Đôi dòng lưu niệm ... Hiểu Sử NGƯỜI... Thấm Xứ TA...

Thảo luận trong 'Bàn Trà' bắt đầu bởi tducchau, 7/1/24.

Moderators: amylee
  1. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TỬ SẢN


    Nhà cải cách chính trị thời Xuân Thu. Ông họ Công Tôn, tên Kiều, tự Tử Sản hoặc Tử Mỹ, không rõ năm sinh, mất năm 522 T.C.N. Tử Sản xuất thân giới quý tộc nước Trịnh, cha là Tử Quốc từng giữ chức Đại Tư mã, nhân vì cải cách chế độ ruộng đất mà bị giết. Năm 543 T.C.N (Trịnh Giản công thứ 23), Tướng nước Trịnh trao quyền cho Tử Sản để ông giữ chức Chính khanh nước Trịnh nắm quyền hơn 40 năm.

    Trong thời gian Tử Sản nắm quyền, ông tiến hành một loạt cải cách như chia lại ruộng đất, khích lệ nông tang, thu thuế theo số lượng ruộng đất sở hữu, công bố công khai hình phạt pháp luật bằng cách khắc hình luật trên đỉnh đồng, bảo đảm quyền lợi công tư v.v... Về đối nội, ông thi hành ân huệ với dân, trừ khử quan tà, mở đầu thói quen bàn về chính sách. Về đối ngoại, ông tích cực triển khai ngoại giao giữa các nước nhỏ. Nhờ những biện pháp thi hành có hiệu quả, thế lực nước Trịnh tăng thêm rất nhiều, các nước nhỏ như Tấn, Sở không dám xâm phạm tới Trịnh.

    Đối với quỷ thần, trời đất, Tử Sản đưa ra quan điểm hoài nghi và phủ định rất can đảm. Ông cho rằng bệnh tật là do ăn uống buồn vui chứ không liên quan gì đến quỷ thần, ông phản đối cầu bái cúng tế để tránh tai họa, đưa ra quan điểm vô thần luận thô sơ. Đối với Lễ, ông phản đối cách giải thích thần bí. Những chủ trương về tư tưởng của ông cống hiến rất lớn đối với sự phát triển của tư tưởng vô thần luận cổ đại. Trước khi chết ông còn khuyên con là Thái Thúc cần phải thi hành chính trị nhân đức. Ông không có tác phẩm truyền thế.

    ...
     
    vuivui2013 and Wanderman like this.
  2. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    UÝ LIÊU


    Nhà quân sự cuối đời Chiến quốc, không rõ năm sinh năm mất, người ở Đại Lương nước Ngụy (nay là Khai Phong, Hà Nam). Áp dụng kiến nghị của Lý Tư, Tần vương Doanh Chính giải trừ lệnh đuổi môn khách, năm 237 T.C.N, Úy Liêu đến Tần du thuyết, ông dâng kế sách ly gián các nước chư hầu lên và được Tần vương trọng dụng, cho làm Quốc uý. Vì không rõ họ nên người đời gọi ông là Úy Liêu.

    Úy Liêu nhận định: nếu so với nước Tần hùng mạnh, thì các nước chư hầu giống như tôi thần ở quận huyện, nhưng nếu thi hành kế sách “Hợp tung” liên kết các nước lại bất ngờ đối phó với Tần thì Tần cũng bị đe dọa nguy vong. Ông chủ trương không tiếc tiền của hối lộ đút lót các hào thần ở các nước chư hầu để thực hiện âm mưu ly gián họ, ngăn chận “hợp tung” giữa 6 nước và phối hợp quân sự tấn công họ, hoàn thành sự nghiệp thống nhất.

    Phần Nghệ văn chí sách Hán thư* chép bộ "Úy Liêu” có 29 thiên, liệt vào Tạp gia, đã mất. Cũng sách Hán thư còn chép một bộ “Úy Liêu” khác nữa, có 31 thiên, tức là bộ “Úy Liêu Tử”. Một thuyết cho rằng Úy Liêu là người thời Ngụy Huệ vương, giỏi về quân sự thao lược.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  3. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    3. THÀNH TỰU TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC


    Khác với tiểu mục BÁCH GIA VÀ CÁC HỌC PHÁI, tiểu mục này nhấn mạnh đến những thành tựu nhất định và nêu lên những điểm nổi bật chủ yếu nhất của từng triết gia. Và, cũng khác với tiểu mục CHƯ TỬ, ở tiểu mục này ghi nhận những thành tựu tư tưởng triết học tiêu biểu. Tiểu mục này vẫn được xếp theo thứ tự chữ cái ABC quốc ngữ.

    *

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    ...

    *​

    ÁN ANH VÀ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC


    Án Anh (?-500 T.C.N), tư tưởng gia và chính trị gia nước Tề thời kỳ Xuân Thu, tự Bình Trọng, người đất Di Ngô (nay là Cao Mật, Sơn Đông). Năm Tề Linh công thứ 26 (556 T.C.N), giữ chức Tề khanh, nắm chính sự 56 năm, trải ba đời Linh công, Trang công, Cảnh công. Về triết học, ông đưa ra quan điểm cho rằng ý muốn của con người không thể thay đổi đạo trời, đây là tư tưởng sớm nhất chia biệt Trời và Người. Án Anh phát triển tư tưởng liên quan giữa “Hòa” và “Đồng” của Sử Bá, đề xuất “Hòa” và “Đồng” khác nhau.

    “Đồng” tức đơn giản là đồng nhất, “Hòa” tức khá nhiều mặt đối lập bất đồng thống nhất. Ông đưa ra ví dụ bằng âm nhạc, ẩm thực, thuyết minh sự vật “tương thành”, “tương tế” mà vẫn mâu thuẫn, ông bảo: “Như dùng nước thêm vào nước, ai mà ăn được? Như chỉ có một tiếng cầm sắt duy nhất, ai mà nghe được?” (Nhược dĩ thủy tế thủy, thùy năng thực chi. Nhược cầm sắt chi chuyên nhất, thùy năng thính chi - Tả truyện). Đó chính là “Đồng”. Còn “Hòa” lại giống như nấu canh, dùng cá thịt, thêm các loại gia vị đưa lên lửa nấu, có như vậy món canh mới ngon và làm ích lợi cho thân tâm.

    Án Anh chú ý đến sự tồn tại dựa vào các mặt đối lập, đưa ra ví dụ quan hệ giữa vua và tôi, đưa ra vấn để thống nhất đối lập giữa “Được” và “Không được”, cho rằng “Được” tồn tại nhờ “Không được" tồn tại, “Được” và “Không được” tương phản lẫn tương tế với nhau. Ông còn đưa ra ý kiến “Trong đục, lớn nhỏ, ngắn dài, mau chậm, buồn vui, cứng mềm, chậm mau, cao thấp, ra vào” đều là tương phản lẫn tương tế với nhau. Các tư tưởng ấy của Án Anh bước đầu đã đề cập đến quan hệ biện chứng của những mặt đối lập, có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của tư tưởng đối lập thống nhất sau này.

    Bộ Tả truyện* ghi chép sự tích và ngôn luận của Án Anh, bộ Án Tử Xuân Thu* do người đời sau sưu tập biên soạn ngôn hành của ông, nhưng không phải là căn cứ chính xác.

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 10/6/24 lúc 09:43
    Wanderman thích bài này.
  4. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ÂU DƯƠNG KIẾN


    Âu Dương Kiến (khoảng 270-300), triết học gia đời Tây Tấn, người ở Nam Bì, Bột Hải (nay là Thương huyện, tỉnh Hà Bắc). Ông từng giữ chức Thượng Thư lang, Thái thú Phùng Dục, rất được khen ngợi. Sau này ông bị Sở vương Tư Mã Luân giết hại. Trứ tác còn lại có bài “Ngôn tận ý luận”.

    Âu Dương Kiến chủ trương “Lời nói hết ý”, luận điểm chủ yếu của ông là:

    ① Sự vật khách quan (Vật), thuộc tính của nó (Hình, Sắc) và quy luật () đều không thay đổi vì ngôn ngữ (Ngôn), khái niệm (Danh) và tư tưởng (Ý) của con người.

