Hoàn thành R Cover of night (Màn đêm) - Linda Howard

Thảo luận trong 'Góc dịch các tác phẩm tiếng Anh' bắt đầu bởi halucky, 27/2/15.

  1. halucky

    halucky Lớp 11


    Lâu lắm rồi mình không đọc sách. Tất cả việc đọc chỉ là truyện, mà phải là truyện lãng mạn, tình cảm, và phải là của các tác giả quen thuộc nữa chứ. Đọc hết những gì mình có, trên mạng “phát tán”, quay ra đọc lại, rồi tập tành dịch nốt mấy tác phẩm chưa chốt. Cũng hết. Giờ quay ra đọc tác phẩm chưa được dịch.

    Có nhiều tác giả, phân vân mãi, cuối cùng vẫn quay lại với…. Linda Howard. Thôi để hết đợt “nghiện” này rồi chuyển tác giả mới vậy. Mình rất thích truyện của bà. Nó cứ nhẹ nhàng đi vào lòng. Mình thích truyện về những thị trấn nhỏ, cuộc sống thật ấm áp và mọi người thật có trách nhiệm, với bản thân và cả cộng đồng. Những truyện về FBI, CIA, trinh thám, hành động của bà dịch nhiều rồi, mình chọn truyện này (tuy vậy phần sau vẫn không tránh được ít …. Súng đạn!)

    Mình đưa bài lên đây để mọi người cùng nhâm nhi. À, khi đọc truyện, các sis chịu khó chú ý tới thời gian truyện được viết và địa điểm nhé. Đấy là cách hlk thường làm. Các truyện được dịch trên đây phần lớn đã xuất bản lâu rồi, thời đó tiện nghi sống không giống bây giờ, mình sẽ hình dung là cuộc sống trước đây thế nào. Mỗi truyện bà viết ở một vùng của một bang khác nhau, đây là một điểm mình rất thích ở L.H. Và vì thế điều kiện tự nhiên và xã hội cũng khác nhau. Nhờ đọc các truyện dịch mà mình nhớ được vị trí và chút ít đặc điểm của các bang của Mỹ đấy (cũng là một cách học địa lý đúng không). Truyện này được viết năm 2006 tại bang Idaho, một bang vùng núi tây bắc Mỹ, nơi phổ biến hoạt động đi săn thú.

    Truyện khá dài, 31 chương nên tới được kết thúc mất không ít thời gian đâu. Nếu sis nào ngại phải ngóng thì đợi khi nào hlk post tới chương 31 thì đọc luôn một lèo nhé.
     
    Chỉnh sửa cuối: 23/6/15
  2. halucky

    halucky Lớp 11

    [​IMG]

    Cover of Night
    (Màn đêm)

    By Linda Howard (2006)
    Ebook: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Preview:

    Người góa phụ trẻ tuổi Cate Nightingale và cặp sinh đôi bốn tuổi – tình yêu cuộc sống của cô, đã chuyển tới Trail Stop, Idaho mua và điều hành một nhà nghỉ bed and breakfast. B&B của Cate nhanh chóng trở thành trung tâm trò chuyện thân mật của thị trấn nhỏ thôn dã, nơi tận cùng của con đường mòn.

    Khi khách hàng của cô, Jeffrey Layton biến mất qua lối cửa sổ phòng mình, sự tò mò của Cate đã được khơi dậy. Nhưng khi cô nhận được một cú điện thoại đáng ngờ liên quan đến chiếc xe thuê của ông ta, trực giác nói với cô rằng có điều gì mờ ám về người đàn ông này.

    Ngay sau đó, hai gã đàn ông lực lưỡng ăn mặc bảnh bao không rõ từ nơi nào đến thuê phòng; trước khi cô biết chuyện, chúng đã dí súng vào cô đòi đồ đạc của gã đàn ông mất tích.

    Người đàn ông chăm chỉ trở thành người anh hùng Cal Harris. Dưới sự che chở của màn đêm, cuối cùng Cate cũng nhận ra Cal Harris là người đàn ông được khao khát. Bỏ đi bộ yếm rộng thùng thình, nhuốm đầy vết dầu mỡ, anh xóa bỏ trong đầu cô về hình ảnh một người chăm chỉ gầy gò, nhút nhát nhưng hữu ích, thế vào đó là một người kiên định, rắn như đá tạc, cực kỳ chắc chắn về bản thân và năng lực của chính mình. Anh sẽ mạo hiểm cuộc sống của bản thân vì mọi người mà không một giây do dự. Cate và Cal cùng nhau cố gắng cứu giúp thị trấn khỏi bị cô lập trước những kẻ tấn công đang tới gần.
     
    Chỉnh sửa cuối: 10/8/15
  3. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 1 (halucky dịch)

    VỊ KHÁCH ĐANG Ở CĂN PHÒNG SỐ 3 của nhà nghỉ Bed and Breakfast Nightingale - căn phòng mà Cate Nightingale thầm liên tưởng tới căn phòng của đấng mày râu vì nó hầu như mang một vẻ nam tính đơn điệu, dừng ở ngưỡng cửa phòng ăn, rồi như ngay lập tức ông bước lùi khỏi tầm nhìn. Phần lớn khách hàng quen thuộc đang thưởng thức bữa sáng của Cate thậm chí không chú ý tới sự xuất hiện ngắn ngủi của người đàn ông; những người này có khả năng không nghĩ ngợi gì về chuyến khởi hành vội vã của ông ta. Người dân nơi đây - ở Trail Stop, Idaho, có xu hướng quan tâm tới công việc của bản thân mình, còn nếu một trong những vị khách của cô không có tâm trạng ngồi ăn cùng, với họ thế cũng chẳng sao.

    Bản thân Cate chú ý tới ông ta chỉ vì cô đang bê một đĩa giăm bông thái lát từ nhà bếp lên cùng lúc, mà cửa nhà bếp mở ra hành lang bên ngoài dẫn vào phòng ăn. Cô ghi nhớ một điều là sẽ lên gác ngay khi có cơ hội, xem ông ta – tên ông ta là Layton, Jeffrey Layton – có muốn cô mang lên một khay đồ ăn sáng. Đơn giản và dễ hiểu, vài vị khách không thích ăn với người lạ. Mang lên một khay đồ ăn không có gì là bất thường.

    Nhà nghỉ B&B của Nightgale đã mở cửa được gần ba năm. Mảng ‘giường ngủ’ trong kinh doanh thường chậm, nhưng ‘ăn sáng’ thì đang nở rộ. Mở cửa phòng ăn của cô cho dân chúng tới ăn sáng là một tai nạn may mắn. Thay vì có một bàn ăn lớn nơi mọi người sẽ ngồi cùng nhau – đấy là giả định cả năm phòng trọ của cô được lấp đầy cùng lúc, điều mà chưa từng xảy ra - cô đã kê năm bàn nhỏ, mỗi bàn bốn chỗ ngồi, trong phòng ăn nên các vị khách có thể ngồi ăn tương đối riêng tư nếu họ muốn. Người dân trong cộng đồng nhỏ bé nhanh chóng nhận ra nhà nghỉ Nightingal đang phục vụ vài đồ ăn khá ngon, và trước khi cô biết chuyện, mọi người đã hỏi có ổn không nếu họ ghé qua làm một cốc cà phê vào buổi sáng, hay có thể có một trong những chiếc bánh xốp nhân việt quất cũng được.

    Vì là người mới đến cô muốn hòa nhập, cũng bởi vì cô đã thêm chỗ ngồi, cô trả lời được, mặc dù trong thâm tâm cô rên rỉ với ý nghĩ về những chi phí phát sinh. Rồi, khi họ cố gắng trả tiền cho cô, cô không biết phải tính thế nào, vì chi phí bữa sáng đã bao gồm trong tiền thuê phòng; cô buộc phải thủ công làm một thực đơn giá cả và dán trên hiên nhà gần cửa phụ, nơi người dân địa phương thường dùng, thay vì đi bộ vòng qua đằng trước ngôi nhà cổ rộng rãi. Trong vòng một tháng cô đã ép được chiếc bàn thứ sáu vào phòng ăn, nâng tổng số sức chứa lên hai mươi tư chỗ. Thậm chí, thỉnh thoảng như thế vẫn không đủ, đặc biệt nếu cô có khách cư trú. Chẳng phải là bất thường nếu thấy vài người dựa vào tường nhấm nháp cà phê và thong thả ăn bánh xốp nướng khi tất cả chỗ ngồi đều kín.

    Hôm nay, tuy vậy, là ngày Scone Day. (Scone: là một loại bánh mỳ thường để ăn sáng rất phổ biến.) Mỗi tuần một lần cô nướng bánh mỳ thay vì bánh xốp. Lúc đầu dân chúng địa phương, chủ yếu đến từ các trang trại và công ty đốn gỗ, đã nhìn đầy ngờ vực vào thứ ‘bánh quy lạ mắt,’ nhưng bánh mỳ nhanh chóng trở thành một đồ ăn ưa thích. Cô từng thử nhiều vị khác nhau, rồi van ni dễ dàng được chấp nhận vì dù sao, nó cũng gần với vị mứt mà khách hàng thích thú.

    Cate đặt đĩa giăm bông rán xuống giữa bàn, chính xác khoảng giữa Conrad Moon và con trai ông ta để không ai trong bọn họ có thể tố cáo cô chơi không công bằng. Cô đã mắc sai lầm một lần, đặt cái đĩa gần với Conrad hơn, thế là từ đó hai người giữ dịt lời bình luận liên tục về người cô thích nhất. Gordon, cậu con trai ít tuổi nhất của Moon chỉ nói đùa, nhưng Cate có cảm giác khó chịu là Conrad đang tìm kiếm người vợ thứ ba và cho rằng cô lấp đầy vị trí đủ tốt. Cô đã suy nghĩ, nên chắc chắn không bao giờ trao cho ông ta bất cứ sự động viên tình cờ nào về việc sắp đặt cố ý giả tạo.

    “Nhìn ngon đấy,” Gordon dài giọng, như cậu ta thường nói mọi ngày, với dài dĩa của mình chiếm lấy một lát.

    “Hơn là ngon chứ,” Conrad thêm vào, không để Gordon ở trên ông trong phần khen ngợi.

    “Cám ơn,” cô nói khi vội vã quay đi, không để Conrad có cơ hội thêm bất kỳ điều gì khác. Ông là một người tốt, nhưng ông đã trạc tuổi cha cô, và cô cũng không chọn ông ngay cả nếu cô không quá bận rộn để thậm chí nghĩ về việc bắt đầu hẹn hò.

    Khi đi ngang qua máy pha cà phê kép hiệu Bunn, cô tự động kiểm tra mức cà phê trong bình, rồi dừng lại bắt đầu một mẻ mới. Phòng ăn vẫn đầy chặt, mọi người đang lán lại lâu hơn vào sáng nay. Joshua Creed, một người dẫn đường săn bắn, đang ở đây với một trong những khách hàng của mình; dân chúng luôn luôn vây xung quanh khi ông Creed có mặt, chỉ để nói chuyện với ông. Ông ta có một ánh hào quang của vị lãnh đạo, của quyền lực mà mọi người tự nhiên hưởng ứng. Cô nghe nói ông là một quân nhân đã nghỉ hưu, cô tin như thế; ở ông tỏa ra sự chỉ huy, từ ánh nhìn thu hẹp, sắc sảo đến cái hàm và bờ vai vuông vức. Ông không đến thường xuyên lắm, nhưng khi ông tới, ông thường là tâm điểm chú ý được kính trọng.

    Khách hàng, một người đàn ông tóc tối màu đẹp trai, cô phán đoán khoảng cuối ba mươi, là kiểu người ngoài cô ưa thích nhất. Anh ta rõ ràng sung túc, vì có đủ khả năng thuê Joshua Creed, và mặc dù anh ta mặc quần jean và đi bốt giống phần lớn mọi người trong phòng, anh ta chắc chắn làm thế, thì theo cách này hay cách khác, mọi người đều nhận ra anh ta là người có địa vị bất chấp màn trình diễn thân tình của anh ta. Có một điều, anh ta xắn ống tay áo lên lộ ra một chiếc đồng hồ mỏng, dát kim cương lấp lánh trên cổ tay trái. Anh ta cũng hơi quá ầm ĩ, hơi quá tận tâm, duy trì câu chuyện về những trải nghiệm trong một trò chơi săn bắn ở tận Châu Phi. Anh ta thậm chí còn cho mọi người một bài học địa lý, giảng giải về Nairobi ở đâu. Cate phải điều khiển để kiềm chế không trợn tròn mắt về cái vẻ tự phụ của anh ta khi cho rằng ‘dân địa phương’ đồng nghĩa với dốt nát. Khác thường, có thể, nhưng ngu dốt thì không. Anh ta cũng đưa ra một điểm giải thích rằng mình săn động vật hoang dã chủ yếu để chụp ảnh chúng, và mặc dù ở trên mức đồng cảm Cate chấp nhận được điều đó, lời bình luận thông thường của cô thì thầm rằng anh ta chỉ đang tỏ vẻ ta đây chứ chẳng giết được bất kỳ thứ gì đâu. Nếu anh ta có phần nào giống thợ chụp ảnh, cô sẽ ngạc nhiên lắm.

    Khi vội vã tới nhà bếp, cô băn khoăn mình bắt đầu xem kẻ mới đến là ‘người ngoài’ từ bao giờ.

    Đường danh giới giữa sự vội vã trước kia và cuộc sống lúc này của cô được vạch ra quá sắc nét đến nỗi thỉnh thoảng cô cảm thấy như thể mình không phải cùng một người. Không có sự thay đổi từ từ, cho cô thời gian để phân tích và xử lý, dần dần trở thành người phụ nữ là cô lúc này; thay vào đó là những thay đổi không đều, những biến chuyển đột ngột. Chỉ là quãng ngắn thời gian giữa cái chết của Derek và quyết định của cô di chuyển tới Idaho - một thung lũng hẹp, dốc, nơi mà ánh nắng không bao giờ chạm tới. Một khi cô và những cậu bé tới đây, cô đã quá bận rộn giữ cho B&B mở cửa và ổn định cuộc sống tới nỗi cô không còn thời gian để lo lắng về việc là một người ngoài bản thân mình. Rồi, trước khi cô nhận ra nó, cô đã là một phần nhiều những sợi vải dệt nên cái cộng đồng nhỏ bé này như cô từng khi ở Seattle; thậm chí còn hơn, vì Seattle giống tất cả các thành phố lớn, đầy những người lạ và mọi người thì di chuyển trong những bong bóng nhỏ riêng tư. Ở đây, cô gần như biết hết mọi người.

    Ngay trước khi cô tới gần cửa bếp, nó bật mở, và Sherry Bishop thò đầu ra, vẻ nhẹ nhõm nhanh chóng xuất hiện trên khuôn mặt bà khi bà nhìn thấy Cate đang đi tới.

    “Chuyện gì thế?”

    Cate hỏi khi cô xông qua cánh cửa. Đầu tiên cô nhìn tới bàn ăn, nơi cặp sinh đôi bốn tuổi của cô, Tucker và Tanner, đang cần mẫn đào bới bát ngũ cốc của chúng; hai cậu bé đang ngồi trên ghế giữ trẻ chính xác chỗ cô để chúng lại. Chúng huyên thuyên, cười khúc khích, và cựa quậy như thường lệ; mọi chuyện vẫn bình thường trong thế giới của chúng. Cô không thể không lo lắng vì Tanner nói rất ít, nhưng bác sĩ nhi khoa không có vẻ báo động. “Cậu bé ổn cả,” bác sĩ Hardy đã nói. “Cậu không cần nói vì Tucker đang nói cho cả hai rồi. Cậu bé sẽ nói khi nó có gì đó để nói.” Vì Tanner hoàn toàn bình thường ngay cả theo cái cách khác lạ, bao gồm cả nhận thức, cô phải giả bộ bác sĩ nhi khoa đúng – nhưng cô vẫn lo lắng. Cô đâu thể ngăn nó; cô là một người mẹ mà.

    “Một đường ống bị vỡ bên dưới chậu rửa,” Sherry nói, nghe vẻ lo lắng. “Tôi đã khóa van, nhưng ta cần nước trở lại nhanh chóng. Bát đĩa đang chất đống.”

    “Ôi, không.”

    Khác với vài khó khăn hiển nhiên như không có nước để nấu nướng hay rửa bát đĩa, một vấn đề khác lờ mờ hiện ra còn lớn hơn: mẹ cô, Sheila Wells đang trên đường từ Seattle tới cho một chuyến thăm kéo dài một tuần, nên nước phải có vào chiều đó. Vì mẹ cô không hài lòng về việc Cate và cặp sinh đôi rời bỏ Seattle tới bắt đầu lại ở nơi đây, cô có thể tưởng tưởng ra những lời bình luận của bà về sự xa xôi của vùng đất và sự thiếu thốn của các tiện nghi hiện đại, nên nước không thể không có.

    Luôn luôn có chuyện gì đó; ngôi nhà cổ này dường như liên tục cần bảo trì và sửa chữa, điều mà cô cho rằng ngang bằng với hàng loạt ngôi nhà cổ khác. Tuy nhiên, tình hình tài chính của cô đã bị kéo căng quá mức; cô chỉ mong có thể trải qua một tuần mà không có hỏng hóc gì. Có lẽ tuần tới, cô nghĩ với một tiếng thở dài.

    Cô nhấc điện thoại trong nhà bếp, từ trí nhớ bấm số cửa hàng kim khí Earl.

    Đích thân Walter Earl trả lời, nhấc điện thoại ngay hồi chuông đầu tiên như ông thường làm.

    “Kim khí đây.”

    Ông không nêu gì thêm, vì chỉ có một cửa hàng đồ kim khí trong thị trấn, và ông là người duy nhất trả lời điện thoại.

    “Walter, đây là Cate. Bác có biết nơi ông Harris làm việc hôm nay không? Cháu có một đường ống ‘khẩn cấp’.”

    Chu Hawwis!”

    Tucker bi bô, bắt được cái tên của người đàn ông chăm chỉ trong vùng. Phấn khích, cậu bé đập cái thìa lên mặt bàn, nên Cate nhét ngón trỏ vào lỗ tai để có thể nghe thấy tiếng Walter. Cả hai cậu bé nhìn chăm chú vào cô với niềm háo hức, lúc lắc chờ đợi. Người đàn ông chăm chỉ trong thị trấn là một trong những người yêu thích của chúng, vì chúng bị cuốn hút bởi những dụng cụ của chú ấy và chú ấy không bận tâm nếu chúng chơi với cờ lê hay búa.

    Calvin Harris không có điện thoại, nhưng anh có thói quen dừng lại cửa hàng kim khí mỗi sáng nhặt bất cứ thứ đồ mình cần cho công việc trong ngày; nên Walter thường biết nơi anh có thể được tìm thấy. Khi mới tới đây, Cate đã sửng sốt rằng trong thời đại này, ai đó không có điện thoại, nhưng giờ cô đã quen với hệ thống và không còn nghĩ gì về nó nữa. Ông Harris không muốn một cái điện thoại, nên ông không có nó. Thỏa thuận lớn. Cộng đồng khá nhỏ, tìm ra ông không phải một vấn đề.

    “Cal ở ngay đây,” Walter nói. “Tôi sẽ nhắn cậu ấy tới chỗ cháu.”

    “Cám ơn,” Cate nói, mừng rỡ không phải lùng sục ông ấy. “Bác có thể hỏi ông ấy mấy giờ ông ấy tới được không?”

    Giọng của Walter ầm ầm khi ông nhắc lại câu hỏi, cô nghe thấy tiếng lầm bầm nhẹ nhàng không rõ nên cô nhận ra là giọng của ông Harris.

    Tiếng Walter vang lên như chết qua điện thoại.

    “Cậu ấy nói sẽ có mặt ở đó trong vài phút nữa.”

    Chào tạm biệt và gác máy, Cate thở phào nhẹ nhõm. Nếu may mắn sự cố sẽ nhỏ thôi rồi nước nhanh chóng có lại, với ảnh hưởng ít nhất lên tình hình tài chính của cô. Như mọi lần, cô cần cái tài sửa chữa của ông Harris quá thường xuyên, cô đang bắt đầu nghĩ mình tốt hơn nên thành thật đề nghị ông một phòng ăn, ở miễn phí để đổi lại việc sửa chữa. Ông ấy sống trong căn phòng phía trên cửa hàng thực phẩm, trong khi chúng có lẽ không lớn hơn bất kỳ phòng ngủ nào của cô, ông vẫn phải trả tiền cho chúng, cộng với cô có thể xen vào những bữa ăn. Cô sẽ mất một phòng cho thuê, nhưng nhà nghỉ đã bao giờ đầy chặt khách đâu. Điều ngăn cô lại là cảnh tượng không mong muốn về việc có ai đó ở lâu dài trong ngôi nhà cùng với cô và cặp sinh đôi. Vì bận rộn suốt cả ngày, cô muốn dành buổi tối chỉ cho chúng.

