Tâm lý - Giáo dục G Đi Tìm Lẽ Sống (Man's search for meaning) - Viktor E. Frankl

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi notrinos, 14/7/15.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. notrinos

    notrinos Lớp 5

    Trạng thái tồn tại chân không

    Trạng thái tồn tại chân không là một hiện tượng tâm lý phổ biến của con người ở thế kỷ 20. Đây là một điều dễ hiểu; có lẽ là do sự mất mát nhân đôi mà con người từng phải trải qua từ khi trở thành con người thực sự. Vào buổi bình minh của lịch sử loài người, con người đã mất đi một số bản năng cơ bản của loài thú. Từ đó, sự an toàn, giống như trên Thiên đường, đã đóng chặt mãi mãi với con người; và con người buộc phải có những lựa chọn khác. Rôi sau đó, trong tiến trình phát triển ở các giai đoạn sau này, con người còn phải chịu những mất mát khác như các truyền thống nhằm củng cố hành vi của con người giờ đã bị suy giảm nhanh chóng. Không còn bản năng cho một người biết mình phải làm gì, và không còn truyền thống nói cho người đó biết mình nên làm gì; đôi khi người đó thậm chí còn không biết mình muốn làm gì nữa. Thay vào đó, người đó muốn làm những gì mà người khác làm (chủ nghĩa tuân thủ) và muốn làm những gì mà người khác yêu cầu mình thực hiện (chế độ chuyên chế).
    Một cuộc khảo sát gần đây đã cho thấy trong số các sinh viên châu Âu, 25% có biểu hiện ít nhiều về mức độ của "trạng thái tồn tại chân không". Giữa các sinh viên Mỹ, con số này không chỉ ở 25% mà lên tới 60%.
    Trạng thái tồn tại chân không biểu hiện chủ yếu qua tâm trạng chán nản. Giờ thì chúng ta có thể hiểu luận điểm của Schopenhauer khi ông ấy nói rằng con người rõ ràng bị đoạ đày để sống lơ lửng vĩnh viễn giữa hai thái cực đau khổ và buồn bã. Thực tế, sự chán nản chắc chắn đem lại cho các chuyên gia tâm lý nhiều vấn đề để giải quyết, chứ không chỉ đơn thuần là sự đau khổ của con người. Và tình trạng tồn tại chân không này đang gia tăng mạnh bởi vì quá trình tự động hoá có thể đem lại nhiều giờ nghỉ hơn cho đa số công nhân. Đáng tiếc là nhiều người trong số họ sẽ không biết làm gì với số lượng thời gian rảnh rỗi mới này.
    Hãy xem xét ví dụ về tình trạng "rối loạn tinh thần vào ngày chủ nhật", nhiều người rơi vào trạng thái trầm cảm vào ngày nghỉ cuối tuần, khi những ngày bận rộn trong tuần trôi qua và đến chủ nhật, họ nhận ra cuộc sống của mình thật trống trải, vô vị. Một số trường hợp tự đã sát đã được xác nhận nguyên nhân là do trạng thái tồn tại chân không. Các triệu chứng phổ biến như trầm cảm, cáu bẳn và nghiện ngập là những biểu hiện khác nhau của trạng thái này. Trạng thái tồn tại chân không cũng là nguyên nhân đứng đằng sau những triệu chứng khủng hoảng ở nhiều tù nhân và người cao tuổi.
    Hơn nữa, trạng thái tồn tại chân không còn được nguỵ trang dưới những chiếc mặt nạ hay vỏ bọc khác nhau. Đôi khi, mong muốn tìm hiểu ý nghĩa cuộc sống bị thất bại và được thay thế bằng hình thái cổ xưa nhất của khao khát quyền lực là khao khát tiền bạc. Trong các trường hợp khác, ham muốn khoái lạc chiếm chỗ của khao khát về ý nghĩ cuộc sống. Đó là lý do tại sao sự thất vọng về hiện trạng cuộc sống thường được giải quyết bằng sự bù đắp tình dục. Chúng ta có thể nhìn thấy những trường hợp người ta không thể kiểm soát được các hành vi tính dục trong trạng thái tồn tại chân không.
    Các ca rối loạn tinh thần cũng là biểu hiện của trạng thái tồn tại trên. Có một số loại cơ chế phản ứng và các đặc thù có tính chu kỳ đối với trường hợp này mà tôi sẽ nói tới sau. Tuy nhiên, ta có thể thấy rằng triệu chứng này thường xuyên xuất hiện ở bất kỳ đối tượng nào có biểu hiện của trạng thái tồn tại chân không, và chúng không ngừng phát triển mạnh mẽ. Đối với những bệnh nhân này, vấn đề các bác sĩ phải đối mặt không phải chỉ là căn bệnh rối loạn tinh thần. Chúng ta sẽ không bao giờ thành công trong việc giúp bệnh nhân vượt qua được bệnh trạng của mình nếu không đưa ra liệu pháp điều trị tâm lý kết hợp với liệu pháp ý nghĩa. Bằng cách lấp đầy trạng thái tồn tại chân không của người bệnh, chúng ta mới có thể ngăn ngừa việc bệnh sẽ tái phát về sau. Vì vậy, liệu pháp ý nghĩa được chỉ định không chỉ trong những trường hợp rối loạn tinh thần như đã đề cập ở trên, mà còn cho các trường hợp bắt nguồn từ tâm lý, và đôi khi cả những trường hợp rối loạn thần kinh vật lý (giả). Nhìn nhận vấn đề từ góc độ này, Magda B.Arnold có lần đã nói: "Theo một cách nào đó, mỗi phương pháp điều trị tâm lý cũng là liệu pháp ý nghĩa".
    Giờ chúng ta hãy xem mình có thể làm gì nếu một bệnh nhân hỏi về ý nghĩa cuộc sống của anh ta là gì.

    Ý nghĩa cuộc sống

    Với tư cách một bác sĩ tâm lý, tôi có thể nói rằng thật khó để có thể trả lời câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống nếu chỉ dựa trên những lý thuyết mang tính tổng quát. Bởi vì ý nghĩa cuộc sống của mỗi người mỗi khác nhau, và nó có thể thay đổi theo từng ngày, từng giờ. Vì vậy, điều quan trọng không phải là ý nghĩa cuộc sống nói chung mà là ý nghĩa cụ thể trong cuộc sống của mỗi người vào từng thời điểm nhất định. Câu hỏi “ý nghĩa cuộc sống của tôi là gì?” cũng giống như câu hỏi được đặt ra cho người thắng giải quán quân trong một trận cờ: “Thưa Kỳ sư, xin hãy nói cho tôi biết nước cờ nào là hay nhất trên đời?”. Đơn giản là chẳng có nước cờ nào như thế cả, bởi vì nước cờ hoàn hảo nhất hoặc hay nhất xuất phát từ một tình huống cụ thể trong trận đấu và cá tính cụ thể của đối thủ. Ý nghĩa về sự tồn tại của con người cũng vậy. Một người không nên tìm kiếm ý nghĩa trừu tượng về cuộc sống. Mỗi người đều đảm nhận một công việc, vai trò cụ thể trong cuộc sống. Vì vậy, không ai có thể thay thế người đó cũng như cuộc đời của người đó cũng không thể lặp lại. Vì vậy, nhiệm vụ của một người là duy nhất, và cơ hội mà người ấy thực hiện nhiệm vụ đó cũng là duy nhất.

    Vì mỗi tình huống trong đời tượng trưng cho một thử thách mà mỗi cá nhân phải tìm cách giải quyết, cho nên câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống thực ra có thể đảo ngược. Xét cho cùng, con người không nên cứ hỏi rằng điều gì là có ý nghĩa cho cuộc sống của mình, mà bản thân anh ta phải là người trả lời câu hỏi đó. Nói cách khác, cuộc sống luôn đặt câu hỏi cho mỗi người, và con người chỉ có thể trả lời cuộc sống thông qua chính cuộc sống riêng của mình; trả lời cuộc sống bằng thái độ sống có trách nhiệm của bản than. Vì vậy, liệu pháp ý nghĩa xem trách nhiệm là điều cần thiết cho sự tồn tại của con người.
     
    Chỉnh sửa cuối: 1/5/16
  2. notrinos

    notrinos Lớp 5

    Điều cần thiết cho sự tồn tại

    Kêu gọi tinh thần trách nhiệm là nhiệm vụ khẩn thiết hàng đầu của liệu pháp ý nghĩa, tức là: "Hãy sống như thể bạn đang được sống lần thứ hai và đang sắp phạm phải sai lầm như đã từng phạm phải lần đầu tiên". Đối với tôi, dường như không gì có khả năng khơi dậy tinh thần trách nhiệm của một người hơn là câu châm ngôn này, vế thứ nhất gợi mở rằng hiện tại là sự lặp lại của quá khứ, và vế thứ hai mang hàm ý quá khứ có thể thay đổi và sửa chữa. Câu châm ngôn ấy đặt con người vào tình thế đối mặt với tính hữu hạn của cuộc sống cũng như hành động cuối cùng mà người đó đã tạo ra cho mình và cho đời.
    Liệu pháp ý nghĩa cố gắng giúp bệnh nhân nhận ra trách nhiệm của bản thân để người đó hiểu được trách nhiệm của mình là để thực thi nhiệm vụ nào, hướng tới mục tiêu gì, hoặc dành cho ai. Đó là lý do tại sao các chuyên gia liệu pháp ý nghĩa ít áp đặt các xét đoán của mình lên bệnh nhân, bởi vì họ không bao giờ cho phép bệnh nhân đẩy trách nhiệm về phía bác sĩ.
    Do đó, chính bệnh nhân sẽ quyết định rằng nên xác định ý nghĩa cuộc sống của mình theo hướng thực hiện trách nhiệm với xã hội hay với chính lương tâm của mình. Tuy nhiên có những người không muốn ý nghĩa cuộc đời họ chỉ đơn thuần là để hoàn thành một nhiệm vụ được giao, mà họ muốn tự mình là người giao nhiệm vụ cho bản thân - tự mình định hướng ý nghĩa cuộc đời mình.
    Liệu pháp ý nghĩa không mang tính giáo điều, thuyết giảng. Nó cũng hiếm khi đề cập đến những lập luận logic bởi nó xuất phát từ sự thúc đẩy về tinh thần. Nói một cách bóng bẩy, chuyên gia liệu pháp ý nghĩa sẽ sử dụng cái nhìn của một nhà thẩm định hội hoạ chứ không phải cặp mắt của một hoạ sĩ. Hoạ sĩ sẽ cố gắng truyền tải đến người xem bức tranh của thế giới theo cách nhìn của mình; còn nhà thẩm định hội hoạ sẽ cố gắng để chúng ta nhìn thấy một thế giới chân thực. Vai trò của chuyên gia liệu pháp ý nghĩa bao gồm cả việc mở rộng tầm nhìn của bệnh nhân, khiến họ dễ dàng thấy rõ toàn bộ ánh hào quang rực rõ của một cuộc sống giàu ý nghĩa.
    Khi tuyên bố rằng con người phải hành động để hiện thực hoá ý nghĩa cuộc sống và có trách nhiệm về điều đó, tôi muốn nhấn mạnh rằng ý nghĩa thực sự của cuộc sống sẽ được khám phá trong đời thực hơn là chỉ trong bản thân một con người hay trong phạm vi đời sống tinh thần của người đó, mặc dù hai phạm trù này có liên hệ mật thiết với nhau. Tôi gọi đặc tính cơ bản này là "sự vượt lên cái tôi hạn hẹp". Nó chỉ rõ một thực tế là con người luôn luôn hướng, và được định hướng, tới một cái gì đó hoặc một ai đó khác hơn là chính mình - một điều cần phải hoàn thành hoặc một người nào đó cần phải gặp. Một người càng quên đi bản thân mình - bằng cách cho mình một lý do để phụng sự hoặc chọn cách sống vì một người mà mình thương yêu - thì người đó càng có nhiều nhân tính và càng phát triển bản thân hơn. Sự tự trưởng thành không phải là một mục tiêu có thể đạt được dễ dàng, bởi một lý do đơn giản là một người càng phấn đấu để đạt được điều gì đó thì người ấy càng bỏ mất nó. Nói cách khác, sự trưởng thành chỉ có thể là một sản phẩm được tạo ra từ việc vượt lên cái tôi cá nhân hạn hẹp.
    Vì vậy, chúng tôi đã chứng minh rằng ý nghĩa cuộc sống luôn thay đổi, nhưng nó không bao giờ dừng lại. Theo liệu pháp ý nghĩa, chúng ta có thể tim thấy ý nghĩa này trong cuộc sống theo ba cách khác nhau: (1) tạo ra một công việc hoặc thực hiện một điều gì đó; (2) trải nghiệm điều gì đó hoặc gặp gỡ một ai đó; và (3) bằng thái độ chúng ta đối mặt với đau khổ. Cách đầu tiên - nhằm đạt được thành công hoặc thành tựu nào đó -thì khá dễ hiểu. Cách thứ hai và thứ ba cần phải giải thích thêm.
    Cách thứ hai là hãy trải nghiệm một việc gì đó - chẳng hạn như lòng tốt, chân lý và cái đẹp thông qua những trải nghiệm tự nhiên và văn hoá, và cuối cùng không kém phần quan trọng là cảm nhận vẻ độc đáo của một người khác bằng tình yêu thương dành cho người ấy.

    Ý nghĩa của yêu thương

    Tình yêu là cách duy nhất để thấu hiểu đến tận cùng một con người. Không ai có thể nhận thức đầy đủ về bản chất của một con người trừ khi đã đem lòng yêu thương người ấy. Bằng tình yêu, một người có thể nhìn thấy những phẩm chất và đặc tính cần thiết ở người mình yêu thương; và hơn nữa, người ấy còn nhìn thấy được những năng lực tiềm ẩn của bản thân – những năng lực tuy chưa phát triển hết nhưng cần phải được phát triển. Hơn nữa, bằng tình yêu của mình, người đó có thể khiến cho người mình yêu thương nhận ra những tiềm năng ở họ. Bằng cách nhận ra mình có thể là người thế nào và mình sẽ trở thành người ra sao, người đó sẽ biến những tiềm năng ấy thành sự thật.
    Trong liệu pháp ý nghĩa, người ta không cho tình yêu chỉ là một hiện tượng phụ (15) của động cơ và bản năng tính dục, mà tình yêu là một hiện tượng quan trọng cũng giống như tình dục. Thường thì tình dục là một phương thức biểu hiện của tình yêu. Tình dục được biện hộ, thậm chí được bào chữa bất cứ khi nào nó xuất phát từ tình yêu. Vì vậy, tình yêu không phải là một hiệu ứng phụ của tình dục, mà tình dục là một biểu hiện của sự tan hoà vào nhau mà người ta gọi là tình yêu.
    Cách thứ ba để con người tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống là thông qua đau khổ.