    ② Khẳng định ngôn ngữ đủ để biểu đạt khái niệm, tư tưởng và có đủ khả năng phản ánh sự vật khách quan, đó gọi là “ngôn ngữ để thông đạt chí, tên gọi để phân biệt sự vật” (Ngôn ngữ dĩ sướng chí, danh dĩ biện vật).

    ③ Ông cho rằng, sự vật và quy luật biến đổi thì khái niệm và ngôn ngữ cũng biến đổi theo, đó gọi là “Tên gọi theo sự vật thay đổi, ngôn ngữ theo quy luật cũng thay đổi” (Danh trục vật nhi thiên, ngôn nhân lý nhi biến); DanhVật, Ngôn đã phân biệt thành Chủ và Khách nhưng vẫn giữ “Âm thanh phát ra nên tiếng dội ứng theo, hình còn thì ảnh phụ theo” (Thanh phát hưởng ứng, hình tồn ảnh phụ).

    ④ Kết luận là “Nếu hai điều đó (Danh Vật, Ngôn Lý) không khác nhau thì ngôn ngữ không gì không hết” (Cẩu kỳ bất nhị, tắc ngôn vô bất tận).

    Tóm lại, Ngôn tận ý luận của Âu Dương Kiến có cống hiến đáng quý trong triết học sử Trung Quốc.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  5. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA BÁ DƯƠNG PHỤ


    Bá Dương Phụ, người cuối đời Tây Chu, không rõ năm sinh năm mất, có thuyết cho rằng tên là Sử Bá, Đại phu đời Chu. Bá Dương Phụ là tư tưởng gia luận thuật về vấn đề Âm Dương khá sớm trong triết học sử Trung Quốc.

    Năm Chu U vương thứ 2 (780 T.C.N), Tây Chu xảy ra động đất lớn, ông dùng hai khí Âm Dương mất trật tự để giải thích, đưa ra chứng minh: “Khí của trời đất không thể mất trật tự, nếu quá trật tự ấy, dân sẽ loạn vậy. Khí Dương ẩn phục không thể xuất ra, khí Âm bị bức không thể bay lên thì có động đất” (Quốc ngữ). Coi Âm Dương là khí của trời đất, Âm Dương mất quân bình tạo thành động đất, đó là quan điểm tự nhiên duy vật thô sơ.

    Ông cho rằng trật tự xã hội an trị hay loạn lạc đều tạo thành do trật tự trời đất, đầy màu sắc tông giáo nguyên thủy.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  6. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA BÙI NGỖI


    Bùi Ngỗi (267-300), triết học gia đời Tây Tấn, nhân vật đại biểu chủ yếu của Huyền học phái “Sùng hữu luận”(lý luận tôn sùng cái có). Ông tên tự Dật Dân, người ở Văn Hỉ, Hà Đông (nay là Giáng huyện, Sơn Tây).

    Tác phẩm của ông có bài Sùng hữu luận chép trong sách Tấn Thư quyển 35. Cơ sở Huyền học của Bùi Ngỗi là: Không thể bỏ “Hữu” mà giữ “”, bỏ “Dụng” mà bàn “Thể”. Ông phản đối ở ngoài thế giới hiện thực để đi tìm một loại siêu hiện thực làm căn cứ cho xã hội hiện thực, ông chủ trương “lấy hữu làm gốc” (Dĩ hữu vi bản).

    Tư tưởng Sùng hữu luận của ông cụ thể có thể chia ra:

    ① Bản thân muôn vật không phân biệt, tức là cái căn bản nhất của “Đạo” (Bản thể).

    ② Muôn vật cụ thể tồn tại là bản thể của tự thân chúng, không cần thiết phải lấy “” làm bản thể. Nhờ vậy, mà chúng mới có những tính chất khác nhau và nhờ vậy, mới phân biệt được muôn loài.

    ③ Bản thể của là bản thân của vạn hữu, không có cái nào vượt lên trên vạn hữu, tức quy luật không thể tồn tại độc lập tách rời với thực thể vật chất.

    ④ Giữa các loại “Hữu” cụ thể, nương dựa vào nhau tồn tại và bổ sung chỗ thiếu lẫn nhau.

    ⑤ Vạn vật “tự sinh” nhưng “bản thể tự sinh là hữu" (Tự sinh tất thể hữu).

    Khuyết điểm trong tư tưởng Bùi Ngỗi là: chỉ bàn tới tính tồn tại nhờ nương dựa vào nhau của sự vật, không biết đến sự chuyển hóa hỗ tương lẫn nhau của sự vật, mà mục đích “Sùng hữu luận” của ông cũng chỉ muốn luận chứng cho tính hợp lý của xã hội phong kiến. Đôi chỗ, lý luận của ông trộn lẫn giữa tự nhiên và xã hội nhân loại.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  7. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA CHU ĐÔN DI


    Chu Đôn Di (1017-1073), triết học gia đời Bắc Tống, người ở Đạo châu, Hồ Nam, tên tự Mậu Thúc. Cuối đời ông ẩn cư ở Liêm Khê, dưới chân núi Lê sơn, Giang Tây nên được gọi là Liêm Khê tiên sinh.

    Tác phẩm chủ yếu của ông có “Thái Cực đồ thuyết” và “Thông thư”. Trong Thái Cực đồ thuyết, Chu Đôn Di đưa ra một hệ thống sinh thành vũ trụ tương đối hoàn chỉnh. Ông cho rằng “Từ vô cực mà thành Thái cực” (Tự vô cực nhi vi Thái cực), “Thái cực động sinh ra khí Dương, động lên tới cực thành tĩnh, tĩnh sinh ra khí Âm” (Thái cực động nhi sinh Dương, động cực nhi tĩnh, tĩnh nhi sinh Âm), “Khí Dương biến Âm hợp mà sinh ra Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ” (Dương biến Âm hợp nhi sinh Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ), “Đạo của (quẻ) Càn thành con trai, đạo của (quẻ) Khôn thành con gái, hai khí ấy giao cảm hóa sinh muôn vật” (Càn đạo thành nam, Khôn đạo thành nữ, nhị khí giao cảm hóa sinh vạn vật), “Muôn vật sinh ra liên tục nên biến hóa không cùng” (Vạn vật sinh nhi biến hóa vô cùng).

    Theo cách nhìn của Chu Đôn Di, vũ trụ phát triển theo quy luật Vô cực → Thái cực → Âm Dương → Ngũ hành → Vạn vật → Vạn vật sinh sôi nảy nở không ngừng nghỉ. Đến đời Nam Tống, Chu Hi đem câu đầu của Thái cực đồ thuyết đổi thành “Vô cực mà Thái cực" (Vô cực nhi Thái cực) và giải thích rằng ý của câu này là “không có hình mà có lý” (Vô hình nhi hữu lý). Như vậy, vũ trụ quan của Chu Đôn Di là duy tâm khách quan; nhưng, cũng có người cho rằng xét từ bản thân tác phẩm của Chu Đôn Di, thì ông coi vũ trụ là một khí vô hình vô tượng, không có biên giới, dần dần qua quá trình phân hóa có hình có tượng thành vạn vật, nhân vậy, quan điểm tự nhiên của Chu Đôn Di phải là duy vật.

    Trong sách Thông thư, Chu Đôn Di chú trọng bày tỏ vấn đề “đạo đức tính mệnh”. Ông nói: “Lớn lao thay đứng đầu (quẻ) Càn, muôn vật bắt đầu sinh ra từ đấy, nguồn gốc của lòng chân thành đó vậy” (Đại tai Càn nguyên, vạn vật tư thủy, thành chi nguyên dã). Từ “Càn nguyên” phát sinh ra “Lòng chân thành” (Thành), lại trở thành “nguồn gốc của tính mệnh”: “lòng chân thành là gốc của ngũ thường, là nguồn gốc của trăm tính hạnh” (Thành, ngũ thường chi bản, bách hạnh chi nguyên dã). Như vậy, ông từ nhân tính tìm tới cơ sở khách quan. Ông chia nhân tính ra làm 5 bậc (Ngũ phẩm): “Tính, trong cương nhu thiện ác mà thôi vậy” (Tính giả cương nhu thiện ác trung nhi dã hĩ). Rất cương hoặc rất nhu đều không tốt. Theo ông “Chỉ có trung thôi vậy, Hòa là trúng lễ tiết, đó là đạt đạo của thiên hạ, là việc của thánh nhân vậy” (Duy trung dã giả, Hòa dã, trúng tiết dã, thiên hạ chi đạt đạo dã, thánh nhân chi sự dã).

