Đôi dòng lưu niệm ... Hiểu Sử NGƯỜI... Thấm Xứ TA...

Thảo luận trong 'Bàn Trà' bắt đầu bởi tducchau, 7/1/24.

Moderators: amylee
  1. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA HUỆ THI


    Huệ Thi* (khoảng 370 T.C.N-310 T.C.N), triết học gia thời kỳ Chiến quốc, một trong những nhân vật đại biểu học phái Danh gia, người nước Tống, từng giữ chức Tướng nước Ngụy hơn 10 năm. Ông là bạn của Trang Tử*, học rộng giỏi biện luận. Thiên Thiên hạ của Trang Tử ca ngợi “Huệ Thi hiểu biết nhiều phương diện, ông có sách chứa đầy 5 xe” (Huệ Thi đa phương, kỳ thư ngũ xa). Huệ Thi từng tranh luận triết học với Trang Tử và kỳ nhân phương nam Hoàng Liệu. Hoàng Liệu hỏi “vì sao trời không sập, vì sao đất không sụt lở và gió mưa sấm sét có nguyên nhân ở đâu? Huệ Thi không chút suy nghĩ lập tức trả lời giảng giải khắp vũ trụ vạn vật đủ loại" (Trang Tử - Thiên hạ).

    Đặc điểm học thuyết của Huệ Thi là chú trọng từ phương diện khoa học tự nhiên tìm hiểu vấn đề triết học, khác với Khổng Tử*, Mạnh Tử* chỉ nghiêng về luân lý xã hội, không tuân theo các thuyết cũ, không câu nệ vào tri thức sẵn có, rất giàu tinh thần sáng tạo. Quan điểm triết học cơ bản là “Hợp đồng dị” (Tổng hợp những điều kiện giống nhau và khác nhau) đối lập với quan điểm “Ly kiên bạch” của Công Tôn Long*, cũng là một đại biểu khác của phái Danh gia. Học thuyết của Huệ Thi chép tản mát trong các bộ Trang Tử*, Tuân Tử*, Hàn Phi Tử*, Chiến quốc sách*, Lã thị Xuân Thu*. Tư tưởng triết học của Huệ Thi có nhiều sắc thái tư biện, chú trọng tư duy luận lý. Trong thiên Thiên hạ sách Trang Tử có chép 10 mệnh đề có tính kết luận của ông:

    ① “Lớn nhất không có gì bên ngoài, gọi là Đại nhất, nhỏ nhất không có gì ở trong được gọi là Tiểu nhất.

    ② Không dầy, không gì chứa được, mà vẫn lớn ngàn dặm.

    ③ Trời thấp hơn đất, núi ngang bằng đầm.

    ④ Mặt trời vừa lên đã xuống, vật vừa sinh ra đã chết.

    ⑤ Sự sai biệt giữa “Đại đồng” và “Tiểu đồng” gọi là Tiểu đồng dị, vạn vật hoàn toàn giống nhau, hoàn toàn khác nhau gọi là Đại đồng dị.

    ⑥ Đi tới phương nam là vô cùng tận nhưng lại là có cùng tận.

    ⑦ Hôm nay đi đến nước Việt mà ngày hôm qua đã đến rồi.

    ⑧ Những vòng tròn liên hoàn có thể mở ra được.

    ⑨ “Ta biết trung ương của thiên hạ cũng như nước Yên ở bắc, nước Việt ở nam”.

    ⑩ Yêu hết vạn vật vì trời đất là một thể.

    Trong ấy ba mệnh đề số ① ⑤ ⑩ thuộc về vấn đề vũ trụ quan, Đại nhất, Tiểu nhất đề xuất vấn đề lớn vô hạn và nhỏ vô hạn, thực tế là từ luận lý học tìm hiểu phân tích tính vô hạn của vũ trụ, “Tiểu đồng dị” và “Đại đồng dị” là nghiên cứu vấn đề tính thống nhất và tính đa dạng của thế giới muôn vật. Năm mệnh đề số ② ③ ⑥ ⑧ ⑨ liên quan đến vấn đề tính tương đối của không gian, các mệnh đề số ④ và ⑦ liên quan đến vấn đề tính tương đối của thời gian.

    Huệ Thi chú trọng tới tính đồng nhất giữa các sự vật, nhấn mạnh tới tính tương đối trong sai biệt của sự vật, dùng tư duy sâu sắc làm lay động những quan điểm thông thường vốn có sẵn quen thuộc, thống nhất những mặt đối lập, nêu rõ sự nghiên cứu sâu sắc đối với bản chất nhận thức, chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển của nhận thức luận và luận lý học Trung Quốc cổ đại. Nhưng, Huệ Thi lại xem thường tính ổn định tương đối của sự vật, quá nhấn mạnh đến tính thống nhất và tính tương đối của sự vật, xem thường sự sai biệt giữa các sự vật, sa vào khuynh hướng ngụy biện hàm hồ.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  2. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA KÊ KHANG


    Kê Khang (223-262), triết học gia nước Ngụy thời Tam Quốc, tên tự Thúc Dạ, người ở Tiều Quốc (nay là huyện Túc, tỉnh An Huy). Ông từng làm quan tới chức Trung Tán đại phu nên được đời gọi là Kê Trung Tán và là một thành viên trong “Trúc Lâm thất hiền”, bị Tư Mã Chiêu giết hại. Trứ tác triết học chủ yếu của ông “Dưỡng sinh luận”, “Nan tự nhiên hiếu học luận”, “Thích tư luận”, “Minh đảm luận” chép trong bộ “Kê Khang tập”.

    Về quan điểm triết học tự nhiên, ông chủ trương Nguyên khí tự nhiên, cho rằng “Nguyên khí un đúc là bẩm chất của chúng sinh” (Nguyên khí đào thước, chúng sinh bẩm yên - Minh đảm luận), “Trời đất hợp đức, muôn vật sinh ra, lạnh nóng thay nhau, ngũ hành hoàn thành” (Thiên địa hợp đức, vạn vật tư sinh, hàn thử đại vãng, ngũ hành dĩ thành - Thanh vô ai lạc luận). Về quan hệ giữa Tâm và Vật, ông cho rằng “Âm thanh lấy bình hòa làm thể mà cảm với cái vô thường của vật, Tâm chí lấy chỗ đạt tới làm chủ, theo tình cảm phát ra. Thế nên Thanh và Tâm, khác đường khác lối, không đan kết với nhau” (Thanh âm dĩ bình hòa vi thể, nhi cảm vật vô thường; tâm chí dĩ sở sĩ vi chủ, ứng cảm nhi phát. Nhiên tắc thanh chi dữ tâm, thù dồ dị quỹ, bất tương kinh vi).

    Về quan điểm hình thần, ông cho rằng hình và thần cùng dựa vào nhau, “Hình cậy dựa vào thần để lập, thần cần hình để tồn tại” (Hình thị thần dĩ lập, thần tu hình dī tồn). Ông chú trọng hơn về tinh thần: “Tinh thần ở trong hình hài cũng giống như nước phải có vua vậy” (Tinh thần chi ư hình hài do quốc chi hữu quân dã), đề xướng thuyết “Dưỡng sinh” tu tâm dưỡng thần: “Tu tính để giữ thần, an tâm để bảo toàn mạng sống, yêu ghét không dính vào tình cảm, lo lắng vui vẻ không ở trong ý, tự nhiên không có tình cảm nên thể khí hòa bình” (Tu tính dĩ bảo thần, an tâm dĩ toàn sinh, ái tăng bất thê ư tình, ưu hỉ bất lưu ư ý, bạc nhiên vô cảm, nhi thể khi bình hòa - Dưỡng sinh luận). Ông phản đối sống lâu hay chết sớm là do trời định, biểu lộ khuynh hướng duy vật.

    Về nhận thức luận, ông nhấn mạnh phán đoán lý tính “Suy từng loại để biện biệt muôn vật, trước tiên nên tìm lẽ của tự nhiên, lẽ (tự nhiên) đã đủ, sau đó mượn nghĩa xưa để sáng tỏ nó mà thôi” (Phù suy loại biện vật, đương tiên cầu tự nhiên chi lý, lý dĩ túc, nhiên hậu thổ cổ nghĩa dĩ minh chi nhĩ). Ông phản đối ức đoán chủ quan “lấy cái ta làm hạn độ" (Dĩ kỷ vi độ) và “coi (tư tưởng) của Chu Khổng là then chốt” (Dĩ Chu Khổng vi quan kiện), “dựng sáu kinh làm chuẩn mực” (Lập lục kinh dĩ vi chuẩn). Ông cho rằng chỉ có vượt ra được ràng buộc của “Lục kinh” (6 kinh điển Nho gia), mở rộng tầm nhìn thì mới mở rộng được nhận thức về chân lý.

    Về quan hệ giữa ý và lời, ông thuộc loại “nói không thể hết ý” (Ngôn bất tận ý), cho rằng “Tâm không thuộc lời nói, lời nói có khi không đủ để chứng cho tâm” (Tâm bất hệ ư sở ngôn, ngôn hoặc bất túc dĩ chứng tâm dã). Kê Khang phản đối tập đoàn gia đình họ Tư Mã đề xướng thứ danh giáo giả dối, nhấn mạnh danh giáo và tự nhiên đối lập, ông đưa ra mệnh đề: “Vượt qua danh giáo theo tự nhiên” (Việt danh giáo nhi nhiệm tự nhiên). Xã hội lý tưởng của ông là: “Coi trọng sự giáo hóa giản dị, theo cách an trị vô vi, vua an tĩnh ở trên cao, tôi thần thuận tùng ở dưới” (Sùng giản dị chi giáo, ngự vô vi nhi trị, quân tĩnh ư thượng, thân thuận ư hạ) để đạt tới “Vua tôi cùng quên ở ngôi cao, muôn dân đầy đủ ở vị trí dưới” (Quân thần tương vong ư thượng, chưng dân gia túc ư hạ - Đáp nan dưỡng sinh luận).

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  3. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA KHANG HỮU VI


    Khang Hữu Vi (1858-1927), triết học gia và chính trị gia cận đại. Ông vốn tên là Tổ Di, tên tự Quảng Hạ, hiệu Trường Tố, người ở Nam Hải, Quảng Đông, được gọi là Nam Hải tiên sinh. Từ trẻ ông đã được un đúc bởi tư tưởng phong kiến Nho gia, sau đó lại tiếp thu văn hóa Tây phương nên có tầm nhìn rộng lớn, chuyển sang tuyên truyền cho tư tưởng Tây phương và đi tìm chân lý ở phương tây. Khang Hữu Vi nhiều lần dâng thư yêu cầu thay đổi pháp chế chính trị, trở thành người lãnh đạo của phái đổi mới biến pháp. Cuộc biến pháp năm Mậu Tuất thất bại, ông trốn ra nước ngoài. Sau cách mạng năm Tân Hợi, ông thay đổi, chuyển sang cổ vũ cho tư tưởng phục cổ, tôn sùng Khổng học, tích cực tham gia hoạt động quay trở lại thể chế cũ.

