trò.

    June khẽ cười mà sao nó thấy trong lòng lại trống rỗng đến thế.

    Những giấc mơ về Lucine cứ trở đi trở lại trong nó từ dạo đó. Cô ấy nói về một thế giới tưởng tượng trong mơ. Một thế giới toàn những thứ màu hồng. Nó đặng hỏi, nhưng Lucine chỉ đáp lại bằng một nụ cười bí ẩn xa lạ. Và rồi như mọi lần, Lucine biến mất vào trong bóng đêm mịt mùng chẳng để lại một dấu vết. June cố gọi với theo nhưng không được.

    Gavin tạm biệt nó khi cậu rẽ trái về đại lộ Autumn, giao với đại lộ B. Cậu nói, cậu cần phải về sớm để giúp mẹ làm một chiếc bánh tart trái cây hoàn hảo. June tự nhủ, nó đã bao giờ cùng mẹ Jess làm một chiếc bánh nào tử tế chưa. Nó không nhớ, cơn đau nửa đầu khiến nó chẳng thể nghĩ được gì.

    Nó rẽ trái, hướng về đại lộ B, đi thẳng về căn nhà nhỏ. Một ý nghĩ ấm áp lóe lên trong đầu, nó sẽ thả mình trên chiếc giường êm ái, để đánh một giấc, thả trôi tâm trí vào những giấc mơ.

    Nghĩ vậy, nó nhấn sâu chân ga, phóng thẳng về phía trước. Quang cảnh hai bên đường dần nhòe đi theo ánh đèn đường. Tiện tay, nó dò chỉnh tần số từ hệ thống radio cũ mèm trên xe. Nhưng chỉnh mãi chẳng được, nó bực dọc cho xe chạy chậm lại. Nó tỉ mỉ vặn nút chỉnh tần số. Tiếng rè rè đáng ghét dần được thay thế bằng những giai điệu du dương của Carrie Underwood. Thật trùng hợp, khi nó lại được nghe ca sĩ hát nhạc đồng quê mà mình yêu thích nhất. Vừa chạy xe, nó vừa âm ư theo giai điệu.

    Mười lăm phút sau, June có mặt ở nhà. Khoảng sân vẫn tối thui. Bố Jared vẫn chưa về, chắc lại chuyện nông trại. Cụm từ đó nó đã nghe đi nghe lại tới hàng trăm lần trong mùa hè này rồi.

    June xuống xe, rảo bước nhanh lên thềm sân để vào trong nhà. Cửa không khóa nên nó cứ thế đẩy vào. Bật công tắc, đèn sáng tỏ thứ ánh sáng dìu dịu, ấm áp; nó nhìn thấy bên chiếc bàn trong bếp, bố Jared đã chuẩn bị sẵn cho nó một vài thứ đồ ăn đơn giản. Có bánh mì kẹp xúc xích với dưa chuột và xà lách. Vài lát dăm bông mỏng và một bình nước ép táo để sẵn. June liếc nhìn chúng và tỏ vẻ ngán ngẩm. Nó chẳng thể nuốt trôi những thứ này thêm một lần nào nữa.

    Sự mệt mỏi thiêu rụi ý chí nó. Thả mình xuống giường, nó nhanh chóng chìm sâu vào giấc ngủ. Khi ấy, nó lại bắt đầu mơ.

    Lún sâu xuống chiếc đệm, June thấy mình đang từ từ rơi xuống với tốc độ cực kỳ chậm rãi. Nó rơi mãi cho tới khi đôi chân trần chạm xuống nền đất ẩm lạnh, như đi trên băng giá. Thử kiểm chứng, cúi xuống, rà tay trên nền đất, June nhận ra chúng nhẵn thín và lạnh lẽo. Lúc này, nó nhận ra mình đang đứng ở một căn hầm hình vòm, phía trước mặt, một dải sáng xanh lá ma quái hiện ra như dẫn đường. Nó bèn đi theo cho đến khi dẫn tới một căn phòng hình tròn. Giữa căn phòng trên băng ghế gỗ dài, nó nhìn thấy một dáng hình quen thuộc. June tiến lại gần và nó nhận ra, đó chính là Lucine. Mắt cô ấy vẫn nhắm nghiền, như thể chưa nhận ra sự có mặt của June. June chăm chú nhìn, chưa bao giờ giấc mơ về cô ấy lại trở nên rõ rệt như lúc này.