    Chu Đôn Di cho rằng, trong 5 tính (Ngũ tính) thì “Trung” là tốt hơn hết. Gọi Trung là một người có thể làm cho hành vi của mình phù hợp với nguyên tắc Trung dung và quy phạm đạo đức phong kiến. Do vậy “Thánh nhân định bằng nhân nghĩa trung chính" (Thánh nhân định chi dĩ trung chính nhân nghĩa). Trung là “chỗ cùng cực để lập thân người”, nghĩa là coi “Trung” là tiêu chuẩn làm người. Để đạt tới tiêu chuẩn ấy, cần phải “làm chủ thanh tĩnh” (Chủ tĩnh), “bỏ tham muốn” (Khử dục).

    Vũ trụ quan và học thuyết đạo đức tính mệnh của Chu Đôn Di có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của Lý học Tống Minh sau này và ông được coi là bậc “tông chủ của Đạo học” (Đạo học tông chủ).

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  8. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA CHU HI


    Chu Hi (1130-1200), tư tưởng gia nổi tiếng, triết học gia, giáo dục gia đời Nam Tống, là người tập đại thành Lý học, ông kế thừa và phát triển tư tưởng của hai anh em họ Trình, là nhân vật tiêu biểu cho phái duy tâm trong triết học sử Trung Quốc. Ông tên tự Nguyên Hối, Trọng Hối, hiệu là Hối Am, người ở Vụ Nguyên (nay thuộc Giang Tây), đỗ Tiến sĩ niên hiệu Thiệu Hưng, làm quan tới chức Bảo Văn Các đãi chế kiêm Thị giảng cho vua Minh Tông.

    Thoạt đầu ông chủ trương chống quân Kim, sau đó chủ trương “giữ an bên trong” để "đè ép bên ngoài”. Về triết học, chủ yếu ông là Nho gia, có hấp thu lý luận duy tâm của Phật giáo và Đạo giáo, kiến lập hệ thống Lý học lớn rộng, coi “” là phạm trù triết học tối cao, là điểm xuất phát và cũng là điểm chung kết trong tư tưởng triết học của ông. Ông nhận định “Trong khoảng trời đất, có Lý có Khí. Lý là hình nhi thượng của Đạo, là gốc của sinh vật. Khí là khí hình nhi hạ, là công cụ của sinh vật” (Thiên địa chi gian, hữu Lý hữu Khí. Lý dã giả, hình nhì thượng chi đạo dã, sinh vật chi bản dã; Khí dã giả, hình nhi hạ chi khí dã, sinh vật chi cụ dã).

    Lý và Khí “hai cái ấy thường nương dựa vào nhau và chưa bao giờ lìa rời nhau” (Nhị giả thường tương y nhi vị thường tương ly); nhưng trong luận lý theo từng lớp thứ tự thì “Lý là gốc, Khí là ngọn” (Lý bản Khí mạt), “Lý trước Khi sau” (Lý tiên Khí hậu), “Lý là chủ của Khí” (Lý vi Khí chi chủ), nên đây thuộc duy tâm khách quan. Ông còn đem liên hệ với tam cương ngũ thường, tuyên dương vốn đầy đủ thuộc tính đạo đức luân lý. Ông lại cho rằng thể hiện trong nhân tính là “thiên mệnh chi tính”, là chí thiện, ngoài ra, người ta còn có “Tính khí chất” (Khí chất chi tính). Để không bị “tính khí chất” phát sinh ra lòng tham muốn che mờ, ông chủ trương “làm sáng lẽ trời, tiêu diệt tham muốn của người” (Minh thiên lý, diệt nhân dục).

    Về nhận thức luận, ông dựa theo thuyết Cách vật trí tri của hai anh em họ Trình, coi là đối tượng của nhận thức, thực chất là thông qua nghiên cứu tận cùng muôn vật để nhận thức và phát huy cái vốn có trong tâm của chính mình, đây là loại nhận thức luận duy tâm. Thế nhưng, nhận thức luận của Chu Hi có bao hàm quan điểm biện chứng pháp phong phú, cho rằng “Vạn vật trong trời đất, chưa hề không có gì không đối kháng lẫn nhau” (Thiên địa gian vật, vị thường vô tương đối giả), “Trong Âm tự chia ra Âm Dương, trong Dương cũng tự có Âm Dương” (Âm trung tự phân Âm Dương, Dương trung diệc hữu Âm Dương), “Một chia thành hai, đoạn nào cũng thế, cho đến vô cùng” (Nhất phân vi nhị, tiết tiết như thử, dĩ chí vô cùng).

    Ông nhận rằng hai đầu đối lập còn tồn tại quan hệ cùng nương dựa và chuyển hóa với nhau “trong Dương có Âm, trong Âm có Dương, Âm tới cực sinh Dương, Dương tới cực điểm sinh Âm, do vậy thần hóa vô cùng” (Dương trung hữu âm, âm trung hữu dương, âm cực sinh dương, dương cực sinh âm, sở dĩ thần hóa vô cùng).

    Hệ thống tư tưởng duy tâm của Chu Hi hết sức hoàn chỉnh chặt chẽ, có địa vị rất quan trọng trong triết học sử Trung Quốc. Tác phẩm của ông cực kỳ phong phú, chủ yếu có: “Tứ thư tập chú”, “Tứ thư hoặc vấn”, “Thái cực đồ thuyết giải”, “Thông thư giải”, “Tây Minh giải”, “Chu Dịch bản nghĩa”, “Dịch học khải mông”. Ngoài ra còn có bộ “Chu Tử ngữ loại” 140 quyển, ghi chép những lời đối đáp giữa ông và học trò, do Lê Tĩnh Đức phân loại biên soạn.

    Tóm lại, Chu Hi là học giả bác học nhất trong xã hội cuối phong kiến và cũng là triết học gia viết nhiều nhất.

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/5/24
    vuivui2013 and Wanderman like this.
  9. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TRIẾT HỌC TƯ TƯỞNG CỦA CHU THỤ HOÈ


    Chu Thụ Hoè (1786- 1849), tư tưởng gia đời Minh, tên tự Tinh Thúc, tự hiệu Trang Học Tử, người ở Trường Sa, Hồ Nam. Ông đậu Tiến sĩ năm Gia Khánh thứ 14, nhận chức Tri huyện Cát Thủy, Giang Tây. Niên hiệu Đạo Hưng thứ 12 (1832), ông từ quan quay về quê, chuyên vào việc trứ tác, có Trang học trai văn tập12 quyển, trong đó có nhiều đoạn phê phán mê tín ở đời phong kiến lúc ấy, phản ánh tư tưởng vô thần luận rõ ràng của ông.

    Ông chỉ trích dân chúng mê tín thuật phong thủy địa lý, vạch trần sự mâu thuẫn tự thân của thuật địa lý ấy. Trong thời gian Chu Thụ Hòe sống, các loại mê tín số mệnh và chọn ngày tốt ngày xấu lưu hành phổ hiến rất rộng, Chu Thụ Hoè kế thừa quan điểm vô thần luận của người đi trước, dùng sự thực phê phán thuyết số mệnh, chứng minh người có cùng một số Tử vi mà cuộc đời thường khác hẳn nhau. Ông bảo: trong thiên hạ có cùng một số tử vi “nhiều hàng trăm mà ít cũng cứ 10 người lại giống nhau, cuộc đời họ gặp gỡ khác hẳn” (Đa đắc bách dư, thiểu diệc số thập nhân cộng chi, nhi kỳ sở tạo dị hĩ).

    Ông còn vạch trần mê tín về “chọn ngày tốt” trong dân gian, ông chỉ ra: “Ôi có ngày nào là tốt vậy? Tiện cho việc là tốt, không tiện cho việc là không tốt, vậy mà thôi”. Ông còn chỉ ra thuyết chọn ngày tốt và thuyết số mệnh là hoàn toàn mâu thuẫn với nhau, vạch trần đó là những loại mê tín hoang đản không đáng tin.