    Trứ tác của ông rất nhiều, chủ yếu có các bộ “Tân học ngụy kinh khảo”,“Khổng Tử cải chế khảo”, “Xuân Thu Đồng thị học”,“Lễ vận chú”, “Luận Ngữ chú”,“Đại đồng thư". Về quan điểm tự nhiên, ông lấy “Nguyên” làm gốc, ông bảo: “Nguyên là gốc của muôn vật, người và trời cùng gốc nơi Nguyên” (Nguyên vi vạn vật chi bản, nhân dữ thiên đồng bản ư Nguyên). “Nguyên” của ông đó chính là Nguyên khí như ông nói: “Nguyên là khí vậy. Khởi lên ở chỗ vô hình, phân ra từ chỗ hữu hình, khởi lên thì tạo ra trời đất, là khởi thủy của trời đất vậy” (Nguyên giả, khí giả, vô hình dĩ khởi, hữu hình dĩ phân, khởi tạo thiên địa, thiên địa chi thủy dã).

    Ông từng xác nhận rằng: “Phàm là vật đều bắt đầu ở Khí, đã có Khí rồi sau mới có Lý” (Phàm vật giai thủy ư khí, ký hữu khí, nhiên hậu hữu lý), ông phê phán quan điểm “Lý trước Khí sau” của Chu Hi* là sai lầm. Khang Hữu Vi còn liên hệ một số tri thức khoa học cận đại về nhiệt học, quang học, điện học, nguyên tố với “Khí” rồi phê phán các giáo chủ Khổng Tử, Thích Ca cổ đại là không có tri thức khoa học. Những điều ấy phản ánh chút ít màu sắc duy vật thời kỳ đầu của Khang Hữu Vi, nhưng trong tư tưởng của ông rất nhiều tạp chất duy tâm, như ông cho lòng nhân, linh hồn, thần là “hơi giống điện khí, vật nào cũng đều có” (Lược đồng điện khí, vật giai hữu chi), lẫn lộn tinh thần và vật chất, sa vào Nhị nguyên luận.

    Ông coi lòng nhân từ là “Cội rễ của tất cả, nguồn gốc của tất cả” (Vi nhất thiết căn, vi nhất thiết nguyên), rõ ràng đó là duy tâm. Để tuyên truyền cho chủ trương biến pháp, Khang Hữu Vi đưa ra quan điểm về Tiến hóa luận. Ông phát huy tư tưởng “nghĩa của biến dịch” (Biến dịch chi nghĩa) trong Chu Dịch* rồi nói: “Dịch là thay đổi theo thời, tới cùng thì biến, biến thì thông đạt” (Dịch giả tùy thời biến dịch, cùng tắc biển, biến tắc thông). Do vậy ông hô hào: “Trung Quốc ngày nay không thể không đổi mới” (Trung Quốc kim nhật bất biến tân bất khả).

    Ông phát huy thuyết “Tam thế” của Khổng Tử, cho rằng lịch sử trải qua từ “Loạn thế” đến “Thăng bình thế” rồi tiến đến “Thái bình thế”. Ông lại chia từng “đời” (Thế) ấy ra từng “Tiểu tam thế”, trong “Tiểu tam thế” lại có ba đời nhỏ nữa và xã hội cứ tiến hóa theo từng điểm nhỏ như vậy. Đây là một loại quan điểm tiến hóa luận dung tục nhưng lúc ấy cũng có tác dụng tích cực trong đổi mới. Ông đưa ra xã hội “Đại đồng” lý tưởng, ông tưởng tượng ra một thế giới Đại đồng có mức phát đạt rất cao, sinh sản cực kỳ phong phú, không có giai cấp, không có áp bức, nông nghiệp công nghiệp thương nghiệp là của chung, ruộng đất cũng là của công, cơm ăn áo mặc vô cùng đầy đủ, thời gian lao động ít mà thời gian hưởng thụ nhiều. Đây là xã hội lý tưởng không tưởng đầy chủ quan rồi sẽ bị hiện thực tiêu diệt ngay sau đó.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  4. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA KHỔNG KHÂU


    Khổng Khâu hay Khổng Tử* (551 T.C.N-479 T.C.N), tư tưởng gia, giáo dục gia, chính trị gia cuối thời kỳ Xuân Thu, người khai sáng học phái Nho gia. Ông tên là Khâu, tự Trọng Ni, người ấp Trâu nước Lỗ (nay ở đông nam Khúc Phụ, Sơn Đông). Tổ tiên ông là quý tộc nước Tống, vì tị nạn nên dời đến ở nước Lỗ. Ông mất cha từ nhỏ, nhà “nghèo và hèn”. Khoảng vào 20 tuổi về sau, ông từng giữ qua các chức Ủy lại, Thừa điền, tương truyền từng học Lễ nơi Lão Tử*, học Nhạc nơi Trành Hoằng, học đàn cầm nơi Sư Tương. Năm 34 tuổi ông bắt đầu nhận đệ tử dạy học, đệ tử ngày càng đông. Sau đó ông ra làm quan nhưng rồi bị lạnh nhạt, dẫn đệ tử chu du liệt quốc. Cuối đời ông trở về Lỗ dồn sức vào văn hóa giáo dục, chỉnh lý san định các sách Thi*, Thư*, Xuân Thu*. Tư tưởng chủ yếu của ông tập trung trong bộ Luận Ngữ*.

    Tư tưởng của Khổng Tử lấy “Nhân”làm trung tâm. Nhân tức là cái gọi là “Yêu người” (Ái nhân), tức đạo Trung thứ suy ra từ ta đến người. Như: “Ôi, người nhân là người muốn gây dựng điều gì cho mình cũng gây dựng cho người điều đó, muốn mình thông đạt ra sao cũng khiến người được thông đạt như vậy” (Phù nhân giả, kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân- Luận Ngữ, Ung dã). Lấy “Hiếu đễ” làm căn bản của Nhân: “Nết Hiếu và nết Đễ có phải là gốc của việc thi hành đạo Nhân đó chăng?” (Hiếu đễ dã giả, kỳ vi nhân chi bản dư? - Luận Ngữ, Học Nhi). Tư tưởng “Nhân” ấy vận dụng vào chính trị là chủ trương Đức chính, Đức trị, đưa ra yêu cầu cần phải tuân thủ “Lễ” của trật tự phong kiến để thực hiện “Nhân”. “Nhân” của Khổng Tử tuy phục vụ cho giới thống trị nhưng trong ấy cũng bao hàm nhân tố tích cực với nhân dân bình thường.

    Về quan điểm tự nhiên, một mặt Khổng Tử tin vào “Trời” (Thiên) và “Mệnh trời” (Thiên mệnh) có nhân cách ý cách, cho rằng “Thiên mệnh” có thể quyết định sự sống chết của con người và sự trị loạn của xã hội, đưa ra các quan điểm “Chết sống có mệnh, giàu có tại trời” (Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên), “Sợ mệnh trời” (Úy thiên mệnh - Luận Ngữ, Quý thị) nhưng mặt khác, lại biểu hiện có khuynh hướng tự nhiên hóa “Thiên mệnh”, chủ trương không nên tiêu cực nghe theo “Thiên mệnh”. Với quỷ thần ông chọn thái độ hoài nghi, tránh né không nói tới “Kính quỷ thần nhưng tránh xa” (Kính quỷ thần nhi viễn chi - Luận Ngữ, Ung dã), “(Khổng) tử không nói tới những điều quái dị, bạo lực, phản loạn và quỷ thần” (Tử bất ngữ: quái, lực, loạn, thần - Luận Ngữ, Thuật Nhi). Loại tư tưởng như thế có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của tư tưởng vô thần luận sau này.

    Về nhận thức luận, Khổng Tử chia tri thức ra làm 4 loại: “Sinh ra đã biết (đạo lý) là bậc trên hết, học rồi mới biết là hạng thứ. Tối tăm mà chịu khó học lại dưới một bậc nữa. Tối tăm mà không chịu học là hạng thấp hơn cả” (Sinh nhi tri chi giả, thượng dã. Học nhi tri chi giả, thứ dã. Khốn nhi học chi, hựu kỳ thứ dã. Khốn nhi bất học, dân tư vi hạ hĩ - Luận Ngữ, Quý thị). Ông cho rằng có người “sinh ra đã biết” là một loại tiên nghiệm luận duy tâm, nhưng đối với số đông người ta ông lại nhấn mạnh tính quan trọng của học tập với chủ trương “Nghe nhiều” (Đa văn), “Thấy nhiều” (Đa kiến). Học ắt phải có suy nghĩ và suy nghĩ phải căn cứ vào học. Ông cho rằng “Học mà không suy nghĩ ắt mờ tối, suy nghĩ mà không học hỏi ắt mệt nhọc” (Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi - Luận Ngữ, Vi chính), phản đối chỉ học tập mà không biết suy tư tiêu hóa, ông lại phản đối không học tập chỉ suy tư không tưởng.

    Ông đề xướng tư duy sáng tạo đưa ra một mà biết ba, nghe một biết mười. Ông phản đối chủ quan cố chấp, đề xuất: “Phu tử có bốn điểm tuyệt nhiên không mắc phải: không có ý riêng, không chắc trước, không cố chấp, không ích kỷ” (Tử tuyệt tứ: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã - Luận Ngữ, Tử hãn). Những ý kiến đề xuất ấy lại bao hàm khá nhiều nội dung hợp lý. Về phương pháp luận, ông chủ trương đạo “Trung dung”, đề xuất: “Trung dung quả là một đức tính rất tốt đẹp vậy” (Trung dung chi vi đức dã, kỳ chí hĩ hồ - Luận Ngữ, Ung dã), coi Trung dung là tiêu chuẩn đạo đức tối cao để lập thân. Cái gọi là “Trung dung” tức không thiên lệch, không bất cập, không thái quá. Nguyên tắc cơ bản của “Trung dung” là “nắm vững hạn độ vừa phải” (Doãn chấp kỳ trung) để giữ tính quân bình của sự vật.

    Về lịch sử quan, ông cho rằng giữa những triều đại khác nhau có tồn tại quan hệ kế thừa và phát triển, đưa ra ý kiến: “Nhà Ân nương theo lễ của nhà Hạ, có thêm bớt nhưng vẫn biết được. Nhà Chu nương theo lễ của nhà Ân, có thêm bớt nhưng vẫn biết được. Hoặc giả có triều đại nào kế tiếp nhà Chu, dẫu trăm đời sau cũng có thể biết được vậy” (Ân nhân ư Hạ lễ, sở tổn ích khả tri dã. Chu nhân ư Ân lễ, sở tổn ích khả tri dã. Kỳ hoặc kế Chu giả, tuy bách thế khả tri dã – Luận Ngữ, Vi chính) nhưng đây đã để lộ khuynh hướng “hiếu cổ”, khôi phục cái cũ.