    Ông Harris khá nhút nhát, mặc dù, cô có thể dễ dàng nhận thấy ông lẩm bẩm gì đó sau bữa tối và biến mất vào phòng mình, không nhìn thấy ông lần nữa cho tới sáng. Nhưng sẽ thế nào nếu ông ấy không làm thế? Chuyện gì xảy ra nếu bọn trẻ muốn ở cùng ông thay vì cô? Cô cảm thấy thật nhỏ mọn và vụn vặt vì lo lắng một chuyện thư thế, nhưng – nếu chúng như vậy thì sao? Cô là trung tâm cuộc sống của họ, nên cô không biết ra sao nếu cô từ bỏ điều đó lúc này. Suy cho cùng cô phải làm thôi, nhưng chúng mới chỉ bốn tuổi, và tất cả, cô đã rời bỏ Derek.

    “Sao?” Sherry giục, lông mày bà nhướn lên khi bà chờ đợi tin tức, bất kể tốt hay xấu.

    “Ông ấy đang trên đường tới ngay.”

    “Giữ cậu ấy trước khi cậu ấy bắt đầu công việc khác” Sherry nói, có vẻ nhẹ nhõm giống cảm giác của Cate.

    Cate nhìn hai cậu bé, cả hai đang quan sát cô, thìa của chúng treo lơ lửng trong không khí.

    “Hai con phải ăn xong bát ngũ cốc, hoặc sẽ không được xem chú Harris đâu,” cô nghiêm nghị nói. Đó không chính xác là sự thật, vì ông Harris sẽ có mặt ngay trong nhà bếp cùng chúng, nhưng chúng mới bốn tuổi; làm sao chúng biết chứ?

    “Chúng con sẽ ăn nhăn,” (huwwy) Tucker trả lời, rồi cả hai tiếp tục ăn trở lại với nhiều sức lực hơn là độ chuẩn xác.

    Nó có thể phát âm đúng nếu muốn, nhưng khi bị xao lãng – mà thường là thế - nó trở lại lối phát âm ngọng nghịu trẻ con. Nó nói rất nhiều; chẳng mất thời gian để nó nói chính xác từ ngữ.

    Chu Hawwis đang tới,” nó nói với Tanner, như thể em mình không biết ấy. “Anh sẽ chơi máy hoan”.

    “Máy khoan,” Cate sửa lại. “Và các con sẽ không được phép. Các con có thể nhìn chú ấy, nhưng tránh xa các dụng cụ.”

    Đôi mắt màu xanh nước biển của nó ngập nước, rồi môi dưới của nó run lên.

    Chu Hawwis cho bọn con chơi với chúng mà.”

    “Đó là khi chú ấy có thời gian. Hôm nay chú ấy rất vội, vì chú ấy còn công việc khác để làm khi chú rời khỏi đây.”

    Khi mới mở B&B, Cate cố gắng giữ chúng khỏi làm phiền người đàn ông chăm chỉ trong khi ông làm việc, và chỉ được một thời gian ngắn, sự việc có vẻ dễ dàng, nhưng chúng đã thể hiện kỹ năng đáng kể trong việc đánh trống lảng. Ngay khi cô quay lưng, cả hai cậu bé xán lại ông như nam châm hút sắt. Chúng như những chú khỉ con, xục xạo hộp dụng cụ của ông, lôi ra bất cứ thứ gì chúng vớ được, nên cô biết chúng thử thách lòng kiên nhẫn của ông như chúng đòi hỏi ở cô, nhưng ông không bao giờ phàn nàn một tiếng, còn tỏ ra như cô đang ban ơn cho mình. Không phải sự im lặng của ông về vấn đề này là đáng ngạc nhiên; ông hiếm khi nói bất cứ điều gì, thế đấy.

    Giờ đây bọn trẻ đã lớn hơn, nhưng niềm ham mê với những dụng cụ vẫn không hề giảm bớt. Sự khác biệt duy nhất là lúc này chúng khăng khăng đòi ‘giúp đỡ.’

    “Chúng không làm phiền tôi,” ông Harris sẽ lầm bầm thế mỗi khi cô bắt gặp chúng, cúi đầu xuống khi má ông đổi màu. Ông cực kỳ e dè, ít khi nhìn thẳng vào phụ nữ và chỉ thực sự lên tiếng khi cần thiết. Vâng, ông đã nói chuyện với các cậu bé. Có lẽ ông cảm thấy thoải mái với chúng vì chúng còn nhỏ, nhưng cô đã nghe thấy giọng ông hòa lẫn âm điệu trong trẻo, phấn khích của bọn trẻ, dường như giữa họ đang diễn ra một cuộc trò chuyện vậy.

    Cô liếc nhìn ra cửa bếp và thấy ba khách hàng đứng dậy thanh toán hóa đơn.

    “Cháu sẽ quay lại ngay,” cô nói, bước ra ngoài thu tiền. Cô không muốn đặt một quầy thu tiền trong phòng ăn, rồi việc kinh doanh đồ ăn sáng khiến nó cần thiết, nên cô phải lắp một cái nhỏ gần cửa ngoài. Hai trong số vị khách là Joshua Creed và khách hàng của ông, thế nghĩa là phòng ăn chẳng mấy chốc sẽ vãn người, giờ ông Creed đang rời đi.

    “Cate,” ông Creed lên tiếng, ông cúi đầu về phía cô. Ông ta cao và có bờ vai rộng, mái tóc đen đã bạc đi nơi thái dương, còn khuôn mặt đổi màu do tác động của ngoại cảnh. Đôi mắt màu lục nhạt của ông nhỏ hẹp, ánh nhìn chăm chăm của ông như xuyên thủng; ông trông như thể nhai được cả móng tay hay bắn ra vài viên đạn, nhưng ông luôn tử tế khi nói chuyện với cô.

    “Những chiếc bánh mỳ nướng của cháu ngày càng ngon hơn. Tôi sẽ nặng hơn bốn trăm pound nếu ăn ở đây hàng ngày.”

    “Cháu nghi ngờ điều đó nhưng cám ơn.”

    Ông quay người và giới thiệu khách hàng của mình.

    “Cate, đây là Randall Wellingham. Randall, quý cô đáng yêu này là Cate Nightingale, chủ sở hữu nhà nghỉ Bed and Breakfast Nightingale, và người nấu ăn bất ngờ ngon nhất quanh đây.”

    Lời khen ngợi đầu tiên có thể xem xét, còn lời thứ hai là lời nói dối thấy rõ vì còn vợ của Waller Karl. Milly, là một trong những người có tài nấu nướng thiên bẩm, người hiếm khi phải đong đo thứ gì mà vẫn nấu ngon như thiên thần. Tuy nhiên, chẳng gây tổn hại gì cho việc buôn bán nếu ông Creed nói những điều như vậy.

    “Tôi không thể tranh luận về bất kỳ điều nào,” ông Wellingham lên tiếng bằng giọng điệu quá ư nồng nhiệt, chìa bàn tay mình ra trong lúc ánh mắt nhanh chóng lướt xuống người cô trước khi quay trở lại khuôn mặt cô, vẻ mặt anh ta nói rằng mình chẳng ấn tượng với công việc hay tài nấu ăn của cô, Cate buộc bản thân phải bắt tay. Cái nắm của anh ta quá chặt, da thịt anh lại nhẵn nhụi. Đây không phải người đàn ông làm nhiều công việc cơ bắp, điều đó sẽ không là vấn đề nếu anh ta không thẳng thắn nổi bật lên so với tất cả mọi người ở đây, những người làm công việc tay chân. Chỉ có ông Creed được miễn cho, còn trừ ai đó mù hay ngu ngốc sẽ đối xử với anh ta với thái độ coi thường.

    “Ông lưu lại lâu không?” cô hỏi, chỉ bởi lịch sự.

    “Một tuần thôi. Đó là tất cả thời gian tôi xoay sở thoát khỏi văn phòng. Mỗi lần tôi đi, nơi ấy như địa ngục.” anh ta trả lời, cười khoái trá.

    Cô không bình luận gì. Cô đoán rằng anh ta có công việc kinh doanh, xem xét vẻ giàu có anh ta phô bày, nhưng cô không đủ quan tâm để hỏi. Ông Creed gật đầu chào, đội cái mũ đen lên đầu, rồi hai người đàn ông đi ra để khách hàng tiếp theo bước lên thanh toán. Hơn hai người xếp tiếp vào hàng chờ.

    Vào lúc cô thu xong tiền và rót đầy lại những cốc cà phê quanh phòng, Conrad và Gordon Moon đã ăn xong, nên cô quay lại quầy thu, nơi cô tránh được lời khen ngợi sặc sụa của Conrad cũng như trò tiêu khiển của Gordon. Cậu ta có vẻ nghĩ rằng thật buồn cười cha mình đã phát triển một sự tế nhị với cô.

    Cate không cho rằng nó hài hước chút nào khi Conrad dừng lại sau con trai mình, đã bước ra ngoài hàng hiên. Ông dừng lại và nuốt vào quá khó khăn, yết hầu ông lên xuống.

    “Cô Cate, tôi muốn hỏi – đó là… cô sẽ tiếp khách tối nay chứ?”

    Phương cách tiếp cận cổ điển vừa quyến rũ vừa báo động; cô thích cách ông làm nó, nhưng lại khiếp sợ ông hỏi vậy. Cate nuốt xuống, rồi bước lại gần cái đĩa, lý thuyết cho rằng gạt vấn đề này sang một bên chỉ mang lại nhiều cách tiếp cận hơn.

    “Không, tôi không. Buổi tối tôi ở cùng với các con tôi. Tôi quá bận cả ngày rồi, tối đến là thời gian tôi chỉ dành cho chúng, tôi không cho rằng là đúng đắn khi làm khác đi.”

    Tuy nhiên, ông ta cố gắng lần nữa.

    “Cô không có ý từ bỏ những năm tháng đẹp nhất trong cuộc đời mình –“

    “Tôi không từ bỏ chúng,” cô nói kiên quyết. “Tôi đang sống theo cách tôi cho là tốt nhất cho mẹ con tôi.”

    “Nhưng tôi có thể sẽ ra đi vào lúc chúng lớn khôn!”

    Bây giờ, có một điểm chắc chắn thu hút rồi đây. Cô bắn cho ông cái nhìn hoài nghi, rồi gật đầu đồng tình.

    “Đúng, ông có thể. Tôi vẫn phải để cơ hội này qua đi. Tôi chắc ông hiểu.”

    “Không thực sự,” ông lẩm bẩm, “nhưng tôi đoán rằng mình nhận lời từ chối giống như bất kỳ người đàn ông nào khác.”

    Sherry thò đầu khỏi cửa bếp. “Cal đang ở đây,” bà nói.

    Ánh mắt của Conrad chuyển đến bà ấy, tập trung ở đó.

    “Cô Sherry,” ông nói. “Cô có bất kỳ cơ hội tiếp khách –“

    Để Sherry xử lý ông già ham thích quyến rũ phụ nữ là tốt nhất cô có thể, Cate né qua bà ấy, bước vào nhà bếp.

    Ông Harris đang quỳ trên đầu gối, chui đầu vào cái hộc bên dưới chậu rửa, cả hai cậu bé đã rời khỏi ghế của mình, bận rộn đổ hộp dụng cụ nặng nề của ông ra.

    “Tucker! Tanner!”

    Cô đặt bàn tay lên hông, trao cho chúng cái nhìn trừng trừng tốt nhất của người mẹ.

    “Đặt số dụng cụ đó trở lại trong hộp. Mẹ đã nói gì về việc gây phiền hà cho chú Harris lần này hả? Mẹ đã nói rằng các con có thể xem, nhưng tránh xa số dụng cụ mà. Cả hai đứa, về phòng ngay bây giờ.”

    “Nhưng, mẹ ơi ---“

    Tucker bắt đầu, luôn luôn sẵn sàng sắp đặt một lập luận can đảm bào chữa cho bất cứ trò gì nó bị bắt gặp đang làm. Tanner đơn thuần chỉ lùi lại, vẫn cầm một cái cờ lê, chờ đợi xem Tucker hoặc là thất bại hoặc chiếm ưu thế. Cô cảm nhận tình huống bắt đầu vượt khỏi tầm kiểm soát, bản năng của người mẹ mách bảo cô rằng chúng đang trên bờ của cuộc nổi loạn thực sự. Chuyện này xảy ra rất thường xuyên, đẩy những đường danh giới đi xa tới mức cô cho phép. Không bao giờ tỏ ra mềm yếu. Đó là lời khuyên của một bà mẹ để đối diện với những kẻ bắt nạt, động vật hoang dã hay bọn trẻ con bốn tuổi không vâng lời.

    “Không,” Cate kiên quyết nói, và chỉ vào hộp đựng. “Dụng cụ vào hộp. Bây giờ.”

    Bĩu môi, Tucker ném một cái tô vít vào trong hộp. Cate thấy hàm răng mình nghiến lại với nhau; nó biết tốt hơn không nên ném đồ chơi của chính mình, càng ít hơn với của ai đó khác. Ngay lập tức, cô bước qua hộp dụng cụ, cầm lấy cánh tay nó, phát vào mông nó.

    “Chàng trai trẻ, con biết tốt hơn là không ném dụng cụ của chú Harris. Trước tiên, con sẽ xin lỗi chú; rồi con về phòng mình, ngồi vào ghế hư đốn trong mười lăm phút.”

    Tucker ngay lập tức kêu khóc, nước mắt vệt dài trên khuôn mặt, nhưng Cate đơn thuần là lên giọng khi chỉ vào Tanner.

    “Con. Cờ lê vào hộp.”

    Nó cau có, vẻ chống đối rồi thốt ra một tiếng thở dài, cẩn thận đặt cái cờ lê vào hộp.

    Đượt ạ,” nó nói với tông giọng phán xét cuối cùng khiến cô phải cắn môi khỏi bật cười. Cô khó khăn học được rằng cô không thể nhượng bộ hai cậu bé dù một bước, nếu không chúng sẽ lấn lướt cô.

    “Con phải ngồi trong ghế hư đốn mười phút, sau khi Tucker đứng dậy. Con cũng không vâng lời. Giờ, cả hai đứa chấm dứt việc lôi những dụng cụ này ra ngoài, và đặt chúng trở lại hộp. Nhẹ nhàng.”

    Môi dưới của Tanner chìa ra khi cậu định làm theo đám mây giông thu nhỏ, còn Tucker vẫn khóc, rồi cô nhẹ nhõm khi chúng bắt đầu làm như được bảo. Cate ngó quanh và thấy rằng ông Harris đã kéo đầu ra khỏi cái hộc, đang mở miệng, không nghi ngờ gì ông có ý bảo vệ lũ thủ phạm bé nhỏ. Cô chỉ ngón trỏ vào ông.

    “Không được nói,” cô nghiêm nghị.

    Ông đỏ mặt lẩm bẩm, “Không đâu, ma’am,” nhét đầu trở lại bên dưới chậu rửa.

    Khi số dụng cụ nằm lại hết trong hộp, mặc dù không đúng vị trí lắm, Cate nhắc Tucker, “Con được yêu cầu nói gì với chú Harris?”
    Cháu in ỗi,” nó nói, nấc lên giữa các từ. Nước mũi chảy xuống.

    Ông Harris sáng suốt giữ đầu mình trong hộc.

    “Không sa—“ ông bắt đầu nói rồi dừng lại. Ông dường như đóng băng trong giây lát; cuối cùng ông lầm bầm, “Các cậu bé, các cháu nên nhớ lời mẹ.”

    Gate tóm lấy tờ giấy ăn, lau mũi cho Tucker.

    “Xì đi,” cô hướng dẫn, giữ giấy ăn tại chỗ, và nó làm với tất cả năng lượng dư thừa sau khi đặt lại mọi thứ.

    “Bây giờ, hai con lên phòng. Tucker, ngồi vào ghế hư đốn. Tanner, con có thể chơi yên lặng trong khi Tucker ngồi trong ghế, nhưng không được nói chuyện với anh. Mẹ sẽ lên gác và nhắc khi cần đổi chỗ.”

    Đầu cúi xuống hai đứa nhỏ kéo lê bản thân lên gác như thể chúng đang đối mặt với số mệnh khủng khiếp không thể tưởng tượng nổi. Cate kiểm tra đồng hồ để xem mấy giờ Tucker sẽ thoát khỏi sự trừng phạt.

    Sherry đã quay lại nhà bếp, đang quan sát Cate với vẻ trộn lẫn của lòng thương cảm và niềm thích thú.

    “Tucker sẽ thực sự ngồi trong ghế cho tới khi cháu lên gác chứ?”

    “Bây giờ thì thế. Trước đây, thời gian trong ghế hư đốn đã bị kéo dài vài lần nên giờ nó sẽ không dám. Tanner thậm chí còn cứng đầu hơn.”

    Và đó là nói giảm đi, cô nghĩ, nhớ về cuộc đấu tranh buộc nó phải vâng lời. Tanner không nói nhiều, nhưng nó là hiện thân của “bướng bỉnh.” Cả hai đứa đều lanh lợi, cứng cỏi, và hoàn toàn tài giỏi trong việc tìm kiếm trò mới và khác lạ để rồi nhận lấy rắc rối – mà tệ hơn, là nguy hiểm. Một lần cô đã bị bàng hoàng bởi ý tưởng tét vào mông chúng, nhẹ hơn so với đánh đòn chúng, rồi trước khi chúng sinh đôi cô đã sửa lại rất nhiều ý tưởng lúc trước về việc nuôi dạy trẻ. Chúng vẫn chưa bị đánh đòn, nhưng cô không còn niềm tin rằng chúng sẽ qua được thời thơ ấu mà không nhận lấy một lần. Ý nghĩ ấy làm bụng cô thắt lại, nhưng cô phải một mình nuôi chúng khôn lớn, một mình kỷ luật chúng, và giữ chúng an toàn, bằng cách nào đó đúc chúng trở thành những người có trách nhiệm. Nếu cô để bản thân nghĩ quá nhiều về chuyện đó trong những năm trải dài trước đây, cô đã chết chìm trong hoảng loạn. Derek không ở đây. Cô phải tự mình làm nó.

    Ông Harris thò đầu ra khỏi hộc, nhìn vào cô như thể đo lường xem có an toàn không nếu lên tiếng bây giờ. Quyết định rõ ràng là nên, ông đành hắng giọng.

    “Ah… chỗ rò rỉ không nghiêm trọng; cái khớp nối chỉ hơi lỏng.”

    Máu đang leo lên khuôn mặt khi ông nói, nên ông nhanh chóng nhìn xuống cái cờ lê trong tay.

    Cô thở phào nhẹ nhõm và đi về phía cửa. “Cảm ơn Chúa. Để tôi lấy ví và gửi ông tiền.”

    “Không tiền công,” ông nói khẽ. “Tất cả tôi phải làm là siết nó lại.”

    Ngạc nhiên, cô dừng lại giữa lối đi. “Nhưng thời gian của ông đều đáng giá---“

    “Nó không mất đến một phút.”

    “Một luật sư sẽ tính phí một phút đó bằng một giờ đấy,” Sherry nhận xét, trông có vẻ thích thú đến kỳ quặc.

    Ông Harris cằn nhằn gì đó bên dưới hơi thở mà Cate không nắm được, nhưng Sherry rõ ràng biết vì bà cười toe toét. Cate băn khoăn có gì buồn cười nhưng không cố theo đuổi chủ đề.

    “Ít nhất hãy để tôi mời ông một cốc cà phê, trên nhà.”

    Ông nói gì đó nghe như “cám ơn” mặc dù có thể là “đừng bận tâm.” Tự cho là điều trước, cô đi vào phòng ăn, rót cà phê vào một cốc đem về loại lớn, rồi chụp một nắp nhựa lên trên. Hai người nữa bước tới thanh toán hóa đơn; một cô biết một cô không, nhưng đó không có gì bất thường trong mùa săn bắn. Cô nhận tiền của họ, đưa mắt một lượt số khách còn lại, tất cả có vẻ vẫn ổn, và mang cà phê quay lại nhà bếp.

    Ông Harris đang ngồi xổm, sắp xếp lại hộp dụng cụ của mình. Cate cảm giác như có lỗi.

    “Tôi xin lỗi. Tôi đã dặn chúng tránh xa dụng cụ của ông, nhưng ---“ Cô nhún một bên vai thể hiện sự thất vọng, rồi chìa cốc cà phê cho ông.

    “Không hại gì,” ông nói khi nhận lấy cốc, những ngón tay thô ráp, còn in vết dầu mỡ quấn quanh cốc nhựa. Ông cúi nhanh đầu mình.

    “Tôi thích trò chơi của chúng.”

    “Và chúng yêu dụng cụ của ông,” cô nói lạnh nhạt. “Cháu sẽ lên gác bây giờ, kiểm tra chúng. Cám ơn ông lần nữa, ông Harris.”

    “Vẫn chưa hết mười lăm phút mà,” Sherry nói, kiểm tra đồng hồ.

    Cate cười toe toét.

    “Cháu biết chứ. Nhưng chúng không hiểu về thời gian, nên mấy phút vấn đề gì đâu. Cô trông quầy thu tiền trong vài phút được không? Mọi người trong phòng ăn có vẻ ổn, không ai cần cà phê; nên chẳng có chuyện gì cho tới khi ai đó rời đi đâu.”