    Tóm lại, Chu Thụ Hoè phản đối, kiên quyết đấu tranh với thói mê tín ở đời, ông chính là nhà vô thần luận ở đời Minh-Thanh.

    ...
     
    vuivui2013 and Wanderman like this.
  10. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA CÔNG TÔN LONG


    Công Tôn Long* (khoảng 325 T.C.N-250 T.C.N), triết học gia thời kỳ Chiến quốc, một trong những nhân vật đại biểu của học phái Danh gia, người nước Triệu, là môn khách của Bình Nguyên quân, từng đi sứ sang nước Yên, du thuyết thuyết phục Yên Chiêu vương “dẹp bỏ việc binh” (Yển binh).

    Ông nổi tiếng giỏi biện luận, từng tranh luận với Nho gia Khổng Xuyên và Âm Dương gia Trâu Diễn*, ngôn luận của ông phần lớn được lưu giữ trong bộ Công Tôn Long Tử*. Tư tưởng triết học của Công Tôn Long tìm hiểu nghiên cứu đặc trưng chủ yếu quan hệ khái niệm danh từ, phản đối tư tưởng “Hợp đồng dị” của một đại biểu Danh gia khác là Huệ Thi* với chủ trương “Ly kiên bạch”.

    Ông khéo phân tích hình tượng hóa vấn đề điển hình, dùng hình tượng cứng và trắng của đá làm ví dụ, đưa ra nhận định: “Nhìn không thấy được chỗ cứng mà chỉ thấy chỗ trắng, như vậy là không cứng; vỗ vào không rờ được chỗ trắng mà chỉ biết chỗ cứng (của đá), như vậy là không trắng” (Thị bất đắc kỳ sở kiên, nhi đắc kỳ sở bạch giả, vô kiên dã; phủ bất đắc kỳ sở bạch, nhi đắc kỳ sở kiên giả, vô bạch dã - Công Tôn Long tử, Kiên bạch luận).

    Ông cho rằng đối với một tảng đá, dùng mắt nhìn không thể thấy được thuộc tính cứng rắn của nó, chỉ nhìn thấy màu trắng của nó thôi; như vậy lúc ấy cứng rắn không tồn tại; nhưng dùng tay vỗ vào tảng đá, không sờ được sắc trắng của nó, chỉ có thể cảm thấy được là nó cứng rắn, lúc này màu trắng không tồn tại. Công Tôn Long coi thị giác và xúc giác là khác nhau để nhận biết sự vật khách quan, và làm căn cứ chứng minh các mặt thuộc tính bên trong sự vật là rời khác hẳn nhau, từ đó kết luận hai thuộc tính “Cứng” và “Trắng” của tảng đá khác nhau, rồi tách lìa các mặt thuộc tính của mọi sự vật khác. Ông cho rằng các thuộc tính của sự vật trong thiên hạ đều tồn tại độc lập.

    Công Tôn Long còn có một mệnh đề nổi tiếng khác là “Ngựa trắng không phải là ngựa” (Bạch mã phi mã) với ý rằng “Mã” chỉ là tên gọi về hình thể, còn “Bạch" là tên gọi về màu sắc, chỉ hình thể và chỉ màu sắc khác nhau, do đó có thể nói “ngựa trắng không phải là ngựa”. Thực tế, đây là vấn đề tìm hiểu sự khác biệt toàn thể mọi loại “Ngựa” chung và tìm hiểu một loại ngựa cá biệt “Ngựa trắng”, dùng lý luận sai biệt giữa toàn thể và cá biệt để phủ định liên hệ giữa hai khái niệm ấy.

    Trong “Danh thực luận” và “Chỉ vật luận”, Công Tôn Long nghiên cứu về vấn đề bản chất vạn vật và vấn đề liên hệ giữa “Danh” và “Thực”, cho rằng muôn vật thế giới là do tổng hòa của một loạt hệ thống thuộc tính cấu tạo nên, ông đưa ra chủ trương chính danh “gọi chính cái thực”, yêu cầu tên gọi một sự vật phải đạt được sự khái quát chuẩn xác của bản chất, để tên gọi (Danh) và nội dung (Thực) tương ứng với nhau. Học phái Công Tôn Long còn đưa ra một loạt mệnh đề khác trái ngược hẳn với sự hiểu biết thông thường, như “Gà ba chân” (Kê tam túc), “lửa không nóng” (Hỏa bất nhiệt), “nhìn không thấy” (Mục bất kiến), “chó không phải chó” (Cẩu phi khuyển) v.v... Về cơ bản, cũng là nghiên cứu toàn thể và cá biệt, là vấn đề liên hệ giữa thuộc tính của sự vật khách quan và cảm giác chủ quan, nhuốm đầy màu sắc ngụy biện.

    Tư tưởng triết học của Công Tôn Long tuy chia cắt toàn thể và cá biệt, có giới hạn về liên hệ giữa sự vật cụ thể với các mặt thuộc tính, nhưng lý luận nghiên cứu của ông tương đối sâu sắc, chú trọng tới sai biệt của toàn thể và cá biệt, là một mắt xích không thể thiếu trong đường dây tư duy lý luận của nhân loại. Trình độ tư duy trừu tượng của ông cũng đạt tới mức khá cao, cống hiến quan trọng cho sự phát triển triết học đời sau.

    Các Danh gia Công Tôn Long* và Huệ Thi* tạo nên một tư trào Danh biện, có tác dụng thúc đẩy quan trọng đối với sự phát triển luận lý học cổ đại, để sau này, tạo dựng nên hệ thống luận lý học Tiên Tần.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  11. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA DƯƠNG HÙNG


    Dương Hùng (53 T.C.N-18 sau Công nguyên), tên tự Tử Vân, người Thục quận, Thành Đô (nay là Thành Đô, Tứ Xuyên), triết học gia đời Tây Hán. Ông là người trầm mặc ưa suy tư, sở trường trứ thuật, có hai tác phẩm triết học “Thái huyền” và “Pháp ngôn”.

    Thái huyền được coi như một bản đồ vũ trụ mô phỏng theo Chu Dịch*. Sách này hệ thống hoàn chỉnh, kết cấu nghiêm mật, rất giàu có về mặt tư biện. Chu Dịch dùng phương pháp nhị phân, sách này dùng phương pháp tam phân, chia phạm vi không gian làm nhất, nhị, tam phương, lại chia thành 9 châu = 27 bộ, 81 nhà. Về thời gian, ông tổng hợp phương, châu, bộ, gia rồi chồng lên nhau thành 81 Thủ, giống như 64 quẻ trong Chu Dịch. Mỗi Thủ có 9 Tán tổng cộng 729 Tán, giống như 364 hào trong Chu Dịch. Lời Tán (Tán từ) giống Hào từ. Chu DịchSoán truyện, gồm 10 thiên là để giải thích phần Truyện, tức giống phần 10 thiên Huyền xung, Huyền si làm phần bổ sung.

    Đây là trứ tác quan trọng về Tượng số học đời Hán, lấy “Huyền” làm quan niệm trung tâm, cho rằng “Huyền vừa kín đáo vừa phát ra của muôn loại mà không có hình thù” (Huyền giả, u si vạn loại nhi bất kiến hình giả dã). Do vì mô tả quá cô đọng vắn tắt, người ta hiểu “Huyền” theo nhiều nghĩa khác nhau. Có quan niệm cho rằng đó là thứ thay đổi lưu động nhất định, miêu tả sự vật theo từng giai đoạn, từ manh nha, phát triển, hưng vượng đến suy yếu, tiêu vong

    Dương Hùng còn mô phỏng sách Luận ngữ* viết thành bộ Pháp ngôn 13 thiên. Sách phê phán Chư tử, chỉ tôn sùng Nho học* và Khổng Tử*, trách móc Lão Tử* “đả kích Nhân nghĩa, tiêu diệt Lễ học”; chỉ trích Trang Chu*, Dương Chu* “phiêu đãng chẳng có pháp chế gì"; chỉ trích Mặc Địch*, Án Anh* “cần kiệm nhưng không có lễ"; phê bình Thân Bất Hại*, Hàn Phi* “hiểm nhưng không có giáo hóa"; nhưng lại biểu lộ tán thưởng các quan điểm “đạo đức” của Lão, “ít ham muốn” của Trang và “tự giữ mình” của Trâu Diễn*.