    Xuất phát từ bảo vệ lễ đời Chu, ông đề xuất tư tưởng “Chính danh”, cho rằng “Thực” (sự thực, nội dung) nên phù hợp với “Danh” (danh từ, tên gọi), “Danh không chính thì lời nói chẳng thuận, lời nói không thuận thì việc chẳng nên” (Danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành - Luận Ngữ, Tử Lộ). Thực tế là dùng “Danh” trong lễ đời Chu để uốn nắn hiện thực xã hội biến chuyển, nhưng đề xuất ra vấn đề “Chính danh” chính ông đã là người đầu tiên biện luận về “Danh” và “Thực” trong triết học sử Trung Quốc cổ đại, có ý nghĩa nhất định đối với phát triển triết học.

    Tư tưởng Khổng Tử là đại biểu kiệt xuất trong truyền thống văn hóa Trung Quốc, tạo ảnh hưởng cực lớn về mọi mặt phát triển của triết học, chính trị, giáo dục, luân lý đạo đức, sử học, văn học, nghệ thuật v.v... Tư tưởng của ông còn truyền bá rộng sang các nước Đông Nam Á và gần đây ảnh hưởng cả đến tư tưởng giới Âu Mỹ, có ảnh hưởng quan trọng với sự phát triển của văn hóa thế giới.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  5. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA LÃO TỬ


    Tư tưởng gia, người mở đầu học phái Đạo gia cuối đời Xuân Thu. Lão Tử họ Lý, tên Nhĩ, tự Bá Dương, thụy hiệu Đam, sinh vào khoảng năm 580 T.C.N, chết khoảng năm 500 T.C.N. Tương truyền, Lão Tử là người huyện Khổ nước Sở (nay ở đông Lộc Ấp, Hà Nam), từng giữ chức coi kinh sách triều Chu, thông thạo các loại điển chương chế độ, thông hiểu nhiều chuyện cổ, Khổng Tử* từng hỏi lễ nơi Lão Tử. Cuối đời Lão Tử ẩn cư nơi quê cũ, tự cày cấy nuôi thân và thu nhận học trò, sau đi vào Quan Trung phía tây, chết nơi đất khách.

    Lão Tử* trứ tác bộ “Đạo đức kinh”*, chủ trương “sửa đạo đức” (tu đạo đức). “Học thuyết của ông lấy tự ẩn vô danh làm chính” (Kỳ học dĩ tự ẩn vô danh vi vụ - Sử ký*, Lão Tử, Hàn Phi liệt truyện). Hệ thống tư tưởng của Lão Tử lấy “Đạo” làm trung tâm, cho rằng “Đạo” là nguồn gốc của vũ trụ vạn vật, tồn tại trước trời đất, “Hỗn độn mà thành, trước trời đất sinh... ta không biết tên gọi, nên gọi là Đạo” (Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh... Ngô bất tri kỳ danh, tự chi viết Đạo - Lão Tử, chương 25), trời đất muôn vật là do “Đạo” diễn biến sinh thành “Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh muôn vật” (Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật - Lão Tử, chương 42).

    “Đạo” còn bao hàm nghĩa là quy luật tự nhiên “Người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên” (Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên - Lão Tử, chương 25). Vậy “Đạo” là gì? Xưa nay có nhiều cách giải thích, một thuyết “Đạo” là thực thể tinh thần có trước trời đất, là một ý niệm tuyệt đối siêu thời không, là vũ trụ quan duy tâm khách quan. Một thuyết cho rằng trong “Đạo” có “Vật”, có “Tượng”, có “Tinh thần”, với đặc trưng vật chất, là vũ trụ quan duy vật thô sơ; một thuyết cho rằng Lão Tử giải thích “Đạo” rất mơ hồ mâu thuẫn, gồm cả nhân tố duy tâm và duy vật cùng tồn tại, nhưng khuynh hướng tổng thể vẫn là duy tâm khách quan.

    Trong triết học của Lão Tử bao hàm tư tưởng biện chứng thô sơ, cho rằng tất cả sự vật đều nằm trong sự vận động biến hóa, tất cả quy luật đều vận động theo hướng tương phản “quay trở về là cái động của Đạo” (Phản giã đạo chi động - Lão tử, chương 40). Đạo là nơi quay trở về cuối cùng của mọi vận động phát triển. Lão Tử suy đoán tất cả sự vật đều bao hàm mặt đối lập lẫn nhau, các mặt ấy nương dựa vào nhau cùng tồn tại và chuyển hóa, đưa ra ý kiến: “Có và không cùng sinh, khó và dễ cùng thành, dài và ngắn cùng hình, cao và thấp cùng nghiêng, giọng và tiếng cùng họa, trước và sau cùng theo" (Hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hiệu, cao hạ tương khuynh, âm thanh tương họa, tiền hậu tương tùy - Lão Tử, chương 2), “Họa là chỗ dựa của Phúc, Phúc là nơi ẩn của Họa” (Họa hề Phúc chi sở ỷ, Phúc hề Họa chi sở phục - Lão Tử, chương 58). Nhưng ông lại coi thường điều kiện tất yếu để mặt đối lập ấy chuyển hóa. Lão Tử nhấn mạnh mềm yếu mới có thể thắng cứng mạnh, uốn cong mới có thể bật thẳng ra, đề xướng quý yếu mềm nhu nhược, cam ở dưới thấp, “vô vi”, “không tranh giành”, xem nhẹ, thậm chí phủ định tính tất yếu đấu tranh đối lập.

    Về nhận thức luận, Lão Tử đề xuất phương pháp nhận thức “tâm linh” (Huyền lãm), nhấn mạnh giữ gìn hư tĩnh nội tâm để thể nhận sự vật, phủ định kinh nghiệm cảm tính, chủ trương “không đi mà biết, không nhìn mà rành” (Bất hành nhi trị, bất kiến nhi danh - Lão Tử, chương 47). Về quan điểm lịch sử xã hội, ông chủ trương nên đưa xã hội quay về trạng thái nguyên thủy “nước nhỏ dân ít” (Tiểu quốc quả dân), “khiến cho dân thắt nút mà dùng” (Sử dân kết thằng nhi dụng chi), “Cùng nghe tiếng gà tiếng chó của nhau, dân sống đến già chết mà không qua lại với nhau” (Kê khuyển chi thanh tương văn, dân chí lão tử bất tương vãng lai - Lão Tử, chương 80).

    Lão Tử cho rằng tất cả mọi tai họa tội ác ở đời này đều có nguồn gốc từ văn minh vật chất và văn minh tinh thần tiến bộ, vì vậy ông chủ trương vất bỏ hết thành quả của văn minh nhân loại để đạt đến thái bình an lạc cho thiên hạ, đề xuất “Dứt thánh bỏ trí, dân lợi trăm lần, dứt nhân bỏ nghĩa, dân thêm hiền lành, dứt xảo bỏ lợi, trộm cướp tuyệt không” (Tuyệt thánh khí trí, dân lợi bách bội, tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ, tuyệt xảo khí lợi, đạo tặc vô hữu - Lão Tử, chương 19). Về chính trị, Lão Tử đả kích giới thống trị, chủ trương “Trị an bằng cách không làm gì cả” (Vô vi nhi trị) và chính sách “Ngu dân”. Về nhân sinh quan, ông chủ trương “không tham muốn (Vô dục) và “biết đủ” (Tri túc), đề xướng “Thường khiến dân không biết không tham muốn” (Thường sử dân vô tri vô dục - Lão Tử, chương 3).

    Học thuyết Lão Tử có địa vị quan trọng trong lịch sử triết học cổ đại. Trên cơ sở ấy chẳng những nó hình thành phái Đạo gia quan trọng trong nền văn hóa truyền thống Trung Quốc, mà còn có ảnh hưởng tùy mức độ khác nhau đối với nhiều biệt phái triết học khác sau này, trực tiếp sản sinh ra Đạo giáo dưới thời Đông Hán, Lão Tử được tôn sùng thành “Giáo chủ” và được gọi là “Thái thượng lão quân”. Sự ra đời của Huyền học đời Ngụy Tấn và Lý học Tống Minh cũng có quan hệ nội tại với tư tưởng Lão Tử. Thiên “Thiên hạ” sách Trang Tử* ca tụng Lão Tử là “bậc chân nhân bác đại đời cổ vậy thay!” (Cổ chi bác đại chân nhân tai).

    Ngày nay, Lão Tử được liệt vào nhân vật đại biểu cho tinh thần thế giới cổ đại.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  6. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA LIỄU TÔNG NGUYÊN


    Liễu Tông Nguyên* (773-819), triết học gia đời Đường, tên tự Tử Hậu, người ở huyện Giải, Hà Đông (nay là Vận Thành, Sơn Tây), vì vậy đời gọi ông là Liễu Hà Đông. Ông từng cùng với Lưu Vũ Tích* tham gia tập đoàn đổi mới với nhóm Vương Thúc Văn, sau khi thất bại ông bị biếm đi làm Vĩnh châu Tư mã rồi lại bị biếm đi làm Liễu châu Thứ sử nên lại có tên là Liễu Liễu Châu. Tác phẩm triết học chủ yếu của ông thu chép trong các bộ “Hà Đông tiên sinh tập” và “Liễu Tông Nguyên tập”.

    Ông chủ trương thế giới muôn vật do “Nguyên khí” sinh thành, ông nhấn mạnh các hiện tượng còn mất, hợp tan, biến hóa giữa các nguyên khí và vạn vật là có nguồn gốc ở tự thân Nguyên khí. Tư tưởng ấy của ông được gọi là “Nguyên khí tự động luận”. Ông dùng Khí Nhất Nguyên luận giải thích Phật học, rồi lại dùng quan điểm biện chứng của Phật học làm phong phú thêm Nguyên khí tự nhiên luận. Về quan hệ giữa trời và người, ông chủ trương “Trời người không can dự lẫn nhau” (Thiên nhân bất tương dự).

    Về quan điểm lịch sử xã hội, ông cho rằng lịch sử xã hội phát triển “Không phải do ý của thánh nhân, (chỉ là) do thế mà thôi” (Phi thánh nhân chi ý dã, thế dã) và nhân tố quyết định là do “Ý của người sống” (Sinh nhân chi ý),rồi đưa ra mệnh đề “Tổng hợp Nho và Phật”, “Tổng hợp quan điểm của chư tử”.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  7. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA LỤC CỬU UYÊN


    Lục Cửu Uyên (1139- 1193), triết học gia đời Nam Tống, tên tự Tử Tĩnh, hiệu Tồn Trai, người ở Kim Khê, Phủ châu (nay thuộc Giang Tây). Vì ông từng dạy học ở Tượng sơn, Quý Khê, Giang Tây nên được gọi là Tượng Sơn tiên sinh. Ông từng làm qua chức quan nhỏ địa phương, nhưng chủ yếu cuộc đời là dạy học. Tác phẩm của ông do con trai là Lục Trì biên tập thành bộ “Tượng Sơn tiên sinh toàn tập” 34 quyển.

