Đang dịch NC-17 ENVY - Sandra Brown

Thảo luận trong 'Góc dịch các tác phẩm tiếng Anh' bắt đầu bởi iusach, 9/2/22.

  1. iusach

    iusach Lớp 7

    Mở đầu

    Key West, Florida, 1988

    Bánh quy và cá mòi. Các món chính trong thực đơn hàng ngày của lão.

    Thêm phô mai và dưa chuột muối chua nữa là đủ bốn nhóm thực phẩm cơ bản. Đơn giản nhưng tuyệt hảo.

    Đó là chân lý bất di bất dịch của Hatch Walker, một ông lão đen đủi và xấu xí đến mức ám ảnh người nhìn. Lão ngồi nhấm nháp bữa tối trong khi căng mắt nhìn xuyên qua những luồng gió biển hun hút về phía chân trời.

    Đâu là những dấu hiệu của cơn bão sắp đến? Dù trên bờ đẹp trời êm gió, nó đang ở ngoài kia, ngưng kết năng lượng, tích tụ hơi nước để chuẩn bị kéo mưa to gió lớn vào đất liền.

    Nhưng vẫn chưa đến lúc. Trên bến cảng, vầng trăng khuyết treo lơ lửng giữa bầu trời quang đãng. Hàng triệu ngôi sao lung linh đua sáng với rừng đèn neon rực rỡ dưới mặt đất. Nhưng Hatch không dễ bị đánh lừa.

    Lão có thể dự đoán thời tiết trước khi phong vũ biểu hạ xuống.

    Lão nhìn thấy cơn bão trước khi những đám mây trắng dày đặc thấp dần, sẫm lại rồi chuyển thành màu xám xơ xác, trước khi cánh buồm đón cơn gió mạnh đầu tiên. Rất hiếm khi dự báo thời tiết của lão không chính xác.

    Trời sẽ mưa trước bình minh.

    Lão nhâm nhi miếng dưa giòn sần sật bằng hàm răng xỉn màu vì ni cô tin, để vị mằn mặn thơm mùi tỏi thấm xuống cổ họng rồi mới cắn một miếng pho mát. Ngon quá. Không hiểu sao lại có kẻ tiêu tốn cả tuần lương vào một bữa ăn bé xíu trong khi có thể ăn no nê như thế này - và theo ý lão là ngon hơn rất nhiều – với giá chỉ một đồng rưỡi.

    Đơn giản vì họ phải trả thêm cho nhiều chi phí vớ vẩn khác ngoài thức ăn, từ khăn trải bàn hồ bột trắng tinh, lọ hoa trang trí trên bàn đến đội giữ xe và nhân viên phục vụ đeo khuyên tai, người cứng đơ như khúc gỗ chỉ biết mỗi một việc là tỏ vẻ khó chịu khi thực khách yêu cầu lấy thêm một chiếc bánh mì. Họ phải trả tiền cho cái tên Pháp mĩ miều của miếng phi lê cá mà ở đây người ta đơn giản gọi là cá-đánh-bắt-trong-ngày. Key West có rất nhiều quán ăn hào nhoáng kiểu đó, nơi mà lão chúa ghét.

    Hôm nay không phải là ngày cuối tuần, đường phố thưa thớt người qua lại. Du lịch đang vào mùa thấp điểm - tạ ơn Chúa. Hatch nốc hết lon Pepsi. Lão khinh bỉ đám khách du lịch cũng như tất cả những kẻ đến Key West vì bất cứ lý do gì.

    Cứ mỗi khi lượng khách đổ về quá đông, mùi kem chống nắng lơ lửng trong không khí khó ngửi như bãi nôn của khỉ. Với chiếc máy ảnh lủng lẳng trước ngực, họ tha lũ trẻ con của mình lang thang khắp nơi, cứ như là chúng biết thưởng thức cảnh hoàng hôn ngoạn mục nhất hành tinh nơi đây. Xin thưa rằng cái chúng thích là thế giới kỳ ảo Disney ở Orlando kia.

    Lão chán ngấy đám du khách ngốc nghếch nai lưng ra làm việc năm mươi tuần một năm rồi lại tự làm khổ mình gấp đôi trong hai tuần còn lại để đi du lịch và tiêu số tiền đã kiếm được đến đồng cuối cùng.

    Hoàn cảnh đưa đẩy lão vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Dù ghét cay ghét đắng sự chiếm đóng ồn ào của đám du khách, cuộc sống của lão lại phụ thuộc hoàn toàn vào họ.

    "Dịch vụ thuê tàu Walker" ngoài cho thuê tàu, bình dưỡng khí và thiết bị lặn còn tổ chức tàu đi câu trên biển để đáp ứng sở thích tắm nắng và chụp ảnh với những chú cá to của du khách

    Công việc kinh doanh đìu hiu tối nay phần nào là sự giải thoát. Chẳng có gì đáng buồn cả. Phải nói là không một chút nào. Hatch Walker này đã quá sợ cuộc sống tù túng, bó buộc, chẳng bao giờ có chỗ cho sự riêng tư trên tàu chở hàng và chỉ muốn cô đơn hưởng thụ sự yên bình.

    Mặt biển phẳng lặng như mặt hồ.

    Ánh sáng trên bờ phản chiếu xuống mặt nước không một chút xao động. Thi thoảng có tiếng cột buồm kẽo kẹt và tiếng chuông điện thoại vang lên từ tàu bên cạnh, tiếng đàn hát từ một hộp đêm trên bến cảng, tiếng vun vút của một chiếc xe phóng ngang qua. Nếu không, Hatch sẽ có sự tĩnh lặng tuyệt đối mà lão yêu thích, bất chấp đó là dấu hiệu của việc làm ăn thất bát.

    Đáng lẽ lão đã đóng cửa hàng về sớm nếu không phải đợi khách trả tàu. Chiếc tàu cho thuê dài 8 mét, khách thuê là bọn nhóc tầm 20 đến 29 tuổi. So với tuổi của lão, chúng chỉ là trẻ con.

    Hai nam, một nữ mà theo Hatch nhận xét, mối quan hệ có thể xoay chuyển bất cứ lúc nào.

    Cả bọn đều rám nắng, dong dỏng, quyến rũ và có thừa sự tự tin thái quá của tuổi trẻ. Chắc chắn chúng chưa từng trải qua một ngày khổ cực nào trong đời.

    Chúng là dân địa phương hoặc dân từ nơi khác chuyển đến ở dài hạn. Lão đã vài lần nhìn thấy chúng trên phố.

    Khi ráng chiều nhuộm ánh hồng trên mặt biển, cả bọn bắt đầu lên tàu trong trạng thái ngà ngà say. Vật dụng mang theo chỉ có vài chiếc thùng giữ nhiệt nặng còn hơn cái mỏ neo - theo cái cách chúng bị kéo lê xuống tàu. Có lẽ trong đó toàn là rượu. Không có ngư cụ. Nếu không phải bọn trẻ dong tàu ra biển để tiếp tục nhậu nhẹt, chơi bời thì lão không phải là Hatch Walker. Lão cũng đã cân nhắc có nên cho thuê tàu hay không, nhưng với tình hình ế ẩm hôm nay, lão dễ dàng tự thuyết phục mình rằng bọn trẻ không say đến mức mất kiểm soát.

    Như thường lệ, lão nhắc nhở qui định không được uống rượu trong lúc điều khiển tàu và nhận được những nụ cười giả tạo như của những tay buôn kim cương. Một đứa cúi gập người đến tận thắt lưng, hai vai rung lên vì cố nén cười, đứa kia đứng nghiêm giơ tay chào và hô dõng dạc. "Rõ, thưa ông!"

    Khi đỡ cô gái xuống tàu, Hatch tự hỏi cô có biết những gì đang chờ đợi cô ở phía trước? Mặc dù vậy, lão đã biết câu trả lời là có, vì lão từng gặp cô đi với nhiều đàn ông khác nhau. Tấm vải bịt mắt còn che đậy được nhiều da thịt hơn mảnh dưới của bộ bikini cô đang mặc, còn mảnh trên thì có hay không cũng không quan trọng.

    Và cô ấy chả phải đợi lâu.

    Trước khi tàu rời khỏi bến, một đứa giật phăng lấy mảnh trên xoay tít trên đầu như phất cờ trận. Những nỗ lực của cô để lấy lại một thứ không cần thiết trở thành trò chơi cợt nhả tưng bừng.

    Hatch lắc đầu nhìn theo con tàu ngày càng xa bờ. May mắn thay, lão không có con gái.

    ***

    Còn một con cá mòi cuối cùng trong hộp.

    Hatch gắp nó ra, đặt ngay ngắn trên miếng bánh quy, thêm dưa chua, pho mát, rưới ít sốt ớt, úp một miếng bánh quy khác lên trên, ấn hết vào miệng rồi lấy tay phủi vụn bánh dính trên râu.

    Đang nhồm nhoàm nhai với vẻ mãn nguyện, mắt lão tình cờ hướng ra ngoài bến cảng và lập tức mắc nghẹn. Lão cố nuốt miếng bánh xuống khiến cổ họng đau rát như mắc xương, ngắc ngứ một lúc mới quát ra thành tiếng. "Cái quái gì thế?”

    Một tiếng còi tàu vang lên khiến lão suýt bị hất văng khỏi ghế.

    Nhưng đằng nào thì lão cũng không thể ngồi yên được nữa. Ngay khi chiếc bánh sandwich cá mòi trôi xuống bụng thành công, Hatch lao ra khỏi ngôi nhà xiêu vẹo vì mưa gió mà lão thuê mở cửa hàng và chạy ra cầu tàu. Lão vẫy tay, la hét với người lái tàu - một thằng khờ nào đó sống ở một tiểu bang không giáp biển và chưa bao giờ nhìn thấy chỗ nào nhiều nước hơn là cái máng xối – hòng cảnh báo rằng tàu đang chạy quá nhanh. Hậu quả của việc vi phạm quy tắc "giảm tốc độ" khi vào cảng là khoản tiền phạt không nhỏ, nếu may mắn không phải trải qua vài đêm trong tù.

    Ngay lúc đó, Hatch nhận ra chiếc tàu quen thuộc.

    Tàu của lão! Bọn nhóc ngu ngốc đang lái chiếc tàu tốt nhất, to nhất trong đội tàu của lão!

    Lửa giận bốc lên phừng phừng nhưng Hatch chẳng biết làm gì hơn là phun ra những tràng chửi rủa tục tĩu nhất của đám thuỷ thủ. Vào đây rồi lão sẽ cho cả bọn biết tay.

    Đừng hòng giỡn mặt lão già xấu xí, lưng còng, râu ria xồm xoàm và chân đi khập khiễng sau lần hỗn chiến với một tay kiếm Cuba này. Lão có thể xử lý bọn nhóc đẹp mã một cách dễ dàng.

    Khi đã vượt qua phao, chiếc tàu vẫn không giảm tốc độ mà tiếp tục xé nước lao tới, sượt qua một chiếc thuyền buồm dài 12 mét khiến nó chao đảo như đưa võng. Du khách đang ngồi ăn tối trên boong chiếc du thuyền hàng triệu đô la bị xô vào thành tàu, tiếng la hét chửi rủa vang lên ỏm tỏi.

    Hatch điên cuồng huơ tay ra hiệu nhưng chiếc tàu vẫn lao thẳng vào cầu tàu như đội cảm tử quân. Đột ngột động cơ bị ngắt, bánh lái quay mạnh khiến nước biển tung lên những vạt trắng xóa.

    Chỉ chút xíu nữa thì Hatch thì bị chiếc tàu đâm phải. Một bóng người từ buồng lái chạy ra, nhảy xuống cầu tàu và vấp phải một cái cọc đầu dây. Đầu hắn chúi nhũi về phía trước, hai tay chống xuống đất như đang di chuyển bằng tứ chi.

    Hatch nắm vai hắn lật ngửa ra như chuẩn bị moi ruột một con cá. Nếu sẵn dao trong tay, lão sẽ không ngần ngại rạch một đường từ bụng lên đến tận cổ.

    Rất may cho hắn là lão không có dao, chỉ có cơn giận ngày càng dâng cao như nước sắp tràn bờ.

    Nhưng lão tuôn ra vài câu lắp bắp, rời rạc rồi tắt ngấm.

    Từ nãy đến giờ Hatch chỉ chăm chăm vào chiếc tàu và tốc độ của nó mà không chú ý đến người cầm lái.

    Mặt hắn bê bết máu, mắt trái sưng húp không mở ra được. Khó có thể nhận ra miếng giẻ rách ướt sũng dính trên người hắn trước đây là một chiếc áo.

    "Cứu tôi với. Chúa ơi!" Hắn hất tay Hatch ra, loạng choạng đứng dậy. “Họ đang ở ngoài kia”. Hắn điên cuồng chỉ ra xa. "Dưới biển. Tôi không thấy họ đâu. Họ ..."

    Hatch đã có lần chứng kiến một người bị cá mập tấn công. Sau khi được cứu lên khỏi mặt nước vừa kịp lúc để giữ được cái chân phải khỏi bị cá mập ngoạm nốt trong khi chân trái đã bị mất, anh ta sốc vì kinh hoàng, miệng lảm nhảm toàn lời vô nghĩa.

    Thằng nhóc này cũng đang trong tình cảnh tương tự. Không phải nổi hứng chơi trội hoặc hành động hoang đàng trong cơn say như lão tưởng lúc đầu. Hắn, người duy nhất trong bọn đã chào lão trước khi xuống tàu – đang hoảng loạn đến mức phát cuồng.

    "Bình tĩnh, nhóc". Hatch lay nhẹ vai hắn. "Đã xảy ra chuyện gì? Hai đứa kia đâu?"

    Hắn đưa cánh tay bầm tím dính máu lên ôm mặt trong cơn nức nở không thể kiểm soát. "Dưới biển".

    "Ngã xuống biển hay sao?"

    "Phải. Lạy Chúa".

    “Thằng khốn này suýt làm đắm du thuyền của tao! Mày làm cái quái gì ở đây?"

    Một người đàn ông mang dép kẹp lẹt xẹt bước tới, hai tay chống nạnh, mùi nước hoa lố lăng còn hơn bọn gái điếm, dưới phần mỡ bụng nhô ra phủ đầy lông đen là chiếc quần bơi Speedo, tay phải đeo một chiếc vòng vàng nặng trĩu. Chất giọng của gã mang hơi hướng vùng đông bắc.

    "Nó bị thương. Đã xảy ra tai nạn ngoài kia".

    "Tai nạn cái con khỉ. Nó làm tàu của tôi lõm một lỗ lớn". Một cô gái mặc bikini, đi giày cao gót nhập bọn với người đàn ông. Trên người cô ta chẳng có gì là thật, từ bộ ngực căng tràn đến làn da rám nắng. Hai tay cô ta kẹp hai con Toy Poodle cột ruy băng hồng trên tai.

    "Gọi 911". Hatch nói.

    "Tôi muốn biết thằng khốn này muốn gì…”

    "Gọi 911 ngay!"

    ***

    Mùi cá mòi trộn lẫn với mùi dầu máy bên trong "văn phòng" của Hatch. Không khí ngột ngạt không đủ oxy cho ba người hít thở.

    Thùng câu, dụng cụ lặn, dây thừng, bản đồ, biểu đồ, thiết bị dụng cụ bảo dưỡng lỉnh kỉnh khắp nơi. Ngoài ra còn một chiếc tủ sắt cũ kỹ lúc nào cũng trống rỗng và chiếc bàn làm việc được trục vớt từ một chiếc tàu đắm mà Hatch mua lại với giá ba mươi đô la.

    Thằng nhóc thuê tàu đã vào nhà vệ sinh hai lần để nôn ọe, vì căng thẳng và sợ hãi hơn là vì những ly rượu mạnh lén lút nốc vào khi tưởng rằng không ai để ý.

    Hắn đã uống rất nhiều trước đó, không còn nghi ngờ gì nữa. Hắn đã khai nhận như thế khi bị sở cảnh sát Key West thẩm vấn vì vụ vượt quá tốc độ, và bây giờ là cảnh sát lực lượng tuần duyên vì vụ tai nạn của hai người bạn đồng hành ngoài khơi Đại Tây Dương.

    Sau khi hắn khai tên, tuổi, địa chỉ, Hatch đối chiếu với thông tin trong hợp đồng thuê tàu và xác nhận với cảnh sát.

    Lão khó chịu khi phải chia sẻ không gian riêng tư của mình với người lạ. Điều an ủi duy nhất là lão không bị bắt ngồi chờ ở bên ngoài trong khi nhà chức trách làm việc.

    Dưới bến tàu, đám đông hiếu kỳ tụ tập bàn tán xôn xao. Họ bị hút vào những lời đồn đoán xung quanh vụ tai nạn như đàn ruồi bâu vào bãi rác thải. Đâu đâu cũng thấy bóng dáng của cảnh sát.

    Hatch luôn có ác cảm với đồng phục và huy hiệu. Nếu không được làm theo ý muốn, không được tự nhận định việc nào đúng, việc nào sai thì sao có thể gọi là sống. Thà trốn chui trốn nhủ, sống cuộc đời lang bạt còn hơn bị nhốt vào trong tù. Đó là triết lý sống mà lão chọn và theo đuổi.

    Công bằng mà nói, phải có ai đó lãnh trách nhiệm tra hỏi thằng nhóc và tổ chức tìm kiếm cứu hộ càng sớm càng tốt. Không phải lúc nào cảnh sát cũng vô dụng.

    Cứ theo cái đà này, thằng nhóc sắp suy sụp đến nơi. Tay cảnh sát có thừa kinh nghiệm để nhận ra hắn sẽ bứt sô nếu cứ bị thúc ép mãi. Chiến thuật nhẹ nhàng, mềm mỏng để lấy thông tin là thích hợp hơn cả.

    Nước từ chiếc quần bơi và đôi giày thể thao nhỏ tong tỏng xuống sàn nhà mỗi khi thằng nhóc thay đổi tư thế ngồi. Lúc nãy Hatch đã ném cho hắn chai rượu mạnh và chiếc chăn nhưng hắn chỉ giữ chai rượu, còn chiếc chăn bị vứt vào xó cùng với chiếc áo thun rách nát.

    Bên ngoài vang lên tiếng chân chạy rầm rập, tiếng xì xào sôi nổi. Thằng nhóc ngẩng đầu lên nghe ngóng chờ đợi. Nhưng bước chân xa dần rồi mất hút.

    Tay cảnh sát quay lại sau khi rót đầy ấm cà phê của Hatch. "Chúng tôi sẽ báo khi nhận được tin, nhóc".

    "Họ phải sống". Giọng hắn khàn đặc như đã gào thét hàng giờ trong bão. "Trời tối quá nên tôi không nhìn thấy họ đâu”. Mắt hắn đảo từ Hatch sang viên cảnh sát. "Không nghe ai trả lời dù tôi cứ gọi và gọi mãi. Tại sao họ không trả lời? Hay kêu cứu? Trừ khi họ ... ” Hắn bỏ lửng điều tất cả mọi người đều nghĩ đến.

    Tay cảnh sát ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, người hơi chồm ra trước. Nhiều phút trôi qua, anh ta không làm gì khác ngoài việc sì sụp từng ngụm nhỏ cà phê.

    Hatch khó chịu nhưng vẫn im lặng. Đây là việc của chính quyền, không phải của lão.

    Tàu của lão đã mua bảo hiểm. Mặc dù phải trình ra cả núi giấy tờ chứng minh và mất thời gian chờ đợi nhân viên bảo hiểm điều tra, giám định nhưng mọi việc sẽ đâu vào đấy, thậm chí số tiền bồi thường có thể còn lớn hơn giá trị chiếc tàu cũ.

    Tình hình của thằng nhóc không sáng sủa lắm. Hắn sẽ không nhận được bất kỳ khoản tiển bảo hiểm nào. Hai đứa kia còn bi đát hơn.

    Cơ hội sống sót hầu như là con số không.

    Đã từng có người sống sót trở về kể lại chuyến phiêu lưu khi chẳng may rơi xuống biển, nhưng con số đó đếm được trên đầu ngón tay. Nếu chuyện xảy ra, chết đuối là nhẹ nhàng nhất. Cái chết do đói khát kéo dài lâu hơn. Tệ nhất là làm mồi cho lũ cá mập hung hãn.

    Tay cảnh sát xoay xoay chiếc cốc sứt mẻ trong tay. "Sao anh không dùng radio để kêu cứu?"

    "Có chứ. Ý tôi là tôi đã cố gắng, nhưng nó không hoạt động".

    Tay cảnh sát chăm chú nhìn chất lỏng sóng sánh trong cốc. "Có vài chiếc tàu bắt dược tín hiệu SOS của anh. Họ yêu cầu giữ nguyên vị trí nhưng anh không làm theo?"

    "Tôi không nghe thấy. Chắc là ..." Hắn liếc sang Hatch vẻ hối lỗi. "Tôi không chú ý lắm khi ông ấy hướng dẫn cách sử dụng bộ đàm".

    "Một sai lầm đắt giá".

    "Vâng".

    "Có thể nói anh không phải là một người đi biển dày dạn kinh nghiệm?”

    "Dày dạn ư? Không. Nhưng đây là lần đầu tiên tôi gặp rắc rối".

    "Hừm. Bây giờ anh hãy nói về vụ ẩu đả".

    "Vụ ẩu đả nào?"

    Tay cảnh sát cau mày. "Đừng có nói dối. Mắt anh bầm tím, mũi chảy máu, môi sưng vù, tay chân trầy xước. Nếu không đánh nhau thì là gì?"

    Thằng nhóc run lên, nước mắt nước mũi bắt đầu chảy xuống ràn rụa nhưng hắn không buồn lau.

    "Có phải vì cô gái không?" Tay cảnh sát hỏi với giọng nhẹ nhàng hơn. "Ông Walker đây nói rằng cô ấy là dân chơi và rất táo bạo. Cô ấy cặp với ai trong hai người?"

    "Cô ấy chỉ là bạn bình thường".

    "Có phải hai anh bất hòa vì cô ấy không?"

    "Không... không chính xác. Ý tôi là, cô ấy không phải là lý do để bắt đầu".

    "Chuyện xảy ra thế nào?"

    Thằng nhóc im bặt.

    "Nếu khôn ngoan, anh nên kể hết với tôi". Tay cảnh sát nói. “Chỉ cần một manh mối nhỏ, chúng tôi cũng có cách để truy ra sự thật".

    "Chúng tôi khá say".

    "Hừm".

    "Và ... và ..." Giọng hắn tha thiết. "Anh ấy là bạn thân nhất của tôi".

    "Được rồi. Vậy chuyện gì đã xảy ra?"

    Hắn liếm môi. "Tự nhiên anh ấy như bị ma ám. Tôi chưa bao giờ thấy anh ấy như vậy".

    "Như thế nào?"

    "Điên cuồng. Bạo lực. Như một con chó điên".

    "Chó điên?”

    "Đúng vậy".

    "Anh có làm gì khiến anh ấy nổi giận không?"

    "Không hề! Ít phút trước anh ấy còn xuống dưới vui vẻ với cô ấy. Tôi luôn tôn trọng những giây phút riêng tư của họ".

    "Để quan hệ tình dục ư?"

    "Phải. Họ thực sự rất hợp nhau. Ngay sau đó, anh ấy trở lên boong và nhảy bổ vào tôi". Hắn lắc đầu buồn bã. "Đáng lẽ là một bữa tiệc vui. Tôi không hiểu sao lại ra nông nỗi này. Thề có Chúa". Hắn úp mặt vào hai tay nức nở.

    Tay cảnh sát nhìn Hatch dò hỏi, nhưng lão im lặng. Lão đâu phải là nhà tâm lý học hay phụ huynh của thằng nhóc, cũng chẳng phải là cảnh sát. Đây không còn là vấn đề của lão.

    Thấy vậy, tay cảnh sát lên tiếng hỏi lão có bổ sung lời khai nào không.

    "Không". Lão đáp.

    "Ông có nhìn thấy hoặc nghe thấy bọn họ cãi nhau không?"

    "Tôi chỉ thấy họ chuẩn bị tiệc tùng”.

    Tay cảnh sát quay sang thằng nhóc. "Bạn bè không bao giờ đánh nhau mà không có lý do, ngay cả khi quá chén. Bất quá thì to tiếng hoặc một vài cú đấm, khi tỉnh lại là huề cả làng, đúng vậy không?"

    “Tôi cho là thế”. Hắn ủ rũ đáp.

    “Vì vậy, tôi muốn anh nói thật. Vì sao các anh đánh nhau?"

    Thằng nhóc nghẹn ngào. "Anh ấy tấn công tôi trước".

    "Tại sao?"

    "Tôi chỉ tự vệ. Tôi thề". Hắn thổn thức. “Tôi không muốn đánh nhau. Chúng tôi đang rất vui vẻ".

    "Tại sao anh ấy tấn công anh?"

    Thằng nhóc lắc đầu.

    "Thật vô lý phải không, nhóc? Chắc chắn anh biết tại sao anh ấy tấn công anh. Hãy nói thật đi. Vì sao người bạn thân nhất của anh nổi khùng lên và đánh anh?"

    Sau 20 giây im lặng, thằng nhóc lẩm bẩm đúng một từ.

    Hatch không chắc đã nghe chính xác. Tiếng sấm đầu tiên của cơn bão rền vang bên ngoài, làm rung chuyển khung cửa kính hình vuông đúng lúc thằng nhóc mở miệng. Ngoài ra, những gì lão nghe thấy thật kỳ lạ.

    Dường như tay cảnh sát cũng thấy thế. Anh ta chồm tới trước để nghe rõ hơn. "Cái gì? Nói to lên".

    Thằng nhóc ngẩng đầu lên, lấy mu bàn tay quẹt mũi. Hắn hắng giọng, chớp chớp con mắt còn lành lặn để thu hút toàn bộ sự chú ý vào mình.

    “Đố kỵ.” Hắn nói bằng giọng cộc cằn. "Đó là lý do của tất cả những chuyện này. Đố kỵ.”

    P.M.E.
    Đảo St. Anne, Georgia
    Tháng 2 / 2002
     
    Chỉnh sửa cuối: 1/12/23
    rainbows, vuivui2013, B-Mon and 14 others like this.
  2. dakedo

    dakedo Lớp 1

    Ôi truyện mới của @iusach, ủng hộ bạn nè
     
    B-Mon and iusach like this.
  3. iusach

    iusach Lớp 7

    Ăn tết xong rảnh rỗi nên mình lại vào góp vui cùng các bạn. Tks bạn nhé.
     
    B-Mon, huyenhanoi, dakedo and 5 others like this.
  4. tuyettran

    tuyettran Mầm non

    Các truyện đã dịch của SB mình đều tìm đọc hết, giờ thấy b dịch truyện nữa của bà mừng quá trời luôn, luôn theo dõi và ủng hộ bạn
     
    B-Mon, halucky, hathao and 1 other person like this.
  5. LanNP

    LanNP Lớp 7

    ủng hộ bạn nha.
     
    B-Mon, hathao and iusach like this.
  6. iusach

    iusach Lớp 7

    Chương 1

    "Nhưng phải có chứ." Maris Matherly-Reed sốt ruột gõ cây bút chì lên quyển sổ ghi chép, trên đó vẽ vài hình tam giác và một chuỗi vòng tròn lồng vào nhau. Một bìa sách được phác thảo ngay bên dưới.

    "P.M.E. đúng không ạ?"

    "Chính xác."

    “Xin lỗi, không có đăng ký tên này. Tôi kiểm tra lại rồi."

    Ý tưởng trang bìa của quyển tự truyện kể về mối tình ngang trái giữa tác giả và con riêng của người cha dượng nảy ra trong khi Maris đợi tổng đài viên tra tìm số điện thoại. Một cuộc gọi thường không quá vài giây đã kéo dài hàng phút.

    "Có khi P.M.E. không được đăng ký trong mã vùng này."

    "Tôi đã tìm tất cả các mã vùng". Nhân viên tổng đài trả lời. "Trên toàn nước Mỹ."

    "Hay nó được đăng ký trong danh bạ công ty thay vì nhà riêng."

    "Đã kiểm tra cả hai."

    "Có phải số điện thoại ẩn không?"

    "Nếu vậy nó phải được đăng ký. Tôi không tìm được những chữ viết tắt này, chấm hết. Nếu cô cho tôi biết tên …”

    "Tôi không biết."

    "Rất tiếc.”

    "Cảm ơn anh đã giúp."

    Maris thất vọng nhìn hình bìa phác thảo, tiện tay nguệch ngoạc thêm vài nét linh tinh. Cô không thích quyển sách này cho dù bìa của nó có đẹp tuyệt vời như thế nào. Nội dung cổ súy quan hệ loạn luân khiến cô cảm thấy khó chịu, và cô sợ rằng đám đông độc giả cũng có cùng ý kiến.

    Nhưng biên tập viên, người trực tiếp nhận bản thảo từ tác giả, lại tin tưởng thành công. Đề tài cấm kỵ của quyển sách dễ dàng đưa tác giả góp mặt trong các chương trình tọa đàm trên ti vi và đài phát thanh, bài bình luận trên tạp chí, thậm chí là chương trình Phim-của-tuần. Ngay cả khi không nhận được nhiều đánh giá tích cực, nó cũng khơi gợi trí tò mò đảm bảo một số lượng lớn sách sẽ được bán ra. Vì lý do đó, lãnh đạo Nhà xuất bản Matherly đã ký hợp đồng với tác giả, còn Maris phải thuận theo số đông, tạm thời nhượng bộ lần này.

    Cô nghĩ đến phần mở đầu quyển “Đố kỵ” vừa đọc lúc chiều. Nó nằm đóng bụi trên kệ trong phòng làm việc của cô, lẫn trong chồng bản thảo tự do mà hôm nay cô mới có thời gian đọc qua trước khi gửi đi bức thư từ chối theo mẫu soạn sẵn. Nghĩ đến cảm giác thất vọng tột cùng của tác giả khi đứa con thai nghén của mình bị từ chối một cách thẳng thừng và tàn nhẫn, cô cho rằng họ xứng đáng được quan tâm, dù chỉ một vài phút.

    Cơ hội xuất hiện một nhà văn lỗi lạc khác giống như Steinbeck, Faulkner hoặc Hemingway thật mong manh - một trong số một triệu, hiếm như trăng xanh theo mùa. Đó là ước mơ viễn vông của tất cả biên tập viên.

    Đối với Maris, việc tìm ra một đầu sách bán chạy thực tế hơn nhiều.

    Vỏn vẹn chỉ có mười hai trang của phần mở đầu, nhưng cô cảm thấy nó hứa hẹn, lôi cuốn hơn tất cả sách của những tiểu thuyết gia đã có tên tuổi cũng như những cây bút mới vào nghề mà cô đọc gần đây.

    Chưa có phần mở đầu nào lại kích thích trí tò mò của người đọc đến thế. Phần còn lại của câu chuyện ra sao? Nó đã được viết chưa? Hoặc ít nhất đã được phác thảo xong chưa? Đây có phải là lần đầu tiên tác giả viết tiểu thuyết? Tác giả đã từng viết thể loại khác chưa? Thành tựu của tác giả này là gì? Tác giả này đã có thành tựu nào chưa?

    Theo trực giác của cô, tác giả là nam. Suy nghĩ, lời nói của nhân vật Hatch Walker được diễn đạt sắc sảo theo ngôn ngữ của đàn ông. Giọng văn thể hiện đúng chất phong trần, ngạo nghễ của một thủy thủ già.

    Tuy nhiên, những trang giấy này được gửi bởi một người hoàn toàn thiếu kinh nghiệm.

    Nếu ấp ủ kế hoạch viết sách và xuất bản nó, đầu tiên tác giả phải nắm rõ nguyên tắc gởi bản thảo cho nhà xuất bản. Ở đây thì sao? Không có phong bì dán tem đề sẵn tên và địa chỉ người gởi, không có thư giới thiệu, không có số điện thoại, địa chỉ, hộp thư bưu điện hoặc địa chỉ mail. Duy nhất chỉ có ba chữ cái viết tắt và tên của một hòn đảo mà Maris chưa bao giờ nghe nói đến. Làm sao bán được bản thảo nếu anh ta không cho cô thông tin rõ ràng để liên lạc?

    Cô nhìn dấu bưu điện trên bì thư. Nó được gởi cách đây bốn tháng. Nếu tác giả gửi đồng thời cho nhiều nhà xuất bản, nó có thể đã được mua mất rồi.

    Thêm một lý do để tìm tác giả càng sớm càng tốt. Không nên lãng phí thời gian hơn nữa mà phải hành động ngay. Thà muộn còn hơn không.

    "Em chưa xong à?"

    Noah xuất hiện ở cửa trong bộ vest Armani. "Ôi, trông anh tuyệt lắm." Maris nói, liếc sang đồng hồ để bàn. Đúng là cô sắp bị muộn vì mải làm việc quên cả thời gian. Cô nói với vẻ hối lỗi. "Em đang đề nghị vài sự cải tổ."

    Người chồng mới cưới 22 tháng của cô đóng cửa lại sau lưng rồi bước vào phòng. Anh ném tờ báo lên bàn, đi vòng ra sau ghế cô ngồi để xoa bóp cổ và vai cho cô, những chỗ hay đau nhức mỗi khi căng thẳng quá mức.

    "Một ngày vất vả quá phải không?"

    "Không đến nỗi. Chiều nay chỉ có một cuộc họp, chủ yếu là em phải giải quyết cái đống này." Cô chỉ những bản thảo đã loại ra.

    "Em đọc những thứ vớ vẩn này thật à?" Anh nhẹ nhàng trách móc. "Sao em phải bận tâm đến những việc đâu đâu làm gì cho mệt? Chủ trương của Nhà xuất bản Matherly là không xuất bản sách mà không thông qua đại lý cơ mà.”

    "Đó là chính sách chung, nhưng vì em là Matherly, em có thể phá luật."

    “Anh đã lấy một kẻ vô chính phủ.” Anh cúi xuống hôn cổ cô. "Nhưng nếu muốn chống đối, sao không phải là những chiến lược kinh doanh quan trọng mà lại để một việc vô nghĩa làm phí thời gian của phó chủ tịch cấp cao của chúng ta?"

    "Một chức danh khó hiểu." Cô nhăn mặt. "Cứ như một cô ả sặc mùi kẹo ngậm trong đôi giày thô kệch."

    Noah bật cười. "Nhưng quyền lực và bận rộn. Và đó chính là em."

    "Không thấy anh đề cập đến thông minh hay gợi cảm."

    "Cái đó đương nhiên. Đừng cố dẫn dụ anh sang chuyện khác. Tại sao em phải quan tâm đến số bản thảo gởi hú họa mà ngay cả những biên tập viên mới vào nghề của công ty cũng chẳng thèm ngó ngàng đến?"

    "Cha nói chúng ta phải trân trọng nỗ lực của mọi tác giả, dù họ có tài năng hay không.”

    "Chẳng bao giờ anh có thể cãi lại Daniel Matherly đáng kính."

    Maris bỏ qua những lời mát mẻ của Noah. Cô sẽ không thay đổi quan điểm xem qua mọi bản thảo nhận được dù mất thời gian. Nó đã là một thông lệ từ khi nhà xuất bản Matherly được thành lập hơn một thế kỷ trước. Noah cười nhạo vì anh không phải người nhà Matherly. Anh là thành viên gia đình theo quan hệ hôn nhân, không phải huyết thống, và đó là sự khác biệt đáng kể giải thích thái độ hời hợt của anh đối với truyền thống gia đình.

    Máu văn chương chảy trong huyết quản của người nhà Matherly. Maris tin chắc sự tôn vinh đối với mọi tác phẩm và tác giả là nền tảng của sự thành công và phát triển của nhà xuất bản.

    "Anh đem cho em xem bản in trước của bài báo." Noah nói.

    Cô cầm tờ báo trên bàn lên, mở trang được đánh dấu sẵn bằng mẩu giấy dán nhỏ. "À, một bức ảnh tuyệt vời."

    "Đó là nhiếp ảnh gia tài năng."

    "Chủ đề hay."

    "Cảm ơn em."

    "Noah Reed bốn mươi, nhưng trông anh trẻ hơn tuổi nhiều." Cô đọc to rồi ngẩng đầu lên đánh giá. "Đồng ý. Trông anh như vừa mới ba mươi chín."

    "Ha ha".

    "Luyện tập hàng ngày trong phòng gym nằm trên tầng sáu của Nhà xuất bản Matherly - cũng là một ý tưởng mới của Reed khi gia nhập công ty ba năm trước – để thân hình một mét tám hai gọn gàng và dẻo dai’. Chà, cứ như bị anh bỏ bùa. Anh có gì với cô ấy không vậy?"

    Anh cười khúc khích. "Tuyệt đối không."

    "Sai quá sai."

    Trong ngày cưới, khi trêu anh rằng nhiều cô gái phải khóc thầm vì mất đi chàng trai độc thân sáng giá nhất thành phố, Maris đã ngạc nhiên khi anh hoàn toàn tin là thật. "Cô ấy có nhắc đến sự nhạy bén trong kinh doanh và những đóng góp của anh cho Nhà xuất bản Matherly không?"

    "Để lần sau."

    "Xem nào ...`ngả xám ở hai bên thái dương làm tăng thêm vẻ điển trai đặc biệt’, vân vân và vân vân về phong thái đĩnh đạc và quyến rũ của anh. Không thể tin được … À đây rồi. ‘Anh ấy cho biết Nhà xuất bản Matherly được điều hành bởi cha vợ của mình, Daniel Matherly, một huyền thoại trong ngành xuất bản, hiện giữ chức chủ tịch và giám đốc điều hành, và vợ, Maris Matherly-Reed, một tài năng thiên bẩm trong công tác thẩm định và biên tập. Theo anh ấy, chính cô là người phát hiện và xuất bản những đầu sách bán chạy nhất của công ty’”. Cô mỉm cười. "Anh nói vậy thật à?"

    "Và nhiều hơn thế nữa, nhưng cô ấy không đưa lên."

    "Cám ơn anh."

    "Anh nói đúng mà."

    Maris đọc nốt đoạn còn lại rồi đặt tờ báo sang một bên. "Rất hay. Nhưng ngoài những lời tâng bốc đến tận mây xanh, cô ấy đã bỏ qua hai điểm chính."

    "Đó là?"

    "Anh cũng là một tác giả xuất sắc."

    "Chinh phục? Quyển đó xưa rồi."

    "Nhưng nó gắn liền với tên tuổi của anh.”

    "Thứ hai là gì?" Giọng anh gượng gạo mỗi khi cô nhắc đến quyển tiểu thuyết duy nhất đã xuất bản của anh.

    "Cô ấy quên nói rằng anh có kỹ thuật mát xa kỳ diệu."

    "Rất vui vì giúp được em."

    Maris nhắm mắt, nghiêng đầu sang một bên. "Thấp hơn chút nữa ... Đúng. Chỗ đó.” Anh ấn ngón cái vào chỗ trũng giữa bả vai và mệt mỏi trong cô tan biến.

    “Đừng tự hành hạ nữa." Anh nói. "Em mong tìm được gì trong một bãi rác thải chứ?”

    "Không đâu. Em vừa tìm thấy một bản thảo rất thú vị."

    "Đừng đùa chứ."

    "Thật mà."

    "Tiểu thuyết hư cấu à?"

    "Hư cấu. Mới có phần mở đầu nhưng nó rất hứa hẹn. Câu chuyện kể về …”

    "Anh rất muốn biết, em yêu. Nhưng ta phải nhanh lên nếu muốn đến đúng giờ."

    Anh đặt một nụ hôn lên đầu Maris rồi định đi ra khỏi phòng, nhưng cô đã kéo tay anh để lên ngực. "Tối nay chúng ta có phải đi không?"

    “Có thể nói vậy."

    "Bỏ qua một lần cũng được mà. Tối nay cha không tham dự."

    "Đó là lý do tại sao chúng ta phải đến đó. Hai chiếc ghế trống ở bàn dành cho Nhà xuất bản Matherly là không thể chấp nhận được khi một tác giả của chúng ta được trao giải.”

    "Đã có đại lý và biên tập viên chứng kiến và ủng hộ anh ta." Cô kéo tay anh ấp vào ngực. "Mình cáo bệnh về nhà, mở một chai rượu càng rẻ càng tốt, tắm bồn và ăn pizza, làm tình trong một căn phòng không phải là phòng ngủ, có thể là hai phòng. Anh thấy sao?"

    Anh âu yếm sờ nắn ngực cô. "Lúc nãy em nói phần mở đầu như thế nào?" Anh rút tay lại và đi ra cửa.

    Maris lẩm bẩm. "Em tưởng đã đưa ra lời đề nghị không thể từ chối."

    "Rất hấp dẫn. Nhưng nếu ta không đến buổi tiệc, họ sẽ đồn đoán đủ điều."

    "Phải. Em ghét để mọi người nghĩ rằng chúng mình vẫn là một cặp đôi mới cưới đang trong tuần trăng mật."

    "Ừ."

    "Nhưng ... tại sao?”

    "Chúng ta còn có nghĩa vụ, Maris. Họ phải biết rằng nói đến Nhà xuất bản Matherly là nói đến hiện tại hoặc tương lai chứ không phải quá khứ."

    “Vì vậy, chúng ta phải tham dự tất cả sự kiện xuất bản được tổ chức ở New York”. Giọng cô chán chường như đang đọc một bản giáo lý.

    "Đúng vậy."

    Maris thở dài nghĩ đến cuộc sống xoay vòng hết bữa sáng, bữa trưa, bữa tối đến tiệc chiêu đãi. Đối với Noah, điều quan trọng nhất hiện nay là giữ hình ảnh để mọi người tin rằng họ vẫn là những người dẫn đầu, nhất là từ khi cha cô lui về sống ẩn dật.

    Daniel Matherly gần như biến mất khỏi giới xuất bản. Ông không còn tham gia bất cứ buổi họp mặt hay cuộc hẹn đàm thoại mặc cho lời đề nghị cứ tới tấp gởi đến. Nhà hàng Bốn mùa ngày nào cũng điện thoại hỏi xem bàn ăn trưa đặt trước của ông có được sử dụng không, hay họ có thể nhận khách khác.

    Trong gần 5 thập kỷ, Daniel đã xây dựng Nhà xuất bản Matherly thành một đế chế hùng mạnh. Dưới sự điều hành của ông, công ty thiết lập tiêu chuẩn, quyết định xu hướng của ngành thương mại in ấn và có nhiều đầu sách bán chạy nhất. Tên tuổi của ông nổi tiếng cả thị trường trong nước và quốc tế. Ấy thế mà vài tháng gần đây, một người không bao giờ chịu ngồi yên như ông bỗng nhiên như mất hết động lực.

    Việc ông lui về ở ẩn không có nghĩa là công ty của họ suy yếu hoặc chấm dứt hoạt động. Noah muốn mọi người hiểu điều đó. Dù phải tham dự bao nhiêu buổi tiệc, họ cũng phải làm.

    Anh nhìn đồng hồ đeo tay. "Khi nào em xong? Anh sẽ báo tài xế đánh xe ra."

    Maris thở dài cam chịu. "Cho em hai mươi phút."

    "Cứ thoải mái. Ba mươi phút nữa nhé." Anh hôn cô rồi ra khỏi phòng.

    Maris chưa vội sửa soạn ngay. Cô vừa nảy ra một ý tưởng để truy tìm tác giả của “Đố kỵ” nên gọi thư ký nhờ thực hiện cuộc gọi.

    Trong lúc chờ đợi, cô nhìn ra ngoài cửa sổ kính cao từ sàn lên đến trần nhà, mở ra một góc nhìn toàn diện về hướng đông nam. Trong buổi chiều hè mát dịu, khi mặt trời đã xuống thấp hơn những tòa nhà chọc trời ở trung tâm Manhattan, hoàng hôn xuất hiện sớm trên tất cả các tuyến phố. Từng toà nhà lần lượt lên đèn, từng khối kiến trúc gạch và đá toả sáng lung linh muôn hình vạn trạng, in bóng trên nền trời màu thẫm. Từ toà nhà này nhìn sang toà nhà bên cạnh có thể thấy nhiều mái đầu nhấp nhô trước màn hình máy tính, miệt mài với công việc.

    Giao thông trên phố ùn tắc trầm trọng trong giờ tan tầm. Taxi tranh nhau nhích từng chút một, len lỏi vào những khoảng trống nhỏ không thể tưởng tượng nổi giữa xe buýt và xe tải chở hàng.

    Nhân viên đưa thư bằng xe đạp lạng lách giữa các hàng xe như đang trong trò chơi ai là người dũng cảm nhất. Trên vỉa hè đông đúc, người đi bộ vừa lo tránh những cánh cửa tự động xoay tròn, vừa dùng cặp tài liệu và túi mua sắm làm vũ khí để mở đường đi tới.