    “Được thôi,” Sherry nói, Cate rời nhà bếp, đi dọc theo hành lang trước cửa, leo lên những bậc cầu thang dài và dốc.

    Cô chọn hai phòng ngủ phía trước cho bản thân và cặp sinh đôi, bảo vệ tầm nhìn tốt nhất cho những khách thuê. Cả cầu thang và hành lang đều được trải thảm, cô bước khẽ khàng khi rẽ sang phải ở bậc trên cùng. Cánh cửa để mở, cô nhận thấy, nhưng cô không nghe thấy giọng chúng. Cô mỉm cười; như thế là tốt.

    Dừng lại nơi ngưỡng cửa, cô quan sát chúng trong một phút. Tucker đang ngồi trên ghế hư đốn, đầu nó cúi xuống còn môi dưới trề ra khi nó nghịch nghịch móng tay. Tanner ngồi trên sàn nhà, đang đẩy một ô tô đồ chơi lên một mặt nghiêng tự tạo bằng cách đặt một quyển truyện dựa vào chân nó, và phát ra âm thanh động cơ dưới hơi thở của mình.

    Trái tim cô bị bóp chặt khi một ký ức ùa về. Sinh nhật đầu tiên của chúng, chỉ vài tháng sau cái chết của Derek, đã mang lại cho chúng một trận tuyết lở của đồ chơi. Cô chưa bao giờ tạo ra âm thanh động cơ cho chúng: chúng chỉ được học cách đi, đồ chơi của chúng là những con thú nhồi bông mềm mại, thứ gì đó để đập, hay đồ chơi giáo dục cô dùng để dạy chúng tập nói và cách phối hợp. Chúng còn quá nhỏ khi Derek mất để anh được chơi ô tô với chúng, và cô biết cha mình cũng không. Em trai cô, người có thể, lại sống tận Sacramento mà cô chỉ gặp cậu ấy một lần kể từ khi Derek đi xa. Không ai tạo ra âm thanh động cơ cho chúng, từng đứa đã chộp lấy cơ hội có một trong những chiếc ô tô nhựa mới, màu sắc rực rỡ và vừa đẩy nó qua lại, vừa phát ra âm thanh như ‘uudddden, uudddden’ – thậm chí còn thay đổi tiếng khi sang số nữa. Cô nhìn chăm chú vào chúng trong sự kinh ngạc hoàn toàn, vì lần đầu tiên cô thực sự nhận ra một phần lớn trong tính cách của chúng được định đặt sẵn, cô có thể tác động vào bản năng cơ bản của chúng nhưng cô không có sức mạnh để quyết định toàn bộ tâm trí chúng. Chúng là chính con người chúng, và cô yêu từng chút một, thậm chí từng phân tử của chúng.

    “Đến lúc đổi chỗ rồi,” cô lên tiếng, Tucker nhảy phốc ra khỏi ghế hư đốn với một tiếng thở dài nhẹ nhõm. Tanner thoát khỏi chiếc ô tô nhỏ, đầu nó rũ xuống trong suốt lúc bước đi, một bức tranh đầy đủ của nỗi buồn rầu đáng thương. Nó kéo lê thân mình, như có trọng lượng vô hình giữ chân nó lại nên nó gần như không thể đi. Nó di chuyển quá chậm đến nỗi cô bắt đầu nghĩ nó có thể đủ tuổi để tới trường trước khi nó tới được chiếc ghế đó. Cuối cùng nó cũng chạm ghế, nó thả rơi mình vào chỗ, cơ thể sụp xuống.

    “Mười phút,” cô nói, một lần nữa đấu tranh chống lại thôi thúc bật cười. Nó hiển nhiên nghĩ rằng mình thật bất hạnh; toàn bộ ngôn ngữ cơ thể nó hét lên rằng nó không có hy vọng thoát khỏi ghế hư đốn trước khi nó chết đâu.

    “Con rất ngoan,” Tucker thỏ thẻ, đến dựa vào chân cô. “Con không nói lời nào.”

    “Con rất dũng cảm,” Cate nói, thọc những ngón tay vào mái tóc đen của nó. “Con chấp hành lệnh phạt như một người đàn ông.”

    Nó ngước lên, đôi mắt mở lớn. “Thế ạ?”

    “Đúng vậy. Mẹ rất tự hào về con.”

    Đôi vai nhỏ của nó xoay vuông góc, nhìn tư lự vào Tanner, kẻ cho thấy mọi dấu hiệu của việc đào ngũ trong tíc tắc.

    “Con có dũn cản hơn Tannuh không hả mẹ?”

    “Dũng cảm,” Cate sửa lại.

    “D..ũng cả..m.”

    “Giỏi lắm. Tanner.”

    “Tannerrr,” nó lặp lại, âm thanh phát ra bập bẹ.

    “Nhớ lần này của con, con biết rất rõ chuyện gì rồi đấy.” (down pat)

    Bối rối, nó nghiêng đầu. “Ai là Pat chết tiệt hả mẹ?” (damn Pat).

    “Tucker!” Kinh hoàng một lần nữa, Cate đông cứng người, mồm há hốc. “Con nghe từ đó ở đâu?”

    Nếu có bất cứ điều gì, thì nó trông còn bối rối hơn.

    “Mẹ nói mà, Mommy. Mẹ nói ‘Damn Pat.’”

    “’Xuống’ không phải ‘chết tiệt’!” (Down not damn)

    “À.” Nó cau mày. “Down Pat. Ai là Down Pat hả mẹ?”

    “Không có gì.”

    Có lẽ chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên; có lẽ nó chưa nghe thấy từ ‘chết tiệt’ đâu. Sau tất cả, chỉ có hai sáu chữ cái trong bảng chữ cái, nên nếu nó có sắp xếp chúng lẫn lộn thì có bất thường lắm đâu? Có thể nó sẽ hoàn toàn quên mất điều nó nói nếu cô để chủ đề qua đi. Vâng, đúng. Nó thoáng có vẻ nhấm nháp từ đó trong bí mật, rồi sẽ khoe ra lúc cô thực sự lúng túng nhất – có khả năng là trước mặt mẹ cô.

    “Ngồi xuống và chơi trong khi Tanner ngồi trên ghế hư đốn,” cô chỉ dẫn, vỗ nhẹ lên vai nó. “Mẹ sẽ quay lại trong mười phút.”

    “Tám,” Tanner cất tiếng, đủ phục hồi để gửi cho cô ánh nhìn giận dỗi.

    Cô kiểm tra đồng hồ đeo tay; chết tiệt nếu không phải còn tám phút như câu nói của nó. Cậu bé đã ngồi phạt được hai phút rồi.

    Vâng, thỉnh thoảng con cô làm cô hốt hoảng thực sự. Mỗi đứa có thể đếm được đến hai mươi, nhưng cô chắc chắn chưa dạy chúng phép trừ, thêm vào đó khái niệm thời gian của chúng có xu hướng hoặc là ‘ngay bây giờ’ hoặc ‘đợi một lúc, lúc lâu.’ Đâu đó dọc theo dòng chảy, trong lúc nó quan sát thay vì nói chuyện, Tanner đã lượm lặt được vài kỹ năng về toán.

    Biết đâu nó có thể tính thuế giúp mình trong năm tới, cô ngẫm nghĩ với vẻ thích thú.

    Khi quay đi, ánh mắt cô rơi vào chữ số 3 trên cánh cửa dọc hành lang từ cầu thang. Ông Layton! Những gì với sự cố đường ống nước, cộng với cặp sinh đôi không nghe lời, cô hoàn toàn quên mất việc bê một khay đồ ăn sáng lên cho ông ta.

    Vội vàng cô bước tới cánh cửa; nó hơi hé mở, nên cô gõ lên thanh dọc cửa.

    “Ông Layton, Cate Nightingal đây. Ông muốn tôi mang một khay đồ ăn sáng lên không?”

    Cô đợi, nhưng không có câu trả lời. Liệu có phải ông ấy rời khỏi phòng, xuống cầu thang trong lúc cô ở phòng hai đứa trẻ? Cánh cửa phát ra tiếng kẹt rít, nên cô sẽ nghe thấy nếu ông mở nó.

    “Ông Layton?”

    Vẫn không có câu trả lời. Thận trọng cô đẩy cánh cửa mở ra, và tiếng rít phát ra ngay.

    Tấm phủ giường bị ném sang một bên, còn cánh cửa tủ quần áo bật mở tung, lộ ra vài bộ đồ mặc đang treo trên thanh ngang. Mỗi phòng trọ có một phòng tắm nhỏ riêng và cánh cửa đó cũng đang mở. Một va li nhỏ bằng da đặt trên kệ, nắp mở tung dựa vào tường. Mặc dù vậy, ông Layton không ở đó. Ông ấy hẳn đi xuống cầu thang khi cô đang nói chuyện với bọn trẻ, cô đơn giản không nghe thấy tiếng kẹt cửa.

    Cô bắt đầu quay ra khỏi phòng, không muốn ông ta quay lại và cho rằng cô đang rình mò, thì cô chú ý tới cửa sổ đang mở, rèm che có vẻ hơi lệch. Hơi khó nghĩ, cô bước tới cửa sổ, kéo lại màn che vào vị trí, đóng chốt. Cơ sở nào nó mở ra được nhỉ? Mà hai đứa trẻ đang chơi trên đây, cố gắng leo ra cửa sổ thì sao? Máu cô ớn lạnh với ý nghĩ, cô nhìn thẳng xuống tới mái che hiên bên dưới. Với độ cao như thế sẽ làm gãy xương chúng, thậm chí có khả năng lấy mạng chúng nữa.

    Cô quá hoảng hồn tập trung vào ý nghĩ bất chợt nảy đến trước khi nhận thấy bãi đậu xe đã trống. Chiếc xe thuê của ông Layton không ở đó. Có thể ông ta không hề quay xuống cầu thang, hoặc – hoặc ông ta leo qua cửa sổ xuống mái hiên, nhảy xuống đất, rồi lái xe đi mất. Ý tưởng là vô lý, nhưng thích hợp hơn nghĩ rằng hai cậu bé của cô có thể trèo được ra ngoài xuống mái hiên.

    Cô rời khỏi phòng số 3, quay lại phòng cặp sinh đôi. Tanner vẫn ngồi trong ghế hư đốn, có vẻ còn giận dỗi trong cơn bùng nổ sắp xảy ra. Tucker đang vẽ lên tấm bảng bằng một mẩu phấn màu.

    “Các cậu bé, có ai trong bọn con mở bất kỳ cánh cửa sổ nào không?”

    “Không, mẹ ạ,” Tucker trả lời không dừng lại tác phẩm nghệ thuật của mình.

    Tanner điều khiển ngẩng đầu lên và lắc đầu chậm chạp.

    Chúng đang nói sự thật. Khi chúng nói dối, đôi mắt chúng mở to, xoe tròn và chúng nhìn chằm chằm vào cô như thể cô là một con rắn hổ mang, thôi miên chúng bằng sự cai trị của người đứng đầu. Cô hy vọng chúng vẫn còn làm thế khi chúng tới tuổi thiếu niên.

    Lý giải duy nhất còn lại cho việc mở cửa sổ là ông Layton quả thực đã leo ra ngoài nó, và lái xe đi.

    Tại sao ông ấy phải làm một chuyện lạ đời như thế nhỉ?

    Và nếu ông ấy bị ngã, bảo hiểm của cô có bao gồm cho sự cố không?
     
    Chỉnh sửa cuối: 8/8/15
  4. Carrot7411

    Carrot7411 Mầm non

    Cảm ơn bạn. Truyện của Linda Howard luôn hấp dẫn.
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    halucky thích bài này.
  5. trangiu08

    trangiu08 Mầm non

    Lại có truyện mới của Linda để đọc rồi. Cám ơn nhiều nhé Haluky. Cố gắng lên nhé.
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    halucky thích bài này.
  6. halucky

    halucky Lớp 11

    Ôi ghét thế, trang này hôm nay bị sao ấy. Chẳng cho mình chỉnh sửa bài in gì cả. Cứ giãn cách cả khoảng dài, tốn cả đất
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    Love Kindle and tducchau like this.
  7. kimduyen

    kimduyen Lớp 1

    Lại tiếp tục 1 truyện mới rồi, cảm ơn halucky nhiều nhé
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
  8. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    @halucky : Thành thực xin lỗi! :D!
    Có lẽ là do sự 'vô tình' chút của 'software by XenForo'! :p!
    Mình đã hiệu chỉnh lại 'giãn cách' giùm bạn cho bớt 'tốn đất' nha, @halucky xem có 'vừa lòng' chưa?!? :D
    Có lẽ, khi post bài, @halucky thử chuyển sang chế độ 'Thêm tùy chọn...', sẽ 'thoải mái' ... hơn chút đó, :)!
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    Love Kindle, teacher.anh and halucky like this.
  9. halucky

    halucky Lớp 11

    Cám ơn mod @tducchau nhé. Làm kinh động tới tận mod thấy ngại quá.

    @halucky : Không có chi. :)! Hân hạnh được phục vụ! :)! _tdc.
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    Love Kindle, hathao and tducchau like this.
  10. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 2 (halucky)

    CATE VỘI VÃ XUỐNG CẦU THANG, HY VỌNG SHERRY KHÔNG bận túi bụi bởi dòng khách hàng trả tiền không mong đợi trong khi cô ở trên gác đối phó với cặp sinh đôi. Khi tới gần cửa bếp, cô nghe thấy giọng Sherry đầy vẻ hứng khởi.

    “Tôi tự hỏi cậu sẽ dính đầu mình bên dưới cái chậu rửa trong bao lâu.”

    “Tôi thì e nếu mình dời khỏi nó, cô ấy sẽ đập mạnh vào mông tôi.”

    Cate đứng sững lại, đôi mắt mở to ngạc nhiên. Ông Harris đã nói gì? Ông Harris ư? Và với Sherry? Cô có thể thấy ông nói kiểu ấy với bất kỳ gã đàn ông nào – có lẽ thôi - nhưng khi nói chuyện với một phụ nữ, ông ấy khó có thể đặt hai từ gần nhau mà không đỏ mặt. Và cái giọng điệu dễ dàng của ông ấy mà cô chưa nghe thấy bao giờ trước đây, càng khiến cô nghi ngờ.

    Ông Harris … và Sherry ư? Cô bỏ lỡ chuyện gì ở đó sao? Không thể thế được; ý tưởng hai người đó là một cặp thật quá lạ lùng để thành sự thật, như.. như Lisa Marie và Michael Jackson.

    Điều gì nói với cô rằng không thứ gì là có thể.

    Sherry già hơn ông Harris, ở độ tuổi giữa năm mươi, nhưng tuổi tác có thành vấn đề lắm đâu. Cô ấy cũng là một phụ nữ thu hút, thân hình đẫy đà nhưng hấp dẫn, với mái tóc hung đỏ và tính cách cởi mở, nồng ấm. Ông Harris thì – cũng tốt, Cate không có chắc ông bao nhiêu tuổi. Đâu đó giữa bốn mươi và năm mươi, cô cho là thế. Cô hình dung ông trong tâm trí mình; ông trông già hơn tuổi của mình, và nó không phải vì ông hay nhăn nhó hay điều gì đại loại thế. Ông chỉ là một trong những lớp người cũ, với lối sống nhiều kinh nghiệm. Thực tế, giờ đây khi cô thực sự nghĩ về nó, ông ấy có lẽ còn chưa tới bốn mươi. Tóc ông ấy thật khó tả, có vẻ giữa màu nâu và màu vàng nước rửa bát, luôn bù xù, cô chưa từng nhìn thấy ông ấy không mặc cái quần yếm lùng thùng dính đầy dầu mỡ. Ông quá gầy gò so với cái yếm treo trên người mình, nó rộng hơn nhiều nếu đem so với hình ảnh một cô gái điếm.

    Cate lấy làm ái ngại; ông quá e dè nên cô thực sự tránh nhìn vào ông hay tình cờ tán gẫu với ông, không muốn khiến ông căng thẳng, nên bây giờ cô cảm thấy có lỗi vì không tỏ ra thoải mái hơn với ông để hiểu về ông cũng như để ông thoải mái được với mình, như Sherry rõ ràng đã làm được. Cate, quả như thế, nên tránh cho bản thân khỏi rắc rối, nên cố gắng làm bạn với ông, như mọi người nơi đây nỗ lực làm bạn với cô khi cô mới tiếp quản B&B. Vài hàng xóm mà cô quen biết!

    Cô bước vào nhà bếp, cảm giác như thể đang bước vào một vùng chạng vạng. Harris nhảy ngay xuống khi nhìn thấy cô, khuôn mặt ông đỏ bừng, như thể ông đoán cô nghe thấy. Cate thình lình quay ý nghĩ trở về với hành động kỳ lạ của ông Layton, tránh xa khả năng về một mối tình lãng mạn đang diễn ra ngay trước mũi mình.

    “Vị khách ở phòng số 3 đã trèo qua cửa sổ và rời đi,” cô lên tiếng, rồi nhún vai trong một cử chỉ ‘tôi không biết cái quái gì đang diễn ra.’

    “Ra ngoài qua cửa sổ?” Sherry lặp lại, độ khó hiểu cũng bằng thế. “Sao ông ta phải làm thế chứ?”

    “Cháu không biết. Cháu có số thẻ tín dụng của ông ta nên không có vẻ ông ta trốn không trả hóa đơn. Và đồ đạc của ông ta vẫn ở đây.”

    “Có lẽ ông ta chỉ muốn trèo qua cửa sổ, để xem liệu mình có thể không.”

    “Có lẽ. Hoặc ông ấy điên khùng.”

    “Hoặc thế,” Sherry đồng ý. “Ông ta ở đây mấy đêm rồi?”

    “Mới tối qua. Giờ trả phòng là bảy giờ, nên ông ấy sẽ nhanh chóng quay lại thôi.”

    Nơi nào đó trên mặt đất này ông ta có thể đi đến, cô không tài nào hình dung nổi, trừ khi ông ta đột nhiên bị thôi thúc tới cửa hàng ăn. Trail Stop không có bất cứ cửa hiệu hay nhà hàng nào; nếu muốn ăn sáng, ông ta nên ăn tại đây. Thị trấn đúng nghĩa gần nhất cách đây một giờ lái xe, nên ông ta không có đủ thời gian tới đó, ăn, rồi quay về trước giờ trả phòng – chưa kể tới kế hoạch đó bị thất bại, nếu ông ấy đơn giản không muốn ăn với vài người lạ.

    Ông Harris hắng giọng. “Tôi sẽ… um—“. Ông ấy nhìn quanh, hiển nhiên lúng túng.

    Đoán rằng ông không biết đặt cái cốc rỗng ở đâu, Cate nói, “Tôi sẽ cầm nó,” và giơ tay ra. “Cảm ơn đã sửa chữa. Mặc dù, tôi ước gì ông nhận lấy tiền công.”

    Ông kiên quyết lắc đầu khi đưa cốc cho cô. Quyết tâm tỏ ra thân thiện hơn, cô tiếp tục, “Tôi không biết phải làm gì nếu không có ông.”

    “Không ai trong chúng tôi biết phải làm thế nào trước khi Cal tới định cư ở đây,” Sherry vui vẻ nói, di chuyển tới chậu rửa, nơi bà bắt đầu chất đĩa vào máy rửa bát. “Chờ đợi một tuần hay hơn cho ai đó từ thị trấn tới bất cứ khi nào chúng tôi cần sửa chữa.”

    Cate mơ hồ ngạc nhiên; cô đã nghĩ ông Harris luôn sống ở đây. Ông ấy thực sự hòa hợp với dân địa phương như thể ông đã sống ở đây cả đời rồi vậy. Cảm giác xấu hổ dâng lên trong cổ họng cô lần nữa. Sherry nhắc đến ông bằng tên đầu của ông, trong khi Cate luôn gọi ông là ông Harris, một cách hiệu quả tạo ra khoảng cách với ông. Cô không biết lý do mình làm thế, nhưng nó là vậy.

    “Mẹ ơi!” Tiếng Tucker vọng xuống từ trên đỉnh cầu thang. “Thời gian hết rồi!”

    Sherry cười khúc khích, Cate nhìn thấy một nụ cười ngắn kéo miệng ông Harris nhếch lên khi ông giơ hai ngón tay chào Sherry và nhấc hộp dụng cụ, rõ ràng có ý định tẩu thoát trước khi những cậu bé quay xuống gác.

    Cate trợn tròn mắt hướng lên trời, lặng lẽ hỏi một câu, rồi bước ra hàng lang.

    “Nói với Tanner em ấy có thể dời khỏi ghế hư đốn.”

    Đượt rồi!” Tiếng la hét hoan hỉ kèm theo là âm thanh nhảy nhót. “Tunnuh! Mẹ nói đứng lên! Hãy xây lâu đài và ào ắn, anh và em cùng chui vào trong.” Bắt kịp sự hào hứng với trò chơi, nó chạy lại phòng mình. (Bọn trẻ này hay phát âm âm ‘r’ thành ‘w’)

    Cate bị giằng xé giữa sự thích thú của cách phát âm Elmer Fudd của nó và sự bối rối với từ ngữ nó chọn. ‘Rào chắn’ chúng lấy từ đó ở đâu nhỉ? Có lẽ chúng đang xem về miền viễn tây trên truyền hình; cô cần phải theo dõi chặt chẽ hơn những gì chúng coi.