    Về thế giới quan triết học, Lục Cửu Uyên cho rằng lý của tự nhiên có tính phổ biến và tính tất nhiên nhưng phải thông qua cái gọi là “Lòng người” (Nhân tâm) để minh chứng. Lý của Nhân tâm ấy chính là lý của vũ trụ được biểu hiện ra một cách hoàn thiện nhất. Do đó ông đưa ra các mệnh đề “Tâm tức là lý” (Tâm tức lý dã), “Vũ trụ tức là tâm ta, tâm ta chính là vũ trụ” (Vũ trụ tiện thị ngô tâm, ngô tâm tiện thị vũ trụ). Về nhận thức luận, ông nhấn mạnh cần phải quay trở về nghiên cứu bên trong nội tâm (Phản tỉnh nội cầu) để làm “sáng cái tâm gốc rễ” (Phát minh bản tâm).

    Những chủ trương quan điểm này vốn thuộc duy tâm không có gì mới mẻ, nhưng nếu phân tích toàn diện hệ thống triết học của Lục Cửu Uyên, chúng ta sẽ phát hiện không ít nhân tổ hợp lý. Ví dụ, trong tư tưởng ông xuất hiện nhiều tinh thần hoài nghi, như “Nghi ngờ nhỏ thì tiến bộ nhỏ, nghi ngờ lớn thì tiến bộ lớn" (Tiểu nghi tắc tiểu tiến, đại nghi tắc đại tiến), “Việc học sợ không có nghi ngờ gì, nghi ngờ ắt có tiến bộ” (Vi học hoạn vô nghi, nghi tắc hữu tiến). Đem hoài nghi đồng hóa kết hợp với nhận thức là hết sức chính xác.

    Trong tư tưởng ông còn nhiều tinh thần tự lập tự trọng, phản đối sự dựa dẫm mù quáng. Ông nói: “Tự lập và tự trọng là không thể theo sau chân người, bắt chước ngôn ngữ người” (Tự lập tự trọng bất khả tuỳ nhân cước căn, học nhân ngôn ngữ). Ông phản đối quyền uy mê tín nên chủ trương “Xét việc làm nên xem lý của nó ra sao, không cần xem người của nó là ai” (Phàm sự khán kỳ lý như hà, bất yếu khán kỳ nhân thị thùy). Những luận điểm ấy đủ làm nên giá trị của Lục Cửu Uyên.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  8. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA LƯU VŨ TÍCH


    Lưu Vũ Tích (772-842), triết học gia đời Đường, tên tự Mộng Đắc, người ở Lạc Dương (nay là Lạc Dương tỉnh Hà Nam). Ông từng giữ các chức Chủ bạ huyện Vị Nam phủ Kinh Triệu, Giám sát Ngự sử. Ông cùng Liễu Tông Nguyên* tham dự cuộc đổi mới niên hiệu Vĩnh Trinh, sau đó thất bại, ông bị biếm đi xa rồi chuyển làm Thái tử tân khách, đời gọi là Lưu Tân Khách. Tác phẩm triết học chủ yếu của ông có 3 thiên “Thiên luận” thượng, trung, hạ.

    Ông cho rằng “Trời là lớn nhất trong vật hữu hình, Người là quý nhất trong loài động vật” (Thiên, hữu hình chi đại giả dã; Nhân, động vật chi vưu giả dã). Ông dùng mệnh đề “Số tồn nhi thế sinh”để mô tả quy luật khách quan của sự vật. Về quan điểm liên hệ giữa trời và người, ông cho rằng trời và người mỗi bên đều có năng lực riêng, ông đề xuất mệnh đề xuất sắc “Trời người giao tiếp lẫn nhau, cùng chế phục nhau và dùng lẫn nhau” (Thiên nhân tương giao tương thắng hoàn tương dụng), dùng quan điểm “Trời không vụ vào việc hơn người” nhưng “Lòng thành của người có thể hơn cả trời” để vạch giới hạn căn bản giữa trời và người.

    Một mặt ông phản đối loại mục đích luận “Trời người cảm ứng”, mặt khác ông nhấn mạnh tới tính năng động tự giác của con người, cùng vạn vật “cùng sinh ra và cùng dùng lẫn nhau” làm cho “do đó muôn vật vô cùng”, khái quát được quy luật phổ biến của vạn vật là “sinh ra không ngừng nghỉ” (Sinh sinh bất tức). Ông đưa biện chứng pháp thô sơ cổ đại lên một tầm cao mới. Quan điểm lịch sử xã hội của ông nằm tản mát trong một số bài thơ, như câu “Thuyền chìm cạnh bến ngàn buồm qua, Cây tàn trước mắt tươi muôn gốc” (Trầm chu trắc bạn thiên phàm quá, bệnh thọ tiền đầu vạn mộc xuân), dùng sự thay đổi của tự nhiên giới để ví dụ với sự phát triển của xã hội (thuyền cũ chìm ở cạnh bờ trong khi ngàn cánh buồm thuyền khác vẫn chạy qua, cây tàn trước mắt nhưng vạn cây khác vẫn tươi tốt) hay “Rừng hương lá mới xô lá cũ, Nước chảy sóng trước nhường sóng sau” (Phương lâm tân diệp thôi trần diệp, Lưu thủy tiền ba nhượng hậu ba), “Nước chảy cát trôi không tạm dừng, Sóng trước chưa tan sóng sau tràn” (Lưu thủy đào sa bất tạm đình, Tiền ba vị diệt hậu ba sinh) vạch rõ quy luật muôn đời đổi mới thay cũ trong dòng lịch sử lâu dài.

    Ông phản đối “Tuân theo cũ để ngăn ngừa sự thay đổi” với chủ trương “Dùng không ngừng nghỉ làm thể, dùng ngày càng đổi mới làm đạo” (Dĩ bất tức vi thể, dĩ nhật tân vi đạo), “Chỉ có thay đổi thích ứng” (Duy biến sở thích). Một chữ Biến đã khái quát được lịch sử quan thô sơ của ông. Tư tưởng triết học của ông đã khái quát được thành quả khoa học tự nhiên ở lúc ấy, đưa tư tưởng vô thần luận duy vật cổ đại tới bước phát triển mới, mở đường cho tư tưởng duy vật đời Tống sau này, đạt tới thành tựu rộng lớn trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại.

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 28/5/24
    Wanderman thích bài này.
  9. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA LÝ CHÍ


    Lý Chí (1527-1602), tư tưởng gia, văn học gia đời Minh, tên hiệu Trác Ngô và Hoằng Phủ, biệt hiệu Ôn Lăng cư sĩ, người ở Tấn Giang, Tuyền châu (nay thuộc Phúc Kiến), từng làm Tri phủ Diêu An, Vân Nam.

    Tư tưởng triết học của Lý Chí thời kỳ đầu có khuynh hướng tự nhiên duy vật, cho rằng trời đất muôn vật đều do hai khí Âm Dương sinh ra. Về quan điểm xã hội luận lý, ông đưa ra các mệnh đề “Tâm hài đồng tức chân tâm” (Đồng tâm tức chân tâm), “Ăn cơm mặc áo tức vật lý của nhân luận” (Xuyên y ngật phạn, tức thị nhân luân vật lý), có tính tiến bộ tích cực rất lớn.

    Thế nhưng dưới ảnh hưởng của Vương học và Thiền học, ông tin vào quan điểm tất cả mọi pháp tướng đều có trong tự tâm, từ đó rơi vào duy tâm chú quan. Về nhận thức luận, ông chủ chương hiểu biết sinh ra do học tập, nhận định rằng người nào cũng có thể làm Thánh nhân, người nào cũng có thể thành Phật. Ông phản đối Nho học, phản đối “lấy sự đúng sai của Khổng Tử làm dung sai khuôn mẫu” (Dĩ Khổng Tử chi thị phi vi thị phi).

    Trong một chừng mực nào đó, Lý Chí cũng nhận thức được sự đối lập thống nhất của hai mặt mâu thuẫn và cũng nhìn ra sự chuyển hóa đối lập “Thiện đối lập với ác, như âm đối lập với dương, nhu đối lập với cương, nam đối lập với nữ” (Thiện dữ ác đối, do âm dữ dương đối, nhu dữ cương đối, nam dữ nữ đối), “Một có thể thành nhiều. Ít có thể được, cũ có thể mới”. Ông cho rằng lịch sử phát triển giữa an trị và loạn lạc. Tác phẩm triết học đại biểu của ông có “Lý thị phần thư” và “Tục phần thư".

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  10. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA LÝ NGAO


    Lý Ngao (772-841), triết học gia đời Đường, tên tự Tập Chi, người ở Thành Kỷ, Lũng Tây (nay là Tần An, tỉnh Cam Túc). Ông làm quan tới các chức Trung Thư Xá nhân, Thị lang bộ Hộ. Ông dùng tư tưởng Nho gia bài bác Phật giáo nhưng lại chịu ảnh hưởng rất sâu của Phật học. Tác phẩm triết học chủ yếu của ông có 3 thiên “Phục tính thư”. Lý Ngao đưa ra thuyết Phục tính, căn cứ vào sách Trung dung* hợp lẫn giữa Nho và Phật “dùng Phật lý chứng ngộ tâm” (Dĩ Phật lý chứng tâm).

    Ông nói: “Người sở dĩ làm thánh nhân được là do Tính vậy; người sở dĩ để cho Tính bị mê lầm là do Tình... Tính là mệnh trời đó vậy, Thánh nhân được tính ấy nên không mê lầm. Tình là động của Tính, nhân dân chìm đắm nên không biết được gốc Tính của mình vậy” (Nhân chi sở dĩ vi thánh nhân giả, tính dã; nhân chi sở dĩ hoặc kỳ tính giả, tình dã... Tính giả thiên chi mệnh dã, thánh nhân đắc chi nhi bất hoặc giả dã. Tình giả tính chi động dã, bách tính nịch chi nhi bất năng tri kỳ bản giã dã), nên “Dập tắt tình hư vọng, bản tính liền sáng láng, trôi chảy khắp cõi lục hư nên được gọi là Trở lại với Tính của mình vậy” (Vọng tình diệt tức, bản tính thanh minh, chu lưu lục hư, sở vị chi năng phục kỳ tính dã - Phục tính thư).