    Bên kia đường Avenue of the Americas, một dòng người xếp hàng bên ngoài nhà hát Radio City Music Hall, nơi Tony Bennett sẽ biểu diễn tối nay. Cô, Noah và cha cô được tặng vé VIP miễn phí nhưng họ phải từ chối vì bữa tiệc trao giải thưởng.

    Cô đang nghĩ đến trang phục tối nay thì điện thoại reo. "Đường dây một." Cô thư ký thông báo.

    "Cảm ơn. Không cần đợi chị đâu. Ngày mai gặp lại." Maris nhấn vào chiếc nút nhấp nháy.

    "Xin chào."

    "Vâng. Phó cảnh sát trưởng Dwight Harris nghe đây."

    "Chào anh, Phó cảnh sát trưởng Harris. Cảm ơn anh đã nghe máy. Tôi là Maris Matherly-Reed. "

    "Xin lỗi?"

    Cô nhắc lại.

    "À."

    Maris dừng lại đợi anh ta tỏ thái độ hoặc đặt câu hỏi, nhưng anh ta không nói gì thêm nên cô đi thẳng vào đề. "Tôi muốn tìm một người sống trên đảo St. Anne."

    "Đó là một quận của chúng tôi."

    "Thuộc tiểu bang Georgia?"

    "Đúng vậy." Anh ta khẳng định.

    "Có đúng St. Anne là một hòn đảo không?"

    "Phải, tuy nhỏ nhưng nó là một hòn đảo, cách đất liền chưa đầy hai dặm. Cô muốn tìm ai?"

    "Một người có tên viết tắt là P.M.E."

    "P.M.E.?"

    "Anh có biết ai có tên bắt đầu bằng những chữ cái đó không?"

    "Không. Là nam hay nữ?"

    "Tôi không biết."

    "Cô không biết?" Sau khi ngưng vài nhịp, anh ta chất vấn. "Cô cần gặp họ làm gì khi họ là nam hay nữ mà cũng không biết?"

    "Tôi gặp vì công việc"

    "Việc kinh doanh?"

    "Phải."

    "Ừm."

    Cảm thấy đi vào ngõ cụt, Maris cố thử lần nữa. "Tôi nghĩ có thể anh biết hoặc nghe nói … “

    "Không."

    Cô không biết nói gì hơn. "Cảm ơn anh vì đã dành thời gian cho tôi. Xin lỗi đã làm phiền anh."

    "Không sao."

    “Anh có thể ghi lại tên và số điện thoại của tôi không? Nếu có tin tức gì, phiền anh gọi cho tôi ngay nhé."

    Sau khi nghe cô đọc số điện thoại, anh ta nói. "Nếu liên quan đến tiền cấp dưỡng nuôi con, lệnh bắt giữ hay những vấn đề tương tự, tôi rất sẵn lòng … ”

    "Không dính dáng gì đến pháp lý cả."

    "Là việc kinh doanh."

    "Chính xác."

    “Được rồi.” Anh ta nói với vẻ tiếc nuối. "Rất tiếc không giúp được gì cho cô."

    Sau khi cảm ơn anh ta một lần nữa, cô đóng cửa phòng rồi vội vàng vào phòng thay đồ nữ. Vì phải thường xuyên đi thẳng từ công ty đến bữa tiệc, tủ đựng đồ của cô luôn để sẵn đồ vệ sinh cá nhân và mỹ phẩm. Riêng chiếc váy dạ tiệc sáng nay cô mới đem đến.

    Mười lăm phút sau, cô gặp Noah ở thang máy. Anh huýt sáo rồi hôn lên má cô. "Một sự lột xác tuyệt vời. Cứ như một phép màu. Trông em tuyệt lắm."

    Trong lúc thang máy xuống, cô đánh giá hình ảnh của mình phản chiếu qua cánh cửa kim loại bóng loáng như gương. Nỗ lực của cô không vô ích. Nói "tuyệt vời" thì hơi quá, nhưng cô trông xinh đẹp khác hẳn tình trạng đầu bù tóc rối lúc nãy.

    Tất cả là nhờ chiếc váy lụa ôm cổ vuông màu mận chín đi kèm thắt lưng bản nhỏ. Để nổi bật trong đêm tiệc, cô đeo hoa tai kim cương, cầm ví Judith Leiber hình bướm nạm pha lê, quà Giáng sinh của cha cô, và choàng khăn pashmina cô mua khi ghé qua Paris sau khi tham dự hội chợ sách quốc tế Frankfurt.

    Mái tóc ngang vai bóng mượt được buộc thấp hơn tầm mắt đem lại vẻ trẻ trung năng động không ngờ. Cô đã kẻ lại mắt, vẽ viền môi và tô thêm son bóng. Để tạo sắc ấm cho làn da, cô đánh phấn bronzer lên má, cằm, trán và mắt. Chiếc áo nâng ngực của cô, một sự phù phép tuyệt diệu của nhà thiết kế để tạo khe ngực sâu căng khít.

    "Chẳng có gì là thật, từ bộ ngực đến làn da rám nắng."

    Cửa thang máy bật mở, Noah bước sang một bên để cô bước ra. Anh ngạc nhiên hỏi. “Em nói gì?”

    Cô khẽ cười. "Không có gì. Chỉ nhắc lại một câu em mới đọc hôm nay."
     
    Chỉnh sửa cuối: 4/6/22
    daliah, vuivui2013, Breeze and 10 others like this.
  7. homespa79

    homespa79 Mầm non

    Mình thích tác giả lắm. Cảm ơn bạn đã dịch truyện
     
    iusach thích bài này.
  8. iusach

    iusach Lớp 7

    CHƯƠNG 2

    Mưa đã tạnh từ nửa tiếng trước nhưng độ ẩm dày đặc khiến nước trên mặt đất không thể bốc hơi. Nước đọng thành từng vũng. Nước lóng lánh những hạt ngọc trên cánh hoa, đậu trên lông tơ của quả đào chín mọng, làm oằn cong thêm các cành. Nước li ti gom thành giọt to tròn rồi lăn dài, cuốn trôi bụi bẩn bám trên lá cây, rơi xuống mặt đất đã bão hòa nước và vỡ ra tung tóe.

    Thi thoảng mới có một cơn gió nhẹ thổi qua, nước luyến tiếc rời khỏi cành lá trên cây rơi rào rào xuống đất như một cơn mưa khác. Không khí ngột ngạt, nặng nề như sự im lặng.

    Phó cảnh sát trưởng Dwight Harris bước xuống chiếc xe gôn vừa mượn ở bến tàu St. Anne. Anh ta cởi mũ, đứng tần ngần trước con đường nhỏ dẫn vào nhà như để cân nhắc hành động kế tiếp, bởi vì chính anh ta cũng không hiểu tại sao mình lại có mặt ở đây, vào lúc nhập nhoạng tối như thế này. Chính xác thì anh ta cần gì nhỉ?

    Nghe nói đã lâu nhưng hôm nay anh ta mới được nhìn tận mắt. Bất kỳ ai đặt chân lên đảo St. Anne đều được nghe kể truyền thuyết về khu điền trang nằm ở cực đông của đảo, trên một mũi đất nhô ra biển về phía châu Phi. Mặc dù phần lớn là những câu chuyện thêu dệt rùng rợn hoang đường, anh ta nhận thấy mô tả về ngôi nhà là khá chính xác.

    Phía trên tầng hầm bằng gạch nung, hai tầng nhà được sơn trắng theo phong cách kiến trúc thuộc địa của các nước thuộc khu vực hạ lưu sông Rhine. Sáu bậc thang lớn dẫn lên mái hiên rộng chạy suốt mặt trước và hai bên nhà. Cửa trước và cửa chớp chống bão lắp đặt ở tất cả cửa sổ được sơn một màu đen bóng. Sáu chiếc cột trơn trên ban công tầng hai tạo sự đối xứng hài hoà và chống đỡ cho ngôi nhà. Hai ống khói giống hệt nhau, cao như những chiếc kệ sách nhô trên mái dốc. Một ngôi nhà đẹp đúng như lời đồn đại, còn ma quỷ ư, anh ta không tin.

    Bỗng một giọt nước lạnh buốt rơi độp trên gáy làm anh ta bật ra một tiếng kêu thảng thốt và nhảy dựng lên như phải bỏng. Mất một lúc để định thần lại, anh ta gạt đi chỗ ướt, ngước lên những tán lá thấm đẫm nước mưa rồi liếc nhìn xung quanh. May là phản ứng kỳ cục vừa rồi không bị ai nhìn thấy. Lầm bầm nguyền rủa cái cảnh tranh tối tranh sáng và thời tiết ngột ngạt - thủ phạm gây ra những căng thẳng không đáng có - anh ta ụp chiếc mũ lên đầu rồi bước tới, thỉnh thoảng đảo chân tránh những vũng nước nhỏ trên đường.

    Mỗi bên con đường lát vỏ sò là bốn cây sồi cổ thụ sừng sững uy nghi, thân cành bám đầy những chùm không khí tóc tiên rủ lòng thòng xuống đất. Rễ cây cỡ bắp đùi một người to khỏe trồi lên như đàn rắn bò ngoằn ngoèo trên mặt đất.

    Một lối vào gây ấn tượng cho khách thăm nhà.

    Quang cảnh nơi đây phải gọi là hùng vĩ. Theo Harris được biết, mặt sau khu nhà nhìn ra toàn cảnh Đại Tây Dương.

    Được xây dựng cách đây hơn hai thế kỷ, ngôi nhà đầu tiên có bốn phòng ngủ. Chủ nhân của nó đã mua hòn đảo từ một người từ mẫu quốc đến định cư nhưng sau đó quyết định rời bỏ nước Mỹ thuộc địa non trẻ và bệnh sốt vàng da để về Anh chết già. Kể từ đó, đồn điền ngày càng mở rộng, chuyên canh chàm, mía và bông vải.

    Khi ngôi nhà bốn phòng ngủ chuyển thành nhà ở của nô lệ, một ngôi nhà mới được xây dựng. Đó là sự kiện trọng đại nhất trên đảo St. Anne lúc bấy giờ.

    Toàn bộ vật liệu xây dựng và đồ nội thất đều được chở đến đảo bằng tàu, sau đó chất lên xe ngựa thồ, vượt qua những khu rừng rậm rạp, nhiều cánh đồng bạt ngàn để đến công trình. Trải qua nhiều năm kỳ công xây dựng, ngôi nhà được hoàn thành và đứng vững qua thời kỳ chiếm đóng của quân đội Liên minh cũng như sự tấn công của hàng chục cơn bão lớn.

    Nhưng nó phải đầu hàng một loài sâu bọ.

    Vào đầu thế kỷ 20, nạn bọ cánh cứng hoành hành trên khắp các cánh đồng bông.

    Với sức tàn phá ghê gớm hơn cả thời tiết và chiến tranh, loài bọ cánh cứng phá hoại các vùng trồng bông trên đất Mỹ, nghiền nát nền kinh tế của St. Anne.

    Trước nguy cơ phá sản, người chủ đồn điền lúc đó tuyệt vọng đến nỗi treo mình lên chiếc đèn chùm lớn trong phòng ăn tự tử. Những người khác trong gia đình lén lút trốn khỏi đảo lúc nửa đêm, để lại các khoản nợ và thuế khổng lồ chưa thanh toán. Kể từ đó không ai nghe nói đến họ nữa.

    Nhiều thập kỷ trôi qua. Trên những cánh đồng xung quanh ngôi nhà, trước đây bông vải trắng xóa như tuyết, bây giờ cỏ dại bạt ngàn như rừng.

    Những căn phòng từng là nơi ở của tầng lớp quý tộc, có lần được một vị tổng thống Hoa Kỳ đến thăm, nay trở thành chỗ trú ngụ của lũ rắn rết. Chỉ có bọn trẻ thỉnh thoảng mò vào nghịch ngợm, hoặc một tay bợm rượu say xỉn đến mức không biết trời trăng mây nước ngủ bừa qua đêm.

    Ngôi nhà bị bỏ hoang đến tận năm ngoái thì được một người ngoài đảo mua lại và tu sửa. Harris nghĩ, đó chẳng qua là một gã Yankee miền Bắc lắm tiền nhiều của nhưng thiếu hẳn chín chắn và khôn ngoan, vì mê Cuốn theo chiều gió nên quyết tậu cho mình một dinh thự miền Nam đã kinh qua thời nội chiến.

    Tuy nhiên, người chủ mới rất được lòng dân trên đảo vì đã bỏ nhiều công sức phục chế ngôi nhà. Theo đánh giá của Harris, vẫn còn vô số việc phải làm nếu muốn nó trở lại như thời hoàng kim. Nói thế không phải do anh ta cảm thấy ghen tị vì diện mạo khang trang mới mẻ của khu nhà, vì khoản chi phí khổng lồ đã đổ vào đó, cũng như vì sự gan dạ của người chủ mới bất chấp những lời đồn đại ma quỷ.

    Người ta đồn rằng hồn ma của người đàn ông treo cổ tự tử vẫn hay lẩn khuất trong nhà, còn chiếc đèn chùm rơi từ trên trần xuống đất thì mất tăm mất tích không ai có thể tìm thấy.

    Harris không tin ma quỷ. Con người còn đáng sợ hơn ma quỷ nhiều. Mặc dù vậy, khi lên hết các bậc thang, băng qua hàng hiên đứng trước cánh cửa đóng im ỉm, anh ta ước gì có thêm một chút ánh sáng.

    Sau khi ngập ngừng đập chiếc búa gõ cửa bằng đồng mà không thấy động tịnh gì, anh ta gia tăng lực gõ mạnh hơn. Từng giây trôi qua chậm lê thê như nước nhỏ giọt từ mái hiên. Không lẽ mới giờ này mà người trong nhà đã tắt đèn đi ngủ?

    Dân quê ngủ sớm hơn dân phố, nhỉ?

    Đang định bỏ cuộc và quay lại vào lúc khác - tốt nhất vào ban ngày, trước khi mặt trời lặn - Harris nghe tiếng ổ khoá kêu lách cách. Vài giây sau, cánh cửa hé mở vào bên trong.

    "Ai đó?"

    Harris giương mắt nhìn qua khe cửa hẹp, căng người chuẩn bị đối phó với tình huống xấu nhất - bóng ma người đàn ông treo cổ, hoặc một khẩu súng ngắn hai nòng chĩa thẳng vào bụng bởi gã chủ nhà điên tiết vì bất thình lình bị lôi ra khỏi giường .

    Rất may cả hai đều sai. Người đàn ông trước mặt có giọng nói trầm ấm và không hề tỏ ra khó chịu với anh ta. Vẫn chưa. Harris không nhìn rõ khuôn mặt nhạt nhòa lẫn vào bóng tối trong nhà.

    "Chào anh. Tôi là phó cảnh sát trưởng Dwight Harris, Sở cảnh sát Savannah."

    Người đàn ông hơi chúi người về trước nhìn chiếc xe gôn đậu bên ngoài. Như muốn hạn chế khách du lịch và những vị khách không mời mà đến, từ đất liền đến St. Anne không có phà, cách duy nhất là đi tàu riêng hoặc thuê tàu. Sau khi đến đây, khách phải thuê xe gôn với giá vài trăm đồng để di chuyển trên diện tích chín ngàn mẫu Anh nếu không muốn đi bộ. Chỉ cư dân của đảo mới sở hữu những chiếc ô tô chạy như rùa bò trên những con đường hẹp, cố tình không trải nhựa.

    Xe gôn không phải là xe cảnh sát, và Harris cảm thấy quyền lực của mình bị giảm sút một cách đáng kể. Để lấy lại tự tin, anh ta đưa tay chỉnh dây đeo súng.

    Người đàn ông sau cánh cửa hỏi. "Tôi có thể giúp gì cho anh?"

    "Thứ lỗi cho sự đường đột của tôi. Chiều nay tôi nhận được một cú điện thoại từ New York." Anh ta ngừng lại dò xét. "Một quý cô muốn tìm người có tên viết tắt là P.M.E."

    "Vậy à?"

    "Chính xác cô ấy nói như thế. Tôi không tiết lộ thông tin gì như đã được yêu cầu."

    "Có không?"

    "Ý anh là có yêu cầu hay không ư? À, thật ra không hẳn như thế."

    "Tuy nhiên, anh đang có mặt ở đây."

    "Phải nói rằng cô ấy làm tôi tò mò. Không có ai lại tìm người với một cái tên viết tắt. Nhưng anh không cần lo. Ở đây, quyền riêng tư được đặt lên hàng đầu."

    "Tôi rất ngưỡng mộ."

    "St. Anne là một nơi lý tưởng cho những ai muốn tìm chỗ trú ẩn, vì bất cứ lý do gì."

    Câu nói vang lên như một lời buộc tội bóng gió, và Harris hối hận ngay lập tức.

    Anh ta ấp úng. "Dù sao đi nữa, tôi nghĩ nên giúp cô ấy. Những người ngoài bến tàu chỉ tôi đến đây."

    "Quý cô New York muốn gì?"

    "Tôi không rõ. Cô ấy nói là công việc, không liên quan đến pháp lý. Có thể anh là người thắng giải chương trình xổ số của Ed McMahon và Dick Clark cũng nên."

    "Tôi không chơi những trò đó."

    "À." Harris nhấc mũ lên một chút để gãi đầu. Anh ta đâm bực vì người đàn ông không mời anh ta vào nhà, cũng không bật bất cứ một cái đèn nào lên.

    Úp mở mãi chẳng đi đến đâu, vì vậy anh ta hỏi thẳng thừng. "Anh là P.M.E. đúng không?"

    "Cô ấy có giới thiệu tên không?"

    "Anh nói sao? À có." Harris thò tay vào túi áo rút ra mảnh giấy đưa cho người đàn ông. Anh ta phần nào nhẹ nhõm khi thấy gã chỉ tập trung vào những con số viết trên đó chứ không nhận thấy tờ giấy ướt đẫm - do mồ hôi của anh ta.

    “Số điện thoại của cô ấy.” Harris giải thích. "Tôi đoán là việc quan trọng nên đến đây xem thử."

    "Cảm ơn anh rất nhiều, cảnh sát trưởng Harris."

    "Phó."

    "Phó cảnh sát trưởng Harris."

    Chưa kịp chớp mắt, cánh cửa đã đóng sầm trước mặt. "Xin chào." Anh ta đành lẩm bẩm rồi ra về.

    Tiếng vỏ sò vỡ nghe lạo xạo dưới những bước chân nặng nề, đơn độc. Màn đêm đen kịt xung quanh, dưới gốc những cây sồi lại càng đậm đặc hơn nhưng anh ta không sợ. Chính xác là như vậy.

    Gã chủ nhà này khá lịch sự, thái độ không thù địch. Thiếu thân thiện, nhưng không thể gọi là thù địch.

    Harris thở phào khi cuối cùng cũng xong việc. Nếu biết trước, anh ta sẽ chẳng dại gì mà đến đây. Quý cô miền Bắc tìm được người hay không không liên quan đến anh ta.

    Khi ngồi vào sau tay lái, anh ta mới phát hiện ghế bị ướt vì nước mưa trên cây nhỏ xuống. Thế là chiếc quần ướt sũng.

    Tại bến tàu, gã chủ đã cho mượn xe gôn miễn phí - vì anh ta là cảnh sát – nhận lại chìa khóa, giương mắt nhìn chòng chọc vào anh ta. "Anh có tìm được người cần tìm không?"

    “Có, cảm ơn vì đã chỉ đường.” Harris trả lời. "Anh gặp gã đó lần nào chưa?"

    "Thỉnh thoảng."

    "Gã có phải là người lập dị không?"

    "Không."

    "Gã có gây sự với ai không?"

    "Không, anh ta thích ở một mình."

    "Dân đảo có thích gã không?"

    "Anh có muốn đổ xăng trước khi về không?"

    Rõ ràng là một câu đuổi khéo. Gặp rồi cũng như chưa gặp, Harris hoàn toàn mù tịt về người chủ mới của ngôi nhà ma ám. Anh ta hy vọng lượm lặt xung quanh vài thông tin nhưng kết quả không như ý. Không phải anh ta muốn điều tra, chỉ là bản năng tò mò tự nhiên. Tại sao gã đó xưng tên viết tắt với một quý cô ở tận New York, và cô ấy muốn gì ở gã đó?

    Anh ta không biết nói gì hơn là cảm ơn vì chiếc xe gôn.

    Gã chủ xe nhổ toẹt bụm thuốc lá đang nhai trong miệng xuống đất.

    “Không có gì.”
     
    Chỉnh sửa cuối: 6/6/22
    vuivui2013, homespa79, Breeze and 8 others like this.
  9. iusach

    iusach Lớp 7

    CHƯƠNG 3

    "Một bức ảnh nữa thôi, ông bà Reed?"

    Maris và Noah tươi cười đứng trước ống kính của phóng viên tờ Publishers Weekly. Trước khi vào tiệc, họ đã chụp ảnh với các nhà xuất bản bạn, người dẫn chương trình và nữ tác giả sắp được nhận giải thưởng, một cựu vô địch quần vợt tự phong mình là nhà văn nhưng phải thuê người viết hộ vì không có khả năng chuyển tải những câu chuyện thú vị trong cuộc đời thi đấu chuyên nghiệp của mình ra giấy.

    Sau khoảng thời gian nhập tiệc khá thảnh thơi, họ tiếp tục được yêu cầu tạo dáng chụp ảnh. May thay, tay phóng viên chụp đúng một bức ảnh như đã hứa rồi chuyển ống kính sang một chuyên gia thể hình, người mới có quyển Cẩm nang rèn luyện thân thể lọt vào danh sách bán chạy nhất.

    Chỉ đến khi băng qua tiền sảnh sang trọng của khách sạn Palace để ra về, Maris mới thở ra nhẹ nhõm. "Cuối cùng cũng xong. Em chỉ muốn về nhà."

    "Một chầu nữa rồi về."

    "Một chầu nữa?”

    "Ở LeCirque."

    "Ngay bây giờ?"

    "Anh đã nói với em rồi."

    "Không, anh không nói."

    "Chắc chắn có. Lúc xong món chính và chuẩn bị lên món tráng miệng, anh nói rằng Nadia mời vợ chồng mình và một tác giả đi uống tiếp."

    "Nhưng em không biết là tối nay."

    Maris rền rỉ. Cô vốn không ưa Nadia Schuller, một nhà phê bình sách ngạo mạn, thích chõ mũi vào việc người khác và luôn tìm cách dồn Noah và cô vào những cam kết không lối thoát.

    Chuyên mục "Tọa đàm về sách" của Nadia Schuller đăng tải trên nhiều tờ báo lớn và có uy tín. Dù cô ta có sức ảnh hưởng đáng kể trong giới phê bình, Maris không đánh giá cao cô ta cả về chuyên môn lẫn đạo đức.

    Khi đứng ra tổ chức gặp mặt tối nay, Maris ngờ rằng chẳng phải cô ta vì lợi ích của các bên như đã tuyên bố mà chỉ để nâng cao uy tín cá nhân. Vốn là người tự cao tự đại không ai sánh bằng, cô ta không bao giờ chấp nhận câu trả lời KHÔNG.

    Dù đưa ra bất cứ yêu cầu gì, cô ta mặc định phải được đồng ý. Những ai phản đối sẽ bị trả thù sau đó. Maris quá hiểu những chiêu trò của cô ta nhưng Noah dường như mù tịt.

    "Thôi mà Noah, chúng ta không thể từ chối sao? Chỉ lần này thôi."

    "Mình đã đồng ý rồi."

    "Nhưng không phải tối nay." Cô nằn nì.

    "Thế này nhé, mọi chuyện đều có thể thu xếp." Anh xoay cô lại đối diện với anh. "Đây là một cuộc hẹn quan trọng."

    "Nadia luôn làm cho mọi việc không chỉ quan trọng mà còn bắt buộc."

    "Ừ. Nhưng lần này anh không nghĩ thế."

    "Anh định thu xếp thế nào?"

    "Anh nói với Nadia là em bị nhức đầu hoặc sáng sớm mai có hẹn nên không đi được. Tài xế đưa em về trước, anh đi uống một ly rồi về ngay. Tối đa nửa tiếng. Anh hứa."

    Cô luồn tay vào áo khoác của anh, vuốt ve làn da ấm dưới lớp áo sơ mi.

    “Kế hoạch của em hay ho hơn nhiều, ông Reed. Kệ xác Nadia, hai chúng ta cùng về nhà. Em đã nói gì về đồ ngủ nhỉ? Nó không cần thiết phải có." Cô thì thầm.

    "Em đang dùng cú pháp thiếu chuẩn xác." Anh nhận xét.

    "Anh là nhà văn. Em chỉ là biên tập viên."

    "Trước đây, anh là một nhà văn."

    "Sao có thể thế được." Cô đứng sát hơn để đùi cô chạm vào đùi anh. "Anh thấy sao? Về chuyện đồ ngủ ấy."

    "Noah? Chúng tôi đang đợi đây."

    Nadia Schuller dõng dạc bước tới như một vị tướng chuẩn bị lên phát biểu trước toàn quân, chỉ khác ở bộ váy lộng lẫy và nụ cười giả tạo. Cô ta rất giỏi trong việc mê hoặc, làm tiêu tan ý chí kháng cự và thao túng mọi người xung quanh. Cô ta là khách mời thường xuyên trong nhiều chương trình tọa đàm theo chủ đề. Letterman hâm mộ cô ta, ngoài ra còn vô số nghệ sĩ nổi tiếng khác. Công việc chính của cô ta là tận dụng mọi cơ hội chụp ảnh chung với diễn viên, nhạc sĩ, siêu mẫu và chính trị gia nổi tiếng.

    Cô ta không biết giới hạn quyền tự do phê bình của mình, sẵn sàng đưa ra những bình luận vô căn cứ về tác giả và hoạt động xuất bản. Tuy nhiên, không ai dám lên tiếng phản bác vì sợ sách của họ sẽ bị chuyên mục của cô ta ném đá.

    Mục tiêu của cô ta tối nay là một tác giả có sách nằm trong danh sách bán chạy nhất. Anh ta đã say ngất ngư, hoặc đang phê thuốc nếu những lời người ta đồn đãi là đúng. Hay anh ta choáng váng vì bị Nadia cưỡng bức tinh thần suốt cả tối nhỉ?

    “Họ không giữ bàn cho ta mãi đâu, Noah. Đi chưa?"

    "Ừm ..." Anh ngập ngừng nhìn Maris.

    "Có chuyện gì vậy?" Nadia chiếu ánh mắt xuyên suốt như mũi khoan của nha sĩ vào Maris.

    "Không có gì. Tôi và Noah đang nói chuyện riêng."

    "Ôi trời. Có phải tôi làm gián đoạn chuyện vợ chồng của hai bạn không?"

    Có thể nói cô ta xinh đẹp nếu giọng nói bớt sắc cạnh, nụ cười bớt lạnh lùng và ánh mắt bớt đa nghi. Ngay cả khi ăn diện và trang điểm hoàn hảo, trông cô ta chẳng có chút nữ tính nào cả.

    Người ta đồn rằng Nadia có hàng tá nhân tình. Cô ta đối xử với họ như những hộp sô cô la Godivas, sau khi nhai nát thì thẳng tay loại bỏ những ai mềm yếu, gây cản trở con đường sự nghiệp. Maris không nghi ngờ tính lăng nhăng của cô ta. Điều khiến cô ngạc nhiên là sao lại có lắm đàn ông thấy cô ta hấp dẫn?

    “Đúng, chuyện riêng. Tôi nói với Noah rằng việc cuối cùng tôi muốn làm là đi uống với cô." Maris mỉm cười ngọt ngào.

    “Trông em mệt mỏi quá đấy”. Nụ cười của Nadia ngọt ngào không kém.

    Noah vội vàng xen vào. “Xin lỗi Nadia. Tối nay chúng tôi không đi được. Tôi phải đưa vợ tôi về và chăm sóc cô ấy."

    "Không, anh yêu." Maris nói. Cô không muốn đóng vai người vợ yếu đuối trước mặt Nadia Schuller. "Anh không cần thực hiện bất cứ nghĩa vụ nào đâu."

    "Một cơ hội hiếm có để bàn chuyên môn với một trong những tác giả nổi tiếng đấy." Nadia gắt gỏng. Vị tác giả nổi tiếng mà cô ta nói đến vẫn im thin thít từ nãy đến giờ. Anh ta đứng đờ đẫn, bàng quan trước mọi việc diễn ra xung quanh.

    Maris nhún vai. "Phải vậy rồi." Cô quay sang Noah. "Anh đi đi. Em về nhà đây."

    Anh nhìn cô do dự. "Em chắc không?"

    "Chắc mà."

    "Vậy là xong." Nadia kéo mạnh tay khiến vị tác giả nổi tiếng ngật ngưỡng bước theo như người mộng du. "Hai bạn cứ tạm biệt nhau trong khi chúng tôi đi trước lấy bàn. Tôi gọi thức uống thường lệ cho anh nhé, Noah?"

    "Được, cảm ơn."

    Dù đã đi khá xa, cô ta còn cố ngoái lại bông đùa với Maris. "Nghỉ ngơi nhé, cưng."

    ***

    Parker Evans chằm chằm nhìn xa xăm bên ngoài cửa sổ.

    Từ đây không thể nhìn thấy mép nước ngoài bờ biển, chỉ nghe tiếng sóng vỗ rì rầm. Vầng trăng như bị nuốt chửng vào những tầng mây dày, nặng trĩu. Không có nguồn sáng tự nhiên hoặc nhân tạo nào để giải tỏa bóng tối mịt mùng xung quanh.

    Ở cửa sổ tầng một nhìn ra mặt sau ngôi nhà, bãi cỏ mơn mởn trải dài trước khi thoai thoải dốc xuống bãi biển. Ranh giới giữa đất liền và đại dương là một khoảng trống tối đen, đem lại cảm giác bất an trước sự bất định bí ẩn của biển cả.

    Căn phòng cũng tối om, không phải vì quên không bật đèn. Anh cố tình để như vậy. Nếu đèn trong phòng bật sáng, anh sẽ thấy hình ảnh của mình trong cửa sổ kính. Anh không muốn nhìn thấy chính mình.

    Dù sao đi nữa, anh không cần có ánh sáng đèn mới đọc được số điện thoại trên tờ giấy đang cầm trong tay. Nói đúng hơn, anh không cần phải đọc. Nó nằm trong bộ nhớ.

    Sáu tháng chờ đợi cuối cùng đã được đền đáp.

    Maris Matherly-Reed đã cố liên lạc với anh.

    Mới hôm qua thôi, Parker gần như đã từ bỏ hy vọng và bắt đầu nghĩ đến việc lập ra một kế hoạch khác.

    Sau nhiều tháng trời không có hồi âm, anh cho rằng cô đã đọc phần mở đầu của Đố kỵ, ghét nó, vứt nó đi mà không thèm gửi cho anh một lá thư từ chối theo phép lịch sự.

    Thậm chí có thể những trang bản thảo không có cơ hội đến tay cô. Nhân viên văn thư có thể làm thất lạc, hoặc vừa nhận được thì thẳng tay ném vào thùng rác vì qui định của nhà xuất bản là không nhận bản thảo tự do mà chỉ nhận thông qua đại lý. Ngay cả khi đã vượt qua vòng giữ xe, chưa chắc bản thảo được biên tập viên sơ tuyển lựa chọn để chuyển lên cấp cao hơn.

    Trong mọi trường hợp, kế hoạch này là bất khả thi.

    Nhưng đó là chuyện hôm qua. Thế mới biết thế giới có thể thay đổi trong một ngày. Bây giờ anh có thể ăn mừng vì cô đã nhận được bản thảo, đọc nó và tìm cách liên lạc với anh.

    Maris Matherly-Reade. Tay cảnh sát viết sai cả tên, tên đệm lẫn họ của cô. Hy vọng anh ta làm khá hơn với số điện thoại.

    Cô đã nói với cảnh sát Dwight Harris lý do tìm P.M.E - vì công việc. Đó có thể là tin tốt. Hoặc xấu. Hoặc ở mức giữa.

    Rất có thể cô muốn gọi điện để báo cho anh biết bản thảo dở hơi và hỏi tại sao anh lại tự tiện gửi cho một nhà xuất bản lớn một thứ rác rưởi như thế. Nếu là kiểu người nhẹ nhàng, cô sẽ an ủi rằng anh có khả năng nhưng sách của anh không phù hợp với yêu cầu của họ và chúc anh may mắn với một nhà xuất bản khác.

    Nếu vậy, hẳn cô chỉ cần gởi một lá thư từ chối, đủ kiên quyết để ngăn cản tác giả gởi đi một bản thảo khác nhưng có sự khích lệ cần thiết để giữ cho anh ta khỏi nhảy xuống một cây cầu gần nhất tự tử.

    Tuy nhiên, Matherly-Reed không biết địa chỉ của anh để gửi thư. Anh cố ý không cho cô liên lạc qua đường bưu điện. Vì vậy, nếu Đố kỵ bị từ chối, cô sẽ không bao giờ gọi cho anh.

    Thay vào đó, cô đã tìm anh cho bằng được. Điều đó cho thấy phản ứng của cô là tích cực.

    Vẫn chưa đến lúc uống rượu mừng. Còn quá sớm để tự tán thưởng mình thông minh kiệt xuất. Thay vì nhảy cẫng lên vì vui sướng, anh buộc mình giữ cho nhịp tim đều đặn, hơi thở bình thường và đầu óc tỉnh táo. Thành công hay thất bại không phụ thuộc vào những gì đã đạt được cho đến thời điểm này mà là những gì diễn ra sắp tới.

    Thay vì ăn mừng một cột mốc quan trọng, anh nhìn ra cửa sổ hàng giờ, tính toán cẩn thận các bước tiếp theo. Vào một đêm không trăng, không mưa, sóng êm, biển lặng, trong khi cư dân đảo St. Anne ăn, ngủ, xem ti vi và làm tình, có một Parker Evans trăn trở bày mưu, tính kế.

    Anh nghĩ đến phần kết của quyển sách, nó sẽ không có gì thay đổi so với kế hoạch ban đầu. Cơ hội phải được tận dụng triệt để một khi Maris Matherly-Reed đã chủ động tiếp cận.

    Chưa bao giờ đích đến lại gần đến thế, và anh phải nỗ lực hơn nữa để thành công. Từ giờ đến lúc đó, anh không được phép sai lầm. Mỗi bước đi phải được cân nhắc, tính toán hoàn hảo.

    Và nếu có giây phút nào chùn bước, anh chỉ cần nhớ đã mất bao lâu để đạt được thành tựu ngày hôm nay. Sáu tháng.

    Không đúng ... Sáu tháng và mười bốn năm.

    ***

    Maris mò mẫm tìm chiếc điện thoại đang đổ chuông inh ỏi. Cô hé mắt nhìn đồng hồ trên tủ đầu giường. Năm giờ hai mươi ba. Còn sớm thế này, ai lại …

    Một ý nghĩ khủng khiếp thoáng qua khiến cô tỉnh hẳn. Hay cha gặp chuyện không hay, tai biến, đột quỵ, ngã cầu thang hoặc một tai nạn nào đó?

    Cô nắm chặt ống nghe. “Xin chào?"

    "Cô Maris Matherly-Reed phải không?"

    "Tôi nghe đây."

    "Có phải cô rất thích gây phiền toái cho người khác không?"

    Cô ngớ người ra một lúc mới lắp bắp vài tiếng. "Xin lỗi, cho hỏi ai ở đầu dây?"

    "Tôi không nhờ cô gọi cảnh sát.” Giọng đàn ông ở đầu dây vang lên một cách nóng nảy.

    Cô ngồi dậy, bật đèn và đưa tay sang bên cạnh định lay Noah dậy. Chẳng có ai cả. Cô trố mắt nhìn chiếc giường, tưởng như mình đang hoa mắt. Noah đâu nhỉ? "Xin lỗi... Tôi vừa mới thức giấc. Anh vừa nói cảnh sát gì?"

    "Cảnh sát, nhớ chưa?”

    Cô hít vào một hơi thật nhanh. "P.M.E.?"

    "Một gã cảnh sát đã mò đến nhà tôi hỏi han đủ thứ. Ai …”

    "Tôi …”

    “Cô nghĩ mình là ai … "

    "Tôi …”

    "… mà phá rối cuộc sống của người khác như thế.”

    "Anh …”

    “Bỏ cái kiểu ấy đi cho tôi nhờ."

    "Làm ơn cho tôi nói được không?"

    Maris cao giọng khiến đầu dây im bặt, nhưng cô vẫn cảm nhận được những cơn sóng giận dữ đang chực chờ dâng trào ở bên kia. Sau khi hít thở sâu vài lần, cô nhẹ nhàng nói. "Tôi đã đọc đoạn mở đầu của anh và rất thích. Tôi muốn nói chuyện với anh nhưng không có cách nào để liên lạc. Anh không để lại tên hay số điện thoại. Vì vậy, tôi gọi cho sở cảnh sát nhờ họ …”

    "Gửi trả lại."

    "Xin lỗi, anh nói gì?"

    "Đoạn mở đầu. Gửi lại cho tôi."

    "Vì sao?"

    "Vì nó tào lao."

    "Không phải. Anh …”

    "Tôi không nên gửi nó đi."

    "Tôi mừng vì anh đã gởi đi. Bản thảo của anh rất hay. Câu chuyện hấp dẫn và cách hành văn lôi cuốn. Nếu phần còn lại cũng hay như phần mở đầu, tôi muốn mua và xuất bản nó."

    "Nó không phải để bán."

    "Ý anh là gì?"

    "Nghe này, tuy tôi nói giọng miền Nam nhưng vẫn là tiếng Anh. Cô không hiểu chỗ nào?"

    Phải công nhận anh sở hữu chất giọng vùng miền rất đặc trưng, hấp dẫn và cuốn hút với âm ‘R’ rõ và chậm, chỉ là quá gắt gỏng và thô bạo. Nếu không phải vì những trang bản thảo, cô đã cúp máy từ lâu.

    Cô tiếp tục thể hiện đức tính nhẫn nại của mình. "Nếu không muốn xuất bản, tại sao anh lại gởi bản thảo cho chúng tôi?"

    "Đó là một sai lầm." Anh bắt chước lối phát âm của cô. "Tôi đã suy nghĩ lại."

    Maris thử tìm cách khác. "Anh có người đại diện không?"

    "Người đại diện?"

    "Phải. Một đại lý xuất bản."

    "Tôi không phải là diễn viên."

    "Trước đây anh có gửi bản thảo này cho ai chưa?"

    "Cô chỉ cần gửi trả cho tôi, được chứ?"

    "Anh gửi nhiều lần rồi phải không?"

    "Ý cô là gửi cho các nhà xuất bản khác à? Không có."

    "Tại sao anh gửi cho chúng tôi?"

    "Thôi không cần trả lại gì hết. Vứt vào sọt rác, để mồi lửa hoặc lót lồng chim, tôi không quan tâm."

    Cảm thấy anh sắp sửa cúp máy, cô vội nói. "Khoan đã."

    "Tôi là người trả tiền điện thoại đấy."

    "Trước khi quyết định không xuất bản quyển sách này, một quyết định mà sau này chắc chắn anh sẽ hối hận, tôi muốn đưa ra vài ý kiến chuyên môn. Tôi hứa chỉ nói sự thật. Nếu thấy nó không hay, tôi sẽ nói cho anh biết ngay. Cứ để tôi xem và quyết định. Anh hãy gửi cho tôi toàn bộ bản thảo."

    "Cô đang giữ đấy thôi."

    "Tôi ư?"

    "Tôi nói chưa rõ sao?"

    "Ý anh là anh chỉ có phần mở đầu này thôi ư?"

    "Đó không phải tất cả những gì tôi có mà là những gì tôi đã viết ra. Phần còn lại của câu chuyện nằm cả trong đầu tôi."

    "Ồ." Cô thất vọng thốt lên. Cứ tưởng quyển sách đã hoàn thành, hoặc viết gần xong, không ngờ chỉ có mười hai trang giấy. "Tôi hy vọng anh viết nó cho xong. Trong khi chờ đợi …”

    "Trong khi chờ đợi, cô đang tiêu tốn cước phí điện thoại đường dài của tôi đấy. Nếu cô không muốn chi tiền để gửi trả bản thảo thì cứ tự nhiên xé nó đi. Tạm biệt. Và làm ơn đừng phái cảnh sát đến cửa nhà tôi nữa."

    Maris trầm ngâm giữ chiếc điện thoại trên tai vài giây trước khi cúp máy. Một cuộc gọi lạ lùng. Cứ như một giấc mơ.

    Nhưng cô không mơ. Cô đang tỉnh táo. Với nhịp sống cuồn cuộn ở Manhattan, bây giờ mới là nửa đêm, và chồng cô không có ở trên giường. Nếu cuộc điện thoại lạ lùng không đánh thức cô dậy thì chắc chắn sự vắng mặt của Noah cũng sẽ làm việc đó.

    Lòng bồn chồn không yên, cô định gọi đến phòng cấp cứu của bệnh viện hỏi thăm. Nhưng khi nhớ ra Noah đi với ai, ý định đó chuyển thành khao khát vơ bất cứ thứ gì đó ném vào tường cho bõ tức.

    Đằng nào thì giấc ngủ cũng đã kết thúc ở đây, cô tung chăn bước ra khỏi giường. Vừa với lấy áo choàng thì Noah bước vào phòng, một tay cầm giày, tay kia che miệng ngáp dài. Anh vẫn mặc quần tây và áo sơ mi, dù không có chiếc khuy nào được cài và vạt áo sõng sượt thả ngoài quần. Chiếc áo khoác cẩu thả vắt trên vai.

    Anh hỏi. "Anh nghe có tiếng chuông điện thoại phải không?"

    "Phải."

    "Daniel à? Không có chuyện gì chứ?"

    Dù nhẹ cả người khi nhìn thấy anh, cô không kìm được cảm giác bực bội. "Anh đã ở đâu cả đêm?"

    Anh sững lại như va đầu phải bức tường đá. "Dưới lầu, trên ghế sô pha phòng khách."

    "Tại sao?"

    "Lúc anh về thì em ngủ rồi. Anh không muốn đánh thức em."

    "Anh về lúc mấy giờ?"

    Nhướng mày phản đối giọng điệu gay gắt, nhưng anh vẫn trả lời "Khoảng một giờ, anh nghĩ thế."

    Sự điềm tĩnh của anh chẳng khác nào đổ thêm dầu vào lửa. "Anh nói … anh hứa nửa tiếng sẽ về ngay."

    "Chỉ định làm một tua rồi về, nhưng cuối cùng mọi người lại uống hai tua. Em sao vậy? "

    "Vấn đề là em bị đánh thức lúc 5 giờ 20 sáng, và em chỉ có một mình trên giường." Cô nói. "Đừng trách em vô lý, nhưng em muốn chồng em ngủ bên cạnh em, trừ khi em được báo trước."

    "Rõ ràng là em chẳng biết có anh hay không nếu không bị đánh thức."

    "Và đó là lỗi của ai?"

    Giọng cô càng lúc càng chói tai. Như một bà vợ lên cơn la hét. Cô nhớ lại bức biếm họa mô tả cảnh một bà vợ vừa thức giấc trong chiếc áo choàng nỉ rộng thùng thình, đầu tóc cuốn lô rối bù thì bắt gặp ông chồng ngoại tình lẻn vào cửa sau.

    Phải một lúc lâu sau cô mới kiểm soát được phần nào cơn giận. "Hẳn anh chưa quên, em đã rủ anh về nhà với em ngay lúc ở văn phòng. Thay vào đó, anh bắt em đến dự một bữa tiệc dài lê thê. Phần còn lại của buổi tối dành cho chúng ta không còn bao nhiêu, vậy mà anh bỏ đi với nữ ma cà rồng và một gã nghiện ngập."

    Anh thả đôi giày xuống sàn, chậm rãi cởi quần áo. "Mỗi cuốn sách của ‘gã nghiện ngập’ đó bán được hơn nửa triệu bản bìa cứng, còn doanh số sách bìa mềm cao gấp ba lần. Anh ta đang nghĩ rằng con số đó có thể cao hơn nữa nếu chuyển sang nhà xuất bản khác.

    ‘Nữ ma cà rồng‘ đứng ra sắp xếp cuộc hẹn vì lợi ích của đôi bên. Kết quả là nhà văn đã đồng ý để chúng ta xuất bản sách của anh ta. Sớm thôi, chúng ta sẽ gặp người đại diện. Anh muốn làm em và Daniel bất ngờ vào sáng mai, nhưng ... ” Anh nhún vai, ngồi xuống mép giường.

    “Và nói luôn để em khỏi nghĩ ngợi.” Anh tiếp tục. “Gã nghiện ngập say đến nỗi không tự về được. Nadia và anh phải đưa anh ta về nhà, bê anh ta vào tận giường. Một việc không dễ dàng chút nào. Sau đó anh và cô ấy đi taxi về. Cô ấy xuống ở tháp Trump, còn anh về nhà, đi lên lầu, thấy em ngủ ngon lành nên không muốn làm ồn. Những việc anh làm đều vì em, vì chúng ta". Anh đặt tay lên ngực mình, hơi cúi đầu kiểu cách. "Hãy tha lỗi cho anh vì đã quá vô tâm."