    Cô kiểm tra phòng ăn: nó đã trống không; giờ cao điểm buổi sáng đã qua. Sau đó, cô và Sherry dọn dẹp phòng ăn và nhà bếp, khi ông Layton quay lại lấy đồ, cô sẽ thay ga giường và lau phòng, rồi cô sẽ có phần còn lại của ngày sắp xếp mọi thứ sẵn sàng cho chuyến thăm của mẹ cô.

    Ông Harris đã rời khỏi. Đi tới giúp đống bát đĩa, Cate đụng hông mình vào hông Sherry.

    “Vậy, có gì giữa cô và ông Harris thế? Gì đó đang diễn ra giữa hai người?”

    Miệng Sherry há hốc, bà nhìn Cate hoàn toàn ngạc nhiên.

    “Lạy Chúa, không. Cháu lấy đâu ý tưởng đó?”

    Phản ứng của bà quá thành thật đến nỗi Cate cảm giác thật ngu ngốc vì nhảy ngay tới kết luận sai lầm.

    “Ông ấy nói chuyện với cô.”

    “Ồ, chết tiệt, Cal nói chuyện với rất nhiều người.”

    “Không giống cháu đã thấy.”

    “Cậu ấy chỉ hơi nhút nhát,” Sherry nói, có lẽ giảm bớt đi. “Bên cạnh đó, tôi đủ già làm mẹ cậu ấy.”

    “Không đâu – trừ khi cô thực sự, thực sự phát triển quá sớm.”

    “Thôi được, điều đó có phóng đại. Tôi quý Cal – rất nhiều. Cậu ấy là một người thông minh. Cậu ấy có lẽ chưa nhận bằng đại học, nhưng cậu ấy sửa chữa được mọi thứ.”

    Cate đồng ý. Bất kể cần sửa gì ở B&B, từ đồ gỗ, đồ điện đến đường ống nước, ông Harris đều xử lý được. Ông cũng lấp đầy vị trí một thợ cơ khí, nếu cần thiết. Nếu ai đó được sinh ra trở thành người đàn ông chăm chỉ, hẳn đó là ông Harris.

    Mười năm trước, lúc mới tốt nghiệp còn chưa có kinh nghiệm, với tấm bằng đại học ngành markerting, cô đã coi thường những người làm công việc tay chân – những con người mà tên của họ được may trên túi áo, khi họ được mô tả trong nhóm của mình – nhưng giờ đây cô đã trưởng thành hơn và khôn ngoan hơn, cô hy vọng thế. Thế giới cần tất cả các hạng người để làm mọi công việc, từ nhà hoạch định chiến lược để cho người khác thực hiện trở đi, và trong cái cộng đồng bé nhỏ này, ai đó có thể sửa chữa mọi thứ có giá trị tính bằng vàng với khối lượng bằng chính khối lượng anh ta.

    Cô bắt đầu dọn dẹp phòng ăn trong lúc Sherry kết thúc trong nhà bếp; rồi cô hút và phủi bụi ở dưới gác – ít nhất ở tất cả các khu vực chung. Cảm ơn Chúa, ngôi nhà cổ kiểu Victoria khổng lồ này có hai phòng khách riêng biệt. Phòng phía trước, cái lớn nhìn ra ngọn núi đá được các vị khách dùng. Căn phòng phía sau là một phòng nhỏ để làm việc, nơi cô và hai cậu bé nghỉ ngơi mỗi tối, nơi họ cùng xem ti vi hoặc chơi trò chơi. Cô không bận tâm nhặt lại đồ chơi của chúng ở đó; vì một điều, mẹ cô còn mất hàng giờ mới tới và bọn trẻ sẽ lôi mọi thứ ra lần nữa trước khi bà đến đây, nên Cate không lãng phí công sức.

    Sherry thò đầu khỏi cửa bếp.

    “Mọi việc ở đây xong rồi. Tôi sẽ gặp cháu vào sáng mai. Hy vọng mẹ cháu đến đây ổn thỏa.”

    “Cảm ơn nhiều. Cháu cũng mong thế; bà sẽ không bao giờ kể cháu nghe đầu đuôi câu chuyện nếu bà có cái xe rắc rối hay gì đó.”

    Trail Stop quá hẻo lánh đến nỗi không có cách nào tới đó dễ dàng, không có sân bay gần nó cho các chuyến bay thương mại, chỉ có một con đường duy nhất dẫn vào. Mẹ cô ghét cái đám máy bay cánh quạt cỡ nhỏ dù bà có thể bay tới gần hơn, và vì thuê bất kỳ phương tiện nào ở cái đường băng bé tí của chúng gần như là ‘nhiệm vụ bất khả thi’, bà đã chọn bay tới Boise, nơi bà biết dịch vụ cho thuê xe luôn có sẵn. Điều đó dẫn tới một chuyến lái xe kéo dài và thêm vào một điểm phiền muộn của bà về sự lựa chọn nhà cửa của cô. Bà không hề thích con gái mình và những đứa cháu ngoại sống ở tiểu bang khác, bà không thích Idaho – đưa bà từ một khu vực đô thị trở về một vùng nông thôn – và bà không thích những rắc rối thái quá bám lấy bà mỗi lần tới thăm. Bà không thích rằng Cate đã mua một B&B, có nghĩa là cô hiếm khi có thời gian rảnh; trên thực tế, Cate đi thăm cha mẹ mình duy nhất một lần kể từ khi mua B&B.

    Tất cả điều đó là những điểm hợp lý. Cate thừa nhận, thậm chí còn nói với mẹ mình thế. Bản thân cô sẽ muốn ở lại Seattle hơn, nếu cô có một sự lựa chọn.

    Nhưng cô không có, nên cô đành làm cái điều cô cho là tốt nhất cho cặp sinh đôi. Khi Derek mất, bỏ lại cô với cặp sinh đôi chín tháng tuổi, không chỉ phá hủy cô bởi việc mất anh, cô còn buộc phải thực tế đối mặt với vấn đề tài chính của họ. Tổng thu nhập của họ giúp mang lại một cuộc sống đầy đủ, nhưng Cate đã chuyển sang làm bán thời gian khi hai đứa trẻ được sinh ra và phần lớn cô làm việc nhà. Với sự ra đi của Derek, cô phải làm toàn thời gian, nhưng chi phí cho dịch vụ chăm sóc hàng ngày chất lượng cao của bọn trẻ đã ngăn cản. Nó gần như không trả được bằng công việc của cô. Mẹ cô không thể trông giúp, vì bà cũng phải làm việc.

    Họ có tiền tiết kiệm, nên Derek đã mua một hợp đồng bảo hiểm một trăm nghìn đô la, ý định nâng thêm khi thu nhập của anh tăng lên. Họ nghĩ mình có tất cả thời gian trên thế giới này. Ai có thể dự đoán được, một người đàn ông ba mươi tuổi khỏe mạnh tử vong do nhiễm tụ cầu khuẩn tấn công trái tim mình? Anh đi leo núi lần đầu tiên kể từ khi cặp sinh đôi được sinh ra, bị một vết cắt vào chân, các bác sĩ nói rằng vi khuẩn có khả năng đã xâm nhập vào cơ thể anh qua vết thương nhỏ đó. Khoảng ba mươi phần trăm con người mang vi khuẩn trên da họ, các bác sĩ giải thích, và thường thì không có vấn đề gì. Nhưng đôi khi một vết rách trên da cho phép vi khuẩn bắt đầu, và có thể do hệ miễn dịch tạm thời suy giảm, ví như khi strees, nhiễm trùng sẽ đùng đùng kéo vào cơ thể họ bất chấp tất cả các nỗ lực ngăn cản chúng.

    Vượt trên một mức độ tinh thần, thế nào và tại sao đâu còn quan trọng, ngoại trừ tất cả cảm xúc cô biết rằng mình bỗng nhiên trở thành một góa phụ hai mươi chín tuổi, với hai đửa trẻ phải chăm sóc. Từ đó trở đi, mọi quyết định của cô được thực hiện với chúng trong đầu.

    Bằng khoản tiết kiệm, tiền bảo hiểm và kế hoạch chi tiêu cẩn thận, cô có thể vẫn sống được ở Seattle, gần với cả gia đình mình và gia đình nhà chồng. Nhưng sẽ chẳng còn lại gì chi trả cho việc học đại học của cặp sinh đôi, cộng với cô phải làm nhiều giờ như thế, cô không chăm sóc được nhiều cho con của chính mình. Sau nhiều lần nghĩ đi nghĩ lại, cô đi tới lựa chọn của mình với cố vấn tài chính, và kế hoạch lo gic nhất ông có thể khuyên cô là chuyển tới sống ở một khu vực có mức sống thấp hơn.

    Cô đã quen thuộc với vùng này của Idaho, ở Bitterroots. Một trong những bạn thân của Derek ở trường đại học đã lớn lên ở đây, nói với anh rằng leo núi thật tuyệt vời. Anh ấy và Derek có nhiều buổi cuối tuần leo núi cùng nhau. Rồi khi cô và Derek gặp gỡ ở câu lạc bộ leo núi và bắt đầu hẹn hò, rất tự nhiên cô tham dự cùng những buổi leo núi cuối tuần ấy. Cô yêu khu vực này, sự gồ ghề, khung cảnh đẹp ngoạn mục của nó cũng như vẻ yên bình. Cô và Derek đã ở tại B&B mà cô đang sở hữu đây, nên cô từng làm quen với chỗ này. Người chủ cũ, bà Weiskopf nhiều tuổi, đã phải cật lực chăm sóc nó, nên khi Cate quyết định đi vào kinh doanh nhà nghỉ và đưa ra lời đề nghị, quý bà cao tuổi đã chụp lấy nó và bây giờ đang sống ở Pocatello với con trai và vợ cậu ấy.

    Chi phí sinh hoạt ở Trail Stop quả thật có thấp hơn, và từ việc bán căn hộ cao cấp của họ Cate đã có một khoản lợi nhuận kha khá, cô nhanh chóng đặt nó sang một bên làm quỹ học đại học cho hai cậu con trai. Cô xác định không động tới món tiền đó trừ khi nó là quan trọng trong cuộc sống hoặc là cái chết – của họ. Cô sống hoàn toàn nhờ lợi tức từ B&B - điều không cho phép mở rộng thêm nhiều phòng vì chi phí phụ thu. Nhưng kinh doanh đồ ăn sáng giúp cô thoát khỏi một chút khó khăn, nếu không có gì sai sót và cô không có nhiều chi phí bất ngờ, như sự cố đường ống khẩn cấp sáng nay. Cảm ơn Chúa nó không nghiêm trọng – và cảm ơn Chúa, ông Harris đã từ chối nhận tiền công.

    Có những ưu và khuyết điểm trong cuộc sống cô chọn cho bản thân mình và hai cậu bé. Một trong những ưu điểm, điều lớn nhất, là hai đứa con ở với cô cả ngày. Cuộc sống của bọn trẻ được ổn định như cô có thể mang lại cho chúng, với kết quả là chúng hạnh phúc và khỏe mạnh, thế là đủ để giữ cô ở lại. Một ưu điểm khác là cô thích công việc bà chủ của chính mình. Cô thích việc cô đang làm, thích nấu nướng, thích mọi người trong cộng đồng. Họ chỉ là những người, có lẽ đầu óc tự do hơn so với những người ở thành thị, nhưng vẫn có thói quen, điểm mạnh, và điểm yếu như mọi người khác thôi. Không khí thì trong lành, thoáng đãng, bọn trẻ hoàn toàn an toàn khi chơi bên ngoài.

    Một trong những mục nằm trong cột tiêu cực là sự xa xôi của vùng đất. Không có dịch vụ điện thoại di động, không có đường truyền DSL cho máy tính. Truyền hình thì qua vệ tinh, có nghĩa là sự thu nhận sẽ bị ngắt quãng khi có đợt tuyết mạnh. Không có chuyện như một chuyến đi nhanh tới cửa hàng tạp hóa, nhặt nhạnh vài mặt hàng cần thiết; mua sắm ở cửa hàng tạp hóa đòi hỏi chuyến đi kéo dài một giờ mỗi lượt, vì thế cô thực hiện cuộc hành trình mỗi tuần một lần và mua về một núi hàng hóa. Bác sĩ của bọn trẻ cũng cách xa một giờ. Khi chúng bắt đầu tới trường, cô sẽ phải lái xe hai lần mỗi ngày, hàng ngày mỗi tuần, đồng nghĩa là cô phải thuê giúp việc. Ngay cả việc nhận thư cũng mất nhiều cố gắng. Cả một quãng đường dài từ thùng thư nông thôn xuống con đường chính, xa hơn mười dặm. Bất kỳ ai đi lại hướng đó đều buộc phải mang theo thư của cả cộng đồng cần gửi rồi mang trở về bất cứ thứ gì được chuyển giao –tức là giữ lấy một bọc buộc các lá thư gửi đến cho từng người với nhau – rồi chuyển lại cho từng người nhận.

    Hai cậu bé có một bạn cùng chơi. Đó là một đứa trẻ gần độ tuổi chúng: Angelina Contreras, sáu tuổi và đang học lớp một, cô bé ở trường cả ngày. Vài thiếu niên thường sống cùng bạn bè hoặc người thân trong thị trấn suốt năm học, chỉ về nhà vào dịp cuối tuần vì khoảng cách đòi hỏi.

    Cate không làm ngơ trước những vấn đề này khi quyết định, nhưng nhìn chung cô cho rằng mình đã có lựa chọn đúng đắn nhất cho hai cậu con trai. Chúng là sự suy xét đầu tiên của cô, lý do cơ bản cho mỗi hành động cô chọn. Trách nhiệm nuôi nấng chúng, chăm sóc chúng đặt lên vai cô, nên cô quyết định chúng sẽ không phải chịu đau khổ.

    Đôi lúc cô cảm thấy thật cô đơn, cô nghĩ rằng mình sẽ bục vỡ mất dưới áp lực. Trên bề ngoài, mọi thứ hoàn toàn bình thường, thậm chí là trần tục. Cô sống trong một cộng đồng nhỏ nơi mọi người quen biết lẫn nhau; cô nuôi dạy con cái; mua đồ tạp phẩm và nấu nướng, chi trả hóa đơn, xử lý tất cả những phát sinh thường ngày của một gia đình. Mỗi ngày gần như hoàn toàn giống mỗi ngày đã qua đi trước đó.

    Nhưng kể từ khi Derek ra đi, cô liên tục cảm thấy như thể đang bước đi trên bờ vực của vách đá, chỉ một bước sai lầm sẽ đẩy cô rơi xuống. Một mình cô phải có trách nhiệm với bọn trẻ, chu cấp cho chúng, không chỉ bây giờ mà cả trong tương lai nữa. Chuyện gì xảy ra nếu khoản tiền cô để riêng dành cho việc học đại học của chúng không đủ? Nếu thị trường chứng khoán chao đảo khi chúng mười tám hay lãi suất tụt dốc thì sao? Sự thành công hay thất bại cuả B&B hoàn toàn phụ thuộc vào đôi vai cô – mọi thứ phụ thuộc hoàn toàn vào đôi vai cô, từng quyết định, từng kế hoạch, từng giây phút. Nếu chỉ có một mình lo lắng về điều đó, cô sẽ không sợ hãi; nhưng cô có hai đứa trẻ, và vì chúng cô đã sống bên mép nỗi hoảng loạn.

    Chúng mới bốn tuổi, hơn một chút so với trẻ sơ sinh, vẫn hoàn toàn phụ thuộc vào cô. Chúng đã mất cha, và ngay cả chúng không nhớ anh, chúng chắc chắn cảm thấy sự thiếu vắng anh trong cuộc sống, sẽ còn cảm thấy điều đó sâu sắc hơn khi lớn lên. Làm sao cô có thể bù đắp được? Cô có đủ sức mạnh để nuôi dạy chúng an toàn đi qua những năm tuổi niên thiếu cứng đầu và sự phát triển của nội tiết tố? Cô yêu chúng quá nhiều để có thể chịu đựng được bất cứ chuyện gì xảy ra với chúng, nhưng nếu những quyết định cô đã chọn, tất cả đều sai thì sao?

    Không có gì bảo đảm. Cô biết thế, biết rằng ngay cả nếu Derek còn sống, vẫn có nhiều trở ngại; sự khác biệt lớn là cô không phải một mình đối mặt với chúng.

    Vì hai cậu bé, khi Derek mất cô buộc bản thân phải đứng lên, đẩy những đau buồn vào một nhà tù bên trong nơi cô có thể giữ nó được kiểm soát cho tới khi cô cô đơn trong đêm tối. Cô đã khóc suốt đêm hàng tuần, hàng tháng. Nhưng ban ngày cô tập trung hết vào hai đứa con, vào những nhu cầu của chúng, và theo cùng một cách, ba năm qua đã ở lại, cô vẫn không biết làm thế nào mình đi qua được. Thời gian đã làm mờ cạnh sắc của nỗi đau, nhưng nó không biến mất. Cô nghĩ về Derek hầu như mỗi ngày, khi cô nhìn thấy biểu hiện của anh chạy qua gương mặt sinh động của con trai mình. Một bức ảnh chụp họ cùng nhau đặt trên nóc tủ để đồ của cô. Hai cậu bé sẽ nhìn thấy và biết rằng đó là cha mình.

    Cô đã có bảy năm tuyệt vời bên anh, nên sự thiếu vắng anh đã khoét một lỗ lớn trong cuộc sống của cô, trong trái tim cô. Hai đứa nhỏ sẽ không bao giờ biết về anh, đó là điều mà cô không thể bù đắp nổi.

    Mẹ cô đến nơi chỉ sau đó bốn giờ, buổi chiều. Cate đang chờ bà, rồi khi chiếc xe Jeep Liberty màu đen kéo vào bãi đậu, cô và bọn trẻ chạy ùa ra đón bà.

    “Những cậu bé của tôi!”

    Sheila Wells khóc òa, nhảy ra khỏi xe Jeep, ngồi xổm xuống ôm cặp sinh đôi vào lòng.

    “Mimi, nhìn này,” Tucker nói, chỉ bà xem chiếc xe cứu hỏa đồ chơi nó cầm.

    “Nhìn này,” Tanner lặp lại, giơ ra một xe ben màu vàng. Hai cậu bé nhặt ra một đồ vật đáng giá nhất của mình đem khoe bà.

    Bà không làm chúng thất vọng. “Lạy Chúa, hãy nhìn xem. Bà chưa từng nhìn thấy một chiếc xe cứu hỏa hay xe ben nào đẹp hơn - ờ, bà không nghĩ mình từng thấy đâu.”

    “Nghe nữa,” Tucker nói, bật còi báo động.

    Tanner cau có. Xe ben của nó không có còi, nhưng phía sau nâng lên được và thanh chắn mở tung, đổ mọi thứ có bên trong thùng xe ra. Nó cúi xuống, vốc ít sỏi vào trong thùng xe, rồi giữ nó phía trên xe cứu hỏa của Tuker và đổ hết sỏi lên nó.

    “Này!” Tuker hét lên phẫn nộ, đẩy em trai mình, Cate bước lại ngay trước khi một cuộc chiến có thể nổ ra.

    “Tanner, đó không phải một chuyện hay để làm. Tucker, con không nên đẩy em mình thế. Tắt còi báo động đi. Cả hai con đưa mẹ đồ chơi nào. Chúng sẽ ở phòng mẹ; các con không được chơi chúng cho tới mai.”

    Tucker mở miệng định phản đối, nhìn thấy lông mày cô nhướn lên cảnh báo, đành khôn ngoan nói với Tanner, “Anh in ỗi đã đẩy em.”

    Tanner cũng nhìn vào cô, như anh trai mình quyết định rằng sau hình phạt buổi sáng, nó không nên đẩy đi may mắn vào chiều nay. “Em xin lỗi đã đổ lên anh,” nó nói đầy cao thượng.

    Cate kẹp chặt hai hàm răng với nhau ngăn một tiếng cười bùng nổ, ánh mắt cô bắt gặp ánh mắt mẹ mình. Sheila tròn xoe mắt, bà bụm một bàn tay lên miệng; bà biết rất rõ rằng có nhiều lần một bà mẹ Phải Không Được Cười. Một tiếng khụt khịt thoát ra, bà nhanh chóng kìm nó lại khi đứng lên ôm con gái mình.

    “Mẹ không thể chờ để kể với cha con chuyện này,” bà nói.

    “Con ước cha có thể đi cùng mẹ.”

    “Có lẽ lần tới. Nếu con không thể tới vào lễ Tạ ơn, ông ấy chắc chắn sẽ đi cùng mẹ.”

    “Patrick và Andie thế nào ạ?”

