Thơ Việt Đất bên ngoài Tổ quốc - Đoàn Tuấn, Lê Minh Quốc

Thảo luận trong 'Tủ sách Thi ca' bắt đầu bởi machine, 6/11/23.

Moderators: Ban Tang Du Tử
  1. machine

    machine Lớp 12

    cover02.jpg
    20 năm, một khoảng thời gian không quá dài nhưng cũng không quá ngắn để người ta có thể quên đi một thời trai trẻ đã sống hết mình cho Tổ quốc. Chiến tranh đã qua đi, nhưng trong ký ức của hai người từng khoác áo lính - Lê Minh Quốc và Đoàn Tuấn vẫn còn nguyên những cảm xúc của một thời họ đã sống cùng các đồng đội, cũng trẻ như họ, giữa mưa bom và bão đạn...
    Anlungvieng, Đầm prạ, Kulen, Dangrek... hai người bạn ở hai miền đất nước: Lê Minh Quốc - Đà Nẵng và Đoàn Tuấn - Hà Nội đã vượt qua những tháng năm cận kề bên cái chết để sống và trở về với những bài thơ mà họ đem theo trong ký ức, trong những mảnh giấy nát nhàu ố vàng vì thời gian... Có những bài thơ họ viết khi nỗi nhớ quê hương dậy cồn cào trong trái tim. Cũng có những bài thơ họ viết gấp gáp như những nén nhang lòng cho phút tiễn biệt các đồng đội rất trẻ vừa nằm xuống, nơi đất khách quê người...
    Tập thơ “Đất bên ngoài Tổ quốc” do Nhà xuất bản Văn học ấn hành đầu năm 1998 gồm 70 bài thơ của hai nhà thơ lính trên, trong đó có gần 40 bài thơ đã được viết trong không khí đẫm mùi thuốc súng, trên đất bạn. Sau hai mươi năm, họ cùng nhau thực hiện tập thơ để vọng tưởng đến những đồng đội đã hy sinh và như một nhắc nhở với những người lính trẻ năm xưa về những kỷ niệm bi tráng của một thời chiến tranh.
    P. THỤC
    (Báo Sài Gòn giải phóng số 20.1.1998)​
     

    Các file đính kèm:

    Chỉnh sửa cuối: 6/11/23
  2. machine

    machine Lớp 12

    Lê Minh Quốc trong hồi ký "Mùa chinh chiến ấy" của Đoàn Tuấn:

    Vàng và kim cương
    Một hôm, trời nắng, vừa cơm nước xong, một ông già râu tóc bạc phơ mò vào. Ông chìa ra một vốc vàng để đổi lấy đôi giày và một ít muối. Tình thế thật khó xử. Lính tráng có phải sỹ quan đâu. Mỗi thằng có nhõn đôi giày. Làm gì có ai tích trữ? Nếu có thì đã chuyển đổi thành “vitamin gâu gâu” ngay. Tôi chạy vào, kêu gọi sự giúp đỡ của Quốc. Tìm mãi trong cái nhà chứa gạo, Quốc cũng moi được đôi giày cũ. Tuy rách, nhưng còn dùng được. Chúng tôi ái ngại đưa. Ông già mừng rơn. Ôm đôi giày vào ngực. Rồi hai nách hai giày kẹp lại, ông chắp tay lạy. Chúng tôi thấy xấu hổ. Còn muối, Quốc xúc ra nửa bát, tặng ông. Nhưng ông không có cái đựng. Tôi vội chạy về, xé ngay mấy tờ giấy quyển sổ ghi điện. Ông già cứ bắt chúng tôi nhận vàng. Quốc xua tay lắc đầu. Miệng luôn nói cảm ơn bằng tiếng Khmer: “Orcun! Orcun!” và ra hiệu cho ông đi. Cuối cùng, ông già diện đôi giày, chào tạm biệt.
    Một buổi tối, tôi xuống tiểu đội phía trong hút thuốc, tán phét. Tối qua, mấy chàng lính “xứ nẫu” Phú Khánh cứ tranh cãi mấy chuyện “giời ơi” kiểu “Lê Duẩn có phải là em Lê Nin không? Vì cùng họ Lê”. Tôi, Quốc và Nhân phải giải thích mãi mà tụi nó vẫn không hiểu. Suốt một đêm sang một ngày vẫn chưa xuôi cơn tức. Lại trong nhóm “chậm tiến” đó có thằng Phê, dân biển, không biết chữ, viết tên mình cũng không xong. “Phê” lại viết thành “Phe”. Tức chết đi được. Tối nay tôi và Nhân quyết định phải bổ óc tụi nó ra, lên lớp “chỉnh huấn” cho một bài thật đích đáng. Nhưng vừa gần đến nơi, thấy một cô gái, rõ là Hoa kiều, tay cầm đèn pin, bỗng ôm ngang người tôi, miệng thì thào:“Gài! Gài!”. Chắc cô ta ngại ôm Nhân vì Nhân mang súng AK, tôi thì đi người không. Tôi chẳng biết cô ta nói gì. Đang ngạc nhiên thì Nhân bảo: “Em đòi gạo đấy!”. Tôi hỏi lại. Cô ta gật đầu liền và móc túi đưa tôi thỏi vàng. Vội gạt đi, tôi hỏi Nhân: “Làm cách nào bây giờ?”. Nhân nói tỉnh bơ: “Ăn trộm của Quốc!”. Khó thật. Quốc nằm trên kho gạo. Cửa ra vào là độc đạo, làm sao lấy được?
    Hai thằng lập mưu. Nhân sang, mời Quốc thuốc rê. Tôi bò phía dưới, đến chỗ mấy bao gạo, xúc trộm mấy bát. Giúp người ta lúc thất cơ lỡ vận, có gì là tội lỗi đâu. Khi chuồn ra ngoài, vẫn thấy Quốc đang sang sảng đọc thơ cho Nhân nghe:“Ta say đắm yêu cơn mưa buổi sáng/ Ngồi trong nhà nhìn hạt mưa bay…”. Tôi đưa gạo cho cô gái. Thật lòng, cô gái lại đưa vàng và muốn ôm cảm ơn. Nhưng nhìn cô, người đầy mồ hôi và nữa là trong bóng tối, không biết cô có xinh không nên tôi vội ra hiệu cho cô bí mật chuồn nhanh. Hiểu ý, cô gái vẫy tay chào. Muốn xin cô cái đèn pin nhưng không dám, sợ chỉ huy phát hiện. Đèn pin rất cần cho lính vô tuyến lúc nhận điện ban đêm. Lấy làm của công nhưng tội thì chịu riêng. Chả bõ. Huýt sáo gọi Nhân mấy lần, mãi hắn mới ra. “Sao lâu thế? Không nghe ám hiệu à?”. “Có. Nhưng y Quốc đọc thơ nhiều quá! Mẹ, mấy thằng lính tai trâu, chẳng thằng nào thích thơ. Y Quốc cứ nhè mình mà đọc. Muỗi đốt sưng cả chân!” - Nhân phàn nàn.