    Ý nghĩa của sự đau khổ

    Chúng ta không bao giờ được quên rằng chúng ta vẫn có thể tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời ngay cả khi đối diện với một tình huống vô vọng, với một số phận không thể thay đổi. Vì điều quan trọng là chúng ta sẽ thấy được năng lực thật sự của bản thân, vốn có thể thay đổi bi kịch cá nhân thành chiến thắng, biến hoàn cảnh nghiệt ngã thành sự mạnh mẽ của bản thân. Khi chúng ta không còn khả năng thay đổi hoàn cảnh - như mắc phải căn bệnh nan y, chẳng hạn ung thư giai đoạn cuối - nghĩa là chúng ta đang được thử thách để thay đổi chính mình.
    Cho phép tôi trích dẫn một ví dụ để làm sáng rõ luận điểm trên: Có lần, một bác sĩ đa khoa đã nhờ tôi tư vấn vì mắc chứng trầm cảm. Ông không thể vượt qua được nỗi đau mất vợ hai năm trước, bà ấy là người ông yêu thương nhất đời. Giờ thì tôi có thể làm gì để giúp ông? Tôi nên nói điều gì? Và tôi đã không nói gì với ông ngoại trừ một câu hỏi: "Bác sĩ, điều gì sẽ xảy ra nếu như ông chết trước và vợ ông là người ở lại?". "Ồ," - ông thốt lên, - "điều đó thật khủng khiếp đối với bà ấy; làm sao bà ấy có thể chịu đựng nổi!". Tôi đáp lời ông: "Ông thấy đó, bác sĩ, bà ấy không phải chịu nỗi đau đó và ông đã là người gánh chịu thay cho bà - vì vậy, việc giờ đây ông phải sống và nhớ thương bà ấy là có ý nghĩa sâu sắc của nó". Ông ấy không nói gì mà chỉ nắm lấy tay tôi và thanh thản rời khỏi văn phòng. Theo cách nào đó, một người sẽ không còn cảm thấy đau khổ nữa ngay vào thời khắc họ tìm thấy ý nghĩa nào đó cho cuộc sống của mình, chẳng hạn như ý nghĩa của sự hy sinh.
    Dĩ nhiên đây không hẳn là việc điều trị theo đúng nghĩa của nó, bởi vì thứ nhất, sự tuyệt vọng của một người không phải là bệnh; và thứ hai, tôi không thể thay đổi số phận của ông ấy, tôi không thể giúp vợ ông ấy sống lại. Nhưng vào lúc đó, tôi đã thành công trong việc thay đổi thái độ của ông ấy về số phận không thể thay đổi của ông, bởi vì từ lúc ấy, ít nhất ông ấy đã có thể nhận thấy ý nghĩa trong sự chịu đựng của mình. Đây là một trong những nguyên lý cơ bản của liệu pháp ý nghĩa, trong đó mối quan tâm của con người không phải là để đạt được sự sung sướng hoặc né tránh khổ đau mà là nhìn thấy được ý nghĩa của đời mình. Điều này giải thích vì sao con người sẵn sàng chịu đựng khổ đau, miễn rằng họ biết chắc sự chịu đựng của mình là có ý nghĩa.
    Tôi muốn nói rõ một điều rằng: không nhất thiết phải trải qua đau khổ thì con người mới tìm thấy ý nghĩa cuộc sống. Tôi chỉ nhấn mạnh là con người vẫn có thể tìm thấy ý nghĩa trong đau khổ - nếu đó là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, nếu có thể tránh được thì việc cần làm là hãy xoá bỏ nguyên nhân của nó, dù nguyên nhân này thuộc về tâm lý, sinh lý hay chính trị. Chịu khổ một cách không cần thiết là khùng điên hơn là anh hùng.
    Trước khi qua đời, Edith Weisskopf-Joelson, nữ giáo sư của Đại học Georgia đã khẳng định trong bài viết của mình về liệu pháp ý nghĩa rằng: "Các quan điểm về sức khoẻ thần kinh hiện nay nhấn mạnh ý niệm cho rằng đã là người thì phải hạnh phúc, rằng bất hạnh là một triệu chứng rối loạn thích ứng. Cách chẩn đoán phân biệt như thế chẳng khác nào làm cho nỗi bất hạnh không thể tránh được, vốn đã là một gánh nặng, giờ càng thêm nặng nề bởi chính nỗi chán chường về tình trạng bất hạnh, kém may mắn của mình". Và trong một bài báo khác, bà đã thể hiện hy vọng rằng liệu pháp ý nghĩa "có thể giúp giải quyết những xu hướng tiêu cực trong nền văn hoá ngày nay ở Mỹ, nơi những người mắc bệnh nan y có rất ít cơ hội để tự hào về những đau khổ của mình, họ càng không thể xem nỗi đau là cao quý chứ không phải là sự thấp hèn" vì vậy "những người này không chỉ cảm thấy bất hạnh mà còn xấu hổ vì sự bất hạnh của mình" (16).
    Có khi chúng ta bị tước đi cơ hội làm việc hay cơ hội hưởng thụ cuộc sống, nhưng dì là gì thì chúng ta cũng không thể tránh được sự đau khổ. Bằng cách can đảm chấp nhận đau khổ, xem đó như là thử thách cần vượt qua, cuộc sống có ý nghĩa đến tận giây phút cuối cùng, và nó vẫn giữ nguyên ý nghĩa này cho đến khi mọi sự kết thúc. Nói cách khác, ý nghĩa cuộc sống là một ý nghĩa vô điều kiện, bởi vì nó bao hàm luôn cả ý nghĩa về nỗi đau không thể tránh được.
    Hãy để tôi nhắc lại sự việc có lẽ là trải nghiệm sâu sắc nhất của tôi trong trại tập trung. Tỷ lệ sống sót trong trại không hơn 1/28 như các thống kê chính xác đã nêu. Sự sống dường như là vô vọng, cũng vô vọng như nỗ lực của tôi trong việc cứu lấy tập bản thảo cuốn sách đầu tiên mà tôi giấu trong áo khoác khi mới đến Auschwitz. Vì vậy, tôi phải chịu đựng và vượt qua nỗi đau mất mát đứa con tinh thần của mình. Và khi ấy, dường như không ai và không điều gì có thể làm động lực sống cho tôi, bởi vợ chồng tôi chưa có con mà đứa con tinh thần của tôi cũng đã không còn! Thế là tôi thấy mình đang đối diện với một câu hỏi, rằng trong hoàn cảnh này, cuộc đời của tôi rốt cuộc có vô nghĩa hay không.
    Tôi đã không nhận ra rằng trong khi tôi vẫn đau đáu với câu hỏi này thì lời đáp đã có sẵn và đến với tôi không lâu sau đó. Đấy là lúc tôi phải cởi bỏ bộ quần áo của mình và mặc vào mớ đồ rách nát của một người tù khác – người đã bị đưa tới phòng hơi ngạt ngay sau khi đến Auschwitz. Thay cho những trang bản thảo của mình, tôi đã tìm thấy trong túi chiếc áo khoác ấy một trang được xẽ ra từ kinh Do Thái, chứa những lời cầu nguyện quan trọng nhất của người Do Thái – Shema Yisrael. Tôi nên giải thích sự “trùng hợp” này như thế nào đây ngoài việc cho đó là một thử thách, yêu cầu tôi sống với các ý tưởng của mình thay vì viết chúng lên giấy?
    Tôi nhớ lại, một lúc sau, tôi có cảm giác dường như không bao lâu nữa mình sẽ chết. Thế nhưng trong hoàn cảnh khó khăn này, mối bận tâm của tôi lại khác với hầu hết những tù nhân khác. Câu hỏi của họ là: “Liệu chúng ta có sống sót nổi trong trại không? Nếu không, thì tất cả những đau khổ này là vô nghĩa”. Còn câu hỏi chiếm lĩnh tâm trí tôi khi ấy là: “Liệu tất cả những đau khổ này, sự chết chóc bao quanh chúng tôi này, có một ý nghĩa nào chăng?”. Vì nếu không thì rốt cuộc chẳng còn ý nghĩa gì để sinh tồn cả; bởi vì nếu ý nghĩa cuộc sống bị phụ thuộc vào những tình huống ngẫu nhiên, ngoài tầm kiểm soát của bản thân thì cuối cùng – dù có tìm được lối thoát hay không – mọi nỗ lực của ta đều là vô nghĩa.
     
    Last edited by a moderator: 10/5/16
  3. notrinos

    notrinos Lớp 5

    Những vấn đề về điều trị

    Ngày càng có nhiều bệnh nhân tìm đến bác sĩ tâm lý để tư vấn về các vấn đề tình cảm hơn là về các bệnh thần kinh. Nếu ngày nay một số người gọi cho bác sĩ tâm lý, thì ngày xưa họ sẽ tìm đến các linh mục, thầy tu hay giáo sĩ. Ngày nay, những đối tượng này thường từ chối gặp các thầy tu và tìm gặp bác sĩ với những câu hỏi đại loại như "Tôi sống có ý nghĩa gì?".

    Ý nghĩa trong bi kịch

    Tôi xin kể với các bạn câu chuyện sau: Có lần, một phụ nữ được đưa vào khoa của tôi sau khi tự tử hụt. Chị có đứa con trai đã chết năm cháu được 11 tuổi. Bác sĩ Kurt Kocourek đã mời chị tham dự một cuộc trị liệu nhóm, và ngẫu nhiên tôi bước vào phòng nơi ông đang tiến hành việc điều trị khi chị kể lại câu chuyện của mình. Sau khi cậu con trai nhỏ của chị qua đời, chị sống với đứa con lớn bị bại liệt. Đứa trẻ tội nghiệp phải di chuyển quanh nhà trên chiếc xe lăn. Tuy nhiên, mẹ của cậu bé không chấp nhận số phận ấy và chị muốn tự tử. Nhưng khi chị cố làm điều đó cùng với đứa con tật nguyền thì chính cậu đã ngăn mẹ lại: cậu bé muốn sống! Đối với cậu, cuộc sống vẫn còn nhiều ý nghĩa. Tại sao mẹ cậu lại không thấy như vậy? Cuộc sống của bà vẫn có ý nghĩa ra sao? Làm thế nào chúng tôi có thể giúp bà nhận ra điều đó?
    Tình cờ tôi tham gia vào cuộc thảo luận và đặt câu hỏi cho một người phụ nữ khác trong nhóm. Tôi hỏi cô ấy bao nhiêu tuổi và cô trả lời: "Ba mươi". Tôi đáp: "Không, cô không phải là một phụ nữ 30 mà là một bà cụ 80 và đang hấp hối trên giường bệnh. Và lúc ấy, cô mới nhìn lại cuộc sống của mình - một cuộc sống không có tuổi thơ nhưng dư giả về tài chính và có địa vị trong xã hội". Và rồi tôi hỏi cô ấy: "Cô nghĩ như thế nào nếu cô lâm vào tình huống như trên? Cô sẽ nói gì với chính mình?". Cho phép tôi trích dẫn những gì cô ấy đã nói trong cuộn băng ghi âm buổi hôm đó: "Tôi đã cưới một triệu phú và có cuộc sống giàu sang dễ dàng, tôi đã bị cuốn vào vòng xoáy đó! Tôi tán tỉnh đàn ông; tôi giễu cợt họ! Nhưng giờ tôi đã 80 tuổi; tôi không có con. Nhìn lại khi về già, tôi không thấy tất cả những điều đó có ý nghĩa gì; thật ra tôi phải nói cuộc đời của tôi là một thất bại".
    Rồi tôi mời người mẹ của cậu bé tật nguyền hãy thử tưởng tượng khung cảnh khi chị đã 80 tuổi, đang hấp hối trên giường bệnh và nhìn lại cuộc sống của chính mình. Sau đây là những gì chị ấy đã nói trong cuộn băng: "Tôi đã ước ao mình sẽ có con, và điều ước này đã thành hiện thực; nhưng một đứa đã chết; đứa còn lại thì tật nguyền và có thể bị gửi đến trại từ thiện nếu tôi không đủ khả năng chăm sóc nó. Mặc dù nó tật nguyền và vô dụng, nhưng dù sao nó vẫn là con của tôi. Và vì con, tôi phải sống hết mình, phải trở thành một người tốt hơn". Nước mắt chị trào ra, chị tiếp tục: "Với tôi, tôi có thể thanh thản nhìn lại cuộc sống của mình; vì tôi có thể nói cuộc đời tôi có ý nghĩa, và tôi đã cố gắng để thực hiện nó; tôi đã làm hết sức - tôi đã cố gắng sống vì con mình. Cuộc đời tôi không hề thất bại!". Nhìn lại cuộc đời mình như thể mình đang trong giờ phút hấp hối, chị bỗng nhiên nhận ra ý nghĩa của cuộc đời, một ý nghĩa bao gồm cả nỗi bất hạnh của bản thân. Vì lẽ đó, dù rằng cuộc đời có ngắn ngủi - như đối với cậu con trai đã mất của chị - nhưng nếu nó đầy ắp niềm vui và tình yêu thương thì nó còn có ý nghĩa hơn cả một cuộc đời kéo dài tới 80 năm trong buồn bã.
    Một lúc sau, tôi tiếp tục đặt ra một câu hỏi khác, lần này là với cả nhóm. Câu hỏi là liệu một con vượn bị tiêm chích nhiều lần với mục đích phát triển huyết thanh ngừa bại liệt có thể hiểu được ý nghĩa sự đau đớn của nó hay không. Cả nhóm nhất trí trả lời rằng dĩ nhiên con vượn không hiểu; với trí thông minh có hạn, nó không thể bước vào thế giới loài người - một thế giới duy nhất có thể hiểu được ý nghĩa của sự đau khổ. Rồi tôi dẫn dắt mọi người đến câu hỏi: "Vậy con người thì sao? Các bạn có chắc rằng thế giới con người là điểm mút trong sự tiến hoá của vũ trụ? Phải chăng vẫn còn một chiều không gian khác mà con người chưa biết - một thế giới vượt xa khỏi thế giới của loài người - một thế giới mà trong đó, ý nghĩa tối hậu của những khổ đau của con người sẽ có lời đáp?"

    Ý nghĩa tối thượng

    Cái ý nghĩa tối hậu này vượt ngoài phạm vi hiểu biết của con người; trong liệu pháp ý nghĩa, chúng tôi đề cập đến nó trong ngữ cảnh về một ý nghĩa tối thượng. Trách nhiệm của một người trong cuộc đời này - như một số triết gia từng nói - không phải là để kéo dài một cuộc sống vô nghĩa mà là chịu đựng việc lý trí của anh ta bất lực trong việc nắm bắt đầy đủ ý nghĩa của cuộc sống. Logos (Ý nghĩa) bao hàm ý nghĩa sâu xa hơn là logic.
    Nếu nhà tâm lý không hiểu được khái niệm ý nghĩa tối thượng thì không sớm thì muộn người đó sẽ phải lúng túng trước các bệnh nhân của mình, giống như tôi đã từng gặp khi đứa con gái 6 tuổi của mình hỏi: "Tại sao chúng ta nói Chúa nhân từ ạ?". Lúc đó tôi đã trả lời rằng: "Nhiều tuần trước, con bị sởi, và rồi Chúa nhân từ đã cho con khỏi bệnh". Tuy nhiên, con bé không đồng ý, nó bắt bẻ: "Bố, Bố đừng quên rằng Chúa đã gửi bệnh sởi tới cho con trước đấy!".
    Tuy nhiên, khi một bệnh nhân có đức tin vào tôn giáo thì ta có thể tiến hành điều trị với hiệu quả cộng hưởng từ sức mạnh tâm linh ấy. Để làm như vậy, bác sĩ tâm lý cần phải đặt mình vào vị trí của bệnh nhân. Đó chính là điều mà tôi đã từng làm khi một vị giáo sĩ Do Thái từ Đông Âu kể với tôi về câu chuyện của đời mình. Ông đã mất người vợ đầu và sáu đứa con trong trại tập trung Auschwitz, tất cả họ đều bị đưa đến phòng hơi ngạt. Người vợ sau của ông lại bị vô sinh. Tôi cho rằng sinh con đẻ cái không phải là ý nghĩa duy nhất của cuộc đời, vì nếu chỉ như thế thì cuộc sống ấy sẽ trở thành vô nghĩa, mà bản thân một điều gì đó tự nó đã không có ý nghĩa thì dù nó có tồn tại vĩnh viễn cũng vô ích. Tuy nhiên, vị giáo sĩ nói với quan điểm Do Thái giáo chính thống đã tuyệt vọng khi cho rằng không có con trai thì sẽ không có ai đọc kinh Kaddish(17) cho ông sau khi ông mất cả.
    Nhưng tôi không bỏ cuộc. Tôi cố gắng giúp ông bằng cách hỏi liệu ông có thể gặp lại các con của mình trên Thiên đường không? Tuy nhiên, câu hỏi của tôi đã khiến ông bật khóc, và rồi lý do thật sự cho nỗi tuyệt vọng của ông đã bộc lộ: ông giải thích rằng kể từ lúc các con ông - những đứa trẻ vô tội - chết đi, chúng đã có chỗ xứng đáng trên Thiên đường, nhưng ông - một người già nua, tội lỗi - sẽ không thể đến được nơi ấy. Tôi đáp lại: "Giáo sĩ, chính xác thì không có gì khó hiểu về ý nghĩa trong việc ông đã sống lâu hơn các con của mình cả: Chẳng phải ông đã được thanh tẩy bằng đau khổ trong suốt những năm ấy, để cuối cùng, cho dù không vô tội như các con của mình, nhưng ông cũng đã trở nên xứng đáng để được gặp lại chúng trên Thiên đường hay sao? Không phải điều này đã được ghi trong Thánh Vịnh, rằng Thượng Đế lưu giữ tất cả nước mắt của loài người hay sao?(18) Vì vậy, có thể nói không có sự đau khổ nào là vô ích cả". Lần đầu tiên trong nhiều năm, ông đã tìm thấy sự thanh thản từ nỗi đau của mình qua một cách nhìn mới mà tôi đã gợi mở cho ông ấy.
     
    Chỉnh sửa cuối: 10/5/16
  4. notrinos

    notrinos Lớp 5

    Cuộc sống ngắn ngủi

    Những điều dường như có thể tước đoạt ý nghĩa cuộc sống của con người không chỉ có nỗi đau mà còn có cả cái chết. Tôi luôn cho rằng những thứ tạm thời duy nhất trong cuộc sống là các khả năng; nhưng ngay khi được hiện thực hoá, những khả năng ấy đã được giữ lại và chuyển vào quá khứ. Tại đây, chúng được phục hồi và bảo tồn, thoát khỏi tính chất ngắn ngủi của sự vật. Vì trong quá khứ, mọi thứ đều được lưu giữ mãi mãi.
    Do đó, sự tồn tại tạm thời của chúng ta không hề vô nghĩa. Nó khiến chúng ta có trách nhiệm hơn với sự tồn tại của mình; bởi vì mọi thứ đều xoay quanh nhận thức của chúng ta về các khả năng tạm thời. Con người không ngừng đưa ra lựa chọn cho mình về một loạt các tiềm năng hiện tại; tiềm năng nào sẽ được cho là không thể và tiềm năng nào sẽ được hiện thực hoá? Lựa chọn nào sẽ trở thành hiện thực một lần và mãi mãi, một "dấu ấn trong cát bụi thời gian?". Dù là để tốt hơn hay làm cho xấu đi, con người vẫn phải quyết định trong mọi thời điểm rằng cái gì là dấu ấn cho sự tồn tại của mình.
    Con người thường chỉ hướng tới những cánh đồng thu hoạch ngắn hạn mà bỏ qua và quên hẳn kho thóc đầy ắp của quá khứ, nơi họ đã từng được cứu vớt, với tất cả thành tích, niềm vui và nỗi buồn. Ở đó, mọi việc đều đã hoàn thành và không gì có thể phá bỏ. Tôi phải nói rằng đã từng sống là một hình thức chắc chắn nhất của sự tồn tại.
    Nhấn mạnh về sự tồn tại ngắn ngủi nhưng thiết yếu của con người, liệu pháp ý nghĩa không mang tính bi quan mà hướng về sự chủ động. Để hiểu rõ quan điểm này, bạn có thể hình dung: Bi quan giống như một người cảm thấy buồn bã và sợ hãi khi chứng kiến từng tờ lịch bị bóc đi mỗi ngày, thấy cuốn lịch ngày một mỏng hơn. Ngược lại, người chủ động ứng biến trước các vấn đề trong cuộc sống giống như người mỗi ngày bóc từng tờ lịch, lưu giữ thật gọn gàng và cẩn thận cùng với các tờ lịch trước, sau khi đã viết một ít ghi chú hàng ngày vào mặt sau của tờ lịch. Người đó có thể bộc lộ niềm vui và sự tự hào trong những ghi chú này vì đã sống một cuộc sống trọn vẹn nhất. Anh ấy sẽ nghĩ gì nếu biết mình đã già đi? Liệu người đó có lý do gì để ghen tỵ với những người trẻ tuổi hơn hay che giấu sự luyến tiếc về tuổi trẻ đã qua của mình? Những lý do nào khiến người đó phải ghen tỵ với người trẻ hơn? Bởi vì người trẻ có một tương lai đang chào đón ư? "Không, cám ơn!", người đó sẽ nghĩ vậy. Thay cho các khả năng, tôi có những sự việc thực trong quá khứ, không chỉ thực tế về công việc đã làm và tình yêu đã có, mà cả về những đau khổ mà tôi đã dũng cảm trải qua. Những nỗi đau này thậm chí là những việc mà tôi tự hào nhất, mặc dù đây là những điều chẳng có gì đáng để người khác ghen tỵ".