    Patrick là em trai cô, còn Andie – Andria – là vợ cậu ấy. Sheila mở cửa sau xe Jeep và họ bắt đầu lôi hành lý ra.

    “Mẹ đã nói với chúng, chúng ta sẽ ở đây vào lễ Tạ ơn. Tất nhiên, nếu chúng ta được chào đón. Nếu các phòng trọ của con được đặt hết, kế hoạch đó sẽ đi tong.”

    “Con có hai phòng đặt trước cho cuối tuần, nhưng vẫn còn lại ba phòng ngủ mà, nên không thành vấn đề. Con thích thế, nếu Patrick và Andie có thể đến nữa.”

    “Mẹ nó sẽ ném ra một cơn giận dữ nếu Andie đến đây thay vì tham dự lễ Tạ ơn tại nhà bà ta,” Sheila nói chua cay. Bà yêu cô con dâu rất nhiều, nhưng mẹ Andie lại là chuyện khác.

    “Chúng con muốn giúp,” Tucker nói, kéo mạnh một cái va li.

    Vì cái va li nặng hơn nó, Cate lôi ra một túi xách tay, nó nặng đáng ngạc nhiên.

    “Đây, hai con bê túi này. Nó nặng đấy, nên hãy cẩn thận.”

    “Chúng con tự làm được,” nó nói, và chúng tỏ ra cương quyết khi mỗi đứa cầm một quai xách và lẩm bẩm khi chúng nâng cái túi.

    “Xem nào? các cháu khỏe quá,” mẹ cô nói, và bộ ngực bé nhỏ của chúng phì phò.

    “Đàn ông,” Cate thì thầm dưới hơi thở. “Họ thật thoải mái.”

    “Khi họ không gặp khó khăn,” Sheila thêm vào.

    Khi họ trèo lên hai bậc cấp tới hiên nhà, Cate nhìn quanh. Ông Layton vẫn chưa quay về. Cô không muốn tính thêm một đêm vào thẻ tín dụng của ông; vì cô không có khách nào khác cho tới ngày mai nên ông không gây ra vấn đề gì nếu không trả phòng lúc mười một giờ, nhưng cô thấy khó chịu. Nếu ông quay về sau khi cô khóa cửa đi ngủ thì sao? Cô không đưa chìa khóa cho khách, nên hoặc ông ta phải đánh thức cô – có lẽ cả hai cậu bé, cũng như mẹ cô – hoặc chết tiệt trèo vào qua cửa sổ theo cùng cách ông đã trèo ra ngoài. Trừ khi cô đóng cửa và khóa lại, nên không có khả năng đó. Nếu ông ta làm phiền họ sau khi họ lên giường, cô nghĩ, chắc chắn cô sẽ tính thêm một đêm vào thẻ tín dụng của ông. Bên cạnh đó, nơi nào khác ông ta sẽ nằm ngủ được nhỉ?

    “Chuyện gì thế?” Sheila hỏi, chú ý tới biểu hiện của cô.

    “Một vị khách rời đi sáng nay và vẫn chưa quay về trả phòng.” Cô hạ thấp giọng để hai cậu bé không nghe thấy nảy ra vài ý tưởng. “Ông ta trèo qua cửa sổ.”

    “Trốn không thanh toán hóa đơn ư?”

    “Con có số thẻ tín dụng của ông ta nên ông ta không thế đâu. Và ông ta để lại mọi thứ ở đây.”

    “Thật lạ đấy. Và ông ta không gọi về chứ? Đó là điều không thể, vì điện thoại di động đâu hoạt động ở đây được.”

    “Có nhiều bốt điện thoại,” Cate nói mệt mỏi. “Nhưng, không, ông ấy không gọi về.”

    “Nếu ông ta không về đây ngày mai,” Sheila nói khi bà theo hai cậu bé vào trong, “đóng gói đồ đạc của ông ta và bán nó trên eBay ấy.”

    Bây giờ, đó là một ý tưởng, mặc dù cô có lẽ nên cho ông ấy nhiều hơn một ngày để đòi lại đồ đạc của mình.

    Khách hàng đã làm nhiều yêu cầu lạ đời trước đây, nhưng giờ là lần đầu tiên, có một người bỏ đi - ồ, lái đi – mà để lại mọi thứ phía sau. Cô cảm thấy hơi bất an, và băn khoăn có nên gọi điện báo cho cảnh sát bang. Nếu ông ta gặp một tai nạn đâu đó, lái xe chệch đường chẳng hạn? Nhưng cô đâu biết nơi ông ta có thể đi, ngay cả chỉ có một lối đi ra, có một ngã tư cách đây hai mươi dặm nên ông ta có thể rẽ theo bất cứ hướng nào. Hơn nữa, ông ta đã trèo qua cửa sổ như thể ông ta đang lén lút. Sự vắng mặt của ông ta là cố ý, không có gì nhầm lẫn với ông ta cả.

    Cô có số điện thoại của ông trên bảng đăng kí ông ta điền vào khi nhận phòng. Nếu ông ta không quay lại vào sáng mai, cô sẽ gọi nó.

    Khi chuyện này được giải quyết, cô sẽ thẳng thắn nói với ông ta rằng ông sẽ không được lưu lại chỗ cô một lần nữa. Quý ông Layton bí ẩn hay điên khùng này thật quá nhiều rắc rối.
     
    Chỉnh sửa cuối: 22/6/15
  11. Violet Nguyen

    Violet Nguyen Mầm non

    Cảm ơn @halucky nhiều!!! Mà bạn ơi, bạn có bản tiếng Anh không cho mình với :):D
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    halucky thích bài này.
  12. Breeze

    Breeze Mầm non

    Chào @halucky, chị luôn ủng hộ @halucky hết mình, chị vẫn thích truyện của Linda Howard nhưng nói chung chị thích những truyện có Happy Ending. Truyện của Bà viết về tình cảm, tâm lý và những khó khăn của con người rất thực, nhưng luôn luôn có kết cuộc vui vẻ, hạnh phúc sau khi trải qua bao sóng gió, thăng trầm. Nó khiến ta cảm thấy được sống là một điều may mắn nhất mà con người có được. Chị vẫn mong chờ được đọc các phần tiếp theo của truyện, cố lên em nhé.
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    hongdkh and halucky like this.
  13. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 3 (halucky)

    CATE DẬY LÚC NĂM GIỜ SÁNG CHUẨN BỊ SỬA SOẠN CHO NGÀY MỚI. Việc đầu tiên cô làm là nhìn qua cửa sổ bên cạnh ra bãi đậu xe phía dưới, xem có phải ông Layton đã quay về trong đêm và đang ngủ trong xe ô tô, vì cô không bị đánh thức bởi bất cứ tiếng đập thình thịch nào ở cửa trước. Phương tiện duy nhất ở đó là chiếc Ford Explorer màu đỏ của cô và chiếc xe thuê của mẹ cô, nghĩa là ông Layton vẫn chưa xuất hiện. Gã đàn ông này nổ tung ở phương trời nào cơ chứ? Ít nhất ông ta phải làm là gọi về và nói với cô… gì đó như: khi ông ấy quay lại hoặc không, thì làm gì với đồ đạc của ông.

    Bực mình, cô quyết định sẽ đóng gói mọi thứ của ông ta và tính cho ông một đêm thứ hai vì gây ra rắc rối cho cô. Làm như cô có nhiều thời gian rảnh cho ngày hôm nay – hay ngày nào khác ấy.

    Đầu tiên cô bắt đầu với cà phê, chuẩn bị sẵn sàng cho dòng khách hàng buổi sáng. Ngôi nhà lớn im lặng ngoại trừ tiếng tích tắc của đồng hồ quả lắc ở hành lang, dù có nhiều việc phải làm, cô rất trân trọng sự bình yên của những giờ phút buổi sớm khi cô là người duy nhất tỉnh giấc, lúc cô chỉ có một mình. Chỉ thời gian này giúp cô có cơ hội suy nghĩ mà không bị liên tục gián đoạn bởi bọn trẻ và những khách hàng; cô có thể tự vấn bản thân, nghe nhạc trong khi làm việc nếu muốn. Sherry sẽ đến ngay trước bảy giờ, còn gần như đến bảy rưỡi cặp sinh đôi sẽ chạy như ngựa xuống cầu thang, đói ngấu như những chú gấu thức tỉnh sau giấc ngủ đông, với hai giờ này, cô có thể dành lấy chút thời gian cho người phụ nữ Cate. Cô thậm chí dậy sớm hơn một ít so với cô thực sự cần nên cô không vội vã mà còn có thêm vài phút để thưởng thức.

    Thỉnh thoảng, cô tự hỏi liệu Derek có đồng ý với quyết định của cô chuyển tới Trail Stop không.

    Anh thực sự đã thích vùng đất, cắm trại như một du khách, nhưng không phải một cư dân. Và cả hai đều say mê B&B này khi họ lưu lại đây. Những ký ức về quãng thời gian đẹp họ từng có – những chuyến leo núi nguy hiểm, đốt cháy cơ bắp suốt cả ngày, rồi quay về đây vừa kiệt sức vừa hồ hởi, ngã vào chiếc giường mềm mại, chỉ để khám phá ra rằng họ không kiệt sức tí nào – đã chắc chắn ảnh hưởng tới cô khi cô tìm kiếm nơi nào đó đắt đỏ ít hơn so với Seatle để sống.

    Cô cảm giác được gần với Derek ở nơi đây. Chính ở đây, họ chỉ biết tới hạnh phúc. Trong khi cô cũng hạnh phúc với anh ở Seattle, đó lại là nơi anh ra đi và nó giữ liên hệ với một loạt người ảm đảm với những ngày kinh khủng cuối cùng ấy. Đôi khi, lúc còn sống ở đó, những kỉ niệm áp đảo cô, khiến cô cảm thấy như thể mình lại sống trong cơn ác mộng một lần nữa.

    Con đường này cô lái tới bệnh viện. Có nơi cô dừng lại lấy quần áo giặt khô cho anh, không bao giờ mơ mình nhặt được chiếc áo vét mà anh vùi vào đó. Đây là nơi cô mua cái váy cô mặc tới lễ tang, cái váy mà cô đã ném nó vào thùng rác ngay khi cởi bỏ, nức nở, chửi rủa và cố gắng xé toạc bộ đồ trong căm thù từ cổ tới gấu váy. Giường của họ là nơi anh nằm, vật vã trong cơn sốt, trước khi anh trở nên yếu hơn và đồng ý để cô đưa mình tới phòng cấp cứu – và đó là lúc quá muộn. Sau khi anh mất, cô không bao giờ ngủ trong chiếc giường đó lần nào nữa.

    Những ký ức, cũng như vấn đề tài chính không giới hạn, lái cô trở về Seattle. Cô nhớ thành phố, cô nhớ những lễ hội văn hóa, sự náo nhiệt và những nét đặc sắc, eo biển Puget và những con tàu. Gia đình cô ở đó và những người bạn. Nhưng vào lần quay lại viếng thăm đầu tiên, cô đã dành rất nhiều thời gian ở lại nơi này của Trail Stop, dọn dẹp căn nhà, để bản thân và hai cậu bé ổn định, cố gắng phát triển kinh doanh theo từng ý tưởng cô nghĩ tới, bằng cách nào đó cô đã trở thành một phần nơi đây hơn ở đó. Cô là một vị khách của thành phố quê hương mình, và nhà cô là … nơi đây.

    Với hai đứa trẻ, tất nhiên, đây luôn luôn là nhà. Chúng chuyển đến đây khi còn quá nhỏ nên chúng không có những kí ức về cuộc sống ở bất cứ nơi nào khác. Khi chúng lớn lên và B&B – làm ơn, Chúa ơi! – thành công hơn, cô ý định đưa chúng tới thăm cha mẹ mình thường xuyên hơn thay vì thăm thú nơi nào khác quanh đây. Trong khi ở Seattle, cô có thể đưa chúng đi xem hòa nhạc, chơi bóng, xem kịch, tới viện bảo tàng, làm đầy thêm những trải nghiệm để chúng biết rằng còn nhiều thứ trong cuộc sống hơn cái cộng đồng nhỏ bé xa tít mù tắp này.

    Cô không bỏ qua những mặt tốt đẹp của cuộc sống nơi đây. Nơi này quá nhỏ đến nỗi mọi người đều quen biết lẫn nhau, bọn trẻ được chơi an toàn bên ngoài trong khi cô có thể trông chừng qua cửa sổ. Mọi người đều biết cô và hai cậu bé – biết nơi họ ở, sẽ không ngần ngại đưa chúng về nhà nếu chúng được nhìn thấy đi lang thang quá xa ngôi nhà. Mọi ngày của họ bao gồm một trong những việc lặt vặt – thu gọn đồ chơi vào cuối ngày – hàng giờ chơi đùa với nhau, kết thúc với một mẩu truyện ngắn, lặp lại bài học về những chữ cái, con số và màu sắc hay vài từ ngắn chúng có thể đọc. Tắm lúc bảy rưỡi, lên giường lúc tám giờ, và khi cô đắp chăn quanh chúng, cô nhận thấy cả hai đứa trẻ đều thấm mệt, nhưng bằng lòng và tuyệt đối an toàn. Cô làm việc chăm chỉ để đem lại cho chúng sự che chở và được hạnh phúc, ngay lúc này, chúng có mọi thứ chúng muốn.

    Một điểm cộng lớn khác của cuộc sống nơi đây là vẻ đẹp xung quanh cô. Phong cảnh hùng vĩ và đầy cảm hứng, hầu như không tin nổi độ gồ ghề, lởm chởm. Trail Stop, đúng là, điểm cuối của đường mòn. Nếu muốn đi tới nơi nào đó xa hơn, bạn phải đi bộ, và nó không hề dễ dàng đâu.

    Trail Stop nằm trên một mũi đất nhỏ nhô lên từ đáy thung lũng dốc, giống như một cái đe. Về phía bên phải, một dòng sông đổ vào, rộng, đóng băng và nguy hiểm, với những ngọn núi đá sắc nhọn, lởm chởm mọc lên bên trên bụi nước. Ngay cả những người chèo thuyền vượt thác cũng không cố thử sức những thác ghềnh ở đây; họ bắt đầu cuộc phiêu lưu của mình khoảng mười lăm dặm phía dưới hạ lưu. Cả hai bên đều hướng lên dãy núi Bitterrood và mặt thẳng đứng của dốc đá nơi cô và Derek đã leo lên, hoặc ráng sức leo lên rồi đành bỏ cuộc khi quá khó so với trình độ chuyên môn của cả hai người.

    Trail Stop về cơ bản là một cái hộp, với một hòn sỏi chất lên liên kết nó với phần còn lại của thế giới. Vị trí địa lý đặc biệt bảo vệ họ khỏi những trận tuyết lở, nhưng thỉnh thoảng trong suốt mùa đông cô nghe thấy những tiếng ầm ầm của tuyết đổ sụp và xô xuống những sườn núi dốc, khiến cô rùng mình phản ứng. Cuộc sống nơi đây bị gây phiền phức, nhưng sự bất tiện và thiếu thốn những dịp may văn hóa được bù đắp bằng hơi thở của vẻ đẹp tự nhiên xung quanh họ. Cô đánh mất cơ hội được ở gần gia đình mình, nhưng túi tiền của cô lại đầy thêm ở đây. Có lẽ cô không có quyết định tốt nhất, nhưng nhìn chung cô hài lòng với lựa chọn của mình.

    Mẹ cô ngáp dài bước vào nhà bếp, không nói một lời, lại gần tủ bếp tìm được một chiếc cốc rồi quay ra, sang phòng ăn rót cà phê. Cate liếc đồng hồ và thở dài. Năm giờ bốn lăm; hai giờ yên tĩnh sáng nay của cô đã bị cắt ngắn, nhưng đổi lại cô có chút thời gian với mẹ mình mà không bị hai cậu bé kêu gọi sự chú ý tới Mimi của chúng. Và, đây, là một sự cân bằng. Cô nhớ mẹ mình, ước gì họ gặp gỡ nhau thường xuyên hơn.

    Khuôn mặt bà gần như vùi trong cốc cà phê, Sheila quay trở lại nhà bếp và, với một tiếng thở dài, ngồi xuống cạnh chiếc bàn. Bà không phải người ưa dậy sớm, nên Cate ngờ rằng bà đã đặt chuông hẹn giờ để có chút thời gian mẹ và con gái trước khi cặp sinh đôi thức giấc.

    “Loại bánh xốp nào hôm nay vậy?” Sheila cuối cùng hỏi trong một tông giọng khàn khàn.

    “Bơ táo,” Cate trả lời, mỉm cười. “Con tìm thấy công thức trên mạng.”

    “Đánh cược là con không tìm thấy bơ táo ở cái cửa hàng nhỏ duyên dáng bên đường đó.”

    “Không có, con đặt hàng online từ một nơi ở Sevierville, Tennessee.”

    Cate lờ đi lời chỉ trích bởi vì, trước hết, nó là sự thật, và thứ đến, cô biết rằng ngay cả nếu cô có chuyển tới thành phố New York, mẹ cô cũng sẽ tìm ra điều gì đó sai trái ở đó, vì vấn đề cốt lõi là bà muốn con gái và cháu ngoại mình sống gần bên.

    “Tanner nói chuyện nhiều hơn,” Sheila quan sát một lúc sau đó, đẩy lọn tóc ra khỏi mặt mình. Bà là một phụ nữ rất đẹp, Cate thường ước chi mình thừa hưởng những nét đẹp của bà thay vì một mớ lộn xộn cô đang mang.

    “Khi nó muốn. Con nhận thấy rằng nếu nó chùn lại thì chỉ mình Tucker có thể là người chịu rắc rối.”

    Cười toe toét, cô kể lại câu chuyện về những dụng cụ của ông Harris, và Tanner bằng cách nào đó tính được phép toán đơn giản nên nó biết rằng mình chỉ còn lại tám phút ngồi trong ghế hư đốn.

    Mẹ cô cười vang, biểu hiện của bà hoàn toàn tự hào.

    “Mẹ đã đọc rằng Einstein không nói được cho tới tận sáu tuổi, hay gì đó đại loại thế. Có lẽ mẹ nhầm lẫn vì tuổi tác.”

    “Con không cho rằng nó là Einstein kế tiếp đâu.“

    Cate tập trung vào sức khỏe và hạnh phúc. Cô không kỳ vọng vào con trai mình; đưa ra những tiêu chuẩn, có, nhưng kỳ vọng thì không.

    “Con không bao giờ khẳng định được.” Sheila càu nhàu. “Chúa tôi, mẹ không thể đối mặt với việc dậy sớm mỗi ngày. Thật dã man. Dù thế nào, con không thể nói một đứa trẻ sẽ thay đổi thế nào. Con vốn dĩ là một cô gái hoàn toàn tinh nghịch như con trai, luôn chơi trò bóng mềm và trèo cây, cộng với việc con còn tham gia vào câu lạc bộ leo núi, vậy mà giờ nhìn con xem: toàn bộ sự nghiệp của con là nội trợ. Con dọn dẹp, con nấu nướng, con phục vụ.”

    “Con đang điều hành một công việc kinh doanh,” Cate sửa lại. “Và con thích nấu nướng. Con rất giỏi việc đó.”

    Nấu nướng là, phần lớn nhất, một niềm vui. Cô không ngại chờ đợi phục vụ bàn cho khách, vì việc tiếp xúc mặt đối mặt giúp đưa họ lại gần nhau. Mặt khác, cô ghét dọn dẹp, nên phải buộc mình làm nó hàng ngày.

    “Không có điểm gì tranh luận ở đây.” Sheila ngập ngừng. “Con không nấu nướng nhiều khi Derek còn sống.”

    “Không ạ. Chúng con chia đều cho nhau, cộng với chúng con gọi điện mang tới. Và chúng con ăn ở ngoài rất nhiều, ít nhất là trước khi bọn trẻ được sinh ra.” Cẩn thận cô đổ sữa vào một cốc đo lường lớn, cúi xuống nhìn mức chia. “Nhưng sau khi anh ấy mất, hàng tối con ở nhà cùng chúng và thấy chán ngấy thức ăn nhanh mà mình vớ được, nên con mua vài quyển dạy nấu ăn, bắt đầu nấu nướng.”

    Thật khó để nhớ lại, thế mà đã cách đây ba năm; quá trình đong đo, nhào trộn như là bản năng thứ hai của cô, và giờ cô cảm thấy như thể muốn được nấu ăn mãi mãi. Những thử nghiệm ban đầu, khi cô cố gắng tất cả các loại món ăn kỳ lạ, cũng là cách giữ tâm trí mình bận rộn. Cô đã ném đi rất nhiều công sức chỉ để thấy rằng chúng không ăn được.

    “Hồi cha con và mẹ mới cưới nhau và con còn nhỏ, mẹ có thói quen nấu ăn mỗi tối. Chúng ta không có tiền ra ngoài ăn; một chiếc bánh burger ở cửa hàng đồ ăn nhanh là cái gì đó thật xa xỉ. Nhưng giờ mẹ không nấu nhiều nữa, mà mẹ không nhớ nó.”

