Đôi dòng lưu niệm ... Hiểu Sử NGƯỜI... Thấm Xứ TA...

Thảo luận trong 'Bàn Trà' bắt đầu bởi tducchau, 7/1/24.

Moderators: amylee
  1. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TOÀN CHÂN ĐẠO


    Môn phái lớn nhất của Đạo giáo hưng khởi ở phương bắc đầu đời Kim. Người sáng lập ra đạo là Vương Triết (hiệu Trùng Dương), người ở Hàm Dương, Thiểm Tây. Vương Trùng Dương tự xưng năm 48 tuổi đã gặp tiên nhân Lã Động Tân ở trấn Cam Hà, được truyền khẩu quyết Đạo giáo, rồi bèn bỏ nhà vào núi Chung Nam sơn tu đạo. Niên hiệu Đại Định thứ 7 đời Kim (1167), ông đốt am bỏ đi về phương đông, thu nhận 7 đại đệ tử Mã Ngọc, Đàm Xứ Đoan, Lưu Xứ Huyền, Khâu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất, Hách Đại Thông, Tôn Bất Nhị, sau đó tự xưng là nhóm Bắc Thất Chân.

    Vương Trùng Dương từng tự dựng “Toàn Chân am” trong nhà Mã Ngọc, đó là khởi đầu của tên gọi Toàn Chân đạo. Đạo phái này dạy tín đồ đọc tụng các kinh “Đạo Đức kinh”*, “Hiếu kinh”*, “Bát Nhã tâm kinh”* và dạy các nguyên lý hiếu kính, chính tâm thành ý, giảm bớt tham muốn cá nhân, cho rằng “Minh tâm kiến tính” là chân lý hoàn toàn (Toàn chân). Niên hiệu Đại Định thứ 9 (1169), Vương Trùng Dương dẫn các đồ đệ quay về phương tây, giữa đường ông lên tiên, nhắn đệ tử Mã Ngọc thừa kế truyền giáo. Mã Ngọc truyền giáo ở vùng Quan Trung, bị quan lại vùng đó ngờ vực, bèn trao giáo sự cho Khâu Xứ Cơ còn bản thân quay về quê cũ.

    Khi Khâu Xứ Cơ nắm quyền giáo phái, nhờ ảnh hưởng lớn trong dân gian nên được triều Kim coi trọng. Khoảng giữa đời Kim và Nguyên, chiến loạn liên miên, nhân dân khổ ải. Khâu Xứ Cơ vâng chiếu chỉ của Thành Cát Tư Hãn đến tận Tuyết Sơn ở Tây Vực hội kiến và được tiếp đãi long trọng, từ đó Toàn Chân đạo bước vào thời kỳ toàn thịnh.

    Dưới triều Nguyên, các tổ sư Toàn Chân đạo đời nào cũng được phong tặng, đình viện tự quán xây dựng khắp nơi, lễ nghi tôn giáo đạt bước hoàn bị hơn. Đời Minh, Đạo giáo chia ra làm hai phái lớn là Chính Nhất và Toàn Chân. Toàn Chân đạo có tông chỉ dung hợp cả ba học thuyết Nho, Đạo, Phật, tu luyện thoát ly sinh tử.

    Tuy vậy, chưa bao giờ Toàn Chân đạo thống nhất được môn phái, càng lúc chi nhánh môn phái càng nhiều, đến nay có ảnh hưởng lớn nhất là Long Môn phái của Khâu Xứ Cơ.

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/6/24
    Wanderman thích bài này.
  2. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    2. CÁC THẦN TỔ ĐẠO GIÁO


    Các vị thần tổ trong Đạo giáo (là tông giáo duy nhất được coi là của bản địa Trung Quốc) rất nhiều. Vì không phải là sách chuyên đề về Đạo giáo nên ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu những vị thần tiêu biểu có tính phổ biến nhất định. Tiểu mục này được chia ra làm hai phần nhỏ: A) Các Thần thủy tổ của dân tộc Trung Hoa, và B) Các chân nhân, tổ sư và thần tiên Đạo giáo, và vẫn được sắp xếp theo trật tự ABC.


    A) CÁC THẦN THỦY TỔ CỦA DÂN TỘC TRUNG HOA

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link


    HOÀNG ĐẾ HIÊN VIÊN THỊ


    Từ xưa đến nay, đất nước Trung Quốc được gọi là “đất đai của Viêm Hoàng” (Viêm Hoàng cố thổ) và dân tộc Trung Hoa được gọi là “Con cháu Viêm Hoàng” (Viêm Hoàng tử tôn). Tên gọi “Viêm Hoàng” ấy tức là Viêm đếHoàng đế, họ chính là thủy tổ của dân tộc Trung Hoa, cũng là những thủy tổ khai sáng ra văn minh sông Hoàng Hà và văn minh lưu vực sông Trường Giang. Các đời sau của Viêm đế và Hoàng đế, đến đời Xuân Thu tự mình gọi là “Chư Hạ” hoặc “Hoa Hạ”.

    “Hạ” có nghĩa là lớn, nước lớn gọi là Hạ” (Đại quốc viết Hạ - Sở Thượng Thư, Võ Thành). Hạ còn chỉ người Trung Quốc như giải thích trong sách Thuyết Văn*. “Hoa” có nghĩa tốt đẹp. “Hoa Hạ” có nghĩa là vùng Trung Nguyên đẹp đẽ phồn vinh, nơi ấy là đất nước và dân tộc hùng mạnh đông đúc. Hoa Hạ là tiền thân của dân tộc Hán, tộc Hoa Hạ nhận rằng mình là dân tộc cư trú ở vùng trung tâm chung quanh là 4 phương, nên gọi vùng cư trú của mình là “Trung Hoa". Đầu tiên Trung Hoa vốn chỉ vùng lưu vực sông Hoàng Hà, sau gọi chung đất nước là Trung Hoa hoặc Trung Quốc. “Dân tộc Trung Hoa” là tên gọi chung các dân tộc cùng sống trong đất nước Trung Quốc.

    Hoàng đế, thủy tổ của dân tộc Trung Hoa là nhân vật truyền thuyết thần thoại. Ông là thủ lĩnh bộ tộc vĩ đại cuối xã hội nguyên thủy. Vì cư trú ở gò Hiên Viên (nay là Hiên Viên khâu, huyện Tân Trịnh, Hà Nam) nên gọi tên là Hiên Viên, họ Cơ. Tổ tiên là Hữu Hùng thị nên lại có hiệu là Hữu Hùng, lại vì sùng thượng màu vàng của đất nên gọi là “Hoàng đế” (vua vàng), bộ lạc của ông vốn định cư ở cao nguyên tây bắc.

    Hoàng đế nhờ có công trừng phạt tà ác, lần đầu thống nhất dân tộc Trung Hoa nên được ghi tên vào sử sách và được đời đời kính ngưỡng. Ở thời viễn cổ, trong đất nước Trung Quốc đã có khá nhiều dân tộc cư trú, tộc Hạ lúc ấy chủ yếu chia ra hai nhánh: một là nhánh Viêm đế họ Khương, một là nhánh Hoàng đế họ . Hai tộc này được coi như anh em vì cùng là hậu duệ của thủ lĩnh Thiếu Điển họ Hữu Hùng.

    Truyền thuyết lúc ấy ở phương nam, tộc Cửu Lê có thủ lĩnh Xuy Vưu hung tàn bạo ngược, thường xâm nhập quấy nhiễu bộ tộc của Hoàng đế, tộc Viêm đế bị Xuy Vưu đánh bại, xin cầu viện Hoàng đế. Một truyền thuyết khác cho rằng: “Hoàng đế thi hành đạo nhưng Viêm đế không tuân theo nên xảy ra trận đánh ở cánh đồng Trác Lộc", cuối cùng Hoàng đế chiến thắng Viêm đế, hợp nhất hai bộ tộc rồi Hoàng đế mang quân ra Trác Lộc (nay thuộc Hà Bắc) nghênh chiến với Xuy Vưu. Hai bên kịch chiến ác liệt, rốt cuộc Xuy Vưu thua trận bị giết. Hai bộ tộc Hoàng đế và Viêm để thống nhất rồi gọi chung là tộc Hoa Hạ. Hoàng đế được tôn xưng làm thủ lĩnh bộ lạc liên minh, từ đó xuất hiện văn hóa Hoa Hạ xán lạn.

    Cũng theo truyền thuyết, Hoàng đế cùng các triều thần nghiên cứu xác định thiên văn lịch pháp. Sử thần của Hoàng đế là Thương Hiệt đã sáng tạo ra văn tự chữ viết. Vợ của Hoàng để dạy dân chúng nuôi tằm kéo tơ. Hoàng đế còn chế tạo ra xe, tên của ông là “Hiên Viên” (Hiên là xe lớn, Viên là càng xe) có liên quan đến việc tạo ra xe ấy. Hoàng đế còn sáng tạo phát minh ra cung thất, toán số, âm luật. Thực sự, những sáng tạo ấy tuyệt đối không thể do một người trong một thời nhưng truyền thống Trung Quốc vốn có thói quen “quy công cho bậc thánh”, Hoàng đế là thần thủy tổ của Hoa Hạ, đương nhiên nhiều công lớn được quy về cho ông.

    Hoàng đế là thần thủy tổ của dân tộc Trung Hoa nên cũng được thần thánh hóa thêm, như thuyết cho rằng mẹ ông nhờ “cảm ứng” vì điện Đại Lôi xoay quanh Bắc đẩu mà sinh ra ông, ông vừa sinh ra đã thần minh, chế ngự được bách thần, làm chủ mưa gió sấm sét, tiến thêm bước nữa, ông trở thành thần sáng tạo ra trời đất là mô thức “Thượng đế” theo kiểu Trung Quốc. Truyền thuyết Hoàng đế thọ 110 tuổi, ở ngôi 100 năm. Đến cuối đời ông tự lựa chọn ngày chết, đến ngày ấy ông từ biệt triều thần ra đi vĩnh viễn, được chôn ở Kiều Sơn. Lăng mộ Hoàng đế có ở nhiều nơi, như ở Thiểm Tây, Cam Túc, Hà Bắc, Hà Nam đều có, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là hoàng lăng ở Kiều Sơn, Thiểm Tây.