    Pháp ngôn khái quát quy luật của sự vật là: “Có sinh ra là có chết đi, có chết đi là có chấm dứt, đó là đạo của tự nhiên” (Hữu sinh giả tất hữu tử, hữu tử giả tất hữu chung, tự nhiên chi đạo dã- Pháp ngôn, Quân tử). Về nhân tính luận, ông cho rằng tính thiện luận và tính ác luận đều có phiến diện, ông chủ trương “tính người ta trộn lẫn thiện và ác, tu sửa thiện thì là người thiện, sửa sang chú trọng ác thì là người ác” (Nhân chi tính dã thiện ác hỗn, tu kỳ thiện tắc vi thiện nhân, tu kỳ ác tắc vi ác nhân- Pháp ngôn, Tu thân). Nhấn mạnh học tập hậu thiên có tính trọng yếu đối với sự hình thành phẩm tính con người.

    Tác phẩm và tư tưởng của Dương Hùng được người đời sau tương đối thưởng thức, Hoàn Đàm* cuối đời Tây Hán cho rằng thành tựu của ông hơn hẳn Chư tử tiên Tần. Vương Sung* đời Đông Hán ca ngợi tác phẩm của Dương Hùng là mẫu mực của người đời sau, đưa ông lên vị trí quan trọng trong lịch sử triết học Trung Quốc.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  12. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA DƯƠNG TUYỀN


    Dương Tuyền (không rõ năm sinh năm mất), triết học gia đời Ngụy Tấn, nhà vô thần luận, tên tự Đức Uyên, người Lương quốc (nay là Thương Khâu, Hà Nam). Ông suốt đời không làm quan, ẩn cư viết sách. Tác phẩm của ông phần nhiều đã mất, còn lại bài “Vật lý luận” là tác phẩm đại biểu chủ yếu. Về triết học, ông phát triển Khí nhất nguyên luận, đưa ra mệnh đề “cái sở dĩ lập nên trời đất là nước, trở thành trời đất là khí” (Sở sĩ lập thiên địa giả thủy dã, thành thiên địa giả khí dã) biểu hiện tính chất duy vật trong vũ trụ quan của ông.

    Ông cho rằng toàn thể khoảng vũ trụ dẫy đầy nguyên khí chứ không có vật gì khác. “Khí” tức “bản thể của tự nhiên”, điều ấy cũng như nói Khí là một loại thực thể vật chất, là tồn tại khách quan tự nhiên mà có. “Khí tích tụ tự nhiên” (Khí tích tự nhiên) là quy luật tự nhiên của sự vật. Khí là hai khí Âm Dương đối lập dẫy đầy trong trời đất, vạn vật bẩm thụ được hai khí Âm Dương mà sinh ra. Ông nói, khí Dương bốc lên cao thành trời, khí Âm trầm xuống thành đất, tất cả hiện tượng tự nhiên giới đều do Khí hóa thành. giữa chúng cũng có liên hệ nội tại, cấu tạo thành một thể thống nhất tương ứng. Sở dĩ nói “trở thành trời đất là khí” nghĩa là có ý cho rằng trời đất lấy khí làm thể.

    Xuất phát từ Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng “nước” do đất sinh ra, là nguyên khí ngưng tụ mà thành. “Nước” (Thủy) là động lực của vạn vật, là sức mạnh diễn hóa thành Âm Dương, sản sinh ra muôn vật, do vậy ông nói “cái sở dĩ lập nên trời đất là nước”. Lý luận của ông hoàn toàn đối lập với lý luận “trời đất muôn vật đều lấy làm thể”.

    Về lý luận vô thần, ông đưa ra ví dụ về linh hồn con người: “Người, ngậm được khí mà sinh ra, tinh khí hết thì chết. Chết, như hết sạch, như bị tiêu diệt vậy. Ví dụ như lửa, củi hết thì lửa tàn hết, không còn ánh sáng nữa. Cho nên lửa thừa không để lại nóng, người sau khi chết không để lại hồn vậy” (Nhân hàm khí nhi sinh, tinh tận nhi tử. Tử, do tư dã, diệt dã. Thí như hỏa yên, tân tận nhi hỏa diệt, tắc vô quang dã. Cố hỏa diệt chi dư, vô di viêm hĩ, nhân tử chi hậu, vô di hồn dĩ), rõ ràng ông kiên trì với vô thần luận duy vật, phủ định lý luận “Thần bất diệt” của Phật giáo.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  13. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ĐÁI CHẤN


    Đái Chấn (1723-1777), học giả và triết học gia đời Thanh, tên tự Thận Tu và Đông Nguyên, người ở Hưu Ninh, An Huy. Ông xuất thân nghèo hèn, từng theo cha đi buôn bán, sau sống bằng nghề dạy học. Cuối đời ông tham gia biên tập bộ “Tứ khổ toàn thư”. Ông tinh thông hầu hết các môn học thiên văn, số học, lịch sử, thủy lợi, địa lý, sở trường nhất về các môn học huấn hỗ khảo cứ. Về triết học, ông nổi tiếng nhờ phát huy tư tưởng duy vật, đối lập quyết liệt với chủ nghĩa duy tâm. Tác phẩm triết học đại biểu của ông có “Nguyên thiện” “Mạnh Tử tự nghĩa sớ chứng”.

    Về quan điểm tự nhiên, ông đưa ra quan điểm “Khí biến hóa tức là Đạo” (Khí hóa tức Đạo), cho rằng nguồn gốc muôn vật là Khí, mà “Khí biến hóa lưu hành, sinh sôi nảy nở không cùng” (Khí hóa lưu hành, sinh sinh bất tức) tức là “Đạo”. Ông phản đối sự phân chia rạch ròi tách rời giữa “Hình nhi thượng” và “Hình nhi hạ”, cho rằng, cả hai chỉ là hình thái khác nhau của Khí biến hóa lưu hành, mà “Hình nhi thượng” là vật chất nguyên sơ cấu tạo thành sự vật, còn “Hình nhi hạ” là hình thái cụ thể cấu tạo thành sự vật.

    Ông cho rằng Khí biến hóa lưu hành là thích hợp với quy luật tư nhiên, “chưa hề có sự sinh sôi nảy nở liên tục nào không thứ tự mạch lạc" (Vị hữu sinh sinh nhi bất điều lý giả). Ông còn khẳng định “Khí ở trước Lý" (Khí tại Lý tiên), “Lý ở trong Khí" (Lý tại Khí trung). Về nhận thức luận, ông nhận ra được sự khác biệt và quan hệ giữa cảm tính nhận thức và lý tính nhận thức, ông cho rằng “lẽ trời” (Thiên lý) và “tình ham muốn” (Tình dục) là thống nhất. Ông đả kích thuyết “Giữ lẽ trời, diệt tham muốn của người” (Tồn thiên lý, diệt nhân dục) của Lý học là “dùng Lý giết người” (Dĩ Lý sát nhân) phản ánh yêu cầu bình đẳng của thị dân lúc ấy, bao hàm cả nhân tố giáo dục.

    Lương Khải Siêu ca ngợi ông “dùng tinh thần bình đẳng làm cuộc cách mạng lớn về luân lý học” (Dĩ bình đẳng tinh thần, tác luận lý học thượng nhất đại cách mệnh). Sau này, Chương Thái Viêm, Hồ Thích cũng đánh giá ông rất cao.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  14. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ĐẶNG TÍCH


    Đặng Tích (khoảng 545 T.C.N-501 T.C.N), tư tưởng gia ở nước Trịnh cuối thời kỳ Xuân Thu, đồng thời là người tiên phong của Danh gia* và Pháp gia*. Ông tinh thông pháp luật, sửa đổi thể chế cũ của nước Trịnh, tạo ra “Trúc hình” (chép pháp luật thành văn lên thẻ tre), dạy dân tố tụng.