    Bất chấp lời giải thích hợp lý, Maris vẫn cho mình cái quyền được tức giận. "Nếu thế, đáng lẽ anh phải gọi cho em."

    "Đúng thế. Nhưng lúc tối trông em rất mệt mỏi, anh không muốn thức em dậy."

    "Em không thích dính dáng với Nadia."

    "Anh cũng vậy, với bất kỳ ai. Mặt khác, giữ quan hệ tốt với Nadia chỉ có lợi chứ không có hại. Không ai có thể phủ nhận quyền lực của cô ấy. Nếu thích ai, cô ấy sẽ hết lời tung hô, những ai làm mất lòng cô ấy đều phải gánh chịu hậu quả.”

    "Và trong cả hai trường hợp, nếu là đàn ông, họ sẽ gặp rắc rối."

    Anh mỉm cười. "Tại sao phụ nữ, đặc biệt là em, luôn trông xinh đẹp hơn khi tức giận nhỉ?"

    "Em rất bực mình.”

    "Anh biết."

    "Em là vậy đó."

    "Đừng vậy mà. Anh xin lỗi vì làm em lo lắng. Anh không cố ý.” Anh mỉm cười ngọt ngào. "Em không có lý do gì để ghen cả, hiểu không?"

    "Vậy ư?" Cô làm mặt ngây ngô. "Em nghĩ mình có quyền hoang tưởng vì số lượng mối tình trước khi kết hôn của anh."

    "Em cũng không kém cạnh, Maris.”

    "Hai. Con số đó của anh là trong một tuần, và suốt mười năm như vậy."

    Anh phá lên cười. "Quá đáng lắm, nhưng anh sẽ không đề cao mình hơn nữa bằng một lời bình luận. Quan trọng là anh đã kết hôn với em."

    "Và hy sinh niềm vui độc thân."

    Anh cười, đập nhẹ tay vào chỗ trống bên cạnh. “Sao em không dừng nói những lời vô nghĩa, hạ vũ khí xuống và tha thứ cho anh nhỉ? Em muốn mà."

    Cô nheo mắt đe dọa. "Mặc kệ em."

    "Maris?"

    Cô miễn cưỡng dịch về phía anh. Khi khoảng cách thu hẹp còn một tầm tay, anh nắm tay kéo cô nằm sát bên cạnh và âu yếm vén những sợi tóc lòa xòa trên mặt, hôn lên má cô. Cô chống trả chiếu lệ rồi nhanh chóng khuất phục.

    Khi nụ hôn dài kết thúc, cô thì thầm. "Em khao khát anh cả ngày hôm qua."

    "Em chỉ cần nói ra."

    "Em có."

    "Ừ em có nói". Anh thở dài tiếc nuối. "Để anh đền cho."

    "Muộn còn hơn không."

    "Không phải em đã nói là không cần đồ ngủ sao?"

    Sau vài giây, cả hai đều không còn gì trên người. Anh nhấm nháp vị ngọt trên cổ cô. "Ai gọi thế?"

    "Hả?"

    "Điện thoại lúc nãy. Ai vậy?"

    "Để sau đã." Cô kéo tay anh lướt xuống bụng rồi xuống đùi mình. "Nếu muốn nói, hãy nói những lời gợi tình, Noah."
     
    Chỉnh sửa cuối: 24/6/22
    vuivui2013, LanNP, hathao and 6 others like this.
  10. iusach

    iusach Lớp 7

    CHƯƠNG 4

    Daniel Matherly đặt tập bản thảo xuống bàn, đưa tay bóp nhẹ môi dưới trong khi suy nghĩ.

    "Cha thấy sao?" Maris hồi hộp chờ đợi. "Là con tưởng tượng hay nó hay thật sự?”

    Để tận hưởng buổi sáng đẹp trời, họ dùng bữa ngoài hiên căn biệt thự của Daniel ở khu Đông. Hoa nở rộ trong một loạt chậu đất nung treo xung quanh, đan xen những mảng sắc màu rực rỡ vào kiến trúc gạch đá hiện đại khô cứng. Cây sung dâu lừng lững tỏa bóng mát xuống cả một khoảnh sân rộng.

    Trong lúc Daniel đọc phần đầu quyển Đố kỵ, Maris vào bếp chuẩn bị bữa sáng với Maxine. Bà làm quản gia cho nhà Matherly trước khi Maris chào đời cả chục năm và thân thiết không khác gì một thành viên trong gia đình.

    Bà gắt um lên khi thấy Maris vắt nước cam. Đó là biểu hiện của tình thương yêu, không muốn cô động chân động tay làm bất cứ việc gì. Kể từ khi mẹ cô qua đời lúc cô học tiểu học, bà coi cô như con gái mình chăm sóc từng ly từng tí.

    Bữa sáng trứng ốp lết toàn bằng lòng trắng, cà chua nướng và bánh mì ngũ cốc diễn ra trong im lặng vì Daniel mải đọc tập bản thảo. “Cảm ơn Maxine.” Cuối cùng, ông ngẩng lên nói với Maxine đang dọn dẹp bàn ăn và rót cà phê, rồi quay sang Maris "Con nói đúng. Lý thú lắm."

    "Con mừng là cha cũng nghĩ thế."

    Dù tự tin vào khả năng nhận định của mình, cô thấy rất vui vì ông có cùng ý kiến. Có lẽ ông là người duy nhất trên thế giới này đọc và đọc đi đọc lại nhiều sách hơn cô. Quan điểm về thù lao hay các khoản chi phí cho một đầu sách có thể khác nhau, nhưng cả hai luôn có chung đánh giá là nó hay hay không hay.

    "Tác giả mới à?"

    "Con cũng không biết nữa.”

    Ông ngạc nhiên. "Sao thế?"

    "Bản thảo này đến với con theo cách kỳ lạ nhất mà cha có thể tưởng tượng ra." Cô thuật lại toàn bộ, từ khi tìm thấy tập bản thảo, quá trình truy tìm tác giả bí ẩn cho đến cuộc điện thoại sáng nay.

    Giọng cô vẫn còn bức xúc. "Ai lại dùng tên viết tắt chứ? Con chắc chắn tác giả vị thành niên và lập dị kiểu như Prince huyền thoại lấy nghệ danh là một biểu tượng không thể phát âm ấy."

    Daniel bật cười, khuấy đều chất thay thế kem vào tách cà phê duy nhất được uống trong ngày. "Để tăng phần bí ẩn và lãng mạn."

    Cô chu môi chế giễu. "Một dị nhân thì đúng hơn."

    "Con nói đúng. Chứng bệnh trái tính trái nết thường thấy ở bậc kỳ tài, hoặc một cây bút rẻ tiền cũng chưa biết chừng."

    Trong khi Daniel tiếp tục suy tư, Maris quan sát ông và không khỏi giật mình. Từ khi nào cha cô trở nên già nua đến thế? Mái tóc tuy bạc trắng từ lâu nhưng dầy dặn khỏe mạnh, nay đã rụng quá nửa. Sau khi người vợ đầu mất, Daniel tái hôn với mẹ cô, Rosemary, kém ông mười lăm tuổi. Vì vậy, lúc Maris chào đời thì ông đã bước qua tuổi trung niên.

    Rồi mẹ cô mất. Như một người mẹ đơn thân lớn tuổi phải nuôi con thơ, ông cố gắng duy trì sức khỏe bằng cách vận động thể chất thường xuyên, tuân theo chế độ ăn uống nghiêm ngặt và hạn chế những thói quen xấu, bỏ hút thuốc điếu và chuyển sang hút tẩu.

    Nhưng tuổi già không từ một ai, rồi cũng đến lúc mắt mờ chân chậm. Khi phải nhờ đến sự trợ giúp của chiếc gậy để đi đứng vững vàng hơn, ông tự diễu mình 'hom hem’, một từ hơi quá nhưng Maris phải công nhận rằng nó làm giảm đi đáng kể hình ảnh mạnh mẽ xưa nay gắn liền với ông. Những đốm đồi mồi trên tay ông xuất hiện ngày càng nhiều và đậm hơn, còn phản xạ thì chậm hẳn đi.

    Riêng ánh mắt vẫn tinh anh hơn bao giờ hết khi ông ngước lên nhìn cô chăm chú. "Tất cả chuyện này là sao?"

    "Chuyện gì, cha?"

    "Không cho địa chỉ gởi thư hay số điện thoại. Sau đó gọi điện nói rằng phần mở đầu tào lao. Vân vân và vân vân."

    Cô chậm rãi bước đến chậu phong lữ thảo còn sót lại một chiếc lá vàng trên cành mà Maxine không nhìn thấy. Nhiều lần Maris giục bà đi cắt kính nhưng bà một mực khẳng định không cần, vì mắt bà chẳng có gì thay đổi so với ba mươi năm trước. Cô không còn cách nào khác là đồng ý. "Chính xác. Mắt vú lúc nào cũng kém như mắt dơi ấy."

    Cô ngắt bỏ chiếc lá trong khi suy nghĩ câu trả lời. "Anh ta muốn ta phải tìm kiếm và tìm thấy, đúng không ạ?"

    Daniel nở nụ cười tán thưởng. Đã thành một thông lệ giữa hai cha con, không bao giờ ông đưa ra câu trả lời mà chỉ đặt câu hỏi cho đến khi cô có thể tự trả lời, bằng suy luận của chính mình.

    “Anh ta không cần phải gọi điện thoại. Nếu không muốn ta tìm thấy, anh ta sẽ ném số của con vào thùng rác. Nhưng anh ta lại gọi vào một thời điểm mà anh ta chắc chắn nắm thế chủ động."

    "Và làm nhặng xị lên."

    Cô cau mày, quay lại ghế ngồi. "Con không biết nữa. Anh ta tỏ ra rất tức giận. Đặc biệt vì dính líu đến cảnh sát."

    "Ừ, chẳng trách anh ta được. Nhưng anh ta không cưỡng lại được cám dỗ gọi cho con để nghe nhận xét về quyển sách."

    Cô ngồi thẳng người lên. "Nó thực sự hấp dẫn con. Khi đọc hết đoạn mở đầu, con cứ băn khoăn mãi về anh bạn ở trên thuyền. Anh ta là ai? Anh ta gặp chuyện gì? Vì sao hai người bạn đánh nhau? "

    "Đố kỵ." Daniel nhắc.

    “Vì bị khiêu khích, cha có nghĩ như vậy không? Vì sao ghen tị? Ai đố kỵ với ai?"

    "Chỉ có một điều chắc chắn, đó là phần mở đầu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tác giả khiến con phải suy nghĩ và đặt câu hỏi."

    "Anh ta đã làm như vậy, tên khốn."

    "Con định làm gì tiếp theo?"

    "Con sẽ gọi lại nói lý lẽ, nếu điều đó có thể làm anh ta biết điều hơn. Nhưng con không tin mọi việc sẽ dễ dàng."

    "Con còn không có số điện thoại của anh ta mà?"

    "Việc đó không khó nhờ chức năng hiển thị ѕố của người gọi trên điện thoại. Sáng nay con đã kiểm tra, nó trùng với mã vùng mà con gọi cho viên cảnh sát trước đó."

    “Công nghệ ngày nay có thể làm nên những điều kỳ diệu. Khi cha còn trẻ …”

    "Khi cha còn trẻ thì sao ạ?" Cô trêu.

    "Thì con vẫn còn nhỏ." Ông cười xòa

    Cô nắm chặt đôi tay nổi đốm đồi mồi và cảm thấy cần cha biết bao, dù cô có lớn khôn hay trưởng thành như thế nào đi nữa. Một ngày nào đó ông sẽ ra đi, và cô không biết mình sẽ sống như thế nào sau mất mát đó.

    Sinh ra và lớn lên trong ngôi nhà thân yêu này, cô đã từng nghĩ rằng mình không thể sống ở nơi nào khác, ngay cả khi đi học đại học. Phòng ngủ của cô trên tầng ba vẫn giữ nguyên như trước. Daniel ở tầng hai. Ông nhất quyết không dời xuống tầng trệt bất chấp đôi chân đau như dần mỗi khi lên xuống cầu thang.

    Ông là người bạn thân nhất, tận tụy nhất thường xuyên góp mặt trong tuổi thơ sống động và đầy ắp niềm vui của cô. Mỗi buổi sáng Giáng sinh, cô thức dậy khi bình minh còn chưa ló dạng và chạy như bay xuống lầu gọi ông cùng đi xem ông già Noel để lại món quà gì dưới gốc cây. Cô vẫn nhớ như in những ký ức đẹp đẽ khi trượt băng thỏa thích ở Công viên Trung tâm, thưởng thức những món ăn đường phố đem đi như xúc xích hay bánh rán trong khi sục sạo quầy sách cũ, nhâm nhi một tách trà thơm phức ở quảng trường sau khi xem nhạc kịch, bày biện phòng ăn cho bữa tiệc tối tại nhà, chia sẻ các món ăn nhẹ gây nghiện của Maxine trong bếp lúc nửa đêm hay đơn giản là ngồi đọc sách trước lò sưởi, trong phòng làm việc của ông.

    Cái chết của mẹ cô không làm tình cảm giữa hai cha con chia cắt mà càng thêm gắn kết. Vì là con một nên cô được ông hết mực cưng chiều. Rất hiếm khi ông la rầy cô vì việc đó không cần thiết. Cô là đứa con ngoan ngoãn, ít khi nào làm trái ý cha mình.

    Hành động nổi loạn nhất trong đời cô là trốn nhà với bạn đến một hộp đêm mà Daniel đã nói không. Khi về nhà lúc nửa đêm, cô phát hiện cửa sổ bếp nơi cô chui ra đã bị khóa.

    Không còn cách nào khác, cô bấm chuông và chịu đựng những giây phút chờ đợi khổ sở cho đến khi Daniel ra mở cửa. Ông không làm ầm ĩ, không thuyết giáo, chỉ phạt cô một tháng cấm túc trong nhà. Nhưng đối với cô, thái độ thất vọng của ông mới là hình phạt nặng nề nhất. Kể từ đó, cô không bao giờ tái phạm.

    Cô được nuông chiều nhưng không sinh hư. Để có tiền tiêu vặt, cô phải làm việc nhà. Giờ học và điểm số của cô được ông theo dõi sát sao. Cô được khen ngợi vì làm tốt thường xuyên hơn là bị phạt vì hành vi sai trái. Ông làm mọi cách để cuộc sống của cô ngập tràn tình yêu thương và mỗi ngày đều là ngày tuyệt vời.

    "Vậy cha nghĩ con nên tiếp tục theo đuổi Đố kỵ?" Cô hỏi.

    "Chắc chắn rồi. Tác giả đã đưa ra lời thách thức, mặc dù có thể anh ta không cố ý hoặc thậm chí không nhận ra điều đó. Maris Matherly-Reed không bao giờ lùi bước trước thử thách."

    Đó là lời bình luận trong một bài báo viết về cô gần đây. "Câu này nghe quen quá." Cô giả vờ ngây ngô.

    "Đặc biệt con không bao giờ có thể cưỡng lại một quyển sách hay."

    “Con rất phấn khích khi đọc nó.” Mắt cô sáng lên. "Hiện tại, việc của con chỉ xoay quanh những quyển sách đã hoàn thành và trải qua sàng lọc, chỉnh sửa. Không có gì phải phàn nàn. Chỉ đến hôm qua, khi phát hiện ra bản thảo này, con mới nhận thấy mình đã bỏ qua niềm vui lớn nhất của một biên tập viên, người đọc bản thảo đầu tiên và có cơ hội phát hiện ra những quyển sách hay, những tác giả mới tài năng. Nếu cứ tiếp tục công việc hiện tại, con chỉ thấy những sản phẩm đã được xào nấu, trau chuốt, trong khi có rất nhiều bản thảo nguyên sơ chờ khai phá. Con muốn làm việc trực tiếp với tác giả, giúp họ phát triển tuyến nhân vật, chỉ ra điểm yếu trong cốt truyện để cho ra một tác phẩm hoàn hảo."

    "Đó là lý do con theo nghề này." Daniel nhận xét. "Trở thành một biên tập viên. Con đã làm quá tốt, tốt đến mức leo lên vị trí cao nhất, đảm đương những trách nhiệm lớn hơn và phải xa rời công việc ban đầu. Cha nghĩ sẽ rất thú vị nếu con quay lại điểm xuất phát."

    "Con cũng nghĩ vậy, nhưng không thể nói trước điều gì." Cô nheo mắt. "Chưa chắc Đố kỵ đáng để ta quan tâm. Mới có hơn chục trang. Chỉ là trực giác con …”

    "Một khả năng mà cha luôn tin tưởng." Ông cắt ngang.

    “ … mách bảo rằng quyển sách tuyệt vời. Bố cục tốt, hứa hẹn nhiều tình tiết thú vị hơn nữa, đặc biệt mang đậm phong cách miền Nam mà con yêu thích. "

    "Giống như quyển Chinh phục."

    Bầu nhiệt huyết của cô xẹp lép như quả bóng xì hơi. Cô nói nhỏ. "Vâng."

    Sau một thoáng yên lặng, Daniel lên tiếng. "Noah sao rồi?"

    Dù với tư cách là độc giả hay là vợ, cô cực kỳ thất vọng khi thấy Noah thờ ơ với quyển tiểu thuyết đầu tay và duy nhất của anh. Biết thế nên việc đề cập đến nó là một cách tự nhiên để Daniel chuyển sang tìm hiểu tình hình hai vợ chồng.

    "Cha biết quá rõ anh ấy. Hai người nói chuyện với nhau suốt."

    "Ừ, là đồng nghiệp. Cha muốn biết với tư cách là cha của con."

    Cô nhìn lảng sang tòa nhà bên cạnh để tránh ánh mắt sắc sảo của ông. Đứng đây chỉ có thể nhìn thấy những tầng cao vì bức tường dây leo xanh rì bao quanh nhà Daniel che khuất. Một chú mèo mướp đang cọ người vào song sắt cửa sổ tầng hai như muốn đánh dấu lãnh thổ của nó.

    Maxine ló đầu ra hỏi. "Hai người có muốn ăn thêm gì không?"

    Daniel trả lời. "Không, cảm ơn. Chúng tôi đủ rồi."

    "Cần gì thì cứ gọi tôi."

    Bà biến mất vào trong. Maris chậm rãi miết ngón trỏ theo đường viền của tấm lót đĩa bằng vải lanh trước mặt. Khi cô ngẩng đầu lên, cha đã trong tư thế sẵn sàng lắng nghe thường lệ - tay chống lên bàn, ngón cái và ngón trỏ choãi rộng ôm lấy cằm. Không bao giờ ông gặng hỏi hay gây áp lực mà kiên nhẫn chờ đợi đúng thời điểm cô có thể giãi bày.

    "Đêm qua Noah về muộn." Maris bắt đầu. Cô kể cho ông nghe về cuộc tranh cãi nhưng không đi sâu vào chi tiết. "Dù kết thúc trong hòa bình, như bạn đời và bạn đạo, trong lòng con vẫn thấy lấn cấn không yên."

    Daniel hỏi một cách thận trọng. "Có phải con đã phản ứng thái quá không?"

    "Cha nghĩ sao?"

    "Cha không có ở đó để chứng kiến. Nhưng cha đoán Noah đã có lời giải thích hợp lý."

    "Đúng vậy."

    Ông cau mày. "Hay con sợ Noah quay lại thời quý ông độc thân?"

    Biết cha quý Noah, cô chọn lựa từ ngữ diễn đạt sự bất mãn của mình, để khi nói ra sẽ không giống như một người vợ ghen bóng ghen gió, bêu riếu kể lể chồng. Cô không muốn ông lâm vào tình thế khó xử khi vừa là cha vợ, vừa là sếp của Noah.

    Noah được Daniel chiêu mộ vào công ty cách đây ba năm khi đang nổi danh là một giám đốc xuất bản giỏi nhất, nhạy bén nhất giới xuất bản New York. Khi quan hệ của Maris và Noah vượt quá tình đồng nghiệp, Daniel đã cảnh báo cô những rắc rối của tình yêu công sở bằng thái độ thận trọng nhưng dứt khoát. Nhưng cuối cùng ông phải gật đầu đồng ý khi Noah tuyên bố, sau một năm gắn bó với Nhà xuất bản Matherly, sẽ kết hôn với Maris bằng mọi giá, dù có phải nghỉ việc. Cuối cùng anh được chào mừng vào làm rể trong gia đình nồng nhiệt không kém khi được mời về làm phó chủ tịch kiêm giám đốc kinh doanh của công ty.

    Trong hai năm qua, họ luôn thành công trong việc tách bạch cảm xúc, tình huống cá nhân khỏi công việc. Bây giờ mà cô mở miệng thở than sẽ làm mất đi sự cân bằng và làm phức tạp thêm những vấn đề tiềm ẩn, nhất là khi ông lại là cấp trên của Noah.

    Nhưng cô đang cần một người bạn tâm giao đáng tin cậy để trút bỏ những vướng mắc ngổn ngang trong lòng.

    "Không có chuyện gì rõ ràng đâu ạ. Con không nghĩ Noah ngoại tình. Không phải như vậy."

    "Vậy con lo lắng chuyện gì?"

    "Mấy tháng gần đây, con cảm thấy Noah không còn quan tâm con. Cũng có, nhưng chỉ một chút xíu." Cô chữa lại với nụ cười buồn.

    "Tuần trăng mật không thể kéo dài mãi mãi, Maris."

    "Con biết. Chỉ là ..." Cô hạ giọng, thở dài. "Có lẽ con nhạy cảm quá chăng?"

    "Đừng tự trách mình. Không phải lỗi của ai cả. Hôn nhân sớm muộn đều trải qua giai đoạn khủng hoảng, cho dù cặp đôi đã rất thắm thiết trước đó. Cảm giác nhàm chán là không thể tránh khỏi."

    "Con hiểu. Mong là anh ấy chưa chán con. Sắp tới là kỷ niệm hai năm ngày cưới, chắc hẳn đó là một kỷ lục đối với anh ấy."

    “Con biết rõ trước khi đồng ý kết hôn.” Ông nhẹ nhàng nhắc. "Nó nổi tiếng sát gái."

    "Con chấp nhận tất cả. Dường như con đã yêu anh ấy ngay khi đọc quyển Chinh phục."

    "Dù có nhiều cô gái đi qua đời, nó đã yêu con và kết hôn với con."

    Sau một thoáng suy nghĩ, Maris đồng ý. "Cha nói rất đúng. Anh ấy đã lấy con. Có lẽ là do con nghĩ quẩn."

    "Và cha cũng có một phần trách nhiệm."

    "Cha nói gì vậy?"

    "Cha đã phó thác hết công việc cho Noah. Nó vừa phải làm việc của mình, vừa gánh vác thêm phần của cha. Việc cha lui về phía sau khiến nó phải gồng mình cáng đáng mọi việc. Vừa rồi cha có gợi ý tuyển nhân sự."

    "Không đời nào anh ấy lại bỏ bê công việc."

    "Vì vậy mới phải tuyển người gấp để giúp nó giải toả áp lực. Đến lúc đó, hai con nên đi nghỉ vài ngày, Bermuda chẳng hạn. Tắm nắng, uống cocktail trái cây, dành nhiều thời gian trên giường với nhau."

    Cô bật cười vì cách nói bộc trực của ông nhưng ánh mắt bâng khuâng. Vào kỳ nghỉ năm ngoái, ông cũng thuyết phục hai vợ chồng đi Aruba. Họ đi chơi với hy vọng khi về sẽ có tin vui. Dù đã cố gắng hết sức để có thai và vui vẻ tận hưởng sự cố gắng đó, họ không thành công. Maris đã thất vọng biết bao. Có lẽ đó là lúc cô và Noah bắt đầu xa cách nhau mặc dù rạn nứt mới xuất hiện gần đây.

    Cảm thấy đã vấp phải một chủ đề nhạy cảm và không nên bàn sâu hơn nữa, Daniel nói đơn giản. "Hãy dành thời gian nhiều hơn cho nhau, Maris. Tạm gác lại công việc, tránh xa nơi xô bồ này, tìm lại cảm giác ban đầu."

    Mặc dù không nói ra, cô không đồng ý với ông rằng dành nhiều thời gian trên giường sẽ giải quyết và cải thiện được vấn đề của họ. Trận cãi vã sáng nay kết thúc bằng tình dục nhưng không thể nói là thân mật. Khi không còn cách nào khác tốt hơn để giải quyết mâu thuẫn, họ tìm đến tình dục như một lối thoát. Nhưng trong khi cơ thể thực hiện những chuyển động quen thuộc, trái tim lại hững hờ như kẻ bên lề.

    Giờ nghĩ lại cô mới thấy những lời tâng bốc của Noah là để xoa dịu bằng thái độ kẻ cả. Chăn gối là giải pháp tao nhã để kết thúc bất hòa mà cả hai đều không muốn có. Cô muốn ngừng trách móc và anh không muốn giải thích nhiều hơn, vì vậy họ dùng tình dục để thỏa hiệp. Nhưng vấn đề của họ luôn ở đó và không bao giờ được giải quyết triệt để.

    Không muốn để cha lo lắng hơn nữa, cô gật gù tỏ ra ưng thuận cho đến khi nảy ra một ý tưởng khác. "Con đang nghĩ đến việc đi lăng quăng đây đó một mình cho khuây khoả."

    "Cũng được. Về quê à?"

    Mỗi khi cảm thấy bức bối ngột ngạt, cô thường lui về ngôi nhà ở Berkshires, vùng ngoại ô phía tây Massachusetts để nghỉ ngơi hoặc đọc bản thảo. Ở đó, khi sự tập trung không bị gián đoạn liên tục vì cả núi công việc khác, hiệu suất làm việc sẽ cao hơn rất nhiều. Daniel đương nhiên nghĩ rằng cô sẽ đến đó.

    Nhưng cô lắc đầu. "Con sẽ đi Georgia."

    ***

    Noah bình thản nghe Maris thông báo chuyến đi miền nam. “Anh cũng nghĩ em nên đi xa vài ngày. Thay đổi không khí sẽ tốt cho em. Nhưng có gì ở Georgia vậy? Một khu suối khoáng nghỉ dưỡng mới chăng? "

    "Một nhà văn."

    "Lại là công việc. Anh tưởng em cần vài ngày thư giãn."

    "Anh nhớ bản thảo em nói hôm qua không?"

    "Trong mớ bản thảo đồ bỏ đó ư?"

    Cô phớt lờ giọng mỉa mai của anh. "Cuối cùng em cũng tìm được tác giả, mặc dù gặp đôi chút khó khăn."

    "Khó khăn gì?"

    "Chuyện khá dài mà mười phút nữa chúng ta có cuộc họp rồi. Tóm lại, đó không phải là một tác giả bình thường mang trong mình khát vọng được anh xuất bản sách cho anh ta."

    "Anh ta khác biệt ở điểm nào?"

    "Ngoan cố. Thô lỗ. Thiếu định hướng. Anh ta không đánh giá đúng tài năng của mình và cần được khích lệ, hướng dẫn, thậm chí là dỗ ngọt. Em nghĩ gặp mặt trực tiếp sẽ có hiệu quả hơn điện thoại hay gởi thư."

    Noah không nghe cô nói. Sau khi lướt qua danh sách tin nhắn điện thoại do viên thư ký lúc nãy đã cẩn thận đặt trên bàn, anh nhìn đồng hồ đeo tay rồi đứng dậy gom vài tập hồ sơ chuẩn bị cho cuộc họp sắp tới.

    "Xin lỗi em yêu, chúng ta sẽ nói sau vậy. Đến giờ họp rồi. Khi nào em đi? "

    "Ngày mai."

    "Sao sớm vậy?"

    "Em nôn nóng muốn gặp tác giả càng sớm càng tốt để biết mình đúng hay sai"

    Anh đi vòng qua bàn, ghé lên má cô một nụ hôn. "Tối nay ta đi ăn ngoài nhé. Anh sẽ nhờ Cindy đặt chỗ. Em muốn ở đâu?"

    "Em quyết định?"

    "Ừ, em."

    "Mình đặt món Thái về nhà ăn đi, lâu lâu ăn ở nhà để thay đổi không khí."

    "Tuyệt vời. Anh sẽ chuẩn bị rượu."

    Ra gần đến cửa phòng, anh đứng khựng lại. "Chết tiệt! Anh mới nhớ ra tối nay có hẹn."

    Cô không giấu được nỗi thất vọng. "Ai vậy?"

    Anh nói tên một đại diện của vài tác giả có tiếng. "Em đi chung luôn đi. Anh ta rất vui nếu em tham gia. Sau đó, ta đi uống vài ly rồi về ngủ."

    "Em không có thời gian, Noah. Còn vài việc phải làm, rồi chuẩn bị hành lý nữa."

    “Anh đã hoãn hẹn hai lần.” Anh tần ngần. "Nếu thêm lần này nữa, họ sẽ nghĩ rằng ta không muốn gặp."

    "Không được đâu. Mấy giờ anh về?"

    Anh nhăn mặt. "Em biết anh ta nhiều chuyện mà. Chắc phải đến khuya." Anh hạ giọng. "Anh xin lỗi, Maris. Em có muốn anh hủy hẹn không?"

    "Không. Anh ta là một đại lý quan trọng."

    "Nếu biết ngày mai em đi, anh đã …”

    “Xin lỗi, ông Reed.” Viên trợ lý xuất hiện. "Mọi người đang chờ ông bà trong phòng họp."

    "Chúng tôi đến ngay." Anh quay sang Maris. "Làm việc thôi."

    "Lúc nào cũng vậy."

    "Không giận anh chứ?"

    "Lúc nào cũng vậy."

    Anh vòng tay ôm chặt người cô. "Em là người biết điều nhất trong những người vợ. Chẳng trách anh yêu em điên cuồng." Anh hôn cô nồng nàn rồi đẩy cô ra cửa. "Đi thôi, em yêu."

    * * *

    Đứa trẻ "Đố kỵ". 1

    Đại học công lập Eastern

    Tennessee, 1985

    Tất cả thành viên trong hội đều dành những lời có cánh ca ngợi nhóm thiết kế và xây dựng ngôi nhà giống hình viên kim cương biểu tượng của hội.

    Những gì họ gọi là thiên tài không phải do chọn lựa mà đến một cách tình cờ.

    Khi đi mua sắm ngang qua khu vực, vài sinh viên khá giả của lớp 1910 nhìn thấy một bất động sản đang được rao bán với giá rẻ bèo - lô đất góc cách khuôn viên trường chỉ vài khu nhà. Yếu tố hấp dẫn nhất không phải là diện tích hay vị trí mà là giá cả, do đó họ quyết định mua ngay lập tức.

    Lô đất có trước rồi mới đến kiến trúc. Ngôi nhà được xây theo hình dạng lô đất. Sau khi hoàn thành, người ta mới nhận ra nó có hình dạng như viên kim cương biểu tượng, thật ra sự giống nhau là ngẫu nhiên.

    Một thời gian sau, vào năm 1928, sở nhà đất quyết định chuyển con đường cắt ngang trường thành tuyến phố đi bộ. Con đường trước ngôi nhà có hình dạng đặc biệt nghiễm nhiên trở thành đường giao thông chính. Vì lẽ đó, dù không phải thiên tài, vị trí đắc địa của ngôi nhà tại một giao lộ quan trọng khiến danh tiếng của hội nổi như cồn.

    Ngôi nhà ba tầng hướng ra giao lộ chính, hai chái hai bên tạo thành góc 45 độ. Mặt sau được dùng làm bãi đậu xe với số lượng hạn chế không bao giờ đáp ứng được nhu cầu, một trụ bóng rổ không có rổ đứng trơ trọi với nắng mưa, vài thùng rác lúc nào cũng trong tình trạng đầy ứ, hai lò nướng gỉ sét và một hàng rào lưới B40 của Brew, một nhân vật trong phòng thí nghiệm sô cô la của hội.

    Mặt tiền ngôi nhà khang trang hơn. Hai bên lối đi bằng đá là hàng cây hoa lê trắng nở rợp trời như một chiếc cổng hoa tự nhiên trang trí cho buổi lễ hội mùa xuân hàng năm tổ chức ở đây.

    Hình ảnh ngôi nhà có hoa lê trắng nở rộ xuất hiện trên trang bìa tất cả các tài liệu quảng cáo của trường đã làm nảy sinh lòng đố kỵ, ghen ghét từ các nhóm khác. Vì vậy, cứ nghe phong phanh thông tin máy cưa xích đang được chuẩn bị là lệnh bảo vệ 24 trên 24 lập tức được phát động. Nếu hàng hoa lê bị đốn hạ, hội sẽ bị mất mặt trước toàn trường, còn ngôi nhà thì trông trần trụi như bị lột hết quần áo.

    Vào một chiều thứ bảy mùa thu, đằng sau sắc đỏ rực rỡ của lá cây hoa lê, ngôi nhà ẩn mình trong không khí yên ắng lạ thường. Đội bóng của trường đang chơi trên sân khách. Nếu đội chơi trên sân nhà, cửa trước sẽ mở toang để tiếng nhạc sôi động tuôn trào.

    Đây là nơi tụ họp vui vẻ của cả hội và cha mẹ, người yêu và đám bạn thân.

    Giao thông trong ngày diễn ra trận đấu thường tắc nghẽn hàng dặm. Muốn đến sân vận động bắt buộc đi qua ngã tư này. Vào giờ cao điểm, cả hội ngồi tụ tập trước nhà hò hét trước hàng xe và đoàn người diễu hành với tốc độ rùa bò. Họ la ó người hâm mộ đội đối thủ, tán tỉnh người hâm mộ đội nhà. Vài người bùi tai bỏ cả xe để gia nhập trò vui trong nhà. Nhiều mối tình lãng mạn, thậm chí vài cuộc hôn nhân bắt đầu từ đây.

    Khuôn viên trường ngập tràn sắc đỏ, nếu không phải là quần áo các cổ động viên mặc trên người thì là mảnh vải họ vẫy trên đầu. Mọi người hò reo nhảy múa trong tiếng trống kèn cổ động hàng giờ trước khi trận đấu bắt đầu.

    Nhưng hôm nay ngôi nhà nhạt nhòa trong bức màn mưa thê lương ảm đạm. Mọi người nhốt mình trong phòng để ngủ, học bài hoặc giặt giũ, những việc không bao giờ có thời gian để làm nếu ngày tươi sáng.

    Gian sảnh tối lờ mờ ngột ngạt mùi bia trộn lẫn hơi người. Trước chiếc ti vi màn hình lớn được một cựu sinh viên tặng năm ngoái, một nhóm đang nhấp nhổm theo từng diễn biến trận đấu thuộc giải Hiệp hội thể thao đại học Quốc gia mà họ đổ tiền vào cá độ.

    Thỉnh thoảng, tiếng reo hò phấn khích, tiếng xuýt xoa tiếc rẻ vọng lên cầu thang, len lỏi qua dãy phòng tầng hai và tầng ba nhưng không đủ phá vỡ bầu không khí tĩnh lặng ở đây.

    Cho đến khi một tiếng hét chói tai vang lên. "Roark! Đồ khốn kiếp!" Ngay sau đó là tiếng cửa đóng sầm.

    Roark né chiếc khăn ướt đang bay thẳng vào đầu, miệng cười khùng khục. "Phát hiện ra rồi sao?"

    "Thằng nào làm đây?" Todd Grayson vung chiếc ly đựng bàn chải đánh răng lên. Nhưng khi đầu bàn chải ngập trong chất lỏng màu nâu, phải gọi nó là chiếc ống nhổ thì mới đúng.

    Roark nằm ngửa trên chiếc ghế sô pha ba chân kê ngay dưới gác xép treo lơ lửng trên trần nhà bằng những sợi xích ngắn. Bất chấp quy định cấm thay đổi cấu trúc phòng của ban quản lý, họ tự cơi nới thêm chỗ để ngủ, tối đa hóa diện tích sử dụng của căn phòng nhỏ.

    Vài viên gạch xếp chồng lên nhau để làm cái chân thứ tư cho chiếc ghế sô pha, nhưng nó là bộ phận ít chướng tai gai mắt nhất. Vải bọc của "hạt nhân của tế bào", tên Todd đặt cho chiếc ghế được khuân về từ cửa hàng đồ cũ với giá mười đô la, rách toạc và ố màu. Mặc dù vây, chiếc ghế là điểm nhấn không thể thiếu được, tô điểm cho sự tồi tàn chung của căn phòng. Họ quyết định sẽ để nó lại sau khi tốt nghiệp như một tài sản thừa kế cho người cư ngụ tiếp theo.

    Todd, người từng sáng tác một bài thơ về chiếc ghế sô pha, giận đến nỗi mỗi thớ thịt trên người đều rung rinh. "Nói cho tao biết ngay, ai nhổ vào đây?"

    Roark ôm bụng cười sằng sặc. "Mày không muốn biết đâu."

    "Brady hả? Nếu mày nói là Brady, thề có Chúa tao sẽ giết mày ngay lập tức."

    Brady sống ở dưới sảnh. Một gã xuất sắc, một người anh em tốt, kiểu người sẽ đánh xe đến đón bạn ngay lập tức và không cằn nhằn gì cả nếu xe bạn bị hỏng vào một đêm tuyết rơi trắng trời. Brady có tấm lòng vàng, nhưng sạch sẽ không phải là điểm mạnh của hắn.

    "Không phải Brady."

    "Hay Castro? Không phải hắn chứ." Todd rên rỉ. "Thằng khốn đó bệnh ghê lắm!"

    Castro, kẻ tình nghi thứ hai, không phải là người Cuba. Tên gã là Ernie Campello. Họ gọi gã là Castro vì trên đầu, quai hàm và khắp cơ thể gã đầy lông tóc đen và xoăn tít. "Có Chúa mới biết con gì đang bò trên da hắn."

    Roark cười khoái trá rồi chuyển đề tài. "Một em Lisa nào đó vừa gọi."

    Cơn giận của Todd bay đi lập tức. "Lisa Knowles?"

    "Hình như vậy."

    "Khi nào?"

    "Năm phút trước."

    "Cô ấy có nhắn gì không?"

    "Trông tao giống thư ký của mày không?"

    "Mày là một tên khốn nhưng có miệng để hỏi. Cô ấy nói gì?"

    "Cô ấy bảo trym mày bé như cây bút chì. Hay là cây kim nhỉ? Xin lỗi tao không nhớ. Nhưng tao có ghi lại số của cô ấy. Trên bàn mày ấy."

    "Tao gọi cho cô ấy sau."

    "Ai thế? Có ngon không?"

    "Ngon, nhưng cơ bắp mới là sở thích của cô ấy, học chung lớp lịch sử Bắc Mỹ với tao. Chắc cô ấy muốn hỏi bài."

    "Tệ thật."

    Todd ném cho người bạn cùng phòng đang cười toe toét một cái nhìn đe dọa rồi vứt chiếc ly vào thùng rác. Anh đang tắm trong phòng tắm chung dưới sảnh thì Roark lẻn vào, thả bàn chải của anh vào chiếc ly gớm ghiếc.

    “Đừng có nổi nóng.” Roark nói trong khi Todd lục tung ngăn tủ để tìm quần lót. "Trò đùa chết tiệt chỉ đáng một chiếc bàn chải mới."

    "Mày có định nói cho tao biết là ai không?"

    "Không biết thật. Tao thấy nó trên bệ cửa sổ tầng ba."

    "Chết tiệt. Có thể là bất kỳ ai."

    "Ừ."

    "Tao sẽ tính sổ với mày sau.” Todd trợn mắt đe dọa, kéo chiếc áo thun qua đầu. “Nhớ đấy, thằng khốn."

    Roark chỉ cười hì hì.

    "Mày không có gì làm à? Suốt ngày cứ nằm ườn trong phòng." Todd nói.

    "Tao phải nghiền ngẫm hết trong tuần này." Roark giơ ra quyển Gatsby vĩ đại.

    Todd khinh bỉ khịt mũi. "Chưa thấy thằng cha nào si tình hơn. Đi ăn không?"

    "Ừ." Roark đứng lên, xỏ chân vào đôi giày thể thao. Khi đi ra cửa, cả hai đưa tay lên hôn rồi áp vào tờ lịch Người mẫu Playboy của tháng. "Lát nữa gặp, cưng."

    ***

    Một nơi quen thuộc. Họ là khách quen ở đây. Ngay khi họ mở cửa bước vào quán T.R4’s, đích thân ông chủ T.R. rót một bình bia đem ra.

    "Cảm ơn, T.R." Cả hai đồng thanh nói.

    Không cần nhìn vào thực đơn, không cần gọi món. Biết rõ món họ yêu thích, T.R. núng nính di chuyển ra sau quầy chuẩn bị thức ăn. Chi phí được ghi vào sổ nợ chung của hai người, cuối tháng thanh toán một lần.

    T.R. mở quán bia này cách đây 30 năm. Ông ta từng là sinh viên năm nhất của trường nhưng bỏ thi ngay học kỳ đầu tiên, sau đó kết thúc luôn sự nghiệp học hành khi dốc hết học phí kỳ hai để mua cái quán xiêu vẹo này. Mặc dù chưa bao giờ được sửa sang, cái quán tồi tàn vẫn đứng trơ trơ với thời gian. Các kiến trúc sư và kỹ sư xây dựng tương lai nên năng đến đây để nghiên cứu thêm về dầm chịu lực.

    Tất cả đèn trong quán bám một lớp bụi siêu dày của thời gian. Tấm lót sàn nhà chỗ thì mòn nhẵn trơn trượt, chỗ thì cứng như rải đá dăm. Không ai cúi xuống dưới những chiếc bàn để khỏi nhìn thấy những thứ không nên thấy. Trong tình huống khẩn cấp lắm, những tay bợm rượu bụng căng tròn mới vào nhà vệ sinh tìm kiếm sự giải tỏa.

    Không phải là chỗ tốt nhất, nhưng là nơi vui nhất. Tất cả nam sinh viên của trường đều đến T.R4's để thỏa mãn hai nhu cầu cơ bản - bia lạnh và pizza nóng.

    Chỉ cần nửa học kỳ là T.R. có thể nhớ tên tất cả khách hàng, nếu nhỡ quên thì ông ta vẫn nhớ sở thích ăn uống của người đó để phục vụ chính xác. Riêng Todd và Roark không bao giờ thay đổi - vỏ bánh dày, xúc xích, thêm phô mai Ý và ớt bột rắc lên trên.

    Roark cắn miếng bánh thơm lừng nhai ngấu nghiến. "Mày thực sự nghĩ vậy à?"

    "Cái gì?"

    "Gatsby, một kẻ si tình."

    Todd lấy khăn giấy trên bàn lau miệng, hớp một ngụm bia. "Hắn giàu sụ, sống cuộc sống đế vương và có tất cả những gì mọi người ao ước."

    "Ngoại trừ cô gái hắn yêu."

    "Cô ta phù phiếm, ích kỷ, óc bã đậu, tự cho mình là trung tâm của vũ trụ, và luôn từ chối hắn."

    "Daisy đại diện cho những trở ngại mà Gatsby dù có bao nhiêu tiền cũng không thể mua được, là cái không thể với tới."

    "Sự kính trọng ư?" Todd lấy thêm một miếng bánh đưa lên miệng. "Với gia tài của hắn, cần đếch gì phải quan tâm đến việc có được xã hội chấp nhận hay không? Cuối cùng hắn phải trả một cái giá quá đắt vì mãi đuổi theo sự phù phiếm." Anh lắc đầu, thêm vào. "Không đáng."

    "Ừm." Không tán thành cũng không phản đối, Roark nốc cạn ly bia. Họ tiếp tục bàn về Gatsby và những tác phẩm khác của Fitzgerald. Dần dần, họ chuyển sang việc học hành.

    Roark hỏi. “Mày viết tới đâu rồi?"

    Anh hỏi về luận văn tốt nghiệp, một tiểu thuyết tối thiểu bảy mươi ngàn từ, là cánh cửa cuối cùng phải mở để có tấm bằng cử nhân văn chương. Vị thần giữ cửa là giáo sư Hadley.

    Todd cau mày. "Hadley chê tao suốt về tuyến nhân vật."

    "Cụ thể là gì?"

    "Ông ta ví von nhân vật của tao như hình nhân bằng bìa cứng, thiếu tính cách, chiều sâu, vân vân và vân vân."

    "Với ai ông ta chẳng nói thế."

    "Mày cũng vậy à?"

    "Chưa tới lượt tao." Roark trả lời. "Sáng thứ ba tới, tám giờ. Không biết có qua được kiếp nạn này không."