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 15/6/24
    Wanderman thích bài này.
  3. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    NỮ OA NƯƠNG NƯƠNG


    Trong danh sách các vị thần tổ Trung Quốc, Nữ Oa nương nương là một nữ thần có tiếng tăm quyền lực lớn nhất. Nữ Oa được coi là vị thần cổ xưa được dân gian sùng bái. Trong truyền thuyết thần thoại, Nữ Oa lại được coi như thần thủy tổ sáng tạo ra vạn vật và là nữ thần có thần thông quảng đại.

    Truyền thuyết Nữ Oa đã tạo dựng ra con người bằng cách dùng đất và nước nhào nặn nên hình người mô phỏng theo hình dạng của chính bản thân mình. Để loài người sinh sản mãi mãi, Nữ Oa còn là thần hôn nhân kết hợp giữa nam và nữ. Điều này phản ánh xã hội mẫu hệ cổ, trung tâm hôn nhân là do nữ thần quyết định. Truyền thuyết khác, Nữ Oa nương nương luyện đá vá trời để cứu nhân loại, vì vậy Nữ Oa còn được coi là thần bảo hộ.

    Lại có một truyền thuyết khác coi Nữ Oa là em gái của Phục Hi, vì vậy trong những tranh khắc đá đời Hán có khá nhiều hình tượng Phục Hi đầu người thân rắn và Nữ Oa cũng có đuôi rắn quấn vào nhau, trong tay Phục Hi cầm mặt trời, trong mặt trời là con quạ vàng, trong tay Nữ Oa cầm mặt trăng, trong mặt trăng là con cóc. Truyền thuyết này cho anh em Phục Hi, Nữ Oa lấy nhau sinh sản ra con người mãi mãi và như vậy đã phản ánh chế độ hôn nhân thân tộc cùng huyết thống thời kỳ đầu xã hội nguyên thủy.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  4. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG THỊ


    Trung Quốc là một quốc gia cổ đại có văn minh nông nghiệp. Trước đây hàng 7, 8 ngàn năm, lưu vực sông Hoàng Hà và Trường Giang đã có nền nông nghiệp nguyên thủy với trình độ nhất định. Trong một thời gian dài, kỹ thuật canh nông Trung Quốc luôn luôn đi đầu trên thế giới, có cống hiến lớn với văn minh nhân loại. Người khai sáng ra nông nghiệp Trung Quốc chính là Viêm đế Thần Nông thị. Viêm để là thủy tổ của văn minh nông canh Trung Quốc và cũng như Hoàng đế Hiên Viên thị, ông được tôn xưng là thủy tổ thần của dân tộc Trung Hoa.

    Viêm để Thần Nông là nhân vật trong truyền thuyết thần thoại cổ đại. Theo ghi chép trong “Quốc Ngữ”, thủ lĩnh họ Hữu Hùng là Thiếu Điển cưới con gái họ Hữu Kiễu, sinh ra Viêm đế và Hoàng đế. Viêm đế lớn lên ở bến Khương thủy, còn Hoàng đế lớn lên ở bến Cơ thủy, do vậy Viêm đế họ Khương, Hoàng đế họ . Là thần thủy tổ và nông thần, Viêm đế được khoác lên khá nhiều sắc thái thần dị. “Tam Hoàng bản kỷ” chép, khi mẹ của Viêm đế đi lên chơi Hoa Dương “cảm ứng thần long nên sinh ra Viêm đế” tức là giao phối với thần long sinh ra Viêm đế.

    Loại thần thoại này dùng để ca ngợi thần dị sự ra đời của tổ tiên đã ra có từ xa xưa, ít nhất từ thời kỳ mẫu hệ đã có quan niệm “dân biết mẹ mà không biết cha”. Dân tộc nguyên thủy không hiểu rõ quá trình mang thai và sinh đẻ của phụ nữ nên lầm lẫn cho rằng đó là sự vật ngoại giới của thân thuộc thị tộc. Truyền thuyết Viêm đế “thân người đầu trâu”, có lẽ thị tộc Viêm đế coi trâu là vật tổ (totem) vì trong thời đại nông nghiệp ấy trâu được coi là con vật có sức mạnh và giúp ích nhiều nhất cho nhà nông. Viêm đế Thần Nông còn phát minh ra lưỡi cày, búa liềm, bồ cào là những công cụ sản xuất. Thần Nông giúp dân trồng dâu nuôi tằm, dệt tơ gai thành quần áo, lại phát minh ra đồ gốm, giúp tiện lợi cho đời sống nhân dân.

    Ông cho mở chợ, sáng lập ra nơi buôn bán trao đổi hàng hóa. Thần Nông còn có một cống hiến đặc biệt khác, ông là người đầu tiên “từng nếm hàng trăm loại cây cỏ, bắt đầu tìm ra dược liệu”, vì vậy ông cũng là vị thần y dược, thủy tổ của y dược học Trung Quốc. Để ghi nhớ công lao của vị “dược vương” này, bộ sách chuyên đề về y dược học sớm nhất của Trung Quốc được đặt tựa là “Thần Nông bản thảo kinh”* (hoàn thành vào đầu đời Tây Hán, không rõ tác giả).

    Thị tộc Viêm đế sau này liên hợp với thị tộc Hoàng đế, cùng góp sức đánh bại kẻ địch Xuy Vưu thuộc tộc Cửu Lê ở cánh đồng Trác Lộc (nay thuộc Hà Bắc). Viêm đế và Hoàng đế liên kết thành bộ lạc Viêm Hoàng lớn mạnh, do Hoàng đế làm tổng thủ lĩnh. Về cái chết của Viêm đế thì có nhiều truyền thuyết, một thuyết cho rằng cuối đời Viêm đế tuần du phương nam, vì quá lao nhọc mà qua đời, một thuyết nói ông vì nếm dược thảo bị trúng độc chết.

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 21/6/24 lúc 08:51
    Wanderman thích bài này.
  5. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    B) CÁC CHÂN NHÂN, TỔ SƯ VÀ THẦN TIÊN ĐẠO GIÁO

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    *
    BÁT TIÊN


    Bát tiên (8 vị tiên) là một quần thể thần tiên được dân gian tôn thờ. Bát tiên trong Đạo giáo là 8 vị tiên gồm: Lý Thiết Quài, Chung Ly Quyền, Trương Quả Lão, Hà tiên cô, Lam Thái Hòa, Lã Động Tân, Hàn Tương Tử, Tào Quốc Cữu.

    Các truyền thuyết về 8 vị tiên trên này vốn đã được ghi chép bởi các văn nhân đời Đường, Tống nhưng họp thành một nhóm tám người chỉ hình thành từ đời Nguyên và danh sách tám người ấy cũng chưa thống nhất. Trong “Lã Động Tân tam túy Nhạc Dương lâu" của Mã Trí Viễn không có Hà tiên cô, thay thế vào đó là Từ Thần Ông, trong “Lã Động Tân độ Thiết Quài Lý Nhạc” của Nhạc Bá Xuyên vẫn không thấy có Hà tiên cô, thay vào đó là Trương Tứ Lang. Trong tiểu thuyết “Tam bảo thái giám tây dương ký diễn nghĩa” đời Minh không có Trương Quả Lão và Hà tiên cô, thay vào đó là Phong Tăng Thọ Huyền Hư Tử. Sách “Liệt tiên toàn truyện" đời Minh dùng Lưu Hải Thiềm thay cho Trương Quả Lão. Cho đến lúc Ngô Nguyên Thái viết “Bát tiên xuất xứ đông hải ký" mới xác định danh sách Bát tiên như trên và danh sách này vẫn dùng đến ngày nay.

    Bát tiên được mọi người sùng thượng, tôn thờ trong các lễ hội Đạo giáo vì đặc điểm đại biểu rộng rãi: có đủ nam, nữ, già trẻ, giàu có, nghèo hèn, văn vẻ, thô lỗ... đủ các loại người phản ánh từ xã hội. Hình tượng của Bát tiên cũng sặc sỡ màu mè không kém với đủ mọi phong cách, khác hẳn với các loại thần tiên nghiêm trang đạo mạo. Bản thân họ náo nhiệt vui vẻ như một màn hí kịch, chính nhờ tính chất hoạt kê vui vẻ ấy, Bát tiên rất được hoan nghênh trong dân gian. Truyền thuyết “Tám vị tiên qua biển” (Bát tiên quá hải) lưu hành truyền bá khắp nơi càng làm tiếng tăm của họ rực rỡ.

    Câu chuyện Bát tiên quá hải này vốn xuất xứ từ tạp kịch “Tranh ngọc bản Bát tiên quá hải” đời Nguyên, chuyện kể: “Bạch Vân tiên trưởng mở yến hội mời Bát tiên và Ngũ thánh (Tề thiên, Thông thiên, Lâm Hải, Phan Giang, Di Sơn) đến thưởng lãm hoa mẫu đơn. Khi yến tiệc tan, trên đường trở về, nhóm Bát tiên ai nấy tự mang bảo bối ra vượt qua biển hiển lộ thần thông. Con của Long Hải Long vương là Ma Yết và Long Độc đánh cướp tấm ngọc của Lam Thái Hòa và bắt nàng xuống biển. Bảy vị tiên còn lại nổi giận, trận ác chiến xảy ra và họ giết chết Ma Yết, đánh bị thương Long Độc. Tứ Hải Long vương cùng đến tham chiến nhưng đánh không thắng nổi 7 vị tiên trên nên cầu xin các thần khác trợ chiến. “Ngũ thánh” cũng đến giúp Bát tiên chiến thắng. Sau đó Như Lai Phật xuất hiện, mời Bát tiên và Tứ Hải Long vương, Ngũ thánh đến núi Linh Sơn giải hòa. Bát tiên quá hải khẳng định hành động thần kỳ của Bát tiên, tán dương bản lãnh và tinh thần đoàn kết của họ.

    Bát tiên quá hải, các hiển thần thông” có ý nghĩa tích cực, trở thành tục ngữ và điển cố được mọi người sử dụng để ví dụ với bản lãnh và tinh thần đoàn kết trong công việc.

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 22/6/24 lúc 09:19
    Wanderman thích bài này.
  6. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    CÁT TIÊN ÔNG


    Trên đỉnh Cát Lĩnh ở Hàng châu có một tòa đạo quán nổi tiếng tên là Bão Phác đạo viện, chính điện thờ Cát tiên ông Cát Hồng. Cát Hồng là một đạo sĩ nổi tiếng đời Đông Tấn, còn là nhà lý luận Đạo giáo, nhà luyện đan, nhà y học. Đạo hiệu của Cát Hồng là Bão Phác Tử, lấy tên cuốn sách do chính ông viết, vì vậy nơi thờ phụng ông được gọi là “Bão Phác đạo viện”.