    Liệu pháp ý nghĩa như một kỹ thuật

    Việc sợ hãi thực sự, giống như việc sợ chết, không thể dễ dàng xoá bỏ nhờ những lý giải về tâm lý động học; ngược lại, những cơn sợ do lo lắng, chẳng hạn chứng sợ chỗ đông người, không thể điều trị chỉ dựa trên những lý giải mang tính triết lý. Tuy nhiên, liệu pháp ý nghĩa đã phát triển một kỹ thuật đặc biệt để xử lý những tình huống này. Để hiểu được điều gì đang xảy ra khi sử dụng kỹ thuật này, chúng tôi đã bắt đầu với trường hợp rối loạn thần kinh ở cá nhân hay còn gọi là chứng lo âu trước kỳ hạn. Chính đặc tính của nỗi sợ này đã khiến cho bệnh nhân sợ hãi. Ví dụ, người nào thường lo sợ mình sẽ bị đỏ mặt trước đám đông thì càng có khuynh hướng bị nhiều hơn. Trong ngữ cảnh này, ta có thể sửa câu nói: "Mong muốn là cha của ý nghĩ" thành "Sợ hãi là mẹ của hiện thực".
    Trớ trêu thay, càng sợ hãi thì những gì ta lo sợ sẽ càng nhanh chóng biến thành hiện thực, cũng tương tự như việc càng ham muốn điều gì, người ta càng khó đạt được nó. Có thể lấy trường hợp bị rối loạn tình dục làm dẫn chứng cho sự mong muốn thái quá này. Người đàn ông càng cố chứng tỏ "bản lĩnh" của mình hoặc người phụ nữ càng muốn đạt tới khoái cảm thì họ càng ít thành công.
    Ngoài việc mong muốn quá nhiều như đã mô tả ở trên, sự chú ý quá mức hoặc "phản ứng thái quá" như được gọi trong liệu pháp ý nghĩa cũng có thể gây ra bệnh (tức dẫn tới ốm đau). Một báo cáo lâm sàng sau đây sẽ minh hoạ ý kiến của tôi: Một phụ nữ trẻ gặp tôi và than về sự lãnh cảm của mình. Tiền sử bệnh cho thấy lúc trẻ cô đã bị người cha lạm dụng tình dục. Tuy nhiên, không phải sự cố đau lòng này gây ra sự rối loạn tình dục của cô như mọi người thường suy đoán. Hoá ra, qua việc đọc các tác phẩm phân tâm học nổi tiếng, người bệnh đã sống chung với cảm giác sợ hãi rằng quá khứ đau buồn kia sẽ lại xảy ra một ngày nào đó. Sự lo lắng trước kỳ hạn này khiến cô ấy quá tập trung vào việc xác định tính nữ của mình và quá chú ý vào cảm xúc bản thân hơn là vào người bạn tình. Điều này đủ khiến bệnh nhân không thể đạt tới khoái cảm bởi vì sự khoái cảm là đối tượng mong muốn của cô ấy; trong khi lẽ ra cô ấy nên duy trì tác dụng tự nhiên của sự dâng hiến và hoà hợp với người bạn tình. Sau khi trải qua việc trị liệu ngắn hạn với liệu pháp ý nghĩa, sự tập trung và mong muốn quá mức của bệnh nhân về khả năng đạt tới khoái cảm đã được "xoá mờ" để đưa ra một khái niệm liệu pháp ý nghĩa khác. Khi cô ấy tập trung sự chú ý của mình vào một đối tượng đúng đắn khác, ví dụ như người bạn tình, thì sự khoái cảm sẽ tự động xuất hiện liên tục(19).
    Liệu pháp ý nghĩa dựa trên chính kỹ thuật của nó, được gọi là "suy nghĩ đảo nghịch" theo hai phương diện rằng nỗi sợ sẽ biến điều mà một người lo sợ thành sự thật, và rằng sự mong muốn quá mức một điều nào đó sẽ khiến cho một người không thể đạt được điều ấy. Ở Đức, tôi đã mô tả sơ đồ đối nghịch này vào đầu năm 1939(20). Theo cách tiếp cận này, tôi yêu cầu bệnh nhân mắc chứng sợ hãi hãy dự báo, thậm chí trong một khoảnh khắc, chính xác nỗi sợ của mình.
    Hãy để tôi đưa ra một trường hợp khác. Một bác sĩ trẻ nhờ tôi tư vấn vì anh ấy bị chứng sợ đổ mồ hôi. Lúc nào anh ấy cũng lo rằng mình sẽ đổ mồ hôi ào ạt và chính sự lo lắng này cũng đủ khiến anh ấy ướt đẫm mồ hôi rồi. Để cắt đứt vòng luẩn quẩn này, tôi đã khuyên bệnh nhân rằng khi bọ đổ mồ hôi, anh ấy cứ tự nhiên để cho mọi người biết mình có thể đổ mồ hôi nhiều như thế nào. Một tuần sau anh ấy quay lại và báo rằng hễ khi nào anh gặp một người có thể khiến anh lo sợ thì anh lại tự nói với mình rằng: "Trước kia mình chỉ chảy mồ hôi khoảng một lít thôi, nhưng giờ mình sẽ đổ mồ hôi ít nhất là hơn 10 lần như thế!". Kết quả là sau khi phải chịu chứng bệnh khó chịu ấy suốt bốn năm, chỉ sau một tuần điều trị, anh ấy đã không còn phải bận tâm về nó nữa.
    Bạn đọc ắt hẳn sẽ thấy rằng quá trình này đi cùng với việc thay đổi thái độ của bệnh nhân, bởi vì nỗi sợ của họ được thay thế bằng một mong muốn trái ngược. Với phương pháp điều trị này, mọi nỗi lo âu, sợ hãi của người bệnh sẽ được giải toả.
    Tuy nhiên, khi sử dụng phương pháp suy nghĩ đảo nghịch, phải biết vận dụng kỹ thuật phân tách đối tượng ra khỏi bản thể cố hữu, đặc biệt là phải biết phát huy khiếu hài hước. Khả năng cơ bản để tách một người ra khỏi bản thể của họ được hiện thực hoá khi kỹ thuật của liệu pháp ý nghĩa mà ta gọi là suy nghĩ đảo nghịch được áp dụng. Cùng lúc ấy, bệnh nhân có thể tự tách mình ra khỏi chứng loạn thần kinh chức năng. Trong quyển The Individual and His Religion (Cá nhân và tôn giáo), Gordon W. Allport(21) cũng có đồng quan điểm: "Người bị rối loạn thần kinh chức năng mà biết học cách cười với chính mình thì có thể tự kiểm soát được mình, và chứng bệnh của họ có thể được khắc phục"(22). Suy nghĩ đảo nghịch chính là sự khẳng định từ kinh nghiệm thực tiễn và những ứng dụng lâm sàng trong phát biểu của Allport.
    Một vài ví dụ sau đây có thể giúp bạn hình dung cụ thể hơn về ứng dụng của phương pháp này. Có trường hợp bệnh nhân là một thủ thư, ông đã đến nhiều bệnh viện để được điều trị bằng nhiều phương pháp khác nhau nhưng không thành công. Khi được đưa vào khoa của tôi, ông ấy ở trong tâm trạng cực kỳ suy sụp. Người thủ thư thú nhận rằng ông gần như muốn tự sát. Trong nhiều năm, ông đã chịu đựng chứng co cứng cơ cổ tay và không thể cầm bút được, và gần đây căn bệnh trở nặng hơn đến nỗi ông có nguy cơ mất việc. Vì vậy, chỉ có phương pháp điều trị ngắn hạn tức thời mới có thể giúp đỡ hữu hiệu cho hoàn cảnh này. Khi bắt đầu trị liệu, bác sĩ Eva Kozdera đã yêu cầu bệnh nhân hãy làm những gì trái ngược với những việc mà ông ấy thường làm; tức là thay vì cố viết sạch đẹp, rõ ràng, hãy cứ viết nguệch ngoạc. Bác sĩ còn khuyên ông ấy hãy tự nói với mình rằng "Bây giờ tôi sẽ cho mọi người thấy tôi là người viết chữ xấu như thế nào!". Và vào lúc ấy, ông thủ thư đã thử viết chữ thật xấu, nhưng ông ấy không thể làm thế. "Tôi cố viết cẩu thả nhưng đơn giản là tôi không thể làm được," - ông giải thích. Trong vòng 48 giờ, bằng cách này, bệnh nhân đã được thoát khỏi chứng bệnh co cứng cơ cổ tay và tình trạng của ông vẫn ổn định trong suốt giai đoạn theo dõi sau khi điều trị. Ông ấy giờ đã vui vẻ trở lại và hoàn toàn có thể làm việc bình thường.
    Một đồng nghiệp của tôi làm việc tại khoa thanh quản của Bệnh viện Poliklinik ở Áo cũng từng phải đối mặt với tình huống tương tự, nhưng ở đây bệnh nhân của anh gặp khó khăn với việc phát âm chứ không phải viết chữ. Đây là một trong những ca nói lắp nghiêm trọng mà anh ấy gặp trong nhiều năm làm việc. Bệnh nhân ấy chưa bao giờ nói được một câu trôi chảy, dù là câu rất ngắn, ngoại trừ một lần. Chuyện xảy ra khi anh ấy 12 tuổi trong một lần anh đi trốn vé trên một chuyến xe điện. Khi bị người soát vé giữ lại, cậu bé nghĩ cách duy nhất để thoát là tỏ ra mình đáng thương, và thế là cậu đã cố chứng minh với người soát vé rằng mình la một cậu bé nói lắp tội nghiệp. Nhưng lúc ấy, khi cố nói lắp thì cậu lại không thể nói lắp được. Và phương pháp suy nghĩ đảo nghịch một lần nữa lại phát huy tác dụng chữa trị của nó.
    Tuy nhiên, suy nghĩ đảo nghịch không phải chỉ có hiệu quả trong các trường hợp bệnh lý. Bằng kỹ thuật điều trị này, các đồng nghiệp của tôi tại Bệnh viện Poliklinik Áo đã thành công trong việc đem lại cuộc sống bình thường cho các trường hợp bị ám ảnh ở mức độ nghiêm trọng và kéo dài vì phải thường xuyên làm một công việc nào đó. Tôi đơn cử trường hợp một bà cụ 65 tuổi đã phải chịu đựng suốt 60 năm hội chứng sợ hãi công việc giặt giũ. Bác sĩ Eva Kozdera bắt đầu chữa trị cho bà theo liệu pháp ý nghĩa, áp dụng phương pháp suy nghĩ đảo nghịch. Kết quả là hai tháng sau, bệnh nhân có thể sống một cuộc sống bình thường. Trước khi được đưa đến khoa tâm thần của Bệnh viện Poliknilik của Áo, bà đã thú nhận "Cuộc sống của tôi trước đây chẳng khác nào địa ngục". Suốt bao năm qua, lúc nào bà cũng bị ám ảnh bởi tình trạng cưỡng bức lao động và nỗi sợ bị lây nhiễm vi khuẩn đến nỗi cuối cùng bà chỉ suốt ngày nằm trên giường và không thể làm được bất cứ việc gì trong gia đình. Không hẳn là giờ đây bà đã hoàn toàn khỏi bệnh, bởi sự ám ảnh có thể vẫn còn lại đâu đó trong tâm trí bà. Tuy nhiên, bà đã có thể nói đùa về công việc của mình và không còn sợ nó nữa.
    Suy nghĩ đảo nghịch cũng có thể được áp dụng trong các trường hợp khó ngủ(23). Nỗi sợ về việc không thể ngủ được đã dẫn tới việc một người ép mình phải ngủ và càng khiến họ không thể ngủ được. Để vượt qua nỗi sợ này, tôi thường khuyên bệnh nhân đừng cố ngủ mà hãy cố làm điều gì trái ngược, tức là hãy thức càng lâu càng tốt. Nói cách khác, việc cố ngủ (vì lo mình không thể ngủ được) phải được thay thế bằng suy nghĩ ngược lại (tức không muốn ngủ) thì người bệnh sẽ sớm ngủ được.
    Suy nghĩ đảo nghịch không phải là phương thuốc chữa bách bệnh. Tuy nhiên nó là một phương pháp hữu ích trong việc chữa trị các căn bệnh về ám ảnh do bị ép buộc và hội chứng hoảng sợ, nhất là trong các trường hợp bị chứng lo âu về kỳ hạn. Hơn nữa, nó là một phương pháp điều trị ngắn hạn nhưng lại mang lại tác dụng lâu dài, nếu không muốn nói là vĩnh viễn. Lại thêm một minh chứng cho thấy một trong số "các suy nghĩ sai lệch điển hình trong luận thuyết của Freud" là "tác dụng tương xứng với thời gian điều trị"(24). Ví dụ như trong hồ sơ của tôi, có một ca bệnh mà bệnh nhân đã được điều trị từ hơn 20 năm trước và bệnh chưa một lần tái phát kể từ đó.
    Một trong các ưu điểm quan trọng nhất là suy nghĩ đảo nghịch luôn có hiệu quả, bất kể nguyên nhân của ca bệnh là gì. Điều này được xác nhận qua nhận xét của Edith Weisskopf-Joelson: "Mặc dù phương pháp điều trị tâm lý truyền thống đã khẳng định rằng các phương pháp điều trị phải dựa trên những phát hiện về nguyên nhân gây bệnh, nhưng vấn có một số nhân tố nào đó có thể gây ra các chứng rối loạn thần kinh khi bệnh nhân còn nhỏ và răng các nhân tố khác nhau có thể giúp bệnh nhân thoát khỏi căn bệnh khi trưởng thành"(25).
    Bởi vì ngoài các nguyên nhân thuộc về thể chất (các tổn thương ở não, rối loạn chức năng vỏ não và một số vùng dưới vỏ não gây nên) và tinh thần ( xảy ra do nguyên nhân tâm lý hoặc có liên quan đến những chấn thương tâm lý), một nguyên nhân chủ yếu của chứng rối loạn thần kinh chức năng là cơ chế phản hồi, giống như "chứng lo âu đến trước"(26). Một triệu chứng nào đó là kết quả của sự ám ảnh, sự ám ảnh kích hoạt thêm các triệu chứng, và triệu chứng lại tiếp tục củng cố sự ám ảnh. Một chuỗi các sự việc tương tự cũng xảy ra ở những trường hợp bị ám ảnh mà bệnh nhân có sự đấu tranh với ý nghĩ đang ám ảnh mình(27). Theo đó, người này sẽ gia tăng sức mạnh của những ý nghĩ đang quấy nhiễu mình bởi vì áp lực ấy tạo ra một áp lực đối áp. Như thể là một lần nữa, triệu chứng bệnh lại được tái củng cố! Nói cách khác, ngay khi bệnh nhân ngừng tranh đấu với nỗi ám ảnh của mình mà bắt đầu giễu cợt chúng theo cách hài hước - bằng cách áp dụng suy nghĩ đảo nghịch - thì vòng lẩn quẩn của nỗi ám ảnh sẽ bị cắt đứt, triệu chứng giảm đi và cuối cùng bị suy yếu. Trong trường hợp may mắn, bệnh nhân không những thành công trong việc giễu cợt với nỗi lo sợ trong tâm trí mà còn hoàn toàn lãng quên điều bấy lâu vẫn ám ảnh tâm trí họ(28).
    Như đã thấy, chứng hồi hộp âu lo phải được khắc phục bằng suy nghĩ đảo nghịch; việc quá tập trung cũng như phản ứng thái quá phải được giảm thiểu. Tuy nhiên như vậy vẫn chưa đủ, người bệnh cần hướng về một mong ước và nhiệm vụ cụ thể trong đời thì bệnh mới được chữa trị dứt điểm.
    Không phải sự lo lắng thái quá của người bệnh - thương xót hay phó mặc bản thân trước căn bệnh - phá hỏng quá trình chữa trị, mà phương thức chữa trị hiệu nghiệm nhất là bệnh nhân phải tự trải nghiệm suy nghĩ nghịch đảo và tự xác định ý nghĩa cuộc đời mình.
     
    Chỉnh sửa cuối: 12/5/16
  5. notrinos

    notrinos Lớp 5

    Chứng rối loạn thần kinh tập thể

    Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ sẽ có chung một số biểu hiện về chứng rối loạn thần kinh tập thể, và ở mỗi thời kỳ cũng cần một phương pháp điều trị tâm lý riêng phù hợp(29). Như vậy, trạng thái tồn tại chân không (với biểu hiện như: chán nản, trầm cảm, nghiện ngập...) - nguyên nhân chủ yếu khiến chứng rối loạn thần kinh ngày càng gia tăng hiện nay - có thể được xem như một hình thái riêng của thuyết hư vô; bởi vì thuyết hư vô cho rằng sự tồn tại là vô nghĩa. Tuy nhiên, liệu pháp tâm lý sẽ không thể nào giải quyết được các biến thể của tình trạng tồn tại chân không trên bình diện rộng nếu nó không tách mình khỏi tầm ảnh hưởng của các xu thế đương thời trong triết lý hư vô; mặt khác liệu pháp tâm lý chủ yếu được sử dụng để mô tả triệu chứng của chứng rối loạn thần kinh trên diện rộng chứ nó không phải là một phương pháp điều trị. Do đó, liệu pháp tâm lý không chỉ phản ánh thuyết hư vô mà nó còn vô tình chuyển đến cho bệnh nhân một hình ảnh "xộc xệch", bóp méo bản chất con người hơn là một bức tranh tả thực về con người.
    Trước hết, lời giáo huấn cho rằng con người "không có gì ngoài hư vô" là khá nguy hiểm, bởi vì học thuyết này cho rằng con người không là gì hết mà chỉ là kết quả từ các điều kiện sinh học, tâm lý và xã hội, hoặc là sản phẩm của sự di truyền và môi trường. Quan điểm về con người như vậy khiến bệnh nhân tin vào điều mà họ muốn tin, tức là họ vừa là con cờ và vừa la nạn nhân của những ảnh hưởng bên ngoài hoặc các hoàn cảnh bên trong. Thuyết định mệnh càng được củng cố khi phương pháp điều trị tâm lý phủ nhận thực tế rằng con người là những sinh thể tự do.
    Một cá nhân sinh học đúng là có đời sống hữu hạn và do đó, chắc chắn sự tự do của con người là có giới hạn. Nhưng ở đây không đề cập đến tự do với nghĩa năng lực thoát khỏi hoàn cảnh, mà chính là thái độ tự do trước mọi hoàn cảnh. Như có lần tôi đã nói: "Với tư cách là giáo sư trong hai lĩnh vực thần kinh và tâm lý học, tôi luôn nhận thức rõ ràng con người là chủ thể của trạng thái sinh học, tâm lý và xã hội. Nhưng ngoài việc là giáo sư trong hai lĩnh vực ấy, tôi còn là người sống sót qua bốn trại tập trung, nên tôi cũng đã chứng kiến được những khả năng phi thường và tinh thần dũng cảm quật cường của con người trong những tình huống tồi tệ nhất"(30).