    Lần đầu tiên họ gặp nhau trong lớp Luận, khi là sinh viên năm nhất, học kỳ đầu tiên. Người trợ giảng là một sinh viên đã tốt nghiệp nhưng ngay cả việc dùng chung chủ ngữ cho hai vế khi rút gọn câu cũng không biết. Ngay tuần lễ đầu tiên, anh ta giao cho lớp một bài luận dài năm trang về tác phẩm văn xuôi Lời cầu nguyện của John Donne.

    Bằng giọng nói nghiêm trang và đanh thép như một giáo sư đại học thực thụ, anh ta nói. "Có thể chưa quen với thể loại văn xuôi, nhưng các bạn không thể không biết tác phẩm ‘Những tiếng chuông nguyện hồn’.”

    "Xin lỗi." Todd đưa tay, đứng dậy chỉnh một cách vô tư. "Có phải anh muốn nói tác phẩm ‘Chuông nguyện hồn ai’ không?"

    Roark thích Todd ngay lập tức và sau giờ học chủ động làm quen. Tình bạn của họ bắt đầu từ đó. Một tuần sau, họ thương lượng hoán đổi với bạn cùng phòng do nhà trường sắp xếp để được ở chung với nhau. “May quá.” Roark thở phào. "Hắn gõ cái máy đánh chữ chết tiệt hai mươi bốn giờ mỗi ngày."

    Cả hai đều nhận được điểm số cao nhất lớp cho bài luận đầu tiên. “Hắn không dám cho tao điểm A.” Roark khịt mũi. Trên bài viết của anh là điểm B cộng to tướng.

    "Ít nhất mày có thêm dấu cộng."

    Todd được B.

    "Mày cũng như tao nếu ngày đầu tiên không làm bẽ mặt hắn."

    "Tên khốn. Đến khi tao sáng tác Tiểu thuyết tiêu biểu của nước Mỹ, hắn vẫn ngồi đây chấm điểm cho sinh viên năm nhất."

    “Không có chuyện đó đâu.” Roark nói to, rồi toét miệng cười. "Bởi vì tao sẽ viết Tiểu thuyết tiêu biểu của nước Mỹ."

    Tình bạn giữa hai người dựa trên niềm đam mê chung là văn chương và viết sách, cùng chung môi trường học tập. Nhưng sau vài năm, mối quan hệ khắng khít bắt đầu có dấu hiệu rạn nứt. Khi sự cố được phát hiện thì đã quá muộn, những vết nứt nhỏ đã làm sụp đổ cả công trình.

    Cả hai đều là những sinh viên giỏi toàn diện, luôn đạt điểm cao tất cả các môn, đặc biệt là môn ngữ văn. Ngoài ra, họ còn là những cầu thủ xuất sắc trong đội bóng đá, bóng rổ của trường. Vì vậy, chẳng có gì lạ khi cả hai nổi tiếng nhất trường. Todd được bầu vào Ban chấp hành Hội Sinh viên, còn Roark đứng đầu tổ chức từ thiện chuyên quyên góp nhu yếu phẩm cho người vô gia cư. Các bài xã luận, bình luận của họ hay được đăng tải trên Nguyệt san sinh viên.

    Khi quyển sách đầu tay của Roark được xuất bản, hiệu trưởng trường Báo chí truyền thông đã đến gặp anh. Sau khi khen ngợi tài năng của anh, ông ta gợi ý anh nên chuyển từ văn chương sang viết báo nhưng anh từ chối. Viết truyện là đam mê cả đời của anh.

    Roark không nói cho Todd biết chuyện này. Anh chúc mừng Todd khi hắn giành giải nhất cuộc thi sáng tác tiểu thuyết các trường đại học trên toàn quốc. Truyện của Roark thậm chí không được giải khuyến khích. Anh cố giấu đi cảm giác ghen tị của mình.

    Đời sinh viên trải qua không biết bao nhiêu trận nhậu nhớ đời, bia rượu ngập tràn đến nỗi có thể làm nổi cả một hạm đội, và họ cùng nhau lê lết qua cơn choáng váng rã rời ngày hôm sau. Đôi khi họ chia sẻ một điếu bồ đà, nhưng tuyệt đối không thử ma túy. Họ thoải mái mượn tiền của nhau khi túng thiếu. Lần Roark bị viêm họng và sốt gần 40 độ, Todd là người đưa anh xuống phòng y tế của trường. Khi cha Todd mất, Roark lái xe vượt qua hai tiểu bang đưa bạn về nhà và ở lại đến khi xong tang lễ.

    Những lúc hục hặc với nhau là không tránh khỏi. Một lần Roark mượn xe Todd, loay hoay thế nào mà lùi đúng vào trụ nước cứu hỏa khiến tấm chắn bùn phía sau bị móp. Dù đã định đem xe đi sửa, Todd cứ lải nhải những câu hỏi đến khi Roark nổi đóa lên.

    "Mày ngừng nói về cái xe chết dẫm đó được chưa?".

    "Mày có sửa xe cho tao không?" Todd vặc lại.

    Không khí ngày càng căng thẳng. Ngay hôm sau Roark đem xe đi sửa, còn Todd không bao giờ nhắc lại chuyện đó.

    Sau đó là việc sách của Pat Conroy bị mất.

    Lần đó Roark lái xe đến Nashville, xếp hàng hơn hai tiếng đồng hồ mới gặp được tác giả Conroy và nhận quyển Santini vĩ đại do chính tác giả đề tặng. Anh ngưỡng mộ Conroy hơn bất kỳ tiểu thuyết gia đương đại nào khác và bối rối không nói nên lời khi Conroy chúc anh thành công trong nghiệp viết. Đối với anh, quyển sách là tài sản quý giá nhất.

    Todd hỏi mượn nó. Hắn thề đã để lại trên kệ của Roark ngay khi đọc xong. Nó biến mất dù Roark xới tung mọi ngóc ngách trong phòng tìm kiếm. Quyển sách ở đâu đến nay vẫn còn là một bí ẩn. Cuối cùng họ quyết định cho qua, nhưng Roark không bao giờ cho Todd mượn sách nữa, và Todd cũng không bao giờ hỏi mượn.

    Cả hai đều đẹp trai, mỗi người có một phong cách riêng nên không bao giờ thiếu những bóng hồng vây quanh. Khi không bàn luận về sách, họ nói về gái. Nếu một người dẫn bạn gái lên phòng, người kia tự động lánh mặt sang phòng khác.

    Có lần Todd hỏi Roark khi nhìn thấy một em từ phòng ra về, quần áo xộc xệch. "Nàng nóng bỏng chứ?"

    Roark lắc đầu. "Đêm qua tao say quá."

    "Phải rồi." Todd nở nụ cười ranh mãnh. "Nhưng tắt đèn thì nhà ngói cũng như nhà tranh, đúng không?"

    Đối với họ, phụ nữ là một đề tài bất tận không bao giờ nhàm chán. Càng có nhiều bạn tình thì càng chứng tỏ được bản lĩnh đàn ông. Duy có một lần, Roark gần như bước vào một mối quan hệ nghiêm túc.

    Anh gặp cô ấy trong một lần đi làm từ thiện. Cô ấy là tình nguyện viên có nụ cười tỏa nắng, dáng người khỏe mạnh, cân đối và cũng là một sinh viên thông minh, chăm chỉ mà anh có thể cùng thảo luận mọi chủ đề.

    Khiếu hài hước vô tận khiến cô ấy tìm thấy sự khôi hài trong mọi tình huống. Không chỉ biết cười trước những trò tếu táo của anh, cô ấy còn biết lắng nghe, chia sẻ. Bản piano "Chopsticks" là do cô ấy dạy anh chơi, còn anh thuyết phục cô đọc quyển Chùm nho thịnh nộ của Steinbeck.

    Họ đã trao nhau những nụ hôn ngọt ngào và cuồng nhiệt, nhưng tất cả chỉ có thế. Cô ấy tuân thủ quy tắc đạo đức nghiêm ngặt, quyết giữ trinh tiết cho đến khi tìm được người sống đến đầu bạc răng long. Trước đây cô ấy từng từ chối người yêu thời trung học và bây giờ cũng vậy.

    Roark tôn trọng cô ấy dù cực kỳ thất vọng.

    Một buổi tối, cô ấy gọi cho anh, nói rằng vừa đọc xong quyển sách mà anh giới thiệu và hẹn gặp. Anh đến đón cô đi loanh quanh vài vòng rồi dừng xe.

    Cô nói rất thích quyển sách và cảm ơn anh đã chia sẻ. Sau những nụ hôn say đắm hơn bao giờ hết, cô ấy kéo áo lên và cầm tay anh áp vào ngực. Dù hành động vuốt ve một bộ ngực trần và chứng kiến những phản ứng đáp lại nồng nhiệt của bạn tình không phải là trải nghiệm tình dục thỏa mãn nhất mà anh từng có, nó mang ý nghĩa sâu sắc nhất. Vì anh mà cô ấy nới lỏng quy tắc đã đặt ra, vượt qua giới hạn của bản thân.

    Anh nghĩ mình đang yêu.

    Một tuần sau, anh bị cô ấy đá. Lòng anh tan nát khi nghe cô thông báo nối lại tình xưa với bạn trai thời trung học. Anh cảm thấy tức giận. "Ít nhất anh phải biết tại sao?"

    “Một ngày nào đó anh sẽ trở nên nổi tiếng, Roark. Một người nổi tiếng, em chắc chắn điều đó. Trong khi em chỉ là một cô gái bình thường đến từ một thị trấn nhỏ ở Tennessee. Một cô giáo tiểu học, vài năm sau nữa là một bà mẹ, chủ tịch Hội Phụ huynh học sinh."

    "Chẳng có gì sai cả."

    "Em sẽ không hối tiếc về cuộc sống mà em đã chọn. Nhưng cuộc sống đó không dành cho anh."

    "Tại sao chúng ta phải lên kế hoạch cho cuộc đời mình ngay lúc này?" Anh cố thuyết phục. "Tại sao chúng ta không thể tạm dừng việc đưa ra quyết định, chỉ dành thời gian bên nhau và để mọi việc xảy ra tự nhiên?"

    "Bởi vì nếu tiếp tục gặp anh, em sẽ ngủ với anh."

    "Điều đó khủng khiếp lắm sao?"

    "Không một chút nào. Ngược lại ..." Cô ấy không nói tiếp mà hôn anh thật sâu, đôi môi ngọt ngào quấn lấy anh trong niềm đam mê không thể kiềm chế.

    “Em muốn …” Cô thì thầm trên môi anh. "Rất muốn. Nhưng em đã thề với lòng mình. Vì vậy em không thể gặp anh nữa."

    Với anh điều này cực kỳ phi lý, nhưng thuyết phục cô ấy mấy cũng vô ích. Căn bệnh thất tình kéo dài đến độ Todd cũng cảm thấy mức độ nghiêm trọng của mối tình sớm nở tối tàn và không dám ho he trêu chọc gì.

    Tuy nhiên ngưỡng chịu đựng của hắn có giới hạn. "Chúa ơi, thôi đủ rồi." Theo lý thuyết, cách duy nhất chữa bệnh vì một cô gái là một cô gái khác. Hắn lôi Roark ra khỏi phòng, đi uống say mèm và tìm một em làm tình cả đêm.

    Dù không "khỏi bệnh" nhưng Roark dần dần nguôi ngoai vì không còn cách nào khác. Nghĩ lại, tất cả những gì cô ấy nói đều đúng. Ngoại trừ dự báo anh sẽ trở thành người nổi tiếng, chuyện đó không ai có thể nói trước. Cô ấy vô cùng sâu sắc những việc còn lại.

    Vào cuối học kỳ, cô ấy chuyển về một trường cao đẳng gần nhà, nơi gã bạn trai đang theo học. Roark chúc cô mọi điều tốt lành và nói rằng anh ta là gã con hoang may mắn nhất. Cô đỏ mặt, hứa sẽ đón đọc tiểu thuyết của anh. "Em nhất định mua một tá sách của anh đem phân phát cho bạn bè, để bọn nó biết là em đã từng hẹn hò Roark Slade nổi tiếng."

    Đó gần như là mối quan hệ nghiêm túc duy nhất.

    Mặc dù vậy, phụ nữ luôn chiếm lĩnh suy nghĩ và khêu gợi hứng thú của cả hai. Bằng chứng là ngay lúc này đây, khi những bức xúc về Giáo sư Hadley đang lên cao trào thì lập tức chìm xuồng chỉ vì sự xuất hiện của một cô gái.

    Hai sinh viên bản lĩnh - hoặc trơ tráo – ngồi chễm chệ tiếp thêm năng lượng trong quán T.R4 và nói về thầy Hadley. Roark tìm cách an ủi Todd. "Đó chỉ là ý kiến của cá nhân ông ta."

    Todd, người đang ngồi quay ra cửa, thốt lên. "Theo ý kiến cá nhân tao, em này hấp dẫn đấy."

    Roark liếc hai cô gái vừa bước vào quán. "Em nào?"

    "Áo len xanh. Hộp kẹo Tic Tac." Đó là từ lóng họ dùng để chỉ núm vú cô gái hằn rõ lên áo.

    “Ừ, nóng thật đấy.” Roark đồng ý.

    Todd cười với cô ấy và được đáp lại.

    Roark lên tiếng. "Chào, Christie."

    "Roark, chào." Mỗi từ một âm tiết được cô ấy kéo dài thành ba âm.

    "Khỏe chứ?"

    "Tuyệt. Anh thì sao?"

    "Không thể khỏe hơn."

    Todd cầm ly bia lên, chửi thề. “Đồ khốn. Đáng lẽ tao phải biết. "

    Roark mỉm cười nhấp một ngụm bia.

    Todd tiếp tục liếc mắt về phía cô gái. "Một con hồ ly nhỏ. Tao không nhớ là mày từng đi chơi với nàng."

    "Làm gì có."

    "Bạn thường à?"

    “Đại loại thế."

    "Láo toét." Todd tỏ vẻ không tin. "Mày chơi nàng rồi chứ gì?"

    "Ừ.”

    "Thật không?"

    "Hình như thế. Một lần. Tao nghĩ vậy. Trong một bữa tiệc. Lúc đó tao say quá."

    Hai cô gái được đám con trai nhiệt tình hướng dẫn cách xếp bóng bi-a lỗ chuẩn bị đi những đường cơ đầu tiên. Christie cúi sát người trên bàn bi-a, phô diễn những đường cong nóng bỏng khiến Todd phải rên lên. "Ôi chết tiệt."

    "Đừng nhiểu nước miếng thế chứ." Roark giật tay hắn. "Mất mặt quá."

    Anh đến bàn bi-a. Đám đông nhìn anh bằng ánh mắt phẫn nộ khi anh nắm khuỷu tay Christie dẫn về bàn. “Christie, giới thiệu em với Todd, bạn cùng phòng của anh. Todd, đây là Christie."

    Roark chỉ chỗ bên cạnh để cô ngồi đối diện với Todd. "Chào, Christie." Todd nói.

    "Chào."

    "Em uống bia chứ?"

    "Cho em một ly."

    Todd ra hiệu cho T.R. đem ra một bình bia và một chiếc ly nữa. "Pizza nhé?"

    "Không, cám ơn."

    Roark đợi cô uống hết ly bia rồi chỉ vào Todd. "Hắn hơi khó ưa một chút nhưng anh phải đi bây giờ. Anh để em ở đây với Todd được không? Hắn vô hại."

    Cái bĩu môi của cô có thể bán được một triệu tuýp son môi L'Oréal – cho đàn ông. "Hôm nay là tối thứ bảy, Roark." Cô ấy buông lời trách móc." Anh đi đâu?"

    "Gatsby, Daisy và cả nhóm đang chờ anh quay lại." Anh hất đầu sang Todd. "Gọi anh ngay nếu hắn vượt quá giới hạn. Anh xử hắn cho em."

    Cô đong đưa ánh mắt long lanh với Todd. "Không cần đâu. Tự em có thể xử anh ấy."

    “Cá là em làm được.” Todd nhướng mày. "Bất cứ khi nào, cưng."

    Roark ra về, để lại tiếng cười khúc khích sau lưng. Vài tiếng đồng hồ sau, anh mới về phòng. Sau vài phút đứng ngoài cửa nghe ngóng, anh thận trọng gõ cửa.

    "Ai đó?"

    "Tao vào được không?"

    "Vào đi."

    Todd nằm ngửa trên gác xép, một chân gác lên đầu gối chân kia. Hắn dường như bị vắt kiệt sức, chỉ thều thào được vài câu rời rạc. "Cảm ơn vì đã biến đi. Mày đi đâu?"

    "Thư viện."

    "Gatsby tới đâu rồi?"

    "Hắn không si tình bằng mày. Christie về lúc nào? "

    "Khoảng mười phút trước. Mày canh giờ đúng lắm."

    "Rất vui được giúp đỡ."

    "Biết sao không, nàng hỏi họ có phải là bạn của mày không."

    "Ai?"

    "Tao cũng hỏi lại như thế. Nàng trả lời :`Những người đang đợi anh ấy.’"

    "Mày đùa chắc."

    "Không hề. Nàng không biết Gatsby. Nhưng mà tao đếch quan tâm. Nàng làm tình như thể là người khai sáng."

    Roark đi đến mở cửa sổ. "Mùi tình dục kinh quá."

    "Suýt nữa quên. Vị giáo sư yêu quý của chúng ta gọi điện và để lại tin nhắn cho mày."

    "Hadley hả?"

    "Ông ta nói tám giờ bận nên hẹn lại chín giờ sáng thứ ba."

    "Tốt. Tao khỏi phải dậy sớm."

    Todd ngáp dài, quay mặt vào tường. "Cảm ơn một lần nữa vì Christie. Nàng rất khác biệt. Chúc ngủ ngon."
     
    Chỉnh sửa cuối: 5/7/22
  11. iusach

    iusach Lớp 7

    Chương 5

    Sau khi cuộc họp kết thúc, Maris đi về nhà một mình.

    Khi dừng lại lấy thư trong tủ thư công cộng, trong một khoảnh khắc cô đã bị thôi thúc bởi ý nghĩ phải hỏi bác bảo vệ xem đêm qua Noah về lúc mấy giờ, nhưng cô không biết nói thế nào để họ không bị bẽ mặt, đặc biệt là chính cô.

    Cô đặt món Thái giao đến nhà. Trong khi ăn, cô tranh thủ xem lại bản thảo chỉnh sửa của một nữ tác giả, ký tên và ghi chú vài dòng để chuyển tiếp sang bộ phận sửa lỗi chính tả.

    Dù thư ký của cô đã hủy hết lịch làm việc đến cuối tuần, cô cẩn thận kiểm tra lại lần cuối để chắc chắn không một cuộc hẹn nào bị bỏ sót. Dường như cô đã quá lạc quan khi đình lại toàn bộ công việc và sắp xếp chuyến viếng thăm đến Georgia mà không gọi báo trước cho tác giả.

    Trong trường hợp này, tốt hơn hết là tiền trảm hậu tấu. Với anh ta, cô cần quyết đoán, chủ động và quyết liệt tiếp cận. Những nguyên tắc xã giao thông thường sẽ không đem lại kết quả. Việc lên kế hoạch cho chuyến đi trước khi thông báo cho anh ta sẽ giúp cô giữ vững quyết tâm đến gặp anh ta, bất chấp có được đồng ý hay không.

    Dù cô có trì hoãn đến mấy thì cũng đến lúc phải làm cái việc khó chịu nhất là gọi cho anh ta. Điện thoại đổ chuông bốn lần trước khi có người nhấc máy.

    "A lô?"

    "Tôi là Maris Matherly-Reed."

    "Giê su!"

    "Không, Maris Matherly-Reed."

    Đầu dây là một sự im lặng chán chường, nhưng như thế còn hơn những câu hỏi khó chịu kiểu như Cô-muốn-gì. Tuy vậy cô không tránh khỏi cảm giác bồn chồn.

    "Tôi cho rằng ..." Sau vài giây ấp úng, cô nhận ra sai lầm của mình và nói nhanh. "Tôi sẽ đến đảo St. Anne gặp anh.".

    "Cô nói gì?"

    "Tôi đang nói tiếng Anh, đúng không? Anh không hiểu chỗ nào?"

    Đầu dây im lặng, sau đó là những âm thanh khùng khục như tiếng cười cố nén. "Được lắm. Tối nay cô may mắn đấy."

    "Tôi phải cố thích nghi."

    "Vậy là cô sẽ đến St. Anne."

    "Phải."

    "Đừng trách tôi không báo trước, nó không như cô tưởng tượng đâu. Những người như cô …”

    "Những người như tôi thì sao?"

    “ … thường tìm đến những hòn đảo tiện nghi sang trọng để nghỉ dưỡng. Hilton Head. St. Simons. Hay Amelia.”

    "Tôi không đi nghỉ dưỡng."

    "Không?"

    "Tôi đến gặp anh."

    "Chúng ta đã nói xong."

    "Nhưng chưa gặp trực tiếp."

    "Có gì để nói chứ? Hệ thực vật và động vật trên biển đảo Georgia ư?"

    "Sách của anh."

    "Tôi đã nói sách của tôi không phải để bán."

    "Sách nào vậy? Hôm qua anh nói mới có mười mấy trang mở đầu." Khi thấy anh ta cứng họng im như thóc, cô bồi thêm một câu chắc nịch. "Tối mai tôi sẽ đến."

    "Tiền của cô, tùy cô thôi."

    "Anh có thể giới thiệu cho tôi một …” Cô chưa nói hết câu thì nghe tiếng tút tút. Anh ta đã dập máy.

    Cô bướng bỉnh quay số lại.

    "A lô?"

    "Anh có thể giới thiệu cho tôi một khách sạn ở Savannah không?"

    Lại là tiếng dập máy tàn nhẫn, nhưng lần này nó chỉ làm Maris bật cười. Cha cô nói đúng, anh ta thuộc tuýp người thích làm ầm ĩ mọi chuyện. Duy có một điều mà P.M.E. không biết, càng bị ngăn cản thì cô càng quyết tâm hơn.

    Khi cô vừa lấy va li ra định xếp đồ đạc, điện thoại lại reo lên. Cô đoán anh ta gọi lại sau khi nghĩ ra những lý do để thoái thác cuộc gặp ngày mai. Trong tâm thế chuẩn bị đối phó, cô cất giọng vui vẻ. "Chào!"

    Trước sự ngạc nhiên của cô, một giọng đàn ông Brooklyn đặc sệt cất lên xin gặp Noah. "Rất tiếc, anh ấy không có nhà."

    "Vậy chiếc chìa khóa này tính sao đây?" Anh ta làu bàu.

    "Chìa khóa nào?"

    "Bình thường chúng tôi không gọi đến nhà khách hàng sau giờ làm việc, chỉ vì ông Reed trả thêm hai mươi đô la để làm xong tối nay. Cô có phải là vợ ông ấy không? "

    "Có đúng người anh muốn gặp là Noah Reed không?"

    "Tôi nghe nói ông ấy làm sách."

    "Đúng, là chồng tôi."

    "Ở Chelsea … “

    "Địa chỉ nào?"

    Anh ta đọc một số nhà ở West, đường số 22. "Căn hộ 3B. Sau khi chuyển đồ đạc vào hôm qua, tôi đã thay ổ khóa mới nhưng còn thiếu chìa khóa phụ nên ông ấy yêu cầu giao trong hôm nay. Khi tôi đến đây thì quản lý tòa nhà đã đi ăn tối, gởi hàng xóm thì sợ không an toàn. Ai biết họ có đáng tin không. Tôi nói có đúng không cô? "

    "Đồ đạc gì?"

    "Cô nói sao?"

    "Đồ đạc gì chuyển vào căn hộ."

    "Đồ nội thất, những vật dụng cực kỳ sang trọng và đẳng cấp mà những người thừa tiền lắm của thích trưng đầy nhà. Rồi còn thảm và tranh ảnh vớ vẩn. Chả bao giờ tôi để mắt đến những thứ đó. Quên đi. Bây giờ tôi chỉ ước được về nhà, nằm dài trên ghế và theo dõi trận đấu của đội Mets. Chỉ vì ông Reed trả thêm hai mươi …”

    "Đô la. Lúc nãy anh đã có nói. Tôi sẽ đưa anh thêm hai mươi đô la nữa nếu anh ở đó đợi tôi. Mười lăm phút nữa tôi có mặt."

    Maris lao ra đường, đi như chạy qua hai tòa nhà đến ga tàu điện ngầm ở đường 72 và Broadway. Nếu đi bằng taxi sẽ mất nhiều thời gian hơn để đến trung tâm thành phố. Cô không thể chờ thêm một giây nào nữa để nhìn thấy căn hộ chưa từng nghe nói đến của Noah. Chiếc chìa khóa đánh thêm dành cho ai?

    Cô dừng lại trước địa chỉ cần tìm. Giàn cây leo thường xuân phủ kín những bức tường tạo ra nét cổ điển lãng mạn cho ngoại thất tòa nhà. Hai bên tám bậc cầu thang dẫn lên sảnh được trang trí bằng những bồn hoa nhỏ rực rỡ. Xung quanh là những tòa nhà với vẻ ngoài quyến rũ không kém cho thấy một diện mạo khác của New York tử tế hơn, dịu dàng hơn.

    Cửa ra vào không khóa.

    Người thợ khóa đang đứng ở sảnh đợi Maris.

    Anh ta mặc một bộ áo liền quần bằng vải kaki mà không hiểu bằng cách nào khóa phéc-mơ-tuya có thể kéo lên được khi vòng bụng của anh ta to hơn vòng ngực đến 60 xăng ti mét. "Ai mở cửa cho anh vào?" Cô hỏi sau lời chào.

    "Chả có ổ khóa nào ngăn được tôi." Anh ta khịt mũi. "Tôi nói vui thôi, cửa không khóa. Bên ngoài nóng đến chảy mỡ."

    Luồng khí mát lạnh thổi ra từ máy điều hòa làm Maris dịu đi cảm giác nóng bức sau khi chen chúc trên tàu điện ngầm đến đây. Hoặc do cô đang căng thẳng đến vã mồ hôi trước giây phút bước vào căn hộ bí mật của Noah.

    "Cô đến đưa tiền cho tôi phải không?"

    Cô ngớ ra một lúc mới nhớ ra hai mươi đô la đã hứa. Sau khi đưa tiền, cô yêu cầu anh ta đưa chìa khóa.

    "Tôi phải thử nó đã." Anh ta từ chối. "Đánh một chiếc chìa khóa không dễ như mọi người nghĩ. Nguyên tắc của tôi là không bao giờ giao hàng mà không kiểm tra."

    "Được rồi."

    "Không có thang máy đâu. Chúng ta phải đi bộ."

    Cô ra hiệu cho anh ta đi trước. "Sao anh không tự mình lên kiểm tra chìa khóa rồi để nó lại trong căn hộ? Khi anh đóng cửa, chốt khóa cũng tự động khóa."

    "Không phải cửa tự động. Và tôi chả bao giờ làm vậy." Anh ta nói khi đi vòng qua chiếu nghỉ cầu thang tầng hai. "Lỡ có mất mát, tôi sẽ là người đầu tiên bị nghi ngờ."

    "Làm gì có."

    "Tôi không vào nhà vắng chủ. Quên đi."

    Đến tầng ba, anh ta vừa thở hổn hển vừa rút chìa khóa trong túi áo tra vào ổ.

    “Hoàn hảo.” Anh ta mở rộng cửa và đứng sang một bên để Maris vào. "Công tắc đèn phía bên phải."

    Cô mò mẫm bật đèn lên.

    "Ngạc nhiên chưa!"

    Tiếng la hét chào đón của không dưới năm mươi người đứng lố nhố trước mặt khiến cô há hốc miệng vì ngạc nhiên. Cô đưa tay lên ngực như muốn giữ trái tim đang đập thình thịch của mình chậm lại. Mọi người bật cười trước vẻ sững sờ của cô.

    Noah rạng rỡ tách khỏi đám đông, bước đến ôm hôn cô nồng nhiệt.

    "Mừng ngày kỷ niệm của chúng ta, em yêu."

    "Nhưng ngày kỉ niệm là ngày …”

    "Anh biết ngày nào. Những lần trước đều không giấu được em. Năm nay anh muốn làm cái gì đó thật khác biệt để em không thể đoán ra. Vẻ mặt của em cho thấy anh đã thành công." Anh quay sang người thợ khóa. "Anh khá lắm."

    Hóa ra anh ta là một diễn viên trong vở kịch. "Anh làm tôi tưởng sắp bắt được chồng tôi tại trận." Maris nói.

    “Chúc mừng ngày kỷ niệm, cô Reed.” Anh ta cất lên chất giọng thanh lịch của tầng lớp quý tộc, không quên nói thêm rằng vai diễn lớn nhất của anh ta là Falstaff của Shakespeare. Sau đó anh ta nâng tay cô lên hôn. "Chúc một buổi tối vui vẻ!"

    "Đừng đi vội. Ở lại dùng bữa với chúng tôi đã." Anh ta vui vẻ nhận lời và bắt đầu dạo quanh bàn tiệc tự chọn.

    "Anh không phản đối chứ?" Maris hỏi Noah.

    "Miễn là em thích, em yêu."

    "Căn hộ này là của ai?"

    "Anh ta đã nói thật. Của anh."

    "Đúng vậy không?"

    "Em nghĩ là của ai?"

    "Em đã …”

    "Ta đi nâng ly trước đã."

    "Nhưng Noah …”

    "Em sẽ có câu trả lời sau. Anh hứa."

    Sau khi rót cho cô một ly sâm panh đầy, anh dẫn cô lướt qua đám đông. Cô gật đầu chào một biên tập viên của công ty, cô gái thú nhận suýt nữa hỏi cô sẽ mặc gì tối nay. "May quá. Noah sẽ giết em mất nếu em làm hỏng việc."

    “Và khiến chị lâm vào tình huống dở khóc dở cười này đây.” Maris trách móc nhưng môi lại nở nụ cười. "Một nhân vật chính của bữa tiệc quần áo nhăn nhúm, mặt không trang điểm."

    "Em chỉ ước được như chị trong một ngày xấu xí nhất." Cô gái hóm hỉnh đáp lại.

    Maris tiếp tục chào hỏi xã giao với một tác giả mà cô đang làm việc cùng, một bác sĩ gây mê đi cùng chồng là giảng viên môn hóa Đại học New York, một nhà môi giới chứng khoán, một nhà sản xuất phim từng chuyển thể sách của cô biên tập thành phim.

    Đám đông dạt hẳn ra hai bên và cô nhìn thấy Daniel. Ông ngồi trên ghế, một tay đặt trên đầu chiếc gậy bằng bạc chạm khắc hoa văn tinh xảo, tay kia cầm một ly sâm panh.

    "Cha!"

    "Chúc mừng ngày kỷ niệm dù sớm vài tuần, con yêu."

    "Con không thể tin rằng cha về phe anh ấy!" Cô cúi xuống hôn lên đôi má ửng hồng vì rượu sâm panh của ông. “Sáng nay cha đã không hé nửa lời."

    "Một việc khó hơn cha tưởng, nhất là với chủ đề chúng ta đã bàn luận." Ông nhìn cô đầy ẩn ý.

    Cô đỏ mặt khi nghĩ lại những tâm sự sáng nay. "Chẳng trách dạo này Noah cư xử rất lạ lùng. Giờ con thấy mình thật ngốc."

    “Đừng nói thế.” Daniel nói rất nghiêm túc. "Chỉ có kẻ ngốc mới phớt lờ những dấu hiệu cảnh báo."

    Cô lại hôn lên má ông trước khi bị kéo đi chỗ khác. Ngoài việc tạo ra một bất ngờ đầy lãng mạn, Noah còn làm vừa lòng cô khi đặt tiệc với một trong những nhà hàng cô yêu thích nhất. Rượu chảy như suối, nhạc tấu du dương níu chân khách mời mặc dù hôm nay không phải ngày cuối tuần. Khi bữa tiệc kết thúc thì đã quá nửa đêm.

    Daniel là người cuối cùng ở lại. “Tuổi già cũng có cái lợi của nó.” Ông nói với Maris và Noah lúc chia tay ở cửa. "Không nhiều, nhưng vẫn có. Một trong số đó là ta có thể say xỉn bất cứ buổi tối nào trong tuần rồi thức dậy trễ sáng hôm sau, bởi vì chẳng có ai chờ đợi ta cả."

    Maris ôm ông thật chặt. "Con yêu cha. Và mỗi ngày con lại học được một điều mới từ cha."

    "Ví dụ là gì?"

    "Cha là thánh kín miệng."

    "Ăn nói cẩn thận kẻo Maxine sẽ phạt con đấy."

    "Không phải lần đầu tiên." Cô cười. Sau khi ôm ông lần nữa, cô hỏi ông có thể đi xuống cầu thang được không.

    "Cha đã đi lên đây, đúng không?" Ông gầm gừ.

    "Cha đừng giận, con hỏi vậy thôi." Mặc dù vậy, cô ra hiệu cho Noah đi cùng với ông. "Xe đang đợi đưa cha về phải không?"

    "Xe đậu ngay bên đường." Noah nói. "Anh gọi kiểm tra rồi."

    "Tốt. Con có đem điện thoại di động đi Georgia. Con đã nói Maxine gọi …”

    "Bà ấy sẽ gọi. Đưa cha xuống nhanh, Noah, trước khi Maris bắt cha mặc tã vào."

    Đi vài bước, Noah quay lại nói với cô. "Đợi anh, em yêu. Anh vẫn chưa tặng quà cho em."

    "Vẫn còn ư?"

    "Chờ anh. Và đừng có tò mò!"

    Khi còn lại một mình, cô mới có dịp nhìn kỹ căn hộ khắp một lượt. Cửa sổ kính cao từ sàn đến trần phía ngoài phòng khách nhìn ra khu vườn trên sân thượng tòa nhà bên cạnh. Đồ đạc hiện đại nhưng không quá cao cấp như "người thợ khóa" mô tả. Trên tường treo khá nhiều tranh, một tấm thảm lớn trải sàn dưới ghế sô pha và ghế phụ tạo điểm nhấn thu hút cho căn phòng.

    Phòng bếp khá nhỏ và hẹp ngay cả theo tiêu chuẩn căn hộ ở New York. Đi hết phòng khách là đến một cánh cửa đóng kín mà cô đoán là phòng ngủ. Cô vừa định tới đó thì một vòng tay giữ chặt trên eo cô.

    “Anh đã bảo em đừng tò mò rồi mà.” Noah ghé sát vào tai cô thì thầm.

    "Em không biết tại sao em phải tò mò. Khi nào anh mới nói cho em biết tại sao anh thuê căn hộ này?"

    "Vào thời điểm thích hợp. Hãy kiên nhẫn."

    "Quà của em bên trong phòng số một đúng không?"

    "Chúng ta vào đó xem." Anh dẫn cô đến trước cửa. "Mở ra đi."

    Căn phòng nhỏ trông rộng hơn thực tế nhờ ô cửa sổ lớn. Đồ đạc gồm một bàn làm việc, một chiếc ghế xoay bọc da và kệ sách còn nhiều chỗ trống. Ngoài ra còn có điện thoại, máy vi tính, máy in và máy fax. Một tập giấy ghi chú màu vàng nằm trên bàn, bên cạnh là chiếc hộp kim loại chứa đầy bút chì đã được chuốt nhọn đầu.

    Sau khi nhìn hết một lượt, Maris quay sang Noah chờ đợi.

    Anh đặt tay lên vai cô rồi nhẹ nhàng xoa bóp. "Có phải em thắc mắc vì dạo này anh hay về muộn, lâu lâu lại mất tăm mất tích không có ở nhà cũng như công ty?"

    "Em thừa nhận."

    "Xin lỗi vì đã làm em lo lắng. Anh muốn căn hộ phải thật hoàn hảo rồi mới chỉ cho em thấy. Mất mấy tuần mới xong, nói đúng hơn là mấy tháng tính từ lúc anh bắt đầu lùng sục một nơi phù hợp."

    "Một nơi phù hợp để làm gì?"

    "Chắc chắn không phải để hú hí với nhân tình như em đã nghĩ."

    Cô cụp mắt xuống. "Một lần nữa, em thừa nhận điều đó."

    "Với Nadia?"

    "Cô ta đứng đầu danh sách tình nghi."

    "Maris." Anh thốt lên đầy vẻ trách móc.

    Cô hất đầu lùa hết tóc ra sau lưng, thở phào nhẹ nhõm như vừa cất đi một gánh nặng. "Chúa ơi, em mừng vì không phải vậy."

    "Thấy thoải mái hơn chưa?"

    "Vô cùng. Nhưng nếu không phải là tổ ấm tình yêu, anh thuê để làm gì?"

    Anh hạ giọng nói nhỏ. "Viết sách."

    "Viết sách?" Cô lặp lại, hơi thở dường như bị rút cạn trong giây lát.

    "Đó là món quà cho em. Anh sẽ viết lại."

    Cô sững sờ một lúc rồi ôm chầm lấy anh. "Noah! Anh thật tuyệt vời. Khi nào? Điều gì đã khiến anh ... Anh luôn khó chịu mỗi khi em nhắc đến việc đó. Ôi, em mừng quá!"

    Cô trút cơn mưa hôn lên khắp mặt anh. Anh cười, đắm mình trong cảm xúc nồng nhiệt của cô. Cuối cùng anh đẩy cô ra và đặt hai tay trên vai cô.

    "Không nên trông đợi quá nhiều. Rất có thể anh sẽ thất bại thảm hại."

    "Không đâu." Cô lắc đầu cương quyết. "Em chưa từng nghĩ rằng anh sẽ không thể vượt qua cái bóng của chính mình và chỉ có duy nhất một quyển sách thành công trong sự nghiệp. Tác giả của Chinh phục là …”

    "Nó được viết cách đây nhiều năm rồi, Maris. Lúc đó anh trẻ, đam mê và sục sôi tham vọng trở thành người nổi tiếng."

    "Và tài năng." Cô nhấn mạnh. "Tài năng không thể bị thui chột sau một quyển sách, Noah. Nó không thể biến mất mà ngày càng chín muồi theo tuổi tác và vốn sống."

    "Để xem sao." Anh nhìn màn hình máy tính, giọng không mấy tin tưởng. "Dù sao anh cũng thử."

    "Không phải anh viết vì bị em thúc ép đấy chứ?"

    "Không chỉ vì em. Viết lách là công việc khó khăn, gần như là khổ dâm. Nếu không tự nguyện mà bị bắt buộc thì cầm chắc thất bại, ngay cả trước khi bắt đầu." Ngón tay anh nhẹ nhàng miết theo đường quai hàm thanh tú của cô. "Đây là việc anh muốn làm. Và nếu nó làm em vui, đó là một phần thưởng đi kèm."

    "Em rất vui. Không thể vui hơn thế nữa." Cô ôm chặt lấy anh và lại hôn anh với ngọn lửa cuồng nhiệt tưởng đã tan biến suốt một thời gian dài.

    Trong khi môi họ dính chặt vào nhau, Noah bắt đầu cởi áo khoác. Tim cô đập nhanh. Đây là một nơi hoàn toàn xa lạ. Cảm giác có một chút bất an nếu làm tình ở đây. Trên ghế sô pha, trên thảm, hay trên bàn làm việc nhỉ?

    Tại sao lại không chứ? Họ đều đã trưởng thành.

    Cô bắt đầu trượt tay trên ngực anh tìm nút thắt cà vạt, nhưng anh gạt tay cô sang một bên, ngồi xuống ghế và khởi động máy tính.

    "Anh muốn viết ngay."

    "Bây giờ ư?"

    Anh khẽ lắc lư người trên chiếc ghế xoay. "Em đừng giận. Phải rất lâu mới sắp đặt xong nơi để sản sinh ra ý tưởng này, vậy mà anh chưa rảnh một giây để thử. Lúc chiều vừa xong đồ đạc thì nhà hàng đến. Anh muốn cài phần mềm rồi làm việc một chút. Có vài ý tưởng mới, sợ không ghi ra thì quên mất. Anh làm việc một lúc được không? "

    Cô đành gượng cười. "Được chứ. Tất nhiên."

    Không có một kết cục lãng mạn cho buổi tối và điều đó đáng thất vọng làm sao. Nhưng công bằng mà nói, cô không thể phàn nàn. Đây là những gì cô muốn, là việc cô đã khuyến khích anh làm trong suốt những năm qua.

    "Anh làm việc đi. Em về nhà đây"

    "Không, em cứ ở đây với anh."

    Cô lắc đầu. "Em không muốn làm anh mất tập trung. Hơn nữa, em phải chuẩn bị hành lý để ngày mai lên đường."

    Anh nắm tay cô đưa lên môi hôn. "Em tự gọi taxi được không?"

    "Đừng lo." Cô cúi xuống thì thầm. "Cảm ơn anh yêu vì bữa tiệc bất ngờ, đặc biệt là vì điều này. Em muốn đọc quyển tiểu thuyết tiếp theo của anh ngay lập tức. Anh biết em yêu quyển đầu tiên thế nào rồi đấy."

    Họ lại hôn nhau. Tay anh trượt theo đường cong trên mông xuống đùi cô. Khi bị cô đẩy ra, anh vẫn tiếp tục vuốt ve. "Nghĩ lại thì, có lẽ anh sẽ hoãn việc viết lách đến ngày mai."

    Cô chỉ tay vào bàn phím. "Anh đừng hòng!"

    ***

    Mười lăm phút sau, Noah ung dung đi sang một căn hộ khác cách văn phòng sáng tác mà anh sẽ không bao giờ sử dụng đúng bảy mươi bảy bước chân. Anh vứt chìa khóa lên chiếc bàn chân quỳ nhỏ kê sát tường, đi thẳng vào phòng khách.

    "Em phải bắt đầu mà không có anh." Nadia nói.

    "Anh biết."

    Cô ta đang nằm trên ghế sofa, một chân buông thõng xuống sàn, hai vạt áo choàng mở rộng để lộ cơ thể trần trụi. Mắt cô ta nhắm hờ, tay nhịp nhàng di chuyển giữa hai đùi.

    "Em sắp xong. Nếu nhanh, anh vẫn còn cơ hội."

    Anh cúi xuống sờ vào núm vú căng cứng của cô ta. Chừng đó là đủ để cô ta lên đỉnh. Anh tiếp tục xoa bóp một cách thành thạo cho đến khi cơ thể cô ta cong oằn rồi run bắn.

    "Nhìn em dâm lắm, Nadia."

    "Em biết." Cô ta đưa hai tay lên quá đầu và vươn vai. "Ngon không?"

    Anh bắt đầu cởi quần áo ra. "Bữa tiệc bất ngờ là cú đột phá thiên tài. Bây giờ Maris hoàn toàn không nghi ngờ gì nữa. "

    "Kể em nghe xem."

    "Cô ấy thừa nhận nghi ngờ anh ngoại tình".

    "Và ai là kẻ bị tình nghi?"

    Ánh mắt của anh khiến cô ta rên gừ gừ với vẻ thỏa mãn độc địa.

    Anh thả rơi áo sơ mi. "Cô ấy mừng như bắt được vàng khi nghe anh nói sẽ viết lại. Từ giờ trở đi, khi vợ anh đã tận mắt nhìn thấy nơi ẩn cư để sáng tác kia, anh sẽ có cớ vắng nhà bất cứ lúc nào."

    "Để làm những trò này?"

    "Chắc chắn rồi. Cùng với công việc làm ăn khác của chúng ta."

    "Maris mới là một nửa vấn đề. Daniel thì sao?"

    "Ông ta già khú đế, Nadia.”

    "Ông ta sẽ không bao giờ bán Matherly. Có biết bao nhiêu lời đề nghị mà ông ta vẫn không bán."

    Noah bình thản kéo thắt lưng ra đập nhẹ vào đùi cô ta. "Đừng lo, em yêu. Matherly sẽ bị bán trước khi một trong hai người họ hiểu chuyện gì đang xảy ra. Maris đang rối tung lên vì một tác giả mới toanh mới phát hiện. Cô ấy sẽ không để ý đến bất cứ việc gì khác. Còn Daniel gần như nghỉ hưu và giao toàn bộ công việc ở công ty cho anh. Khi họ đọc thông tin công ty đang hoàn tất quá trình mua bán trên tuần báo Người xuất bản thì lúc đó đã quá muộn để có thể ngăn chặn. Anh sẽ ngồi vào chiếc ghế của Daniel, bổ sung mười ngàn cổ phiếu WorldView vào danh mục đầu tư và một khoản tiền đáng kể trong tài khoản ngân hàng."

    "Còn nhà Matherly còn lại hai cha con với nhau."

    Anh bước khỏi đống quần tây và quần lót vương vãi trên sàn. "Chắc vậy. Anh không quan tâm."

    Nadia mở to mắt trước vật đàn ông nhô ra hùng dũng. “Maris gây ra nông nỗi này sao? Nhắc em cảm ơn cô ấy. "

    "Không cần cảm ơn cô ấy."

    "Tối nay anh chưa xơ múi được gì đúng không?"

    "Sáng nay rồi."

    "Em tưởng bữa tiệc tối nay là lễ kỷ niệm."