    Cát Hồng (284-364), tên tự Trĩ Xuyên, người Cú Dung, Giang Tô, sinh ra trong một gia đình danh gia vọng tộc. Thời trẻ tuổi Cát Hồng nổi tiếng Nho học kiêm cả tài thi phú văn chương. Năm 20 tuổi ông từng giữ chức Đô úy quân sự cho Thái thú Ngô Hưng, nhờ có công chiến trận nên được phong là Phục Ba tướng quân. Nhưng chí hướng của Cát Hồng không ở chỗ quan cao lộc hậu, ông chỉ yêu thích pháp môn thần tiên đạo dưỡng, càng thích nghiên cứu kinh điển Đạo giáo. Chí hướng ấy của ông có liên quan mật thiết với truyền thống gia đình.

    Nguyên bá tổ phụ của ông là Cát Huyền, được coi là một “tiên ông” đời Tam quốc. Cát Huyền là môn đồ của đạo sĩ và nhà luyện đan Tả Từ trứ danh đời Tam quốc. Đạo thuật của Tả Từ cao tuyệt, từng đùa giỡn với Tào Tháo. Đạo hạnh của Cát Huyền cũng rất cao siêu, truyền thuyết kể có một hôm ông và vài người bạn ăn cơm chung, các bạn yêu cầu ông biểu diễn, Cát Huyền liền ho một tiếng, cơm trong miệng ông lập tức biến thành hàng trăm con ong bay vòng vòng chung quanh thực khách. Cát Huyền lại há miệng ra, toàn bộ đàn ong bay ngược vào trong miệng ông, biến trở lại thành cơm. Cát Huyền cũng là một chuyên gia luyện dan.

    Cát Hồng sinh ra trong một gia đình có truyền thống luyện đan như thế nên được truyền bí thuật luyện đan của ông tổ. Sau này Cát Hồng còn theo học Thái thú Nam Hải là Bão Tĩnh. Bão Tĩnh tinh thông đạo thuật, giỏi chiêm bốc. Ông ta nhận ra tài năng của Cát Hồng có nhiều hứa hẹn tương lai, bèn truyền thụ hết tài nghệ cho Cát Hồng và còn gả con gái là Bão Cô cho ông nữa. Bão Cô sẽ thành một trợ thủ đắc lực cho ông sau này.

    Năm Cát Hồng hơn 40 tuổi, ông từ chức quan, từ biệt gia đình dẫn theo một lão bộc chu du vùng Giang Nam. Ông nhận ra Tây Sơn lĩnh ở Lâm An (nay là Hàng châu) có phong cảnh kỳ lệ, là nơi tốt đẹp cho sự ẩn cư tu luyện. Từ đó Tây Sơn lĩnh được mọi người gọi là Cát lĩnh. Ẩn cư trên Cát lĩnh, Cát Hồng vừa tu luyện đạo, luyện đan vừa hái cây thuốc trị bệnh cho nhân dân, ông còn mở những con đường núi giúp dân chúng thông hành dễ dàng. Nhờ những công việc giúp ích ấy, ông được dân chúng quanh vùng tôn xưng là “Cát tiên ông”. Sau này dân chúng sửa sang xây dựng miếu thờ ông ở đấy, càng về sau càng mở rộng để thành “Bão Phác đạo viện”.

    Cuối đời, Cát Hồng nghe nói đất Giao Chỉ có nhiều đan sa bèn tìm đến Quảng châu, lưu ngụ ở núi La Phù luyện đan và hái cây thuốc, mở ra vùng thánh địa Đạo giáo ở Lĩnh Nam. Cát Hồng sống ở đây đến 81 tuổi mới qua đời. Người ta dựng ở đây Xung Hư cổ quán thờ Cát tiên ông và Bão tiên cô (vợ Cát Hồng).

    Công tích lớn nhất của Cát Hồng trong Đạo giáo là thành quả về thuật luyện đan, năm 35 tuổi, ông đã hoàn thành bộ “Bão Phác tử” gồm 70 quyển, xác định cơ sở địa vị trong lịch sử Đạo giáo, đây là tác phẩm đại biểu của Cát Hồng. “Bão Phác” có nghĩa là giữ cái chân tính gốc, không bị dụ hoặc bởi ngoại vật, như Lão Tử* nói: “Phác thực đơn thuần, ít tư lợi bỏ tham lam” (Kiến tố bão phác, thiểu tư quả dục - chương 19). Suốt đời Cát Hồng sống theo ý chỉ ấy, không hề thẹn với cái tên “Bão Phác tử”.

    Tuy tuyên dương sự tồn tại của thần tiên và chủ trương thông qua việc luyện đan để trở thành thần tiên, nhưng Cát Hồng cũng đã từng quả quyết “Số phận của ta là do ta không do trời” (Ngã mệnh tại ngã bất tại thiên - Hoàng bạch thiên) biểu lộ tinh thần tích cực của ông trên con đường đi tìm sự trường sinh.

    Cát Hồng học rộng nhiều tài, có cống hiến lớn đối với y học, khoa học kỹ thuật (thực nghiệm hóa học) ở Trung Quốc cổ đại. Sau khi ông chết, dần dần cuộc đời ông được thần tiên hóa, trong dân gian lưu truyền nhiều câu chuyện thần thánh về ông như có tài chữa được ôn dịch, trừ tà ma quỷ quái v.v... Ngày nay ở Trung Quốc vẫn còn nhiều đạo quán tự viện thờ tượng ông, trong Đạo giáo sử, địa vị của Cát Hồng có ảnh hưởng rất lớn.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  7. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    CHÂN VÕ ĐẠI ĐẾ


    Núi Võ Đang ở Hồ Bắc là nơi thắng tích nổi tiếng của Đạo giáo Trung Quốc. Đây chính là đất phát tích thờ phụng Chân Võ đại đế. Trải qua nhiều công cuộc xây dựng kiến trúc nhiều triều đại. Đến đời Minh, trên Võ Đang sơn đã có một quần thể kiến trúc Đạo giáo với các đạo quán miếu vũ trùng điệp. Trong số ấy có tòa Kim điện, bên trong có tượng đồng của Chân Võ đáng coi là tác phẩm đúc đồng kỳ tuyệt.

    Chân Võ đại đế uy phong lẫm làm với hình tượng khoác ngoài là một chiếc áo đen, tay cầm kiếm báu, chân đạp lên quy xà (hình tượng hai con rắn và rùa quấn chặt vào nhau), hai bên là hai vệ sĩ cầm cờ đen và kim đồng ngọc nữ. Thế nhưng nguyên hình của Chân Võ lại là hai loại thú bò sát - hợp thể của rắn và rùa. Hình dạng hợp thể rắn và rùa (quy xà) lại có nguồn gốc từ tín ngưỡng sùng bái tinh tú của người xưa.

    Trung Quốc cổ đại chia các hằng tính trên bầu trời ra làm 28 ngôi sao gọi là “Nhị thập bát tú” rồi chia 28 ngôi sao ấy làm bốn tổ hợp đông, tây, nam, bắc, mỗi phương hướng gồm 7 ngôi sao phối hợp với bốn hình tượng: Đông phương thanh long (rồng xanh), Nam phương chu tước (chim sẻ đỏ), Tây phương bạch hổ (cọp trắng), Bắc phương huyền võ (rùa và rắn), gọi là “tứ tượng” với chi tiết phân bố tên sao như sau:

    ① Chòm 7 sao Thanh Long phương đông: Giốc, Cang, Đê, Phòng. Tâm, Vĩ, Cơ.

    ② Chòm 7 sao Huyền Võ phương bắc: Ngưu, Đẩu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

    ③ Chòm 7 sao Bạch Hổ phương tây: Khuê, Lâu, Vị, Ngang, Tất, Tuy, Sâm.

    ④ Chòm 7 sao Chu Tước phương nam: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

    Quy Xà là thần linh nổi tiếng thời cổ, Quy là một trong “tứ linh” (Long, Phụng, Lân, Quy), cũng được coi là một linh vật có thần tính, hai con vật bò sát này được người xưa sùng bái. 7 ngôi sao Huyền Võ phương bắc được tưởng tượng thành hình rắn và rùa quấn vào nhau. Đầu tiên, Huyền Võ, Thanh Long, Chu Tước và Bạch Hổ cùng là thần hộ pháp của Đạo giáo và chỉ là loại thần nhỏ bình thường. Sau đó Huyền Võ vượt lên một cách khác thường, dần dần biến thành Đại thần Đạo giáo và được coi là thần thống soái phương bắc theo lệnh Ngọc Hoàng đại đế.

    Đế vương lịch đại phong cho Huyền Võ các chức Chân quân, Đế quân càng làm hình tượng Huyền Võ được đề cao. Đến Hoàng đế đời Tống vì kỵ húy tổ tiên mình là Triệu Huyền Lãng nên đổi Huyền Võ thành Chân Võ, rồi được sử dụng đến ngày nay. Huyền Võ từ thần tinh tú biến thành Thần động vật rồi lại được Nhân thần hoá, được Đạo giáo phủ cho một lớp thần tích siêu phàm.

    Sách Đạo giáo chép: Thời Hoàng đế, Huyền Võ thác sinh vào thánhthai của Thiện Thắng Hoàng hậu nước Tĩnh Lạc, chui ra từ nách trái Hoàng hậu, lớn lên tướng mạo dũng mãnh. Vị Thái tử ấy không thích nối tiếp ngôi vua mà bỏ nhà đi học đạo, được Tử Nguyên quân truyền trao bí pháp và được Thiên thần trao cho kiếm báu, vào núi Võ Đang tu luyện, đến năm 42 tuổi thành tiên lên trời, phụng lệnh Ngọc đế trấn thủ phương bắc với chức Huyền Thiên thượng đế. Các miếu thờ Chân Võ đế xây dựng khắp nơi, nhưng thánh địa được coi là “tổ miếu” tức Kim điện ở núi Võ Đang.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  8. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    CHUNG LY QUYỀN


    Hệ thống truyền thừa của “Bát tiên” cực hỗn loạn, ai đứng đầu trong “Bát tiên”? Có nhiều cách: Người đời Nguyên Minh thường cho rằng đắc đạo đầu tiên nhất là Hán Chung Ly, vì vậy Hán Chung Ly mới là người đứng đầu Bát tiên chứ không phải là Lý Thiết Quài.