    Lời bình về thuyết tiền định (Pan-Determinism)

    Phân tâm học thường bị chỉ trích vì nó đề cao bản năng tình dục. Tôi không chắc rằng sự phê phán này có thoả đáng hay không nhưng có một học thuyết mà tôi thấy nó còn sai lầm và nguy hiểm hơn nhiều, đó là thuyết tiền định. Tôi vẫn cho rằng con người không hoàn toàn bị lệ thuộc và bị định đoạt bởi số phận mà ngược lại, còn tự quyết định về việc họ sẽ để hoàn cảnh cuốn đi hay sẽ vượt qua chúng. Nói cách khác, con người vẫn là người quyết định sau cùng. Con người không đơn giản tồn tại mà họ còn luôn quyết định mục đích tồn tại của mình và quyết định cả về con người mà họ muốn trở thành.
    Tương tự, mỗi người đều có quyền tự do thay đổi quan điểm, lối sống của mình bất kỳ lúc nào. Vì vậy, chúng ta có thể dự đoán tương lai của một người dựa trên kết quả nghiên cứu thống kê được tiến hành trên nhóm; tuy nhiên, không thể dự đoán được tính cách của cá nhân người đó. Bất kỳ dự đoán tâm lý nào đều căn cứ trên các điều kiện sinh học, tâm lý hoặc xã hội. Tuy nhiên, một trong những đặc trưng trong sự tồn tại của con người là khả năng vượt lên trên những điều kiện đó để phát triển mạnh mẽ hơn. Con người có khả năng biến đổi thế giới trở nên tốt đẹp hơn cũng như có thể thay đổi chính mình để trở thành người ưu tú hơn.
    Hãy để tôi chia sẻ với các bạn về trường hợp của Bác sĩ J. Hắn là người duy nhất trên đời mà tôi không ngần ngại gọi là một con quỷ đội lốt người, là hiện thân của quỷ Satan. Vào thời ấy, hắn được gọi là "kẻ giết người hàng loạt của Steinhof" (bệnh viện tâm thần lớn nhất ở Áo). Khi bọn Đức quốc xã bắt đầu thi hành chính sách "cái chết êm dịu", hắn nắm tất cả đầu mối trong tay và cuồng tín với công việc được giao đến nỗi hắn tìm mọi cách để không một người bệnh tâm thần nào thoát khỏi phòng hơi ngạt. Sau chiến tranh, khi trở lại Vieana, tôi hỏi chuyện gì đã xảy ra với Bác sĩ J. "Hắn đã bị quân Xô viết tống giam vào một trong các khu cách ly của Steinhof," - họ nói với tôi. "Tuy nhiên, ngày hôm sau cánh cửa trại mở và không ai còn có thể nhìn thấy Bác sĩ J. nữa". Sau đó, giống như những người khác, tôi tin rằng hắn đã đi đến Nam Mỹ với sự giúp đỡ của các chiến hữu. Tuy nhiên, gần đây tôi đươc một cựu nhân viên ngoại giao người Áo cho biết tin tức về hắn. Nhân viên ngoại giao này là người đã từng bị bắt và giam giữ ở phía sau "Bức màn sắt"(31) trong nhiều năm, đầu tiên là ở Siberia và sau đó trong khu giam giữ nổi tiếng Lubianka ở Moscow. Khi tôi đang kiểm tra thần kinh cho nhân viên ngoại giao này, ông ta bỗng nhiên hỏi tôi có biết bác sĩ J. không. Sau lời xác nhận của tôi, ông ấy nói: "Tôi đã quen anh ấy ở Lubianka. Anh ấy chết ở đó năm 40 tuổi do bị ung thư bàng quang. Đối với mọi người chúng tôi, anh ấy luôn là một người bạn rất tốt bụng! Anh ấy đã an ủi tất cả mọi người. Anh ấy đã sống rất chuẩn mực. Bác sĩ J. là một người bạn tốt nhất mà tôi từng gặp trong suốt những năm tháng trong tù!".
    Câu chuyện về Bác sĩ J. - "kẻ giết người hàng loạt của Steinhof" - đã chứng minh rằng hành vi của một con người là điều rất khó có thể dự đoán. Chúng ta có thể dự đoán các chuyển động của một cái máy, của một thiết bị tự động; thậm chí có thể dự đoán được cơ chế hoặc "động lực" tinh thần của con người. Nhưng con người là một thực thể vô cùng tinh vi và phức tạp chứ không chỉ có tinh thần.
    Tuy nhiên, tự do không phải là điều tối thượng. Tự do chỉ là một phần của câu chuyện và là một nửa sự thật. Tự do là những gì còn lại sau khi loại bỏ mặt tiêu cực trong một tổng thể, trong đó khía cạnh tích cực của tổng thể ấy là trách nhiệm. Thực ra, chủ trương tôn thờ chủ nghĩa tự do có nguy cơ bị biến thành chủ nghĩa độc đoán trừ khi tự do phải luôn gắn liền với trách nhiệm. Đó là lý do tại sao tôi đã khuyến nghị rằng bức tượng Thần Tự do ở Bờ Tây cần được bổ sung thêm một bức tượng Thần Trách nhiệm ở Bờ Đông.

    Cương lĩnh hoạt động

    Trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù một con người được cho là đã đánh mất chính mình, thì họ vẫn còn một chút đặc quyền tối thiểu. Vì vậy, đối với những người mắc chứng rối loạn thần kinh, thậm chí tâm thần, trong họ vẫn tồn tại cái được gọi là quyền tự quyết - đặc quyền trong khuôn khổ giới hạn. Thật vậy, quyền tự quyết là cái cốt lõi sâu thẳm nhất trong bản ngã con người, ngay cả chứng rối loạn tinh thần cũng không thể chạm tới được.
    Một người bị tâm thần mãn tính có thể không còn khả năng đóng góp cho lợi ích của gia đình và xã hội, tuy nhiên ở họ vẫn còn lại chân giá trị của một con người. Đây chính là cương lĩnh hoạt động trong lĩnh vực tâm thần của tôi. Không có nó, tôi không nghĩ mình xứng đáng trở thành một nhà tâm lý học. Tôi làm tất cả những điều này vì lợi ích của ai ư? Vì những "cỗ máy" tổn thương não vốn không còn khả năng phục hồi kia sao? Nếu bệnh nhân còn sống vẫn có thể đóng góp được điều gì đó, thì mọi lý lẽ biện minh cho luật "cái chết êm ái" chỉ là sự nguỵ biện.

    Tái thiết lập chất nhân bản trong tâm thần học

    Trong suốt một thời gian rất dài - thực tế là nửa thế kỷ - các nhà tâm thần học đã tìm mọi cách chứng minh rằng não người hoạt động đơn thuần như một cơ chế, và hậu quả là các phương pháp điều trị bệnh tâm thần chỉ đơn thuần là một công việc mang tính kỹ thuật. Tôi tin rằng sai lầm này sẽ được nhận ra. Trong tương lai, một biện pháp chữa trị tâm thần hữu hiệu không chỉ là những phác đồ điều trị tâm lý mà còn là sự tìm hiểu và "chữa lành" mang tính nhân văn hơn.
    Dù vậy, một bác sĩ vốn cho vai trò của mình chủ yếu là vai trò của một nhà kỹ thuật đã thú nhận rằng ông chỉ xem bệnh nhân như một cỗ máy, thay vì nhìn thấy phía sau căn bệnh đó là một con người!
    Trong khi đó, con người không phải là một sự vật giống như những sự vật khác: các sự vật quy định lẫn nhau, còn con người là một sinh vật tự quyết. Con người có thể trau luyện chính mình trong phạm vi năng lực thiên phú và môi trường sống. Ví dụ như trong trại tập trung - có ý nghĩa như một phòng thí nghiệm sống cho việc kiểm định - chúng tôi đã quan sát và nhìn thấy một số người tù cư xử chẳng khác gì loài cầm thú, trong khi những người khác thì hành xử như những vị thánh. Trong con người có cả hai bản chất ấy; và phần thánh thiện hay phần tồi tệ được hiện thực hoá phụ thuộc vào các quyết định của mỗi người chứ không phải là do hoàn cảnh.
    Những gì thế hệ của chúng tôi trải qua trong trại tập trung đã khái quát được bản chất thực sự của con người mà không cần bất cứ lời giải thích nào khác. Rốt cuộc, con người chính là kẻ đã tạo ra phòng hơi ngạt ở Auschwitz, đồng thời cũng chính là những sinh thể đã hiên ngang(32) vào phòng hơi ngạt với kinh Lạy Cha hoặc câu kinh Shema Yisrael trên môi.

    Tái bút 1984(32)

    Tưởng niệm Edith Weisskopf-Joelson (1910 - 1983), người có những đóng góp vô giá và có công mở đường cho Liệu pháp ý nghĩa tại Hoa Kỳ từ đầu năm 1955.
     