    “Lucine.” – Nó cất tiếng, giọng nói vang lên thoáng chốc rồi lọt thỏm vào thinh không.

    Lucine mở mắt, nhìn nó rồi cười nói:

    “Cậu tới rồi June. Mình đã đợi cậu từ lâu rồi.”

    “Mình đang ở đâu vậy, có phải là mơ không?” – June quét ánh mắt quanh căn phòng lạnh lẽo một lượt rồi ra vẻ thắc mắc.

    “Không hẳn. Nhưng mình nghĩ tại sao mọi chuyện trong mơ lại không thể trở thành hiện thực chứ?” – Lucine trình bày, ra hiệu cho June ngồi bên cạnh.

    June ngồi xuống, nó chẳng thấy gì ngoài sự lạnh lẽo đang xâm chiếm thân thể mình. Chẳng một chút ấm áp. Căn phòng này chỉ là một nơi xa lạ.

    “Mình không biết, có lẽ do mình quá mệt mỏi nên mới xảy ra những điều này. Có người nói, giấc mơ thường phản ánh đời thực đúng không? Ngay cả tâm trạng vui buồn trong cuộc sống, hay thậm chí cả những khát khao, mơ ước.” – June nói.

    Lucine quay sang nhìn nó; cô ấy chợt nắm lấy bàn tay của nó. Thoáng rùng mình nhưng June vẫn giữ được sự bình tĩnh.

    “Không đúng...” – Lucine bèn phủ nhận. – “... Cậu luôn khao khát một cuộc sống tốt đẹp mà June. Chính vì vậy, cậu thường trốn vào thế giới tưởng tượng hay giấc mơ của mình.”

    “Mình không phủ nhận chúng, nhưng thực tế những gì mình thấy khác xa so với những tưởng tượng của mình. Ngay giờ đây, mình chỉ cảm thấy lạnh lẽo và trống trải mà thôi, Lucine. Đặc biệt là trong căn phòng này.” – June rành rọt nhấn mạnh từng lời.

    Rồi June nhận ra giọng mình nhỏ dần, và tắt hẳn. Nó chợt thấy thân thể nhẹ bẫng như đang bay. Lucine cố gắng nắm lấy bàn tay nó nhưng không được. Có cả tiếng la hét, tiếng nô đùa, thậm chí tiếng cãi cọ... nhưng nó không thấy gì nữa, ngoài màn đêm đang phủ lên tất cả thứ bột đen đặc, mịn màng. June giật mình tỉnh giấc, người ướt đẫm mồ hô; nó nhận ra chân vẫn mang đôi giày thể thao màu xanh. Bên cạnh giường, bố Jared đang nhìn nó, vẻ mặt ông toát lên sự lo lắng vô cùng.

    “Con lại gặp ác mộng phải không June?” – Bố Jared hỏi.

    June gật đầu xác nhận.

    “Do mệt mỏi quá thôi. Bố xin lỗi vì dạo này thường về muộn, nhưng nếu có chuyện gì thì hãy nói với bố. Đồng ý chứ?”

    June gật đầu lần nữa, chẳng hiểu sao khi ấy, sự xuất hiện của bố Jared lại cho nó cảm giác bình yên lạ thường.

    “Con ngủ tiếp đi. Bố sẽ ở đây một lát nữa.”

    Rồi sau đó, June chẳng nói gì thêm, nó lại chìm sâu vào giấc ngủ và không còn mộng mị nữa, căn phòng hình tròn và Lucine đều trôi dạt về một chốn xa xăm, mờ mịt. Bởi lẽ nó biết rằng, cả đêm hôm đó, bố Jared đã ở bên cạnh, không rời nửa bước.