    Các truyền thuyết thần tiên liên quan tới Hán Chung Ly khá nhiều, theo sách “Liệt tiên toàn truyện” đại thể như sau: Hán Chung Ly tức Chung Ly tử đời Hán, họ kép là Chung Ly, tên Quyền, người Hàm Dương, Kinh Triệu (nay thuộc Thiểm Tây). Chung Ly Quyền lại có hiệu là Vân Phòng tiên sinh. Cha ông, Chung Ly Chương là Đại tướng Đông Hán, lập công lớn đánh rợ Hồ được phong là Yên Đài hầu. Anh ông, Chung Ly Giản là Trung lang tướng.

    Sự thực, đây là sự bịa đặt tô vẽ cho xuất thân của Chung Ly Quyền và hoàn toàn là sự tuyên truyền của Đạo giáo, lịch sử không hề có ai tên là Chung Ly Chương và Chung Ly Giản. Chung Ly Quyền từ nhỏ đã biết tốt xấu “lòng dường như có cán cân” vì vậy được đặt tên là “Quyền”. Chữ “Quyền” này có nghĩa gốc là quả cân, tên ông, như vậy hàm nghĩa “giỏi tính toán”.

    Sau khi vị “giỏi tính toán” ấy lớn lên, tướng mạo tuấn tú, thân cao tám thước, đúng là một nam tử nhân tài. Không lâu sau ông được giữ chức Gián Nghị đại phu trong triều. Đương thời, Thổ Phồn làm phản, Chung Ly Quyền vâng lệnh xuất chinh. Tên gian thần Lương Kýsợ ông lập công lớn nên cấp cho ông hai vạn quân già yếu. Tuy Chung Ly Quyền có tài hơn người nhưng thực sự không có tài cầm quân, ông bị địch quân đánh cho tan tành, phải trốn chạy một mình vào trong núi sâu. Ở hiền gặp lành, giữa rừng núi Chung Ly Quyền lạc đường, tình cờ gặp Hồ tăng dẫn ông vào một thôn làng, bảo: “Đây là nơi ở của Đông Hoa tiên sinh, tướng quân cẩn thận đấy”. Nói xong Hồ tăng bái biệt bỏ đi. Không lâu, một lão nhân mặt áo lông cừu trắng chống gậy đến hỏi: “Có phải tướng quân nhà Hán, Chung Ly Quyền đó không? Sao ông không ở lại đây?”.

    Chung Ly Quyền kinh ngạc, biết gặp dị nhân bèn xin cầu học đạo. Đây chính là Đông Hoa tiên sinh, tên gọi là Vương Huyền Phủ, là một bậc thượng tiên. Vương Huyền Phủ truyền cho Chung Ly Quyền chân quyết trường sinh, kim đan và Thanh Long kiếm pháp. Cuối cùng Chung Ly Quyền đắc đạo thành chân tiên trong núi Không Động.

    Từ đó về sau Chung Ly Quyền lúc ẩn lúc hiện, đến tận đời Đường ông mới xuất hiện độ hóa cho Lã Động Tân. Chung Ly Quyền có phải là người thật trong lịch sử hay không? Thực ra, đời Đường cũng có một người tên là Chung Ly Quyền, trong sách Toàn Đường thi có ba bài tuyệt cú ghi tên tác giả họ Chung này và phụ ghi vắn tắt tiểu sử: “Người ở Hàm Dương, gặp lão nhân truyền bí quyết, lại gặp Hoa Dương chân nhân thượng tiên Vương Huyền Phủ, truyền đạo vào núi Không Động, tự hiệu Vân Phòng tiên sinh. Sau thành tiên".

    Xét về thơ, Chung Ly Quyền quả là một đạo sĩ phóng đãng, thích uống rượu, tự xưng là một người nhàn tản nhất thiên hạ: “Thiên hạ đô tản hán”. Thuyết nói Chung Ly Quyền là người đời Hán hoàn toàn lẫn lộn.

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 17/6/24 lúc 20:36
    Wanderman thích bài này.
  9. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    CỬU THIÊN HUYỀN NỮ


    Cửu Thiên Huyền Nữ cũng được gọi là Cửu Thiên, Huyền Nữ, Cửu Thiên nương nương, là một nữ thần trong thần thoại Trung Quốc cổ đại, sau này được Đạo giáo tôn thờ, trở thành một vị nữ tiên nổi tiếng rất có ảnh hưởng trong dân gian.

    Trong bộ tiểu thuyết “Thủy Hử truyện”* có chép về tiên nữ ấy như sau: Hồi thứ 42, sau khi Tống Giang được các bạn Lương Sơn cướp pháp trường đưa lên núi, lại quay về đón cha và em, chẳng may bị quan quân phát hiện. Trong lúc hoảng hốt trốn chạy, Tống Giang chạy vào miếu Huyền Nữ. Quan quân tìm vào trong miếu, Huyền Nữ hiển linh thổi ra một luồng gió lạ, cát bụi mịt mù, mây đen chụp xuống khiến bọn quan quân sợ hãi bỏ chạy. Huyền Nữ sai hai tiên nữ áo xanh mời Tống Giang đến gặp và trao cho 3 quyển thiên thư và chỉ dạy cách khởi nghĩa trừ tà.

    Sự thật, tiên nữ Cửu Thiên Huyền Nữ vốn có gốc nguồn từ phong tục thờ vật tổ “Huyền điểu” đời Ân Thương, như chứng minh trong bài Huyền điểu, phần Thương tụng, Kinh Thi*: “Trời sai chim huyền xuống sinh ra nhà Thương, ở đất Ân to lớn, khi xưa trời đã sai khiến Thành Thang, cai trị cả thiên hạ bốn phương ấy” (Thiên mệnh huyền điểu, giáng nhi sinh Thương, trạch Ân thổ mang mang, cổ đế mệnh Vũ Thang, chính vực bỉ tứ phương).

    Theo truyền thuyết kể rằng, nàng Giản Địch, con gái họ Hữu Nhung được chim Huyền điểu tặng cho một trứng, nàng nuốt vào bụng rồi sau sinh ra ông Tiết, tức ông tổ của nhà Thương (theo Sử ký* và Lã thị Xuân Thu*). Huyền điểu này sau hóa thân thành Huyền Nữ, được sáp nhập vào thần thoại đời Hoàng đế, giúp Hoàng đế đánh thắng Xuy Vưu. Về sau Huyền Nữ đã bị Đạo giáo thần thánh hóa, biến thành một nữ tiên hay cứu khốn phò nguy và được nhân dân tôn thờ lập miếu điện ở khắp mọi nơi, gọi là Huyền Nữ miếu hay Nương Nương miếu.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  10. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    HÀ TIÊN CÔ


    Hà tiên cô là một trong Bát tiên, truyền thuyết cho rằng là người ở huyện Tăng Thành, Quảng châu, vốn tên là Hà Tú Cô, sinh ngày 7 tháng 2 năm Võ Tắc Thiên đời Đường. Vị tiểu thư họ Hà này yểu điệu thục nữ và xinh đẹp đến nỗi có biệt danh là: “Tây Thi đậu hũ” (Đậu hũ Tây Thi) vì cha nàng có mở cửa hàng bán đậu hũ. Từ thuở nhỏ nàng đã giúp cha buôn bán, lúc 13, 14 tuổi, một lần nàng đi chơi ngoài đồng hoang, tình cờ gặp các tiên nhân là Lý Thiết Quài, Lã Động Tân, Trương Quả Lão vân du đến đó. Các bậc thần tiên ấy tặng cho nàng một trái đào tiên, táo tiên và một chút vân mẫu phiến, từ đó nàng không còn biết đói khát là gì và có khả năng đoán trước được tương lai, họa phúc của người khác.

    Người trong làng rất tin phục nàng,họ xây cho nàng một toà lầu nhỏ để nàng cư trú, họ thường tìm đến xin nàng xem số mệnh, thậm chí không ít sĩ đại phu cũng là khách thường đến hỏi nàng. Từ đó tên “Hà tiên cô” thay thế tên Hà Tú Cô. Tương truyền, Đại tướng Bắc Tống là Địch Thanh trước khi đi đánh Quảng Nguyên cũng tìm đến bói ở nàng và kết quả không sai gì với lời nàng tiên đoán. Kỳ thực, không thể có chuyện Địch Thanh sống ngược lại 300 năm trước để gặp Hà tiên cô, chỉ có thể gieo quẻ để hỏi nơi đền thờ Hà tiên cô mà thôi.

    Điều khá thú vị là ở Quảng Đông (huyện Tăng Thành) đã có Hà tiên cô, mà Quảng Tây, Phúc Kiến, Chiết Giang, An Huy, Hồ Nam mỗi nơi cũng có “Hà tiên cô” nữa, nhưng hình như chỉ có "Hà tiên cô" ở Tăng Thành mới là “chính hiệu”. Huyện Tăng Thành có tòa Hà tiên cô miếu nổi tiếng, đến nay vẫn còn. Tương truyền, cuối cùng Hà tiên cô “trở về cõi tiên” ngay ở cái giếng trước cửa nhà mình, chỉ mang theo một chiếc hài thêu, còn một chiếc để lại trên miệng giếng. Mỗi năm tới ngày sinh của Hà tiên cô, nơi đây rất náo nhiệt thiện nam tín nữ đến cầu tài cầu phúc.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  11. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    HÀN TƯƠNG TỬ


    Hàn Tương Tử vốn tên là Hàn Tương, là chắt của Hàn Dũ*, đại văn học gia, Hình bộ Thị lang đời Đường. Theo phần Tể tướng thế gia biểu sách Đường thư, Hàn Tương đúng là chắt của Hàn Dũ, đậu Tiến sĩ niên hiệu Trường Khánh thứ 3 (823), quan chức tới Đại lý thừa, nhưng sách sử không chép gì đến việc Hàn Tương học đạo thành tiên cả. Hàn Dũ từng viết tặng người chắt Hàn Tương ba bài thơ nhưng trong đó cũng chẳng hề nhắc gì tới đạo thuật của Hàn Tương.