    "Maris có cách ăn mừng của cô ấy, anh có cách của anh."

    Cô ta cười lớn rồi nắm tay bao quanh vật đàn ông, vuốt ve lên xuống. "Một ngày nào đó, anh phải kể hết với em."

    "Chẳng có gì để kể."

    Cô ta xoa ngón tay cái theo vòng tròn quanh đầu dương vật nhẵn mịn. "Nàng Maris không bao giờ chịch choạc bẩn thỉu nhỉ?"

    "Nàng Maris không chịch." Anh quỳ xuống, đẩy hai chân Nadia ra. "Nàng làm tình."

    "Ngọt ngào quá thể."

    "Đó là lý do anh thích em, Nadia."

    "Em có rất nhiều thứ anh thích. Anh phải nói cụ thể hơn."

    Anh ấn vào sâu trong cô ta. "Em chẳng bao giờ ngọt ngào cả."
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/5/22
    vuivui2013, Levananh, Breeze and 2 others like this.
  12. iusach

    iusach Lớp 7

    CHƯƠNG 6

    Những con đường trên đảo St. Anne heo hút chạy xuyên giữa rừng rậm. Maris chưa từng thấy rừng nào sâu và tối đến thế, ở Berkshires - ngôi nhà miền quê của cô - và tất cả những nơi cô đã đi qua. Không khí âm u tưởng như đang đi lạc vào khu rừng ma quái chỉ có trong truyện cổ tích của anh em nhà Grimm.

    Nhiều loại cây sống đan xen, tầng lá dày đặc chồng chất lên nhau khiến cho mọi nguồn sáng đều bị chặn kín. Thỉnh thoảng lại có tiếng rào rào trong bụi, dưới tán lá rậm rạp chứng tỏ loài sinh vật nguy hiểm nào đó đang ẩn nấp, rình rập, bò trườn. Dù bị óc tò mò thúc bách nhìn vào nơi phát ra tiếng động, cô không dám rời mắt khỏi con đường phía trước. Như vậy an toàn hơn.

    Cô đến muộn hơn lịch trình đã định. Thời tiết xấu ở Atlanta khiến chuyến bay nối chuyến đến Savannah bị hoãn ba tiếng đồng hồ. Sau khi nhận phòng khách sạn và sắp xếp phương tiện ra đảo, cô đặt chân lên đảo khi mặt trời sắp lặn. Nếu đến vào ban ngày, đây là một hòn đảo xa lạ, hứa hẹn một chuyến phiêu lưu mạo hiểm. Nhưng vào lúc nhập nhoạng tối, vẻ hoang sơ hùng vĩ của nó làm cô thấy sợ.

    Cô, kẻ nhút nhát lái chiếc xe gôn thuê ở bến tàu, đang độc hành trên con đường bất tận. Rừng rậm làm cô sợ hãi. Chúng không có vẻ thân thiện, cũng giống như người cho thuê xe ở bến tàu.

    Khi cô hỏi thăm đường, anh ta vặc lại bằng một câu hỏi. "Cô tìm anh ấy làm gì?"

    "Anh có biết anh ta không?"

    "Có."

    "Anh biết nhà không?"

    "Chắc chắn rồi."

    "Làm ơn chỉ cho tôi. Anh ấy đang đợi gặp tôi."

    Anh ta nhìn cô từ trên xuống dưới. "Thật không?"

    Cô mở tấm bản đồ mà người hoa tiêu trên tàu lúc nãy đưa cho.

    "Tôi đang đứng đây phải không?" Cô chỉ vào một điểm trên bản đồ. "Bây giờ phải đi đường nào?"

    "Chỉ có một con đường để ra khỏi đây."

    "Tôi biết." Cô trả lời với vẻ kiên nhẫn căng thẳng. "Nhưng nó dẫn đến ba ngã rẽ. Anh xem này."

    "Cô không phải là người ở đây. Từ miền bắc xuống à?"

    "Có gì khác biệt không?"

    Anh ta khinh khỉnh khịt mũi, nhổ bãi nước thuốc lá xuống đất văng tung tóe rồi chỉ vào bản đồ bằng ngón trỏ móng ngả vàng nham nhở.

    "Đến ngã rẽ thì đi lối này, xem nào, khoảng ba phần tư dặm nữa rồi rẽ trái, đi tiếp thẳng một đường là đến nhà. Nếu trước mặt là Đại Tây Dương có nghĩa là cô đã đi quá." Anh ta ngoác miệng cười để lộ một khoảng trống trước đây là những chiếc răng.

    Sau khi nói vài lời cảm ơn lãnh đạm, cô bắt đầu chặng cuối của cuộc hành trình. "Khu thương mại" ở bến tàu chỉ có hai điểm kinh doanh, ngoài Cửa hàng cho thuê xe là Quán bar và nướng Terry. Từ xa đã thấy bảng hiệu vẽ bằng tay treo trên cửa ra vào khu nhà tròn lợp mái tôn sóng. Những tấm màn che thay cho tường nhà dài khoảng hai phần ba chiều dài từ mái xuống đất, nhưng bên trong thiếu sáng đến nỗi chỉ có thể nhìn thấy ánh đèn chói lóa của tấm bảng quảng cáo bia và đèn treo bàn bi-a. Vài chiếc xe bán tải đậu bên ngoài, tiếng nhạc từ bên trong văng vẳng phát ra êm dịu.

    Trước cửa quán, một người đàn ông, có lẽ chính là Terry, đang nướng thịt trên chiếc vỉ lớn, tay cầm một chai bia. Sau khi lái xe đi qua, cô vẫn cảm thấy đôi mắt anh ta dán chặt sau lưng cho đến khi cô gặp khúc cua và đổi hướng.

    Chỉ có một mình cô trên đường. Không có bất cứ chiếc xe nào chạy ngang qua. Có lẽ bến tàu là nơi duy nhất có nền văn minh. Sau khi trải qua chuyến đi gian khổ - một từ chính xác đến mức tuyệt đối - điều cô mong muốn nhất là khi đến nơi sẽ được đón tiếp ân cần. Thật không may, khả năng này là rất thấp.

    Những suy nghĩ lan man tan biến khi cô nhận ra mùi ngai ngái của cỏ cây đã được thay thế bằng vị mằn mặn trong hơi gió. Biển đã ở rất gần. Mặc dù đã chú ý nhìn đường để tìm chỗ rẽ, cô vẫn đi quá một đoạn. Chẳng có một tấm biển báo nào để chỉ dẫn, lối rẽ lại nhỏ hẹp và bị cây cối che khuất, dù có nhìn kỹ cũng khó thấy.

    Sau khi xoay sở quay đầu xe ở một chỗ hẹp, cô rẽ vào một con đường xấu. Chiếc xe nhảy chồm chồm qua những ổ gà, mô đất. Trên cao, tán cây dày đặc tầng tầng lớp lớp như mái chắn không cho bất cứ tia sáng nào lọt qua. Rừng ở đây rậm rạp hơn, im ắng hơn, đe dọa hơn.

    Cô bắt đầu nghĩ đến việc quay về. Bỏ dở chuyến đi mạo hiểm, quay lại căn phòng ấm cúng trong khách sạn sang trọng và hiếu khách ở Savannah là lựa chọn sáng suốt nhất vào lúc này. Sau bữa ăn tối trong phòng, tắm bồn, nhấm nháp một ly vang lạnh để tinh thần hồi phục, cô sẽ gọi thuyết phục tác giả gặp ở nơi khác.

    Bỗng cô thoáng nhìn thấy ngôi nhà và ngay lập tức bị mê hoặc.

    Nó đẹp đến nao lòng.

    Một vẻ đẹp sầu não. Giống như một diễn viên điện ảnh có tuổi trước đây đã từng chinh phục khán giả bằng vẻ đẹp lộng lẫy và quyến rũ, một chiếc váy cưới lâu đời với lớp ren ố vàng và rách nát, một đóa hoa dành dành trắng muốt ngả sang màu nâu khi úa tàn.

    Ngôi nhà không còn giữ được vẻ huy hoàng vốn có trước đây, nhưng ánh sáng yếu ớt lúc chạng vạng tạo ra ảo giác siêu thực để bù đắp cho sự thiếu hoàn hảo. Trông nó đáng yêu như một bức tranh màu nước được vẽ theo những ký ức xa xăm nhưng sâu sắc.

    Maris xuống xe đi bộ giữa hai hàng cây sồi khổng lồ. Thỉnh thoảng, vài chùm không khí tóc tiên như bức màn the rũ dài xuống đất khẽ đung đưa uyển chuyển. Đến trước cửa nhà, cô rón rén bước lên bậc tam cấp như cậu bé Jem Finch trong quyển Giết con chim nhại, để Boo Radley đáng sợ không biết rằng có một kẻ xâm phạm đang bước vào nơi nó không thuộc về, nơi nó không được chào đón.

    Để tự trấn an, cô hít một hơi rồi mạnh dạn bước tới cầm chiếc búa gõ cửa bằng đồng lên.

    "Maris Matherly-Reed?"

    Cô giật nảy người buông tay, thanh kim loại đập vào cửa kêu lạch cạch. Cô lùi lại vài bước, nhìn dọc theo hàng hiên dài để tìm nơi phát ra giọng nói. Một đôi mắt đang quan sát cô qua một trong những ô cửa sổ.

    "Vậy là cô đến thật." Anh ta nói.

    "Chào anh."

    Ánh mắt chằm chằm của anh ta khiến cô lúng túng vì tình huống bất lợi đang lâm vào. Một người trong bóng tối, một người hoàn toàn phơi bày ngoài ánh sáng. Nhưng cô không dễ bị dọa nạt và bỏ chạy khi đã tiến xa đến mức này.

    Cuối cùng anh ta lên tiếng. "Vào đi."

    Cô đẩy cánh cửa đen sì để bước vào khu vực tiền sảnh rộng rãi. Anh ta xuất hiện từ một căn phòng gần đó, vừa đi vừa chùi tay vào chiếc giẻ bẩn thỉu. Chiếc quần đùi kaki và áo sơ mi tay xắn cao mà anh đang mặc rộng thùng thình và nhàu nhĩ. Đôi giày thể thao dưới chân tồi tàn không kém.

    Anh ta ngoái đầu ra cửa. "Cô đến một mình à?"

    "Vâng."

    "Muỗi đang bay vào nhà."

    "Ồ xin lỗi." Cô đi ra đóng cửa lại.

    "Không có vị cảnh sát nào đi cùng cô chứ?"

    Trước câu hỏi có vẻ trách móc, cô thấy cần đưa ra lời giải thích. "Tôi gọi cho sở cảnh sát vì không còn cách nào khác và hỏi đội phó Harris có biết ai ở đây có tên viết tắt là P.M.E không. Tôi thật không biết sau đó anh ta đến đây, nhưng dù sao tôi cũng rất xin lỗi vì chuyện đó."

    Anh ta đằng hắng, không đồng tình mà cũng chẳng ra phản đối. Cô cảm thấy nhẹ cả người khi không bị la hét và đuổi ra khỏi nhà. Tình hình không đến nỗi đáng sợ như cô dự đoán. Anh ta trông già hơn và biết điều hơn khi nói chuyện trên điện thoại. Vẫn là chất giọng kéo dài đó nhưng không hề thô lỗ.

    Nhưng anh ta cũng không tỏ ra thân thiện, đôi mắt xanh quan sát cô một cách thận trọng.

    "Thật tình tôi không biết phải mong đợi điều gì khi đến đây." Cô nói, hy vọng sự thành thật có thể phá vỡ bức tường phòng thủ cao ngất trước mặt. "Tôi còn sợ không được mời vào nhà."

    Khi ánh mắt anh ta lướt qua cô một lần nữa, cô bỗng thấy hối hận vì đã không cải thiện vẻ bề ngoài lúc ở Savannah. Đáng lẽ cô phải thay quần áo mới. Bộ cánh sân bay mà cô đang mặc gọn nhẹ khi ở New York nhưng lại quá dày ở đây. Không chỉ trông lạc lõng, nó bụi bặm nhàu nhĩ sau thời gian dài di chuyển hết taxi, máy bay, tàu rồi lại xe gôn.

    "Một quãng đường dài từ Manhattan đến đây nhỉ, cô Matherly-Reed."

    Cô nhẹ nhõm khi nhận xét của anh ta gói gọn tất cả suy nghĩ trong đầu cô. "Không chỉ về mặt địa lý. Trừ những chiếc xe gôn, St. Anne như ở trong một thời đại khác. "

    "Hòn đảo này hãy còn nguyên sơ. Cư dân ở đây muốn nó như vậy mãi mãi."

    Có phải anh ta muốn nói cô cũng thuộc về thế giới văn minh bên ngoài và không được chào đón không nhỉ? Cô bối rối chuyển ánh mắt quan sát xung quanh.

    Một chiếc cầu thang không có điểm tựa ở trung tâm từ tầng trệt vươn lên cao sừng sững, phía trên tối đen như mực. Dù có hàng tá thắc mắc về lịch sử ngôi nhà, cô không dám hỏi nhiều vì sợ bị đánh giá là tọc mạch nên chỉ nói đơn giản. "Ngôi nhà quả là tuyệt vời. Anh sống ở đây lâu chưa?"

    "Khoảng hơn một năm. Nó đã bị xuống cấp nhiều."

    "Vậy thì anh đã làm được rất nhiều việc rồi."

    "Còn khối việc phải làm. Tôi đang tu sửa phòng ăn. Cô có muốn xem qua không?"

    "Vâng."

    Nụ cười trao đổi giữa hai người giúp không khí trở nên thân thiện hơn. Anh ta dẫn cô vào căn phòng lúc nãy đã từ đó đi ra. Bắt gặp ánh mắt cô chăm chú nhìn lên chiếc đèn chùm pha lê treo giữa phòng đang khẽ đung đưa, anh ta mỉm cười một cách bí hiểm. "Đầu tiên là phải lắp đặt máy điều hòa trung tâm. Không khí thoát ra khỏi các lỗ thông hơi, thổi vào đèn chùm làm nó lắc lư. Ít nhất đó là cái tôi biết."

    Anh ta chỉ tay về phía lò sưởi, phần vỏ trang trí hoa văn tinh xảo đã bị lột đến lõi gỗ để chuẩn bị thay mới. “Tôi mất thời gian với nó nhất.” Anh ta thú nhận. "Nếu biết tẩy bỏ vẹc ni và sơn mất thời gian đến thế, tôi đã thuê người khác làm cho xong."

    Cô đến gần định sờ lò sưởi nhưng dừng lại để hỏi. "Tôi xem thử được chứ?" Khi anh ta gật đầu, cô mới khẽ khàng lướt ngón tay trên những chi tiết chạm khắc tỉ mỉ của chùm hoa nho.

    Anh ta giảng giải. “Theo nhật ký xây dựng mà người chủ trước ghi lại, một nô lệ đã chạm khắc lò sưởi và lan can cầu thang. Tên anh ta là Phineas."

    "Đẹp quá. Chắc chắn nó sẽ càng hoàn mỹ hơn sau khi anh hoàn thành."

    "Parker muốn thế. Anh ấy là người cầu toàn."

    "Parker là ai?"

    "Chủ nhà này."

    Cô buông tay, quay lại nhìn anh ta.

    "Tôi tưởng anh là chủ nhà?"

    Anh ta lắc đầu, mắt ánh lên vẻ thích thú. "Tôi làm ở đây."

    "Anh ấy thoải mái nhỉ."

    "Ai thoải mái?"

    "Parker. Anh ấy nhận anh vào làm việc, cho anh một chỗ để sáng tác."

    Sau một thoáng bối rối, anh ta cười lớn. "Cô Matherly-Reed, e rằng cô đã bị nhầm lẫn. Lỗi tại tôi. Người cô muốn gặp là Parker Evans cơ."

    Phải mất một lúc cô mới hiểu ra và mỉm cười thất vọng. “Parker Evans. Tên đệm viết tắt là chữ M."

    "Cô không biết tên anh ấy à?"

    "Anh ấy không nói với tôi."

    "Cô chưa từng nghe tên anh ấy hay sao?"

    "Theo như tôi nhớ là không. Tôi đã sơ suất gì chăng?"

    Anh ta ngẫm nghĩ một lúc rồi đưa tay ra. “Tôi là Mike Strother. Thứ lỗi vì đã không giới thiệu ngay từ đầu. Tôi cứ tưởng cô biết tôi không phải Parker."

    "Rất vui được gặp anh, anh Strother."

    "Gọi tôi là Mike."

    Cô chỉ có thể tự trách mình vì đã nhầm lẫn quý ông đứng tuổi này với con người thô lỗ mà cô nói chuyện qua điện thoại. Anh ta tử tế hơn nhiều mặc dù ánh mắt vẫn còn nghi ngại. Không biết sếp anh ta đã nói gì về cô, nhưng chắc chắn không phải là những lời tốt đẹp.

    "Anh phụ trách việc sửa chữa ngôi nhà này à?"

    "À không, tôi chỉ làm vài việc vặt. Tôi làm với Parker rất lâu trước khi anh ấy mua ngôi nhà này."

    "Làm việc gì?"

    "Mỗi thứ một ít." Anh ta giải thích. "Bếp trưởng kiêm rửa bát đĩa, quản gia, làm vườn, người hầu."

    "Anh ta có đòi hỏi khắt khe lắm không?"

    Anh ta cười tủm tỉm. "Cô không đoán được đâu."

    Anh ta nói rất đúng, cô không biết phải nghĩ thế nào nữa. Hình ảnh Parker M. Evans trong trí tưởng tượng của cô thay đổi như chong chóng. Bây giờ trong bức tranh lại có thêm một người hầu chầu chực bên cạnh, chờ cái ngoắc tay của anh ta. "Tôi muốn gặp anh ấy."

    Mike tránh nhìn vào mắt cô. "Anh ấy không có ở đây."

    Cô hỏi lại, giọng bối rối và thất vọng thấy rõ. "Anh ấy có biết tôi sẽ đến không?"

    “Có.” Mike gật đầu. "Anh ấy kể cô rất ương ngạnh, cứ đòi đến đây cho bằng được dù biết tốn công vô ích. Nhưng anh ấy mới là người cứng đầu cứng cổ hơn ai hết. Anh ấy sợ nếu ở nhà lúc cô đến thì sẽ giống như anh ấy đang đợi cô. Vì vậy, anh ấy ra ngoài rồi."

    "Anh ấy đi đâu?"

    ***

    Maris bực bội đến gần người đàn ông cho thuê xe. "Tại sao anh chỉ tôi đến tận nhà của Evans?"

    Anh ta nhếch mép. "Vì cô nói dối là anh ấy đang đợi cô."

    "Sao anh không nói ngay là anh ấy ở đây?"

    "Cô có nhớ đã hỏi tôi thế nào không?”

    Cô đang giận sôi, nhưng nói nhiều với con người vừa thô lỗ vừa ngu si này cũng vô ích. Cô phải dành sức để đối phó Parker Evans. Có rất nhiều điều phải nói với anh ta. Chắc chắn anh ta biết rõ chuyến đi không đi đến đâu của cô lúc nãy. Cả đầu bếp Terry cũng thế. Khi đi qua cái bếp than đã nguội tanh, vén màn bước vào trong quán, cô nhìn thấy anh ta đang lau dọn ở quầy bar phía xa.

    Cô sải bước đến chỗ anh ta, băng qua dãy bàn bi-a, dẫm vào vũng nước trên sàn nhà bê tông làm vài giọt bắn tóe lên chân. Sau lưng cô, người đàn ông cho thuê xe cũng bước vào quán.

    Không còn tiếng lách cách của những quả bóng bi-a va vào nhau. Tiếng chuyện trò im bặt. Ai đó tắt máy cát sét, trả lại sự yên lặng cần thiết để khán giả theo dõi vở diễn khi vai chính, người đến từ New York, bước ra sân khấu với vẻ mặt đằng đằng sát khí.

    Cô nói với Terry đang cười toe toét. "Cho tôi một chai bia."

    Trước tình huống dễ chịu ngoài dự đoán, nụ cười của anh ta tắt ngấm. Anh ta mở thùng đá lấy ra một chai bia, mở nắp và đưa cho cô. Bọt bia tràn cả ra ngoài. Maris vuốt quanh cổ chai cho sạch, tu một hơi dài rồi đặt mạnh cái chai lên quầy.

    "Tôi muốn gặp Parker Evans." Cô nói to.

    Terry chống cả hai cánh tay lông lá lên quầy, nghiêng người về phía trước. "Tôi phải thông báo là ai đến gặp anh ấy?"

    Cả quán cười ồ lên. Terry là người cười to nhất. Maris quay lại nhìn cả quán khắp một lượt. Không gian mờ mịt khói thuốc dù những tấm màn ngăn cách quán và bên ngoài chỉ buông xuống quá nửa. Chiếc quạt trần xoay tít làm khói loãng ra trước khi ám vào mọi ngóc ngách.

    Hàng chục cặp mắt đổ dồn vào cô.

    Chỉ có một phụ nữ. Cô ta mặc quần soóc ôm sát, áo hai dây cũng ôm sát khoe trọn bộ ngực đung đưa với hình xăm đầu rắn hổ mang, chiếc lưỡi dài của nó thè ra ngay khe ngực. Một tay cô ta chống nạnh, tay kia cầm điếu thuốc hút dở.

    Mùi bia, thịt nướng, khói thuốc và mồ hôi người đặc quánh hòa vào nhau. Mặc dù vậy, Maris hít vào một hơi sâu để lấy dũng khí. "Anh có vẻ trẻ con nhỉ, anh Evans?" Cô đưa mắt nhìn xung quanh.

    Không có tiếng trả lời. Một người nháy mắt rồi chọc ngón tay vào sườn người ngồi bên cạnh. Một người giơ chai bia lên với cô. Một người khác cạnh bàn bi-a thản nhiên bôi lơ lên đầu cơ.

    "Và lại còn thô lỗ nữa." Cô nói tiếp rồi tiến đến bàn một nhóm ba người để nhìn tận mặt từng người. Theo nhận xét của cô, họ đọc chữ còn cà lăm chứ đừng nói là viết tiểu thuyết.

    "Tôi đã đi một quãng đường xa đến đây gặp anh." Cô tiếp tục màn độc thoại của mình.

    "Cô có thể về theo đường cũ." Giọng nói cất lên từ một góc khuất khiến nhiều tiếng cười tán thưởng nổ ra xung quanh.

    Cô nhìn chằm chằm vào người đàn ông ngồi một mình một bàn.

    Anh ta trạc tuổi Mike Strother, hàng râu bạc lơ thơ trên khuôn mặt dày dạn sương gió như thủy thủ. Dường như anh ta không nhìn thấy cô hay bất cứ ai. Mắt anh ta dán chặt vào ly rượu sẫm màu trong đôi bàn tay chai sạn.

    "Anh Evans, ít nhất anh có thể dành cho tôi mười phút quý báu của anh chứ?”

    "Lại đây và cúi đầu xuống, cưng." Một giọng cợt nhả vang lên. "Đây sẵn sàng cho cô em mười phút tuyệt nhất chưa từng có."

    "Đừng có mơ, Dwayne." Cô gái xăm mình nói sin sít qua kẽ răng. “Anh còn không kịp đếm đến hai.”

    Những tràng cười lại vang lên giòn giã. Một người đàn ông đứng gần cô ta nói với vẻ khoái trá, "Dù có thế, ý tưởng của Ol 'Dwayne khá lắm."

    "Đúng vậy, quý cô miền bắc. Cô hãy còn là nai tơ nếu chưa được một gã miền nam hứng tình chọc thủng lưới."

    Maris đã quá quen với tiếng huýt sáo la ó, những lời bông đùa cợt nhả của những kẻ quấy rối nơi công cộng. Chính cô đã từng bị sàm sỡ trên tàu điện ngầm năm mười bảy tuổi, đến bây giờ nhớ lại vẫn còn nổi da gà.

    Vì vậy, việc trở thành nạn nhân ở đây không làm cô nao núng. Những lời khiếm nhã có làm cô bị ảnh hưởng, nhưng không phải theo cách họ mong đợi. Cô không sợ mà giận dữ. Cô đang giận run người.

    Cô cất giọng khinh thường. "Anh là ai cũng thế, Evans. Chỉ biết rằng anh là một kẻ hèn nhát."

    Tiếng cười im bặt. Một sự im lặng nặng nề bao trùm. Bất kỳ lời xúc phạm nào khác đều có thể cho qua, nhưng hèn nhát là một từ kích động có thể dẫn đến xung đột.

    Lại còn chỉ đích danh, buộc anh ta phải thể hiện bản lĩnh.

    Nói xong Maris ngẩng cao đầu đi ra cửa. Khi ngang qua bàn bi-a, một cây cơ vụt ra như thanh chắn ba-ri-e trạm thu phí sập xuống trước mặt. Quá bất ngờ, cô không kịp dừng lại và va hông vào cây cơ.

    Cô chúi người về trước nhưng nhờ cây cơ giữ lại nên không bị ngã nhào. Sau khi lấy lại thăng bằng, cô nắm cây cơ đẩy ra để đi tiếp nhưng nó không suy suyển. Cô quay đầu lại nhìn thủ phạm và nhận ra người lúc nãy bôi lơ lên đầu cơ.

    "Tôi là Parker Evans."

    Maris tròn mắt ngạc nhiên, không phải vì hành động quá quắt vừa rồi hay vì đôi mắt phản chiếu ánh đèn đỏ rực trên bảng hiệu đang nhìn thẳng vào cô.

    Điều làm cô ngạc nhiên là anh đang ngồi trên một chiếc xe lăn.
     
    Chỉnh sửa cuối: 28/5/22
    vuivui2013, Thuyhuynh19, lynx and 8 others like this.
  13. iusach

    iusach Lớp 7

    Chương 7

    Chiếc Gator, một cỗ máy kỳ quặc màu xanh lá cây, là sự kết hợp giữa xe gôn và xe bán tải. Maris chưa từng biết đến loại xe này trước khi Parker Evans chỉ vào chiếc xe đang đậu ngoài quán và bảo cô lên xe.

    Vẫn chưa hoàn hồn sau cú sốc về chiếc xe lăn, cô răm rắp làm theo lời anh, kín đáo quay mặt đi khi anh dùng tay nâng người ngồi vào sau tay lái, sau đó cúi xuống gập xe lăn lại, đu đưa vài cái lấy đà quăng vào thùng xe thấp lè tè phía sau.

    Rõ ràng chiếc xe này đã được chế lại cho riêng anh. Hệ thống ga và phanh chân được chuyển lên cạnh vô lăng để sử dụng bằng tay. Anh thành thạo điều khiển xe rời quán Terry chạy về phía bến tàu.

    "Tôi chỉ có thể chở cô đến đầu con dốc kia là cùng." Anh nói, mắt nhìn thẳng phía trước. "Nó quá cao. Lái xuống thì dễ ợt nhưng sợ không dừng lại được, không khéo lại kết thúc ở dưới nước. Mà có lẽ cô muốn thế thật."

    Cô không nói gì.

    "Ngay cả khi may mắn không rơi xuống biển, tôi cũng không thể lên lại con dốc này."

    Không biết nói gì hơn, cô lặp lại như một cái máy. "Con dốc?"

    "Đường xuống bến, nơi cô neo tàu."

    "Không có tàu. Họ chở tôi đến đây."

    "Họ không đợi chở cô về à?"

    "Tôi không biết sẽ ở lại đây bao lâu nên dặn họ là sẽ gọi khi xong việc."

    Anh đột ngột dừng xe, không thèm che dấu vẻ khó chịu khi không thể tống khứ cô đi ngay lập tức. Anh mặc áo sơ mi giống như Mike nhưng không có tay, để lộ đôi tay mạnh mẽ bù đắp cho khiếm khuyết của đôi chân. Từng múi cơ nổi lên săn chắc khi anh cho xe chạy tiếp, đánh lái qua một khúc cua.

    “Gọi tàu ra đón cũng nhanh thôi. Terry sẽ giúp cô. Cô có số chứ? "

    “Chúng ta nói chuyện trước đã, anh Evans? "

    Một lần nữa anh lại dừng xe. "Về chuyện gì?"

    "Dù sao tôi cũng đã đến đây, sau một chặng đường dài …

    "Không ai mời cô đến."

    "Anh đã mời khi gửi bản thảo cho tôi."

    Bất ngờ vì câu trả lời có phần đốp chát, anh lắc đầu giơ tay như đầu hàng.

    Phải mất một lúc cô mới lấy lại bình tĩnh để nói bằng giọng ôn hòa hơn. "Hôm nay là một ngày dài đối với tôi. Chưa bao giờ tôi mệt đến thế. Đáng lẽ bây giờ tôi đã tắm nước nóng và ngả lưng trên chiếc giường khách sạn êm ái. Nhưng tôi lại lựa chọn đến đây, vì vậy tôi không thể để công sức bỏ ra trở thành công cốc. Tôi muốn được một lần nói chuyện lịch sự trước khi quay về."

    Anh liền khoanh tay trước ngực tỏ ra lịch sự, nhưng trông cũng rất trịch thượng, và điều đó, cô nghĩ, gần với tính cách của anh hơn.

    Cô tỏ ra kiên nhẫn. “Anh đã gửi bản thảo cho tôi. Nếu không muốn cho ai đọc, anh đã không gửi nó đi. Dù có cố phủ nhận, rõ ràng anh đã có ý xuất bản nó. Nghề của tôi là xuất bản, chúng ta cần liên kết với nhau. Thậm chí anh không bị ràng buộc gì cả, tôi sẵn sàng thỏa hiệp. Chắc anh hiểu là tôi đã mặc định đồng ý những điều kiện của anh khi đến đây. Vì vậy chúng ta bàn công việc một lúc được chứ?"

    Ngoài vẻ ngạo mạn, anh còn có cái nhìn chằm chằm khiến người đối diện phải bối rối. Nét mặt kín như bưng, không chút biểu cảm để có thể đọc vị rằng anh đang nghiêm túc cân nhắc lời đề nghị của cô hay sắp đuổi cô xuống xe và bắt cô bơi vào đất liền. Cả hai đều có khả năng ngang nhau. Hoặc anh chẳng nghĩ gì cả.

    Sự im lặng của anh là một tín hiệu khuyến khích cô tiếp tục. "Tôi biết giờ này đã quá muộn để bàn công việc, nhưng tôi hứa không làm mất nhiều thời gian của anh đâu. Mike nói rằng anh ấy sẽ …”

    "Tôi biết Mike nói gì. Cô vừa đi khỏi là anh ấy gọi đến quán Terry cho tôi. Cứ như một gã khờ."

    “Anh ấy chẳng khờ chút nào lúc nói chuyện với tôi."

    "Phải rồi, anh ấy không khờ. Bình thường, anh ấy luôn kiên định và giữ cái đầu lạnh, điềm đạm và tỉnh táo trong mọi tình huống, trụ cột của lý trí và khôn ngoan. Nhưng cô đến làm anh ấy nhặng xị cả lên, hết sửa soạn phòng ốc rồi dọn bữa khuya như một bà cô trong lần hẹn đầu tiên." Ánh mắt tối sầm hướng sang cô buộc tội. "Cứ như cô đã bỏ bùa anh ấy."

    "Tôi không làm gì cả. Mike là một người đáng mến."

    Anh bật ra tiếng cười chua chát. "Không giống tôi."

    "Tôi không nói thế."

    "Không ư?" Anh gằn giọng. "Cô cứ việc, vì đó là sự thật. Tôi không đáng mến."

    "Tôi chắc chắn anh sẽ như thế nếu anh muốn."

    “Chà, phần hay nhất là đây. Tôi không muốn."

    Trước khi cô kịp phản ứng, anh đã nhanh như chớp vươn tay qua khoảng trống ở giữa, ôm gáy cô kéo lại gần để gắn môi cô vào môi anh. Một cuộc xâm chiếm bạo liệt hơn là một nụ hôn. Mạnh mẽ, dai dẳng và chiếm đoạt. Lưỡi anh kiên trì đòi hỏi đến khi đôi môi cô tách ra để anh tiến vào.

    Dù cố gắng đến mấy, cô chỉ kêu được vài tiếng ú ớ và bất lực đẩy tay vào ngực anh. Anh không dừng lại mà tiến sâu dồn dập khắp trong miệng cô, xoắn môi vào môi cô. Nhưng không biết từ lúc nào, sức ép trở nên chậm rãi hơn, nhẹ nhàng hơn. Những cú xoáy lưỡi trở nên khám phá trong khi ngón cái của anh ve vuốt trên cằm, má và khóe môi cô. Sự tức giận của cô trở thành cảm giác bồn chồn choáng váng.

    Anh ngậm nhẹ môi cô trước khi kết thúc nụ hôn sâu và ngẩng ra, chỉ cách mặt cô một hơi thở. Mãi một lúc sau, anh mới buông tay, ngả người vào ghế.

    Maris quay mặt nhìn ra biển, nơi tiếng sóng vỗ vào vách đá ầm ầm. Nó êm đềm hơn so với dòng máu nóng đang cuồn cuộn chảy trong huyết mạch. Ánh đèn trên đất liền dường như lùi xa, rung rinh làm bức tranh vặn vẹo khác thường. Một thế giới hoàn toàn khác. Não cô tê liệt như bị ngắt kết nối, cảm giác mơ hồ, không thực như vũng nước hẹp lan mãi, lan mãi thành một cái vịnh khổng lồ.

    Cô loáng thoáng nghe tiếng còi tàu vang lên từng hồi giục giã như lời cảnh tỉnh. Một bài tình ca ủy mị rền rĩ phát ra từ quán Terry. Tiếng sóng vỗ dập dềnh vào bãi đá ở cuối đoạn đường dốc mà Parker Evans từ chối chở cô xuống.

    "Chẳng ích gì đâu, anh Evans." Cô nói nhỏ. "Tôi sẽ không chạy trốn vì sợ chết khiếp."

    Cô quay sang anh và lấy làm ngạc nhiên. Không ngạo mạn, không hối lỗi, nhưng ít ra đó không phải vẻ chế diễu đắc thắng mà cô đã nghĩ. Anh nhìn cô bằng ánh mắt mang vẻ bí hiểm kỳ lạ như trước.

    Cô hất đầu về phía quán bar. "Tôi không quan tâm đến những việc xảy ra trong quán Terry cũng như nụ hôn vừa rồi vì tôi biết tại sao anh làm vậy. Tôi biết tại sao anh hôn tôi.”

    "Cô biết gì?"

    "Anh không dọa được tôi đâu."

    "Dọa cô?"

    "Anh hôn để làm tôi sợ chứ gì?"

    “Thôi được."

    "Sao lại thôi được?"

    "Cô nghĩ gì tùy thích." Anh nhún vai, lái xe đi tiếp. "Mike có tình cờ nhắc đến những món trong bữa khuya không?"

    Hóa ra bữa tối có bánh mì ăn với thịt nguội hun khói diễn ra trong căn phòng nhỏ phía sau mà Mike gọi là phòng tắm nắng.

    Parker nhận xét. “Cái tên quá kêu cho một căn phòng kính”.

    "Thực ra đây là chái hiên." Mike nói, sớt khoai tây trộn vào đĩa của Maris. "Cô không thấy gì vì trời đã tối, căn phòng này nhìn ra biển. Parker lắp kính trượt xung quanh để đóng mở tùy thích, vậy là có thể ngồi viết trong mọi thời tiết."

    Maris giả vờ không chú ý đến những chi tiết khác trong phòng. Một chiếc máy tính, nội thất mây trang trí tối giản, vài chiếc gối tựa, một chậu cây xanh èo uột. Chấm hết. Phòng của người độc thân. Nơi sáng tạo của nhà văn.

    Sách ở khắp mọi nơi, trên giá, nền nhà và mọi mặt phẳng nằm ngang. Sách tham khảo, tiểu thuyết kinh điển, bí ẩn, lãng mạn, khoa học viễn tưởng, kinh dị, viễn tây, tự truyện, tiểu sử, thơ ca, sách thiếu nhi, lịch sử, tri thức. Tất cả các loại sách trên đời, bìa cứng và bìa mềm. Một số gáy sách có biểu trưng nhà xuất bản Matherly khiến cô thấy vui vui. Các bìa sách đều sờn cũ cho thấy thư viện này không phải để trưng bày. Parker Evans đọc rất nhiều.

    “Dù là phòng gì đi nữa, tôi cũng rất thích. Một nơi lý tưởng để đọc sách. Và viết.” Cô liếc sang Parker. Anh đang rắc mù tạt lên miếng bánh sandwich, mặt tỉnh bơ như không nghe cô nói.

    Sau khi chuẩn bị xong phần ăn, Mike ngồi xuống đối diện với cô. Đúng như cô đã nghĩ, anh ta vừa là bạn vừa là người phục vụ của Parker. "Phiền anh quá, Mike."

    "Không sao. Dù sao thì chúng tôi cũng thường ăn khuya và tôi rất mừng khi có khách đến chơi. Parker không phải lúc nào cũng là người đồng hành dễ chịu. Khi viết, anh ấy im như thóc nhiều giờ liền, nếu có nói thì cũng toàn cáu gắt khó chịu."

    Parker ném sang cho anh ta cái nhìn nảy lửa. "Từ lúc nào anh lại hay càu nhàu thế?"

    Maris bật cười. Mặc dù chê bai, công kích nhau không thương tiếc, tình cảm giữa họ quá rõ ràng.

    "Tôi biết nhiều người siêu nhạy cảm như anh Evans vậy, Mike, nhưng tôi thấy bình thường. Nó xảy ra như cơm bữa, nếu phải làm việc với giới văn nghệ sĩ mỗi ngày thì anh sẽ thấy. Đôi khi họ cần sự tập trung tuyệt đối. Không biết các đại lý thì sao chứ tôi khốn khổ với họ."

    Mike gật đầu vẻ hiểu biết. "Cái gọi là tính nghệ sĩ.”

    "Chính xác. Hôm qua cha tôi cũng đã nói – tính khí khác thường là dấu hiệu của thiên tài."

    Cô chậm khăn ăn lên môi và ngạc nhiên vì sự mềm mại, mịn màng của chúng. Khi cô và Parker vừa về đến nhà, Mike đã tử tế chỉ cho cô căn phòng dành cho khách để vào sửa soạn trước khi bữa tối bắt đầu. Cô mở to mắt, nhìn kỹ hình ảnh mình phản chiếu trong chiếc gương treo trên chậu rửa mặt và tìm được một dấu vết của nụ hôn bất ngờ ở môi trên. Cô đánh phấn lên vết xước mảnh như sợi tơ rồi vội tắt đèn để khỏi nhìn thấy trong mắt những bằng chứng khác của nụ hôn mà cô kiên quyết phủ nhận - một sự kiên quyết có thể bị hủy hoại bởi những thứ giống như vết xước mảnh như sợi tơ.

    Cô và tác giả nói chuyện rất ít trên đường về nhà. Mắt cô hướng vào đoạn đường được đèn xe chiếu sáng phía trước. Bóng tối dày đặc ở xung quanh khiến cô dễ dàng tập trung hơn, nhưng có một lúc cô không cưỡng lại được cái liếc mắt vào những lùm cây.

    "Ối!" Cô kêu lên.

    "Gì thế?"

    "Đom đóm. Ở trong rừng."

    "Bọ phát sáng." Anh nói. "Ở đây gọi nó là bọ phát sáng."

    "Lâu lắm rồi tôi không nhìn thấy chúng."

    "Lỗi tại thuốc diệt côn trùng."

    "Đáng buồn thật. Lúc nhỏ, mỗi lần về ngôi nhà ở miền quê là tôi thấy chúng lập lòe bay xung quanh. Tôi bắt vài con cho vào một chiếc ly và để trên tủ đầu giường suốt đêm."

    "Tôi cũng vậy."

    Cô ngạc nhiên hỏi. "Anh cũng bắt chúng à?"

    "Ừ. Bọn tôi còn thi xem ai bắt được nhiều nhất."

    Vậy là tuổi thơ anh cũng đuổi bắt đom đóm, không phải lúc nào anh cũng ngồi xe lăn. Cô rất muốn hỏi vì sao anh bị tật nguyền nhưng lại không dám.

    Anh không phải là người tàn tật đầu tiên mà cô biết. Cô luôn khâm phục những nỗ lực phi thường của họ để sống một cuộc sống bình thường. Họ lạc quan và yêu đời, những khiếm khuyết về cơ thể được bù đắp bằng sức mạnh tinh thần.

    Có lẽ Parker Evans là vận động viên tham gia cuộc thi Ba môn phối hợp và sự nghiệp của anh kết thúc trong một giây định mệnh? Nạn nhân của một tai nạn thương tâm? Chuyện gì đã xảy ra khiến cuộc sống của anh thay đổi?

    Cô nhìn sang kia bàn. Anh đang nhẩn nha vài mẩu bánh nhỏ trên đĩa. Như có con mắt thứ ba, anh ngước lên bắt ánh nhìn của cô và thẳng thắn đáp trả.

    Không thể phủ nhận là anh trông rất hấp dẫn dù những năm tháng đau khổ, bất hạnh, tuyệt vọng, hoặc cả ba kết hợp với nhau, in hằn trên khuôn mặt khiến anh có vẻ già trước tuổi. Nụ cười hiếm hoi trên khuôn mặt lạnh như băng, mái tóc nâu dày điểm vài sợi bạc và hàm râu lởm chởm dễ đến hai ngày chưa cạo.

    Mắt anh không hẳn xanh lam, xanh lục hay nâu, cô cho rằng đó là màu nâu lục nhạt với những đốm hổ phách mê hoặc. Màu sắc đặc biệt của nó cộng thêm khả năng duy trì sự tập trung tạo nên nét quyến rũ và thu hút người đối diện.

    Anh nhìn cô chằm chằm như biết chính xác cô đang nghĩ gì. Toàn bộ con người anh toát ra một sự thách thức : Muốn biết tại sao tôi ngồi xe lăn chứ gì, tại sao không hỏi?

    Cô không chấp nhận lời thách thức. Không phải bây giờ. Chỉ đến khi cô hiểu anh hơn, hoặc ít nhất là đến khi cô nhận được lời hứa của anh về quyển sách.

    "Anh có viết quyển nào khác không, anh Evans?"

    "Thêm trà đá chứ?"

    "Không cám ơn."

    "Bánh mì thì sao?"

    "Tôi đủ rồi, cảm ơn anh. Anh có gì mới cho tôi đọc không?"

    Anh nhìn sang Mike, anh ta hiểu ý và lên tiếng ngay. "Xin lỗi. Tôi phải đi dọn dẹp vài thứ." Anh ta đứng dậy và biến mất sau cánh cửa thông phòng.

    Khi biết chắc Mike không thể nghe thấy, anh nói. "Cô là một người kiên quyết."

    "Cảm ơn anh."

    "Đó không phải là một lời khen."

    "Tôi biết."

    Anh đẩy ghế ra xa bàn, quay người nhìn đăm đăm qua ô cửa kính như có thể xuyên qua màn đêm để ngắm đại dương bao la. Maris yên lặng để anh đắm chìm trong suy tưởng. Trong khi anh cân nhắc giữa được và mất để đưa ra quyết định, cô không muốn nói gì sai rồi làm hỏng việc

    Cuối cùng anh hỏi. "Cô thực sự nghĩ nó ổn?"

    "Anh nghĩ tôi có lặn lội đến đây nếu thờ ơ với nó không?"

    "Làm ơn nói rõ ràng đi."

    "Vâng, anh Evans, nó rất hay."

    Anh nhìn cô bực tức. "Lưỡi tôi đã ở trong miệng cô, cứ gọi Evans có phải nực cười lắm không? Parker, làm ơn."

    Cô nuốt xuống cổ họng, mắt không rời khỏi anh. "Được thôi. Và anh có thể gọi tôi là Maris."

    "Tôi cho là vậy."

    Dường như anh muốn khiêu khích cô bằng cách này hay cách khác, nhưng cô quyết không mắc bẫy. "Quê anh ở đâu, Parker? Tất nhiên tôi biết ở miền nam."

    "Cô nói xem, cái gì đã tiết lộ bí mật của tôi?" Anh dài giọng một cách cường điệu.

    Cô mỉm cười. "Chà, giọng của anh, nhưng người miền bắc không phân biệt được sắc thái vùng miền. Giọng Texas có khác giọng Nam Carolinia không?"

    "Giọng Texas không giống ai hết."

    Cô lại mỉm cười. "Giọng gốc của anh là ở đâu?"

    "Có liên quan gì?"

    "Một số từ anh dùng ..."

    "Như là?"

    "Từ ‘dọn’ thay vì ‘nấu’, ‘bữa khuya’ thay vì ‘bữa tối’ chẳng hạn.”

    "Chắc tôi dùng quá nhiều từ ngữ quê mùa. Tôi sẽ nhớ bỏ ra khỏi sách của tôi."

    "Đừng. Những từ đó rất hợp lý."

    "Một chút hợp lý bằng cả chặng đường dài sao?"