    *

    “June.”

    Nó ngẩng đầu và thấy Gavin đang bên cạnh. Cách đó chừng vài bước, Lucine vẫn đứng, hai tay khoanh trước ngực như sẵn sàng chờ đợi câu trả lời. Nó bám vào cánh tay của Gavin rồi từ từ gượng dậy. Người đỡ đau nhức hơn, nó bắt đầu nhìn rõ mọi thứ. Nó cười thầm tự nhủ, mình đã hy vọng hơn rất nhiều về thế giới này, nhưng đáp lại vẫn chỉ là những bức tường trơ dày, thô cứng và lạnh lẽo mà thôi.

    “Cậu suy nghĩ quá lâu đó June?” – Lucine lên tiếng, vẻ như trách móc.

    “Mình... mình...” – Nó định nói gì đó nhưng ấp úng không thành tiếng... – “”Mình xin lỗi, Lucine.”

    “Sao cơ?” – Lucine ngạc nhiên hỏi lại.

    “Vì... mình không thể ở lại thế giới này nữa. Mình cần tỉnh dậy. Chỗ của mình là bên ngoài kia, ở thế giới thực.” – Nó dứt khoát nói.

    “Cậu nói gì cơ June? Mình có nghe nhầm không?” – Lucine hỏi lại như thể không tin nổi vào tai mình.

    Gavin bèn lên tiếng giải thích, nhưng Lucine nạt nộ khiến cậu phải lặng im. Lucine giận dữ thật sự, dường như cô ta không còn giữ được sự bình tĩnh như vốn có nữa.

    “Câm ngay, Gavin. Tôi không phiền tới cậu. Hãy để June nói rõ mọi điều.”

    Đoạn, June lôi từ trong túi áo khoác da của nó ra một thứ. Lucine biết rõ đó là gì, vẻ mặt cô hiện rõ sự thất vọng.

    “Không. Không thể, June. Cậu không thể làm như thế được.” – Lucine nói.

    “Mình trả lại cậu, Lucine, mình không thể ở đây thêm nữa. Vậy nên mình chỉ muốn nói lời tạm biệt.” – June rành rọt từng lời như cứa sâu vào trái tim của Lucine khiến cô ta bực tức.

    “Tạm biệt ư? Cậu đừng quên những gì đã từng nói với tôi, June. Chúng ta đã cùng tâm sự, san sẻ với nhau như những người bạn thật sự.” – Lucine bày tỏ lý lẽ của mình.

    “Đã từng vậy. Mình biết ơn cậu, Lucine à. Nhưng mình không thể đắm chìm mãi vào trong những thứ này. Mình còn cuộc sống, còn bố mẹ...” – June nói, một thứ gì đó dâng lên từ lồng ngực khiến mọi thứ như nghẹn lại.

    Lucine cười khẩy.

    “Thật nực cười. Tôi có cảm giác như mình bị phản bội vậy June.”

    Lúc này Gavin dường như quá bực tức trước những gì Lucine nói, cậu liền lên tiếng:

    “Thôi đi, Lucine. Chẳng có sự phản bội nào ở đây cả. Chỉ có sự ích kỷ của cô mà thôi.”

    “Câm ngay, Gavin.”

    Lucine gằn lên từng tiếng khiến Gavin giật nảy người suýt té ngã. May thay, cậu bám được vào tay June. Cậu nhìn June như muốn cảnh báo rằng cần phải rời khỏi nơi này ngay. Đừng chậm trễ. Mau lên! June như hiểu được ý nghĩa ánh mắt của Gavin, bèn lăn phương thuốc quên lãng về phía Lucine. Lucine thấy vậy, dùng chân dẫm mạnh lên phương thuốc khiến nó vỡ tan tành. Từng mảnh nhỏ bụi kim tuyến lấp lánh bay lên rồi biến mất.