    Ông cho rằng người có thể “dập tắt tình hư vọng”, quay về bản thể tức là thánh nhân, nhưng không thể nói là thánh nhân vô tình, thánh nhân lặng lẽ bất động, chỉ cần cảm là thông hiểu ngay “tuy có tình đấy nhưng chưa từng có tình” (Tuy hữu tình dã, vị thường hữu tình). Cũng không thể nói là người tầm thường (Phàm nhân) không có tính, tính của người thường và tính của thánh nhân không có gì khác biệt, khác biệt là ở chỗ “Giác ngộ” (Giác) hay “Mê lầm” (Hoặc) mà thôi. “Giác ngộ ắt sáng láng, nếu không là mê lầm, mê lầm ắt mù mịt” (Giác tắc minh, phủ tắc hoặc, hoặc tắc hôn), “Tâm của ta vắng lặng, chiếu sáng trời đất, là ánh sáng của lòng thành đấy” (Kỳ tâm tịch nhiên, quang chiếu thiên địa, thị thành chi minh dã).

    Về nhận thức luận, ông phát huy tư tưởng “Trí tri tại cách vật” của sách Đại học*, cho rằng tâm có khả năng phân biệt sự vật mà “không vướng mắc vào vật”, đó chính là “Trí tri”. Hàn Dũ không hề tỏ ra ghét Tình vì cho rằng thất tình cần phải phù hợp Trung đạo, nhưng Lý Ngao lại cho rằng “Quay trở về bản tính” là thoát khỏi sự trói buộc của ham muốn, thánh nhân làm ra Nhạc, làm cho người ta “tai mắt, lời nói, việc làm theo lễ mà động phát ra, cho nên dạy người ta quên tham muốn quay về đạo của tính mệnh”.

    Thuyết “Phục tính” của Lý Ngao sau này được các nhà Lý học Tống Minh kế thừa. Nó cũng giống như thuyết “Đạo thống” của Hàn Dũ, trở thành học thuyết mở đầu cho Lý học Tống Minh.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  11. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA MẠNH TỬ


    Mạnh Tử* là tư tưởng gia, chính trị gia, giáo dục gia giữa thời Chiến quốc. Ông còn là một nhân vật đại biểu chủ yếu của học phái Nho gia. Mạnh Tử phát huy tư tưởng “Nhân” của Khổng Tử*, đề xướng hệ thống học thuyết “Nhân chính”. Về chính trị, ông chủ trương “Vương đạo” và “Nhân đức”, cho rằng: “Người dùng đức thi hành nhân là bậc vương” (Dĩ đức hành nhân giả vương - Mạnh Tử, Công Tôn Sửu thượng). Xuất phát từ “Nhân chính”, Mạnh Tử đề xuất tư tưởng trọng dân đầy đủ tinh hoa dân chủ tính, cho rằng: “được dân là được thiên hạ” mà muốn “được dân” thì phải “được lòng dân”, ông đưa ra chủ kiến “Dân là quý, kế đó là xã tắc, vua là thường” (Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh - Mạnh Tử, Tận tâm hạ).

    Về kinh tế, ông chủ trương để cho dân có tài sản ruộng đất nhất định, cho rằng chỉ có để cho dân có tài sản cố định họ mới yên tâm cày cấy, không làm những việc bạo loạn, trái lại thì lòng người không ổn định, xã hội sẽ không an định. Ông còn đề xuất “Bớt hình phạt, nhẹ tô thuế" (Tỉnh hình phạt, bạc thuế liễm - Lương Huệ vương thượng) để thúc đẩy phát triển nông nghiệp sản xuất. Học thuyết Nhân chính dùng sợi chỉ dân là gốc xuyên suốt tư tưởng của ông, có tác dụng hòa hoãn mâu thuẫn lúc ấy và phát huy tư tưởng trọng dân của Nho gia.

    Cơ sở triết học của học thuyết Nhân chính Mạnh Tử là “Tính thiện luận”, cho rằng bản tính con người là “Thiện”, trời sinh mọi người đều có “mối thiện” (Thiện đoan) tức có nhân tố của lương thiện. Nội dung chủ yếu của “Thiện đoan” là lòng trắc ẩn, lòng ghét cái ác, lòng khiêm nhượng, lòng biết phân biệt đúng sai. Trời sinh lòng người có các thuộc tính đạo đức là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí không phải do bên ngoài rèn đúc nên ta, ta đã vốn có vậy" (Nhân nghĩa lễ trí phi do ngoại thước ngã dã, ngã cố hữu chi - Cáo Tử thượng).

    Bất quá, chỉ vì do nguyên nhân tu dưỡng tự thân hoặc do môi trường hoàn cảnh xã hội sau này mới tạo thành khác biệt cao thấp giữa con người. Do đó, Mạnh Tử nhấn mạnh dùng hiếu đễ giáo hóa nhân dân và nhấn mạnh tu dưỡng đạo đức tự thân để phát huy tính thiện vốn có sẵn trong lòng. Chỉ cần nhân chân quay trở về suy xét trong tâm ta là đã có thể trở thành bậc thánh hiền như Nghiêu Thuấn.

    Mạnh Tử còn đề xuất mục tiêu tu dưỡng là “Phú quý mà không tham muốn, nghèo hèn mà không đổi (chí), sức mạnh không thể khuất phục" (Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất - Đằng Văn công hạ), “Bỏ thân để giữ nghĩa” (Xả thân thủ nghĩa) và nuôi dưỡng “khí hạo nhiên" (Hạo nhiên chi khí - Công Tôn Sửu thượng). Những tư tưởng ấy bao hàm nhân tố tích cực đối với xử thế, sau này được coi là những câu cách ngôn về tu thân xử thế.

    Về triết học, Mạnh Tử hình thành một hệ thống lý luận duy tâm chủ quan, ông kế thừa, thay đổi tư tưởng Thiên mệnh của Khổng Tử, dùng khái niệm đạo đức “Thành” để quy định thuộc tính bản chất của “Trời” (Thiên), “Lòng chân thành là đạo trời đó vậy” (Thành giả, thiên chi đạo dã - Ly Lâu thượng), thực tế là dùng thuộc tính đạo đức để thay thế cho thần thuộc tính nhân cách.

    Về nhận thức luận, ông đề xuất con đường “tận tâm, tri tính, tri thiên”, nhận rằng người ta được trời cho “không suy nghĩ mà biết”, “không học mà làm được” (Bất lự nhi tri, bất học nhi năng - Tận tâm thượng) nhờ vào “Lương tri”, “Lương năng”, người ta chỉ cần hết sức tường tận nội tâm mình, tiến hành phản tỉnh tu dưỡng là có thể đạt tới hiểu biết đạo trời.

    Về lịch sử quan, Mạnh Tử đề xuất tư tưởng “Người làm việc lao tâm cai trị người, người làm việc lao lực bị người cai trị” (Lao tâm giả trị nhân, lao lực giả trị ư nhân - Đằng Văn công thượng), dùng lao động trí óc và lao động chân tay để phân công khác nhau, chứng minh cho tính hợp lý của xã hội bóc lột.

    Trên cơ sở kế thừa tư tưởng Khổng Tử, Mạnh Tử đã hình thành một hệ thống lý luận, tạo ảnh hưởng rất lớn đối với sự ra đời và phát triển với hậu thế, đặc biệt là với Lý học Tống Minh. Trong lịch sử xã hội phong kiến, địa vị Mạnh Tử chỉ dưới Khổng Tử một bậc, được tôn xưng là “Á thánh”. Tư tưởng của ông tập đại thành tư tưởng Nho gia trước đời Tần, được gọi chung với tư tưởng Khổng Tử thành “Đạo Khổng Mạnh” (Khổng Mạnh chi đạo).

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  12. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA MẶC ĐỊCH


    Mặc Địch là người để tuyên truyền thực hiện chủ trương chính trị của mình, bôn ba khắp các nước chư hầu, ngôn luận lời nói khá nhiều, nay còn chép trong các thiên “Thượng hiền”, “Thượng đồng”, “Kiêm ái”, “Phi công”, “Tiết dụng”, “Tiết táng”, “Thiên chí”, “Minh quỷ”, “Phi nhạc”, “Phi mệnh” của bộ Mặc Tử*, do đệ tử hoặc đệ tử cách đời biên tập sắp xếp thành sách, đây là tư liệu đáng tin về Mặc Tử.

    Về thế giới quan triết học, Mặc Tử một mặt phản đối “Mệnh trời” (Thiên mệnh), nhấn mạnh tới tác dụng của sức người, mặt khác lại tuyên truyền tác dụng của “Ý chí trời” (Thiên chí) và Quỷ thần, cho rằng “Trời” và “Quỷ thần” có thể thưởng người hiền, trừng phạt kẻ ác, để yêu cầu thi hành “Nghĩa của thiên hạ” và “cùng một lòng với trời”, biểu hiện tính mâu thuẫn cực lớn.

    Về nhận thức luận, ông chú trọng tới kinh nghiệm cảm giác có tác dụng trong nhận thức, coi “sự thực của tai mắt” là gốc nguồn duy nhất của nhận thức, ông đưa ra 3 tiêu thuẩn kiểm nghiệm lời nói đúng hay sai, đó là phương pháp “Tam biểu”, nhấn mạnh dùng sự thực, dùng kinh nghiệmtrực tiếp và hiệu quả xã hội để làm tiêu chuẩn xác định đúng sai trong nghị luận, chính là kinh nghiệm luận duy vật thô sơ, có cống hiến đối với tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại và có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển nhận thức luận đời sau.

    Ông đề xuất các chủ trương Kiêm ái, Phi công, Thượng hiền (Yêu thương khắp mọi người, không gây chiến tranh, coi trọng và tiến cử người hiền). Mặc Tử cho rằng sở dĩ trong thiên hạ còn có nhiều oán hận chiếm đoạt vì không có lòng yêu thương lẫn nhau, vì mọi người chỉ biết “tự yêu mình”, “tự có lợi cho mình” nên mới có hiện tượng “kẻ mạnh lấn lướt kẻ yếu, kẻ giàu có khinh thị kẻ nghèo, kẻ quý ngạo mạn kẻ hèn, kẻ gian xảo khinh thường kẻ ngu”, muốn thay đổi tình huống ấy, cần phải “yêu người như yêu thân mình” (Ái nhân nhược ái kỳ thân - Kiêm ái thượng), “Vì người khác cũng như vì mình” (Vi bỉ do vi kỷ dã - Kiêm ái hạ).

    Thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử là một thứ dùng chủ nghĩa công lợi làm nguyên tắc giao tiếp và là cơ sở lý luận, phê phán trực tiếp tư tưởng “yêu có sai biệt” (Ái hữu đẳng sai) trên cơ sở “thân yêu người thân” (Thân thân) của Nho gia, phản ánh yêu cầu bình đẳng của giới sản xuất nhỏ, nhấn mạnh tính nhất trí giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, có ý nghĩa tiến bộ rất đáng kể.