    Cate nhìn mẹ mình. “Nhưng mẹ vẫn tổ chức những bữa ăn lớn trong dịp lễ Tạ ơn và Giáng sinh, mẹ luôn luôn nướng bánh sinh nhật mà.”

    Sheila nhún vai. “Truyền thống, gia đình; con biết mà. Mẹ yêu việc mọi người ở gần nhau, nhưng thành thật mà nói, mẹ chỉ mong càng sớm bỏ qua các bữa ăn lớn.”

    “Vậy tại sao con không nấu ăn cho chúng ta? Con thích thế, mẹ và cha có thể chơi cùng bọn trẻ, giữ chúng bận rộn.”

    Đôi mắt Sheila sáng ngời. “Con chắc mình không phiền chứ?”

    “Phiền ư?” Cate gửi cái nhìn dò xét sự tỉnh táo của bà. “Con chắc chắn về điều này. Mỗi ngày chúng tìm ra nhiều cách mới để lâm vào rắc rối.”

    “Chúng chỉ là trẻ con. Con chẳng là người ưa mạo hiểm là gì, còn mười năm đầu của Patrick gần như biến tóc mẹ bạc trắng – như lần nó đặt ‘quả bom’ đó trong phòng mình.”

    Cate cười lớn. Patrick đã quyết định những quả pháo không đủ ầm ĩ, hoặc không đủ mạnh, nên một dịp lễ mồng bốn tháng bảy, bằng cách nào đó cậu ấy thu thập được hơn một trăm quả. Với một con dao xoáy được từ nhà bếp, cậu cẩn thận mở tung từng quả, trút toàn bộ thuốc pháo vào một tờ giấy ăn. Khi cậu ấy có tất cả số thuốc pháo trong một cái ống, cậu hỏi xin một vỏ hộp thiếc, nghĩ rằng cậu có ý định làm một ‘điện thoại’ ống – dây, Sheila vui vẻ nhận lời.

    Cậu ấy đã đọc về loại súng trường kiểu cũ nạp đạn từ nòng súng, nên cậu hình dung quả bom của mình sẽ có cùng cơ chế hoạt động, ngoại trừ cậu không chắc chắn chính xác cho lắm nó dẫn tới đâu. Cậu nhồi giấy vệ sinh, viên sỏi bé tí và thuốc súng vào vỏ thiếc, rồi xoắn đoạn chỉ dài với nhau ngâm nó vào rượu xoa bóp làm ngòi nổ. Để giữ cho sàn nhà khỏi cháy, cậu đặt ‘quả bom’ của mình trên một cái thớt, khi xong, cậu úp ngược cái bình cũ nuôi cá của mình lên hộp, với một bên bình kênh lên một chút để sợi dây có thể luồn bên dưới miệng bình và vỏ hộp. Ý nghĩ của cậu là cái bình đó sẽ ngăn lại mọi thứ mà cậu vẫn có được tiếng nổ và ánh sáng lóe lên mà không phải dọn dẹp đống lộn xộn.

    Không nổ.

    Một điều tốt đẹp Patrick đã làm là lấy vải phủ giường phủ phía cuối giường mình sau khi châm ngòi.

    Rồi một tiếng nổ lớn, cái bình cá vỡ tan, mảnh vỡ và viên sỏi bay khắp phòng. Nắm giấy vệ sinh bắt lửa, bung ra thành nhiều mảnh nhỏ bốc cháy, lơ lửng rơi xuống tấm phủ giường, thảm sàn, thậm chí vào cả bên trong cánh cửa tủ quần áo của Patrick đang mở. Khi cha mẹ mở tung cửa phòng, cậu ấy đang bận rộn dập tắt những tia lửa trên tấm thảm và cố gắng thổi tắt ngọn lửa nhỏ đẹp đẽ đang lan rộng trên ga giường của mình bằng cách nhổ nước bọt vào đó.

    Nó không hài hước lắm ở thời điểm ấy, nhưng bây giờ Cate và Sheila nhìn nhau và cười phá lên.

    “Con e đó là thứ con phải trông đợi,” Cate nói, giằng xé giữa niềm vui và nỗi sợ hãi. “Gấp hai lần.”

    “Có thể không đâu,” Sheila nói, đôi chút nghi ngờ. “Nếu có tí công lý nào trên quả đất, Patrick sẽ có tới bốn đứa con giống nó. Mong muốn tha thiết nhất của mẹ là nó sẽ gọi điện cho mẹ vào giữa đêm vì con nó làm gì đó kinh khủng, và nức nở xin lỗi mẹ từ đáy lòng mình.”

    “Nhưng Andie đáng thương cũng sẽ đau khổ.”

    “Ồ, ta yêu Andie, nhưng đây là về công bằng. Nếu nó đau khổ, lương tâm mẹ sẽ chống đỡ gánh nặng.”

    Cate gật đầu, cười lớn hơn khi phun vào khuôn bánh xốp một loại bơ chống dính, rồi bắt đầu múc bột vào từng ô. Cô yêu mến mẹ mình; bà là người có ý chí mạnh mẽ, một chút nóng tính, và yêu gia đình mình đủ để phân tâm khi để con mình đi xa mà không có gì. Một phương châm Cate hoàn toàn ý định áp dụng lên cặp sinh đôi khi chúng lớn hơn là một lần cô nghe mẹ cô mắng Patrick sau khi nghe nó rên rỉ một tiếng đồng hồ vì phải cắt cỏ: “Con có nghĩ rằng ta mang con chín tháng rồi đau đớn trải qua ba mươi sáu giờ quằn quại đưa con tới thế giới này để con có thể ngồi trên cái mông mình?Ra ngoài kia và cắt cỏ ngay! Đó là thứ ta có cho con!”

    Đúng là thiên tài.

    Sau một thoáng do dự khác, Sheila lên tiếng, “Có vài thứ mẹ muốn nói với con, để con suy nghĩ về nó trong khi mẹ ở đây.”

    Nghe có vẻ đáng ngại đây. Mẹ cô trông chẳng bình thường. Cate cảm giác bụng quặn thắt lại.

    “Có gì không ổn, mẹ à? Cha ốm ư? Hay mẹ ốm? Ôi, Chúa tôi, mẹ không có ý ly dị đấy chứ?”

    Sheila nhìn chằm chằm vào cô, đôi mắt mở to, rồi tông giọng sợ hãi, “Lạy Chúa, tôi vừa kích động một kẻ bi quan.”

    Má Cate ửng đỏ. “Con không phải người bi quan, nhưng cách mẹ nói, như thể gì đó sai--“

    “Không gì sai sót hết, mẹ hứa.” Bà nhắp một ngụm cà phê. “Chỉ là cha con và mẹ muốn bọn trẻ về thăm mình, vì ông ấy chưa gặp chúng kể từ dịp Giáng sinh. Bây giờ chúng đủ lớn rồi, con không nghĩ thế sao?”

    Cate tròn mắt nhìn bà. “Mẹ làm thế có mục đích.”

    “Làm mục đích gì?”

    “Khiến con nghĩ rằng vài thứ tồi tệ là sai lầm” – cô giơ bàn tay lên ngăn lời phản đối của bà – “không phải những gì mẹ nói mà là cách mẹ nói và biểu hiện của mẹ. Nên, bằng cách so sánh tất cả những thứ kinh khủng với nhau, ý tưởng bọn trẻ về nhà với mẹ có vẻ không quan trọng. Vô ích. Mẹ à, con biết mẹ hành động thế nào. Con đã chú ý, vì con có ý định dùng cùng mưu mẹo đó với hai đứa trẻ.”

    Cô nghỉ lấy hơi. “Nó không cần thiết. Con dứt khoát phản đối ý tưởng đó. Con không ngu ngốc, mặc dù, con sẽ nghĩ về nó. Mẹ dự định trong bao lâu?”

    “Hai tuần có vẻ hợp lý, xem xét tới việc chuyến đi khó khăn thế nào.”

    Hãy để màn thương lượng bắt đầu. Cate cũng nhận ra thủ đoạn đó. Sheila có khả năng muốn một tuần ở cùng bọn trẻ, và chắc chắn rằng mình sẽ có nó. Bà đang đòi hỏi gấp hai lần thời gian đó. Có thể sẽ dạy cho bà một bài học nếu Cate ngọt ngào đồng ý với hai tuần. Mười bốn ngày lơ là kiểm soát cặp sinh đôi bốn tuổi nghịch ngợm có thể hạ gục ngay cả người dai sức nhất.

    “Con sẽ suy nghĩ chuyện này,” cô nói, từ chối kéo dài thành một cuộc thảo luận về độ dài chuyến thăm viếng khi mà cô còn chưa đồng ý để bọn trẻ đi. Nếu cô không cảnh giác, Sheila sẽ buộc cô vào những chi tiết mà bọn trẻ đã ở Seattle trước khi Cate nhận ra mình chưa hề nói “đồng ý.”

    “Tất nhiên, cha con và mẹ sẽ chi trả tiền vé máy bay cho chúng,” Sheila tiếp tục thuyết phục.

    “Con sẽ nghĩ về nó,” Cate lặp lại.

    “Con cần một chút nghỉ ngơi, chỉ cho riêng con. Chăm nom nơi này và hai tên nhỏ quậy phá không dành cho bản thân con nhiều thời gian để nghỉ ngơi. Con có thể đi làm tóc, sơn sửa móng tay… “

    “Con sẽ nghĩ về nó.”

    Sheila gắt gỏng thở ra. “Chúng tôi thực sự cần được cho phép đấy.”

    “Còn rất nhiều thời gian cho chuyện đó sau này mà… khi con quyết định chúng có thể đi. Mẹ có thể từ bỏ cũng được, vì con không tự hứa cho tới khi suy nghĩ về nó nhiều hơn hai phút mẹ vừa cho con.”

    Tuy vậy, chỉ trong một giây, cô đã tha thiết tơ tưởng đến salon tóc ở Seattle mà cô từng đến. Đã rất lâu cô không đi làm tóc nên nó có phong cách không thể nhận biết được. Hôm nay, mái tóc nâu gợn sóng của cô đơn giản được kéo ra sau, buộc lại bằng chiếc cặp đồi mồi sau gáy. Móng tay cô cắt ngắn và để không, vì đó là cách thiết thực nhất cô giữ chúng trong bao nhiêu lần vùi tay trong bột, và cô không nhớ lần cuối cùng mình sơn móng chân. Lần trải chuốt đặc biệt duy nhất cô có trong những ngày gần đây là giữ cho lông chân và nách mình được cạo, cô làm thế vì - ồ, vì tất cả chỉ lấy thêm của cô ba phút bên dưới vòi hoa sen.

    Hai cậu bé quá háo hức về sự có mặt của bà ngoại đến nỗi chúng chạy ầm ầm như sấm xuống gác trong bộ đồ ngủ sớm hơn nửa giờ so với ngày thường. Sherry vừa mới tới, ba vị khách theo sau bà bước vào, Cate vui vẻ buông bọn trẻ, để mẹ cô chơi đùa và cho chúng ăn sáng. Bữa sáng của cô là một trong những chiếc bánh xốp nướng, cô cắn qua loa khi có cơ hội.

    Đó là một ngày đẹp trời, không khí đầu tháng Chín thật trong lành và sảng khoái, nên dường như hầu hết cư dân ở Trail Stop đến vào sáng đó. Thậm chí Neenah Dase, một nữ tu trước đây người mà, vì nhiều lý do cá nhân, đã từ bỏ luật dòng tu của mình và giờ đây sở hữu và điều hành cửa hàng thực phẩm nhỏ - có nghĩa bà là bà chủ phòng trọ của ông Harris, vì ông ấy sống trong một căn phòng bé xíu phía trên cửa hàng – đến mua một chiếc bánh xốp. Neenah là một phụ nữ kín đáo, điềm tĩnh, một trong những người ưa thích của Cate ở Trail Stop. Họ không thường xuyên tán chuyện, nhưng sáng nay lại khác, vì mỗi người bọn họ đều có công việc riêng. Với một cái vẫy và lời chào hỏi vui vẻ, Neenah ra khỏi cửa và rời đi.

    Chỉ một vài chuyện, mà đã quá một giờ trước khi Cate có cơ hội lên gác. Mẹ cô vẫn giữ bọn trẻ bận rộn nên Cate chuẩn bị sẵn sàng đón khách đến vào chiều đó. Ông Layton vẫn chưa quay về cũng như không gọi điện, nên giờ cô thấy lo lắng cũng nhiều như khó chịu. Ông có gặp tai nạn không? Con đường rải đá dăm có thể nguy hiểm nếu một người lái xe thiếu kinh nghiệm lái vòng quanh núi quá nhanh. Ông ta đã đi hai mươi tư giờ mà không một lời nhắn.

    Cô đưa ra một quyết định nhanh chóng, đi về phòng ngủ, nơi cô gọi điện tới văn phòng cảnh sát trưởng của hạt, sau một lúc giữ máy, cuộc gọi được chuyển tới một điều tra viên.

    “Đây là Cate Nightingale ở Trail Stop. Tôi làm chủ một B&B ở đây, một vị khách của tôi rời đi sáng qua và vẫn chưa quay về. Tất cả đồ đạc của ông ấy còn ở lại.”

    “Bà có biết nơi ông ấy đi không?” điều tra viên của hạt hỏi.

    “Không.” Cô nghĩ lại buổi sáng trước, khi cô nhìn thấy ông bước xuống từ cửa phòng ăn. “Ông ấy rời đi đâu đó giữa lúc tám và chín giờ. Tôi không nói chuyện với ông ấy. Ông ấy không hề gọi về, ông ấy phải trả phòng vào sáng qua. Tôi lo ông ấy gặp tai nạn.”

    Điều tra viên ghi chép tên ông Layton và vài lời mô tả, khi ông hỏi về biển số xe, Cate đi xuống gác vào văn phòng mình, lôi ra tập giấy tờ. Điều tra viên, giống như cô, cho rằng ông Layton có thể gặp tai nạn nên nói rằng đầu tiên ông sẽ kiểm tra bệnh viện địa phương rồi quay về chỗ cô sau, vào chiều hôm đấy.

    Cô hài lòng với việc đã làm, leo lại lên gác, vào phòng ông Layton và nhìn quanh, xem ông có để lại bất kỳ manh mối nào dẫn tới nơi ông đã đến không. Nóc tủ nhiều ngăn trong phòng số 3 trống không, ngoại trừ vài đồng tiền lẻ nằm rải rác dọc theo bề mặt bóng láng. Một sự xáo trộn của quần áo đang treo trong tủ đồ, cái va li để mở trên kệ hành lý lộ ra đồ lót và bít tất, một cái túi ni lông nhỏ mua hàng từ Wal-Mart buộc thắt nút, một lọ aspirin và một cà vạt lụa cuộn lại. Cô muốn nhìn vào túi mua hàng nhưng sợ điều tra viên của hạt không chấp thuận. Chuyện gì nếu ông Layton là nạn nhân của một tội ác? Cate không muốn để lại dấu vân tay của mình trên đồ đạc của ông ấy.

    Trong phòng tắm nhỏ, một dao cạo dùng một lần và một hộp kem cạo râu nằm trên mép chậu rửa, một hộp lăn khử mùi nằm cạnh vòi nước lạnh. Một cái túi da Dopp Kit để mở đặt phía sau toa lét, và bên trong cô có thể nhìn thấy một cái lược, một bàn chải đánh răng, một tuýp kem đánh răng, cũng như vài miếng băng sơ cứu bị bung ra.

    Chẳng có thứ gì giá trị cô nhìn thấy, nhưng mọi người có xu hướng giữ lấy đồ dùng của mình. Nếu để tất cả thứ này lại, chắc chắn ông ta có ý định quay về. Mặt khác, ông ta đã trèo qua cửa sổ, với cả thế giới thì ông ta đang trốn đi thay vì đơn giản là rời khỏi.

    Có lẽ chuyện là thế. Có lẽ ông ta đơn giản là dở hơi. Có lẽ ông ta chạy trốn.

    Câu hỏi đặt ra là: vì cái gì? Hoặc khỏi ai?
     
    Chỉnh sửa cuối: 22/6/15
  14. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 4 (halucky)

    CÂN NHẮC BẢN THÂN YUELL FAULKER, đầu tiên và trước hết, là một kẻ làm ăn. Hắn ta kiếm tiền hiệu quả vì hắn thu hút được khách hàng nhờ truyền miệng, hắn đủ khả năng giải quyết một tình thế xấu. Danh tiếng của hắn trên đường phố là cách hắn kiếm việc làm… bất kể ‘công việc’ là gì, hiệu quả mà không ồn ào.

    Nhiều việc hắn từ chối thẳng thừng, vì nhiều lý do. Số một trong danh sách là hắn không nhận bất cứ việc gì mà có nguy cơ cao là dẫn nhân viên FBI leo xuống với hắn. Điều đó có nghĩa hầu như hắn giữ mình tránh xa chính trị, cố gắng không bao giờ làm gì đó có nguy cơ cao trở thành tin tức quốc gia. Thủ đoạn thực sự là làm một việc đáng đưa lên mặt báo nhưng kéo nó đi xa khéo léo tới mức nó được đánh lạc hướng như một vụ tai nạn.

    Với mánh khóe đó trong đầu, điều trước tiên hắn làm khi nhận một lời đề nghị là nghiên cứu nó tỉ mỉ. Đôi khi nhiều khách hàng không hoàn toàn trung thực khi trình bày về công việc – một sự võ đoán. Nó không phải như thể hắn đối phó với những người chân thực. Nên hắn luôn luôn kiểm tra lại thông tin mà mình nhận được, rồi mới quyết định có hay không nhận việc. Hắn cố gắng không bao giờ cho cái tôi tham gia vào quyết định, không bao giờ để sự dồn nén của chất adrenaline trong một tình huống khó khăn ảnh hưởng đến mình. Yeah, hắn có thể nhận tất cả những công việc nguy hiểm và đục một lỗ vào sọ của mình lắm chứ, cần phải tập hợp kỹ năng chống lại tỷ lệ đặt cược, nhưng lý do mà các sòng bài ở Vegas không vỡ nợ dù tỷ lệ cược cao là cú sút xa thường không trúng đích. Hắn không kinh doanh để thỏa mãn cái tôi của mình; hắn kinh doanh để kiếm tiền.

    Hắn cũng muốn còn sống.

    Khi bước vào văn phòng của Salazar Bandini, hắn biết mình phải nhận công việc này, không quan trọng nó là gì, hắn sẽ không thoát khỏi.

    Hắn biết về Salazar Bandini, rõ như bất kỳ ai khác hắn biết. Yuell biết đó không phải tên thật của gã, nhưng từ nơi hắn ở trước khi tới với cảnh đường phố Chicago và lựa chọn một nghề, cái tên đó đã ở trên cao trong không khí. Bandini không phải một tên Ý, Salazar cũng vậy. Và gã đàn ông đang ngồi phía sau cái bàn nhìn có vẻ người Sla-vơ hay Đức. Chết tiệt, thậm chí có thể là người Nga, với đôi gò má rộng và xương gờ lông mày nhô cao. Bandini có mái tóc nhạt màu, với độ dày cho phép nhìn xuyên qua tới da đầu màu hồng, và đôi mắt nâu vô hồn như của cá mập.

    Bandini dựa vào ghế mình, không thèm mời Yuell ngồi xuống.

    “Giá của anh rất đắt,” gã nhận xét. “Anh có cho rằng mình nông nổi.”

    Chẳng có gì để bàn luận về điều này, vì đó là sự thật. Và bất cứ Bandini muốn gì, gã muốn nó tồi tệ, nếu không gã không phải triệu tập Yuell qua những chướng ngại vật, cả con người cũng như phương tiện điện tử, thứ vây đầy quanh gã. Trên cơ sở đó, Yuell phải giả định giá của mình không quá cao; thực tế, có lẽ hắn nên tăng phí của mình.

    Sau một phút dài Yeull chờ đợi cho Bandini nói với mình tại sao dịch vụ của hắn được cần tới, còn Bandini đợi Yuell phản bội lại từng dấu hiệu của dây thần kinh – điều không bao giờ xảy ra – Bandini đành nói, “Ngồi đi.”

    Thay vào đó, Yuell nghiêng người trên mặt bàn, cầm lấy chiếc bút đắt tiền nằm cạnh điện thoại, rồi tìm một mẩu giấy. Mặt bàn rộng bóng láng trống không. Hắn nhướn lông mày với Bandini, rồi không biểu hiện, gã đàn ông kia mở ngăn kéo, lôi ra một tập giấy nhắn, gã đẩy qua cho Yuell.

    Yuell xé một tờ giấy, đẩy trả lại Bandini tập giấy nhắn. Trên tờ giấy đơn Yuell ghi: Căn phòng được quét bọ chưa?

    Hắn vẫn chưa nói một lời nào, chưa xác nhận danh tính, nhưng thận trọng là một việc tốt. FBI ít nhất có cố gắng luồn một sợi dây ở đây, cũng như nghe lén điện thoại. Ai đó có thể được cắm ở một chỗ dọc trên phố với một micorphone parabol siêu nhạy hướng về cửa sổ lắm chứ. Khoảng thời gian mà FBI cần phụ thuộc vào độ rộng của Bandini lờ mờ trên radar của họ. Với những gì họ nghe thấy, ngay cả chỉ một nửa những thứ được kể trên đường phố, thì Bandini có kích cỡ của một tàu sân bay.