    “Được lắm, June. Cậu hãy đợi đấy!” – Lucine thách thức.

    Cả hai đứa định chạy về phía cánh cửa hòng trốn thoát, nhưng lối đi duy nhất đã bị Lucine chặn lại. Giơ đôi tay mảnh khảnh của mình ra, Lucine vẫy gọi thứ gì đó từ không khí. Bỗng nhiên, một hình hài khá cao lớn hiện ra khi làn khói trắng dần tan biến. Là Max! June trộm nghĩ, nhưng tại sao ánh mắt cậu ấy lại hằn lên sự giận dữ và đáng sợ đến thế. Nó không ngừng thắc mắc.

    Lucine gật đầu ra hiệu. Nhanh như cắt, Max chạy sang, lao thân hình đồ sộ vào Gavin. Không kịp phản ứng, cậu lăn tròn trên nền đất. Chưa kịp gượng dậy thì cả thân hình cao lớn của cậu chàng chơi bóng rổ đã đè lên người Gavin khiến cậu thấy khó thở vô cùng. Từ đằng xa, June thét lên kinh hãi, nó vội chạy sang, nhưng khi ấy, một sức mạnh kỳ lạ kéo ngược thân thể nó lại, ngã sõng soài ra nền nhà.

    “Cậu không thể làm được gì đâu, June!” – Lucine nhìn nó với ánh mắt thương hại.

    “Cậu định làm gì, Lucine?” – June sợ hãi hỏi lại.

    Lucine chỉ cười khẩy. Cô ta không nói gì mà đi thẳng về phía Max. Gavin cố thoát khỏi cánh tay như gọng kìm của Max nhưng không thể, càng giãy giụa thì cậu ta càng siết chặt hơn. Mắt Gavin ứa lệ rồi nhòa đi. Mọi thứ tối dần, cậu chỉ loáng thoáng nghe thấy tiếng June đang cố gọi tên mình. Tiếng gọi nhỏ dần rồi tắt hẳn.

    “Gavin.”

    June thét lớn. Nó gắng gượng ngồi dậy, nhưng mọi thứ đã quá muộn. Lucine biến mất cùng Gavin và Max - thuộc hạ của cô ta.









     
  10. Ratlalichsu

    Ratlalichsu Mầm non

    Trời ơi, kết truyện này quá rui nè
     
  11. Giang Phong

    Giang Phong Mầm non

    Tâm lý xã hội nhưng lại không hề cảm thấy u uất, căng thẳng, lại giống như truyện phiêu lưu, đọc rất thoải mái :"> Xuất sắc cực kỳ :">

     
  12. augustus1999

    augustus1999 Mầm non

     
  13. shirouchan126

    shirouchan126 Mầm non

    Giá có thể thay đổi cuộc sống bên ngoài
     
  14. Tackebeolu

    Tackebeolu Mầm non

    Nhà bao việc nhưng vẫn phải vào đọc. Truyện phải gọi là đỉnh của đỉnh, ăn đứt mấy truyện trên mạng khác
     
  15. Bantayxanh

    Bantayxanh Mầm non

    Làm thế nào để được sống trong giấc mơ mà bản thân muốn? Thế giới bên ngoài khắc nghiệt quá!...
     
  16. minhnguyetdavu

    minhnguyetdavu Mầm non

    truyện này đọc hay nè ...
     
  17. Megauvaden1

    Megauvaden1 Mầm non

    thà đi vào giấc mơ còn hơn sống trong thực tại này :(
     
  18. augustus1999

    augustus1999 Mầm non

    Gavin tình cảm nhỉ, mẫu người đàn ông ấm áp
     
  19. vuhaiyen

    vuhaiyen Mầm non

    June đã gặp lại người bạn thân trong giấc mơ của mình.
     
  20. shirouchan126

    shirouchan126 Mầm non

    Người lớn cũng có nhiều vấn đề
     
Moderators: nhanjkl

Chia sẻ trang này