    Tư tưởng bình đẳng của Mặc Tử còn phản ánh trong vấn đề dùng người, ông chủ trương “Thượng hiền”, tức sùng thượng sử dụng coi trọng người có hiền tài, đặc biệt ông coi trọng tuyển chọn nhân tài từ giới bình dân, phản đối sự dùng người chỉ vì thân thích hay xuất thân quý tộc.

    Về tư tưởng xã hội, ông chủ trương “Phổ biến điều nghĩa đồng nhất trong thiên hạ”, tránh “Một người có một nghĩa riêng” nên tạo thành sự bài bác lẫn nhau đưa đến xã hội rối loạn, từ đó đạt tới cả nước nhất trí với nhau về đúng sai để thực hiện nước mạnh dân giàu.

    Mặc Tử phản đối những trận công phạt lẫn nhau, đồng thời cần phân biệt sự khác nhau giữa “Công” và “Tru” (tru diệt trừng phạt), cần phân biệt chiến tranh chính nghĩa và phi chính nghĩa.

    Mặc Tử là nhân vật quan trọng trong sự phát triển tư tưởng luận lý Trung Quốc cổ đại, là người đầu tiên đưa ra hệ thống khái niệm “Biện”, “Loại”, “Cố”, đề xuất dùng thực để chính danh từ rất sớm, với tư tưởng tên gọi phải phù hợp với sự thực, phản đối tư tưởng “Chính danh” dùng tên gọi để chính sự thực của Khổng Tử*. Phái Mặc Tử hậu kỳ phát triển thêm tư tưởng luận lý của Mặc Tử, kiến lập hệ thống luận lý học đầu tiên ở Trung Quốc cổ đại.

    Tư tưởng triết học của Mặc Tử bao hàm rất phong phú tư tưởng biện chứng và duy vật thô sơ, phong phú cả tinh hoa tính dân chủ, là di sản quý báu của lịch sử triết học. Trong tư tưởng của Mặc Tử có nhân tố tích cực hợp lý, được các đệ tử đời sau và các phái tư tưởng duy vật khác kế thừa phát triển; còn mặt mê tín tiêu cực trong tư tưởng của ông cũng được các tác gia thần học mục đích luận lợi dụng và hấp thu.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  13. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NGUYỄN TỊCH


    Nguyễn Tịch (210-263), triết học gia nước Ngụy thời Tam quốc, tự Tự Tông , người ở Ủy Thị, Trần Lưu (nay là Ủy Thị, tỉnh Hà Nam). Ông từng làm Hiệu úy Bộ binh nên đời gọi là Nguyễn Bộ Binh và là một thành viên trong nhóm “Trúc lâm thất hiền”. Tác phẩm triết học chủ yếu có: “Đạt Trang luận”, “Thông dịch luận”, “Thông Lão luận”, “Đại nhân tiên sinh truyện" chép trong bộ “Nguyễn Tự Tông tập”.

    Về quan điểm triết học tự nhiên, Nguyễn Tịch chủ trương “Trời đất sinh ở tự nhiên, tự nhiên sinh ở trời đất” (Thiên địa sinh ư tự nhiên, tự nhiên sinh ư thiên địa), tất cả đều gốc ở “Tự nhiên”, ông thừa nhận tự nhiên giới có biến hóa nhưng cho rằng nó hài hòa, “Trời đất hợp với đức của nó, mặt trời mặt trăng thuận theo ánh sáng của nó” (Thiên địa hợp kỳ đức, nhật nguyệt thuận kỳ quang).

    Hài hòa là tính chất của muôn vật, mà thánh nhân làm ra âm nhạc là “thuận với thể của trời đất, hoàn thành tính của muôn vật” (Thuận thiên địa chi thể, thành vạn vật chi tính). Ông cho rằng hình thể và tinh thần của con người là sản phẩm của tự nhiên, vì vậy, con người nên thuận ứng với tự nhiên, nên hòa cùng một thể với tự nhiên.

    Về quan hệ giữa danh giáo và tự nhiên, ông khinh bỉ danh giáo, sùng thượng tự nhiên, nhưng đến tận cùng ông vẫn giữ thái độ chiết trung ôn hòa: “Làm sáng lý của trời và người, đạt tới phận của tự nhiên, thông hiểu thể của an trị giáo hóa” (Minh thiên nhân chi lý, đạt ư tự nhiên chi phận, thông ư trị hóa chi thể - Thông Lão luận). Theo ông, tự nhiên là cái mà “Kinh dịch”* gọi là Thái cực, “Xuân Thu”* gọi là Nguyên, “Lão Tử”* gọi là Đạo, và như vậy, ông đã dung hợp Khổng và Lão vào làm một.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  14. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHAN NGUYÊN


    Nhan Nguyên (1635-1704), triết học gia duy vật, nhà tư tưởng giáo dục đầu đời Thanh, tên tự Dị Trực và Hồn Nhiên, hiệu Tập Trai, người ở Bác Dã, Hà Bắc. Ông xuất thân nghèo khổ, suốt đời theo đuổi sự nghiệp học thuật và dạy học. Trứ tác chủ yếu của ông là các sách “Tứ tồn biên”, “Tứ thư chính ngộ”, “Chu tử ngữ loại bình”, “Tập Trai ký dư".

    Đặc điểm nổi bật nhất của triết học Nhan Nguyên là ông dũng mãnh phê phán Lý học duy tâm Tống Minh. Ông cho rằng Lý học của Trình Chu* làm nguy hại cực lớn cho xã hội, chẳng những nguy hại hơn Tiên Phật mà còn nguy hại “hơn cả họ Dương (tử), Mặc (tử) và dữ dội hơn cả Doanh Chính đời Tần” (Thậm ư Dương, Mặc, liệt ư Doanh Tần - Tứ tồn biên). Ông so sánh đọc sách của Trình Chu chẳng khác gì nuốt thuốc độc, ông trách móc Chu Hi* “nói bậy đầy miệng” (Mãn khẩu hồ thuyết), “Tự lừa dối mình và lừa dối đời” (Tự khi khi thế), “Đưa dẫn người ta vào đường lầm lạc” (Bả nhân dẫn thượng mê đồ - Chu tử ngữ loại bình).

    Nhan Nguyên phản đối bàn luận suông của Trình Chu, chủ trương vụ thực, ông bảo: “Họ dùng cái rỗng của họ, ta dùng cái thực của ta” (Bỉ dĩ kỳ hư, ngã dĩ kỳ thực - Tứ tồn biên), ông phản đối đọc sách suông, chủ trương “thân học tập rồi thực hành đó” (Thân tập nhi thực tiễn chi). Đúng như Lương Khải Siêu nói về ông: “Lấy thực học thay cho học suông, lấy cái học sống động thay cho cái học chết, lấy cái học động thay cho cải học tĩnh” (Dĩ thực học đại hư học, dĩ hoạt học đại tử học, dĩ động học đại tĩnh học - Thanh đại học thuật khái luận). Đó chính là điểm xuất phát của học thuyết Nhan Nguyên.

    Về quan điểm tự nhiên, ông cho rằng “Khí tức Khí của Lý, Lý tức Lý của Khí” (Khí tức Lý chi Khí, Lý tức Khí chi Lý). Lý Khí là thống nhất, vì vậy không thể nói “Lý ở trước Khí", nếu bảo Lý có trước Khí có sau thì “nếu không có khí chất. Lý bám víu vào đâu?" (Nhược vô khí chất, lý tương an phụ?). Về nhận thức luận, ông chĩa mũi nhọn vào tiên nghiệm luận duy tâm “lìa sự vật cầu lý” (Ly sự cầu lý), chĩa mũi nhọn đả kích đi quan điểm “biết trước hết” (Tri vi tiên) của Chu Hi*. Nhan Nguyên nói: “Cố sức làm tới nơi tới chốn, hiểu biết sẽ tới nơi tới chốn như thế” (Lực (hành) chi sở chí, kiến (tri) tư chí hĩ).

    Ông cho rằng cái gọi là “Cách vật trí tri” (Nghiên cứu các vật để hiểu rõ lý lẽ) nghĩa giản dị là “tay nắm vật ấy rồi sau hiểu biết sẽ đến” (Thủ cách (hành) kỳ vật, nhi hậu tri chí). Về nhân tính luận, Nhan Nguyên cho rằng “Tính lý” là ở trong “Khí chất”, “Không có khí chất không có gì gọi là tính, không có khí chất không có gì gọi là kiến tính” (Phi khí chất vô dĩ vi tính, phi khí chất vô dĩ kiến tính).

    Ông còn cho rằng tính người không phải là ác, ác là do kết quả của thói quen xấu tiêm nhiễm dần, chỉ cần sửa đổi “thói quen xấu” sẽ khôi phục trở về điều thiện. Ông phản đối chủ nghĩa “cấm dục” (bỏ thèm muốn) (Khứ nhân dục), cho rằng cái tình thực tính thực của người ta là “lẽ trời” (Thiên lý) không thể thủ tiêu được. Ông nhắm thẳng đả kích tư tưởng duy tâm vượt trên công lợi đối lập giữa “Nghĩa” và “Lợi” của Trình Chu, đưa ra ý kiến thống nhất Nghĩa, Lợi, không thể tồn tại loại người “quân tử” không nói tới công lợi.

    Về quan điểm lịch sử, ông chỉ trích chủ nghĩa phục cổ đề cao Ba đời vua thượng cổ mà hạ thấp Hán Đường của Chu Hi. Ông tán thưởng nhân vật lịch sử như Vương An Thạch* “là vị Tể tướng hữu dụng nhất triều Tống" (Vi Tống triều đệ nhất hữu dụng tể tướng). Ông cho rằng chỉ nên lấy “Công nghiệp” và “Công lợi” làm tiêu chuẩn phê bình đánh giá nhân vật.

    Khoảng giữa hai đời Minh, Thanh, trong các bậc tổ sư đả kích Lý học duy tâm, Nhan Nguyên là người đưa Lý học đến chỗ “chung kết”. Địa vị lịch sử của ông chính là ở điểm ấy.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  15. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẠM CHẨN


    Phạm Chẩn (khoảng 450-510), triết học gia thời Tề Lương, Nam triều, nhà vô thần luận, tên tự Tử Chân, người ở Vũ Dương, Nam Hương (nay thuộc Hà Nam). Suốt đời Phạm Chẩn đấu tranh phản đối mê tín tông giáo. Tác phẩm triết học của ông được lưu truyền đến nay có các bài “Thần diệt luận” và “Đáp Tào Tư Văn nạn Thần diệt luận” chép trong bộ “Hoằng Minh tập”.

    Ông từng hai lần công khai tranh luận với phái Hữu thần luận Phật giáo.