    “Sáng nay,” Bandini trả lời, trông rõ ràng thích thú. “Chính tôi.”

    Thế nghĩa là mặc dù Bandini có một đống tay chân, những người có thể làm được việc lặt vặt, gã không tin bất cứ ai trong đó không phản bội mình.

    Một gã khôn ngoan.

    Yuell trả lại cái bút vào khe của nó, gấp lại tờ giấy, đút vào túi áo khoác rồi ngồi xuống.

    “Anh là một người thận trọng,” Bandini quan sát, ánh mắt chăm chăm. “Anh không tin tôi?”

    Hẳn là một trò đùa, Yuell nghĩ.

    “Tôi thậm chí còn không tin mình. Tại sao tôi nên tin ông?”

    Bandini cười, một âm thanh chói tai nhưng không hề hài hước.

    “Tôi cho là mình thích anh.”

    Chuyện đó được cho là tạo nên ngày của hắn? Yuell ngồi im lặng, chờ đợi Bandini xem xét hắn và đi vào vấn đề.

    Không ai nhìn vào Yuell lại liên tưởng tới công việc gác cổng hắn làm. Hắn dọn sạch sẽ mọi tình trạng hỗn độn, thứ còn lại trông tinh tươm như mới. Và hắn rất, rất giỏi việc.

    Ngoại hình hỗ trợ cho hắn. Mọi thứ ở hắn đều trung bình: chiều cao trung bình, cân nặng trung bình, khuôn mặt không nổi bật, tóc nâu, mắt nâu và tuổi tác mập mờ, khó xác định. Không ai để ý tới hắn khi hắn đến hoặc đi, ngay cả ai đó chú ý tới hắn, anh ta hay cô ta sẽ khó khăn đưa ra nhiều hơn một mô tả mơ hồ, thứ mà phù hợp với hàng triệu đàn ông khác. Không gì về sự xuất hiện của hắn đáng báo động, nên thật dễ dàng cho hắn gần gũi một người mà không bao giờ bị gắn thẻ.

    Bề ngoài, hắn là một điều tra ngầm – một kẻ rất đắt giá. Những bí quyết tỏ ra hữu ích khi hắn theo dõi ai đó. Hắn thậm chí thường xuyên nhận công việc theo dõi ngầm, điều mà thường bao gồm cả việc nhận hàng ở những đầu mối bịp bợm, nên giúp hắn quen thuộc với IRS (sở thuế vụ). Hắn kiểm soát từng đồng thu nhập phải nộp thuế. May mắn cho hắn, đa số công việc hắn nhận, không ai muốn có một dấu vết giấy mực nào, nên hắn nhận được tiền mặt. Cần một chút ảo thuật để biến món tiền sử dụng được, nhưng phần lớn trong đó được cất giữ ở nước ngoài dưới một tài khoản hưu trí lành mạnh.

    Yuell có năm tên được tuyển chọn kỹ càng làm việc cho hắn. Mỗi tên đều nhanh trí, tùy cơ ứng biến, không phạm sai lầm, và không nóng vội. Hắn không muốn bất cứ gã cao bồi nào làm hư hại quá trình hoạt động mà mình mất nhiều năm gây dựng. Hắn thuê nhầm người một lần, nên buộc phải chôn vùi sai lầm của mình. Chỉ một tên ngốc mới lặp lại sai lầm lần thứ hai.

    “Tôi phải cần tới dịch vụ của anh.” Bandini cuối cùng lên tiếng, mở ngăn kéo bàn lần nữa rút ra một tấm ảnh chụp nhanh, gã trượt qua mặt bàn rộng bóng láng về phía Yuell.

    Yuell nhìn vào tấm hình mà không cầm lên. Nhân vật là người có mái tóc đen, màu mắt không xác định rõ, có lẽ tầm cuối ba mươi. Ông ta mặc một bộ com lê màu xám bảo thủ, đi đôi giày màu xám hiệu Camy kiểu mới. Một cặp táp trong tay ông ta. Cảnh nền là vùng ngoại ô: nhà xây gạch, bãi cỏ, cây cối.

    “Hắn ta lấy vài thứ của tôi. Tôi muốn nó quay lại.”

    Yuell giật giật tai, liếc nhìn qua cửa sổ. Bandini cười nhăn nhở, phô hàm răng nhọn như răng chó sói.

    “Chúng ta an toàn. Cửa sổ bằng vật liệu cách âm. Không tiếng nào lọt ra ngoài hay vào trong. Tường cùng chất liệu.”

    Hướng suy nghĩ về nó, quả là không có tiếng ồn nào ngoài phố vọng vào. Âm thanh duy nhất là tiếng trò chuyện của họ. Không tiếng o o của điều hòa không khí, không tiếng nước ào ào qua đường ống – không gì thâm nhập được. Yuell thư giãn, hay ít nhất ngừng lo lắng về FBI. Hắn không đủ ngu ngốc để thư giãn quanh Bandini.

    “Tên ông ta là gì?”

    “Jeffrey Layton. Hắn là một CPA. CPA của tôi.” (Certified Public Accountants - dành cho người đã trải qua các kỳ xét tuyển và thi hành nghề công việc làm kế toán viên chuyên nghiệp, hoạt động trong các công ty kế toán-kiểm toán là Hội viên của Hiệp hội ngành nghề kế toán-kiểm toán ở mỗi quốc gia).

    A, một cuốn sách nấu ăn. “Biển thủ ư?”

    “Nghiêm trọng hơn. Hắn lấy sổ sách của tôi. Rồi tên ngu ngốc gọi cho tôi nói rằng, hắn sẽ trả lại khi tôi chuyển hai mươi triệu đô la vào số tài khoản của hắn ở Thụy Sĩ.”

    Yuell huýt sáo giữa hai hàm răng. Jeffrey Layton, kế toán viên, hoặc có cặp bi kích cỡ Texas hoặc bộ não cỡ hạt đậu. Hắn bỏ phiếu cho hạt đậu.

    “Còn nếu ông không đưa tiền cho hắn?”

    “Hắn tải chúng vào ổ di động. Hắn nói sẽ gửi tới cho FBI nếu tiền không nằm trong tài khoản của hắn trong mười bốn ngày. Phần tốt đẹp của hắn là cho tôi thời gian làm nhiều chuyện như thế cùng nhau, đúng không?” Bandini dừng lại. “Hai trong số mười bốn ngày đã qua.”

    Bandini đúng; phương diện này còn tồi tệ hơn cả tiền nong. Tiền có thể kiếm lại, và tóm được Layton là vấn đề giữ thể diện, không hơn. Nhưng với dữ liệu được tải về - Bandini phải trình bày về hồ sơ tài chính thật của mình, không một bộ sổ sách kế toán thứ hai được giấu khỏi IRS – sẽ không chỉ cung cấp cho FBI bằng chứng không thể chối cãi về hành vi trốn thuế, mà còn cho họ một lượng thông tin béo bở về những người mà Bandini làm ăn với. Bandini không chỉ phải đối phó với IRS, mà những người kia sẽ đổ lỗi cho gã về đống lộn xộn này.

    Layton là một kẻ đáng chết. Hắn có lẽ vẫn chưa chạm tới nhiệt độ phòng, nhưng chỉ là vấn đề thời gian.

    “Tại sao ông phải chờ tới hay ngày?” Yuell hỏi.

    “Người của tôi đã cố gắng tìm hắn. Họ thất bại.” Tông giọng phẳng lặng của gã báo trước điều không tốt đẹp cho việc kéo dài sự thất bại. “Layton đã nhảy qua nhiều thị trấn trước khi hắn gọi điện. Hắn thực hiện chuyện đó ở Boise, thuê một ô tô, và biến mất.”

    “Idaho? Ông ta tới đó, hoặc nơi nào đó?”

    “Không. Tại sao là Idaho? Có quỷ mới biết. Có lẽ hắn thích khoai tây. Khi người của tôi lâm vào đường cùng, tôi quyết định mình cần một chuyên gia. Tôi hỏi xung quanh, và tên anh nổi lên. Thế giới nằm trong sự hiểu biết của anh.”

    Đây là một lần mà Yuell ước hắn đã không cần mẫn xây dựng danh tiếng cho mình. Hắn có thể hạnh phúc có được phần đời còn lại mà không phải mặt đối mặt với Salazar Bandini.

    Cái cách mà Yuell nhìn ra, đây là một nhiệm vụ một mất một còn. Nếu hắn từ chối công việc, cơ thể hắn sẽ bị xới tung lên hoặc thành nhiều mảnh nhỏ hoặc không còn gì hết. Nhưng nếu hắn đồng ý, Bandini hẳn sẽ hình dung hắn tải ổ di động vào máy tính của hắn trước khi đem trả nó; kiến thức là sức mạnh, không quan trọng bạn sống trong thế giới nào. Bandini không ngần ngại đâm sau lưng bất cứ ai, nên gã cũng đề phòng nó từ kẻ khác. Làm gì trong trường hợp như thế? Thủ tiêu người đưa tin. Bạn không thể gửi tối hậu thư nếu bạn đã chết.

    Một điều là, Yuell không tạo nên danh tiếng của mình từ sự ngu ngốc – hay là một kẻ hèn nhát. Hắn gặp ánh mắt trống rỗng, lạnh lẽo của Bandini.

    “Ông sẽ phải nghĩ tới chuyện bất kể ai tìm ra ổ di động sẽ sao chép dữ liệu trước khi gửi lại nó cho ông, nên tiếp tục ông lại giết bất cứ ai tìm thấy nó. Đó là trường hợp này, tại sao tôi nên nhận công việc?”

    Bandini bắt đầu điệu cười nghiến răng không chút hài hước.

    “Tôi thực sự thích anh đấy, Faulkner. Anh có đầu óc. Hầu hết bọn khốn nạn không biết đâu. Tôi không hề lo lắng về việc ai đó sao chép dữ liệu. Nó được mã hóa để xóa sạch nếu ai đó cố truy cập mà không có mật khẩu. Layton có mật khẩu.” Gã dựa vào ghế. “Bất cứ dữ liệu nào trong tương lai sẽ phải được mã hóa cấm tải về, anh học được một kinh nghiệm đúng không?”

    Yuell suy nghĩ về chuyện đó. Bandini có lẽ nói sự thật với hắn. Có lẽ không. Yuell sẽ phải làm vài nghiên cứu trên các tệp tin máy tính của mình, tìm cách xem có khả năng viết một chương trình mà sẽ xóa chính nó khỏi ổ đĩa nếu ai đó cố truy cập mà không có mật khẩu. Có lẽ. Có khả năng. Cái đám hacker và chuyên viên máy tính chết tiệt có khả năng viết một chương trình khôi phục lại và lôi nó ra nếu họ muốn.

    Hay có lẽ tệp tin được bỏ trống, nhưng dữ liệu vẫn nằm đâu đó trên ổ cứng. Hắn từng nghĩ về việc tuyển dụng một chuyên gia mổ xẻ máy tính, và giờ hắn ước mình đã chấp nhận khoản chi phí. Quá muộn rồi; hắn phải tự mình giải quyết, mà hắn không có đủ thời gian cho một cuộc điều tra kỹ lưỡng.

    “Lấy ổ di động đó,” Bandini nói, “chăm sóc Layton, rồi hai mươi triệu đô là của anh.”

    Ôi mẹ ơi. Chết tiệt. Yuell điều khiển để không thể hiện bất kỳ phản ứng nào, nhưng hắn hoảng sợ cũng nhiều như bị dụ dỗ. Bandini chỉ cần đề nghị một nửa chỗ đó – ôi mẹ kiếp, một phần mười thôi – hắn đã cảm thấy là quá cao rồi. Vì Bandini đưa ra giá hai mươi triệu đô la, cái ổ di động phải chứa thứ gì đó có sức công phá mạnh – có khả năng nhiều hơn chỉ là hồ sơ tài chính của gã. Mà dù có là gì, Yuell không muốn biết.

    Hay Bandini lập kế hoạch giết hắn bằng mọi giá, nên không quan trọng gã đề nghị bao nhiêu.

    Ý nghĩ đẽo đá vào hắn. Hắn không thể bỏ qua, nhưng từ một quan điểm làm ăn không được xen vào cảm xúc. Nếu Bandini có tiếng về việc nuốt thỏa thuận, gã đã đi tong. Sợ hãi có thể đưa bạn đi rất xa, nhưng nó không nắm được điểm mấu chốt. Nếu bạn bắt đầu tè lên tiền của người dân, họ sẽ tìm ra cách tè trở lại.

    Nhưng bây giờ hắn đã ở đây, nên hắn sẽ nhận công việc.

    “Ông có số an sinh xã hội của Layton chứ?” Hắn hỏi. “Tiết kiệm cho tôi một chút thời gian nếu ông có.”

    Bandini mỉm cười.
     
    Chỉnh sửa cuối: 13/7/15
    maggie14, thuhuong244, ttha and 17 others like this.
  15. vu thu giang

    vu thu giang Mầm non

    Cám ơn Halucky.
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    halucky thích bài này.
  16. Levananh

    Levananh Lớp 2

    Ôi, được đọc một lèo 4 chương :D. Cảm ơn bạn nhiều nhiều!
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    halucky thích bài này.
  17. Kyowa2013

    Kyowa2013 Mầm non

    Truyện của Linda mà có trẻ con đều rất dễ thương. Ở truyện này, cặp sinh đôi Tucker & Tanner thích lắm, siêu cute, tiếc là hai chú bé này không đi từ đầu đến hết truyện mà chỉ hơn mười chương đầu thôi. Hiccc, cũng phải, vì truyện người lớn mà :)

    Cảm ơn halucky nhé!
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    quyche and halucky like this.
  18. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 5 (halucky)

    YUELL GỌI CHO HAI TÊN KHÁ NHẤT CỦA MÌNH, HUGH TOXTEL VÀ Kennon Goss, vì hắn không muốn có một lỗi nào trong công việc này. Hắn cũng gửi đi một tên khác, Armstrong, tới ngôi nhà của Layton ở ngoại ô tìm kiếm thông tin như các hóa đơn trả bằng thẻ tín dụng có thể chuyển tới kể từ khi Layton chuồn mất. Chết tiệt, Layton thậm chí có thể để lại vài thứ vớ vẩn đâu đó xung quanh. Người ta vẫn làm vài việc vô nghĩa hàng ngày, và Layton đã chứng tỏ mình không phải người logic nhất trong thiên hà.

    Trong khi Yuell chờ đợi tay chân đến, hắn chạy vài chương trình tìm kiếm trên máy tính, đào xới từng tí một thông tin về Jeffrey Layton trong khả năng, đó là rất nhiều mà hắn có thể làm.

    Phần lớn mọi người sẽ đột quỵ nếu biết rằng bao nhiêu thông tin cá nhân của họ bị tung lên trên mạng. Từ hồ sơ công cộng, hắn có được ngày cưới của Layton và ly dị sau đấy, hắn lưu ý tới tên vợ cũ của Layton để điều tra thêm. Nếu bà ta chưa tái hôn, rất có khả năng Layton chạy tới bà ta nhờ giúp đỡ. Yuell cũng chú ý tới khoản thuế tài sản của Layton, và vài chi tiết khác có lẽ vô ích, dù thế hắn vẫn ghi chép. Bạn không thể nói khi nào thứ gì đó trông bề ngoài có vẻ tầm thường lại hóa ra cốt yếu.

    Một số chương trình hắn dùng không chính xác là hợp pháp, nhưng hắn đã trả cái giá cắt cổ cho chúng vì chúng làm được việc, cho phép hắn truy cập cơ sở dữ liệu mà các loại khác đóng chặt lại trước hắn. Với các công ty bảo hiểm, ngân hàng, các chương trình thuộc liên bang – nếu bạn làm cho máy tính hiểu rằng bạn là người sử dụng hợp pháp, bạn có thể đi bất cứ đâu trong hệ thống của chúng.

    Một cách lô gic bắt đầu với công ty bảo hiểm y tế lớn nhất, hắn phát hiện rằng Layton bị huyết áp cao phải dùng thuốc, ông ta cũng có một đơn thuốc Viagra hai năm tuổi – thứ mà ông ta chưa bao giờ làm đầy trở lại hay thay mới, nghĩa là nó không thường xuyên vơi đi lắm, nếu có chỉ một chút. Ông ta cũng không phòng xa bổ sung thuốc huyết áp trước khi tẩu thoát với hồ sơ của Bandini. Ứng cử cuộc sống của bạn cho sự căng thẳng; một kẻ ngu có thể bị xóa sổ nếu không cẩn thận.

    Thoát khỏi hệ thống bảo hiểm, Yuell đăng nhập vào hệ thống của chính phủ, nhanh chóng lấy được số giấy phép lái xe của Layton. Thâm nhập vào hệ thống an sinh xã hội đòi hỏi khéo léo hơn một chút, vì hắn phải thông qua mạng của một người khác, người sử dụng hợp pháp, nhưng hắn kiên trì cho tới khi hắn có được vì tiền bỏ ra là xứng đáng với rủi ro. Số an sinh xã hội là chìa khóa kỳ diệu mở ra thông tin và cuộc sống của một cá nhân; với nó, toàn bộ cuộc sống của Layton nằm trong tay hắn.

    Armstrong gọi đến bằng di động của mình từ nhà của Layton. Đó là một trong những điều đầu tiên Yuell nhắc tay chân của mình: không bao giờ được dùng điện thoại cố định của ai đó ở nơi nào khác. Bằng cách đấy không cảnh sát nào có thể ấn “quay số lại” và tìm ra số gọi gần nhất. Bằng cách đấy không manh mối nào kết nối bạn với nơi gọi đến trong danh sách của nhà mạng. Quy tắc cứng rắn của Yuell là: dùng di động của chính bạn. Như một biện pháp phòng xa, tất cả bọn chúng đều dùng số di động dùng một lần. Vì lý do nào đó chúng nghĩ số điện thoại đang gây tổn hại cho mình, chúng đơn giản mua một di động khác.

    “Vớ bẫm,” Armstrong nói. “Tên ngu này giữ mọi thứ.”

    Yuell đã hy vọng Layton, một kế toán, để lại gì đó. “Anh có gì?”

    “Gần hết cuộc đời ông ta. Ông ta giữ một đống quan trọng, như giấy khai sinh, thẻ an sinh xã hội, thẻ tín dụng, trong một bức tường bí mật.”

    Đó là lý do hắn cử Armstrong đi, may ra Layton đủ thận trọng có vài biện pháp đề phòng; vài cái két sắt thương mại cỡ nhỏ chỉ là trò trẻ con đối với Armstrong, nên phần lớn công việc đặt hàng đơn thuần trì hoãn gã lại.

    “Tôi đã có số an sinh xã hội. Cho tôi số thẻ tín dụng, rồi đặt mọi thứ trở lại theo cách anh nhìn thấy.”

    Armstrong bắt đầu đọc một mạch các loại thẻ tín dụng, số thẻ và mã số bảo mật. Layton có rất nhiều thẻ, dấu hiệu cho thấy ai đó có vẻ tiêu nhiều hơn khả năng kiếm được. Có lẽ đó là lý do ông ta nắm lấy cơ hội vô cùng nguy hiểm là tống tiền Bandini, nhưng Yuell không thực sự quan tâm. Cái thằng ngu đã lôi kéo hắn vào quỹ đạo của Bandini, và giờ Yuell phải nhận công việc hoặc tự đưa mình vào cảnh trốn chạy.

    Trong một phút hắn chỉ nghĩ tới việc phải làm; nói với tay chân của mình tứ tán khắp nơi, nhận tiền rồi biến mất, có thể ở vùng Viễn Đông, trong vài năm. Nhưng cánh tay của Bandini rất dài, xứng đáng với danh tiếng tàn bạo của của gã. Yuell biết hắn sẽ phải dùng phần đời còn lại trong cảnh giác, chờ đợi một viên đạn găm vào sau gáy hay một con dao xiên vào quả thận, mạng sống của Layton không xứng với của hắn. Layton sẽ chết, cách này hay cách khác. Nếu Yuell không làm việc đó, người khác sẽ làm.

    Hắn sắp xếp làm việc với danh sách số thẻ. Layton có hai thẻ American Express, ba thẻ Visa, một Discover và hai thẻ MasterCards. Một cách bài bản Yuell bắt đầu truy cập chui vào cơ sở dữ liệu thẻ tín dụng nên hắn không gây nên bất kỳ cảnh báo nào, tìm kiếm xem giao dịch nào mới nhất. Trên tài khoản thẻ Visa thứ hai hắn tìm được một may mắn: một giao dịch ở nhà nghỉ B&B tại Trail Stop, Idaho, một ngày trước.

    Bingo.

    Tên này ngu ngốc tới mức nào chứ? Ông ta nên trả tiền mặt, ở yên một chỗ và cho bản thân ít thời gian che đậy mọi dấu vết. Lý do duy nhất dùng thẻ tín dụng là ông ta không có nhiều tiền mặt, điều mà một lần nữa là ngu ngốc vì đồ chết tiệt nào lại bắt đầu chuyện gì như này mà không có một cuộn lớn tiền mặt trong tay?