    Về tư tưởng chính trị, ông chủ trương cải cách “không bắt chước tiên vương”, rất giỏi biện luận, “lấy sai làm đúng, lấy đúng làm sai, đúng sai không có mức độ” (Dĩ phi vi thị, dĩ thị vi phi, thị phi vô độ - Lã thị Xuân Thu), “Có thể mà không thể, đúng mà không đúng” (Khả bất khả, nhi nhiên bất nhiên- Liệt Tử, Lực mệnh), chuyên môn nghiên cứu vấn đề quan hệ của khái niệm danh từ.

    Bộ Tuân Tử* đề cập chung hai tên thuộc Danh gia là Đặng Tích và Huệ Thi*. Lưu Hướng đời Hán nhận xét Đặng Tích “cũng cùng một loại như Công Tôn Long” (Dữ Công Tôn Long đồng loại). Phần Nghệ văn chí sách Hán thư* chép bộ Đặng Tích có 2 thiên, có phải thực sự do ông viết hay không, ngày nay không thể khảo chứng xác định, bản hiện nay lưu hành có lẽ là ngụy thư.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  15. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ĐỔNG TRỌNG THƯ


    Đổng Trọng Thư (khoảng 179 T.C.N-104 T.C.N), người ở Quảng châu (nay là Cảnh huyện, Hà Bắc), triết học gia duy tâm quan trọng nhất đời Tây Hán. Thời Cảnh đế, ông dạy sách “Công Dương Xuân Thu”, từng giữ quan Bác sĩ; thời Võ đế, ba lần ông dâng “Hiền lương sách” được hâm mộ, từng giữ chức Giang Đô tướng, sau lui về nhà viết sách nhưng vẫn được coi trọng, triều đình có việc lớn đều phải hỏi ý kiến của ông. Ông là người “thẳng thắn thanh liêm”, dạy học chuyên tinh, nho nhã uyên bác, là người tập đại thành tân Nho học đời Hán và là người đặt cơ sở cho lý luận trung ương tập quyền chuyên chế hai đời Hán.

    Về triết học, hình thức ông chủ trương “Độc tôn Nho thuật” nhưng thực sự ông kiêm dùng các tư tưởng Đạo gia, Âm Dương gia, Pháp gia, dựng lên một hệ thống tư tưởng rộng lớn, đề xuất một loạt vấn đề triết học, chính trị, xã hội, lịch sử cho xã hội lúc ấy, đưa ra một loạt câu trả lời khá hệ thống. Về quan điểm tự nhiên, ông cho “Trời” là một khái niệm tối cao, “Trời” là “ông tổ của muôn vật” là “vua của trăm thần”, là bậc thần minh được nhân cách hóa có ý chí, làm chủ tể số mệnh con người.

    Ông còn kết hợp quan điểm “Thiên đạo” với quan niệm Âm Dương, Ngũ hành xây dựng nên một bản đồ có Thiên ở cao nhất và cho Âm Dương là cơ sở vũ trụ. Ông còn đưa ra thuyết “Thiên nhân cảm ứng” liên hệ giữa người và trời, đương nhiên đây là mục đích luận duy tâm nhưng nó bao hàm mục đích hạn chế quyền vua, duy trì lâu dài thống trị phong kiến, như ông nói: “Trời sinh ra dân, không phải vì vua; nhưng trời lập nên vua là vì dân vậy. Cho nên (vua) có đủ đức thì dân an vui; trời cho vậy đó, (vua) đủ ác thì dân bị tàn hại, trời lấy lại đó” (Thiên chi sinh dân, phi vị vương dã; nhi thiên chi lập vương, dĩ vị dân dã. Cố kỳ đức túc dĩ an lạc dân giả, thiên dữ chi; kỳ ác túc dĩ tàn hại dân giả, thiên đọat chi - Xuân Thu phồn lộ).

    Về nhân tính luận, ông đưa ra luận thuyết “Tam phẩm nhân tính” cho rằng tính thánh nhân là thiện, tính của loại thấp kém là ác, chỉ có tính của hạng trung bình (trung dân chi tính) là không thể gọi tên. Ông cho rằng đa số người bị thống trị là thuộc “Trung dân chi tính”, cần được tăng cường dạy dỗ giáo hóa. Về quan điểm Nghĩa và Lợi, ông chủ trương trọng Nghĩa khinh Lợi, như câu nói “Làm chính đạo mà không mưu lợi, sửa lẽ ấy không vội lập công” (Chính kỳ đạo bất mưu kỳ lợi, tu kỳ lý bất cấp kỳ công - Hán thư, Đổng Trọng Thư truyện).

    Về quan điểm lịch sử xã hội, ông cho rằng lịch sử vận hành theo thứ tự ba màu Đen, Trắng, Đỏ gọi là Tam thống, mỗi triều đại mới lên thay cần phải căn cứ vào Tam thống ấy để đổi niên hiệu, thay quần áo mặc theo màu thích hợp và “tất cả nhân luân, đạo lý, chính trị, giáo hóa, tập tục, văn nghĩa đều phải như cũ” (Hán thư, Đổng Trọng Thư truyện), do vậy hình thành quan điểm hình nhi thượng “Trời không thay đổi, đạo cũng không thay đổi” (Thiên bất biến, đạo diệc bất biến) và dự kiến thượng tầng kiến trúc giới phong kiến địa chủ và hình thái ý thức là có tính ổn định lâu dài.

    Để duy trì sự ổn định xã hội, ông nhấn mạnh sự “hòa hợp” mâu thuẫn: “hễ vật ắt hợp, hợp ắt có trên, có dưới, ắt có trái, ắt có phải, ắt có trước, ắt có sau. Có đẹp ắt có xấu, có thuận ắt có nghịch, có vui ắt có buồn, có lạnh ắt có nóng, có ngày ắt có đêm, tất cả đều là hợp với nhau. Âm là hợp với Dương, Vợ là hợp với Chồng, Con là hợp với Cha, Tôi là hợp với Vua, không vật nào là không hợp, mà mỗi hợp đều có Âm Dương”.

    Tác phẩm của ông có hai bộ Xuân Thu phồn lộ Đổng tử văn tập.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  16. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA HAI ANH EM HỌ TRÌNH


    Hai anh em họ Trình tức Trình Hạo (1032-1085) và Trình Di (1033-1107), đều là triết gia đời Bắc Tống và là những người mở đầu Lý học. Cả hai đều là người ở Lạc Dương, Hà Nam, Trình Hạo tên tự Bá Thuần, được các học giả gọi là Minh Đạo tiên sinh, Trình Di tên tự Chính Thúc, được các học giả gọi là Y Xuyên tiên sinh. Hai anh em họ Trình cùng học với Chu Đôn Di*. Họ dạy học lâu dài ở Lạc Dương nên học phái của họ được gọi là “Lạc học”.

    Về thế giới quan triết học, hai anh em họ Trình coi “” là phạm trù tối cao, cho “” là nguồn gốc thế giới. Họ nhấn mạnh: “Chỉ có Lý là thực” (Duy Lý vi thực) tức thể là thực lý, cũng là dụng của thực. Trình Hạo đưa ra mệnh đề “Trời là Lý vậy” (Thiên giả Lý dã), ông nói: “Sự học của ta tuy có cho và nhận của người khác, nhưng hai chữ Thiên Lý là do chính ta suy luận riêng ra vậy” (Ngô học tuy hữu sở thụ thụ, Thiên Lý nhị tự khước thị tự gia thể thiếp xuất lai).

    Ông cho rằng là ở trong tâm mỗi người, Trình Di cho rằng là nguồn gốc sáng tạo vạn vật, là “hình nhi thượng” còn khí Âm Dương là “hình nhi hạ”, khí hình nhi hạ tồn tại là nhờ căn cứ vào hình nhi thượng. Ông chủ trương “Hiểu biết là điều mà ta vốn có” (Tri giả ngô chi sở cố hữu), nhận thức luận duy tâm “Trí tri tại cách vật” và biết trước làm sau, coi trọng hiểu biết xem nhẹ thực hành. Trong triết học của hai anh em họ Trình có bao hàm tư tưởng biện chứng “Muôn vật không có vật nào không đối xứng” (Vạn vật mạc bất hữu đối), “Vật lên đến cực điểm thì quay trở lại” (Vật cực tất phản) có màu sắc vô thần luận.