    Ngộ độc nấm rừng - phát hiện một bài thuốc quý
    Đầu tháng 9 năm 81, vào dịp Quốc khánh, chúng tôi được trên cấp món quà đặc biệt. Mỗi người được một gói mì tôm. Hôm ấy, vì có công việc, tôi đi cùng C7 ra rải đường, tuần tra cho xe lên. Anh Hòa mới từ tác chiến về làm đại trưởng. Anh em tình cũ dễ thân nhau. Có lẽ mấy năm rồi mới được ngửi mùi mì tôm. Lính tráng háo hức, cười nói rôm rả. Ai cũng nghĩ đến bữa ăn ngon lành sắp đến.
    Quản lý Lê Minh Quốc đã cấp mì tôm cho trung đội tuần đường. Vì phải ngủ ngoài rừng, nên hình như Quốc ưu tiên cấp cho mì 3 tôm. Còn đội ở nhà, Quốc cấp mì 2 tôm. Có người thắc mắc, giọng xứ Quảng của Quốc sang sảng: “Đồng chí Lê Duẩn vạch rõ, cần phải ưu tiên cho những người tuyến trước”. Lính tráng thấy Quốc nhiều chữ nghĩa, trích dẫn trên trời dưới biển, nên kinh hãi, im re. Giọng điệu này của Quốc nổi tiếng một thời khiến lính tráng vừa kinh ngạc vừa tự hào. Một anh quản lý đại đội, suốt ngày cân đo đong đếm mắm muối cơm gạo, nhưng hễ cất lời thì toàn là: “Lãnh tụ Lê-nin vạch rõ..”, “Bác Hồ nói tại hội nghị..”, “Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói…” v.v. và v.v… Mấy anh cán bộ đại đội như chính trị viên Nguyễn Văn Thân, đại phó Nguyễn Thế Xu,… đều thua Quốc khoản ăn nói. Thấy Quốc trích lời lãnh tụ đâu vào đấy, buổi tối, anh Xu cầm sổ đến hỏi Quốc, xin ghi chép lại. Thế là có một kho những lời hay ý đẹp làm vốn, dưới toàn tên lãnh tụ lừng danh. Đầy sức nặng. Anh Xu sướng lắm. Về học cả đêm. Bởi anh mới được thăng chức đại phó. Riêng anh Hòa, vốn là lính quân khí, biết tính Quốc, vỗ vai nói nhỏ: “Mì nào cũng được. Hai hay ba tôm là tên gọi thôi mà. Quan trọng là có cho bộ phận rải đường thêm không?”.