    Cô gật đầu mạnh mẽ. "Cách dùng từ của anh rất đắt chứng tỏ anh đã dành nhiều năng lượng và thời gian để viết sách." Cô chống tay lên bàn, cúi người ra trước. “Tại sao anh không muốn xuất bản?"

    Câu trả lời như được anh chuẩn bị sẵn, chỉ chờ bật ra. "Tôi sợ thất bại."

    "Tôi hiểu. Những thiên tài sáng tạo thường khổ sở vì thiếu tự tin. Điều đó không có gì lạ." Cô chỉ những quyển sách nằm la liệt trong phòng. "Nhưng không phải chúng làm ta vui sướng khi được trình làng đó sao?"

    "Có khối người không in sách của mình, đúng không?" Anh không chịu thừa nhận.

    "Họ sợ những bài bình luận của giới phê bình, sợ thị hiếu thay đổi như chong chóng của độc giả, sợ sự kỳ vọng và những đòi hỏi của văn chương tạo áp lực nặng nề. Nhưng anh có thể kể ra bao nhiêu nhà văn đã đắm mình vào rượu bia không? Hay tự kết liễu nhanh hơn bằng cách bắn một phát vào đầu? "

    Cô cân nhắc một lúc rồi nói tiếp. "Anh nói xem, Parker, có đáng sợ bằng cuộc đời ẩn dật trên một hòn đảo xa xôi hẻo lánh không?"

    Phát súng đã trúng đích. Sau những phút dài đấu tranh tư tưởng, anh xoay ghế, lăn vào bàn làm việc và khởi động máy tính. "Chuyện đó chẳng có nghĩa gì ở đây, cô hiểu không?"

    Cô gật đầu mặc dù biết mình đang nói dối. Dù chuyện đó là chuyện gì đi nữa, nó phải mang một ý nghĩa nào đó với anh.

    "Tôi đã viết xong chương đầu tiên."

    "Ý anh là, ngoài phần mở đầu."

    "Phải. Nếu cô muốn, tôi sẽ đưa cho cô xem. Nên nhớ rằng tôi không có nghĩa vụ gì hết. Dù cô có thích nó hay không cũng được, tôi không hứa hẹn gì đâu đấy."

    Maris đến bên cạnh anh nhìn những trang giấy đều đặn chạy ra khỏi máy in. "Chương đầu tiên tiếp theo phần mở đầu phải không?"

    "Không. Cảnh trong phần mở đầu xảy ra gần cuối truyện."

    "Vậy là anh sẽ đưa người đọc trở về những tình tiết trong quá khứ?"

    "Phải."

    "Trước đó bao lâu?"

    "Ba năm. Chương một kể về lúc Roark và Todd là bạn cùng phòng ở trường đại học."

    “Roark và Todd.” Cô lặp lại tên nhân vật và thấy thích ngay lập tức. "Người nào?"

    "Ý cô là gì?"

    "Ai ở trong cửa hàng của Hatch Walker trong phần mở đầu? Ai lái tàu và ai bị rơi xuống biển?"

    Lần đầu tiên cô nhìn thấy nụ cười rộng mở trên khuôn mặt anh.

    "Anh sẽ không tiết lộ cho tôi biết đúng không?" Cô làm ra vẻ thất vọng.

    "Nếu vậy, cô đọc phần còn lại để làm gì?"

    "Phần còn lại? Vậy anh sẽ viết hết chứ?"

    Cái cười của anh nhạt đi. “Để xem cô nghĩ thế nào đã."

    "Tôi muốn đọc ngay bây giờ."

    "Đừng vội, Maris. Mới một chương thôi."

    Anh lấy giấy khỏi khay in, gõ vài cái xuống bàn cho ngay ngắn rồi đưa ra. Cô cầm lấy xấp giấy nhưng anh không buông tay.

    "Khi tôi hôn cô, nó chẳng liên quan gì đến việc làm cô sợ."

    Trước khi cô kịp trả lời, anh thả tay ra và lớn tiếng gọi Mike. “Lấy điện thoại để cô ấy gọi tàu.” Anh nói với Mike ở ngưỡng cửa. "Bây giờ gọi là vừa, trong lúc tàu ra đảo thì anh đưa cô ấy ra bến.”

    "Hơn mười một giờ rồi." Mike kêu lên. "Cô ấy không thể đi về giữa đêm hôm khuya khoắt thế này."

    Maris bối rối nói nhanh. "Không sao đâu, Mike. Tôi ổn mà."

    "Không bàn cãi gì hết." Mike tuyên bố, lờ đi cái nhìn cảnh cáo của Parker. "Tối nay cô ở lại đây. Tôi chuẩn bị phòng cho cô."
     
    Chỉnh sửa cuối: 31/5/22
  14. Levananh

    Levananh Lớp 2

    Hay và mượt mà. Cảm ơn bạn Iusach
     
    Thuyhuynh19 and iusach like this.
  15. iusach

    iusach Lớp 7

    CHƯƠNG 8

    Để tránh bị nhìn thấy ngồi cùng nhau, họ không tổ chức bữa trưa ở nhà hàng mà đặt luôn tại phòng họp nằm trên tầng 31 công ty WorldView.

    Đó là một căn phòng kín đáo và sang trọng vách ốp gỗ, nội thất hài hòa với thảm sàn dệt thủ công êm như nhung và cách âm, ánh sáng gián tiếp dịu mắt chiếu trên những giọt sương mai còn đọng trên lẵng hoa cầu kỳ chưng trên bàn. Để tăng phần trang trọng, tấm rèm xếp nếp dày được thả xuống kín mít. Nếu không, từ khung cửa sổ rộng này có thể thưởng ngoạn trọn vẹn đường chân trời kỳ vĩ của Midtown.

    Chủ nhân của bữa tiệc ngồi ở vị trí đầu bàn lịch sự hỏi. "Thêm cà phê chứ, Nadia? Reed?"

    Nadia Schuller ra hiệu cho một nhân viên phục vụ đeo găng tay trắng rót đầy ly của cô ta, còn Noah từ chối uống thêm. Họ vừa thưởng thức súp khoai tây, salad tôm hùm và măng tây, tráng miệng sữa chua dâu tây và sô cô la.

    Noah cảm ơn bữa ăn thịnh soạn. "Quá tuyệt vời."

    "Rất hân hạnh." Morris Blume nhã nhặn đáp lời rồi ra hiệu cho phục vụ rút lui.

    Nhân lúc Nadia khuấy cà phê, Noah kín đáo trao đổi ánh mắt với cô ta, chuẩn bị vào công việc chính sau thời gian xã giao bắt buộc.

    Ngoài Morris Blume, bên phía WorldView còn có năm người nữa. Sáu tháng trước, Nadia đã sắp xếp một cuộc hẹn để giới thiệu Noah với Blume. Ngay trong lần tiếp cận đầu tiên, Blume không ngần ngại bày tỏ mong muốn mua lại và sáp nhập Nhà xuất bản Matherly với WorldView.

    Sau cuộc họp, phía anh ta lập tức tiến hành thẩm định chuyên sâu. Trải qua vài tháng nghiên cứu và phân tích toàn diện thông tin, một tập bìa hồ sơ ba lỗ dày cộp được giao cho Noah. Cuộc họp hôm nay là để nghe ý kiến phản hồi của anh.

    “Anh đã có một tháng để xem xét đề xuất của chúng tôi.” Blume vào đề ngay. "Anh thấy thế nào?"

    Morris Blume gầy nhẳng, nước da trắng xanh, riêng mảng da đầu trơn lì trắng hếu vì hói sớm. Những chỗ tóc còn mọc lưa thưa được anh ta cạo sạch thường xuyên sẫm màu hơn một chút. Cặp kính gọng bạc và trang phục xám buồn tẻ muôn thuở khiến người ta nghĩ rằng anh ta có mối ác cảm sâu sắc với màu sắc.

    Anh ta nắm quyền lãnh đạo tập đoàn truyền thông quốc tế sau khi thôn tính đủ số cổ phiếu cần thiết vào bốn năm trước. Chỉ mới 36 tuổi vào thời điểm đó, anh ta thẳng tay hất cẳng người tiền nhiệm và bất cứ thành viên ban giám đốc nào trung thành với cái gọi là "tư duy cổ xưa trước thời kỳ khai sáng."

    Dưới sự điều hành của Blume, WV - tên giao dịch của tập đoàn trên sàn giao dịch chứng khoán - đã mở rộng lĩnh vực kinh doanh từ dịch vụ giải trí và truyền hình sang thương mại điện tử, truyền hình phát qua vệ tinh và công nghệ cáp quang.

    Blume đã đưa WorldView tiến vào thế kỷ 21 với giá trị từ một tỷ đô la tăng lên gần sáu mươi tỷ chỉ trong bốn mươi tám tháng. Vì vậy, các cổ đông dễ dàng làm ngơ trước nhiều thủ đoạn kinh doanh bẩn thỉu của anh ta.

    Con voi ma mút khổng lồ WorldView thấy gì ở con muỗi bé tí Matherly? Đó là câu hỏi Noah đặt ra cho Blume.

    "Vì nó ở đó?" Câu trả lời không cần suy nghĩ của vị giám đốc điều hành ẻo lả khiến mọi người cười ồ, kể cả Noah. Anh hiểu sự kiêu ngạo của anh ta vì bản thân anh cũng kiêu ngạo không kém.

    "Anh vừa mua một công ty xuất bản của Anh." Noah chỉ ra. "Chữ ký trên hợp đồng còn chưa ráo mực."

    "Đúng vậy." Blume gật đầu xác nhận. "PlattstPowers là khoản đầu tư mới của chúng tôi. Mảng sách báo của họ mạnh nhất khu vực quần đảo Anh, từ tin tức thời sự quốc tế chính thống đến tạp chí khiêu dâm nhếch nhác nhất." Anh ta nhăn nhở cười với Nadia. "Đảm bảo với cô rằng tôi thạo cái trước hơn cái sau."

    Cô ta nhấp một ngụm cà phê, nhìn Blume không chớp mắt qua vành ly. "Tiếc nhỉ."

    Đợi cho tràng cười chấm dứt, Blume mới tiếp tục. "Năm ngoái PlattstPowers có mười hai ấn bản bìa cứng bán chạy nhất."

    "Mười ba." Một tay kế toán trong bàn lên tiếng sửa lại.

    “Ấn bản bìa mềm còn nhiều hơn nữa.” Blume nói tiếp. "Khi sáp nhập với WorldView, nó sẽ thống trị danh sách bán chạy nhất năm nay. Chúng tôi có chiến lược và ngân sách để đạt mục tiêu đó."

    Nadia lên tiếng. “Tôi đã phỏng vấn hai tác giả của những quyển sách mà công ty anh xuất bản bất hợp pháp, không thông qua nhà xuất bản cũ. Họ ủng hộ anh vì anh có chiến lược tiếp thị, quảng bá hình ảnh giúp tác giả, tác phẩm thâm nhập vào thị trường Mỹ nhanh nhất, hiệu quả nhất."

    "Chúng tôi nắm truyền thông trong tay." Blume tự hào. "Nhanh chóng và hiệu quả.”

    Anh ta chắp hai bàn tay xanh xao để trên bàn. “Với việc mua lại và sáp nhập với PlattstPowers, WorldView nắm trong tay một nhà xuất bản hùng mạnh quy tụ nhiều tên tuổi ăn khách hiện nay. Nhưng thị trường Anh không phải là thị trường Mỹ. Qui mô của nó nhỏ hơn nhiều. Chúng tôi muốn một nhà xuất bản nữa ở bên này Đại Tây dương, đó là Matherly. Các anh xuất bản nhiều đầu sách ăn khách bên cạnh các tác phẩm văn học có giá trị, nói cách khác, một nhà xuất bản có uy tín và cũng là một cỗ máy hái ra tiền. Và tư cách đáng kính là cái mà công ty nhỏ bé của chúng tôi cần nhất."

    Những lời giả vờ khiêm nhường lộ liễu gây ra vài tiếng cười từ nhóm WV, nhưng Noah vẫn giữ vẻ mặt nghiêm nghị. Blume hiểu rằng đã đến lúc dừng lại.

    "Tôi đã xem hồ sơ." Noah nói. "Công việc thẩm định đánh giá rất ấn tượng, các dự báo táo bạo nhưng khả thi."

    “Tốt lắm.” Blume nở nụ cười mãn nguyện.

    Noah giơ tay ngăn lại. "Tuy nhiên, trước khi ký hợp đồng, chúng ta còn một số điểm cần bàn thêm."

    "Đó là mục đích của cuộc họp này." Blume tiếp lời.

    "Thứ nhất, ảnh hưởng của chính sách chống độc quyền là như thế nào? Chắc chắn chúng tôi không muốn bị kéo vào một cuộc kiện tụng kéo dài với chính phủ liên bang."

    "Tôi đảm bảo là không. Chúng tôi đã thực hiện mọi biện pháp phòng ngừa."

    Theo yêu cầu của Blume, một luật sư trong bàn lên tiếng giải thích chi tiết. Noah đưa ra nhiều câu hỏi, chất vấn những điểm còn mơ hồ, nước đôi cho đến khi nhận được câu trả lời thỏa đáng.

    “Tốt.” Blume xoa tay. "Thứ hai là gì?"

    Noah phủi tay áo. "Matherly không phải để bán."

    ***

    "Anh ta trả lời thế nào?" Daniel Matherly hỏi.

    "Con nghĩ không cần phải nhắc lại." Con rể ông trả lời.

    "Một lão già cổ lỗ sĩ, cứng đầu không chịu nhìn ra ánh sáng mặt trời, cha cá là vậy."

    "Không đến nỗi như vậy, nhưng cũng gần đúng."

    Họ ngồi uống rượu ở nhà Daniel. Maxine rót ly đầu tiên rồi dặn dò Noah trước khi ra khỏi phòng. "Một và chỉ một mà thôi. Ông ấy không được uống thêm ly nào nữa đâu đấy."

    "Chắc chắn không." Anh nói với bà kèm cái nháy mắt với Daniel.

    Nửa tiếng sau, họ nhâm nhi ly thứ hai. "Lấy cho cha cái tẩu."

    Noah đi lấy chiếc tẩu và túi thuốc lá trên bàn làm việc đưa cho Daniel. Ông ngồi trong chiếc ghế dựa bằng da, chân gác lên ghế đôn đệm, tay nhồi lá và quẹt một que diêm để lên trên ống tẩu

    "Maxine mà ngửi thấy mùi khói thì …”

    "Cha sẽ nói con hút." Ông ngửa cổ để khói bay lên trần nhà, mắt nhìn xa xăm vào những đường gờ trang trí hình vương miện. "Lũ chó lai đang áp sát chúng ta, Noah. Bọn chúng xấu tính, hàm răng lại sắc nhọn."

    Noah đưa ly rượu lên nhấm nháp. "WorldView á?" Anh khoát tay. "Con không biết nói thế đã rõ ràng chưa. Matherly không phải để bán.”

    "Họ không dễ chùn bước, đặc biệt là tên khốn Blume."

    "Nghe nói anh ta lúc nào cũng lạnh như tiền, không bao giờ nổi nóng."

    Daniel lục khục cổ họng. "Cha không nghi ngờ điều đó." Ông dừng lại để thở. "Ngay cả nếu Morris Blume thất bại hoặc bỏ cuộc thì cũng sẽ có những con chó lai khác, thậm chí còn xấu tính hơn."

    "Con không quan tâm. Chúng chẳng làm gì được ta."

    Daniel mỉm cười trước sự lạc quan của con rể. Cách đây một thập kỷ, Noah Reed vụt lên như một ngôi sao sáng sau khi cho ra đời tiểu thuyết Chinh phục. Lấy bối cảnh thời kỳ tái thiết, quyển tiểu thuyết trở thành hiện tượng văn học, tạo ra sức hút mãnh liệt đối với độc giả khắp nơi. Không một chủ bút nào ở New York mà không muốn có nó trong danh sách xuất bản, kể cả Daniel Matherly.

    Trước sự ngạc nhiên xen lẫn thất vọng của người hâm mộ, Noah Reed lại đam mê công việc xuất bản hơn là viết lách. Chính anh đã phối hợp với nhà xuất bản để tiếp thị quyển sách đầu tay của mình. Một thanh niên trẻ tuổi, đẹp trai, thông minh vượt trội, nhạy bén, sáng tạo nhiều ý tưởng tiếp thị hiệu quả cho quyển tiểu thuyết của mình thì không lý gì lại không thành công với những quyển sách khác, vì vậy nhà xuất bản của anh tuyển luôn anh vào làm việc.

    Ở vị trí biên tập viên sơ duyệt, Noah nhanh chóng chứng tỏ năng lực của mình. Trong năm đầu tiên làm việc, anh phát hiện ra một bản thảo bị xếp xó của một tác giả vô danh và đưa anh ta trở thành tác giả sách bán chạy nhất ngay lần xuất bản đầu tiên và những lần tái bản sau đó.

    Tuy quá trình làm biên tập viên giúp Noah tạo dấu ấn thành công rực rỡ, mảng kinh doanh sau đó mới thực sự khẳng định tên tuổi của anh. Các chiến lược tiếp thị của anh thành công đến mức được các đối thủ sao chép rập khuôn. Anh là một người đàm phán hiệu quả, người mà giới đại diện xuất bản ngưỡng mộ nhưng khiếp sợ khi đối mặt trên bàn thương lượng. Ngoài ra, anh còn thể hiện tố chất lãnh đạo khi làm trung gian hòa giải thành công cuộc đình công ở Công ty in ấn Pennsylvania, ngăn chặn một cuộc khủng hoảng trong ngành.

    Noah Reed là người thông minh, tham vọng và khôn ngoan. Chính Daniel cũng bị mang tiếng là khôn ngoan nên ông không coi đó là một từ hạ thấp giá trị. Vì vậy, cách đây ba năm, Noah làm ông ngạc nhiên khi đến gặp ông như một nhân tài đi tìm đất dụng võ. Ý tưởng kinh doanh của anh không được người sếp hiện tại khuyến khích, nhưng được Daniel lắng nghe một cách hứng thú. Mới lạ, độc đáo nhưng không mâu thuẫn với tôn chỉ hoạt động của tổ tiên sáng lập Nhà xuất bản Matherly.

    Noah làm ông cảm thấy như được sống lại thời nhiệt huyết tuổi trẻ - tràn đầy năng lượng, mạnh mẽ đam mê, quá tự tin đến mức tự phụ, cái mà Daniel coi là ưu điểm hơn là khuyết điểm.

    Daniel trả lời Noah rằng ông sẽ suy nghĩ. Ông do dự khi đưa người ngoài vào nắm giữ một vị trí quan trọng, dù công ty đang trên đà tăng trưởng mạnh mẽ đến mức chỉ ông và Maris thì không kham nổi.

    Về phần Maris, cô vô cùng phấn khích trước viễn cảnh hàng ngày được làm việc với tác giả của quyển tiểu thuyết gối đầu giường của mình. Dù mới gặp Noah một lần tại một buổi hội thảo văn học, cô ngưỡng mộ anh cuồng nhiệt và dường như đã ấp ủ một mối tình thầm kín trong tim.

    Với sự hối thúc của Maris, Daniel mời Noah về làm phó chủ tịch phụ trách kinh doanh. Cho đến nay, ông chưa bao giờ hối hận về quyết định của mình.

    "Con vẫn tán thành chứ?" Daniel hỏi.

    "Tán thành chuyện gì ạ?"

    "Triết lý kinh doanh của công ty."

    Anh thận trọng nhìn bố vợ. "Từ lúc mới gia nhập công ty, con đã biết quan điểm của cha về việc sáp nhập. Đương nhiên, nó cũng có một số lợi ích nhất định. Chúng ta sẽ có nhiều ngân sách hơn cho tiếp thị."

    "Nhưng chúng ta không còn sự tự chủ."

    "Đó là cái con muốn nói." Noah nói. "Xưa nay quyền tự chủ là vấn đề cốt lõi của Matherly.”

    Khi Maris hẹn hò Noah, Daniel đã băn khoăn không ít. Thứ nhất, hai người chênh lệch nhau những mười tuổi. Thứ hai, ngoài sự nhạy bén trong kinh doanh, Noah còn nổi tiếng vì tính lăng nhăng. Dù chỉ là những tin đồn chưa được kiểm chứng, nhưng không có lửa làm sao có khói?

    Cuối cùng và quan trọng nhất, liệu Noah có động cơ khác hay không? Lợi ích khi kết hôn với người nhà Matherly là chuyện không cần phải bàn cãi.

    Mặc dù vậy, đó không còn là vấn đề của Daniel mà là của con gái ông, và Maris nhất quyết lấy Noah. Mẹ mất sớm nên suy nghĩ của cô trưởng thành, độc lập hơn các bạn cùng lứa. Chính ông đã dạy cô làm chủ cuộc sống, tin tưởng vào bản thân để tự đưa ra quyết định ngay từ khi còn nhỏ, vì vậy bây giờ ông bị kẹt vào thế không thể nghi ngờ rồi phản đối quyết định lựa chọn bạn đời của cô.

    Nhưng Noah đã ghi điểm khi đến gặp ông tuyên bố sẽ không có đám cưới nào hết nếu không được ông đồng ý. Dù yêu Maris đến mấy, anh sẵn sàng từ bỏ công việc ở Matherly và ra khỏi cuộc đời cô mãi mãi nếu ông phản đối cuộc hôn nhân.

    Daniel đành chúc phúc cho cặp đôi nhưng luôn để mắt đến cuộc sống của Maris như một người bảo hộ tận tụy và cảnh giác. Sau bữa tiệc hôm qua, cô vẫn chưa hoàn toàn trút bỏ được gánh nặng nghi ngờ về sự lạnh nhạt của Noah.

    Dù Maris không nói gì, ông biết cô đã chuẩn bị có con nhưng mọi nỗ lực đều chưa có kết quả. Còn quá sớm để lo lắng. Maris còn trẻ và Noah muốn có con. Còn rất nhiều thời gian để tạo dựng một gia đình hoàn chỉnh.

    Vì lợi ích bản thân, hơn ai hết Daniel muốn sớm có cháu. Ông sẽ được đu cháu lên xuống trên chân mình trước khi đi kiểm tra.

    Nghĩ đến Maris đang một thân một mình ở nơi xa xôi, ông hỏi. "Có tin gì của Maris chưa?"

    "Dạ chưa từ khi cô ấy lên đường sáng nay." Noah nhìn đồng hồ đeo tay. "Giờ này chắc đã đến nơi. Chỉ sợ sau chặng đường mệt mỏi, cô ấy phải đối mặt với thất bại."

    "Hy vọng là không. Nó rất hứng thú với tác giả này. Nhắc tới mới nhớ, nó có kể cho cha nghe món quà đặc biệt của con."

    "Quà?”

    "Tối qua."

    "À." Noah cười . "Cô ấy rất dễ hài lòng nhỉ?"

    "Sự nghiệp viết lách của con rất quan trọng đối với nó. Sáng nay nó gọi cho cha trước khi lên máy bay, cha nghĩ một chiếc nhẫn kim cương cũng không làm nó vui đến thế. Lúc nào nó cũng mong con viết lại."

    Noah cau mày. "Cô ấy không mong đợi quá nhiều chứ? Con sợ sẽ làm cô ấy thất vọng."

    "Chỉ riêng nỗ lực của con cũng đủ làm nó vui."

    "Vậy thì tối nay con sẽ cố gắng." Noah đặt chiếc ly đã uống cạn xuống bàn và đứng dậy.

    "Ở lại ăn tối rồi làm vài ván cờ đã."

    "Tuyệt vời. Nhưng con muốn tranh thủ khi Maris đi vắng để viết vài trang. Chỉ có một cách để viết, đó là cầm bút lên." Anh cười."Có cần rót một ly nữa cho cha trước khi con về không? "

    "Thôi, cảm ơn. Thế nào Maxine cũng kiểm tra xem trong bình còn bao nhiêu."

    "Tốt nhất là con nên biến khỏi đây trước khi chiến sự xảy ra." Noah mặc áo khoác, với lấy chiếc cặp. "Cha có cần gì nữa không?"

    "Có." Daniel nói. "Lần sau nếu có ai đến gặp con đòi mua công ty, bảo họ cút đi."

    Noah cười. "Con nói là cha nói, được chứ?"

    "Chắc chắn rồi. Thật ra, cha thích như thế hơn."

    ***

    Hai ly martini vẫn chưa đủ để xoa dịu sự lo lắng của Nadia. Không khí như đang trong tình trạng báo động đỏ từ khi Noah thuật lại cuộc nói chuyện với Daniel.

    Suốt nửa tiếng đồng hồ, cô ta đi qua đi lại trong căn hộ ở Chelsea, nơi cô ta dùng để hẹn hò với những người tình bí mật. Căn hộ ở tháp Trump mới là địa chỉ nhà chính thức, ngay cả kế toán của cô cũng không biết có căn hộ này.

    "Cho dù có lơ mơ đến mấy, em không tin lão già lẩm cẩm." Cô ta cằn nhằn. "Làm sao anh chắc chắn được là không bị lão nhìn thấu tim đen?”

    "Vì lão không nhìn." Giọng Noah bắt đầu mất kiên nhẫn.

    "Em không có ý nghi ngờ sự sáng suốt của anh, Noah."

    "Không phải sao?"

    "Không, chỉ sợ có gì đó sơ suất. Em rất muốn phi vụ này cho anh.”

    "Anh muốn nó cho – chúng ta."

    Mặt Nadia giãn ra, cô ta đến chỗ anh đứng, đặt tay lên vai anh. “Mẹ kiếp.” Cô ta hạ giọng. "Anh luôn có cách hạ gục em một cách dễ dàng."

    Họ hôn nhau nồng nàn. Cô ta cởi nút áo của anh để luồn tay vào trong.

    Sau đó cô ta dứt khỏi nụ hôn, nghịch ngợm xoắn những sợi lông trên ngực anh. "Daniel Matherly quản lý công ty … bao lâu rồi?"

    "Năm nay bảy mươi tám tuổi, lão già nắm quyền kiểm soát công ty từ khi cha mất năm lão hai mươi chín."

    "Vậy là gần năm mươi năm."

    "Anh biết đếm, Nadia."

    "Đó là những gì em muốn nói. Không phải tự nhiên mà lão trở thành một huyền thoại nổi tiếng với sự thông thái, kinh nghiệm sống, …”

    "Nhưng không còn sắc bén như trước."

    "Có thể. Hoặc lão muốn anh nghĩ thế."

    Noah bực bội khi Nadia hết đoán già đoán non rồi lại quay ra chỉ trích. Anh đẩy cô ta ra rồi đi vào bếp, bốc vài viên đá thả mạnh vào ly khiến rượu bắn lên tung tóe. "Anh hiểu cha vợ của anh cũng như hiểu em vậy, Nadia."

    "Em chắc chắn …”

    "Nếu em chắc chắn về anh, em sẽ không cằn nhằn nãy giờ." Anh ngửa cổ uống một hơi hết ly rồi đặt mạnh xuống bàn. Mất một lúc để kìm chế rồi anh nói tiếp. "Việc của em là làm yên lòng và trấn an Blume.”

    “Tối mai em đã hẹn ăn tối với Morris. Ở phòng Rainbow."

    "Tốt. Hãy hạ gục anh ta. Ăn, uống, nhảy nhót. Tán tỉnh anh ta. Làm anh ta vui. Chuyện Matherly để anh lo. Anh làm ở đó ba năm và biết rõ suy nghĩ của họ, cách họ phản ứng. Chúng ta phải hết sức cẩn thận nếu không muốn công lao bấy lâu tan thành mây khói."

    Kế hoạch được sắp đặt tỉ mỉ từ lâu và khi vạch đích đã ở trong tầm mắt, anh sẽ thận trọng gấp đôi gấp ba mà không cần Nadia nhắc nhở. Bước đầu tiên là thuyết phục Daniel Matherly thuê anh về công ty và giành được sự tin tưởng của lão già. Hầu như mọi trở ngại đã được giải tỏa khi anh kết hôn với Maris. Đợi thời cơ chín muồi, thông qua Nadia, anh bắn tin cho Blume về ý định sáp nhập. Thế là Blume bập ngay vào và cứ cho rằng ý tưởng đầu tiên là của anh ta. Hoàn toàn sai. Ngay từ đầu, WorldView đã nằm trong tầm ngắm của Noah.

    Cho đến thời điểm này, mọi việc đều diễn ra đúng kế hoạch, theo cách mà Noah Reed muốn.

    "Tự nhiên anh lại nổi cáu với em." Nadia nói. "Morris đưa ra thời hạn, không phải em."

    Đó là điểm duy nhất nằm ngoài kế hoạch, khiến Noah hoang mang cả buổi tối. Trong lúc ngồi uống với Daniel, anh chỉ nghe ông già nói bằng một tai trong khi tâm trí rối bời vì thời hạn hai tuần mà Blume đưa ra cùng với nụ cười dễ ghét như một con rắn. Anh ta tin đã dành đủ thời gian cho anh đánh giá các điều khoản và đưa ra quyết định cuối cùng.

    Noah nhìn anh ta chằm chằm. "Daniel đã tuyên bố dứt khoát rằng công ty của ông ta không phải để bán."

    "Anh hẳn đã chuẩn bị những bước đi táo bạo để ông ta thay đổi ý kiến, phải không?"

    Blume kết thúc cuộc họp bằng lời nhắc nhẹ rằng những công ty xuất bản khác có uy tín gần bằng Matherly cũng có cơ hội hợp nhất với WorldView.

    Khốn kiếp! Noah biết Blume hoàn toàn có khả năng thực hiện lời đe dọa. Có rất nhiều nhà xuất bản nhỏ đang chờ bị khai tử vì không thể cạnh tranh với mạng lưới phân phối và ngân sách quảng cáo của những gã khổng lồ trong ngành.

    Họ sẽ chấp nhận sự hỗ trợ và ổn định tài chính mà WorldView đem lại. Không giống như Daniel, họ sẽ làm mọi cách để sống sót chứ không chịu chết chìm vì một thứ tình cảm ủy mị nào đó.

    Noah chẳng có chút tình cảm nào nhưng anh biết Daniel, người kế thừa tuyệt đối trung thành với nguyên tắc của công ty gia đình mình, sẽ không dễ dàng buông tay. Đó là điều mà Blume không bao giờ có thể hiểu.

    "Anh biết chứ." Noah nói với Nadia. "Thời hạn đó sẽ được đáp ứng."

    "Còn Maris thì sao?"

    "Cô ấy đang ở Florida."

    "Georgia."

    "Em nói gì?"

    "Anh nói với em là cô ấy đi Georgia."

    "Sao cũng được. Anh sẽ nhân cơ hội cô ấy vắng mặt tác động Daniel từng chút một, bắt đầu từ tối nay, bằng cách chỉ ra những ưu điểm của đề nghị của Blume."

    "Khi Maris về thì sao?"

    "Cô ấy sẽ nghe theo Daniel."

    "Đó không phải là những gì em muốn nói."

    Noah thở dài nhắm mắt, đưa tay lên véo sống mũi. Chúa ơi, anh đã có đủ vấn đề lắm rồi, còn tâm trí đâu mà nghĩ đến những chuyện cỏn con khác. "Anh hiểu, Nadia." Anh nói bằng giọng mệt mỏi. "Nhưng liệu yêu cầu Maris ly hôn lúc này có hợp lý không? Không - cho đến khi anh ký xong hợp đồng với WorldView và hợp nhất hai công ty." Anh thở hắt ra. "Em nghĩ anh cưới cô ấy sung sướng lắm sao? Em nghĩ anh thích bợ đít Daniel từng ấy năm chắc?"

    "Một ý nghĩ gây phẫn nộ?"

    "Phải vậy không? Hãy nhìn từ góc độ của anh."

    Cô ta không cười như anh mong đợi. "Còn Maris? Anh có xin hôn mông cô ấy không?"

    Anh cười khan. "Anh không nhớ cô ấy như một người vợ, chỉ tiếc là mất đi một biên tập viên giỏi. Nhưng với ngân sách Blume đã hứa, anh có thể thuê ba người như cô ấy. Năm người cũng còn được. Và ngay cả khi không thuê được ai, anh đã có mười triệu đô la an ủi."

    Cô ta nhìn anh chằm chằm, nét mặt trở nên hờn dỗi. "Anh thực sự không phiền khi em quyến rũ Morris Blume lên giường ư?"

    "Chỉ là cách nói thôi mà."

    "Vậy những gì anh nói lúc nãy..."

    "Nói gì?"

    "Rằng anh muốn phi vụ này cho chúng ta. Anh nói thật chứ?"

    Để trả lời, anh kéo cô ta lại áp chặt môi lên môi cô ta.

    Cô ta phanh áo anh ra để búng lưỡi trên đầu ti làm nó săn cứng rồi nhắc lại câu hỏi. "Có không?"

    "Chà, giờ anh có thể hứa với em bất cứ chuyện gì.”

    Cô ta cười nhạt, vuốt ve trước đũng quần anh. “Em không thích chia sẻ anh với Maris, không thể đợi tới lúc anh là của riêng em."

    "Anh cũng mất hết kiên nhẫn rồi đây."

    Anh mở khóa kéo quần, đẩy quần lót xuống để Nadia quỳ xuống vùi mặt vào đó. Cô đưa chiếc lưỡi nóng rẫy lần theo chiều dài cương cứng của anh trước khi ngậm vào miệng khiến Noah rên lên thỏa mãn.

    "Cứ làm những gì em làm giỏi nhất và để Matherly cho anh."
     
    Chỉnh sửa cuối: 24/6/22
    vuivui2013, titithao, dakedo and 4 others like this.
  16. LanNP

    LanNP Lớp 7

    Chờ chương mới của bạn nhé!
     
    iusach thích bài này.
  17. iusach

    iusach Lớp 7

    Chương 9

    Parker ngồi trước máy tính. Anh đã thức nhiều giờ. Não anh làm việc liên tục như viên đá bị lia đi và nảy trên mặt nước.

    Mike đem cho anh ly cà phê thứ ba. "Vị khách của anh vừa rời khỏi nhà, giờ đang nhởn nhơ trên đường, ngắm biển, nhưng cô ấy sẽ sớm về thôi."

    Vì đã dặn Mike để mắt đến Maris, anh ghi nhận báo cáo của anh ta bằng cái gật đầu.

    Mike đặt mạnh chiếc ly xuống bàn làm cà phê nóng sánh ra ngoài, bắn lên cả những trang bản thảo. Parker nhìn đống hỗn độn rồi ngẩng lên nhìn anh ta.

    "Xin lỗi." Mike nói.

    "Được rồi."

    Mike chỉ khịt mũi.

    "Anh muốn gì thì nói thẳng ra đi."

    "Anh biết tôi muốn nói gì, Parker."

    "’Chúc mừng’ chăng?"

    "Nếu là ‘bỏ đi’ thì sao? Thật tình anh nghĩ tôi sẽ chúc mừng ư? "

    "Cô ấy ở đây, đúng không?"

    "Phải. Cô ấy ở đây." Mike nhăn nhó thừa nhận.

    Parker nhún vai, giọng tỏ ra thiếu kiên nhẫn. "Sao thế? Tâm lý học nghịch đảo hiệu quả đấy chứ. Cô ấy đã cắn câu, đúng như chúng ta muốn. Nếu không đồng ý, đáng lẽ anh phải ném tờ giấy ghi số điện thoại của gã cảnh sát vào sọt rác. Nhưng anh chuyển nó cho tôi, tôi gọi cho cô ấy và cô ấy đến. Vậy anh trách ai đây?"

    Mike bỏ vào bếp. "Bánh quy của tôi sắp cháy."

    Parker quay lại màn hình nhưng mạch sáng tạo đã tắc nghẽn. Anh không thể tập trung vào những câu cuối vừa viết. Một đống từ và cụm từ hỗn độn, khó hiểu. Anh dừng mắt ở từng chữ cố hiểu ý nghĩa của nó. Nhưng dù anh cố gắng đến mấy chăng nữa cũng vô ích.

    Cứ như nó được viết bằng tiếng Phạn.

    Rồi anh nhận ra lý do khiến những con chữ cứ trôi tuột đi đâu mất. Do anh quá căng thẳng. Thật kỳ lạ vì đến thời điểm này, mọi việc đều xảy ra đúng theo kế hoạch. Tuy phải điều chỉnh vài chỗ cho phù hợp với tính cách của Maris Matherly-Reed, nhưng phản ứng của cô với anh và tình trạng của anh thậm chí tốt hơn cả mong đợi.

    Giờ nghĩ lại mới thấy, việc dẫn dụ cô đến đây mới dễ dàng làm sao! Anh giật dây, và cô là con rối trong tay anh. Anh đoán việc đó làm Mike khó chịu. Mong muốn hợp tác với anh là điểm yếu của cô và làm cô gần như trở thành một nạn nhân.

    Nhưng cô không phải, anh bướng bỉnh tự nhủ.

    Phải, anh đã cố tình khích bác để cô làm điều ngược lại, nhưng quyết định là của cô. Tất cả phụ thuộc vào việc cô thích Đố kỵ đến mức nào, hoặc cô có thích nó hay không.

    Và điều đó làm anh căng thẳng. Không phải cái kế hoạch mà anh đã dày công sắp đặt, mà với tư cách một nhà văn, anh nóng lòng muốn nghe cô đánh giá bản thảo. Ngộ nhỡ cô nói nó chẳng ra gì? Nếu cô cảm ơn anh vì đã viết tiếp câu chuyện, nhưng cô rất tiếc phải từ chối và nói lời chào tạm biệt thì sao?

    Kế hoạch của anh bị phá sản, còn anh sẽ sụp đổ.

    Trong lòng cực kỳ xáo động, anh quay xe lăn lại và nhìn thấy cô đang thận trọng tìm lối đi giữa ngôi nhà chính và gian nhà nhỏ, trước vốn là gian bếp của đồn điền. Parker đã cải tạo nó thành nhà khách. Không phải anh có nhiều khách đến chơi nhà. Không phải anh có dự định gì cho tương lai. Mặc dù vậy, anh không tiếc tiền tu sửa, thay đổi hoàn toàn nội thất bên trong.

    Vì một vị khách duy nhất – người hiện đang ở đây.

    Maris nhìn lên và bắt gặp ánh mắt anh qua cửa kính phòng tắm nắng. Cô mỉm cười và vẫy tay. Vẫy tay ư? Anh không thể nhớ lần cuối cùng có ai vẫy tay với anh. Anh giơ tay vẫy lại một cách ngớ ngẩn.

    Cô mở cánh cửa trượt bước vào phòng. "Chào buổi sáng."

    “Xin chào.”

    Hơi sương lấm tấm và mùi thơm của hương hoa phảng phất trên da cô. Hoa mộc lan, anh nghĩ thế. Tay cô cầm tập bản thảo.

    “Ở đây đẹp quá, Parker.” Cô nồng nhiệt thốt lên. "Đêm qua tối quá nên tôi không nhìn rõ cơ ngơi. Trong ánh sáng ban ngày, tôi hiểu tại sao anh thích nơi này." Cô dõi mắt ra bãi cỏ xanh mướt dài tít tắp đến tận bờ biển và mặt nước Đại Tây Dương xanh thẫm lấp lánh dưới ánh mặt trời. "Thật tuyệt vời. Thật yên bình."

    "Tôi quên máy sấy tóc.”

    Cô đưa tay lên vén tóc ra sau tai. “Tôi tìm nhưng không thấy. Thực ra cứ để nó khô tự nhiên cũng tốt, trong buổi sáng nắng ấm như thế này. Máy sấy tóc là thứ duy nhất còn thiếu. Anh đã sửa sang nhà khách thành chốn tuyệt vời."

    "Cảm ơn."

    Cái nhìn chăm chú của anh khiến cô bối rối. "Đồ nội thất thật dễ thương. Tôi đặc biệt thích chiếc giường sắt và bồn tắm chân rồng.”

    "Là ý tưởng của Mike."

    "Đẹp lắm."

    "Phải, anh ấy rất thích chúng. Giường sắt. Bồn tắm. Lò sưởi."

    "Anh ấy rất có khiếu thẩm mỹ."

    "Đồng ý."

    Sau một lúc im lặng, cả hai cùng lúc lên tiếng.

    Anh nói. "Áo của cô bị ướt."

    Cô nói. "Tôi đã đọc xong chương mới."

    "Cô nghĩ sao?" Anh hỏi.

    "Áo của tôi?" Cô hỏi.

    "Còn ướt."

    Cô nhìn xuống và nhận ra cái đã thu hút sự chú ý của Parker từ lúc cô bước vào phòng. Từ hôm qua đến giờ cô chỉ mặc một bộ quần áo. Sau bữa tối, Mike khăng khăng giữ cô ở lại. Cô nhận lời, nhưng không thể nhờ chuyển hành lý từ khách sạn ở Savannah đến vì đã quá trễ.

    Vì vậy cô phải mặc lại bộ hôm qua, chỉ thiếu áo khoác vì thời tiết sáng nay khá nóng. Trên chiếc áo chưa khô hẳn, áo ngực của cô hằn lên rõ mồn một.

    Cô cuộn tròn tập bản thảo trước ngực như để che chắn. "Tôi phải giặt giũ vài thứ đêm qua."

    Vài thứ? Nếu cô phải giặt nhiều thứ thì còn gì để mặc khi đi ngủ? Những hình ảnh nhảy múa trong đầu khiến Parker thấy mình cũng trở nên ướt át.

    “Tôi cho rằng chúng chưa khô lắm.” Cô nói bằng giọng hài hước.

    "Ẩm ướt."

    "Phải."

    Ánh mắt họ gặp nhau trong một phần ngàn giây trước khi cô nhìn đi chỗ khác. Cô xấu hổ - tốt thôi. Có thể nói là tuyệt vời. Anh muốn làm cô bối rối và mất cân bằng. Nếu Mike phản đối chiến thuật này, cứ mặc kệ anh ta.

    Anh rướn người lên để lấy tập bản thảo trên tay cô. "Cô đọc chưa?"

    "Ba lần."

    Anh nhướng mày dò hỏi.

    "Tôi có vài nhận xét."

    Anh hất cằm lên trong trạng thái phòng thủ.

    "Có ai muốn ăn sáng chưa?" Mike đứng ở ngưỡng cửa, bên cạnh là chiếc xe đẩy ngồn ngộn thức ăn gồm trứng bác, thịt xông khói và dưa hấu cắt khoanh. Trong chiếc rổ mây, bánh quy mới ra lò được bọc trong một chiếc khăn. Một bát nước xốt thịt đầy tràn, một đĩa cháo ngô còn bốc khói với viên bơ đang tan chảy nằm ở giữa.

    Bụng sôi réo, miệng ứa nước trước mùi vị hấp dẫn của thức ăn nhưng Parker không thể không nghi ngờ thời điểm Mike xuất hiện. Chắc chắn anh ta cố tình. Anh ta lảng tránh ánh mắt anh cho đến khi anh lên tiếng. "Hiểu rồi nhé, ông già."

    "Gì chứ?" Mike hỏi lại bằng giọng ngây ngô.

    Parker bắn cho Mike một cái nhìn ngờ vực, nhưng anh ta phớt lờ và ra hiệu cho Maris ngồi vào chiếc bàn nhỏ mà Parker thường dùng bữa trong khi làm việc.

    "Lạy chúa." Cô hoảng hốt nhìn Mike bày các món la liệt lên bàn. "Tôi thường ăn bánh mì và cà phê thôi."

    Mike cười cô và thuyết giáo về tầm quan trọng của bữa sáng. Anh ta hỏi. "Cô có thích cháo ngô không?"

    "Tôi không biết. Nó như thế nào?" Parker và Mike cùng cười khi cô múc một muỗng vào miệng, liều lĩnh nuốt xuống rồi nói một cách lịch sự. "Từ từ rồi sẽ quen."

    “Đưa cái bánh quy để tôi rưới nước xốt lên.” Mike nói.

    Cũng là một món mới, nhưng cô lập tức tuyên bố là nó rất ngon. "Sáng nào các anh cũng ăn như thế này à?"

    "Hôm nay là dịp đặc biệt." Mike nói.

    “Anh ấy đang cố gây ấn tượng với cô”. Parker nhận xét.

    "Anh đã thành công." Cô nở nụ cười sáng chói làm Mike tan chảy, trong khi tim Parker nhói lên vì ghen tị. Anh càu nhàu với chiếc đĩa của mình. “Anh sẽ gây ấn tượng với cô ấy nếu để một chiếc máy sấy tóc trong nhà khách.”

    Cô và Mike nhàn nhã thưởng thức bữa sáng, vừa ăn vừa trò chuyện rôm rả trong khi Parker im lặng xử lý hết đĩa của mình trong một thời gian kỷ lục. Sau một lúc bồn chồn không yên, anh lăn xe vào bếp. "Đừng bận tâm." Anh ngăn Mike. “Tôi tự đi lấy” rồi quay lại với chiếc khay để bình cà phê trên đùi.