    Chỉnh sửa cuối: 13/5/16
  6. notrinos

    notrinos Lớp 5

    SỰ LẠC QUAN TRONG BI KỊCH

    Trước tiên chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của cụm từ "sự lạc quan trong bi kịch" (tragic optimism). Nói một cách ngắn gọn, nó có nghĩa là một người vẫn giữ được sự lạc quan bất kể "bộ ba bi kịch" - theo cách gọi trong liệu pháp ý nghĩa - có xảy đến đi nữa. Bộ ba bi kịch ấy bao gồm những khía cạnh trong đời sống con người mà ta có thể xác định: (1) sự đau đớn; (2) cảm giác tội lỗi; va (3) cái chết. Thực ra, chương này đặt ra một vấn đề: Làm thế nào để có thể nói "Có" với cuộc sống bất kể những điều đó? Hãy đặt câu hỏi theo một cách khác: Làm sao con người có thể tìm thấy ý nghĩa tiềm ẩn của cuộc sống ngay trong những đau khổ? Rốt cuộc thì câu "Hãy nói có với cuộc sống, bất kể mọi việc có như thế nào chăng nữa" mà tôi đã sử dụng làm tiêu đề cho cuốn sách xuất bản bằng tiếng Đức của mình, mang hàm ý rằng cuộc đời vẫn còn nhiều ý nghĩa tiềm ẩn trong bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả trong những tình huống khốn khổ nhất. Và điều này đến lượt nó bao hàm các khả năng của con người trong việc chuyển hoá một cách sáng tạo những mặt tiêu cực của cuộc sống thành một điều gì đó tích cực và mang tính xây dựng. Nói cách khác, điều quan trọng là hãy tạo ra điều tốt nhất trong bất kỳ tình huống nào của cuộc sống. Trong tiếng Latin, optimum có nghĩa là "điều tốt nhất", và đó là lý do tôi gọi vấn đề này là tragic optimum (sự lạc quan trong bi kịch), tức là thái độ lạc quan trong hoàn cảnh bi thương. Theo cái nhìn về tiềm năng con người, ở mặt tốt đẹp nhất, năng lực tiềm ẩn của con người luôn cho phép: (1) chuyển đau khổ thành sự trưởng thành và thành tựu của con người; (2) chuyển tội lỗi thành cơ hội để thay đổi bản thân tốt đẹp hơn; và (3) chuyển tính chất tạm thời của cuộc sống thành sự khích lệ để hành động có trách nhiệm.
    Tuy nhiên phải nhớ rằng sự lạc quan không phải là sản phẩm của mệnh lệnh hoặc yêu cầu. Một người không thể buộc chính mình phải lạc quan một cách vô căn cứ, trước tất cả những xung đột, trước mọi hy vọng. Và nếu điều này đúng với hy vọng thì cũng sẽ đúng với hai thành tố khác trong bộ ba, bởi vì niềm tin và tình yêu không thể ra lệnh hoặc yêu cầu mà có được.
    Đối với người châu Âu thì đó là một đặc tính của nền văn hoá Mỹ, nơi con người luôn được ra lệnh và yêu cầu phải "hạnh phúc". Nhưng người ta không thể đuổi bắt hạnh phúc; hạnh phúc phải được tự sinh ra. Có người phải có một lý do để "hạnh phúc". Và một khi đã tìm thấy được lý do thì người ấy sẽ tự nhiên trở nên hạnh phúc. Như chúng ta thấy, con người không chỉ mưu cầu hạnh phúc mà còn tìm kiếm lý do để hạnh phúc, thông qua việc đánh thức ý nghĩa tiềm ẩn trong một hoàn cảnh nhất định.
    Nhu cầu về lý do này cũng tương tự như ở hiện tượng tâm lý đặc trưng của loài người là tiếng cười. Nếu bạn muốn người khác cười thì bạn phải tìm cách khiến cho họ có thể cười, ví dụ như bạn phải kể một câu chuyện hài. Không thể nào có được tiếng cười thật sự bằng cách bắt ép người đó phải cười. Làm thế cũng giống như việc bạn bắt mọi người đứng trước máy chụp hình và nói "cười lên nào", chỉ để thấy trong bức hình những khuôn mặt đang cười giả tạo.
    Trong liệu pháp ý nghĩa, những kiểu mẫu hành vi như vậy được gọi là "mong muốn thái quá". Nó giữ một vai trò quan trọng trong việc gây ra rối loạn tình dục, lãnh cảm hoặc bất lực. Bệnh nhân càng cố tìm kiếm khoái cảm thì càng khó đạt được khoái cảm, thay vì quên đi bản thân mình và dâng hiến trọn vẹn. Điều mà mọi người gọi là "nguyên tắc khoái lạc" thực ra là một kẻ phá hoại tinh vi.
    Thành công trong việc tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống không chỉ làm cho một người vui mà còn cho người đó cơ hội đương đầu với những đau khổ. Và điều gì sẽ xảy ra nếu một người trở nên vô vọng trong việc dò dẫm tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống? Điều này rất có thể dẫn đến tai hoạ. Chúng ta hãy nhớ lại điều thỉnh thoảng đã xảy ra trong các tình huống ngặt nghèo như trương hợp của các tù binh chiến tranh hoặc tù nhân trong các trại tập trung. Như lời kể của các binh lính Mỹ, đó là một kiểu hành vi được kết tinh thành một loại hành vi mà họ gọi là "bỏ cuộc". Trong trại tập trung, hành vi này xảy ra ở những người mà bỗng dưng một sáng nọ, họ không chịu thức dậy làm việc mà cứ nằm lì ở trong trại, trên chiếc giường rơm ẩm ướt đầy phân và nước tiểu. Chẳng có cách gì - dù là cảnh báo hay đe doạ - có thể khiến họ thay đổi. Và sau đó, một điều đặc thù diễn ra: họ móc từ sâu trong túi áo một điếu thuốc mà họ đã giấu kỹ và bắt đầu hút. Vào lúc ấy, chúng tôi biết rằng trong vòng 48 giờ tới, chúng tôi sẽ chứng kiến thời khắc hấp hối của họ. Họ đã từ bỏ mọi hy vọng tìm thấy ý nghĩa cuộc sống và chỉ muốn tìm kiếm sự thoả mãn tức thời.
    Điều này khiến tôi liên hệ đến việc ngày nay có một bộ phận những người trẻ trên thế giới tự cho mình là một thế hệ "không có tương lai". Chắc chắn, điều gây hại đó không chỉ là điếu thuốc mà họ tự cho phép mình thưởng thức; đó còn là ma tuý.
    Trong thực tế, ma tuý là một biểu hiện của một hiện tượng phổ biến hơn - đó là cảm giác vô nghĩa, bắt nguồn từ sự thất vọng của con người trước các yêu cầu về sự tồn tại của bản thân trong cuộc sống, và cảm giác trống rỗng này đã trở thành một hiện tượng toàn cầu trong xã hội công nghiệp. Ngày nay, không chỉ có các nhà tâm lý liệu pháp ý nghĩa than rằng cảm giác vô nghĩa là nguyên nhân khiến số người mắc chứng rối loạn thần kinh ngày càng gia tăng. Theo Irvin D. Yalom thuộc Đại học Stanford đã trình bày trong cuốn Existential Psychotherapy: "Trong số 40 bệnh nhân liên tục được điều trị tại một phòng khám tâm thần, có 12 người (30%) gặp vấn đề về ý nghĩa cuộc sống (số liệu lấy từ sự đánh giá của bệnh nhân, đánh giá của bác sĩ, hoặc các thăm dò độc lập)(33). Ở hàng ngàn dặm phía Đông của bang Palo Alto (Hoa Kỳ), sự khác biệt chỉ có 1%; theo thống kê gần đây nhất thì 29% dân số ở thành phố Vienna nói rằng họ không biết ý nghĩa cuộc sống của mình.
    Hiểu một cách đơn giản, cảm giác vô nghĩa thường xuất hiện ở những người có đủ điều kiện để sống nhưng không có lý do để sống; họ có phương tiện sống nhưng không có mục đích sống. Chắc chắn rằng một số người thậm chí còn không có cả phương tiện sống. Cụ thể, tôi nghĩ về rất nhiều người hiện nay không có việc làm. 50 năm trước, tôi xuất bản một công trình nghiên cứu(34) về một loại trầm cảm đặc biệt ở những trường hợp bệnh nhân còn trẻ mà tôi gọi là "rối loạn thần kinh do thất nghiệp". Tôi có thể chỉ ra rằng sự rối loạn này thực sự bắt nguồn từ hai lần nhận thức sai lệch: thất nghiệp được xem như vô dụng, và vô dụng được xem như có một cuộc sống vô nghĩa. Kết quả là, bất cứ khi nào tôi thành công trong việc thuyết phục bệnh nhân tự tham gia vào hội thanh niên, học thêm, đến thư viện công cộng hay những nơi tương tự như thế - nói cách khác, miễn là họ có thể lấp đầy khoảng thời gian rảnh rỗi của mình bằng các hoạt động xã hội có ý nghĩa - thì sự trầm cảm của họ cũng biến mất mặc dù điều kiện kinh tế của họ vẫn không có gì thay đổi và họ vẫn sống trong cảnh thiếu thốn. Sự thật là con người không chỉ sống nhờ tiền bạc.
    Cùng với chứng rối loạn thần kinh do thất nghiệp xuất phát từ hoàn cảnh kinh tế xã hội, vẫn có nhiều loại trầm cảm khác do điều kiện tâm lý, sinh lý gây ra. Những trường hợp này sẽ được chỉ định dùng thuốc và trị liệu tâm lý. Tuy nhiên, chúng ta không nên xem thường các trường hợp có liên quan đến cảm giác vô nghĩa. Nhưng mặc dù cảm giác thấy mình vô nghĩa và trống rỗng không phải do bệnh lý gây ra, nhưng nó có dẫn tới phản ứng bệnh lý; nói cách khác, nó có khả năng là nguyên nhân gây bệnh. Hãy xem các triệu chứng rối loạn phổ biến ở thế hệ trẻ: có nhiều bằng chứng thực tế cho thấy rằng ba mặt của các triệu chứng này - trầm cảm, kích động, nghiện ngập - những biểu hiện của "trạng thái tồn tại chân không" - theo cách gọi trong liệu pháp ý nghĩa - gây ra, tức là cảm giác trống rỗng và vô nghĩa.
    Không phải tất cả các ca trầm cảm đều xuất phát từ cảm giác trống rỗng, cũng như không phải ca tự sát nào cũng do "trạng thái tồn tại chân không" gây ra. Nhưng ngay cả trong các ca tự sát không phải do cảm giác vô nghĩa gây ra thì sự bốc đồng dẫn tới quyết định tự tử của những người này cũng có thể bị triệt tiêu nếu lúc ấy họ nhận ra ý nghĩa và mục tiêu có giá trị để sống.
    Như vậy, nếu ai cũng có định hướng rõ ràng cho ý nghĩa cuộc đời mình thì nguy cơ tự tử trong xã hội sẽ được ngăn chặn, vậy làm thế nào để những người nung nấu ý định tự sát thay đổi quyết định, hay nói cách khác làm thế nào để họ có thể tìm thấy ý nghĩa cuộc đời? Khi còn là một bác sĩ trẻ, tôi đã làm việc suốt bốn năm tại bệnh viện công lớn nhất ở Áo, tại đây tôi đã phụ trách khu dành cho các bệnh nhân bị trầm cảm nghiêm trọng - nhiều người trong số họ được chuyển vào đây sau khi cố tự sát nhưng thất bại. Có lần tôi đã nhẩm tính rằng có lẽ trong suốt bốn năm tại đây tôi đã biết tới mười hai ngàn bệnh nhân có ý định tự kết liễu đời mình cùng với một kho kinh nghiệm mà tôi đã đúc kết sau mỗi lần tiếp xúc với từng người. Tôi giải thích với một bệnh nhân rằng các bệnh nhân khác đã nhiều lần kể cho tôi nghe họ đã vui mừng như thế nào khi việc tự sát thất bại; hàng tuần, hàng tháng và hàng năm sau, họ đã nói với tôi rằng hoá ra vẫn luôn có giải pháp cho vấn đề của họ - chỉ cần họ có được một câu trả lời cho câu hỏi của họ, chỉ cần họ tìm được một ý nghĩa cho cuộc đời họ. "Cho dù khả năng có được điều tốt đẹp là vô cùng hiếm hoi, hàng ngàn người mới có một người", tôi tiếp tục giải thích, "thì ai có thể đảm bảo rằng anh không phải là một trong số những người may mắn hiếm hoi đó, dẫu hạnh phúc đó đến sớm hay muộn? Nhưng trước hết, anh phải sống để nhìn thấy ngày ấy đến, anh cần phải tồn tại để nhìn thấy ngày ấy hừng sáng và từ lúc ấy, trách nhiệm sống sẽ không từ bỏ anh".
    Để minh họa cho trường hợp thứ hai của chứng rối loạn tâm thần trên diện rộng - sự kích động trong đám đông - cho phép tôi trích dẫn một thí nghiệm từng được nữ tiến sĩ tâm lý học Carolyn Wood Sherif(35) thực hiện. Bà đã thành công trong việc tạo ra những vụ kích động giả giữa các nhóm hướng đạo sinh và thấy rằng những kích động chỉ giảm đi khi bọn trẻ hướng mình vào mục đích của tập thể - tức là hợp sức để kéo chiếc xe chở thức ăn của trại đang bị lún bùn. Ngay lập tức, bọn trẻ không chỉ được thử thách mà còn đoàn kết với nhau qua ý nghĩa của một nhiệm vụ chung mà chúng cần phải hoàn thành(36).
    Trường hợp thứ ba của chứng rối loạn tâm thần là sự nghiện ngập. Trường hợp này nhắc tôi nhớ lại những phát hiện đã được khẳng định qua những cuộc kiểm nghiệm và thống kê của Annemarie von Forstmeyer(37). 90% những người nghiện rượu trong nghiên cứu của bà đều trải qua cảm giác vô nghĩa nặng nề. Số liệu điều tra của Stanley Krippner(38) cho thấy 100% những người nghiện ma tuý tin rằng "mọi thứ dường như vô nghĩa."(39)
    Giờ chúng ta hãy chuyển qua câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống. Để bắt đầu, tôi muốn làm rõ ngay từ đầu rằng bác sĩ liệu pháp ý nghĩa quan tâm đến ý nghĩa hàm chứa trong mỗi tình huống mà một người phải đối diện trong đời mình. Vì vậy, ở đây tôi sẽ không nói chi tiết về ý nghĩa cuộc sống của một người theo nghĩa khái quát, mặc dù tôi không phủ nhận sự tồn tại của một ý nghĩa lâu dài. Hãy xem xét một bộ phim để thấy sự tương đồng: bộ phim bao gồm hàng nghìn bức ảnh riêng lẻ nối tiếp nhau, mỗi hình đều có nghĩa và chuyển tải một thông điệp nào đó, song ta sẽ không thể hiểu được ý nghĩa của cả bộ phim trước khi xem đến cảnh cuối cùng. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể hiểu được bộ phim nếu không hiểu được từng thành tố của nó trước, tức là từng bức ảnh riêng lẻ. Cuộc đời chẳng giống như vậy sao? Chẳng phải ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống cũng vậy, nó chỉ xuất hiện vào thời khắc kết thúc, lúc cận kề cái chết hay sao? Và ý nghĩa cuối cùng này phải chăng tuỳ thuộc vào việc có hay không có ý nghĩa hàm chứa trong mỗi tình huống đã diễn ra trong đời - những điều đã tạo nên tri thức và đức tin của mỗi người?
    Từ góc độ của liệu pháp ý nghĩa, rõ ràng ý nghĩa và sự nhận biết ý nghĩa cuộc sống hoàn toàn có thực chứ không phải là điều viển vông hay quá xa vời. Nói chung, tôi xác định vị trí của nhận thức về ý nghĩa - của một người trong một tình huống cụ thể - nằm giữa trải nghiệm "Aha" theo quan điểm của Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link(40) và nhận thức Gestalt theo học thuyết của Max Wertheimer(41). Nhận thức về ý nghĩa khác với khái niệm truyền thống trong điểm Gestalt bởi vì quan điểm Gestalt bao hàm nhận thức đột ngột về một "hình ảnh" trên một "phông nền" trong khi nhận thức về ý nghĩa, theo tôi, cụ thể đến mức con người nhận ra được khả năng đối mặt với hiện thực, hoặc theo cách diễn đạt chân phương là nhận biết những gì có thể làm được trong một tình huống nào đó.
    Vậy một người làm thế nào để có thể
    tìm được ý nghĩa cuộc sống? Như Charlotte Bühler(42) đã chỉ ra: "Tất cả điều chúng ta có thể làm là nghiên cứu cuộc đời của những người dường như đã tìm ra được câu trả lời cho các câu hỏi về ý nghĩa cuối cùng của đời người, và so sánh với những người chưa tìm ra"(43). Tuy nhiên, ngoài cách tiếp cận về tiểu sử, chúng ta cũng có thể bắt đầu cách tiếp cận theo hướng sinh học, tức là nghiên cứu về sự sống(44). Liệu pháp ý nghĩa xe, lương tâm như một người nhắc nhở và trong những trường hợp cần thiết, lương tâm sẽ chỉ ra hướng đi cho chúng ta. Để thực hiện được điều này, lương tâm phải áp dụng các tiêu chuẩn, hệ thống các giá trị vào một hoàn cảnh nhất định. Tuy nhiên, ta không thể chấp nhận và kế tục những giá trị này bằng ý thức chủ quan của mình, bởi vì bản thân con người chúng ta đã có sẵn những giá trị ấy rồi. Các giá trị đã kết tinh trong quá trình tiến hoá của loài người; chúng được hình thành trong quá khứ thông qua quá trình tiến hoá và đã bắt rễ sâu trong chúng ta. Konard Lorenz có lẽ đã có ý tưởng như vậy khi ông phát triển khái niệm về một priori(45) sinh học, và gần đây khi hai chúng tôi trao đổi về quan điểm của tôi trên phương diện sinh học về quy trình hình thành các giá trị nhân bản, ông đã đầy nhiệt tình bày tỏ sự tán đồng của mình. Trong bất cứ trường hợp nào, nếu việc nhận biết về giá trị nhân bản của con người là một dạng nhận thức tiền suy ngẫm(46) thì chúng ta có thể thừa nhận rằng nó là một đặc điểm sinh học di truyền của con người.