    Trái lại, có người tên Diêu Hợp viết bài “Đáp Hàn Tương thị”, trong ấy có mấy câu: “Ông ở chốn danh trường, nhiều lần tranh đều thua” (Tử tại danh trường trung, lũ chiến hoàn lũ bội) và “Ba mươi đậu khoa cao, tương lai lớn khó đoán” (Tam thập đăng cao khoa, tiền đồ hạo nan trắc). Những câu ấy đâu có mùi vị gì khác thường? Đúng như sau này Du Việt* đời Thanh xác nhận: Hàn Tương là “kẻ sĩ cố giữ lấy công danh, đời gọi là tiên không đúng sự thực”.

    Sự thực, Hàn Dũ cũng có một người cháu (không phải chắt) theo học Đạo thuật, người cháu này tên Hàn Tương từng tặng Hàn Dũ đôi câu đối: “Mây che Tần lĩnh nhà đầu tá? Tuyết lấp Lam quan ngựa chẳng đường" (Vân hoành Tân lĩnh gia hà tại, tuyết ủng Lam quan mã bất tiền). Lúc được tặng câu đối này, Hàn Dũ kinh ngạc không hiểu ý cháu muốn nói gì. Sau này, Hàn Dũ dâng biểu can ngăn Đường Hiến tông đừng nịnh Phật rước “Phật cốt”, làm Hiến tông nổi giận, biếm Hàn Dũ đi làm Thứ sử ở Triều Châu xa xôi.

    Hàn Dũ đi giữa đường gặp một người đội tuyết đến xin gặp, đó là Hàn Tương, người cháu hỏi: “Chú còn nhớ câu đối cháu đã tặng năm xưa chứ? Đó là cháu nói việc hôm nay đấy”. Hàn Dũ hỏi thăm thì địa danh ở đây chính là “Lam quan” (ải Lam). Hàn Dũ than thở một lúc và tin Hàn Tương không nói khoác. Dịp này Hàn Dũ làm bài thơ tặng Hàn Tương:

    Nhất phong triêu tấu cửu trùng thiên,
    Tịch biếm Triều Châu lộ bát thiên.
    Dục vị thánh minh trừ tệ sự,
    Khẳng tương suy hủ tích tàn niên.
    Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại?
    Tuyết ủng Lam Quan mã bất tiền.
    Tri nhữ viễn lai ưng hữu ý,
    Hảo thu ngô cốt chướng giang biên.

    *​

    Mới sớm dâng lên tấu một chương
    Chiều đày ngàn dặm tới Triều Dương.
    Mối tệ triều đình mong trừ khử
    Tuổi già suy nát há nào thương
    Mây che Tần Lĩnh nhà đâu tá?
    Tuyết lấp Lam quan ngựa chẳng đường
    Biết cháu xa tìm nên để ý
    Cạnh bãi sông kia nhặt nắm xương.

    Đây là bài “Bị giáng đổi đi xa, đến Lam quan, dặn lại cháu tên Tương” (Tả thiên chí Lam quan thị điệt tôn Tương). Hiển nhiên câu chuyện Hàn Tương tử đoán trước “Tuyết lấp Lam quan” là suy diễn từ bài thơ này, chỉ nên được coi là giai thoại bịa đặt để tự tuyên truyền cho mình của Đạo giáo.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  12. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    HẬU THỔ ĐỊA CHI


    Hậu Thổ là một trong các thiên đế quan trọng của Đạo giáo, tên gọi đầy đủ là: “Thừa thiên hiệu pháp Hậu đức quang đại Hậu Thổ hoàng địa chi”, phối hợp cùng với Ngọc Hoàng đại đế trên cõi trời và được gọi chung là “Thiên công địa mẫu” (cha trời mẹ đất).

    Tín ngưỡng sùng bái đất đai thuộc vào tín ngưỡng sùng bái tự nhiên trong tông giáo nguyên thủy. Thực tế, tín ngưỡng sùng bái đất còn ra đời sớm hơn cả tín ngưỡng sùng bái trời. Tông giáo diễn biến, bất cứ dân tộc nguyên thủy nào trước hết đều thân thiết với đất rồi sau đó mới thờ kính trời. Đất đai là nguồn gốc cung cấp nhiều tài nguyên cho đời sống con người, áo mặc, ăn uống, cư trú, làm việc đều không thể tách rời khỏi đất đai. Do vậy, cho đến nay chúng ta vẫn còn cách nói “Đất đai là mẹ của nhân loại”.

    Nhân dân cổ đại sống dựa vào đất, rất biết ơn đất đồng thời lại sợ đất nổi giận (như các trận địa chấn), không cung cấp lương thực cho con người và vạn vật (như xảy ra các tai nạn hạn hán hay lụt lội), do đó nảy sinh ra tín ngưỡng kính thờ Thần đất, và để đền đáp công ơn của đất, họ tổ chức những buổi tế lễ dâng cúng. Cũng vì vậy, thời xưa mỗi lần hưng binh động chúng hay đem quân đi chinh phạt, nhất định phải tổ chức đại tế Hậu Thổ, cầu xin được Thần đất che chở giúp đỡ. Sau khi đánh thắng trận có nhiều bộ lạc dùng tù binh để tế lễ Thần đất, đó là một nghi thức tông giáo nguyên thủy có phần dã man.

    Lai lịch của “Hậu Thổ” cũng có ít nhiều hỗn tạp, có người cho “Hậu Thổ” là tên người, có người cho là tên Thần, cũng có người cho là tên của một chức quan. Âu đó cũng là hiện tượng tất nhiên khi một vị Thần tự nhiên diễn biến thành Thần nhân cách.

    Sách Quốc ngữ phần Lỗ ngữ và cho biết thần Hậu Thổ là con của Cộng Công nhưng bản chú giải sách Lễ ký* lại nói là con của Chuyên Húc, còn thần thoại truyền thuyết cho rằng Hậu Thổ là Khoa Phụ đuổi mặt trời (theo trong Sơn Hải kinh*). Nhưng tất cả Hậu Thổ ấy đều là phái nam, làm sao lại có thể trở thành phái nữ được?

    Trong triết học Âm Dương của Trung Quốc cổ đại có quan niệm cho rằng Trời là Dương, Đất là Âm, do vậy Hậu Thổ từ tối sơ là nam thần, đến sau đời Tùy dần dần biến thành nữ thần để thờ phối hợp với Hoàng đế. Trong các đền miếu, Hậu Thổ được đắp thành tượng nữ thần và dân gian cũng thường tục gọi là “Hậu Thổ nương nương”. Nghiên cứu nghĩa gốc của từ “Hậu Thổ”, chắc là nữ thần có phần đúng, nghĩa đầu tiên của chữ “Hậu” là chỉ phái nữ. Trong chữ Giáp Cốt chữ Hậu vẽ thành hình người nữ. Thời cổ đại, mọi dân tộc đều chỉ biết mẹ, đó là xã hội mẫu hệ nguyên thủy. Còn chữ Thổ, theo nghĩa chữ trong sách Thích danh giải thích: “Thổ là phun ra, có khả năng phun sinh ra muôn vật” (Thổ, thổ dã, năng thổ sinh vạn vật dã), do vậy người sinh ra con được gọi là mẹ, mẹ sinh ra muôn vật được gọi là Thổ. Theo cách nói của cổ nhân gọi là “Đất là mẹ” (Địa vi mẫu - Hậu Hán thư*). Tóm lại, từ “Hậu Thổ” xét về bản nguyên chính là chỉ “Thần mẹ của đất đai” tức “Địa mẫu”.

    Từ đời Tần Hán, đế vương các triều đại đều thờ bái Hậu Thổ, đến đầu tháng 9 niên hiệu Chính Hoà thứ 6 đời Bắc Tống (năm 1116), Tống Huy tông chính thức phong Hậu Thổ thần là “Thừa thiên hiệu pháp Hậu đức quang đại Hậu Thổ hoàng địa chi” và quy định quy cách tế lễ giống như tế lễ Ngọc đế. Các đạo sĩ cho rằng Thần Hậu Thổ cai quản việc âm dương sinh sản và coi đây là một vị Nữ Thiên đế làm chủ khắp núi non đất đai.

    Các đạo quán ngày nay vẫn thường có Hậu Thổ điện và các đền riêng thờ Hậu Thổ nương nương.

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 20/6/24 lúc 09:17
    Wanderman thích bài này.
  13. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    HỨA CHÂN QUÂN


    Trong tiểu thuyết “Tây Du ký” có miêu tả thế giới Thần quái Tiên Phật rất rộng lớn kỳ dị. Đại đa số các thần quái ấy có ảnh hưởng rộng rãi trong dân gian, trong ấy nổi tiếng nhất là 4 vị Đại thiên sư hộ vệ Ngọc Hoàng ở Linh Tiêu bảo điện, gồm Trương Đạo Lăng*, Cát Hồng*, Hứa Tốn và Khâu Xứ Cơ*. Cả 4 vị này đều là người có thực và đều là những đạo sĩ cao cường của Trung Quốc cổ đại.

    Chức Thiên sư trong Đạo giáo, đương nhiên cao nhất là thuộc về Trương Đạo Lăng, người sáng lập Đạo giáo bởi vì sau khi dựng lên Đạo giáo, Trương Đạo Lăng ngụy xưng được Thái Thượng lão quân phong cho chức “Thiên sư”. Thực ra đó chỉ là chức vụ do ông tự đặt ra. Sau đó Đạo giáo cũng gọi những người có đạo thuật và người đi truyền đạo là Thiên sư. Ở phần này giới thiệu riêng về Hứa Thiên sư Hứa Tốn.

    Hứa Tốn (239-374) là đạo sĩ nổi tiếng đời Đông Tấn, sống đến 135 tuổi. Đừng nói ở vào thời ấy, ngay ngày nay, với nhiều tiến bộ về y học thì tuổi thọ như thế cũng là hiếm có. Hứa Tốn tên tự Kính Chi, người ở Đương Nam (nay thuộc Hà Nam), sau dời về ở Nam Xương. Hứa Tốn rất ham thích săn bắn, một hôm ông vào rừng săn nai, bắn trúng một con nai mẹ, thai của con nai bị thương sẩy rơi xuống đất, con nai mẹ đau khổ liếm bào thai, sau đó mới tắt thở. Chứng kiến cảnh đau thương ấy, Hứa Tốn tỉnh ngộ, ông bẻ cung tên, từ đó không bao giờ săn bắn nữa mà chuyên tâm học tập. Ông thông hiểu kinh sử, biết thiên văn địa lý, sấm vĩ, càng giỏi tu luyện thuật thần tiên. Nghe đồn có Ngô Mãnh là người giỏi đạo thuật, ông tìm đến bái sư và học được bí pháp Đạo giáo.