    Trình Hạo lấy tâm giải thích , mở đường cho phái tâm học của Lục Cửu Uyên* sau này. Trình Di đem Khí tương đối với nhau, mở đường cho học phái Chu Hi*.

    Tác phẩm của họ có “Nhị Trình di thư”, “Nhị Trình ngoại thư”, “Minh Đạo văn tập”, “Y Xuyên văn tập”, “Trình thị kinh thuyết”, được người đời sau in chung vào “Nhị Trình toàn thư”.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  17. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA HÀ ÁN


    Hà Án (khoảng 190-249), triết học gia nước Ngụy thời Tam quốc, một trong những nhân vật đại biểu học phái Huyền học, cùng với Vương Bật* được gọi tôn xưng là “Chính Thủy chi âm”. Ông tên tự Bình Thúc, người Uyển huyện, Nam Dương (nay là Nam Dương, tỉnh Hà Nam). Trứ tác hiện nay chỉ còn giữ được hoàn chỉnh có bộ “Luận ngữ tập giải”. Trong sách “Liệt tử chú” của Trương Trạm còn lưu giữ một số văn chương đã mất của Hà Án ở các thiên Đạo luận Vô danh luận.

    Quan điểm triết học của ông về đại thể là nhất trí với Vương Bật. Các sách Tam quốc chí* và Tấn thư đều nói Hà Án, Vương Bật lập luận rằng: “Trời đất muôn vật lấy làm gốc. là mở đầu thành vật. đi qua mà không tồn tại. Âm Dương dựa vào đó mà hóa sinh, muôn vật dựa vào đó mà thành hình; người hiền dựa vào đó mà thành đức, kẻ xấu dựa vào đó tránh thân. Cho nên dùng được cái thì không tước lộc mà quý lắm vậy” (Thiên địa vạn vật giai dĩ Vô vi bản. Vô dã giả, khai vật thành vật, Vô vãng nhi bất tồn giả dã. Âm Dương thị dĩ hóa sinh, vạn vật thị dĩ thành hình, hiền giả thị dĩ thành đức, bất tiếu thị dĩ miễn thân. Cổ Vô chị vi dụng, vô tước nhi quý hĩ).

    Trong thiên Đạo luận, Hà Án tiến hơn một bước biểu đạt rõ tư tưởng trên:“Có là có vì dựa vào Không mà sinh ra. Việc là việc do Không mà thành. Đạo là không lời nói, tên của không tên” (Hữu chi vi hưu, thị Vô dĩ sinh. Sự nhi vi sự, do Vô dĩ thành. Phù Đạo chi vi vô ngữ, danh chi nhi vô danh). Về “Vô danh”, Hà Án từng viết trong thiên Vô danh luận: “Gọi là đạo vô danh, được coi là lớn, thì cái Vô danh ấy có là Hữu danh vậy” (Vị vô danh vi đạo, Vô dự vi đại, tắc phù Vô danh giả khả dĩ ngôn Hữu danh hĩ). Hà Án dua ra khái niệm “Cái có sở hữu” (Hữu sở hữu) là để chỉ một số tính chất mà sự vật cá thể sở hữu; còn khái niệm “Cái Không sở hữu” (Vô sở hữu) để chỉ một số tính chất mà sự vật cá biệt không có, phân biệt biểu thị sự khác nhau giữa cá biệt và toàn thể.

    Ông nói: “Đạo, chỉ có sở hữu của cái Không thôi vậy” (Phù đạo giả, duy Vô sở hữu giả dã), “Chỉ có Vô danh mới có thể đạt hết được cái danh ở khắp thiên hạ” (Phù duy Vô danh, cổ khả đắc biến dĩ thiên hạ chi danh danh chi - Luận ngữ tập giải). Hà Án cũng chủ trương “An trị bằng vô vi” (Vô vi nhi trị). Trên quan điểm “Bản thể của thánh nhân là ”, Hà Án và Vương Bật có khác nhau, ông cho rằng bậc thánh nhân không còn tình cảm buồn vui, giận ghét nữa vì “bản thể là không” (Thánh nhân thể vô).

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  18. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA HÀN DŨ


    Hàn Dũ* (768-824), tên tự Thối Chi, người ở Nam Dương, Đặng châu (nay là Mạnh huyện, tỉnh Hà Nam), triết học gia đời Đường.

    Các tác phẩm triết học của ông có “Nguyên đạo”, “Nguyên tính”, “Nguyên nhân”,“Nguyên quỷ”, “Nguyên hủy”. Ông đứng trên lập trường Nho gia cương quyết bài bác Phật giáo, trong bài “Gián nghinh Phật cốt biểu” (bài biểu can ngăn việc đón cốt Phật), ông chủ trương đưa giới tu sĩ “trở về làm dân thường, đốt sách Phật, phá chùa làm nhà ở” (Nhân kỳ nhân, hỏa kỳ thư, lư kỳ cư), nhưng rồi ông lại mô phỏng Phật giáo, có ý muốn thành lập một hệ thống triết học chống lại Phật và Lão. Phạm trù tối cao của hệ thống này là “Đạo”, tức là trừu tượng hóa quy phạm đạo đức luận lý phong kiến. Ông dẫn dụ học thuyết trị quốc bình thiên hạ của sách Đại học* để làm nguyên tắc đối kháng với tư tưởng xuất thế của Phật và Lão.

    Để đối kháng với thuyết “Tổ thống” (hệ thống truyền thừa của các tổ sư đạo Phật) của đạo Phật, ông hư cấu thành cái gọi là “Đạo thống”, “cái mà tôi gọi là Đạo ở đây không phải là cái gọi là Đạo của Lão và Phật. (Đạo của tôi là) Đạo do Nghiêu truyền cho Thuấn, Thuấn truyền cho Võ, Võ truyền cho Thang, Thang truyền cho Văn Vũ Chu công, Văn Vũ Chu công truyền cho Khổng Tử, Khổng Tử truyền cho Mạnh Kha. Mạnh Kha chết rồi, (Đạo ấy) không được truyền nối nữa” (Tư ngô sở vị Đạo dã, phi hướng sở vị Lão dữ Phật chi đạo dã. Nghiêu dĩ thị truyền chi Thuấn, Thuấn dĩ thị truyền chi Võ, Võ dĩ thị truyền chi Thang, Thang dĩ thị truyền chi Văn Vũ Chu công, Văn Vũ Chu công truyền chi Khổng Tử, Khổng Tử truyền chi Mạnh Kha. Kha chi tử, bất đắc kỳ truyền - Nguyên đạo).

    Trên cơ sở “Đạo” ấy, Hàn Dũ kiến lập học thuyết hình nhi thượng chia tính tình con người ra làm ba phẩm loại (Tam phẩm) để “Thuận theo trời” (Thuận thiên) và “Hợp với Đạo” (Hợp đạo). Ông cho rằng có 5 yếu tố cấu tạo thành “Tính” là: Nhân, Lễ, Tín, Nghĩa và Trí; có 7 yếu tố cấu tạo thành “Tình” là: Hỉ (vui), Nộ (giận), Ai (buồn), Cụ (sợ), Ái (yêu), Ố (ghét) và Dục (tham muốn). Mỗi tínhtình đều có 3 phẩm loại Thượng, Trung, Hạ.

    Về quan điểm lịch sử xã hội, ông cho rằng có thánh nhân rồi sau đó mới có sự giáo hóa theo điều thiện. Ông đẩy luận lý đạo đức phong kiến lên mức hình nhi thượng hóa và do vậy, ông cũng là người mở đầu cho Lý học đời Tống, Minh sau này. Trong triết học sử Trung Quốc, Hàn Dũ có địa vị khá cao.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  19. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA HÀN PHI


    Hàn Phi* là triết học gia cuối thời kỳ Chiến quốc, người tập đại thành tư tưởng Pháp gia. Ông người nước Hàn, chủ trương thay đổi pháp chế để quốc gia hùng mạnh. Trứ tác của ông tập trung trong bộ “Hàn Phi Tử”*.