    Anh rót thêm cà phê cho tất cả mọi người rồi sốt ruột nhấm nháp ly của mình trong khi họ say sưa với chủ đề hoa đỗ quyên, làm như việc trồng được vài bụi hoa là ghê gớm lắm. Sau đó, anh cố sống sót qua phần bình luận về giá trị của phim Những chú mèo và Đại lộ hoàng hôn. Đến cuộc tranh cãi sôi nổi về việc phụ nữ có được chơi ở giải NBA không thì Parker không còn giữ được bình tĩnh và thô lỗ cắt ngang.

    "Giờ chúng ta nói về quyển sách của tôi được chưa?"

    "Sao phải gấp thế chứ?" Mike hỏi.

    "Đây không phải nhà trọ qua đêm có kèm bữa sáng."

    "Tôi ước gì được như thế." Mike vơ hết bát đĩa xếp lên xe đẩy. "Ít nhất cũng có người để tám chuyện thoải mái."

    "Tôi đây rất sẵn lòng."

    "Chán như con gián."

    Parker bật cười, vò chiếc khăn ăn thành một cục ném lên xe đẩy. "Mau giải quyết đống chén đĩa rồi quay lại đây. Anh là một người chủ nhà tốt bụng và lịch thiệp, nhưng tôi biết anh muốn nghe Maris nói về Đố kỵ hơn."

    Mike vừa đi ra vừa càu nhàu trong miệng.

    "Dám cá là anh ta đang nói xấu tôi." Parker nói khi đã chắc chắn là Mike không nghe thấy.

    "Hai anh có bà con với nhau không?"

    "Không phải ruột thịt."

    "Anh ấy rất quý anh."

    Parker nhìn cô bằng ánh mắt sắc lạnh. Khi nhận ra cô không hề có ý mỉa mai đùa cợt, lời trả đũa sâu cay trên môi anh tan biến. Anh ngẫm nghĩ về lời nhận xét đơn giản của cô rồi chậm rãi trả lời. "Phải, tôi nghĩ như vậy."

    "Anh không để ý tới?"

    "Tôi chỉ không nói ra."

    "Lúc nào anh ấy cũng chăm sóc anh à?"

    "Không phải luôn luôn."

    "Ý tôi là sau tai nạn của anh."

    "Tai nạn gì?"

    Cô chỉ vào xe lăn. "Tôi tưởng ..."

    "Điều gì khiến cô cho rằng đó là một tai nạn?"

    "Không phải sao?"

    Mike lại xuất hiện ở ngưỡng cửa, cử chỉ ngượng ngùng như một kẻ chen ngang câu chuyện. Parker vẫy anh ta vào, thầm cảm ơn sự xuất hiện đúng lúc của anh ta. Một lần nữa, anh cho rằng đó không phải là tình cờ. Không có gì thoát khỏi con mắt tinh tường của Mike Strother.

    Parker hít thở vài cái để giảm căng thẳng trước khi quay sang Maris, cô đã ngồi xuống ghế sô pha. "Chúng ta hãy bàn công việc cho xong đi."

    Cô mỉm cười. "Đây không phải là kết thúc, Parker."

    "Thật ư?"

    "Không một chút nào. Anh viết hay. Rất hay.” Cô dừng lại, liếc sang Mike.

    "Tại sao tôi lại cảm thấy tương lai của tôi có chữ ‘tuy nhiên’?"

    Cô cười rồi nhẹ nhàng nói. "Bố cục tuyệt vời."

    Mike húng hắng, mắt nhìn chằm chằm xuống đôi giày của mình."Bố cục?"

    "Truyện của anh rất xuất sắc." Cô liếm môi. “Nhưng … mới ở bề mặt. Anh chưa thật sự đào sâu cốt truyện."

    "Tôi hiểu."

    "Đây không phải là tin xấu, Parker."

    "Quá xấu."

    Anh lăn xe đến gần cửa sổ, nhìn xa xăm ra những con sóng cạn liếm vào bờ cát hết lần này rồi lần khác trước khi tan biến. Sóng ở đảo St. Anne thường không quá lớn, đặc biệt trong một ngày đứng gió như hôm nay.

    “Tôi không thất vọng vì những gì mình đã đọc.” Maris nói. "Hoàn toàn ngược lại."

    Giọng cô chùng xuống trong sự im lặng bứt rứt. Ngoài tiếng rì rì phát ra từ máy rửa chén trong bếp, không gian im lặng như tờ.

    Vai Parker rung lên bần bật. Anh đưa tay bịt miệng để ngăn âm thanh phát ra từ lồng ngực.

    Maris hoảng hốt kêu lên. "Parker, đừng như vậy."

    Anh quay xe lại nói với Mike, người cũng đang cười đến nỗi cả người rung lắc. "Anh thắng rồi, đồ khốn. Năm mươi đô."

    "Tôi nói rồi mà." Mike vừa nói vừa cười. "Linh tính của tôi rất chính xác."

    "Cộng thêm sở trường sử dụng phép điệp âm."

    Mike khẽ cúi đầu kiểu cách.

    Maris đứng dậy, ném ánh mắt tức giận sang Parker rồi Mike. Cô chống tay lên hông, quên bẵng chiếc áo ướt dính chặt vào người. "Rõ ràng tôi đang bị đem ra làm trò đùa. Các anh làm ơn giải thích được không?"

    "Không hẳn là trò đùa, Maris." Mike cố nín cười và bẽn lẽn nói. "Đúng ra là một cuộc thử nghiệm. Một bài kiểm tra."

    "Bài kiểm tra?"

    "Cách đây vài tháng, chúng tôi đọc một bài báo viết về cô. Tôi tin cô là một biên tập viên tài năng, am hiểu chuyên môn, nhưng Parker cho rằng có thể cha cô đã bỏ tiền ra …”

    "Tôi đã nói là mua chuộc." Parker xen vào.

    “ … và giao cho bộ phận quảng cáo của công ty cô viết bài báo đó." Mike.

    "Điều đó giải thích cho những lời tâng bốc đến tận mây xanh." Parker.

    "Anh ấy nói chắc cô nhờ vào danh tiếng của cha cô, rằng trông cô quá trẻ và ... thiếu kinh nghiệm …”

    "Thật ra tôi dùng từ nông cạn.''

    “ … để đánh giá một tác phẩm hay hay dở. Có lẽ cô thường chỉ đọc tạp chí."

    "Loạt bài Làm sao để có nhiều lần cực khoái."

    "Và chắc chắn cô không thể biết một quyển sách hay của ..."

    "Hãy để cô ấy tự hiểu." Parker nở nụ cười đắc ý.

    Maris nghe cuộc đối thoại giữa họ, không ngắt lời cũng không biểu lộ cảm xúc. Sau đó cô mới thong thả bước đến trước mặt Parker và khiến anh hiểu hết ngữ nghĩa của phép ẩn dụ khi mô tả những tia lửa điện bắn ra từ mắt ai đó.

    Mắt cô có màu xám xanh như những biển mây chở đầy hơi nước đến từ phía tây trong buổi chiều hè, làm dịu đi cái nắng gay gắt. Về cơ bản, nó hiền hòa, nhưng cũng có khi sóng gió nổi lên khốc liệt. Bây giờ mắt cô tối sầm như đám mây bão, thỉnh thoảng loé lên một ánh chớp sáng loà.

    "Chắc cô rất giận." Anh nhún vai một cách bất cần, thái độ không tỏ ra ăn năn chút nào. "Tôi đã nói và làm tất cả những gì có thể để ngăn cô đến đây. Nhưng cô cứ đến. Đêm qua khi tôi ... " Anh liếc nhìn Mike và quyết định không đề cập đến nụ hôn. " … thuyết phục cô về khách sạn, cô lại chọn ở lại."

    Có vẻ cô không cảm thấy được xoa dịu bởi lời giải thích. "Anh đích thị là một tên khốn, đúng không?"

    “Đúng đấy.” Anh nói một cách thoải mái.

    "Anh bẫy tôi."

    "Lỗi tại tôi."

    "Nếu tôi khen anh, anh sẽ biết tôi không thành thật."

    "Hoặc là một biên tập viên xoàng xĩnh."

    "Nhưng tôi biết." Mike xen vào. "Tôi đã đọc vài quyển do cô biên tập, nên tôi đặt cược năm mươi đô la với Parker rằng đánh giá của anh ấy hoàn toàn vô căn cứ và sai lầm."

    Maris nghe thấy hết, nhưng cô thậm chí không nhìn sang phía Mike. Sự tức giận của cô dồn cả vào Parker. Anh nở nụ cười ranh mãnh của con cá sấu vừa nuốt chửng ổ vịt con, việc mà anh biết sẽ càng đẩy sự tức giận của cô lên đến đỉnh điểm. “Bây giờ đã hối hận vì đến đây chưa? Muốn gọi tàu về ngay không? ”

    Cô hất mớ tóc ướt ra sau lưng. "Vì sao cha của Todd chết?"

    Tim Parker nảy lên vì nhẹ nhõm. Anh nhoẻn cười tinh quái nhằm che dấu sự lo lắng.

    "Ông mất đột ngột hay do bị bệnh đã lâu?" Cô hỏi.

    "Có nghĩa là cô vẫn không từ bỏ?"

    "Todd buồn hay vui trước cái chết của cha mình? Anh ta có yêu quý cha mình không? Hay cái chết của ông là sự giải thoát cho anh ta?"

    Cô đẩy chiếc ghế lại gần, giật tập bản thảo trên tay anh rồi ngồi xuống.

    "Anh hiểu ý tôi chứ?"

    "Tâm lý nhân vật cần phải được đào sâu hơn nữa."

    "Đúng. Quê họ ở đâu? Gia đình thế nào? Giàu, nghèo, hay trung lưu? Tuổi thơ của họ giống hay hoàn toàn khác biệt? Cả hai đều muốn trở thành nhà văn, nhưng anh chưa nói rõ lý do. Đơn giản vì tình yêu dành cho sách? Hay là cách để Roark giải khuây, hoặc trút giận? Có phải đó là thần dược xoa dịu những nỗi bất hạnh của Todd?"

    "Thần dược hả?"

    "Anh đang nghe đấy chứ?"

    "Tôi phải tra cứu lại."

    "Anh biết thừa nó là cái gì." Cô cáu kỉnh.

    Anh lại cười. "Đồng ý." Từ khóe mắt anh thấy Mike rời khỏi phòng, cẩn thận khép cửa lại.

    Maris vẫn say sưa nói. "Cuộc sống trong ngôi nhà chung …”

    "Sẽ nói rõ hơn trong chương tiếp theo."

    "Đã có chương tiếp theo?"

    "Tôi mới viết sáng nay."

    "Tuyệt vời. Tôi thích đoạn này. Rất sống động. Khi đọc, tôi như ngửi thấy mùi của những chiếc tất thối." Cô tao nhã rùng mình. "Và cái bàn chải đánh răng ..."

    "Sao?”

    "Quá sinh động để cho rằng nó hư cấu. Có phải kinh nghiệm thực tiễn của anh không?"

    "Còn chỗ nào khác cần chỉnh sửa không?" Anh hỏi.

    “Tôi hiểu. Tất cả những câu hỏi cá nhân đều bị cự tuyệt."

    "Nếu giặt đồ lót đêm qua, cô mặc gì ngủ nhỉ?"

    Cô lấy hơi như định tuôn ra một tràng dài, nhưng cuối cùng đổi ý. Anh có thể nghe tiếng răng nghiến kèn kẹt khi cô cố mím môi thật chặt.

    Anh nghiêng đầu, nheo mắt như muốn đưa cô vào đúng tầm ngắm hơn. "Không có gì, đúng không?"

    Cô cụp mắt nhìn xuống lòng mình. Hoặc lòng anh. Anh muốn nói – Vâng, nó vẫn chạy tốt, nhưng nếu cô muốn biết, tại sao không chạm vào và khám phá? Nhưng anh không nói gì, bởi vì rất có thể cô sẽ gọi tàu về đất liền ngay lập tức.

    "Anh đã nêu quan điểm." Cô trả lời cộc lốc. "Không có câu hỏi cá nhân."

    Cô lật xấp bàn thảo, xem lại những điểm ghi chú. "Tôi muốn anh đào sâu tất cả." Cô ngước lên để xem phản ứng của anh rồi thở dài. "Anh biết rồi, phải không? Anh biết trước tôi sẽ nói gì."

    Anh gật đầu. "Tôi lướt qua bề mặt, như cô đã nói."

    "Để kiểm tra năng lực của tôi."

    "Ừm."

    "Tôi phải thử giọng trước khi hát?"

    "Gần như thế."

    Cô đáp lại bằng nụ cười chân thành và rộng lượng. Cô tốt bụng và đối xử với anh nhẹ nhàng hơn những gì anh xứng đáng nhận. Thực ra, anh sẽ dễ chịu hơn nếu cô quát tháo, chỉ trích anh bằng những ngôn từ thô tục nhất hoặc cho anh một cú đấm vào giữa mặt. Kế hoạch của anh sẽ dễ thực hiện hơn nếu cô cũng xấu xa như anh. Họ là những đối thủ không cân sức. Cô không phải đối thủ của anh, và thậm chí cô còn không biết điều đó.

    Anh nói. "Đáng lẽ cô phải bảo Mike và tôi cút đi cho rảnh."

    "Cha tôi không bao giờ tán thành cách cư xử đó."

    "Cô gắn bó với cha lắm nhỉ?"

    "Đặc biệt gắn bó. Ông là người cha tuyệt vời, một quý ông, một nhà thông thái. Ông ấy thích anh."

    Anh bật ra tiếng cười khô khan. "Nếu là một quý ông, ông ấy sẽ không."

    "Anh nhầm rồi. Ông thích những hành vi càn rỡ của anh. Thậm chí ông còn gọi là can đảm và tự tin "

    Parker mỉm cười. "Tôi bắt đầu ngưỡng mộ ông rồi đấy."

    "Ông đã đọc chương mở đầu của anh và rất thích. Chính ông đã khuyến khích tôi theo đuổi quyển sách này."

    Anh chỉ tay vào tập bản thảo. "Vậy tiếp tục xem thử nào."

    Cô lại nhìn những ghi chú của mình. "Cứ từ từ, Parker. Đừng giới hạn số trang. Cứ để việc chỉnh sửa cho tôi. Anh không cần tiết lộ tất cả thông tin trong những chương đầu. Nó có thể nằm rải rác trong câu chuyện, nhưng hãy viết về cuộc sống của các nhân vật trước khi gặp nhau. "

    "Tôi biết." Anh gõ nhẹ vào thái dương. "Ở trong này."

    "Tốt. Nhưng bạn đọc không đọc được suy nghĩ của anh."

    "Tôi hiểu."

    "Tạm thời chỉ có thế, cho đến lúc này."

    Cô sửa lại tập bản thảo cho ngay ngắn. "Tôi mừng vì đã vượt qua bài kiểm tra ngớ ngẩn của các anh." Cô thú nhận. "Đã lâu tôi không làm việc này. Tôi không nhận ra mình đã nhớ nó đến mức nào cho đến khi viết ra những ghi chú quen thuộc đêm qua. Tôi thích khám phá câu chuyện, động não cùng tác giả, đặc biệt những người có tài.”

    Anh chỉ vào mình. "Người đó có thể là tôi sao?"

    "Chính là anh. Chắc chắn."

    Ánh mắt thẳng thắn và nghiêm túc của cô khiến anh không thoải mái. Anh nhìn ra đại dương, để khỏi nhìn thấy sự chân thành của cô, để không cảm thấy ... những gì anh đang cảm thấy. Chấm hết.

    Có lẽ anh mới là đối thủ không xứng tầm

    Một cái huých nhẹ vào đầu gối khiến anh giật mình quay lại. "Anh có thể cho tôi biết nhân vật nào là …”

    "Đi đi, làm ơn." Anh lăn xe ra, hướng đến bàn làm việc. "Tôi đang bị một biên tập viên hiếu chiến đổ cả đống việc lên đầu đây."

    * * *

    Đứa trẻ "Đố kỵ". 4

    1985

    Vào sáng thứ Ba, hai ngày trước Lễ tạ ơn, trời nhiều mây mù và rét buốt. Cứ như đã định sẵn là gà tây đút lò và bánh bí đỏ không thích hợp với thời tiết ôn hòa, một đợt không khí lạnh tràn về đúng vào kỳ nghỉ.

    Đồng hồ báo thức của Roark kêu inh ỏi lúc bảy giờ rưỡi. Bảy giờ bốn mươi lăm, anh đã cạo râu, tắm rửa và thay quần áo xong. Tám giờ kém mười, anh có mặt trong phòng ăn dưới nhà, vừa uống cà phê vừa xem lại tập bản thảo. Không biết giáo sư Hadley sẽ vùi dập những nỗ lực sáng tạo đã hút cạn trái tim và linh hồn anh như thế nào đây.

    Kỳ nghỉ Lễ Tạ ơn có vui vẻ hay không phụ thuộc vào kết quả buổi hội ý hôm nay. Anh sẽ có những ngày cuối tuần thư giãn và phong lưu nếu ông ta thông qua, nếu không, anh sẽ nhốt mình trong bể bế tắc và hoài nghi bản thân.

    Dù thế nào đi nữa, anh không còn phải đợi lâu. Bản án sẽ sớm được đưa ra. Phán xét của Hadley tốt, xấu hay gớm ghiếc cũng là sự giải thoát cho anh. Cái cảm giác chờ đợi mệt mỏi trời đánh!

    "Bánh mì ngọt chứ Roark?"

    Anh nhìn lên, bà quản lý đã đứng bên cạnh từ lúc nào. "Có chứ, cảm ơn vú."

    Sau khi nhập hội, Roark đã phong cho bà quản lý ngôi nhà chung là người phụ nữ chịu nhiều đau khổ nhất hiện còn sống. Từ bỏ cuộc sống êm đềm của một quả phụ, bà Brenda Thompson tình nguyện vào ngôi nhà ba tầng cai quản tám mươi hai tên vô lại như trong trại cải tạo chín tháng.

    Bọn họ chẳng coi trọng cái gì, dù người hay tài sản. Không có gì là bất khả xâm phạm – Chúa, đất nước, quê hương, thú cưng, chị em gái hay mẹ của bạn mình. Chuyện gì cũng có thể xảy đến với những người thân yêu nhất. Mọi thứ đều có thể bị đem ra giễu cợt thô bỉ.

    Bọn họ ăn ở bẩn như hủi. Tám mươi hai nam thần thuộc phân loài tinh khôn của chi người, chia thành nhiều nhóm hai người trở lên cố thủ trong hang như phân loài Neanderthal cổ xưa đã bị tuyệt chủng. Tất cả những gì bị cấm đoán ở ngoài đều được làm trong ngôi nhà chung. Càng khiếm nhã càng được tôn vinh nhiệt liệt.

    Bà Thompson, một người đoan trang, nhẹ nhàng chỉ biết bấm bụng chịu đựng đủ loại ngôn ngữ kinh tởm và thói quen sinh hoạt còn kinh tởm hơn của bọn họ. Tình thương yêu và bao dung như người mẹ đã giành được sự tin cậy và tình cảm của bọn họ. Nhưng khác với những bậc phụ huynh thực thụ, bà không có bất cứ hình phạt nào cho những đứa con hư hỏng.

    Bà nhắm mắt làm ngơ khi cả bọn đắm mình trong rượu chè, bạo lực và tình dục. Bọn họ có thể vặn nhạc to hết cỡ, không thay ga giường suốt học kỳ, thậm chí lâu hơn nữa. Khi phát hiện bộ lông con mèo cưng của cô gái vừa chia tay một thành viên trong hội bị cạo thành chữ hội huynh đệ, bà không la mắng mà còn khen tay nghề điêu khắc của kẻ thủ ác.

    Mỗi khi có mặt bà, đặc biệt vào buổi ăn tối truyền thống của hội vào thứ tư hàng tuần với áo khoác, cà vạt đi kèm văn minh lịch sự, bọn họ liên tục nói xin lỗi sau khi chửi thề, ợ hơi và đánh rắm bằng thái độ chân thành rất đáng ngờ. "Xin lỗi vú." Bà luôn tha thứ cho kẻ phạm tội với nụ cười nhẫn nại để rồi một hành vi tương tự lại xảy ra vài giây sau đó.

    Bọn họ có một bà bảo mẫu lý tưởng.

    Vì lý do nào đó, bà ưu ái Roark hơn tất cả mọi người, trong khi anh cũng xấu tính và tệ hại như bất kỳ ai. Sau bữa tiệc kiểu La Mã trong năm thứ hai, anh say đến mức nằm mê man bên cây đàn piano ở phòng khách và chỉ tỉnh dậy vì sặc sụa trong bãi nôn có vị Jack Daniel.

    Xuất hiện trong chiếc áo choàng vải và đi dép lê, bà Thompson lay vai anh và hỏi anh có sao không. "Con ổn." Anh lẩm bẩm mặc dù không phải vậy.

    Không phàn nàn tiếng nào, và với vẻ nghiêm trang như một nữ tu, bà giật chiếc khăn mà ai đó đã phủ lên con búp bê bằng nhựa, một linh vật khiêu dâm không chính thức của ngôi nhà chung, đắp lên người Roark. Anh vẫn nằm đó, lạnh thấu xương, thảm hại như con chó ốm và bốc mùi thấu trời xanh.

    Từ đêm đó trở đi, bà dành cho anh một tình cảm đặc biệt. Có lẽ vì khi tỉnh dậy, anh đã cảm ơn lòng tốt và xin lỗi vì đã làm phiền giấc ngủ của bà. Hoặc vì anh đã tự giác đem tấm thảm nhỏ dưới chân cây đàn đi giặt. Không ai trong nhà biết anh làm bẩn tấm thảm và cũng chính anh làm sạch nó, trừ bà Thompson. Chắc hẳn những lần cúi chào theo phép lịch sự thông thường của anh khiến bà nghĩ rằng anh vẫn chưa hết thuốc chữa, rằng ít nhất anh cũng là người có giáo dục.

    "Hôm nay con dậy sớm hơn bình thường thì phải?" Bà hỏi, đặt chiếc đĩa giấy đựng bánh rán nhân thạch cạnh cốc cà phê. Bình thường, bà không phục vụ ăn uống cho ai cả. Giống như trong nhà hàng tự phục vụ, bọn họ tự chọn thức ăn mà nhà bếp bày ra giống như người nông dân đổ đầy máng thức ăn cho gia súc, rồi trả tiền.

    “Sáng nay con phải đến gặp thầy hướng dẫn.” Anh giải thích. Vì tôn trọng bà, anh lấy khăn lau thay vì liếm lớp đường bánh dính trên tay.

    Bà chỉ tập bản thảo. "Đây có phải là quyển sách con viết để tốt nghiệp không?"

    "Dạ. Con vừa mới viết xong."

    "Vú chắc rằng nó rất hay."

    "Cảm ơn vú. Con mong là thế."

    Bà chúc anh may mắn rồi đến chào người vừa bước vào phòng. Hắn là người đẹp trai nhất hội, và mọi cô gái đều lao vào hắn như những con thiêu thân. Mọi người muốn ganh ghét hắn vì vẻ bề ngoài trời cho cũng không được vì hắn rất tốt bụng. Thay vì tận dụng lợi thế, hắn tỏ ra khinh thường, thậm chí khá bối rối vì ngoại hình như một ngôi sao điện ảnh của mình.

    Hắn nhìn thấy Roark và hất chiếc cằm chẻ lên. "Sao nào, Shakespeare."

    "Sao nào, RB?"

    Ai cũng có biệt danh, và câu chào chung là "Sao nào?" Không cần trả lời. Đó là cách bọn họ chào hỏi nhau.

    Biệt danh của Roark – đối với tất cả mọi người, ngoại trừ Todd – là Shakespeare. Ai trong hội huynh đệ cũng biết anh thích viết, và William Shakespeare là cái tên mà hầu hết bọn họ có thể nhớ ra nếu bị dí súng vào đầu. Anh không cố giải thích với bọn họ là Shakespeare viết kịch và thơ, trong khi anh viết văn xuôi. Đó là những khái niệm quá phức tạp để có thể nắm bắt, đặc biệt là hội huynh đệ, những người mà khi giáo viên tiếng Anh đưa bức chân dung của Shakespeare ra và hỏi tên đã trả lời là, “Tại sao thầy có thể cho là em biết hết tên mọi vị tổng thống nhỉ? "

    Roark cảm thấy ngài ngại khi được gán cho biệt danh này, nhất là vào sáng nay. Anh xem đồng hồ đeo tay, còn mười lăm phút để đi đến văn phòng Hadley. Dư sức kịp. Mặc dù vậy, anh vội nốc cạn cốc cà phê, cho bản thảo vào bìa hồ sơ đã sờn nát cất vào ba lô rồi rời phòng ăn.

    Mãi đến khi ra khỏi nhà, anh mới nhận ra sự thay đổi chóng mặt của thời tiết chỉ sau một đêm. Những cơn gió heo hút đem theo cái lạnh cắt da cắt thịt, tuy không thể làm hồ nước trong khuôn viên trường bị đóng băng nhưng đủ để anh hối tiếc vì đã không chọn một chiếc áo ấm hơn.

    Tòa nhà Language Arts thuộc phong cách kiến trúc Georgian giống như các tòa nhà khác trong trường, nhưng cũ hơn và thanh lịch hơn với cổng vòm rộng và sáu cây cột trắng. Bức tường bằng gạch đỏ ở phía bắc xanh rì cây thường xuân Boston đã đổi sang sắc cam tự lúc nào.

    Roark rảo bước nhanh khi nhìn thấy tòa nhà, vì muốn tìm một nơi ấm áp hơn là vì sợ đến muộn. Bất chấp sự giáo dục nghiêm ngặt của gia đình, kể cả việc đi lễ nhà thờ vào mỗi chủ nhật, anh vẫn mơ hồ về sự tồn tại của Chúa. Anh không tin Đấng cứu thế lại quan tâm đến những thử thách hàng ngày của Roark Slade. Nhưng hôm nay không phải là ngày khước từ những đặc ân kỳ diệu có thể xảy ra, vì vậy anh lẩm bẩm dâng lên ngài những lời cầu nguyện rối rắm khi bước qua cửa.

    Mùi khói tỏa ra từ những chiếc lò sưởi cũ. Sáng nay chúng được tận dụng hết công suất để làm ấm không khí, thậm chí gây nóng bức. Anh vừa chạy thang bộ lên tầng hai, vừa cởi ba lô và áo khoác ra.

    Nhiều bạn học cùng khoa vẫy tay với anh. Một gã hippy người mỏng tang, đeo kính John Lennon màu hồng phấn và buộc tóc nhảy cẩng lên. "Chào, Slade."

    Chỉ có các nữ sinh mới gọi anh là Roark. Ngoại trừ Todd, anh chắc rằng không nam sinh viên nào trong trường biết tên anh.

    "Cà phê không? Mình cùng nhóm làm luận văn. Mười giờ ở Câu lạc bộ."

    "Tao không biết có rảnh không, giờ phải vào gặp Hadley."

    "Ý mày là bây giờ?"

    "Ngay bây giờ."

    "Chết tiệt. Chúc may mắn."

    "Cảm ơn. Gặp sau."

    "Gặp sau."

    Roark đi dọc hành lang. Bánh rán nhân thạch không phải là một lựa chọn tốt. Nó nặng bụng như đeo một quả bóng bowling. Cà phê làm chua miệng, và anh trách mình không có kẹo bạc hà. Đến phòng 207, anh dừng lại hít thở mạnh. Cửa chỉ khép hờ.

    Anh chùi 2 bàn tay ướt đẫm vào quần jean rồi gõ nhẹ.

    "Mời vào."

    Hadley ngồi sau bàn làm việc, hai chân xỏ trong đôi Hush Puppies da lộn màu nâu gác lên ngăn kéo trên cùng. Chồng sách chễm chệ trên đùi ông ta, một nơi tận dụng để sách cũng như tất cả mặt phẳng có thể tìm thấy trong phòng. Một lượng cây đáng kể đã bị nghiền nát để sản xuất ra số giấy hiện có trong văn phòng của Hadley. Tính theo mét vuông, đây có lẽ là nơi tiêu thụ giấy lớn nhất toàn cầu.

    "Chào thầy."

    "Chào anh Slade."

    Giọng ông ta hơi sẵng, hay chỉ là trí tưởng tượng của anh thôi nhỉ?

    Phong cách của ông ta không bao giờ có thể được mô tả là thân thiện. Không giống những giáo sư trợ giảng, ông ta không bao giờ thấy hài lòng với học trò của mình và thường tỏ thái độ khinh thường không giấu diếm. Ngay cả khi họ đạt được điểm số cao vời vợi trong bài kiểm tra cũng không thể thay đổi sự đánh giá của ông ta.

    Cách giảng dạy của ông ta khiến ai cũng thấy mình như một gã khờ. Chỉ khi lòng tự trọng trong gã khờ sụp đổ tan tành, Hadley mới hạ cố chỉ bảo vài đường. Ông ta tin rằng sự sỉ nhục hèn hạ sẽ rèn giũa khả năng học hỏi của con người.

    Roark bước hẳn vào trong căn phòng chật chội, tự trấn an rằng cộc lốc là thói quen của Hadley và không có gì phải hoảng hốt.

    "Đừng đóng cửa." Hadley nói.

    "Xin lỗi." Roark đưa tay ra sau để chặn cánh cửa anh vừa đóng lại.

    "Nên thế."

    "Sao ạ?"

    "Thính giác của anh không ổn hay sao, anh Slade?"

    "Tai của em? Ồ không, thưa thầy."

    "Vậy thì anh hẳn đã nghe tôi nói anh nên xin lỗi. Anh đã ..." Ông ta liếc qua vai trái của Roark. "trễ năm mươi sáu phút rưỡi."

    Roark quay lại theo hướng nhìn của ông ta. Trên tường là chiếc đồng hồ trắng, số đen.

    Mỗi gạch tượng trưng một phút trong tổng số sáu mươi phút. Kim ngắn chỉ số chín. Kim dài còn cách số mười hai ba gạch.

    Ông ta lú lẫn mất rồi, Roark nghĩ. Nhưng có gì đó xẹt ngang đầu anh. Có gì sai chăng?

    Anh hắng giọng. "Xin lỗi, thưa thầy, nhưng em đúng giờ. Buổi hẹn của chúng ta được ấn định lúc chín giờ."

    "Tám giờ."

    "Lúc đầu, đúng. Thầy có nhớ đã gọi và đổi sang chín giờ không? Thầy nhắn với bạn cùng phòng của em như thế."

    "Tôi đảm bảo với anh rằng trí nhớ của tôi hoàn hảo, anh Slade. Tôi không nói như thế.” Hadley trừng mắt nhìn anh dưới hàng lông mày rậm. "Buổi hẹn của chúng ta lúc tám giờ."
     
    Chỉnh sửa cuối: 18/11/22
    Thuyhuynh19, hathao, lynx and 6 others like this.
  18. iusach

    iusach Lớp 7

    Chương 10

    Ông già rồi.

    Mãi đến tận bây giờ, Daniel Matherly mới nghĩ mình già. Trước đây ông chẳng bao giờ tự nhận mình già yếu. Tất cả phong bì quảng cáo của Hiệp hội hưu trí AARP gửi đến đều bị ông vứt vào sọt rác mà không mở ra xem, còn mọi chính sách ưu tiên dành cho công dân cao niên đều bị ông từ chối.

    Nhưng bây giờ, hình ảnh già nua trong gương không cần phải bàn cãi, còn cảm giác đau nhức xương khớp toàn thân là bằng chứng cụ thể nhắc nhở ông không còn là một … sinh viên mới tốt nghiệp.

    Ông ngồi bên chiếc bàn làm việc tại nhà, ngẫm nghĩ rất lâu rồi tự cười mình. Chỉ có những ông già bà lão mới lẩn thẩn suy ngẫm về triết lý nhân sinh, đúng không nhỉ? Một khi lo lắng về cơ thể ngày càng xuống dốc, ấy là lúc sức khỏe có vấn đề.

    Tuổi trẻ không có thời gian để ý hoặc nghĩ về bệnh tật và cái chết. Học hành, mưu sinh, kết hôn, ly dị, nuôi con. Họ chẳng bận tâm đến cái kết cục xa xôi. Quy luật “sinh, lão, bệnh, tử” cất vào tiềm thức để sau tính. Đôi khi thoáng nghĩ đến, nhưng rồi họ nhanh chóng chuyển sang những vấn đề trực tiếp trước mắt liên quan đến sống hơn là chết.

    Tuy nhiên, vào một ngày nào đó, cái chết không còn là một điều mơ hồ nữa và họ phải đối diện với nó. Daniel không lo lắng thái quá về điều không thể tránh khỏi, nhưng ông biết đã đến lúc sửa soạn cho cái chết của mình.

    Maxine tận tụy cứ tưởng đêm nào ông cũng ngon giấc, sự thật hoàn toàn trái ngược. Ông cũng nói dối Maris rằng ông ngủ sâu và bình yên. Lúc còn trẻ, ông không bao giờ ngủ quá bốn hoặc năm tiếng mỗi đêm. Tuổi càng cao thì càng ngủ ít đi, bây giờ may mắn lắm mới được hai ba tiếng.

    Thời gian còn lại ông nằm trên giường đọc sách, các tác phẩm kinh điển gối đầu giường thời đi học, sách bán chạy nhất trên thị trường và sách do chính tay ông biên tập và xuất bản.

    Khi không đọc, ông ôn lại những cột mốc quan trọng trong cuộc đời mình, những thời khắc vinh quang lẫn những vụ việc tồi tệ đáng quên. Ông nhớ về người bạn thân đã chết vì bệnh bạch cầu. Nếu được sinh ra muộn hơn vài thập kỷ, hẳn anh ta sẽ được chữa khỏi và sống đời viên mãn.

    Ông sống lại nỗi đau khi chia tay mối tình đầu. Khi sự việc đã qua và bình tĩnh nhìn nhận lại bản thân, ông mới thấy sự lựa chọn của cô ấy hoàn toàn đúng đắn, nhưng vào thời điểm đó nó làm con tim ông tổn thương sâu sắc. Họ không bao giờ gặp lại nhau sau ngày cưới của cô ấy. Nghe nói gia đình cô chuyển đến California. Cô có hạnh phúc không? Cô có còn sống không?

    Người vợ đầu chiếm một vị trí quan trọng đến nỗi ông tưởng như không gượng dậy nổi khi cô ấy qua đời. Nhưng rồi ông gặp Rosemary, mẹ của Maris, và không nghi ngờ gì nữa, cô ấy chính là tình yêu của đời ông. Xinh đẹp, quyến rũ, duyên dáng, tinh tế, thông minh, cô ấy là người bạn tâm giao hoàn hảo và là người tình nồng nhiệt. Cô ấy luôn tin tưởng và đồng hành cùng người chồng tham công tiếc việc, ở công ty nhiều hơn ở nhà. Ấy thế mà chưa một lần ông nói được lời cảm ơn để bày tỏ sự biết ơn, trân trọng đối với cô ấy.

    Trong nhận thức muộn màng, ông hối hận vì ham mê công việc mà ít quan tâm tới Rosemary. Nếu thời gian quay trở lại, mọi việc sẽ khác đi. Ông sẽ sắp xếp lại thứ tự ưu tiên, dành nhiều thời gian và năng lượng hơn cho gia đình.

    Cũng có thể ông chẳng thay đổi gì cả và lại phạm sai lầm cũ.

    Ông không có nhiều điều phải hối tiếc, trừ lần sa thải một biên tập viên vì bất đồng quan điểm. Ông rỉ tai mọi người anh ta là người đồng tính, một việc khó chấp nhận hoặc thậm chí không được chấp nhận vào lúc đó. Ông lên án anh ta để cuộc sống cá nhân ảnh hưởng đến công việc. Thật ra anh ta là một biên tập viên xuất sắc, có đạo đức nghề nghiệp tốt. Dù có năng lực và đầy đủ bằng cấp, không một công ty nào dám nhận anh ta vào làm việc nữa. Kết quả là anh ta phải bỏ xứ mà đi. Vì một mâu thuẫn nhỏ, ông đã hủy hoại sự nghiệp đầy hứa hẹn của một biên tập viên tài năng, khiến ngành xuất bản mất đi một nhân tài. Ông sẽ phải ăn năn đến khi xuống mồ.

    Tình yêu mới lại đến với ông nhiều năm sau khi Rosemary mất, nhưng nó không hề dễ dàng đối với một người cha phải chăm sóc cô con gái tuổi teen. Dù đã cố gắng phân chia thời gian đồng đều, ông vẫn không làm cô ấy hài lòng. Cô ấy tìm mọi cách giành giật sự quan tâm của ông, tệ hơn nữa là buộc ông phải lựa chọn cô ấy hoặc Maris. Là người sống có lý trí, ông không thể yêu người không yêu và chấp nhận con gái mình một cách trọn vẹn và vô điều kiện. Vậy nên cuộc tình chấm dứt.

    Sau nhiều thập kỷ, ông vẫn duy trì được tên tuổi và tầm ảnh hưởng trong ngành xuất bản. Nhờ tài năng thiên bẩm, ông có thể dự báo chính xác một bản thảo thành công hay thất bại ngay khi nhìn thấy nó. Dưới thời của ông, giá trị công ty đã tăng lên gấp trăm lần. Tiền kiếm được nhiều đến nỗi đời ông, đời Maris và có lẽ đến đời cháu ngoại của ông tiêu cũng không hết.

    Đối với ông, tiền chỉ là sản phẩm phụ - nhưng đầy thú vị - đến từ công việc, không phải là động lực thúc đẩy. Ông đã tiếp nhận quyền quản lý công việc kinh doanh của gia đình khi chưa đến ba mươi. Động lực hàng ngày của ông là kế thừa, duy trì và phát triển sự nghiệp của tổ tiên cho thế hệ sau.

    Nhưng Maris mới là quan trọng nhất. Khi so với cô, nhà xuất bản Matherly chẳng là gì cả. Trước những âm mưu thôn tính sát nhập công ty ngày càng tinh vi hơn, khốc liệt hơn, việc ông lo lắng nhất là làm sao bảo vệ cho cô không bị ảnh hưởng.

    Tất nhiên, ông không có cách nào che chở Maris hoàn toàn. Không cha mẹ nào có thể cứu con mình khỏi những chuyện không may trong đời và ngay cả khi họ có thể, điều đó là không đúng. Phải sống, vấp ngã và sai lầm mới có thể trưởng thành.

    Ông chỉ hy vọng rằng những bài học mà cô nhận được không quá nặng nề, rằng thành công và niềm vui nhiều hơn thất bại. Để khi bằng tuổi của ông - nếu cô sống lâu như ông - cô sẽ nhìn lại cuộc đời mình với mức độ hài lòng như ông hiện giờ.

    Ông không sợ chết. Giấu không cho ai biết, đặc biệt là Maxine, ông đã nhiều lần đến gặp linh mục. Rosemary là một tín đồ Công giáo. Dù không phải là con chiên ngoan đạo, ông phần nào chịu ảnh hưởng bởi đức tin của vợ và tin rằng họ sẽ tái ngộ ở thế giới bên kia.

    Ông không sợ chết.

    Ông chỉ sợ chết như một kẻ khờ, trong tâm thế chưa chuẩn bị sẵn sàng.

    Đó là lý do mất ngủ đêm qua. Một cảm giác bất an kỳ lạ khiến ông không thể tập trung đọc bất cứ quyển sách nào, cứ nằm thao thức đến sáng, trong lòng lo lắng không nguôi.

    Ông có cảm giác đã bỏ lỡ một tín hiệu nào đó, có thể là lời nói, hành động hoặc thái độ mà nếu trẻ hơn và nhạy bén hơn, khoảng 5 năm trước, có khi năm ngoái thôi, chắc chắn ông đã phát hiện ra.

    Hay đó là bệnh hoang tưởng? Hoặc chứng sa sút trí tuệ?

    Daniel còn nhớ trước khi ông nội mất hay đổ cho cô y tá ăn cắp đồ. Sau đó, ông nội lại khăng khăng cô ta là gián điệp của Đức đang thi hành nhiệm vụ ám sát cựu chiến binh Hoa Kỳ. Ông nội còn đoan chắc là bà quản gia đang mang thai với ông. Không ai có thể cãi lại, rằng bà vú người Anh không thể có con ở tuổi sáu mươi bảy.

    Có phải ông sắp bị như ông nội không? Nỗi băn khoăn lo lắng không tên này có phải là dấu hiệu lú lẫn của tuổi già không?

    Một khả năng khác, và ông rất muốn tin như thế, là ông vẫn còn sáng suốt và minh mẫn như trước đây. Có lẽ trực giác nhạy bén đã giúp ông gặt hái thành công trong suốt 50 năm qua chưa bao giờ rời bỏ ông.

    Khi chưa có bằng chứng là nó không còn đáng tin cậy, ông chọn tin vào trực giác của mình. Bản năng mách bảo rằng có gì đó không ổn. Ông cảm thấy mùi nguy hiểm như con hươu đực đánh hơi thấy một nòng súng của tay thợ săn đang rình rập cách đó một dặm.

    Có thể cuộc sống không hạnh phúc của Maris làm ông lo lắng nghĩ đến đủ mọi bất trắc. Cô không tâm sự nhiều nhưng ông biết hôn nhân của cô không được như ý. Nguyên nhân và mức độ nghiêm trọng chưa rõ, nhưng nếu Maris thấy đau khổ thì ông cũng bị phiền muộn lây.

    Còn Noah, ông muốn tin tưởng anh với tư cách là người được ông bảo trợ và là con rể, nếu anh xứng đáng.

    Daniel khó nhọc dựng thẳng lưng ghế, mở ngăn kéo bàn lấy ra quyển sổ tay và rút một tấm danh thiếp kẹp trong ngăn bìa. Trên đó vỏn vẹn một cái tên bằng chữ in hoa sắc sảo màu xanh nước biển “William Sutherland”. Không có tên hay địa chỉ công ty. Kể từ khi giữ nó cách đây vài tuần, không biết đây là lần thứ mấy ông lấy ra xem. Sau khi suy nghĩ thông suốt từ sáng đến giờ, ông quyết định điện thoại cho Sutherland.

    Một việc ám muội. Chỉ nghĩ thôi cũng thấy như lừa dối. Ông sẽ không để cho ai biết, trừ khi – cầu Chúa chuyện đó đừng xảy ra – có gì đó đi chệch hướng. Hoặc chẳng có chuyện gì cả. Có lẽ ông phản ứng thái quá. Bản chất ông không hay do dự như thế. Nhưng ông không thể để cảm xúc lấn át sự thận trọng. Giữa tình cảm và lý trí, không còn sự lựa chọn nào khác. Tục ngữ đã có câu cẩn tắc vô áy náy.

    Trước khi cầm điện thoại lên, ông cẩn thận sắp xếp lời nói, biểu cảm và quan trọng nhất là giữ đầu óc sáng suốt, tập trung nếu không muốn là người cuối cùng biết… bất cứ điều gì.

    Ông không sợ chết. Nhưng ông sợ chết như một kẻ khờ.

    ***

    “Cô nên tránh xa chỗ đó. Nó sắp đổ sập đấy.” Mike nói với Maris, tay cầm miếng giấy nhám chà lên mặt lò sưởi.

    "Nếu anh nói vậy, liệu Parker có an toàn không?"

    "Dĩ nhiên là không. Nhưng ai có thể ngăn anh ấy?”

    “Mike …”

    Thấy cô ngập ngừng, anh ta quay lại.

    “Thôi bỏ đi.” Cô nói. "Thật không phải nếu tôi hỏi anh hoặc Parker."

    "Về chuyện …?"

    "Khuyết tật của anh ấy."

    "Ừ, cô không nên hỏi."

    Cô gật đầu, nét mặt giãn ra một chút. "Làm thế nào để đi đến đó?"

    "Thôi đừng, nguy hiểm lắm."

    "Tôi sẽ thoát ra ngoài ngay khi thấy nó rung rinh."

    “Tôi không nói khu xưởng. Ý tôi là cô sẽ gặp rắc rối với Parker. Anh ấy không thích bị ai quấy rầy."

    “Tôi sẽ liều một phen. Đi bộ được không?”

    "Ở New York cô có hay đi bộ không?"

    "Mỗi ngày, nếu thời tiết tốt."

    "Nếu vậy thì gần đấy."

    Chỉ đường cho cô xong, anh ta cảnh báo một lần nữa. “Anh ấy không muốn nhìn thấy cô đâu”.

    “Có lẽ là không.” Cô mỉm cười tán thành.

    Sau nhiều giờ nhốt mình trong nhà đọc sách, Maris cảm thấy sảng khoái khi được ra ngoài hít thở không khí dù không thể gọi là trong lành. Độ ẩm cao khiến cho cái nóng càng gay gắt, khó chịu hơn. Dù trốn vào bóng râm cũng không thể thoát khỏi cảm giác oi bức, ngột ngạt.