    Thơ đầy cánh võng
    Đó là võng của Lê Minh Quốc. Một hôm, tôi sang chỗ Quốc chơi. Y đi đâu mà để võng treo toòng teng thế này? Thôi cứ nằm chờ, đợi Quốc về. Nhưng vừa ngồi vào võng, định ngả mình, tôi thấy lạ. Nhìn vào đầu võng, thấy toàn thơ là thơ. Nhìn xuống giữa võng, cũng thấy toàn thơ Quốc viết. Đầu kia cũng vậy. Hắn viết bằng bút bi nên chữ không nhòe, rất rõ. Tôi lật mặt kia của võng lên xem, lại cũng thơ Quốc viết đầy. Cái anh chàng này, không có giấy hay sao mà phải viết thơ lên võng thế này?
    Tôi ngả mình, định đọc. Nhưng cái màu xanh của võng, của chữ cứ tràn vào mắt, không thể đọc tiếp. Bài nọ nối bài kia. Có mấy bài đóng khung trang trọng. Còn thì tràn ra khắp võng. Tôi định nằm mà không dám. Ai lại nằm lên chữ. Ngồi càng không, vì Quốc đã viết đầy cả ra chỗ ngồi. Y này điên thật. Cuồng chữ hay sao? Chữ Quốc khá rắn rỏi, rõ ràng. Cũng có lúc Quốc chê chữ mình, nhọn như hàng rào. Nhưng tôi thấy chữ Quốc rất có duyên, nhất là những nét móc, cong cong rất điệu đàng, ra dáng nghệ sỹ. Cả sư đoàn mấy ngàn người lính, hay thậm chí ngay ở Anlong Veng này, đi phối thuộc cùng tiểu đoàn tôi, nào lính trung đoàn (thông tin, trinh sát, vận tải,…), nào lính sư đoàn (trinh sát, vận tải, công binh,…), nào lính quân khu, binh chủng (không quân, tăng - thiết giáp,…), nhưng tôi cũng chưa thấy ai say mê chữ nghĩa như Quốc. Thật lạ lùng, lính Đà Nẵng cũng có nhiều trong đơn vị, nhưng Quốc có vẻ đặc biệt. Không hầm hố liều lĩnh như Lâm “gừ”, không ngang tàng như Võ Đình Chiến, không ủ ê rầu rĩ như Mai “sầu”, không ngoan ngoãn như Trần Tuấn Bảo, không to con như Trần Viết Hường, không đẹp trai như Lai báo vụ E, song ở Quốc, toát lên vẻ chữ nghĩa đầy mình. Mặc dù Quốc gầy nhẳng, nhưng bộ khung xương khá to nên nhìn không thấy yếu lính.
    Những bài thơ ấy, Quốc viết gì? Tôi ngửi thấy từ cánh võng bốc lên tầng tầng lớp lớp bụi đỏ dọc những con đường xuyên qua Mondulkiri, xuyên qua Ratanakiri. Tôi cảm thấy mùa mưa Tây Nguyên ầm ào đâu đây.“Con suối Đắc Đam đã trở thành kỷ niệm/ Ai thương tôi ngày mưa chiều cuối năm?”. Rồi những mùa khô cao nguyên, mênh mang trời đất, nồng nàn tuổi trẻ. Đêm nào Quốc trốn gác, vào xem mấy em Ê-đê, Bana để ngực trần giã gạo? Những bầu vú mập tròn cong vút núng nính dưới trăng? Thơ Quốc viết về lần đào ngũ vì nhớ Đà Nẵng, nhớ người yêu. Khi lên đơn vị, có mẹ đi cùng. Mẹ giao Quốc lại cho đơn vị. Thơ Quốc viết về cuộc chia tay một thằng bạn:“Giã từ mày nhé, Đăng Lâm/ Mùa mưa năm ấy mưa dầm An Lung”. Thơ Quốc viết có đôi giày há mõm, mòn vẹt: “Một ngày đi ba mươi cây số chưa được nghỉ”. Thơ Quốc viết về nỗi buồn lính chiến:“Nửa đêm thức dậy nhớ nhà/ Bỗng ôm mặt khóc như là trẻ con?/ Campuchia nhớ mỏi mòn/ Nhớ thương trong tận đáy hồn viễn chinh”. Tôi giở võng Quốc, cầm võng Quốc đọc như mở trang báo giữa rừng, thơ Quốc thấm vào tôi những lời nhắn gửi lắng sâu:“Em ở nơi xa làm sao biết được/ Nghĩa địa An-lung trong huyện Choăm-Ksan/ Người chết rồi còn lắm nỗi gian nan/ Một quả mìn cho hai lần được chết…”. Tôi đã đọc, đã thuộc ở võng rất nhiều, rất nhiều những vần thơ trận mạc của Quốc.
    Một người lính như thế, nhỡ chết đi thì tiếc biết bao! Quốc không bao giờ nói, rằng mình đã làm thơ từ tuổi hoa niên, với rất nhiều thơ thiếu nhi đăng trên báo Sài Gòn trước 75. Có lẽ Quốc sợ cán bộ chính trị và anh em nghi kỵ, rằng mình đã công tác với chế độ cũ hay sao mà giai đoạn tinh khôi, trong sáng ấy ít được Quốc kể? Mà kể ra làm gì? Khi xung quanh lính tráng chết đầy, khi xung quanh anh em đang vào sinh ra tử? Mà kể ra làm gì, khi ký ức tuổi thơ non xanh ấy có làm dịu không khí sắt thép đầy mùi thuốc súng của chiến trận?
    Và có lần, Quốc đã suýt chết. Ấy là một buổi sáng, Quốc cùng Nhân, Á, Hạnh đi tuần. Đi ngay trên con đường mòn gần đơn vị. Con đường này, hàng ngày chúng tôi vẫn đi qua, để lên Cam-tuất gùi đạn, gùi gạo. Quốc phải ra đường sớm. Đi kiểm tra xem có mìn không? Có địch phục không? Đang đi, Quốc vấp mìn. Nghe tách một cái, trái mìn bay lên ngang người Quốc, rơi bịch xuống. Quốc và Nhân đi gần nhau. Cả hai bị bất ngờ, vội lăn ra. Mặt tái xanh. Tim đứng lặng. Chờ nghe mìn nổ. Nhưng mãi không thấy. Hai tên bò dậy, thấy quả KP2 xanh lè, nằm ngay bên mình. Còn nguyên. Nhìn kỹ, thì ra quả mìn bị cài kíp ngược. Chắc thằng địch cài mìn vội vàng, nên đặt lộn kíp. Nếu nó đặt đúng, thì Quốc tiêu đời rồi. Trưa hôm ấy, tôi sang chỗ Quốc chơi. Quốc vẫn lặng im. Chắc chưa kịp hoàn hồn. Quốc còn sống, chắc nhờ âm phần che chở.
    Nhưng trong chiến tranh, được nếm mùi sém chết, cũng là một hạnh phúc, đúng không? Để mình được nhìn mình, vừa đi qua ranh giới sự sống và cái chết thế nào? Và được nhìn bóng dáng thần chết lướt qua mình ra sao? Để mình được sống, trở về, nhìn mọi chuyện trên đời bằng con mắt bao dung, bình dị. Quý giá nhất, đó là được tiếp tục học hành, là được tự mình làm công việc mình yêu thích, đúng không? Và nữa, là được yêu, được che chở cho một gương mặt xinh xắn, một mái tóc mềm nép vào ngực mình. Vậy thôi. Còn những chuyện khác, như gió, như mây. Tự đến rồi tự đi.
    Cái võng ấy, tiếc thật, không biết Quốc còn giữ được không? Và không biết Quốc có giặt không? Những dòng chữ ấy, những bài thơ ấy là minh chứng vĩ đại cho trái tim trinh nguyên của người lính tình nguyện. Một vẻ đẹp bất tử. Nếu chiếc võng ấy rơi vào tay địch, dù không biết chữ, nhưng tôi tin, kẻ địch chắc phải nhìn lại và nghĩ lại về người lính Việt Nam. Không cần tuyên ngôn này nọ, không cần pháo lớn súng to, chỉ cần chiếc võng đầy thơ cũng đủ khiến bọn địch kinh hãi. Nhưng chiếc võng ấy, vẫn treo toòng teng giữa rừng Anlong Veng. Mỏng manh. Thầm lặng. Dẫu chỉ mang đủ một người, nhưng có sức nặng biết bao nhiêu. Như một vầng trăng xanh giữa khói lửa chiến trường. Như một nhịp cầu nối nơi đây với thế giới bên ngoài. Và con người Việt Nam, ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ thời điểm nào, cũng có những người, như nhân chứng, như thư ký trung thành của thời đại, ghi lại những câu chuyện bằng văn thơ về năm tháng ấy, tại cánh rừng ấy, chúng tôi đã sống và chiến đấu như thế. Họ tìm mọi cách để kể. Như cách của Quốc. Khi đó, một chiếc võng không chỉ là một chiếc võng nữa, nó còn là minh chứng cho giá trị vô song của tâm hồn người lính.
     