    Theo liệu pháp ý nghĩa, có ba con đường mà qua đó con người sẽ đạt đến ý nghĩa cuộc sống. Đầu tiên là bằng cách tạo ra một việc gì đó hoặc làm một điều gì đó. Con đường thứ hai là hãy trải nghiệm một việc nào đó hoặc gặp một người nào đó, tức là ý nghĩa có thể được tìm thấy không chỉ trong công việc mà còn trong tình yêu. Theo đó, Edith Weisskopf-Joelson đã quan sát thấy rằng "khái niệm trải nghiệm cũng có giá trị như một thành công là một phương pháp điều trị bởi vì nó cân bằng mức độ chênh lệch của chúng ta giữa sự thành đạt bên ngoài với trải nghiệm do thế giới nội tâm đem lại"
    (47).
    Thế nhưng điều quan trọng nhất là con đường thứ ba dẫn tới ý nghĩa cuộc sống: ngay cả một nạn nhân đơn độc trong tình huống vô vọng, khi đối diện với một số phận mà anh ta không thể thay đổi, cũng có thể tự vượt lên chính mình, trưởng thành hơn, và qua đó thay đổi bản thân. Người đó có thể biến bi kịch cá nhân thành một thành tựu. Một lần nữa, chính Edith Weisskopf-Joelson mà tôi đã đề cập ở phần trên đã thể hiện hy vọng rằng liệu pháp ý nghĩa "có thể giúp giải quyết những xu hướng tiêu cực trong nền văn hoá ngày nay ở Mỹ, nơi những người bất hạnh hầu như không có cơ hội để tự hào về những đau khổ của mình, họ càng không thể xem những bất hạnh là sự cao quý chứ không phải là sự thấp hèn" vì vậy "những người này không chỉ cảm thấy bất hạnh mà còn xấu hổ vì sự bất hạnh của mình".
    Trong suốt một phần tư thế kỷ, tôi đã điều hành khoa thần kinh của một bệnh viện đa khoa và chứng kiến năng lực của nhiều bệnh nhân đã chuyển những tình huống cam gio thành sự trưởng thành của bản thân.
    Những nỗ lực của con người nhằm thể hiện tinh thần "lạc quan trong bi kịch" là những nỗ lực mà tiếng Latin gọi là argumenta ad hominem. Jerry Long chính là nhân chứng sống cho "sức mạnh thách thức của tinh thần con người" theo cách gọi trong liệu pháp ý nghĩa
    (48). Theo lời của Texarkana Gazette, "Jerry Long bị gãy cổ do một tai nạn nhảy cầu khiến anh bị liệt tứ chi ba năm trước. Khi xảy ra tai nạn, cậu ấy chỉ mới 17 tuổi. Ngày nay Long có thể ngậm chiếc que để gõ máy. Cậu "tham dự" hai khoá học tại trường Cao đẳng cộng đồng qua chương trình điện thoại đặc biệt. Chương trình này cho phép Long vừa nghe vừa tham gia thảo luận được ở lớp học. Cậu cũng dành thời gian để đọc, xem tivi, và tập viết". Và trong một lá thư gửi cho tôi, cậu viết: "Cháu thấy cuộc đời mình có rất nhiều ý nghĩa và mục đích. Thái độ mà cháu chấp nhận vào cái ngày định mệnh đó đã định hướng cho cuộc đời của cháu: Cháu bị gãy cổ, nhưng cháu sẽ không suy sụp. Hiện nay cháu đã đăng ký vào khoa tâm lý học đầu tiên ở trường. Cháu tin rằng khuyết tật của mình chỉ càng làm cháu tăng thêm khả năng giúp đỡ những người khác. Cháu biết rằng nếu không có đau khổ, cháu sẽ không bao giờ trưởng thành như hôm nay".
    Có phải tôi đang thuyết phục các bạn rằng đau khổ là điều cần thiết để khám phá ý nghĩa cuộc sống chăng? Không phải. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng ta vẫn luôn tìm được ý nghĩa cho dù có hoặc không có đau khổ đi nữa, như tôi đã viết ở Phần Hai trong cuốn sách này, rằng đau khổ là điều mà chúng ta khó tránh. Nếu có thể tránh được đau khổ, thì điều ý nghĩa nên làm là hãy triệt tiêu nguyên nhân của đau khổ bởi vì chịu đựng những đau khổ không cần thiết sẽ biến ta thành ngớ ngẩn hơn là anh hùng. Mặt khác, nếu một người không thể thay đổi hoàn cảnh khiến mình đau khổ thì người đó vẫn có thể chọn cho mình một thái độ sống
    (49). Long đã không chọn bị gãy cổ nhưng cậu đã quyết định không để mình quỵ ngã trước nghịch cảnh.
    Như vậy, điều quan trọng là chúng ta cần phải biết thay đổi hoàn cảnh đã đẩy chúng ta vào đau khổ. Nhưng chúng ta cũng nên "biết đau khổ" nếu cần. Bằng chứng thực tế từ "những người lang thang" cũng cho thấy điều này. Trong cuộc trưng cầu dân ý gần đây ở Áo, những người được phỏng vấn đã cho biết những người khiến họ cảm phục nhất không phải là các nghệ sĩ vĩ đại, các nhà khoa học lớn, chính khách hay vận động viên... mà là những người biết vượt lên số phận.
    Chuyển sang phạm trù
    tội lỗi - phạm trù thứ hai trong "bộ ba bi kịch", tôi muốn bắt đầu từ một khái niệm thần học luôn cuốn hút tôi - đó là khái niệm mysterium iniquitatis(50). Theo những nghiên cứu của tôi, không thể tìm ra căn nguyên của một tội lỗi, bởi vì ta không thể truy nguyên tới các nhân tố về mặt sinh học, tâm lý cũng như xã hội dẫn tới tội lỗi đó. Việc giải thích về tội lỗi của một người đồng nghĩa với việc biện hộ cho tội lỗi của người đó và xem người đó không phải một người có quyền và có trách nhiệm mà chỉ là một cỗ máy cần được sửa chữa. Thậm chí chính những người phạm tội cũng căm ghét cách đối xử này và thích chịu trách nhiệm cho các hành vi của họ hơn. Trong một lá thư mà tôi nhận được từ một tù nhân bị giam trong trại cải tạo ở Illinois, anh hối hận viết: "Phạm nhân không bao giờ có được một cơ hội để biện hộ cho mình. Người ta đưa ra nhiều lý do để anh ta lựa chọn. Xã hội bị lên án và trong nhiều trường hợp, họ còn đổ lỗi cho nạn nhân". Hơn nữa, khi tôi nói chuyện với những người tù ở San Quentin, tôi bảo họ rằng "Các anh cũng là con người giống như tôi, và bởi vì các anh đã tự ý lựa chọn hành vi vi phạm luật pháp nên các anh trở thành người có tội. Tuy nhiên, bây giờ các anh cần phải có trách nhiệm vượt qua lỗi lầm này bằng cách vượt lên chính mình, thay đổi vì điều tốt đẹp hơn"(51). Họ hiểu được vấn đề. Sau đó, tôi nhận được một tin nhắn từ Frankl E.W., một cựu tù nhân; anh ấy nói rằng anh "đã tham gia điều trị bằng liệu pháp ý nghĩa theo nhóm dành cho những người từng phạm tội nghiêm trọng. Nay, chúng tôi là 27 con người mới và khoẻ mạnh. Hiện chúng tôi đã thoát khỏi cảnh tù tội nhờ có sức mạnh tập thể, hỗ trợ lẫn nhau giữa những người cùng tham gia trong nhóm điều trị đầu tiên. Duy chỉ có một người trở lại khám - nhưng giờ anh ấy cũng đã được tự do"(52).
    Về khái niệm
    tội lỗi tập thể (collective guilt), cá nhân tôi nghĩ rằng việc một người phải chịu trách nhiệm cho hành vi của một người khác hoặc của tập thể là điều hoàn toàn phi lý. Kể từ Thế chiến thứ hai kết thúc, tôi chưa bao giờ cảm thấy mệt mỏi và mất hứng thú khi tham gia những hoạt động tranh luận công khai nhằm phản bác quan niệm tội lỗi tập thể(53). Tuy nhiên, đôi khi phải vận dụng nhiều kỹ năng sư phạm để giúp mọi người thoát ra khỏi niềm tin mù quáng, thiếu suy xét của họ. Có lần một phụ nữ người Mỹ đã đến gặp tôi để trách: "Làm sao ông vẫn có thể viết những cuốn sách của ông bằng tiếng Đức, thứ ngôn ngữ của Adolf Hitler?". Để trả lời, tôi hỏi bà ấy có dao trong nhà bếp không, và khi bà trả lời có, tôi đã giả bộ sợ hãi kêu lên: "Làm sao bà vẫn sử dụng dao sau khi có nhiều kẻ sát nhân đã dùng nó để đâm chết nạn nhân?". Và bà ấy đã không còn phản đối những cuốn sách viết bằng tiếng Đức của tôi.
    Khía cạnh thứ ba trong "bộ ba bi kịch" là cái chết. Nhưng cái chết cũng có liên quan tới cả sự sống nữa, bởi vì ở bất cứ thời điểm nào thì mỗi một khoảnh khắc của sự sống đồng thời cũng đưa chúng ta đến gần cái chết hơn, và khoảnh khắc ấy sẽ không bao giờ lặp lại. Sự ngắn ngủi ấy phải chăng là lời nhắc nhở chúng ta hãy tận dụng từng khoảnh khắc trong cuộc sống một cách hữu ích nhất? Chắc chắn là như vậy, và do đó phương châm sống cũng là "mệnh lệnh" của tôi là: Hãy sống như thể bạn đang được sống lần thứ hai và đang sắp phạm phải sai lầm như đã từng phạm phải lần đầu tiên.
    Thực ra, những cơ hội để hành động đúng đắn, những khả năng để sống một cách có ý nghĩa bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ rằng chúng ta không thể thay đổi cuộc đời của mình. Nhưng các khả năng khi đứng riêng lẻ cũng bị ảnh hưởng như vây. Vì ngay khi chúng ta sử dụng một cơ hội và biến ý nghĩa tiềm năng thành hiện thực thì chúng ta chỉ làm một lần và cho tất cả. Chúng ta đưa ý nghĩa đó vào trong quá khứ, nơi nó được giao hàng và đặt cọc một cách an toàn. Trong thế giới của quá khứ, không có gì có thể bị mất đi vĩnh viễn, ngược lại, mọi thứ đều được cất giữ và bảo quản như những vật báu. Song, mọi người thường chỉ hướng tới những cánh đồng đầy gốc rạ có tính nhất thời mà bỏ qua, thậm chí quên hẳn kho tàng đầy ắp của quá khứ, nơi mà họ đã đưa những phần gặt hái được của cuộc đời mình vào trong đó, như: những việc đã làm, những người mình đã yêu thương, và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là những đau khổ mà họ đã trải qua với sự can đảm và lòng tự trọng.
    Từ cách nhìn này, chúng ta có thể thấy rằng chẳng có lý do gì để tỏ ra thương hại người già, mà những người trẻ nên ghen tỵ với họ. Quả thật là người già không còn có cơ hội, không còn những triển vọng trong tương lai. Nhưng thay vào đó, họ có cả kho tàng thực tế sống động trong quá khứ - những khả năng tiềm ẩn đã được hiện thực hoá, họ đã hoàn thành mục đích, ý nghĩa của việc tồn tại trên cuộc đời này, và họ cũng đã nhận ra các giá trị của cuộc sống - cho nên không ai và không điều gì có thể xoá bỏ những tài sản này của họ.
    Theo quan điểm về khả năng tìm thấy ý nghĩa trong đau khổ, ý nghĩa cuộc sống là một nghĩa tuyệt đối - ý nghĩa không bị ràng buộc theo bất kỳ điều kiện nào. Tuy nhiên, ý nghĩa tuyệt đối này tồn tại song song với giá trị tuyệt đối - những giá trị không lệ thuộc vào bất kỳ điều kiện nào - của mỗi người. Vì vậy, chính ý nghĩa tuyệt đối đảm bảo giữ gìn những phẩm giá vĩnh cửu của con người. Giống như cuộc sống lúc nào cũng có ý nghĩa tiềm ẩn của nó dưới bất kỳ hoàn cảnh nào, ngay cả trong những tình huống khắc nghiệt nhất; giá trị của mỗi người cũng tồn tại bên trong bản thân người đó bởi những gì mà họ từng có trong quá khứ (giá trị phẩm cách) và không phụ thuộc vào tình trạng hữu dụng mà họ có thể hoặc không thể giữ lại được trong hiện tại.
    Đặc biệt hơn, sự hữu dụng này thường được định nghĩa theo chức năng có lợi cho xã hội. Nhưng đặc điểm của xã hội ngày nay là chú trọng vào thành tích đạt được, do đó, nó yêu chuộng và tôn sùng những người thành công và hạnh phúc, nhất là thích đề cao những người trẻ. Vô hình chung nó bỏ qua giá trị của người không thành công và không hạnh phúc, và như thế nó làm lu mờ sự khác nhau chủ chốt giữa giá trị theo phẩm cách và giá trị theo sự hữu dụng. Nếu một người không nhận ra sự khác biệt này và một mực cho rằng giá trị của mình chỉ xuất phát từ sự hữu dụng hiện tại của bản thân, thì hãy tin tôi, đó chỉ là một tuyên bố đầy mâu thuẫn của cá nhân, hoàn toàn không đủ lý lẽ để biện hộ cho chương trình "cái chết êm dịu" của Hitler - một hình thức "gia ơn" kết liễu sự sống những người không còn hữu dụng đối với xã hội do tuổi già, bệnh nan ý, suy nhược thần kinh, hoặc bất cứ khuyết tật nào mà con người phải chịu.
    Việc lẫn lộn giữa phẩm giá của một người với sự hữu dụng chủ yếu khởi nguồn từ sự nhầm lẫn về mặt khái niệm do thuyết hư vô đương thời, vốn được truyền bá nhiều ở những nơi đào tạo, giáo dục đầy tính kinh viện và những nơi trị liệu bằng phương pháp phân tâm học, gây ra. Cũng có thể xảy ra tình trạng những tập sự viên phân tích tâm lý bị "nhồi nhét" vào đầu những học thuyết, tư tưởng, phương pháp luận nhưng họ không được phép thắc mắc hay kiểm chứng lại những điều được truyền dạy. Thuyết hư vô không cho rằng hoàn toàn không có gì tồn tại, mà nó tuyên bố rõ ràng rằng mọi thứ đều vô nghĩa . Và George A. Sargent đã đúng khi ông truyền bá khái niệm về "sự vô nghĩa do học được mà có" (learned meaninglessness). Ông đã nhớ đến lời nói của một nhà trị liệu: "George, ông phải nhận ra rằng thế giới là một trò đùa. Chẳng có gì là hợp lý cả, mọi thứ đều là ngẫu nhiên. Chỉ khi ông nhận ra điều này thì ông sẽ thấy ngớ ngẩn thế nào khi ông tỏ vẻ nghiêm trọng. Chẳng có mục đích lớn lao nào trong vũ trụ hết. Nó chỉ như vậy thôi. Không có ý nghĩa gì đặc biệt trong cái quyết định hôm nay ông hành động như thế nào"
    (54).
    Tôi biết mình không nên đưa ra lời phê phán một cách chung chung như vậy. Về cơ bản, việc đào tạo là rất cần thiết, nhưng nếu thế thì các nhà trị liệu nên xem nhiệm vụ của họ là giúp cho các học viên tránh bị tiêm nhiễm theo thuyết hư vô, thay vì cố nhồi nhét họ với
    thuyết khuyển nho(55) như là một cơ chế phòng vệ chống lại thuyết hư vô của chính họ.
    Các bác sĩ về liệu pháp ý nghĩa thậm chí có thể tuân thủ các yêu cầu về đào tạo và bằng cấp do các trường phái tâm lý khác quy định, như Elisabeth S. Lukas đã có lần chỉ ra rằng "trong lịch sử tâm lý trị liệu, chưa từng có một trường phái nào không có tính chất giáo điều như liệu pháp ý nghĩa"
    (56). Và tại Hội nghị Thế giới về liệu pháp ý nghĩa lần đầu tiên (San Diego, California, từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 11 năm 1980), tôi đã không chỉ tranh luận về việc chú trọng đến tính nhân bản trong tâm lý trị liệu mà còn nêu lên ý tưởng "loại bỏ tình trạng rập khuôn trong liệu pháp ý nghĩa"(57). Mối quan tâm của tôi không nằm trong việc nuôi các "con vẹt", vốn chỉ biết bắt chước "giọng nói của chủ" mà nằm trong việc "truyền dạy kiến thức cho những cá nhân có tinh thần độc lập, cách tân và sáng tạo".
    Sigmund Freud đã có lần khẳng định: "Với sự thôi thúc của cái đói, tất cả những khác biệt của từng cá nhân sẽ bị lu mờ, và thay vào đó sẽ xuất hiện một biểu hiện đồng đều về một thôi thúc bất ổn". Có lẽ đó là vì Sigmund Freud đã không phải nếm trải cuộc sống bên trong các trại tập trung. Các thân chủ của ông nằm trên chiếc ghế trường kỷ sang trọng được thiết kế theo phong cách Victoria, chứ không phải trần mình nằm trên đống rác bẩn thỉu ở Auschwitz. Ở đó, "sự khác biệt của mỗi người" không bị "lu mờ" mà trái lại, mọi người trở nên khác biệt hơn; mọi người không che giấu mình, bộc lộ cả phần thánh thiện và phần xấu xa, ghê tởm ở bản thân. Và hôm nay, bạn không còn phải e ngại khi sử dụng từ "thánh nhân" nữa: hãy nghĩ về Đức Cha Maximilian Kolbe, người đã bị bỏ đói và cuối cùng bị giết chết bằng cách tiêm phenol ở Auschwitz, và được phong Thánh vào năm 1983
    (58).
    Bạn có thể trách tôi vì đã lấy các ví dụ ngoài lề không theo quy tắc. "Sed omnia praeclara tam difficilia quam rara sunt" (nhưng những điều vĩ đại thường khó nhận ra cũng như khó tìm thấy) là câu cuối cùng trong cuốn Ethics của Spinoza. Tất nhiên có thể bạn sẽ thắc mắc liệu có cần đề cập đến "thánh nhân" ở đây không. Phải chăng là không thoả đáng khi chỉ nhắc đến những con người tử tế thôi? Đúng là họ chỉ chiếm phần thiểu số. Và hiện giờ tôi thấy việc gia nhập vào nhóm thiểu số này khá cam go. Bởi vì thế giới đang ở trong tình trạng tồi tệ và mọi thứ sẽ còn trở nên tồi tệ hơn trừ phi mỗi người trong chúng ta hết sức cố gắng.
    Vì vậy, chúng ta hãy tỉnh táo - tỉnh táo theo hai nghĩa:
    Từ Auschwits, chúng ta đã biết con người có khả năng gì.
    Và từ Hiroshima, chúng ta biết điều gì đang bị đe doạ.
     