    Niên hiệu Thái Khang nguyên niên đời Tấn (280), Hứa Tốn thi đậu Hiếu liêm, được giữ chức quan Huyện lệnh Tinh Dương huyện (nay là huyện Đức Dương, Tứ Xuyên), vì vậy ông còn có tên là Hứa Tinh Dương. Hứa Tốn làm quan thanh liêm, chuyên cần, hết lòng vì dân chúng, có rất nhiều truyền thuyết về lòng yêu dân của ông chép trong các sách Đạo gia.

    Biết trước triều nhà Tấn sắp loạn, ông từ quan xin về và đi vân du khắp nơi với danh sĩ Ngô Mãnh. Niên hiệu Thái Thủ thứ 2 đời Tấn Minh đế (324), Trấn Đông Đại tướng quân là Vương Đôn làm phản. Hứa Tốn và Ngô Mãnh vào gặp ông ta can ngăn nhưng Vương Đôn không nghe, nổi giận định giết, Hứa Tốn và Ngô Mãnh phải dùng thuật ẩn thân mới trốn đi được. Sau đó quả nhiên Vương Đôn thất bại và chết.

    Công tích lớn nhất của Hứa Tốn là chém rắn cứu dân ở vùng nam sông Trường Giang. Theo truyền thuyết Đạo giáo, đến năm 135 tuổi Hứa Tốn mới “vũ hóa” thành tiên. Tuy vậy ông vẫn giáng trần khi có cầu đảo để dùng quyền phép cứu độ dân chúng tai qua nạn khỏi. Hiện nay ở Trung Quốc vẫn còn nhiều đạo quán thờ Hứa Tốn.

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/6/24 lúc 09:22
    Wanderman thích bài này.
  14. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    KHÂU CHÂN NHÂN


    Trong tiểu thuyết thần ma “Tây Du ký”*, các thần tiên phụ tá Ngọc Hoàng đại đế có một nhóm bốn vị thần tiên họ Trương, Cát, Hứa, Khâu được gọi là “Tứ Thiên sư”. Bốn vị Thiên sư này trong lịch sử là những nhân vật có thật, tức Trương Thiên sư Trương Đạo Lăng*, Hứa Thiên sư Hứa Tốn*, Cát Thiên sư Cát Hồng* đã được đề cập tới ở tiểu mục riêng. Ở đây xin giới thiệu Khâu Thiên sư Khâu Xứ Cơ.

    Khâu Xứ Cơ (1148-1227) là đạo sĩ nổi tiếng thời kỳ Kim, Nguyên, vị này được Nguyên Thái tổ Thành Cát Tư Hãn tôn xưng là “Khâu thần tiên", nhưng thân thế của ông lại có nhiều truyền thuyết khác nhau. Có thuyết cho ông xuất thân trong một thế gia vọng tộc ở Sơn Đông, nhưng nhiều thuyết lại cho ông xuất thân trong một gia đình nông dân, mẹ cha mất sớm, lớn lên nhờ sự nuôi dạy của anh chị. Thuở trẻ ông được đi học, thông minh biết nhiều nhưng không có chí công danh, rất yêu thích tĩnh mịch, thường ngồi một mình suốt ngày.

    Ông cực yêu thích đời sống Đạo giáo và có tư tưởng thoát ngoài thế tục như câu trả lời chị dâu: “Người ta ở đời suốt ngày tranh danh đoạt lợi, tham vợ yêu con, vạn nhất sự Vô thường đến, muôn việc thành không. Người cho rằng việc đời đều là thật, còn ta coi nó như sương sớm mây nổi” (Nhân sinh tại thế, chung nhật tranh danh đoạt lợi, tham thê luyến tử, vô thường nhất đáo, vạn sự giai không. Nhân dĩ vị thế sự giai chân, ư ngã thị chi như phù vân triêu lộ). Sau đó ông bèn bỏ nhà đến núi Côn Lôn Ninh Hải (nay ở đông nam Sơn Đông) tu hành.

    Lúc ấy, Tổ sư Toàn Chân đạo là Vương Trùng Dương đến Sơn Đông truyền đạo, nổi tiếng một thời. Khâu Xứ Cơ hâm mộ đến xin bái Vương Trùng Dương làm thầy, trải qua nhiều lần khảo nghiệm, Khâu Xứ Cơ được Tổ sư thâu làm đệ tử với đạo hiệu Trường Xuân Tử. Vương Trùng Dương sáng lập Toàn Chân đạo, ngoài việc để xướng tam giáo hợp nhất, về phương pháp tu trì, ông bỏ thuật luyện đan, phù thủy cũ, thực hành “Tính mệnh song tu”, trước tu luyện Tính, sau tu luyện Mệnh, tức tu luyện nội đan Tinh, Khí, Thần.

    Ngộ tính của Khâu Xứ Cơ rất cao, ông hiểu được tinh túy của thầy liền và trở thành một trong bảy đệ tử của Vương Trùng Dương (Mã Ngọc, Đàm Xứ Đoan, Lưu Xứ Huyền, Khâu Xứ Cơ, Vương Xử Nhất, Hách Đại Thông, Tôn Bất Nhị). Sau khi tổ sư Vương Trùng Dương qua đời, Khâu Xứ Cơ và Mã Ngọc, Đàm Xứ Đoan, Lưu Xứ Huyền hộ tống linh cữu tổ sư về an táng ở Chung Nam, sau đó 4 người chia nhau đi truyền đạo khắp nơi.

    Khâu Xứ Cơ không về quê cũ ở Sơn Đông mà tới Bàn Khê ở hướng tây (nay là vùng phụ cận Bảo Khê). Khâu Xứ Cơ khổ tu 6 năm ở Bàn Khê, ngày ăn một bữa, mặc một áo tơi, được gọi là “Thôi y tiên sinh” (vị thầy áo tơi). Khâu Xứ Cơ khổ tu ở Bàn Khê nhưng tên tuổi vẫn lan xa khiến khá nhiều tín đồ đến bái yết cầu đạo, trong số ấy không ít người là bậc quan quý. Từ đó về sau, Khâu Xứ Cơ lìa bỏ Bàn Khê, tìm đến Long Môn, Lũng châu ẩn cư tu đạo, trở thành người khai sáng Long Môn phái của Toàn Chân đạo.

    Sau khi Vương Trùng Dương qua đời, 7 đại đệ tử đều lập môn phái riêng nhưng Long Môn phái vẫn có ảnh hưởng sâu rộng nhất, thế lực mạnh nhất. Long Môn phái chủ trương thanh tâm quả dục, lấy tu đạo làm gốc, cho rằng không sinh một niệm xấu là tự do, trong tâm không có vật là Tiên Phật. Khâu Xứ Cơ cũng sửa đổi chủ trương không vào con đường quan quyền của Vương Trùng Dương, phục vụ cho triều đình. Đây là điểm làm cho Khâu Xứ Cơ có liên hệ đến thế lực thống trị lúc ấy. Do nỗ lực của 7 đại đệ tử, Toàn Chân giáo phát triển rất mạnh dưới triều Kim, nhân dân đua nhau theo đạo Toàn Chân.

    Đối với sự phát triển quá mau ấy, Hoàng đế Thế tông triều Kim rất lo lắng, đã từng hạ chiếu tiến hành hạn chế nhưng không có hiệu quả bao nhiêu, vì thế Thế tông liền đổi thủ đoạn, tìm cách lung lạc và lợi dụng. Niên hiệu Đại Định thứ 27 (1187), một trong 7 đệ tử của Vương Trùng Dương là Vương Xứ Nhất bị gọi đến kinh sư, Kim Thế tông hỏi về đạo dưỡng sinh. Hai năm sau lại gọi Khâu Xứ Cơ về kinh, xin được hỏi về “chí đạo”. Khâu Xứ Cơ thấy thời cơ đã đến, bên làm lễ cầu đảo cho triều đình rồi về Sơn Đông xây dựng “Thái Hư quán” rộng lớn. Thời Chương tông, trong cuộc đấu tranh của các phi tần nội cung, sủng phi Lý Sư Nhi được Toàn Chân đạo giúp đỡ, sau đó bà phi này trả ơn bằng cách cấp cho Khâu Xứ Cơ và Vương Xử Nhất hai đạo quán riêng.

    Nhưng không lâu sau, Thành Cát Tư Hãn đem quân thiết kỵ quét sạch đất Sơn Đông, vùng Tề Lỗ đại loạn, quân phản Kim nổi dậy khắp nơi. Triều Kim cho sứ giả mời Khâu Xứ Cơ về triều bàn việc lớn, ông cự tuyệt. Sau đó, triều Nam Tống cũng mời ông tới Lâm An, ông cũng từ chối. Thế nhưng sau đó ông lại vui vẻ đáp ứng lời mời của Thành Cát Tư Hãn ở mãi tận Mông Cổ Tây Vực, phải trải qua vài ngàn dặm đường, mất 3 năm đi đường đến gặp Thành Cát Tư Hãn, năm ấy Khâu Xứ Cơ đã 72 tuổi. Nhờ chiếm được cảm tình của Thành Cát Tư Hãn, Toàn Chân đạo cũng chiếm được rất nhiều đặc quyền. Nhãn quang của Khâu Xứ Cơ trong vấn đề này phải nói là rộng lớn, dường như ông đã biết trước Thành Cát Tư Hãn sắp thống nhất gồm thâu thiên hạ nên ông không vâng lời mời của hai triều Kim và Nam Tống.

    Nhờ Khâu Xứ Cơ, Toàn Chân đạo bước vào thời kỳ cực thịnh, xây dựng cung quán điện vũ khắp nơi. Toàn Chân đạo được khai sáng bởi Vương Triết Vương Trùng Dương, nhưng làm cho nó phát dương quang đại, hiển hách một thời, chính là nhờ có Khâu Trường Xuân Khâu Xứ Cơ.