    sucsongmoi thích bài này.
  3. machine

    machine Lớp 12

    Đêm nằm trong căn nhà bình yên, tôi thường nghĩ về những người đã cứu mình thoát chết trong chiến tranh. Đó là những ân nhân mà tôi muôn đời không quên. Họ đã nhiều lần chết thay tôi. Vì lẽ, nếu không có họ, chắc tôi đã phải đứng vào chỗ của họ. Và chết như họ. Những người đó đã hóa thành Đất. Đất nằm bên ngoài Tổ quốc thân yêu.
    (trích từ "Mùa chinh chiến ấy" - Đoàn Tuấn)
     
    amylee thích bài này.
  4. bánh mì sữa

    bánh mì sữa Mầm non

    Không biết có cuốn nào kể về tội ác Polpot không các bạn? Thấy có cuốn "Polpot mổ xẻ cơn ác mộng" mà không biết có hay không.
     
  5. machine

    machine Lớp 12

    Mình không rõ. Cuốn đó mình chưa đọc nên cũng không biết.
     
  6. amylee

    amylee Super Moderator Thành viên BQT

    Nghe nói hay lắm :D. Mà Amy sắp làm cuốn "Thoát khỏi địa ngục Khmer Đỏ" nè.
     
    tran ngoc anh and machine like this.
  7. machine

    machine Lớp 12

    Trích từ tập thơ
    Và nguyên mẫu ngoài đời
     
    minhnghenhac and amylee like this.
Moderators: Ban Tang Du Tử

Chia sẻ trang này