    Chỉnh sửa cuối: 17/5/16
  7. notrinos

    notrinos Lớp 5

    LỜI CUỐI
    Vào ngày 27 tháng 01 năm 2006, kỷ niệm 60 năm giải phóng trại "tử thần" Auschwitz - nơi 1,5 triệu người đã chết - nhiều quốc gia trên thế giới đã tiến hành lễ Tưởng niệm các nạn nhân trong thời Đức quốc xã. Một vài tháng sau, họ cũng tổ chức lễ kỷ niệm một trong số các tác phẩm văn học bất hủ được sáng tác trong giai đoạn khủng khiếp này. Tác phẩm này đầu tiên được xuất bản bằng tiếng Đức vào năm 1946 với nhan đề A Psychologist Experiences the Concentration Camp (Những trải nghiệm của một nhà tâm lý học trong trại tập trung) và sau này được đổi tên thành Say Yes to Life in Spite of Everything ("Hãy nói 'Có' với cuộc sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào"), các ấn bản sau này được bổ sung lời giới thiệu về Liệu pháp ý nghĩa, và một bản tái bút về tinh thần lạc quan khi đối mặt với nỗi đau, tội lỗi và cái chết. Bản dịch tiếng Anh, lần đầu tiên được xuất bản vào năm 1959 với tiêu đề Man's Search for Meaning (Đi tìm lẽ sống).
    Tác phẩm của Viktor Frankl đã bán được hơn 12 triệu bản bằng 24 ngôn ngữ(59). Theo khảo sát vào năm 1991 của thư viện quốc gia Hoa Kỳ (Library of Congress), các độc giả được yêu cầu kể tên "một cuốn sách đã làm thay đổi cuộc đời bạn" và Đi tìm lẽ sống là một trong số mười cuốn sách có ảnh hưởng nhất tại Mỹ. Nó đã truyền cảm hứng cho nhiều nhà tư tưởng về tôn giáo và triết học, các chuyên gia về sức khoẻ tâm thần, các giáo viên, sinh viên và những độc giả đại chúng. Đây là cuốn sách được chỉ định cho các nghiên cứu sinh, sinh viên cao đẳng, đại học, và học sinh trung học về tâm lý học, triết học, lịch sử, văn chương, các nghiên cứu về Đức quốc xã, tôn giáo và thần học. Điều gì đã khiến nó có ảnh hưởng sâu rộng và có giá trị lâu dài đến vậy?
    Cuộc đời của Viktor Frankl trải dài gần hết thế kỷ 20, từ lúc ông sinh ra vào năm 1905 đến khi ông mất vào năm 1997. Từ lúc 3 tuổi, ông đã quyết định sẽ trở thành một y sĩ. Trong tiểu sử của mình, ông bộc bạch rằng ngay từ lúc còn trẻ ông đã "thỉnh thoảng nghĩ về ý nghĩa cuộc sống. Nhất là về ý nghĩa của một ngày sắp tới và ý nghĩa của nó đối với tôi".
    Đến tuổi vị thành niên, Frankl đã đam mê triết học, tâm lý học thực nghiệm và phân tâm học. Để bổ sung thêm kiến thức cho các lớp bậc trung học của mình, ông đã tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức và bắt đầu trao đổi qua lại bằng thư từ với Sigmund Freud, đưa tới việc Freud đã nộp bản thảo của Frank cho Tạp chí phân tâm học quốc tế (International Journal of Psychoanalysis). Bài viết đã được chấp nhận và xuất bản sau đó. Cũng cùng năm đó, khi 16 tuổi, Frankl đã tham dự một hội thảo chuyên đề nằm trong chương trình bồi dưỡng chuyên môn về triết học. Vị giáo sư hướng dẫn đã nhận ra tài năng hiếm có của Frankl nên đã mời ông cùng thuyết giảng về ý nghĩa cuộc sống. Frankl đã nói với khán giả rằng: "Chính chúng ta phải tự trả lời câu hỏi mà cuộc sống hỏi ta, và trước những câu hỏi đó, chúng ta chỉ có thể trả lời bằng cách chịu trách nhiệm cho chính sự tồn tại của mình". Niềm tin này trở thành kim chỉ nam cho cuộc sống và định hình lý tưởng nghề nghiệp của Frankl.
    Chịu ảnh hưởng từ một số quan điểm của Freud, khi còn là học sinh trung học, Frankl đã quyết định sau này sẽ trở thành bác sĩ thần kinh. Một người bạn học từng nói với Frankl là ông được phú cho khả năng giúp đỡ những người khác, như được tiếp thêm động lực, Frankl bắt đầu nhận ra rằng ông không những có khả năng chuẩn đoán các vấn đề về thần kinh mà còn có khả năng tìm ra động lực thúc đẩy con người.
    Công việc tham vấn tâm lý đầu tiên của Frankl hoàn toàn do ông khởi xướng - ông đã sáng lập ra chương trình tham vấn tâm lý riêng dành cho giới trẻ đầu tiên ở thủ đô Vienna, Áo. Từ 1930-1937, ông là bác sĩ tâm thần tại Bệnh viện Đại học Y ở thủ đô Vienna, chuyên chăm sóc các bệnh nhân đã từng tự tử. Ông tìm cách giúp các bệnh nhân của mình tìm ra con đường khiến cuộc sống của họ có ý nghĩa hơn, cho dù họ mắc phải căn bệnh trầm cảm hoặc tâm thần. Năm 1939, ông trở thành trưởng khoa thần kinh tại bệnh viện Rothschild - bệnh viện Do Thái đầu tiên ở Vienna.
    Trong những năm đầu chiến tranh, công việc của Frankl tại Rothschild đã giúp ông và gia đình được bảo vệ khỏi nguy cơ bị trục xuất. Tuy nhiên, khi bệnh việc bị chính quyền phát xít đóng cửa, Frankl nhận ra rằng họ có nguy cơ lớn bị đưa đến trại tập trung. Năm 1942, đại sứ quán Mỹ ở Vienna thông báo rằng ông được cấp thị thực định cư ở Mỹ. Mặc dù thoát khỏi Vienna sẽ giúp ông hoàn thành cuốn sách về liệu pháp ý nghĩa, nhưng ông đã quyết định huỷ bỏ thị thực: ông cảm thấy mình nên ở lại Vienna vì cha mẹ già. Tháng 09 năm 1942, Frankl và gia đình bị bắt và bị trục xuất. Ông đã trải qua 4 trại tập trung trong suốt 3 năm - Theresienstadt, Auschwitz-Birkenau, Kaufering và Türkheim, một bộ phận của trại Dachau.
    Điều quan trọng cần lưu ý rằng việc tù đày của Frankl không phải là động cơ duy nhất thôi thúc ông viết Đi tìm lẽ sống. Trước khi bị trục xuất, ông đã bắt đầu phát triển hệ thống các luận cứ chứng minh rằng tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống là chìa khoá cho sức khoẻ tinh thần và giúp con người trưởng thành. Trở thành một tù nhân trong trại tập trung, ông bỗng nhiên bị buộc phải quyết định xem chính cuộc sống của mình có ý nghĩa hay không. Sự sống sót của ông là kết quả kết hợp từ ý chí sống với bản năng sinh tồn, những hành động khoan dung đầy tính nhân văn và sự không khéo; dĩ nhiên, không thể không kể đến vai trò của yếu tố may mắn chẳng hạn như nơi ông bị giam giữ, tính khí bọn lính canh và các quyết định tuỳ hứng của chúng về vị trí xếp hàng, và những người bạn đáng tin cậy. Tuy nhiên, có một số yếu tố chỉ có riêng ở mỗi người đã giúp họ vượt qua sự đói khổ và suy đồi ở trại. Frankl đã rút ra những khả năng chỉ có ở con người chẳng hạn như sự lạc quan bẩm sinh, sự hài hước, tâm lý tách rời, những giây phút trầm ngâm ngắn ngủi, sự tự do bên trong, và sự quyết tâm không gục ngã hoặc tự tử. Ông nhận ra rằng ông phải sống vì tương lai, và rút ra sức mạnh từ những tình cảm sâu sắc đối với người vợ và niềm khao khát hoàn thành cuốn sách về liệu pháp ý nghĩa. Ông cũng tìm thấy ý nghĩa cuộc sống trong cảnh đẹp như tiên và nghệ thuật, dù trong những khoảnh khắc thoáng qua. Điều quan trọng nhất là ông đã nhận ra rằng cho dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, ông vẫn có thể tự do để lựa chọn thái độ trước những đau khổ của mình. Ông đã nhìn thấy điều này không chỉ đơn thuần như một sự lựa chọn mà là trách nhiệm của ông và của mỗi người để quyết định "những bước đi cuộc đời trên con đường vận mệnh".
    Đôi khi các ý tưởng của Frankl cũng truyền cảm hứng cho người khác, như khi ông giải thích với các bệnh nhân đang hấp hối và bị liệt về cách để đối mặt với số phận của họ. Những người khác cũng truyền cảm hứng cho ông như khi ông khẳng định rằng một người tìm thấy ý nghĩa qua việc "đấu tranh cho mộc mục đích xứng đáng, tự do chọn nhiệm vụ cho mình". Ông chỉ ra rằng sự thất vọng về việc tồn tại có thể sản sinh và khuyến khích một nhà ngoại giao(60) bất hạnh tìm thấy một sự nghiệp mới, vừa ý hơn. Tuy nhiên, Frankl cũng sử dụng các lời khuyên về đạo đức để gây chú ý đến "khoảng cách giữa việc một người là gì với việc một người cần phải trở thành" và rằng "con người có trách nhiệm phải biến các ý nghĩa tiềm tàng trong cuộc sống của mình thành hiện thực". Ông xem quyền tự do và trách nhiệm như hai mặt của một đồng xu. Khi ông diễn thuyết trước các khán giả Mỹ, Frankl nói: "Tôi cho rằng ngoài bức tượng nữ thần Tự do ở bờ Tây, nên có thêm một tường thần Trách nhiệm ở bờ Đông". Theo ông, để tìm được ý nghĩa cuộc sống, con người phải biết "vượt thoát khỏi những ham muốn cá nhân bằng cách làm điều gì đó có ý nghĩa với ai đó hay sự vật/ sự việc nào đó ngoài bản thân mình..., hay bằng cách trao cho mình một lý do để phụng sự hoặc tìm cho mình một ai đó để yêu thương". Chính Frankl đã quyết định thể hiện sự hiếu kính đối với cha mẹ bằng cách ở lại Vienna trong khi ông có thể sống an toàn ở Mỹ. Trong lúc ở cùng trại tập trung với cha mình, Frankl đã sử dụng morphine để giảm đau cho cha và ở cạnh cha suốt những ngày cha hấp hối.
    Thậm chí khi đối mặt với sự mất mát và đau buồn, tinh thần lạc quan, thái độ quả quyết và tấm lòng dạt dào tình cảm, tin yêu cuộc sống đã khiến ông luôn tin tưởng rằng niềm hy vọng và năng lượng tích cực có thể chuyển những thách thức thành chiến thắng. Trong Đi tìm lẽ sống, ông nhấn mạnh rằng không nhất thiết phải đau khổ mới tìm thấy ý nghĩa sống, mà là "ý nghĩa sống vẫn tồn tại bất chấp mọi đau khổ". Quả thật như vậy, "những đau khổ không cần thiết sẽ biến ta thành ngớ ngẩn hơn là anh hùng", ông tiếp tục khẳng định.
    Lần đầu tôi đọc Đi tìm lẽ sống là trong tư cách một giáo sư triết học vào giữa những năm 1960. Một triết gia Na Uy - người đã bị giam cầm ở trại tập trung Đức quốc xã - đã khiến tôi chú ý tới tập sách này. Người đồng nghiệp này của tôi nhấn mạnh rằng ông ủng hộ Frankl về tầm quan trọng trong việc nuôi dưỡng sự tự do bên trong của một người, nắm lấy giá trị của vẻ đẹp trong tự nhiên, nghệ thuật, thơ ca, văn chương và cảm giác yêu thương dành cho gia đình và bạn bè. Những lựa chọn, hoạt động, mối quan hệ, sở thích và thậm chí những niềm vui giản dị của cá nhân cũng có thể đem lại ý nghĩa cuộc sống. Vậy thì tại sao một vài người lại thấy trống rỗng? Sự thông thái của Frankl ở đây đáng để nhấn mạnh: đó chính là thái độ của mỗi người trước những thử thách và cơ hội, dù lớn hay nhỏ. Một thái độ tích cực có thể cho phép một người gia tăng sức chịu đựng và niềm hạnh phúc. Một thái độ tiêu cực sẽ tăng nỗi đau và sự thất vọng, nó phá huỷ và tiêu giảm niềm vui, hạnh phúc và sự thoả mãn; thậm chí có thể dẫn đến trầm cảm và gây bệnh.
    Norman Cousins - một người bạn và cũng là đồng nghiệp cũ của tôi - đã ủng hộ không mệt mỏi cho giá trị của các cảm xúc tích cực trong việc gia tăng sức khoẻ và anh ấy đã cảnh báo rằng các cảm giác tiêu cực có thể gây nguy hiểm cho giá trị ấy. Mặc dù có một vài người chỉ trích quan điểm của Cousins là quá đơn giản, nhưng các nghiên cứu sau đó về chứng rối loạn thần kinh đã củng cố cách thức mà các cảm xúc, sự kỳ vọng và thái độ tích cực gia tăng sức đề kháng của cơ thể như thế nào. Nghiên cứu này cũng củng cố niềm tin của Frankl rằng cách tiếp cận của một người trước những sự việc xung quanh, từ những thách thức đe doạ cuộc sống cho đến các tình hướng hằng ngày, cũng giúp hình thành nên ý nghĩa cuộc sống của chúng ta. Chân lý đơn giản mà Frankl đã hết lòng cổ xuý có tầm quan trọng sâu sắc đối với những ai lắng nghe ông.
    Con người nên chủ động đưa ra các lựa chọn thay vì thụ động chấp nhận những gì xảy đến với mình. Qua việc đưa ta quyết định, chúng ta khẳng định sự tự do ý chí của mình. "Con người không phải là một mắt xích trong chuỗi sự việc; các sự việc quy định lẫn nhau nhưng con người là người quyết định cuối cùng. Con người hoàn toàn có khả năng vượt qua những giới hạn của môi trường và hoàn cảnh sống, vượt lên chính mình". Chẳng hạn như câu chuyện về một người lính Israel trẻ đã bị mất cả hai chân trong trận chiến Yom Kippur, sự tuyệt vọng khiến anh muốn tự sát. Một ngày nọ, một người bạn để ý thấy dường như tinh thần của người lính trẻ này đã có chút khởi sắc. Người lính trẻ đã thay đổi khi đọc Đi tìm lẽ sống. Khi Frankl được kể về câu chuyện của người lính ấy, ông bình luận "liệu có phương pháp điều trị nào như phương pháp autobiblitherapy - chữa trị qua đọc sách không?".
    Nhận xét của Frankl chỉ ra lý do tại sao Đi tìm lẽ sống có tác động mạnh lên nhiều độc giả đến vậy. Những người đang gặp khó khăn về cuộc sống hoặc khủng hoảng có thể tìm thấy lời khuyên hoạc lời hướng dẫn từ gia đình, bạn bè, các chuyên gia tâm lý, hoặc từ những bậc tu hành. Những người đang đứng trước những lựa chọn khó khăn có thể không hoàn toàn đánh giá cao thái độ của họ có tác động nhiều đến các quyết định mà họ cần đưa ra hoặc hành động họ sẽ làm như thế nào. Frankl đem lại cho người đọc, những người đang tìm kiếm câu trả lời cho những tình huống khó xử trong cuộc sống, quyền tự quyết định - "Ông ấy không bảo mọi người phải làm cái gì, nhưng ông cho họ thấy tại sao phải làm điều đó".
    Vào năm 1945, sau khi thoát khỏi cái chết cận kề do bệnh sốt phát ban trong trại Türkheim và được trả tự do, Frankl phát hiện rằng mình hoàn toàn cô độc. Vào ngày đầu tiên trở về Vienna vào tháng 8 năm 1945, Frankl biết rằng Tilly - người vợ đang mang trong mình giọt máu của ông đã chết trong trại tập trung Bergen - Belsen. Cha mẹ và em trai của ông cũng đều chết trong trại. Vượt qua nỗi mất mát và suy sụp của mình, ông vẫn tiếp tục làm việc tại Vienna với tư cách là một chuyên gia về tâm thần học - đây là một quyết định bất thường bởi vì nhiều người, nhất là các nhà phân tâm học và tâm thần học người Do Thái, đều định cư ở các quốc gia khác. Nhiều nhân tố đã góp phần đưa đến quyết định này của ông: Frankl cảm thấy có mối liên hệ mật thiết với Vienna, nhất là với các bệnh nhân tâm thần cần sự giúp đỡ của ông trong giai đoạn hậu chiến. Ông cũng tin tưởng mạnh mẽ rằng sự hoà giải tốt hơn việc trả thù; ông đã từng nhấn mạnh: "Tôi không quên bất kỳ nghĩa cử tốt đẹp nào tôi đã được nhận, nhưng tôi không nuôi lòng oán giận về những hành xử tồi tệ". Ông đặc biệt phản đối quan điểm về tội lỗi tập thể. Frankl có thể chấp nhận rằng các đồng nghiệp và những người hàng xóm ở Vienna có thể đã biết hoặc thậm chí đã tham gia vào việc bức hại ông, nhưng ông không chỉ trích họ vì đã không kiên quyết giữ vững lập trường quan điểm đến cùng hoặc chết một cách anh dũng. Thay vào đó, ông giữ vững quan điểm rằng thậm chí một tội phạm Đức quốc xã xấu xa hoặc một người tâm thần dường như vô phương cứu chữa cũng có khả năng vượt qua sự xấu xa hoặc điên rồi bằng cách đưa ra những lựa chọn có trách nhiệm.
    Ông đã vùi mình vào nghiên cứu. Năm 1946, ông tái cấu trúc và chỉnh sửa cuốn sách đã bị tiêu huỷ khi bị đưa vào trại tập trung - The Doctor and the Soul (Bác sĩ và tâm hồn), và cũng trong năm đó - chỉ trong vòng 9 ngày - ông đã viết xong Đi tìm lẽ sống. Ông hy vọng những gì ông viết sẽ giúp chữa trị tình trạng cô lập bản thân và sự bất ổn, xáo trộn về văn hoá - những nguyên nhân khiến nhiều người cảm thấy "trống rỗng nội tâm". Có lẽ lòng nhiệt tình đối với công việc đã giúp Frankl khôi phục lại ý nghĩa cuộc sống trong ông.
    Hai năm sau, ông kết hôn với Eleanore Schwindt. Giống như Tilly, người vợ trước của ông - Eleanore cũng là một y tá. Tilly theo đạo Do Thái, còn Elly (tên gọi thân mật của Eleanore) theo Thiên Chúa giáo. Mặc dù việc hai người vợ của ông theo hai tín ngưỡng khác nhau chỉ đơn thuần là sự trùng hợp nhưng qua đó cũng thể hiện được tính cách của Victor Frankl - ông luôn tôn trọng tất cả mọi người bất kể tín ngưỡng, tôn giáo của họ. Lòng trân trọng sâu sắc của ông trước sự độc đáo và phẩm giá của một cá nhân được thể hiện rõ qua việc ông ngưỡng một Freud và Adler, cho dù ông không đồng ý với các học thuyết tâm lý và triết học của họ. Ông cũng tự hào về mối quan hệ riêng của mình với các triết gia thuộc các trường phái hoàn toàn đối lập như Martin Heidegger - người trước đây từng ủng hộ chế độ phát xít, nhưng sau này đã được cải hoá, hay Karl Jasper - người tán thành ý tưởng về tội lỗi tập thể, và Gabriel Marcel - một triết gia và văn sĩ theo Thiên Chúa giáo. Với tư cách là một chuyên gia tâm thần, Frankl đã tránh đối chiếu với niềm tin tôn giáo của bản thân. Ông hãnh diện khi nói rằng mục tiêu của nhà tâm thần học là chữa trị tâm hồn, còn tôn giáo là để cứu rỗi tâm hồn.
    Ông phụ trách giảng dạy và quản lý khoa thần kinh thại Bệnh viện Ngoại trú Vienna trong suốt 25 năm và đã viết hơn 30 cuốn sách chuyên sâu về tâm lý học cùng với các đầu sách phổ thông khác. Viktor Frankl cũng diễn thuyết ở khắp các châu lục trên thế giới, từ châu Âu, châu Mỹ, Úc, châu Á đến châu Phi; ông cũng được mời giảng dạy tại các trường đại học danh tiếng hàng đầu thế giới như Harvard, Stanford, Pittsburgh. Ông là Giáo sư đặc biệt (Distinguished Professor) về Liệu pháp ý nghĩa tại Đại học Quốc tế Hoa Kỳ (U.S International University), thành phố San Diego. Ông đã gặp các chính trị gia, những nhà lãnh đạo thế giới như Đức Giáo Hoàng John Paul VI, các triết gia, sinh viên, giáo viên. Vô số độc giả đã được truyền cảm hứng từ những cuốn sách của ông. Thậm chí ở tuổi 90, Frankl vẫn tiếp tục tham gia đối thoại với các du khách từ khắp nơi trên thế giới và trả lời thư riêng cho hàng trăm bức thư ông nhận được mỗi tuần. 29 trường đại học đã dành tặng ông học vị danh dự, và hiệp hội bệnh tâm thần Mỹ đã vinh danh ông với Giải thưởng Oskar Pfister(61).
    Frankl được tôn vinh vì đã sáng lập ra liệu pháp ý nghĩa như một phương pháp tâm lý dùng các phân tích về sự tồn tại để giúp người bệnh giải quyết các xung đột về cảm xúc. Ông khuyến khích nhiều chuyên gia nhìn sâu hơn về quá khứ hoặc các vấn đề ở hiện tại của bệnh nhân để giúp họ hoạch định một cuộc sống tích cực trong tương lại bằng việc đưa ra những lựa chọn cá nhân và chịu trách nhiệm với chúng. Nhiều thế hệ chuyên gia tâm lý đã được truyền cảm hứng bởi cách nhìn nhân văn của ông và có những bước đột phá trong sự nghiệp của mình nhờ vào các bài viết, bài diễn thuyết đầy sức hút của Frankl. Ông đã khuyến khích mọi người nên dùng cách phân tích về sự tồn tại một cách sáng tạo thay vì lập ra một học thuyết chính thức. Ông cho rằng các nhà trị liệu nên tập trung vào như cầu cụ thể cảu từng bệnh nhân hơn là đưa ra kết luận từ các lý thuyết trừu tượng.
    Mặc dù lịch làm việc dày đặc, Frankl cũng dành thời gian để học lái máy bay và theo đuổi niềm đam mê cả đời ông là chinh phục những đỉnh núi. Ông đã đùa rằng, trái ngược với "độ sâu tâm lý" của Freud và Adler - vốn nhấn mạnh vào việc đào sâu quá khứ, bản năng vô thức và ước muốn của cá nhân - ông đã thực hành "độ cao tâm lý" - tập trung vào tương lai, những quyết định và hành động có ý thức của một người. Cách tiếp cận của ông với liệu pháp tâm lý nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc giúp đỡ mọi người đạt tới tầm cao mới về ý nghĩa của bản thân qua việc tự thay đổi chính mình: áp dụng các nỗ lực, phương pháp tích cực, chấp nhận những giới hạn và đưa ra các quyết định khôn ngoan. Mục tiêu của ông là muốn mọi người nhận ra rằng họ có thể và nên rèn luyện khả năng chọn lựa để đạt được mục đích của mình. Viết về sự lạc quan trong bi kịch, ông lưu ý chúng ta rằng "thế giới ở trong tình trạng tồi tệ, nhưng mọi thứ sẽ vẫn tồi tệ trừ khi mỗi chúng ta cố gắng hết mình".
    Một lần, mọi người yêu cầu Frankl tóm gọn ý nghĩa cuộc sống của ông trong một câu. Ông đã viết câu trả lời trên giấy và hỏi các sinh viên của mình rằng ông đã viết cái gì. Sau một hồi im lặng, một sinh viên đã khiến Frankl ngạc nhiên khi nói: "Ý nghĩa cuộc sống của thầy là giúp những người khác tìm ra ý nghĩa cuộc sống của họ".
    "Chính xác" - Frankl nói. "Đó chính là những lời mà tôi đã viết".
    -William J. Winslade(62)