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/6/24 lúc 20:36
    Wanderman thích bài này.
  15. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    LAM THÁI HÒA


    Lam Thái Hòa nguyên hình vốn là một chàng lưu lãng có chút ít tài khí. Sự tích của chàng được chép trong nhiều sách, dưới đây là trích trong sách “Tục tiên truyện”:

    Lam Thái Hòa không rõ là người ở đâu, thường mặc áo màu xanh lam rách, đeo dây lưng rộng ba tấc hơn, một chân đi hài một chân không. Mùa hè Lam Thái Hòa thường mặc áo độn thêm bông, mùa đông lại nằm dưới tuyết, khí nóng trong người bốc lên ngùn ngụt. Mỗi khi vào chợ ca vang, tay cầm gậy dài hơn 3 thước, vừa say vừa hát, người ta đều kinh ngạc xúm lại coi. Chàng lanh lẹ hài hước, ai hỏi gì trả lời ngay tức thì, giống như điên cuồng mà không phải… lời ca rất nhiều điều hàm ý vị thần tiên khiến người thường không hiểu hết được. Nhưng ai cho tiền chàng liền xâu vào dây dài kéo lê dưới đất hoặc vất tung toé khắp nơi, hoặc cho lại người nghèo, hoặc đem đổi rượu chu du thiên hạ.

    Hành trạng của Lam Thái Hòa như vậy chẳng khác gì Bố Đại hòa thượng hay Tế Điên tăng. Chỉ khác chút ít, Lam Thái Hòa là một chàng mê ca xướng, nổi tiếng nhất là bài “Đạp ca”.

    ĐẠP CA LAM THÁI HÒA

    Thế giới năng kỷ hà?
    Hồng nhan nhất xuân thọ
    Lưu niên nhất trịch thoa
    Cổ nhân cổn cổn khứ bất phản
    Kim nhân phân phân lai cách đa
    Triêu kỵ loan phụng đảo Bích Lạc
    Mộ kiến tang điền sinh bạch ba
    Trường cảnh minh huy tại không tế
    Kim ngân cung khuyết cao sa nga.


    *​

    Thế giới ai bằng ta?
    Mặt hồng xuân một nhánh
    Năm tháng trôi như thoa
    Người xưa dằng dặc đi không lại
    Người nay ùn ùn đến nhiều a!
    Sớm cưỡi loan phụng về Bích Lạc
    Chiều thấy ruộng dâu biến sóng òa
    Cảnh đẹp huy hoàng cõi trống rỗng
    Vàng ròng cung điện cao vọt xa.

    Theo nhiều tài liệu khác, bài Đạp ca trên đây là tác phẩm của ẩn sĩ đời Nam Đường là Trần Đào. Có tư liệu bảo Lam Thái Hòa chính là Trần Đào, Lam Thái Hòa chỉ là nghệ danh vì ông ta là diễn viên tạp kịch. Tên thật của diễn viên Lam Thái Hòa là Hứa Kiên, Hứa Kiên là người có thực, tên tự Giới Thạch, người ở Lư Giang. Sách “Toàn Đường thi” có chép thơ của Hứa Kiên. Đến đời Thanh có người lại phụ hội cho rằng đó là Lam Thái Hà và tô vẽ thành nữ tiên, đó chỉ là việc mua cười...

    Tóm lại, Lam Thái Hòa chỉ là một đạo sĩ hành khất lưu lãng giang hồ đùa chơi không có gì nghiêm túc cả.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  16. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    LÃ ĐỘNG TÂN


    Trong hàng ngũ Bát tiên, Lã Động Tân tuy không phải là “anh cả” đứng đầu nhưng ảnh hưởng của ông hơn hẳn 7 vị tiên kia, các miếu thờ 7 vị tiên cùng nhóm với ông hiện còn rất ít, riêng miếu thờ Lã Động Tân đâu đâu cũng có và được tôn xưng là “Lã tổ miếu”. Trong lịch sử, Lã Động Tân là người có thực, ông là một đạo sĩ nổi tiếng thời kỳ cuối Đường, Ngũ đại, họ Lã tên là Nham, tên hiệu Thuần Dương Tử, người ở Vĩnh Lạc phủ Hà Trung (nay là Vĩnh Tế, Sơn Tây).

    Thuở nhỏ, Lã Động Tân rất thích học kinh sử nhưng đi thi Tiến sĩ nhiều lần không đậu, ông bèn vào cõi giang hồ ẩn dật. Truyền thuyết, ông gặp Chung Ly Quyền trong một quán rượu ở Trường An, trải qua 10 lần thử thách, Chung Ly Quyền trao truyền cho ông thuật trường sinh và đan dược, nhờ vậy ông đắc đạo pháp. Lại có truyền thuyết ông gặp Hỏa Long chân nhân, được truyền dạy Thiên Độn kiếm pháp. Ông dùng kiếm thuật chặt đứt phiền não, sắc dục, tham sân.

    Ông có ảnh hưởng nhất định với sự phát triển Đạo giáo đời Tống. Toàn Chân giáo Đạo giáo tôn xưng ông là một trong “Bắc ngũ tổ” (5 vị tổ sư phương bắc (Toàn Chân giáo) gồm Vương Huyền Phủ, Chung Ly Quyền, Lã Nham, Lưu Tháo, Vương Trùng Dương) và được người đời gọi là “Lã tổ” hay “Thuần Dương tổ sư”.

    Trong truyền thuyết dân gian, Lã Động Tân là bậc thần tiên gồm đủ tài “Kiếm tiên”, “Tửu tiên”, “Thi tiên”, "Sắc tiên”. Lã Động Tân bỏ Nho học Đạo chống kiếm vân du, ra tay cứu khổn phò nguy, trừ bạo an dân. Ông rất ham mê uống rượu, nổi tiếng say sưa, ngày nay, ở Lạc Dương lâu vẫn còn “tiên tích” “Đình ba lần say” (Tam túy đình). Lã Nham còn là một thi nhân có đến vài trăm bài thơ và từ để lại. Đồng thời ông còn là một “thần tiên trăng hoa” (Hoa thần tiên) nổi tiếng, truyền thuyết nhiều nhất là vụ Lã Động Tân ba lần bỡn cợt Bạch Mẫu Đơn (tên gọi một kỹ nữ).

    Những truyền thuyết kể trên hỗn tạp giữa thật và giả, rất khó biết rõ sự thực, nhưng dù sao trong lòng mọi người, Lã Động Tân vẫn là một thần tiên đa tình, có nhiều đạo quán mượn tên ông để phân phát thuốc chữa bệnh tên là “Lã tổ dược phương”. Trong tín ngưỡng dân gian ông có vị trí khá cao, được coi tương đương với Quan Thế Âm, Quan đế.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  17. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    LÝ THIẾT QUÀI


    Lý Thiết Quài (hoặc Thiết Quài Lý) trong truyền thuyết là đứng đầu “Bát tiên”. Liên quan đến tên tuổi và thời đại của ông có nhiều thuyết không thống nhất, ví dụ ông có tới 7 tên khác nhau, thời đại và nơi cư trú của ông cũng có đến 6, 7 thuyết.

    Sách “Bát tiên xuất xứ đông du ký” đời Minh thuật lại xuất xứ của Lý Thiết Quài như sau: Thiết Quài họ Lý tên Huyền, Thiết Quài là biệt danh của thân giả sau này. Lý Huyền hâm mộ đạo Lão Tử, tìm vào núi Hoa Sơn cầu đạo với Lão Tử. Lý Thiết Quài vốn là nhân vật truyền thuyết, không có thực trong sử truyện nên bịa ra tên tuổi và thời đại ông sống chẳng có gì kỳ lạ. Thế nhưng tên hiệu Lý Thiết Quài lại được lưu truyền rất rộng rãi trong dân gian. Người ta rất hứng thú có lẽ vì hình dạng đen đúa gầy ốm, vừa xấu xí vừa tàn tật (thọt chân) nên không để ý gì đến tên tuổi, quê quán của ông nữa.

    Riêng sách “Liệt tiên toàn truyện” cho rằng ông vốn là một vị trượng phu cao lớn tướng mạo đường đường. Lúc ông tu hành trong động núi Đãng Sơn muốn bái Lão Tử và Uyển Khâu tiên nhân làm thầy. Trước khi ra đi tìm hai vị thầy ấy, ông nói với đồ đệ: “Ta muốn đến núi Hoa Sơn, nếu ta xuất hồn đi 7 ngày không quay trở về thì các con hãy mang xác ta thiêu hóa đi".

    Truyền thuyết ông cất hồn vào gan, cất phách vào phổi, còn Nguyên thần thoát ra đem theo hồn, chỉ để phách lại thể xác, đó gọi là “Nguyên thần xuất xác”. Sau đó Nguyên thần của Lý Thiết Quài đến Hoa Sơn gặp Lão Tử, học trò ở lại đêm ngày canh giữ xác sư phụ. Không ngờ đến ngày thứ sáu, người nhà đệ tử đến báo tin mẹ ở nhà bệnh rất nguy cấp, người đệ tử hết sức nên nóng nhưng vẫn cố giữ xác thầy đến trưa hôm sau, không thấy hồn sư phụ quay trở về. Không sao được, người đệ tử đành phải thiêu xác sư phụ rồi vội quay về nhà lo cho mẹ.

    Không lâu sau, Nguyên thần của Lý Thiết Quài trở về, thấy mất xác thì rất hoảng sợ. Đột nhiên ông phát hiện trong rừng có một xác người mới chết đói, linh cơ chợt động, ông nghĩ: “Mượn đây cũng được!”. Lập tức ông chui vào xác ấy làm sống dậy, lúc ấy mới biết xác này xấu xí quá, ông vội dốc viên tiên đan do Lão Tử tặng, đựng trong hồ lô ra. Đột nhiên trong hồ lô bắn ra một luồng sáng vàng, trong luồng sáng bước ra một người “mặt đen đầu rối, râu xoắn mắt to, thọt một chân phải, hình dạng cực kỳ xấu xí”. Đang lúc kinh ngạc, sau lưng bỗng có tiếng vỗ tay, ông quay đầu nhìn lại thì ra đó là sư phụ Lão Tử.