    Lần tranh luận thứ nhất là với Tề Cánh Lăng vương Tiêu Tử Lương và các danh tăng môn khách ở Kiến Khang vì phái này tuyên dương luận điểm nhân quả báo ứng. Ông nói rõ quan điểm tự nhiên duy vật của mình là không có Phật “Thể tính của sinh diệt là có trật tự” (Sinh diệt chi thể yếu hữu kỳ thứ), ông đưa ra quan điểm: “Kẻ hèn kém người giàu có tuy trở về khác đường thì nhân quả ở tại chỗ nào?” (Quý tiện tuy phục thù đồ, nhân quả cánh tại hà xứ?).

    Sau cuộc tranh luận ấy, cả nước huyên náo “Tử Lương tụ tập các tăng sĩ đến vấn nạn mà không thuyết phục được ông”. Đối diện với sức mạnh ép buộc và đem lợi ra dụ dỗ của Tiêu Tử Lương, Phạm Chẩn cương quyết không thay đổi lập trường.

    Lần tranh luận thứ hai vào năm Thiên Giám thứ 6 (507), Võ đế Tiêu Diễn vận động 64 người “vương công quý tộc” phát biểu ý kiến phản bác bài Thần diệt luận với ý đồ áp đảo buộc Phạm Chẩn phải quy phục. Phạm Chẩn bất khuất, ông với bài Đáp Tào xá nhân phản kích lại.

    Quan điểm chủ yếu của ông trong Thần diệt luận là:

    ① Hình và Thần là một: “Hình tức thần, thần tức hình. Nên Hình còn thì Thần còn, Hình tàn thì Thần diệt” (Thần tức hình dã, hình tức thần dã. Thị dĩ hình tồn tắc thần tồn, hình tạ tắc thần diệt dã).

    ② Hình là chất, Thần là dụng. “Hình là chất của thần, thần là cái dụng của hình, do vậy hình xứng với chất của nó, thần đúng với dụng của nó; hình và thần không khác gì nhau” (Hình giả thần chi chất, thần giả hình chi dụng, thị tắc hình xứng kỳ chất, thần ngôn kỳ dụng; hình chi dữ thần, bất đắc tương dị).

    ③ Tác dụng tinh thần là công năng đặc biệt của con người, không phải bất cứ hình thể nào cũng đều có tác dụng tinh thần.

    ④ Hoạt động tinh thần của con người cần phải dựa trên cơ sở nhất định của khí quan sinh lý.

    Thần diệt luận của Phạm Chẩn kế thừa truyền thống phản đối Phật giáo trước đây, ứng dụng thành quả tư duy lý luận phân biệt giữa “Thể” và “Dụng", nắm được trung tâm vấn đề, làm lay động cơ sở tư tưởng quan điểm “Thần bất diệt”, cơ bản đã giải quyết được vấn đề quan hệ giữa HìnhThần, khắc phục được mặt tự nhiên của Nhị nguyên luận, tương đối quán triệt Nhất nguyên luận duy vật, đưa tư tưởng Vô thần luận ở Trung Quốc cổ đại lên một tầm cao mới.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  16. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA QUÁCH TƯỢNG


    Quách Tượng (khoảng 252-312), tên tự Tử Huyền, người ở Hà Nam, làm quan tới chức Hoàng môn Thị lang, Thái phó chủ bạ. Ông tổng kết tư trào triết học phát triển trong cuộc tranh luận giữa “Quý vô” (quý trọng cái hư không, không có) và “Sùng hữu” (tôn sùng cái có), tổng hợp thành quả nghiên cứu tư tưởng của Trang Tử* hoàn thành bộ sách “Trang Tử chú”, đẩy Huyền học Ngụy Tấn đến một giai đoạn mới.

    Hệ thống tư tưởng triết học của Quách Tượng, bao quát và liên hệ tới 3 bộ phận: Độc hóa (Hóa sinh một mình), Tính túc tự đắc (Bản tính đầy đủ tự đạt tới) và Huyền minh cảnh.

    ① Bản thể luận của “muôn vật hóa sinh một mình trong cảnh giới u huyền kín đáo” (Vạn vật độc hóa ư huyền minh chi cảnh). Độc hóa là phạm trù triết học tối cao. Muôn vật tự độc hóa tức không cần người làm chủ tể, cho nên “Trên thì biết tạo vật không có vật, dưới thì hiểu sự tự tạo nên của hữu vật” (Thượng tri vạn vật vô vật, hạ tri hữu vật chi tự tạo). Tự thân của vạn hữu là căn cứ của tồn tại. Vạn vật tự sinh hóa, tự nương dựa lẫn nhau như hình và bóng, không thể tách rời, không thể một ngày không có. Lập luận của ông đã sa vào túc mệnh luận “Bản tính đầy đủ tự đạt tới” (Tính túc tự đắc).

    ② Nhận thức luận của ông là “Lấy sự không biết làm chủ thể” (Dĩ bất tri vi tông), Quách Tượng cho rằng một cá nhân không thể “muốn biết là biết, muốn thấy là thấy”. Do vậy, ông chủ trương “vất thông minh, bỏ trí tuệ”, “bỏ thân quên trí” (di thân vong trí). Tóm lại, theo ông là phải quên thân mình, quên hiểu biết, quên đúng sai, coi chủ thể và khách thể là một. Như vậy nhận thức luận và tạo hóa cũng thống nhất, hòa hợp với trật tự của vũ trụ.

    ③ Quách Tượng coi Danh giáo và Tự nhiên là hai mặt của một thể: “Lý đến chỗ cực điểm, trong và ngoài cùng huyền minh... vô tâm để thuận tới vạn hữu. Cho nên trong suốt ngày hình thể dao động mà thần khí không thay đổi, cúi ngửa theo vạn cơ mà vẫn ung dung tự tại như thường” (Phù lý hữu chí cực, nội ngoại tương minh... Vô tâm dĩ thuận hữu. Cố tuy chung nhật huy hình, nhi thần khí vô biến, phủ ngưỡng vạn cơ nhi đạm nhiên tự nhược - Đại Tông sư chú).

    Có thể nói, như vậy, là cả bản thể luận, nhận thức luận và triết học chính trị của Quách Tượng đều đạt tới sự nhất trí cao.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  17. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA THƯƠNG ƯỞNG


    Cống hiến chủ yếu của Thương Ưởng về triết học là sử quan tiến bộ của ông. Ông chia lịch sử phát triển làm 3 giai đoạn: “Thượng thế”, “Trung thế” và “Hạ thế”, cho rằng: “Thượng thế thân người thân mà yêu thương rộng, trung thế tôn trọng người hiền vui thích người nhân, hạ thế quý người quý hiển nhưng tôn trọng người làm quan” (Thượng thế thân thân nhi ái hoằng, trung thế thượng hiền nhi duyệt nhân, hạ thế quý quý nhi tôn quan - Thương Quân thư), thời kỳ lịch sử khác nhau phải có phong tục và chế độ xã hội khác nhau.

    Xuất phát từ nhận thức lịch sử phát triển ấy, ông chủ trương: “Thế sự thay đổi nên hành đạo khác” (Thế sự biến nhi hành đạo dị - Thương Quân thư), đề xướng “Trị việc đời không chỉ có một đường duy nhất nên quốc gia không cần bắt chước xưa” (Trị thế bất nhất đạo, tiện quốc bất tất pháp cổ - Thương Quân thư), phản đối câu nệ vào pháp chế cũ của tiên vương, cho rằng “người phản đối cổ chưa chắc đã sai, người tuân theo lễ chưa chắc đúng” (Phản cổ giả vị tất khả phi, tuân lễ giả vị túc đa thị dã - Thương Quân thư).

    Lịch sử quan của Thương Ưởng có ảnh hưởng quan trọng đến lịch sử quan của Pháp gia đời sau, họ kế thừa và phát huy lịch sử quan của ông. Hàn Phi cũng chia lịch sử ra “Thượng cổ chi thế”, “Trung cổ chi thế”, “Cận cổ chi thế”, cũng chủ trương “Đời khác thì sự việc phải khác, sự việc khác thì phải thay đổi” (Thế dị tắc sự dị, sự dị tắc bị biến - Hàn Phi tử, Ngũ đố), rõ ràng đã chịu ảnh hưởng lịch sử quan của Thương Ưởng.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  18. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRANG CHU


    Trang Chu* (khoảng 369 T.C.N-286 T.C.N), triết học gia thời kỳ Chiến quốc, một trong nhân vật đại biểu chủ yếu của học phái Đạo gia. Ông là người đất Mông nước Tống (nay là Thương Khâu, Hà Nam), từng giữ chức “Tất viên lại” ở đất Mông, bạn của Huệ Thi*, đại biểu Danh gia, cùng biện luận với nhau về khá nhiều vấn đề triết học. Tác phẩm của Trang nay còn bộ Trang Tử*, đa số học giả cho rằng trong bộ này ngoài bộ phận do chính Trang viết còn thu chép trứ tác sau Trang và các biệt phái Đạo gia khác.

    Tư tưởng triết học của Trang kế thừa và phát huy tư tưởng của Lão Tử*. Phần Lão Tử, Hàn Phi liệt truyện trong sách Sử ký* đánh giá Trang Tử “học thuyết của ông không thiếu thứ gì, nhưng chủ yếu vốn quy về lời của Lão Tử”. Tư tưởng triết học của Trang Tử cực kỳ phong phú, về quan niệm tự nhiên, cũng giống như Lão Tử, ông coi “Đạo” là nguồn gốc thế giới, cho rằng “Đạo không chỗ nào không có” (Vô sở bất tại - Trang Tử, Trí Bắc du). Trong nhận thức của Trang Tử, có nhiều loại quy định đối với “Đạo”. “Đạo là vô vi vô hình” tồn tại từ lúc “chưa có trời đất”.

    Ông cho rằng trời đất muốn vật là do Khí cấu tạo nên “Suốt thiên hạ một Khí vậy” (Thông thiên hạ nhất khí nhĩ - Trí Bắc du). Về nhận thức luận, Trang Tử mạt sát tính quy định và tính tương đối ổn định của sự vật, đề xuất quan điểm tương đối vật ngã bằng nhau (Tề vật ngã), phải trái như nhau (Tề thị phi), thiện ác bằng nhau (Tề thiện ác), này nọ như nhau (Tề bỉ thử), thọ yểu bằng nhau (Tề thọ yểu), mộng và tỉnh như nhau (Tề mộng giác). Ông cho rằng “Trời đất và ta cùng sinh, muôn vật và ta là một” (Thiên địa dữ ngã tịnh sinh, vạn vật dữ ngã vi nhất - Tề vật luận).