    Về tư tưởng triết học, Hàn Phi sửa đổi học thuyết của Lão Tử*, kế thừa và phát huy tư tưởng của Tuân Tử*, hình thành một hệ thống tư tưởng duy vật đặc sắc. Về mặt quan điểm tự nhiên, ông coi “Đạo” là nguồn gốc vạn vật, đề xuất ý kiến: “Đạo là khởi thủy của vạn vật, là kỷ cương của đúng sai” (Đạo giả vạn vật chi thủy, thị phi chi kỷ dã - Hàn Phi Tử, Chủ đạo), “Đạo là chỗ tự nhiên của vạn vật”.

    “Đạo”, theo ông, có lúc chỉ bản thân tự nhiên của vật chất, có khi được giải thích là quy luật tối cao của tự nhiên giới; ông còn đưa ra “” như phạm trù đặc thù của quy luật, cho rằng “Muôn vật đều tự có lý khác nhau nhưng Đạo bao gồm hết lý của muôn vật” (Vạn vật các dị lý, nhi Đạo tận kê vạn vật chi lý - Giải Lão). Thực tế, đã đề cập đến tất cả các vấn đề có quan hệ đến quy luật toàn thể và quy luật đặc thù. Hàn Phi nhấn mạnh sự tồn tại khách quan, tự nhiên giới vận hành không hề tuân theo ý chí chủ quan của con người, “Không đúng mùa tự nhiên thì dù có mười vua Nghiêu cũng không thể làm lúa trổ mùa đông” (Phi thiên thời, tuy thập Nghiêu bất năng động sinh nhất huệ - Công danh).

    Chủ trương cứ làm việc theo quy luật tự nhiên, ông phản đối mê tín quỷ thần, số mệnh. Về nhận thức luận, ông phản đối “Tiền thức” (sự hiểu biết tiên thiên, không cần học vẫn có) duy tâm, vì cho rằng “Tiền thức” chỉ là ức đoán vọng tưởng không có căn cứ. Nhấn mạnh, muốn phán đoán xem nhận thức đúng hay sai cần phải dùng phương pháp “Tham nghiệm” (nghiệm chứng sau khi khảo sát). Về phương pháp luận, Hàn Phi chú ý khảo sát tính mâu thuẫn của sự vật, là người đầu tiên nêu lên “thuyết mâu thuẫn” (Mâu thuẫn chi thuyết), ví dụ bằng câu chuyện người nước Sở bán mâu và thuẫn, nêu rõ “Cái thuẫn không vật gì có thể đâm thủng được, cái mâu không vật gì không đâm thủng, hai cái ấy không thể tồn tại cùng một lúc”.

    Đây chính là lần đầu tiên trong lịch sử triết học, có một người dùng khái niệm “mâu thuẫn” để khái quát mặt đối lập của sự vật. Ông cho rằng trong đời sống xã hội đầy dẫy những mâu thuẫn và vị trí của từng mâu thuẫn có thể chuyển hóa. “Muôn vật ắt có thịnh suy, muôn việc ắt có giữ và bỏ” (Vạn vật tất hữu thịnh suy, vạn sự tất hữu thỉ trương – Giải Lão). Hàn Phi đã nhận ra quá trình chất biến ắt lượng biến của sự vật, ví dụ bằng câu chuyện “Đê cao ngàn trượng cũng vỡ vì một ổ kiến” để thuyết minh cần phải đề phòng từ khi sự việc chưa xảy ra. Về quan điểm lịch sử xã hội, ông cho rằng lịch sử phát triển thay đổi không ngừng nên phản đối quan điểm “Xưa đúng nay sai” (Thị cổ phi kim) đầy màu sắc phục cổ.

    Ông chia sự phát triển của xã hội nhân loại ra làm mấy giai đoạn, thượng cổ, trung cổ, cận cổ và hiện tại, cho rằng các phương pháp đã thích hợp trong dĩ vãng chưa chắc sẽ thích hợp với hiện tại nên đưa ra chủ trương “đời khác ắt việc khác, việc khác ắt phải thay đổi” (Thế dị tắc sự dị, sự dị tắc bị biến - Ngũ đố). Đây là quan điểm lịch sử tiến bộ. Hàn Phi cho rằng nguyên nhân phát triển thay đổi của xã hội là do điều kiện đời sống vật chất của xã hội, đặc biệt ông đưa ra nguyên nhân tạo thành hỗn loạn xã hội là vì tốc độ tăng trưởng nhân khẩu cao hơn tốc độ sản xuất tư liệu “là do dân đông mà tài vật ít, làm việc nhiều mà sự cung dưỡng ít nên dân tranh giành”. Rõ ràng đây đã chỉ ra vấn đề quan hệ đến tăng trưởng dân số với xã hội, có thể nói là đề xuất rất sớm trên thế giới.

    Hàn Phi còn phê phán luân lý đạo đức cũ, vạch rõ tính giả dối của nó, cho rằng quan hệ giữa người và người chỉ là quan hệ về lợi hay hại. Về tư tưởng chính trị, ông tổng kết những tư tưởng của người đi trước, nhất là của các Pháp gia như Thương Ưởng*, Thân Bất Hại*, Thận Đáo*, xây dựng hệ thống tư tưởng kết hợp giữa Pháp, Thuật và Thế, mục đích tăng cường trung ương tập quyền cho quân vương để đạt tới thống trị toàn thiên hạ.

    Tư tưởng triết học của Hàn Phi có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển triết học Trung Quốc cổ đại.

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 22/5/24
    Wanderman thích bài này.
  20. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA HOÀNG TÔNG HY


    Hoàng Tông Hy (1610- 1695), sử gia học thuật, triết học gia nổi tiếng khoảng giữa hai đời Minh và Thanh, kiêm tư tưởng gia kiệt xuất. Ông tên tự Thái Xung, hiệu Nam Lôi, được gọi là Lê Châu tiên sinh, người ở Dư Diêu, Chiết Giang. Cha ông, Hoàng Tông Tố là người thuộc đảng Đông Lâm, bị bức chết trong cuộc đấu tranh chống lại “Yêm đảng” của hoạn quan. Bản thân Tông Hy kế thừa chí hướng của cha trở thành lãnh tụ “Phục xã”, tiếp tục đấu tranh với dư đảng hoạn quan, nổi tiếng khắp nước. Sau khi triều Minh bị diệt vong, kích thích bởi lòng yêu nước, yêu dân tộc, ông tổ chức “Thế trung doanh” bắt đầu cuộc đấu tranh chống quân Thanh, càng bị đàn áp càng quật cường. Cuối đời chủ yếu ông hoạt động nghiên cứu học thuật.

    Về quan điểm tự nhiên, Hoàng Tông Hy chủ yếu thông qua quan hệ giữa Khí để biểu đạt luận chứng. Ông bảo: “Trong khoảng trời đất chỉ có một Khí đầy tràn chu lưu khắp cả sinh ra người và vật” (Thiên địa gian chỉ hữu nhất khí sung chu, sinh nhân sinh vật), “Trong khoảng trời đất chỉ có một khí đầy tràn khoảng trời đất đều là khí” (Thiên địa gian chỉ hữu nhất khí doanh thiên địa gian giai khí dã - Minh Nho học án). Từ đó ông xác lập thế giới quan lấy Khí làm gốc rễ. Ông lại nói “Không có Khí ắt không có " (Vô Khí tắc vô Lý), “Không có ngoài Khí” (Vô Khí ngoại chi lý), “Rời lìa Khí không có chỗ nào là ” (Ly khí vô sở vi lý), từ đó ông xác lập tác dụng của Khí đối với .

    Đương nhiên, trong khi luận thuật quan hệ giữa Lý, Khí, Tâm ông cũng có quan điểm hỗn loạn hồ đồ, nhưng khuynh hướng căn bản của ông vẫn là duy vật. Hoàng Tông Hy là một nhà vô thần luận, đối với những thuyết mê tín về Phật đăng hay Thiền đăng ông đều dùng khoa học tự nhiên để giải thích. Ông cũng khảo chứng về Xá lợi của Phật giáo và khẳng định đó là giả dối.

    Tác phẩm của ông có các sách Minh di đãi phỏng lục, Minh Nho học án, Tống Nguyên học án.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
Moderators: amylee

Chia sẻ trang này