    HẾT
     
    Chỉnh sửa cuối: 18/5/16
  8. notrinos

    notrinos Lớp 5

    Chú thích:
    (1) Freidrich Wihelm Nietzsche (1844 - 1900): Nhà triết học Đức, có ảnh hưởng lớn trong triết học hiện đại, nhất là đối với chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa hậu hiện đại.
    (2) Sigmund Freud (1856 - 1939): Bác sĩ về thần kinh và là nhà tâm lý học người Áo, người đặt nền móng và phát triển ngành phân tâm học.
    (3) Alfred Adler (1870 - 1937) Nhà tâm lý học người Áo, người sáng lập ra Tâm lý học cá nhân.
    (4) Kinh Shema Yisrael là kinh nguyện hằng ngày của tín đồ Do Thái giáo, và là trích đoạn của sách Đệ Nhị Luật, chương 6:4-9, tạm dịch "Này hỡi dân Israel! Thiên Chúa là Chú chúng ta! Là Thiên Chúa duy nhất!". (Chú thích của người dịch)
    (5) Harold S. Kushner là một giáo sĩ danh dự tại Temple Israel ở Natick, Massachusetts và là tác giả của nhiều quyển sách bán chạy nhất (best-seller), gồm When Bad Things Happen to Good People (Khi điều tồi tệ xảy ra với người tốt), Living a Life That Matters (Sống xứng đáng) và When All You're Ever Wanted Isn't Enough (Khi tất cả vẫn là chưa đủ).
    (6) Rượu sơ náp (Tiếng Anh: Schnapps): Một loại rượu có xuất xứ từ Đức.
    (7) Fyodor Mikhailovich Dostoevski (1821 - 1881): Văn hào Nga, tác giả của những tiểu thuyết nổi tiếng Tội ác và trừng phạt, Anh em nhà Karamazov,...
    (8) Doris Lessing (sinh năm 1919): Nhà văn Anh, đoạt giải Nobel Văn học năm 2007. Bà là tác giả của các tiểu thuyết The Grass is Singing và The golden Notebook.
    (9) Arthur Schopenhauer (1788 - 1860): Nhà triết học duy tâm người Đức, nổi tiếng với tác phẩm "The world as Will and Representation" (Thế giới như là ý chí và biểu tượng).
    (10) Otto von Bismarck (1815 - 1898): Thủ tướng đầu tiên của Đế chế Đức, người có ảnh hưởng lớn tới lịch sử cận đại châu Âu.
    (11) Benedictus de Spinoza (1633 - 1677): Nhà triết học người Hà Lan gốc Do Thái, được xem là người đã đặt nền móng cho thời kỳ Khai sáng ở thế kỷ 18.
    (12) Rainer Maria Rilke (1875 - 1926): Nhà thơ người Áo viết bằng tiếng Đức, được xem là một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỷ 20.
    (13) Tình cờ tôi được biết thêm một chuyện thú vị liên quan đến vị chỉ huy thuộc đội lính SS này, qua đó cho thấy ông được các tù nhân Do Thái trong trại tập trung rất kính trọng. Sau khi chiến tranh kết thúc, quân đội Mỹ đến giải phóng cho các tù nhân trong trại tập trung của chúng tôi. Ba tù nhân Do Thái gốc Hung đã giấu vị chỉ huy này trong một khu rừng ở Bavaria. Sau đó, họ đến báo cáo với vị sĩ quan chỉ huy quân đội Mỹ phụ trách khu vực của chúng tôi - vị này đang tìm mọi cách truy lùng người chỉ huy thuộc đội lính SS kia - rằng họ sẽ giao nộp vị chỉ huy SS với điều kiện: vị chỉ huy quân đội Mỹ phải cam kết là sẽ bảo đảm an toàn tính mạng cho vị trưởng trại kia. Sau một hồi suy nghĩ, người chỉ huy phía bên quân Mỹ cuối cùng cũng đồng ý với ba tù nhân Do Thái gốc Hung kia. Và trên thực tế, vị chỉ huy quân đội Mỹ không chỉ thực hiện đúng lời hứa của mình mà người cựu chỉ huy SS của trại chúng tôi còn được phục chức, bởi vì ông ấy đã giám sát việc thu gom tất cả quần áo, trang phục từ các thôn làng tại Bavaria, sau đó phân phát cho tất cả tù nhân chúng tôi. Lúc đó chúng tôi vẫn khoác trên mình những bộ quần áo chúng tôi được kế thừa từ những người bạn tù đã nằm xuống vĩnh viễn tại Auschwitz, họ đã không may mắn như chúng tôi, họ đã không thể đợi được đến ngày này, đó là những người đã bị đưa thẳng đến lò hơi ngạt khi vừa bước xuống sân ga xe lửa ngay buổi sáng đầu tiên đến trại.(Chú thích của tác giả)
    (14) Đó là phiên bản gốc cuốn sách đầu tiên của tôi, bản dịch tiếng Anh đã được Alfred A. Knopf, New York xuất bản năm 1955 với tựa đề The Doctor and the Soul: An Introduction to Logotherapy (Bác sĩ và tâm hồn: Giới thiệu về Liệu pháp ý nghĩa). (Chú thích của tác giả)
    (15) Hiện tượng phụ (Epiphenomenon): Một hiện tượng xuất hiện như là kết quả kéo theo của một hiện tượng chính xảy ra trước đó. (Chú thích của tác giả)
    (16) "Logotherapy and Existential Analysis", Acta Psychotherapeutica, 6 (1958), trang 193-204. (Chú thích của tác giả)
    (17) Kinh cầu nguyện cho người chết của người Do Thái. (Chú thích của tác giả)
    (18) "Người đã đếm thấy sự trăn trở của con; người đã giữ nước mắt của con trong cái bình của người! Chúng không ở trong sách của người sao?" (Thánh Vịnh, bài 56, đoạn 8). (Chú thích của tác giả)
    (19) Để điều trị các trường hợp bất lực tình dục, một kỹ thuật cụ thể theo liệu pháp ý nghĩa đã được phát triển, dựa trên lý thuyết về mong muốn và phản ứng thái quá như đã được phác thảo ở trên (Viktor E. Frankl, "The Pleasure Principle and Sexual Neurosis", The International Journal of Sexology, vol 5, số 3 (1952), trang 128-30).Dĩ nhiên, kỹ thuật này không thể nào trình bày trong bài viết tóm lược này về các nguyên lý của liệu pháp ý nghĩa. (Chú thích của tác giả)
    (20) Viktor E. Frankl, "Zur medikamentösen Unterstutzung der Psychotherapie bei Neurosen", Schweizer Archiv für Neurologie und Psychiatrie, Vol.43, trang 26-31. (Chú thích của tác giả)
    (21) Gordon Willard Allport (1897 - 1967): Nhà tâm lý học người Mỹ, một trong những người tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu tâm lý học hành vi cá nhân.
    (22) New York, The Macmillan Co., 1956, trang 22. (Chú thích của tác giả)
    (23) Nỗi sợ mất ngủ, trong đa số các trường hợp, là do sự thiếu hiểu biết của bệnh nhân về việc cơ thể tự cung cấp cho chính nó một số lượng giấc ngủ tối thiểu cần thiết. (Chú thích của tác giả)
    (24) American Journal of Psychotherapy, 10 (1956), trang 134. (Chú thích của tác giả)
    (25) "Some Comments on a Viennese School of Psychiatry", The Journal of Abnormal and Social Psychology, 51 (1955), trang 701-703. (Chú thích của tác giả)
    (26) Anticipatory anxiety: Cơn lo âu, hốt hoảng có thể bùng phát khi đối diện với điều gì đó đã khiến bản thân khiếp sợ trong quá khứ. (Chú thích của người dịch)
    (27) Điều này thường bị thúc đẩy từ nỗi sợ hãi của các bệnh nhân rằng các ám ảnh này báo hiệu mình sắp bị bệnh tâm thần hoặc thậm chí đã bệnh rồi; người bệnh không nhận ra rằng thực tế, sự rối loạn thần kinh ám ảnh phải làm một điều gì đó đang giúp cho anh ta thoát khỏi bị căn bệnh tâm thần thật sự, hơn là gây nguy hiểm cho anh ta theo chiều hướng này. (Chú thích của tác giả)
    (28) Lý lẽ này được Allport ủng hộ. Ông có lần nói: "Bởi vì trọng tâm đối kháng chuyển dịch từ sự xung đột đến các mục tiêu vị tha, nên cuộc sống sẽ trở nên âm vang hơn cho dù chứng rối loạn thần kinh có thể không bao giờ biến mất hoàn toàn" (trích dẫn trang 95). (Chú thích của tác giả)
    (29) Tác giả đã lý giải ở phần trên, rằng ngay từ buổi bình minh của lịch sử nhân loại, loài người đã mất đi một số bản năng cơ bản của loài thú; đến các giai đoạn sau này, những truyền thống nhằm củng cố hành vi của con người cũng mất dần; rồi quá trình tự động hoá tưởng chứng sẽ giúp con người có thêm thời gian nghỉ ngơi, bớt phải lao động vất vả nhưng đáng tiếc là nhiều người không biết làm gì với quỹ thời gian nhàn rỗi này. Thế là họ cảm thấy cuộc sống thật trống trải, vô vị. (Chú thích của người dịch)
    (30) "Value Diemensions in Teaching", phim do tập đoàn Hollywood Animators sản xuất, dành cho Hiệp hội các trường Cao đẳng California.
    (31) "Bức màn sắt": Thuật ngữ chính trị chỉ sự phân chia ranh giới về địa lý và tư tưởng đã chia châu Âu thành hai phần riêng biệt (khối các nước tư bản chủ nghĩa và khối các nước xã hội chủ nghĩa) trong thời kỳ từ sau Thế chiến thư hai 1945 đến cuối cuộc Chiến tranh lạnh vào năm 1991. (Chú thích của người dịch)
    (32) Chương này dựa trên một bài diễn văn tôi đã trình bày tại Hội nghị thế giới lần thứ ba về Liệu pháp ý nghĩa, Đại học Regensburg, Tây Đức, tháng 6/1983. (Chú thích của tác giả)
    (33) Basic Book, New York, 1980, trang 448. (Chú thích của tác giả)
    (34) "Wirtschafskrise und Seelenleben vom Standpunkt des Jugendberaters", Sozialärztliche Rundschau, vol 4, (1933), trang 43-46. (Chú thích của tác giả)
    (35) Carolyn Wood Sherif (1922 - 1982): Chuyên gia tâm lý học xã hội nổi tiếng người Mỹ, dựa trên các kết quả nghiên cứu tâm lý đám đông, bà và ông Muzafer Sherif (chồng bà) là những người đi tiên phong trong việc thiết lập những biện pháp kỷ luật xã hội nhằm xây dựng một cộng đồng ngày càng tốt đẹp hơn.
    (36) Để biết thêm các thông tin khác về thí nghiệm này, xem Viktor E. Frankl, The Unconsious God (Thượng đế Vô thức), New York và Schuster, 1978, trang 140, và Viktor E. Frankl, The Unheart Cry for Meaning (Khát khao âm ỉ về ý nghĩa), New York, Simon và Schuster, 1978, trang 36. (Chú thích của tác giả)
    (37) Xem Annemarie von Forstmeyer, The Will to Meaning as a Prerequisite for Self-Actualization, Đại học Case Western, năm 1968.
    (38) Stanley Kripner (sinh năm 1932): Giáo sư chuyên ngành tâm lý tại Đại học Saybrook, San Fransisco.
    (39) Để biết thêm các thông tin khác, xem Viktor E. Frankl, The Unconsious God, trang 97-100; The Unheart Cry for Meaning, trang 26-28. (Chú thích của tác giả)
    (40) Karl Bühler (1879 - 1963): Nhà tâm lý học người Đức, người đầu tiên dùng thuật ngữ "Aha" để chỉ trải nghiệm xuất hiện đột ngột trong một khoảnh khắc, khi con người chợt nhận ra điều sâu sắc ẩn chưa bên trong vấn đề mà mình đang trăn trở.
    (41) Max Wertheimer (1880 - 1943): Nhà tâm lý học người Đức. Ông là một trong ba nhà sáng lập (cùng với Kurt Koffka và
    Wolfgang Köhler) nên trường phái tâm lý học Gestalt. Tâm lý học Gestalt chủ trương rằng những thành phần cấu thành các trải nghiệm của con người không thể được khảo sát một cách riêng lẻ, mà phải được xem xét dưới dạng những "tổng thể". (Gestalt bắt nguồn từ động từ tiếng Đức gestalten, có nghĩa là "vun đắp, tạo dáng, cấu trúc").
    (42) Charlotte Bühler (1893 - 1974): Nhà tâm lý học người Đức có nhiều nghiên cứu về tâm lý trẻ em. Bà là vợ của nhà tâm lý Karl Bühler.
    (43) "Basic Theoretical Concepts of Humanistic Psychology", American Psychologist XXVI.(04/1971) trang 378. (Chú thích của tác giả)
    (44) Ngành sinh học nghiên cứu về sự sống và các tổ chức sống, bao gồm cấu trúc, chức năng, sự sinh trưởng, nguồn gốc, sự tiến hoá, sự phân bổ và phân loại...
    (45) Priori: Thuật ngữ khoa học chỉ cái có trước, cái tiên thiên.
    (46) Nhận thức tiền suy ngẫm là nhận thức đầu tiên. Ví dụ, cảm xúc "yêu thương" là một nhận thức tiền suy ngẫm, nhưng khi được yêu cầu mô tả Yêu thương là trạng thái cảm xúc thế nào, ta phải nhớ, suy ngẫm về cảm giác đó rồi mới thuật lại được, giờ nó là một nhận thức có được từ suy ngẫm. (Chú thích của người dịch)
    (47) "The Place of Logotherapy in the World Today" The International Forum for Logotherapy, vol 1, Nº3 (1980) (Chú thích của tác giả)
    (48) The Defiant Power of the Human Spirit thực ra là tiêu đề của một bài báo được trình bày tại Hội nghị thế giới lần thứ ba về Liệu pháp ý nghĩa vào tháng 6 năm 1983. (Chú thích của tác giả)
    (49) Tôi nhớ mãi một cuộc phỏng vấn có lần tôi đã nghe trên truyền hình quốc gia Áo về một bác sĩ chuyên khoa tim người Ba Lan. Trong suốt Thế chiến thứ II, vị bác sĩ này đã giúp đỡ thành lập tổ chức mới nổi dậy Do Thái Warsaw. "Quả thật là một hành động anh hùng", người phóng viên thán phục. "Quý vị biết đấy", bác sĩ bình tĩnh đáp, "để cầm một khẩu súng và bắn thì không phải là điều gì ghê gớm cả; nhưng nếu bọn SS dẫn anh tới một phòng hơi ngạt hay tới một ngôi mộ tập thể để hành hình, và anh không thể làm gì khác ngoài việc đi con đường của mình với thái độ đường hoàng - thì anh sẽ hiểu, đây mới là điều tôi cho là anh hùng". Chủ nghĩa anh hùng là như vậy đấy. (Chú thích của tác giả)
    (50) Mysterium iniquitati (Mystery of Iniquyti): Nguồn gốc của tội lỗi. (Chú thích của người dịch)
    (51) Xem thêm Joseph B. Fabry, The Pursuit of Meaning, New York, Harper và Row, 1980. (Chú thích của tác giả)
    (52)Trích từ Viktor E. Frankl, The Unheard Cry for Meaning, New York, Simon và Schuster, 1978, trang 42-43. (Chú thích của tác giả)
    (53) Xem thêm Viktor E. Frankl, Psychotherapy and Existentialism, New York, Simon và Schuster, 1967. (Chú thích của tác giả)
    (54) "Transference and Countertransference in Logotherapy" The International Forum of Logotherapy, vol 5 Nº2 (Thu Đông 1982), trang 115-118. (Chú thích của tác giả)
    (55) Thuyết khuyển nho (Cynicism) là một trường phái triết học Hy Lạp cổ đại chủ trương khắc khổ, diệt dục, đạo đức một cách thái quá
    (56) Liệu pháp ý nghĩa không áp đặt lên những người thích tâm lý trị liệu. Nó không thể so sánh với một cái chợ phương Đông mà phải với một cái siêu thị. Ở chợ, khách hàng khi đã hỏi chuyện thì phải mua một cái gì đó. Nhưng ở siêu thị, anh ta được xem, được gợi ý những thứ khác nhau mà từ đó anh ta có thể lấy cái mà anh ta cho rằng có giá trị và hữu dụng. (Chú thích của tác giả)
    (57) Nguyên văn: "The Degurufication of logotherapy". Degurufication là một cụm từ ghép do tác giả đặt ra. Về từ nguyên, de- (tiếp đầu ngữ tiếng Anh) nghĩa là loại bỏ, khử; guru (tiếng Hindi) nghĩa là bậc thầy, người có ảnh hưởng lớn trong một lĩnh vực nào đó; -fication (tiếng Anh) nghĩa là tạo thành, sản sinh ra. (Chú thích của người dịch)
    (58) Tuy nhiên, theo các nguồn thông tin phổ biến khác, Cha Kolbe được phong Thánh năm 1982, và câu chuyện về Cha như sau: Năm 1941, Cha Kolbe lại bị Đức quốc xã bắt với mục đích thanh lọc những phần tử có uy tín. Ngày 31/7/1941, một tù nhân trốn trại, sĩ quan chỉ huy trại bắt 10 người khác phải chết thay. Hắn khoái trá bước dọc theo dãy tù nhân đang run sợ chờ đợi sự chỉ định của hắn. Trong khi 10 người xấu số lê bước về hầm bỏ đói, bống dưng tù nhân số 16670 (Cha Kolbe) bước ra khỏi hàng và nói "Tôi muốn thế chỗ ông kia. Ông ấy có gia đình, vợ con". Trong "hầm tử thần" tất cả bị lột trần truồng và và bị bỏ đói đến chết dần mòn trong tăm tối. Nhưng thay vì tiếng rên xiết, người ta nghe các tù nhân hát thánh ca. Ngày 15/08, chỉ còn bốn tù nhân sống sót, tên cai tù chấm dứt cuộc đời Cha Kolbe bằng một mũi thuốc độc chích vào cánh tay. Sau đó thân xác của ngài bị thiêu đốt cũng như bao người khác. Cha Kolbe được Đức Giáo hoàng John Paul II phong Thánh ngày 10 tháng 10 năm 1982.
    (59) Theo số liệu đến năm 2011, 39 tác phẩm của Viktor Frankl đã được dịch ra 38 ngôn ngữ trên thế giới.
    (60) Tác giả đã đưa ra ví dụ về nhà ngoại giao người Mỹ ở mục Rối loạn tinh thần. (Chú thích của người dịch)
    (61) Oskar Pfister Award: Giải thưởng do Hiệp hội Bệnh tâm thần của Mỹ (American Psychiatric Association - APA) sáng lập vào năm 1983 lấy tên của nhà khoa học Oskar Pfister, giải được trao cho những cá nhân có đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực tôn giáo và tâm thần học.
    (62) William J. Winsdale là một triết gia, luật sư và bác sĩ phân tâm học. Ông giảng dạy tâm thần học, y đức và pháp y tại chi nhánh Đại học Y Texas ở Galveston và Trung tâm Luật, Đại học Houston.
     
    Chỉnh sửa cuối: 18/5/16
  9. notrinos

    notrinos Lớp 5

    MỤC LỤC

    LỜI NÓI ĐẦU----------------------------------------------------------------5

    LỜI GIỚI THIỆU CHO ẤN BẢN NĂM 1992-----------------------------11

    PHẦN 1

    NHỮNG TRẢI NGHIỆM TRONG TRẠI TẬP TRUNG
    -----------17

    PHẦN 2

    SƠ LƯỢC VỀ LIỆU PHÁP Ý NGHĨA-------------------------------135

    TÁI BÚT 1984------------------------------------------------------------183

    LỜI CUỐI-------------------------------------------------------------------207
     
    Chỉnh sửa cuối: 22/5/16
  10. Phạm Cao Lâm

    Phạm Cao Lâm Mầm non

    không có link tải sách à bạn ?
     
  11. notrinos

    notrinos Lớp 5

  12. V\C

    V\C Lớp 4

    post ở đây ít người biết, bạn nên lập topic riêng.
     
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này