    Yuell ngồi lại, đăm chiêu suy nghĩ. Có thể việc thanh toán bằng thẻ tín dụng là một mồi nhử. Có thể Layton đã đặt phòng, nhưng không gọi điện hủy cũng như xuất đầu lộ diện để xác nhận việc đặt trước; hầu hết các nơi tính tiền một đêm nghỉ để giữ phòng, dù bạn có đến hay không. Layton có thể hành động ngu ngốc nhưng suy nghĩ lại thông minh.

    Hắn chú ý tới tên nhà nghỉ và cố gắng nhớ số điện thoại. Kiểm tra xem Layton có lộ diện hay không là quá dễ dàng. Hắn nhấc điện thoại di động của mình.

    Một phụ nữ trả lời ở hồi chuông thứ ba.

    “Nhà nghỉ B&B Nightingale,” cô ta nói vui vẻ. Yuell thích giọng nói của cô ta, nghe du dương và tươi vui.

    Hắn suy nghĩ nhanh chóng; cô ta có thể không tiết lộ thông tin khách hàng với bất cứ ai.

    “Đây là dịch vụ cho thuê xe ô tô quốc gia,” hắn nói. “Một khách hàng không trả lại xe theo lịch, ông ấy để lại số này làm số liên lạc. Tên ông ta là Jeffrey Layton. Ông ấy có đấy không?”

    “Tôi e là không,” cô ta nói với giọng nuối tiếc.

    “Ông ấy đã ở đấy chứ?”

    “Vâng, đúng thế, nhưng – tôi xin lỗi, tôi nghĩ có chuyện gì đó xảy ra với ông ấy.”

    Yuell chớp mắt. Đó không phải điều hắn mong chờ nghe thấy.

    “Ý bà là sao, chuyện gì xảy ra với ông ấy.”

    “Tôi không chắc đâu. Ông ấy dời đi hôm qua và không quay lại. Tất cả đồ đạc của ông ấy vẫn ở đây, nhưng – tôi đã gọi tới văn phòng cảnh sát trưởng và thông báo ông ấy mất tích. Tôi e ông ấy gặp tai nạn.”

    “Tôi hy vọng không,” Yuell nói, mặc dù sẽ rất thuận tiện cho Yuell nếu gã đàn ông lao vào một quả núi và tự giết mình, mang theo cái ổ đĩa di động. Vấn đề sẽ đơn giản đi rất nhiều: Hắn được trả tiền và Layton sẽ ra đi.

    “Ông ấy có nói với bà mình đi đâu không?”

    “Không, tôi còn chưa nói chuyện với ông ấy.”

    “Ồ, đây là tin tức xấu. Tôi mong ông ấy ổn cả, nhưng – tôi phải thông báo với công ty bảo hiểm của chúng tôi.”

    “Vâng, tất nhiên,” cô nói.

    “Cô sẽ làm gì với đồ đạc của ông ấy? Văn phòng cảnh sát trưởng có thông báo với người thân của ông ấy không?”

    “Ông Layton vẫn chưa được chính thức thông báo mất tích. Nếu ông ấy không quay lại sớm, tôi cho rằng ai đó sẽ tìm gia đình ông và tôi sẽ gửi đồ của ông ấy cho họ. Cho tới lúc đó, tôi tin mình sẽ giữ chúng.” Cô xem chừng không mấy lạc quan về viễn cảnh.

    “Có thể ai đó sẽ đến lấy chúng đi. Cảm ơn sự giúp đỡ của bà.”

    Yuell gác máy, mỉm cười; hắn không thể hạnh phúc hơn khi phát hiện rằng Layton đã để lại hành lý của mình, và người phụ nữ đó vẫn giữ mọi thứ. Đầu óc hắn đang chạy đua. Liệu Layton có mang theo ổ di động theo mình không? Thứ đó có thể mang đi bất cứ đâu. Vài người xỏ chúng vào dây đeo chìa khóa, nên các đồ vật nhỏ sẽ không thất lạc. Hoặc Layton có thể giấu nó đâu đó, có thể trong một két sắt an toàn trong nhà băng, trường hợp ấy nó sẽ ra khỏi tầm tay của Yuell. Mặt khác, có thể đơn giản ông ta để nó trong va li của mình.

    Nếu hắn may mắn, Yuell nghĩ, ổ di động còn ở nhà nghỉ B&B, chỉ chờ đợi tay chân của hắn đến lục soát đống đồ của Layton và lấy nó. Cho dù nó có ở đấy hay không, hắn cảm thấy ổn. Layton có lẽ đã chết, trong trường hợp này đó là một tai nạn hợp pháp. Miễn là hắn tìm thấy ổ di động, hắn được trả tiền. Không thành vấn đề nếu Layton chết hay sống.

    Hugh Toxtel là người đến đầu tiên. Gã khoảng đầu bốn mươi, làm quen với nắng gió, kiên nhẫn và có phương pháp. Gã sẽ đi bất cứ đâu công việc đòi hỏi, không phàn nàn hay nhặng xị. Giống Yuell, gã có chiều cao trung bình, mái tóc đen, nhưng đặc điểm của gã sắc nét hơn. Trên thực tế, gã là tên đầu tiên Yuell thuê, một quyết định mà hắn chưa từng nuối tiếc.

    “Tôi sẽ rút anh khỏi nhiệm vụ Silvers, và cử anh và Goss tới Idaho.”

    “Có gì ở Idaho thế?”

    Hugh hỏi, kiếm chỗ ngồi rồi giật mạnh ống quần bị gấp nếp của mình. Gã thường ăn mặc như thể mình giữ một vị trí trong hội đồng quản trị của một tập đoàn gồm 500 công ty thành viên, chiếm giữ một góc văn phòng, đó có lẽ là ước mơ của gã nhưng là một tiếng kêu xa rời thực tế.

    “Tên kế toán của Salazar Bandini đã cao chạy xa bay,” Yuell trả lời.

    Hugh nhăn mặt. “Đồ khốn ngu ngốc. Lấy tiền và biến mất, hử?”

    “Không chính xác thế. Ông ta sao chép tất cả hồ sơ tài chính – bản thực ấy – vào một ổ di động rồi cố gắng gửi tối hậu thư cho Bandini. Bandini truy tìm ông ta tới Idaho, mất dấu vết ông ta ở đấy nên gọi cho tôi.”

    “Tại sao lại ở Idaho?” Hugh hỏi. “Nếu tôi đủ ngớ ngẩn cố gắng tống tiền Bandini, ít nhất tôi phải rời khỏi đất nước. Mặt khác, nếu anh đủ ngu ngốc xoắn lấy gã Bandini, anh cũng đủ ngu ngốc rời bỏ đất nước, đúng không?”

    “Hoặc anh đủ thông minh để lại một dấu vết giả.”

    Hoặc bạn đã tuyệt vọng, Yuell đột nhiên nghĩ. Layton là một CPA, vì Chúa. Ông ta có thể thiếu kinh nghiệm, thậm chí có ngây thơ, nhưng ông ta không phải kẻ ngu đần. Không nên đánh giá thấp ông ta. Ông ta có thể mua quần áo để thay đổi và thêm một cái túi xách, để nó lại nhà nghỉ B&B như một sự đánh lạc hướng, trong khi ông ta nhanh chóng rút lui tới một nơi nào khác. Ngay cả biết rằng những thứ Layton để lại phía sau có thể là mồi nhử kéo dài thời gian, Yuell vẫn phải cử người của mình tới kiểm tra chúng và lục tìm ổ đĩa.

    “Anh cho rằng ông ta làm thế?” Hugh hỏi.

    Yuell nhún vai.

    “Tôi không biết. Có khả năng thế. Tôi muốn anh sẵn sàng vào ngày mai; nếu có một thứ bé tí không bình thường, tôi muốn biết về nó. Quần áo để lại, xem nó có mới không. Cũng như thế với cái túi xách.” Hắn truyền đạt các thông tin mà hắn đã dành vài giờ gần đây nhất biên soạn. “Đây là mọi thứ tôi thu được về gã.”

    Hugh nhìn hồi lâu vào bức ảnh Bandini cung cấp, ghi nhớ khuôn mặt của Layton. Rồi gã đọc qua lý lịch của Layton, trình độ học vấn, mọi thứ Yuell đã tìm thấy dựa trên cũng như vượt xa sự khô khan của những con số. Quan sát khuôn mặt gã, Yuell nhận thấy Hugh đi đến cùng kết luận với mình.

    “Lơ vơ trên trời,” Hugh cuối cùng nói,” nhưng không ngu ngốc.”

    “Đó là điều tôi nghĩ. Ông ta đã trả tiền phòng ở một nhà nghỉ B&B tại Trail Stop, Idaho; Bây giờ, anh phải tìm ra ông ta có biết mình có thể bị truy đuổi bởi bất kỳ giao dịch nào được thực hiện bằng thẻ tín dụng, rõ chứ? Và tại sao ông ta làm thế?”

    Trước khi Hugh trả lời, Kennon Goss tới. Có một sự lạnh lùng, vô cảm, bản tính hoàn toàn tàn nhẫn ở Goss, mặc dù gã che đậy nó khá tốt; gã giống như một con chó bun hoàn thành nhiệm vụ của mình. Yuell thường dùng Goss khi hắn muốn ai đó tiếp cận một phụ nữ; gã có mái tóc vàng và bảnh trai, có gì đó về gã khiến phụ nữ phản ứng mù quáng khi ở bên. Vì bề ngoài của gã dễ nhớ, Goss cần gấp đôi độ cảnh giác, cũng như gấp đôi độ nhanh nhẹn để trốn tránh sự nghi ngờ. Dù thế, gã không giấu diếm việc thích có tất cả các tiện nghi hiện đại hơn sẵn sàng cho gã sử dụng. Với gã, một khách sạn sẽ là một bãi rác nếu không kết nối Internet, phục vụ phòng hai tư giờ và một thanh sô cô la trên gối gã mỗi đêm.

    Yuell gửi Goss theo đuổi Jeffrey Layton. Goss cúi xuống vùi đầu mình trong hai tay.

    “Ôi, một thị trấn nhỏ tận Idaho thiếu tiếp xúc với thế giới bên ngoài,” gã rên rỉ. “Mất hai ngày để tới được đó. Chúng ta sẽ phải bắt xe lửa từ Seattle.”

    Yuell chiến đấu với một nụ cười. Hắn muốn theo suốt hành trình này, chỉ để xem Goss đối phó với Mẹ thiên nhiên như thế nào.

    “Anh có thể tới gần hơn Seattle. Có nhiều đường băng trên khắp Idaho. Có khả năng, anh phải lên một máy bay cánh quạt tới Boise, nhưng một khi lái xe, anh ở trên mặt đất sẽ không quá tồi tệ. Tôi sẽ sắp xếp cái xe bốn bánh cho anh.”

    Tiếng rên rỉ bị nghẹt lại, Goss nài nỉ, “Đừng là một chiếc bán tải. Tôi xin anh.”

    “Tôi sẽ xem mình làm được gì.”

    Trong khi lắng nghe Yuell phác họa tình hình và các khả năng, Kennon Goss cảm thấy sự hài lòng bắt đầu tốt lên cũng như các khả năng khác xảy ra với mình.

    Gã ghét Yuell Faulkner đến từng tế bào trong cơ thể, hơn mười năm qua gã đã làm việc cùng và vì tên đàn ông này, đẩy lòng thù ghét sang một bên để có thể hành động trong khi gã xem xét và chờ đợi cơ hội hoàn hảo. Trong lúc đợi chờ, bằng nhiều cách gã đã trở nên giống tên đàn ông mà mình thù ghét, một sự mỉa mai vì gã không thoát khỏi hắn ta. Trong những năm qua cảm xúc của chính gã đã bị khô héo, và giờ gã chỉ lạnh lùng và vô cảm, dám cả gan chấm dứt cuộc sống không có suy nghĩ này hơn là để bị giẫm đạp như một con gián.

    Gã biết chuyện sẽ như này, biết cái giá mình phải trả, nhưng sự căm ghét trong gã quá mạnh mẽ nên gã cân nhắc tới giá trị của hậu quả. Không gì quan trọng ngoại trừ được gần Yuell, chờ thời cơ của mình.

    Cách đây mười sáu năm, Yuell Faulkner đã giết cha của Goss. Goss không hề ảo tưởng về loại người mà cha mình đã là; ông là một kẻ giết thuê, chỉ như Faulkner, chỉ như chính bản thân Goss. Nhưng có thứ gì đó náo động hơn về ông, thứ gì đó còn lớn hơn một cuộc đời. Một người đàn ông phức tạp, cha của gã; một mặt ông là một người chồng yêu thương, một người cha nghiêm khắc – trong khi mặt khác, ông là kẻ giết người. Bằng nhiều cách cha gã đã tách rời khỏi tâm trí và cuộc sống của gã, cái cách mà bản thân Goss không thể chế ngự.

    Cha gã đã làm việc cho Faulkner trong hơn ba năm. Tất cả Goss khám phá ra, chỉ sau khi bản thân gã liên kết với Faulkner và trở thành một trong những tay chân giết người đáng tin cậy của hắn, là Faulkner đã quyết định cha Goss là một mắt xích yếu – nên bằng cách nào đó hắn đã trừ khử ông. Điều gì khởi sự cho hành động đó là thứ mà Faulkner giữ cho riêng mình.

    Với Yuell Faulkner, nó hẳn là một quyết định công việc. Với Goss, nó là nguyên nhân hủy hoại cuộc sống của gã. Mẹ gã bị tàn phá bởi vụ ám sát của chồng; vào ngày Goss quay trở lại lớp đại học, một tuần sau đám tang, bà đã nuốt một chai thuốc. Goss tìm thấy thi thể bà khi gã về nhà chiều hôm ấy.

    Cái gì đó trong gã, cái gì đó rất con người, đã chết lặng khi gã đứng ở ngưỡng cửa nhà bếp và chứng kiến cơ thể mẹ mình trên sàn nhà. Quá đau khổ vì cái chết của cha, lại thêm mất bà, đã đẩy gã vào chân tường.

    Gã đã mười chín tuổi, quá lớn để vào trung tâm bảo trợ trẻ em. Gã bỏ học, đi khỏi ngôi nhà ngoại ô mà gã không bao giờ muốn đặt chân trở lại, và đi lang thang. Gã cho rằng ngôi nhà đã bị bán đi từ lâu để trả tiền thuế. Gã không quan tâm, không bao giờ quay lại, không bao giờ lái xe lòng vòng thỏa trí tò mò xem ai khác đang sống ở đó hoặc nó đã bị kéo đi nhường chỗ cho một trạm dịch vụ hay thứ gì khác.

    Sau khoảng một năm, ý tưởng trả thù, vốn đã sục sôi bên mép của nhận thức kể từ vụ ám sát của cha gã, bắt đầu vững vàng và thành hình. Cho tới lúc đó gã đã quá tê liệt để lên kế hoạch, để có một hướng đi, nhưng giờ cuộc sống của gã một lần nữa có mục đích – và mục đích đó là cái chết. Cái chết của Yuell Faulkner, là chắc chắn – mặc dù trong một thời gian dài gã không có một cái tên của kẻ giết cha mình – và nếu điều đó đồng nghĩa với cái chết của chính gã, Goss không hề lo lắng về nó.

    Tuy nhiên, đầu tiên, gã phải tự tái tạo lại mình. Cậu thanh niên gã từng là, Ryan Ferris, đã chết. Tìm cách làm thế nào điều đó được thực hiện dễ dàng. Gã tìm kiếm một đứa trẻ đường phố, một con nghiện, khoảng chừng chiều cao và độ tuổi của mình, lén theo cậu bé; khi nhìn thấy cơ hội, gã nhảy chồm lên cậu từ phía sau và hạ nốc ao cậu bé, rồi đập nát khuôn mặt trước khi giết cậu. Gã đút thẻ căn cước của mình vào cơ thể, vứt nó ở một dãy phố nơi cái xác không có khả năng bị cướp, và bỏ đi tới phần kia của đất nước.

    Gã biết, với tội ác đầu tiên ấy, gã đã bước qua một lằn ranh mà gã không bao giờ có thể bước trở lại. Gã đang ở trên con đường trở thành thứ mà chính gã căm thù.

    Gửi một tên trộm đi bắt một tên trộm. Để đối phó với một xác chết, gã đã tự biến mình thành một xác chết.

    Xây dựng nên bản sắc của mình cần thời gian và tiền bạc. Gã không ngay lập tức trở về Chicago và cố gắng tìm kẻ giết cha mình. Gã gây dựng nên tên tuổi mới cho chính bản thân, Kennon Goss, với nhiều lớp giấy chứng nhận. Gã nhẫn tâm đẩy sang bên đặc điểm của chính mình và trở thành Kennon Goss, không chỉ với người khác mà còn với chính mình.

    Vào lúc gã trở về Chicago, ngay cả FBI cũng không thể chứng minh gã là ai khác ngoài kẻ mà gã đã khai.

    Tìm ra ai là kẻ đứng đằng sau một vụ giết người đã năm năm tuổi là không dễ dàng. Không ai sờ mó tới Yuell. Tìm ra cha mình từng là một kẻ giết thuê đã thêm một cú sốc vào tinh thần vốn đã bị hành hạ không thể phục hồi của gã, nhưng nó cũng cho gã một phương hướng. Từ đó, gã có thể tìm hiểu được cha mình đã làm việc cho một người đàn ông tên Faulkner, với Goss dường như cách tốt nhất dò xét xem cha mình liên quan thế nào là từ chính bên trong tổ chức của Faulkner.

    Gã xoay sở để bản thân thu hút sự chú ý của Faulkner, vì gã quá lịch lãm để đi vào và hỏi xin một công việc. Cứ để Faulkner tiếp cận gã.

    Một khi đã ở bên trong, Goss làm công việc của mình và cẩn thận không để bại lộ. Theo thời gian, gã đã dành được sự tin tưởng, không chỉ từ Faulkner mà còn từ những kẻ làm việc cho hắn. Đó là Hugh Toxtel, người làm việc cho Faulkner lâu nhất, người đã cho gã mẩu thông tin mà gã muốn. Theo một cách mà còn nhiều hơn vài lời khuyên thân thiện: Đừng để một mục tiêu có được anh. Tham gia, nhận việc, rồi cuốn xéo. Đừng lắng nghe vài câu chuyện nức nở. Một gã, Ferris, đã nghe lời nịnh nọt của ai đó và không tiến hành công việc, Faulkner đã loại gã vì gã để cảm xúc chiếm phần tốt nhất trong mình nên để mục tiêu sống sót, tạo ra một tiền lệ xấu đối với công việc của Faulkner. Không chỉ vậy, không làm nhiệm vụ là không tốt cho kinh doanh.

    Nên Ferris đã bị xử lý, và chính Faulkner đã kết thúc công việc Ferris làm hỏng.

    Yuell đã giết cha của Goss. Ngay cả gã có thể nhận thấy nó là một quyết định hợp lý trong công việc, nhưng không cách nào thay đổi suy nghĩ của Goss về bất cứ thứ gì.

    Faulkner sẽ phải chết, Goss đang tìm kiếm cơ hội hoàn hảo. Gã có thể bước vào văn phòng và bóp cò một khẩu chín li vào não của Faulkner một trăm lần, nhưng gã không muốn chuyện đó sạch sẽ thế, nhanh gọn đến thế. Gã muốn nó phải bẩn thỉu, muốn Faulkner đau khổ, muốn hắn phải quằn quại.

    Tình huống này với Salazar Bandini có lẽ là điều mà gã chờ đợi bao năm nay. Bản chất xấu xa của Bandini đã vượt xa so với bản chất xấu xa của hắn. Nếu bằng cách nào đó Goss có thể khiến Bandini chống lại Faulkner…

    Gã phải suy nghĩ về mọi tình huống, làm thế nào gã có thể thu xếp mà không bị cuốn vào dòng triều mạnh mẽ của sự trả thù của Bandini. Có thể chuyện gì đó sẽ xảy đến với gã trong chuyến đi này tới cái xứ Hư vô, ở tận Idaho, tìm kiếm một kế toán chạy trốn, người có thể đã hoặc có thể chưa chết.

    “Chúng ta rời đi hôm nay chứ?” Goss hỏi.
     
    Chỉnh sửa cuối: 13/7/15
  19. halucky

    halucky Lớp 11

    Chúc mừng chị em Góc dịch.
    Mong rằng các truyện dịch Phương tây đã - đang - và sẽ là nguồn vitamin dồi dào bổ sung thêm cho chị em, để chị em có thêm nguồn lực có thể hết mình với bản thân, với gia đình, bè bạn .... và đừng quên xã hội nữa nhé.
    Chúc một nửa của thế giới mãi tươi vui!!!
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    ttha, Ly Thy, thanhbt and 12 others like this.
  20. hathao

    hathao Lớp 2

    Cảm ơn Halucky.
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    halucky thích bài này.

Chia sẻ trang này