    Bất chấp điều kiện thời tiết không thuận lợi, hòn đảo tuyệt đẹp theo một cách rất riêng không tìm thấy ở bất cứ nơi đâu, từ hàng sồi tươi hùng tráng với những chùm không khí tóc tiên quấn quanh cành cây như bộ râu dài quét đất, đến không khí đặc quánh mùi muối mặn và mùi cá nhưng không hề khó ngửi khi hòa quyện với hương hoa cỏ dại.

    Khi đi ngang ngôi nhà nằm cách xa đường cái, Maris nhìn thấy vài đứa trẻ nô đùa trong sân. Cả trai lẫn gái, chúng nhảy nhót không biết mệt quanh một chiếc đầu phun tưới cỏ, thỉnh thoảng lại ré lên đầy phấn khích khi vượt qua tia nước xoay vòng.

    Trước cửa một ngôi nhà khác, một con chó cao lớn đang nằm tránh nắng dưới gầm xe bán tải. Cô nhìn chằm chằm để xem phản ứng của nó trước khi băng qua đường, nhưng sự cẩn thận của cô là thừa. Nó hờ hững đảo mắt rồi đứng lên, duỗi người, xoay ba vòng làm bụi đất bay lên tít mù trước khi nằm xuống chỗ cũ và nhắm mắt lại.

    Không thấy bất cứ chiếc xe nào chạy trên đường. Bạn đồng hành duy nhất của cô là lũ ve sầu đang mải mê hòa tấu bản tình ca của riêng chúng trong tán cây rậm rạp.

    Đây chính là nơi Mike đã chỉ. Nếu không được hướng dẫn cặn kẽ, có lẽ cô sẽ không bao giờ tìm thấy khu nhà xưởng bỏ hoang bị nuốt chửng trong vòng vây của rừng rậm.

    Rời đường chính, Maris đi theo con đường rải vỏ sò len lỏi mất hút vào rừng. Nói đúng hơn, đó là một lối mòn trông nhỏ hơn bề ngang chưa đến một mét của nó vì cỏ dại mọc um tùm hai bên. Cô nhìn xuống hai cổ chân trần, bất giác hối tiếc vì đã không chịu lắng nghe Mike giới thiệu vài nơi thú vị khác trên đảo.

    “Con mèo chết nhát.” Cô tự rủa mình.

    Cô nhìn xung quanh tìm một đoạn cây khô đủ dài để gạt những lùm cỏ dại cao quá đầu và bước tới. Mong rằng tiếng gậy sột soạt đủ lớn để báo động cho lũ chồn cáo hoặc một loài động vật bò sát nào đó biết là có người và nấp đi chỗ khác trước khi cô kịp nhìn thấy chúng.

    Khi đến nơi mà không gặp sự cố nào, cô thở phào thả rơi cây gậy và phủi tay cho sạch. Đúng như Mike nói, hình thù trước mặt cô mục ruỗng và xiêu vẹo tưởng chừng như một cơn gió mạnh thổi qua là sụp đổ ngay. Vách nhà bằng gỗ nứt nẻ, thâm đen vì sương gió. Mái tôn nham nhở, rỉ sét ăn mòn. Giữa thảm dây leo dày đặc phủ kín từ mái nhà xuống đất, một chùm hoa tím nhạt trông cô đơn và lạc lõng khi bừng nở giữa đống đổ nát hoang tàn.

    Maris cẩn thận bước chân qua cánh cửa mở toang. Bên trong có vẻ to hơn khi nhìn từ bên ngoài và tối như hũ nút, ngoại trừ những đốm sáng hiếm hoi do vài tia sáng chen qua khe hở trên phên vách hoặc xuyên qua lỗ thủng trên mái tạo ra.

    Dưới những thanh xà gỗ đồ sộ nâng đỡ căn gác xép chiếm hết nửa sau khu nhà xưởng, một bánh xe lớn đường kính hơn ba mét gắn vào bên hông chiếc thùng gỗ to như thùng rượu. Maris chưa thấy cỗ máy nào lạ lùng như thế.

    Cô chớp mắt để làm quen với bóng tối và cất tiếng gọi. "Xin chào!"

    Không ai trả lời. Cô tiến vài bước nữa vào nhà. "Parker?" Đợi thêm một lúc, cô lại lên tiếng. "Xin chào!"

    "Ở đây."

    Maris giật mình đưa tay ôm ngực, đôi chân líu ríu bước về phía phát ra tiếng nói. Anh ở đâu đó ngay sau lưng nhưng không thể nhìn thấy. Một tia sáng yếu ớt xuyên qua mái nhà, đọng lại lấp lánh trên chiếc ghế sắt.

    Khi đã trấn tĩnh phần nào, Maris hỏi với giọng cáu kỉnh. "Anh không nghe tôi gọi à?"

    "Không thể tin được. Cơn hoảng loạn mà tôi vừa chứng kiến? Cô không làm chiến binh da đỏ được đâu.”

    "Sao anh không lên tiếng?"

    "Cô đến đây bằng cách nào?"

    "Đi bộ. Còn anh?”

    "Tôi có thể đi khắp nơi bằng gì chứ?"

    "Anh lăn xe vào đây à?"

    "Tôi có thể."

    Anh vẫn vô hình, nhưng cô có thể cảm thấy ánh mắt anh đang dán vào người, nói đúng hơn là cái bóng của cô với nguồn sáng nhạt nhòa phía sau. Cô bước lên vài bước nữa.

    "Cô lấy quần áo ở đâu?"

    Cô nhìn xuống người mình - chân váy, áo sơ mi và giày xăng đan – bộ cánh yêu thích khi đi dạo hàng quán và mua đồ cổ mỗi dịp về ngôi nhà miền quê. Chính tay cô xếp chúng vào va li hai ngày trước ở New York, vậy mà cô cảm thấy lạ lẫm và mù mờ như xảy ra từ kiếp trước.

    “Mike nhờ khách sạn chuyển hành lý đến rồi ra bến tàu lấy về dùm tôi.”

    "Càng ngày càng trầm trọng."

    "Anh nói gì?"

    "Tôi nói anh ta phải lòng cô."

    “Anh ấy có lòng tốt.”

    “Chúng ta đã nói chuyện này rồi.”

    Đúng, và cô không muốn lịch sử lặp lại. Lần cuối cùng, nó kết thúc bằng việc … Cô không muốn nghĩ đến việc nó kết thúc như thế nào.

    Không ai nói gì nữa. Tuy đã thích nghi với bóng tối, cô vẫn không nhìn thấy anh đâu. Cô tìm cách phá vỡ sự im lặng khó xử. "Nơi đây thật độc và lạ."

    "Cô tình cờ nhìn thấy à?"

    "Mike chỉ đường cho tôi."

    "Mike nói quá nhiều."

    "Không. Anh ấy không tiết lộ bí mật của anh."

    “Cho đến vài phút trước, chỗ này là bí mật của tôi. Tôi đến đây vì muốn ở một mình.”

    Vờ như không hiểu anh nói gì, cô căng mắt nhìn xung quanh. Nền nhà đầy rác và chất thải của động vật. Tro và vài khúc gỗ nham nhở vương vãi chứng tỏ có người đốt lửa cách đây không lâu. Chiếc cầu thang sát tường dẫn lên gác xép bị thiếu nhiều bậc, những bậc còn lại thì có vẻ như không chịu nổi sức nặng của một con bọ cánh cứng. Nhìn chung, khu xưởng cũ kỹ toát lên vẻ ma mị huyền bí, đặc biệt là khu vực thấp lè tè dưới gác xép, nơi cỗ máy hình thù như một công cụ tra tấn cổ xưa nằm một đống lù lù. Không hiểu sao Parker lại thích đến đây.

    "Khu xưởng này có lịch sử như thế nào?"

    "Cô biết gì về bông?"

    Cô buộc miệng một câu nổi tiếng trên ti vi. "Nhung lụa của đời ta."

    Trước sự ngạc nhiên của cô, Parker bật cười, tiếng cười thực sự chứ không phải cái nhếch mép khinh khỉnh thường lệ. Vì vậy, cô hoàn thành nốt đoạn quảng cáo. "Và hữu ích để chùi móng."

    Tiếng cười của anh nhỏ dần rồi tắt hẳn trong không gian tĩnh mịch âm u. Cuối cùng anh cộc cằn lên tiếng. "Lại đây."
     
    Chỉnh sửa cuối: 2/11/22
    Thuyhuynh19, Breeze, hathao and 3 others like this.
  19. iusach

    iusach Lớp 7

    Chương 11

    Parker chờ đợi trong khi cô suy nghĩ lưỡng lự. Anh không nhắc lại lời đề nghị mang tính thách thức vừa rồi vì biết chắc chắn cô sẽ đáp lại. Vài giây trôi qua, cô thận trọng tìm đường bước tới.

    Nhìn cô trẻ hơn ít nhất năm tuổi so với tuổi thật với kiểu tóc đuôi ngựa buộc cao, áo sơ mi trắng thắt nút ở eo, chân váy ka ki ngắn vừa phải trên đùi. Cặp đùi mịn màng, quyến rũ khiến người ta phải dấn sâu vào thế giới tưởng tượng vô biên của những thú vui hoan lạc.

    “Lúc mới ra đời, ba mặt của chiếc máy tách hạt bông này không được che chắn mà để trống. Nó hoạt động bằng sức kéo của động vật”. Anh lên tiếng.

    "Sức kéo của động vật?" Cô hơi ngạc nhiên.

    "Theo tôi."

    Cô đi theo anh ra phía sau khu xưởng. Đến chỗ gác xép thấp lè tè, cô vội cúi xuống để tránh mạng nhện trên đầu. Lâu lắm rồi mới có người xâm phạm giang sơn của bọn chúng, mặc dù thiệt hại không đáng kể.

    “Đó chưa bao giờ là rắc rối đối với tôi.” Anh mỉm cười và chỉ tay xuống đất. "Nếu nhìn kỹ, cô sẽ thấy một vòng tròn lõm xuống nền nhà, đường đi của những con la kéo quay bánh xe để vận hành máy tách hạt bông."

    "Chỗ này phải không?"

    "Ừ. Vào thời cực thịnh, bông vải được chất đầy trên các toa xe chở đến đây. Loại bông dài ngày trồng ở vùng ven biển, chất lượng tốt, sợi mềm dễ tách hạt hơn các giống khác."

    "Nên được ưa chuộng hơn."

    Anh gật đầu. "Điều kiện thổ nhưỡng trên đảo cực kỳ thích hợp với loại bông này. Sau khi dỡ xuống giàn nâng, nó được đưa lên tầng hai để tách sợi ra khỏi hạt bông. Sợi bông được thu gom và chuyển sang máy ép trục vít đặt ở ngoài kia. Máy này cũng hoạt động nhờ sức kéo của những con la."

    "Thật là công phu."

    "Đúng thế. Từ khi gieo hạt vào đầu vụ xuân đến khi kiện bông cuối cùng được chuyển đi mất cả năm trời.”

    "Đây có phải là chiếc máy duy nhất trên đảo không?"

    "Không sai. Chủ đồn điền cũng là chủ nhà máy tách hạt bông, chính là gia tộc trước đây sở hữu ngôi nhà của tôi. Họ trở nên giàu có nhờ nắm thế độc quyền, nhưng rồi ngành bông vải bước vào thời kỳ suy thoái. Dù chuyển sang kinh doanh hàu đóng hộp vốn là ngành ăn nên làm ra trên các đảo lân cận, họ thất bại vì thiếu kinh nghiệm. Chỉ một năm sau, họ đã bị phá sản."

    "Vậy, khu xưởng này ít nhiều lưu giữ những dấu ấn lịch sử của hòn đảo."

    "Lịch sử thế kỷ 19". Anh xác nhận. "Tài liệu ghi lại vào năm 1878, một bé gái con của một công nhân trong đồn điền đi sau đuôi con la đang kéo máy ép vít thì bị con vật trở chứng tung cú đá hậu trúng đầu. Cô bé chết hai ngày sau đó. Còn con la bị cha cô bé xử lý trong vụ hành quyết mà những chi tiết đẫm máu của nó được tường thuật tỉ mỉ. Ngoài ra còn có ghi chép về một cuộc quyết đấu giải quyết ân oán giữa hai anh em ruột. Họ đều chết sau khi đấu súng năm 1855. Đặc biệt là mối tình lãng mạn giữa một đốc công da trắng và nữ nô lệ xinh đẹp nhưng vấp phải sự kỳ thị chủng tộc gay gắt. Họ bị đuổi khỏi đảo, lênh đênh trên một chiếc tàu nhỏ đến Charleston. Vài kẻ hiếu kỳ theo dõi ống nhòm đồn đại rằng con tàu đã bị chìm không lâu sau khi nhổ neo và cả hai đều bỏ mạng, âu đó cũng là sự trừng phạt thích đáng dành cho họ. Bẵng đi một thời gian, người dân trong vùng chợt thấy vài người lai sinh sống trên một đảo hoang, có lẽ đó là hậu duệ của cặp vợ chồng nọ. Tất cả đều có vẻ đẹp đặc biệt - nước da ngăm đen và đôi mắt xanh như ngọc bích.

    Một nhà quý tộc Pháp trong khi dong thuyền đi câu đã gặp một trận bão lớn và trôi dạt đến hòn đảo. Trong thời gian lưu lại đó, anh ta phải lòng con gái của cặp vợ chồng nọ. Anh ta cưới cô ấy và đưa cả gia đình sang Pháp. Kể từ đó họ sống hạnh phúc mãi mãi."

    Maris thở ra nhè nhẹ. "Câu chuyện rất hay, Parker."

    "Đó là truyền thuyết. Có lẽ nó không có thật."

    "Nhưng hay."

    "Cô là người lãng mạn?"

    "Không sai." Cô cười. "Anh có vẻ rất hiểu biết về máy tách hạt bông. Có phải gia đình anh làm nghề này không?"

    "Có lẽ cụ cố của tôi đã tách hạt bông bằng tay trong thời kỳ suy thoái. Thật ra vào lúc đó ở miền Nam, tất cả những ai đầy đủ tay chân đều phải làm công việc này. Phụ nữ, trẻ em, da đen, da trắng đều phải vật lộn để tồn tại. Cái đói không chừa một ai."

    "Cha anh làm nghề gì?"

    "Thầy thuốc gia đình. Tất tần tật, từ đỡ đẻ cho đến trị nhọt."

    "Chắc ông đã nghỉ hưu."

    Anh lắc đầu. "Ông không thể từ bỏ công việc đã làm suốt bốn mươi năm và đáng lẽ còn kéo dài hơn nếu ông có thể chữa lành bệnh ung thư phổi của chính mình."

    "Mẹ anh thì sao?"

    "Bà mất sau đó mười hai năm. Cách đây ít lâu thôi. Và để cô khỏi mất công hỏi, xin thông báo tôi là con một."

    "Tôi cũng vậy."

    "Tôi biết."

    Sau một thoáng ngạc nhiên, cô nhớ ra ngay. "À, bài báo."

    "Phải."

    Nhận thấy mình đang nhìn chằm chằm vào những sợi tóc ẩm vàng nhạt, cong cong mềm mại tuột khỏi dây buộc rơi trên gáy cô, anh đưa mắt đi chỗ khác. "Trong đó nêu đầy đủ thông tin về cô, cha cô và chồng cô. Anh ta như thế nào nhỉ?"

    "Rất tráng kiện. Ở tuổi bảy mươi tám."

    "Tôi hỏi chồng cô. Anh ta cũng rất tráng kiện, đúng không?"

    "Tôi nhớ chúng ta đồng ý không hỏi chuyện riêng tư."

    "Chuyện đó mà riêng tư? Cô không muốn cho tôi biết những gì về anh ta?"

    "Không có gì. Không phải vậy."

    "Vậy thì thế nào?"

    "Tôi theo anh đến đây để nói về Đố kỵ."

    "Cô không ngồi sao?"

    Cô lắc đầu bối rối khi đề tài thay đổi một cách đột ngột. "Không có chỗ nào để ngồi." Cô liếc lên trần nhà. "Hơn nữa, ở đây có vẻ rùng rợn quá.”

    Khi anh vừa chỉ tay ra phía ngoài gác xép, cô đã nhanh nhẹn vượt lên trước. Cô bỗng chú ý đến một cái gờ tròn xây bằng hai hàng gạch, đường kính khoảng hai mét trên nền nhà. "Cái gì đây?"

    “Cẩn thận.” Parker lăn xe qua che chắn cho cô. "Một cái giếng bỏ hoang."

    "Tại sao nó lại nằm ở đây?”

    "Một vị tộc trưởng của vương triều bông vải nảy ra sáng kiến cho máy tách hạt bông chạy bằng hơi nước. Cái giếng này được đào để cung cấp nước nhưng dự án chưa đi tới đâu thì ông ta qua đời vì bệnh bạch hầu. Người kế tục không tiếp tục vì cho rằng nó không thực tế. Tôi cũng đồng ý rằng nó không khả thi về mặt kinh tế khi xét đến khối lượng sản xuất lúc đó."

    Cô ghé mắt qua thành giếng nhìn xuống cái hố đen ngòm. "Nó sâu cỡ nào nhỉ?"

    "Đủ sâu."

    "Để làm gì?"

    Anh hất cằm về phía một cái thùng lật úp. "Nếu cô không ngại thì ngồi tạm ở đó."

    Cô cẩn thận kiểm tra độ chắc chắn của chiếc thùng gỗ trước khi rón rén ngồi xuống.

    "Coi chừng dằm gỗ." Anh nhắc. "Mặc dù tôi rất vui lòng được gắp nó ra khỏi đùi cô."

    Cô nhìn anh không nao núng. "Tôi sẽ cố không cựa quậy."

    "Tôi thích gắp dằm hộ cô, nhưng chắc người chồng tráng kiện của cô sẽ không đồng ý."

    "Có phải tiếng sấm không?"

    "Đánh trống lảng sao, Maris?"

    "Phải."

    Anh cười phá lên, nhìn ra ngoài cửa. Bên ngoài trời đã tối mịt gần như ở trong nhà. "Vào mùa hè, những cơn mưa dông thường đến bất chợt lúc chiều tối. Có khi một giờ hoặc ít hơn, nhiều lúc kéo dài cả đêm. Không ai có thể biết trước." Anh nói khi những giọt mưa đầu tiên rơi lộp độp trên mái tôn.

    Cô nhắm mắt, hít vào một hơi thật sâu. "Anh có ngửi thấy hương của mưa không?"

    "Mùi thơm, đúng không?"

    "Và âm thanh êm đềm của nó."

    "Ừ."

    Không ít thì nhiều, cơn mưa làm cho không khí dễ chịu hẳn. Gần gũi và lắng đọng hơn. Anh có thể cảm nhận rõ điều đó. Và Maris cũng vậy, mặc dù cô không thể mô tả sự thay đổi đột ngột này cụ thể như anh.

    Mắt cô rời khỏi màn mưa dày đặc ngoài cửa và lang thang rơi vào mắt anh. Cú chạm mắt u uẩn sâu thẳm đến tận tâm can và kỳ lạ thay không hề đem lại cảm giác khó chịu. Nếu có một trạng từ thích hợp để mô tả cách họ nhìn nhau, đó là "mong đợi", vừa diễn tả sự hiếu kỳ, thận trọng, ngạc nhiên thích thú xen lẫn cảnh giác.

    Ánh mắt cô như có một sức hút dữ dội kéo anh xích lại gần hơn và mắt anh tự động đáp lại bằng những thông điệp mãnh liệt không kém. Anh tự hỏi cô sẽ nói gì khi sự kết nối thân mật giữa họ là điều không cần phải bàn cãi.

    Cô chọn cách nói về Đố kỵ. "Todd đã chơi khăm Roark."

    "Anh ta bị lừa và trễ cuộc hẹn với Hadley."

    "Anh đã xếp đặt tình huống rất tài tình. Tôi đã không thể đoán trước.”

    "Tốt."

    "Tiếp theo Roark sẽ làm gì?"

    "Theo cô anh ta làm gì?"

    "Nện cho Todd một trận ra trò."

    Anh huýt sáo trước thái độ hung hăng của cô.

    "Chà, đó không phải là hành động của đám con trai sao?" Cô nhướng mày.

    "Có thể lắm." Anh trả lời. "Nổi giận là phản ứng đầu tiên và thường được giải tỏa bằng hành vi bạo lực. Nhưng hãy xét lại tình huống. Nên nhớ rằng Todd đang muốn trả đũa Roark vì cái bàn chải đánh răng."

    "Đó chỉ là trò đùa." Cô thốt lên. "Ghê tởm, gớm ghiếc, nhưng có thể chấp nhận. Các nam sinh viên luôn bày ra những trò nghịch ngợm quái đản nhất, đúng không?"

    "Cô rành họ lắm hả?"

    "Tôi học trường nữ sinh."

    “Phải, bài báo nói thế.” Anh lẩm bẩm như đã thuộc làu lý lịch của cô. "Vậy thì chắc chắn cô không có chút kinh nghiệm nào về nam sinh viên và cách xử sự của họ."

    "Không, nhưng chắc chắn tôi biết rằng cách họ nâng niu người yêu khác hẳn cách họ cư xử với nhau."

    "Có phải kinh nghiệm từ chồng cô? Hẹn hò từ thời sinh viên ư?"

    "Sau đó."

    "Bao lâu?"

    "Khi anh ấy vào làm tại Nhà xuất bản Matherly."

    "Một nước cờ thông minh - cưới con gái sếp."

    Cô không giấu được vẻ khó chịu. Rõ ràng Parker không phải là người đầu tiên nhận xét. Và nó làm phiền cô, có lẽ khá thường xuyên. Vẻ mặt của cô trở nên nghiêm nghị.

    "Chúng ta quay lại quyển sách được không?"

    "Chắc chắn rồi. Xin lỗi vì đi lạc đề."

    Cô khẽ cắn môi dưới, tay xoay xoay một chiếc nút áo trong khi suy nghĩ. Parker tự hỏi tại sao những hành động bình thường lại trở nên gợi cảm chết tiệt với anh như thế.

    "Đùa thì không sao." Cô nói. "Nhưng trò lường gạt của Todd thật hèn hạ. Nó có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng và không thể khắc phục một cách đơn giản như đi mua một cái bàn chải mới. Anh ta đang phá hoại tương lai sự nghiệp của Roark. Trò đùa có thể làm Roark mất điểm, ảnh hưởng đến kỳ thi tốt nghiệp và sự nghiệp viết lách của anh ta, thậm chí là bóp chết nó. Việc này không thể cho qua dễ dàng."

    "Ừ. Roark không khoanh tay đứng nhìn. Anh ta không bỏ qua chuyện này, mặt khác phải nỗ lực nhiều hơn."

    "Phải." Cô thốt lên đầy hào hứng. "Chuyện xảy ra như vậy càng thúc đẩy quyết tâm thành công của anh ta."

    "Thành công đến mức Todd phải … “

    “Ganh tị.” Cô tiếp lời.

    Anh cười xòa. "Tôi nghe cô, cho anh ta xả bỏ cơn giận bằng vài cú đấm."

    "Vậy họ vẫn còn là bạn?"

    "Nếu không sẽ chẳng còn chuyện để nói. Mọi việc kết thúc nếu tình bạn của họ chấm dứt tại đây.”

    "Không nhất thiết phải như vậy. Câu chuyện vẫn có thể tiếp tục sau khi họ trở thành kẻ thù không đội trời chung."

    "Hãy kiên nhẫn, Maris."

    "Sao cơ?"

    "Cho tôi thời gian."

    Cô mở to mắt. "Anh viết xong rồi, đúng không?"

    "Phần lớn." Anh xác nhận bằng cái nhún vai lơ đễnh. "Còn vài chỗ phải xem lại.”"

    Cô không giấu được vẻ bất bình. "Tại sao anh không nói sớm cho tôi biết.”

    "Tôi không muốn làm cô mất hứng."

    "Tôi thấy rất phấn khích." Cô thay đổi thái độ. "Tôi có thể có một đề nghị khác không?"

    "Tôi không hứa sẽ đồng ý."

    "Được."

    "Vậy nói đi."

    "Roark có yêu không?"

    "Với cô nàng bỏ anh ta để quay lại với bạn trai cũ ư?”

    "Đúng. Anh viết rằng anh ta đã yêu nhưng không có chi tiết nào cụ thể. Độc giả không được trải nghiệm tình yêu đó cùng anh ta. Thậm chí anh còn không cho cô ta một cái tên. Tôi nghĩ một tình yêu sâu sắc là cần thiết để phát triển tính cách của anh ta. Cách anh ta xử lý nỗi buồn. Đại loại như vậy. Và nếu ... "

    “Tiếp đi.” Anh khuyến khích.

    "Nếu Todd có liên quan đến việc họ chia tay thì sao?"

    Anh cau mày nghĩ ngợi, tay xoa hàm râu lởm chởm sáng nay chưa cạo.

    "Nếu vậy thì đối kháng xảy ra quá sớm. Trong những chương đầu, tôi muốn xây dựng một tình bạn keo sơn gắn bó giữa hai người. Tình bạn đó từ từ rạn nứt và cuối cùng tan vỡ vì ganh đua lẫn nhau. Nếu Todd can dự vào chuyện tình yêu rồi lại chơi khăm Roark vụ Hadley, anh ta lập tức trở thành nhân vật phản diện còn Roark là nhân vật chính."

    "Không đúng sao? Thật tình tôi đã nghĩ theo hướng đó."

    "Cô nói thật chứ?"

    "Sao anh lại ngạc nhiên?"

    "Câu chuyện chưa kết thúc. Nếu tiếp tục theo dõi, có thể cô sẽ đổi ý."

    Cô nhìn anh dò xét, cố tìm những ẩn ý bên trong. "Tôi không được có ý kiến, đúng không?"

    "Ừ."

    "Thôi được. Trong khi chờ đợi, anh thấy sao về gợi ý của tôi viết chi tiết hơn về tình yêu của Roark?"

    "Tôi nhắc lại, Maris, hãy cho tôi thời gian."

    Cô rướn người tới trước hào hứng. "Anh quyết định thay đổi rồi chứ gì? Còn nhiều tình tiết nữa phải không? Cũng cô gái ấy chứ?"

    "Sao cô không xỏ khuyên rốn?"

    "Anh nói sao?"

    "Nếu thích mặc váy ngắn và áo ngang eo, sao cô không …”

    "Tôi nghe rồi."

    "Vậy thì tại sao?"

    "Vì tôi không thích."

    "Đáng tiếc."

    "Ý tưởng đó làm tôi chết khiếp."

    "Một chiếc khuyên nhỏ đính viên kim cương bé xíu. Rất quyến rũ. À … quyến rũ hơn." Mắt anh từ từ di chuyển lên và nấn ná trên khuôn mặt cô. "Chỉ nhìn chỗ eo cô thôi cũng có thể phát điên.”

    Cô nói bằng giọng cứng rắn. "Parker, nếu muốn làm việc với nhau, anh không thể cứ nói chuyện với tôi như vậy."

    "Tôi nói bất cứ cái gì tôi thích."

    Cô kiên nhẫn lắc đầu. "Không, nếu anh làm việc với tôi."

    "Cô có thể đi."

    Nhưng cô vẫn ngồi yên đúng như anh dự đoán. Đúng như anh hy vọng.

    Tiếng sấm chớp đì đùng xen lẫn tiếng mưa sầm sập trên mái tôn như một bản giao hưởng thiên nhiên làm nổi bật sự im ắng bên trong khu xưởng. Parker lăn xe đến gần chỗ cô ngồi đến khi khoảng cách còn vài gang tay. "Cô nói với chồng cô thế nào?"

    "Về chuyện gì?"

    "Ở đây. Tôi đoán cô đã gọi cho anh ta."

    "Tôi gọi và nhắn rằng mọi việc diễn ra tốt đẹp."

    "Nhắn lại?"

    "Với thư ký của anh ấy."

    "Anh ta không có điện thoại di động à? Vậy mà tôi cứ nghĩ anh ta là kiểu người lúc nào cũng kè kè điện thoại bên người."

    "Anh ấy đang ăn trưa với một biên tập viên bên bộ phận chế bản điện tử. Tôi không muốn làm gián đoạn nên sẽ gọi anh ấy sau."

    "Trước khi đi ngủ?"

    "Có thể. Vậy thì sao?"

    "Tôi thắc mắc cô có mặc áo ngủ không? Hay cô luôn ngủ khỏa thân như đêm qua?"

    "Parker anh … “

    "Cô sẽ nói gì với anh ta?"

    "Việc đó không liên quan đến anh."

    "Khen? Hay chê?"

    Cô hít mạnh, bật ra từng lời qua hàm răng nghiến chặt. "Tôi sẽ kể với anh ấy rằng tôi đã phát hiện ra một nhà văn cực kỳ tài năng và cũng là người … “

    "Làm ơn đừng làm tôi đỏ mặt.”

    "… đàn ông thô lỗ, khiếm nhã, đáng ghét nhất mà tôi từng thấy."

    Anh ngoác miệng ra cười. "Chà, thế mới đúng."

    Nụ cười tắt dần. Anh lăn xe đến sát bên cô hơn nữa. “Cô không kể với anh ta là tôi hôn cô.” Giọng anh trầm xuống đến nốt thấp nhất. "Tôi cá cô bỏ qua đoạn đó."

    Cô lập tức đứng bật dậy khiến chiếc thùng đổ nhào và đi vòng qua anh, nhưng anh nhanh chóng lăn chiếc xe chặn đường. "Tránh ra, Parker. Tôi phải về ngay bây giờ."

    "Trời đang mưa."

    "Chẳng sao."

    "Có chứ. Cô đang tức giận. Hoặc sợ hãi."

    "Tôi không sợ anh."

    "Vậy thì ngồi xuống đi." Thấy cô không nhúc nhích, anh chỉ tay ra cửa. "Được thôi. Bị ướt sũng, rồi giải thích với Mike. Nếu đó là những gì cô muốn ... "

    Cô nhìn cơn mưa như trút nước một lúc rồi miễn cưỡng giật chiếc thùng lật úp để ngồi xuống, thái độ chưa hết tức giận.

    "Kể tôi nghe cô đã gặp anh ta thế nào, Maris."

    "Tại sao?"

    "Tôi muốn biết."

    "Để làm gì?"

    "Đó gọi là sự tò mò cần thiết để sáng tạo."

    "Là tọc mạch thì đúng hơn."

    “Có thể. Cứ gọi tôi là kẻ tọc mạch."

    Nhìn vẻ cau có của cô, anh nghĩ cô sắp đứng dậy và bỏ về. Nhưng cô khoanh tay để che đi phần eo - không còn nghi ngờ gì nữa - và bắt đầu nói. "Noah vào làm việc ở Matherly. Được làm việc với một trong những người nổi tiếng nhất trong giới xuất bản nên tôi rất phấn khích. Càng ngày cảm giác của tôi dành cho anh ấy càng thắm thiết và không đơn thuần là sự ngưỡng mộ dành cho đồng nghiệp. Lúc đầu cha tôi không tán thành vì nhiều lý do, đặc biệt là những rắc rối của tình công sở và mười tuổi chêch lệch. Ông khuyến khích tôi hẹn hò, thậm chí còn tích cực làm mai tôi cho con cháu của bạn bè. Nhưng tôi yêu Noah và anh ấy cũng yêu tôi. Thế là chúng tôi kết hôn. Như thế đã đủ chưa?"

    "Cô kết hôn bao lâu rồi?"

    "Gần hai năm."

    "Con cái?"

    "Không."

    "Tại sao?"

    Thấy cô chuẩn bị trừng mắt, anh vội giơ tay lên. “Bỏ đi, chuyện này là riêng tư. Nếu cô không thể có con … “

    "Không phải tôi."

    "Thì ra là do anh ta?"

    Cô lại định đứng lên, nhưng cái khoát tay của anh ngăn cô lại. "Được rồi, chủ đề con cái là cấm kỵ. Tôi sẽ không hỏi nữa."

    Anh ngẫm nghĩ một lúc rồi nói. "Vậy là cô gặp Noah mỗi ngày ở chỗ làm và chẳng bao lâu thì đổ gục."

    "Thực ra tôi đã yêu anh ấy trước khi gặp mặt."

    "Cô nói rõ hơn được không?"

    "Khi tôi đọc tiểu thuyết của anh ấy."

    "Chinh phục."

    "Sao anh biết? Tất nhiên, bài báo có nhắc đến quyển tiểu thuyết của Noah."

    "Đúng, nhưng tôi chẳng lạ gì nó." Anh nói. "Tôi đọc khi nó vừa ra mắt."

    "Tôi cũng vậy. Khoảng năm mươi lần."

    "Cô đùa chắc?"

    "Thật mà. Tôi yêu nó. Nhân vật chính, Sawyer Bennington, là người tình trong mộng của tôi."

    "Cô cũng mộng tưởng?"

    "Không phải mọi người đều thế sao? Chẳng có gì phải xấu hổ cả."

    "Có lẽ cô thì không. Nhưng tôi có nhiều mộng tưởng đáng ngượng ngùng. Cô có muốn biết không?"

    "Anh đúng là bất trị."

    "Cô giáo mầm non cũng nói với mẹ tôi như thế."

    "Khi ... “

    "Khi trong ba ngày liên tiếp, cô ấy bắt gặp tôi vào phòng vệ sinh nam để thử món đồ chơi yêu thích mới."

    "Tôi sẽ không hỏi đâu."

    "Tốt hơn hết là cô không nên. Dù sao thì, chúng ta đang nói đến đâu nhỉ?"

    "Sawyer Bennington."

    "Ừ, người tình trong mộng của cô. Tôi thấy khá kỳ lạ."

    "Tại sao?"

    "Anh ta là tội phạm."

    "Một tên trộm, một kẻ giết người."

    "Nói chung là tội phạm."

    "Nhưng chàng phạm tội là có nguyên nhân, vì những gì vợ con chàng phải chịu đựng. Đọc đoạn chàng phát hiện ra thi thể của họ, tôi đã khóc nức nở. Đến giờ tôi vẫn khóc mỗi khi đọc lại". Vẻ mặt cô trở nên mơ màng xa xăm. "Sawyer là người đàn ông khô khan, với tất cả mọi người, trừ Charlotte. Một tình yêu say đắm và vĩnh cửu, ngay cả cái chết cũng không thể chia lìa. Khi bị treo cổ, chàng đã nghĩ về ... " Cô đỏ mặt nói nhỏ. “Thứ lỗi cho tôi, Parker. Chắc anh hiểu tôi yêu quyển truyện đó đến nhường nào. "

    "Cô nói về các nhân vật như thể ngoài đời thật."

    "Noah đã tạo nên những nhân vật tuyệt vời đến nỗi đôi khi tôi quên mất đó là hư cấu. Mỗi khi thấy nhớ họ là tôi mở truyện ra đọc. Việc đó giống như tôi ghé đến nhà thăm họ."

    "Nó đã được dựng thành phim, đúng không?"

    "Bộ phim khác một trời một vực không thể sánh với tiểu thuyết. Nhưng phải công bằng với những nhà làm phim, tôi không nghĩ phim ảnh có thể chuyển tải trọn vẹn cốt truyện. Nhiều nhà phê bình cho rằng Chinh phục là cuốn tiểu thuyết lịch sử hay nhất kể từ Cuốn theo chiều gió."

    "Một lời khen ngợi mạnh mẽ.”

    "Theo tôi là xác đáng."

    "Sau đó anh ta còn viết quyển nào nữa?"

    "Không." Sự hào hứng của cô giảm đi đáng kể. "Sau khi tham gia xuất bản quyển Chinh phục, Noah nhận ra đó là lĩnh vực đam mê của anh ấy chứ không phải viết lách. Tôi hiểu anh ấy. Khi quyển tiểu thuyết đầu tay đạt được những thành công vang dội đến thế, người ta phải chịu áp lực khủng khiếp, thậm chí là sợ sáng tác vì không chắc có thể sáng tạo ra quyển thứ hai hay tương tự. Anh ấy không đụng đến cây bút mãi đến dạo gần đây. "

    Ánh mắt Parker trở nên sắc bén. "Anh ta viết lại rồi à?"

    "Anh ấy đã lập hẳn một nơi để sáng tác. Tôi thấy vui lắm."

    Nhưng vẻ mặt cô thì không vui lắm, có thể nói là hoàn toàn không vui khi đôi lông mày thanh tú nhíu lại với những tâm sự nặng nề. Nếu biết những biểu hiện trên gương mặt đã tố giác tâm trạng của mình, cô sẽ học cách kiểm soát tốt hơn.

    Anh lên tiếng phá tan sự yên lặng. "Cô còn bao nhiêu người tình trong mộng nữa?”

    "Nhiều lắm." Cô khẽ cười thừa nhận. "Nhưng không ai có thể so sánh với Sawyer Bennington."

    Parker ngả người tới trước, nói trên tiếng cơn mưa vần vũ.

    "Maris? Chẳng lẽ cô yêu nhân vật chứ không phải tác giả?"

    Mặt cô đanh lại, nhưng lập tức nỗi bực bội tan biến như tia sét xẹt ngang bầu trời. Cô mỉm cười kẻ cả. "Với cái cách tôi nói về Sawyer nãy giờ, đây là một câu hỏi hợp lý. Độc giả thường đánh đồng tác giả với nhân vật mà họ tạo ra, vì vậy sau những buổi ký tặng sách, khi gặp gỡ và thấy tác giả là những người bình thường bằng xương bằng thịt, độc giả thường cảm thấy thất vọng. Tác giả hoàn toàn không giống những gì mà độc giả đã hình dung."

    "Cô nói rất hay, nhưng không trả lời vào câu hỏi."

    Vẻ cáu kỉnh quay trở lại trên gương mặt cô. "Đừng có kỳ cục thế. Tôi yêu chồng tôi, vì tài năng cũng như vì chính con người anh ấy. Đến giờ tôi vẫn yêu anh ấy. "

    Anh nhìn cô chằm chằm một lúc lâu. "Anh ta nghĩ sao?"

    "Ai, Noah?"

    Anh lắc đầu. “Nhân vật nam chính của quyển truyện, Sawyer. Cô nói khi sắp bị treo cổ, anh ta nghĩ ... "

    "À. Chàng nhớ lại lần đầu tiên nhìn thấy Charlotte." Cô thoáng ngừng nhưng tiếp tục khi Parker gật đầu khuyến khích."Noah đã miêu tả sống động và chi tiết đến mức tôi có thể hình dung ra vườn cây trĩu quả, ngửi thấy mùi trái chín, cảm thấy ánh nắng như thiêu như đốt trên da mình. Sau nhiều ngày rong ruổi, Sawyer thúc ngựa ghé vào trang trại nhà Charlotte để tìm nước uống. Bốn bề vắng lặng, không một bóng người. Khi đến gần máng nước, chàng bắt gặp Charlotte đang nằm ngủ dưới tán cây đào, bên cạnh là một đứa bé. Sawyer tưởng là con của nàng." Maris mỉm cười, khẽ lắc đầu. "Sau đó chàng mới biết là em trai nàng."

    Ngữ điệu nhịp nhàng uyển chuyển của cô làm Parker ngẩn người ra như đang nghe một câu chuyện hoàn toàn mới lạ.

    "Charlotte là cô gái đẹp nhất mà Sawyer từng thấy. Mái tóc dài xõa tung. Vẻ đẹp của nàng, làn da, đôi môi không từ ngữ nào có thể diễn tả. Trong một ngày nóng bức, váy nàng tốc lên trên gối để lộ đôi chân trần. Sawyer ngất ngây lòng trước vẻ đẹp siêu phàm của nàng. Không cần nàng khỏa thân, chỉ nhìn đôi chân trần của nàng cũng làm cơ thể chàng bốc cháy.

    Chàng nín thở nhìn ngực nàng nâng lên hạ xuống theo nhịp thở nhẹ nhàng. Trong sự ngưỡng mộ chàng dành cho nàng có sự tôn kính như đối với Đức mẹ đồng trinh.

    Nhưng chàng không thể rời mắt khỏi nàng như một người đàn ông lịch sự cần phải làm. Chàng cứ đứng ngây ra cho đến khi nghe tiếng xe đến gần. Người nhà của nàng quay về sau khi ra thị trấn mua hàng.

    Charlotte không bao giờ biết rằng Sawyer đã ngắm nàng ngủ. Chàng không kể chuyện hôm đó cho nàng biết, một chi tiết mà theo tôi rất dễ thương. Một kỷ niệm quá đặc biệt và chàng đã ôm ấp nó cho riêng mình. Trong giây phút đối diện với cái chết, khi cửa sập của giá treo cổ sắp mở ra dưới chân, chàng hồi tưởng lại giây phút đáng nhớ nhất của cuộc đời. Chàng đã chết khi sống lại lần đầu tiên nhìn thấy Charlotte."

    Parker lặng ngắt, nghe như nuốt từng lời. Rất lâu sau khi cô kết thúc, họ im lặng nhìn nhau, tâm trí vẫn còn vang vọng dư âm của cuộc tình lãng mạn.

    Cuối cùng, anh nói bằng giọng khàn khàn. "Lẽ ra cô phải là nhà văn, Maris."

    "Tôi ư? Không." Cô lắc đầu và cười. "Tôi không có khả năng đó. Mặc dù có thể phát hiện ra những cây bút tiềm năng và hỗ trợ họ, tôi không thể sáng tạo."

    Anh trầm ngâm một lúc rồi nói. "Cô có biết cảnh đó gợi tình chỗ nào không?"

    Cô nghiêng đầu chờ đợi.

    "Đó là vì anh ta đã gần gũi thân mật mà cô ấy không hề hay biết."

    "Đúng vậy."

    "Đôi mắt và tâm trí của anh ta đã chạm vào những gì mà tay và môi anh ta muốn. Anh ta không nhìn thấy quá nhiều, nhưng anh ta tự trách mình vì đã nhìn thấy tất cả."

    "Là trái cấm."

    Giọng anh êm như ru. "Tiếng gọi thôi thúc của dục vọng và đam mê. Thứ không tốt cho chúng ta. Thứ chúng ta không thể có. Thứ chúng ta muốn nhiều đến mức chúng ta có thể nếm trải mà không hề chạm vào."

    Maris hít vào một hơi run rẩy và thở ra từ từ. Chợt cảm thấy vài sợi tóc rơi xuống gáy, cô đưa tay lên nhưng dường như việc làm cho chúng nằm đúng vị trí đã nằm ngoài khả năng nên cô lại hạ tay xuống. Cô lướt tay trên chiếc nút áo quen thuộc như để tự trấn an rằng nó vẫn còn đó. Ánh mắt Parker dán chặt vào từng cử động của cô.

    Cô đứng bật dậy trong khoảng không gian hẹp ngăn cách giữa họ. "Tôi phải về. Mưa tạnh rồi."

    Không đúng hoàn toàn. Mưa đã ngớt nhưng có thể làm ướt áo. Nhưng Parker không phản đối mà để cô đi qua.

    Gần như đi qua.

    Trước khi cô kịp hoàn thành một bước đi, anh đưa tay ra ngăn cản. Những ngón tay anh giữ chặt hai bên hông cô, mắt anh vừa tầm với khoảng eo trần quyến rũ. Anh từ từ di chuyển ánh mắt lên trên.

    Cô đang nhìn xuống anh, giật mình và e ngại. Hai tay cô giơ lên như thể không biết phải để chúng ở đâu và làm gì với chúng.

    "Chúng ta hiểu rõ vì sao hôm qua tôi hôn em, Maris."

    "Anh muốn dọa tôi."

    Anh cau mày. "Sao em nói thế? Tôi hôn em vì em không sợ Terry và dũng cảm đương đầu với tất cả người lạ trong quán, trong đó có tôi. Tôi hôn em vì em khiến con tim tôi nhức nhối. Tôi hôn em vì một kẻ hư hỏng như tôi không thể cầm lòng trước đôi môi quyến rũ thế kia. Thật lòng thì, tôi hôn em vì tôi muốn thế. Tôi thừa nhận và em cũng biết. Nhưng có một điều ám ảnh tôi đến phát điên." Anh nhìn sâu vào mắt cô. "Tại sao em hôn tôi?"
     
    Chỉnh sửa cuối: 21/11/22
    Thuyhuynh19, dakedo, hathao and 8 others like this.
  20. machine

    machine Lớp 12

    Bạn dịch mấy cuốn đều mượt. Lâu lâu vào đọc vẫn thấy hay.
    Chương 11 có 1 lỗi dịch nhỏ xíu nha bạn.
    Bẵng đi một thời gian, vài người lai được nhìn thấy sinh sống trên một đảo hoang, có lẽ là hậu duệ của cặp vợ chồng nọ.

    Mình đề xuất sửa lại thành
    Bẵng đi một thời gian, người dân trong vùng chợt thấy vài người lai sinh sống trên một đảo hoang, có lẽ đó là hậu duệ của cặp vợ chồng nọ.
     
    iusach and tran ngoc anh like this.

Chia sẻ trang này