    Những quan điểm ấy cố nhiên là tương đối chủ nghĩa, nhưng về mặt tư duy lý luận đã đạt tới mức độ sâu sắc, vượt hẳn các triết học gia trước và ngay lúc ấy. Trang Tử còn xuất phát từ giới hạn nhận thức của con người, phủ định tính tất yếu của nhận thức, đưa ra nhận định “Đời ta sống có giới hạn mà hiểu biết thì vô giới hạn, lấy cái giới hạn đuổi theo cái vô giới hạn, nguy vậy. Hỏng rồi vậy, người chuyên trung cần hiểu biết thật là nguy vậy” (Ngô sinh dã hữu nhai, nhi tư dã vô nhai, dĩ hữu nhai tùy vô nhai, đãi dĩ. Dĩ nhi, vi tri giả đãi nhi dĩ hĩ - Dưỡng sinh chủ).

    Ông còn chủ trương biện pháp “Tọa vong” để đạt đến tinh thần tự do tuyệt đối, đạt đến cảnh giới hỗn nhiên cùng với trời đất thần bí. Về nhân sinh triết học, Trang Tử đề xuất “Người “Chí nhân” có thể cởi bỏ được giới hạn vật và ta, người “Thần nhân” không cầu có công, “Thánh nhân” không cầu có tên tuổi” (Chí nhân vô kỷ, Thần nhân vô công, Thánh nhân vô danh - Tiêu Dao du), chủ trương vất bỏ trói buộc của công danh để đạt tới “Vô đãi”, thoát khỏi sự trói buộc của điều kiện hiện thực để thực hiện tự do tuyệt đối.

    Về lịch sử quan xã hội, Trang Tử kế thừa và phát triển tư tưởng xã hội “nước nhỏ dân ít” của Lão Tử, quay về đời sống “mặt trời lên thì làm việc, mặt trời lặn thì nghỉ ngơi, tiêu dao giữa cõi đất trời với tâm ý tự đắc” (Nhật xuất nhi tác, nhật nhập nhi tức, tiêu dao ư thiên địa chỉ gian nhi tâm tự đắc - Nhượng vương) biểu hiện một khuynh hướng tiêu cực rút lui.

    Tư tưởng triết học của Trang Tử có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển triết học ở đời sau. Thời kỳ Ngụy Tấn, các Huyền học gia đua nhau chú giải bộ Trang Tử*, đưa Trang Tử lên vị trí tổ sư Huyền học. Sau khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, lại có nhiều người dùng Phật giải thích Trang. Niên hiệu Thiên Bảo đời Đường, Trang Tử được chiếu phong làm Nam Hoa chân nhân.

    Tư tưởng của Trang Tử và Lão Tử hình thành học thuyết Đạo gia, trở thành cột trụ chủ yếu của văn hóa truyền thống Trung Quốc.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  19. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRÂU DIỄN


    Trâu Diễn* (khoảng 305 T.C.N-240 T.C.N), tư tưởng gia cuối thời kỳ Chiến quốc, nhân vật đại biểu của học phái Âm Dương, người nước Tề, từng giảng học ở học cung Tắc Hạ*, du lịch qua các nước Ngụy, Yên, Triệu, tương đối được vua các nước ấy tôn trọng. Tư tưởng của ông có ảnh hưởng tương đối lớn ở đương thời. Phần Nghệ văn chí sách Hán thư* chép tác phẩm “Trâu Tử” của ông có 49 thiên và “Trâu Tử chung thủy” có 56 thiên, nay đều mất cả. Trong các sách Sử ký* và Lã thị Xuân Thu* có bảo tồn một số sử liệu ghi chép ngôn ngữ hành vi của Trâu Diễn.

    Trâu Diễn hiểu biết khá nhiều về thể tự nhiên thiên các tri như văn địa lý, được gọi bằng tên hiệu “Đàm Thiên Diễn” (ông Diễn bàn chuyện trời) cho thấy ông thích bàn về biến hóa của vũ trụ. Về triết học, Trâu Diễn đề xuất phương pháp nhận thức “Tiên nghiệm hậu suy” (Trước thực nghiệm rồi sau sẽ suy luận ra), “Từ thực nghiệm vật nhỏ rồi suy ra lớn hơn, cho đến vô hạn” (Tất tiên nghiệm tiểu sự, suy nhi đại chi, chí ư vô hạn - Sử ký) tức dùng cơ sở kinh nghiệm trực tiếp, suy từ gần đến xa, từ việc đã biết suy ra việc chưa biết cho đến cả vũ trụ vô hạn và lúc trời đất chưa sinh ra.

    Phương pháp “Tiên nghiệm hậu suy” này chú trọng vào kinh nghiệm trực tiếp, có nhân tố duy vật, do gần “suy” ra xa cũng có thể khắc phục được giới hạn của kinh nghiệm nhưng lại bị mắc vào khuyết điểm suy đoán chủ quan. Dùng phương pháp “Tiên nghiệm hậu suy”, Trâu Diễn đề xuất thuyết “Đại cửu châu” (Chín vùng đất lớn), cho rằng Trung Quốc chia ra 9 châu, 9 châu ấy hợp lại thành một châu gọi là “Xích huyện thần châu”. Giống kiểu phân chia ấy, thế giới cũng có 9 châu mà Trung Quốc chỉ là một trong 9 châu ấy. Đây là cách suy đoán địa lý thế giới lúc ấy, nhận thức được Trung Quốc chỉ là một phần của thế giới.

    Trâu Diễn kế thừa phát huy thuyết Ngũ hành, Âm dương sớm nhất, ông đưa ra quan điểm “Ngũ hành sinh thắng”, “Ngũ hành tương sinh” chỉ Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc; còn Ngũ hành tương thắng là chỉ Thủy thắng Hỏa, Hỏa thắng Kim, Kim thắng Mộc, Mộc thắng Thổ, Thổ thắng Thủy. Ngũ hành tương sinh tương thắng tìm hiểu quan hệ khác nhau giữa các vật chất tự nhiên vừa tác dụng hỗ tương giữa hai chủng tính vừa chuyển hóa đối lập nhau. Quan điểm “Ngũ hành sinh thắng” y cứ vào những hiện tượng của tự nhiên giới, nhuốm đầy màu sắc duy vật thô sơ, nhưng đưa quan hệ ấy thành nguyên tắc biến hóa phổ biến của sự vật thì lại chẳng có gì khoa học nữa.

    Xuất phát từ tư tưởng Ngũ hành tương sinh tương thắng, Trâu Diễn đưa ra thuyết “Ngũ đức” là “Đức” của Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, ông cho rằng một Đức đều có lúc thịnh lúc suy, tương ứng với sự thịnh suy của một triều đại. Dùng quan điểm Ngũ đức ấy, ông giải thích sự suy hay thịnh, tồn tại hay tiêu vong của các triều đại lịch sử. Trâu Diễn nhận ra lịch sử là liên tục phát triển thay đổi, không chuyển động theo ý chí chủ quan của con người, đó là điểm hợp lý trong quan điểm lịch sử của ông. Nhưng ông cho rằng lịch sử thay đổi theo sự “chuyển đổi của Ngũ đức” thì lại là một loại lịch sử tuần hoàn luận, thuộc về quan điểm lịch sử duy tâm.

    Quan điểm lịch sử Ngũ đức của ông đã cung cấp căn cứ hợp lý cho vương quyền phong kiến. Sau này khi các hoàng đế phong kiến khi thay đổi ngai vàng đều tự xưng là “Phụng mệnh trời nối tiếp vận mệnh lên ngôi Hoàng đế” (Phụng thiên thừa vận hoàng đế) là có quan hệ nguồn gốc từ quan điểm Ngũ đức chuyển động của Trâu Diễn.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  20. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRẦN LƯỢNG


    Trần Lượng (1143-1194), tư tưởng gia đời Nam Tống, chiến sĩ xuất sắc chống lại duy tâm Lý học, lãnh tụ học phái Vĩnh Khang. Ông tên tự Đồng Phủ, hiệu Long Xuyên, người ở Vĩnh Khang, Vụ châu (nay thuộc Chiết Giang). Ông sống trong thời đại quân Kim vào xâm chiếm, triều đình nhu nhược cầu an tạm bợ, thế nước nguy ngập. Ông thuộc phần tử trí thức nghèo, thuở trẻ ông ưa thích bàn chuyện quân sự, từng khảo sát việc thành bại trong việc dùng binh của người xưa, thời gian này ông viết bài “Chước cổ luận” nêu tấm gương chống quân Kim.

    Thời vua Hiếu Tông, ông viết bài “Trung hưng ngũ luận” phản đối nghị hòa với quân Kim. Sau đó ông lại 4 lần dâng thư lên triều đình chủ trương chống Kim, đưa ra kế hoạch thu phục lại những vùng đất đã mất (vì bị Kim xâm chiếm), bị nhà cầm quyền lúc ấy ganh ghét, 3 lần bắt ông hạ ngục, nhiều lần chịu hàm oan. Cuối đời ông dựng trường dạy học, theo nghiệp sáng tác. Khi 50 tuổi mới tham gia thi Tiến sĩ, được Quang Tông chấm đỗ đầu và ban cho quan chức, nhưng chưa kịp nhận chức ông đã qua đời.

    Về tư tưởng triết học, tuy ông chưa hề đưa ra lý luận hệ thống rõ ràng nhưng khuynh hướng duy vật nơi ông hết sức minh bạch. Về thế giới quan, ông khẳng định “Đạo ở trong vật” (Đạo tại vật trung), “Theo việc làm ra nguyên tắc” (Nhân sự tác tắc). Về nhận thức luận, đối diện với hiện thực, chú trọng thực hành, mong đạt công hiệu thực tế, nhấn mạnh phải kết hợp giữa lý luận, trí tuệ, bản lãnh và công hiệu. Về nhân tính luận, ông cho rằng khuynh hướng đi tìm âm thanh hay sắc đẹp là thèm muốn tự nhiên của con người “Cùng một tính, ắt người cùng một thèm muốn vậy” (Xuất ư tính, tắc nhân chi sở đồng dục dã), vì vậy, ông cho rằng các thuyết giảm bớt thèm muốn và tiêu diệt thèm muốn (quả dục, diệt dục) là bất cận nhân tính, nhưng “Dục” cần phải dùng “” để tiết chế bớt.

    Về lịch sử quan, ông chủ trương “Trời đất thường vận hành nên người ta thường sinh sôi không ngơi nghỉ” (Thiên địa thường vận nhi, nhân vi thường bất tức). Ông phản đối quan điểm lịch sử thụt lùi, gương cao ngọn cờ vì lợi ích chung, ông chủ trương “Nghĩa và lợi cùng đi đôi” (Nghĩa lợi song hành).

    Ông chính là người tiêu biểu cho “Sự công học phái” (Học phái tôn thờ thành quả thực tế). Tác phẩm của ông có bộ “Long Xuyên văn tập".

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
Moderators: amylee

Chia sẻ trang này