    Lý Thiết Quài không thích tướng mạo xấu xí ấy, đang định xuất hồn ra thì Lão Tử ngăn lại, nói: “Đạo hạnh không phải ở tướng mạo bên ngoài, hình dạng ngươi như vầy càng tốt. Ta có trâm vàng gỡ tóc rối và gậy sắt đỡ chân thọt cho ngươi đây, chỉ cần ngươi đầy đủ công phu ắt thành tiên nhân dị tướng”. Đó chính là lai lịch của Lý Thiết Quài.

    Ảnh hưởng của Lý Thiết Quài trong dân gian rất lớn nhưng chủ yếu ông vẫn nằm trong quần thể 7 vị tiên khác, có lẽ vì truyền thuyết ông có hồ lô đựng thuốc tiên cứu bệnh nên ông được dân gian đặc biệt thờ kính. Ngoài ra, Lý Thiết Quài còn được coi là tổ sư của cái bang khất thực, có lẽ do vì ông có gậy sắt chống chăng?

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  18. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    MA CÔ


    Ở phía nam huyện thành Giang Tây có núi Ma Cô cảnh sắc tú lệ, là Động thiên thứ 28 trong 36 Động thiên Đạo giáo với tên gọi hoàn toàn là “Ma Cô sơn Đan hà Uyển lăng động thiên” và cũng là Phúc địa thứ 10 trong 72 Phúc địa Đạo giáo. Nơi động thiên phúc địa này vốn là sở hữu của nữ tiên Ma Cô, tương truyền bà đã từng ẩn cư đắc đạo thành tiên ở đây.

    Ma Cô là một nữ thọ tiên trong truyền thuyết Trung Quốc. “Ma Cô hiến thọ” là một đề tài quan trọng của tranh dân gian Trung Quốc, nhưng tiểu sử lai lịch của Ma Cô lại có nhiều thuyết khác nhau. Sách “Thần tiên truyện” nói rằng có một người ở Đông hải tên là Vương Phương Bình, làm quan, tinh thông thiên văn lịch pháp, sau đó bỏ quan vào núi tu đạo và trở thành người tiên. Vương Phương Bình có em gái tên là Ma Cô, rất xinh đẹp, tuổi chừng 18, 19. Bản lãnh của nàng có chỗ hơn người: một là có thể đi guốc gỗ lướt trên mặt nước chẳng khác gì Tổ sư Đạt Ma cỡi bè lau vượt sông; hai là nàng có thể gieo gạo biến thành đan sa.

    Lại còn một thuyết, Ma Cô là con gái của Ma Thu, người Hậu Triệu đời “Thập lục quốc”. Ma Thu là một tướng lãnh tàn bạo nổi tiếng trong lịch sử, đương thời, trong dân gian có con trẻ khóc đêm, mẹ chúng thường dọa nạt: “Ma Hồ đến kìa!”. Ma Hồ tức Ma Thu vì y là người Hồ. Ma Thu bắt rất nhiều dân phu đến xây cất thành trì, bắt họ làm suốt ngày đêm, chỉ đến gần sáng có tiếng gà gáy mới cho nghỉ chốc lát.

    Ma Cô rất đồng tình với những dân phu lao khổ ấy nên lén học bắt chước tiếng gà gáy, khi nàng gáy lên, bọn gà gáy theo, dân phu liền được nghỉ sớm. Sau đó Ma Hồ biết chuyện, đuổi Ma Cô đi, nàng vào núi tu đạo thành nữ tiên. Thuyết này chép trong sách "Liệt tiên toàn truyện".

    Ma Cô từng tự nhận chính mình đã nhìn thấy ba lần biển đông biến thành ruộng dâu. Một lần biển xanh biến thành ruộng dâu không biết phải trải qua bao nhiêu ngàn vạn năm, thế mà nàng đã 3 lần nhìn thấy cảnh tượng ấy, vậy nàng thọ đến bao nhiêu tuổi? Tuy có nói nàng xinh đẹp như thiếu nữ 18, 19 nhưng tuổi thực tế của nàng không cách nào tính được, chính điều đó làm cho nàng trở thành một nữ thọ tiên. Trong dân gian lại có truyền thuyết vào ngày sinh nhật mồng 3 tháng 3 của Vương mẫu nương nương, có tổ chức Hội Bàn đào, Ma Cô chính là người dùng Linh Chi ngâm rượu dâng tặng lên Vương Mẫu, đó chính là điển cố “Ma Cô hiến thọ”.

    Ngày nay, hình tượng Ma Cô đã được hội họa và mỹ thuật phẩm tô vẽ nhiều, có khi nàng được vẽ bay trên mây, trên lưng hạc, có khi cưỡi lưng hươu đứng cạnh cây tùng, cũng có khi đứng thẳng dâng lễ vật có đào tiên hay rượu tiên. Xưa kia có tục chúc thọ nữ giới thường tặng bức tranh “Ma Cô hiến thọ”, còn chúc thọ nam giới thường tặng tranh “Nam Cực tiên ông” (tức Thọ tinh).

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  19. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    PHÚC THẦN


    Khái niệm về “Phúc” rất rộng, Phúc có thể giải thích là Phúc vận, Phúc khí, Hạnh phúc v.v... Từ xưa đã có cách nói “Trong năm điều phúc, thọ đứng đầu” (Ngũ phúc thọ vi tiên). Theo thiên Hồng Phạm trong Kinh Thư*, Ngũ Phúc là: “Một là sống lâu, hai là giàu có, ba là mạnh khoẻ bình yên, bốn là ưa đức tốt, năm là về già được trọn đời không rủi ro tội vạ” (Nhất viết thọ, nhị viết phú, tam viết khang ninh, tứ viết du hiếu đức, ngũ đức khảo chung mệnh), lại có thuyết nói Ngũ phúc là: “Sống lâu, giàu có, quý hiển, an lạc, nhiều con cháu” (Thọ, phú, quý, an lạc, tử tôn chúng đa - theo Hoàn Đàm)... Tóm lại, Phúc là điều ai cũng mong muốn và là mục tiêu lớn nhất trong đời một người. Do vậy Phúc thần liền ra đời để đáp ứng lòng mong ước ấy. Người ta ai ai cũng chân thành lễ bái, hy vọng phúc đến nhà mình và kéo dài mãi mãi.

    Phúc thần có nguồn gốc từ Phúc tinh, mà Phúc tinh tức Tuế tinh và cũng là Mộc tinh. Các thuật sĩ cho rằng Tuế tinh có khả năng chiếu phúc lộc xuống cho dân, sau đó Phúc tinh dần dần được nhân cách hóa, nhưng suy đến cùng, Phúc thần được phụ hội thành người từ lúc nào thì lại có nhiều truyền thuyết.

    Đời Đông Hán, Trương Lăng sáng lập Đạo giáo, ảnh hưởng rất lớn. Sau khi Trương Lăng chết, con là Trương Hành tiếp tục truyền đạo, nỗ lực nêu tín ngưỡng về “Tam quan”. Tam quan tức Thiên quan, Địa quan và Thủy quan. Mỗi lúc tín đồ có bệnh, Trương Hành khuyên họ không nên tìm thầy thuốc, cũng không nên uống thuốc, chỉ cần “cầu đảo” nơi “Tam quan” là sẽ khỏi bệnh ngay, cách cầu đảo được chép trong lời chú Trương Lỗ truyện sách Tam quốc chí* như sau: “Chép tên tuổi người bệnh, nói ý chịu tội của mình rồi chia làm 3 phần, một phần dâng lên trời cất trong núi, một phần chôn dưới đất, một phần cho chìm dưới nước, gọi là “Tam quan thủ thư”. Hành vi này gọi là Thiên quan tứ phúc, Địa quan xá tội, Thủy quan giái ách.

    Truyền thuyết này còn lưu truyền đến nay, nhất là hình ảnh “Thiên quan tứ phúc” rất được dân gian hoan nghênh, vì vậy người ta thường thờ Thiên quan như một vị thần ban Phúc. Đề tài “Thiên quan tứ phúc” này trở thành một nội dung quan trọng trong các tranh thờ đầu năm mới và ngày nay được đồng hóa với Phúc thần, vẫn được treo trên bàn thờ trong mọi nhà ở Trung Quốc.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  20. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN


    Số lượng các thần Hộ pháp trong Đạo giáo rất nhiều, nổi tiếng nhất là Tứ đại Nguyên soái họ Mã, Triệu, Ôn, Quan. Mã là Linh Quan Mã nguyên soái - Mã Thiên quân, Triệu là Triệu Công nguyên soái Triệu Công Minh hay Triệu Huyền Đàn, Ôn là Ôn nguyên soái Ôn Quỳnh, Quan là Quan Thánh đế quân Quan Vũ hay Quan đế hoặc Quan công.

    Nếu hỏi: Ở Trung Quốc loại đền miếu thờ ai nhiều nhất? Chắc chắn câu trả lời phải là miếu thờ Quan Thánh đế quân hay gọi tắt là Quan Đế miếu. Lấy Bắc Kinh làm ví dụ, ở Bắc Kinh miếu nhiều nhất vẫn là Quan Đế miếu, theo thống kê sơ bộ đạt tới 200 miếu, chiếm tỉ lệ 1/10 tổng số miếu vũ toàn quốc. Quan Đế miếu (Quan miếu) thờ bậc thần minh nước Thục đời Tam quốc là Đại tướng Quan Vũ, tục gọi Quan công.

    Từ đời Ngụy đến đời Đường ảnh hưởng của Quan Vũ trong dân gian không lấy gì làm lớn, từ đời Tống về sau uy danh của ông mới càng ngày càng nổi lên. Đời Tống phong ông làm “Nghĩa Dũng Võ An vương”, triều Minh gia phong là “Tam giới phục ma đại đế thần uy viễn trấn thiên tôn Quan thánh đại đế”. Tước phong của ông thậm chí còn vượt cao hơn cả đế vương trần gian vì trong lịch sử chưa có Hoàng đế nào tự xưng là “Đại đế” cả!

    Sự thực, lúc còn sống phong hàm cao nhất của Quan Vũ chỉ là chức “Tiền tướng quân” với tước vị cao nhất là “Hán Thọ Đình hầu”. Trong giờ phút quyết định, đến ngay mạng sống của mình Quan Vũ còn không bảo toàn được, hoàn toàn không có gì gọi là “thần thông” cả. Sau khi trở thành vị thần cao cấp được quốc gia thờ tự, Quan công được cả hai tông giáo Phật và Đạo kéo về phe mình làm thần Hộ pháp, để làm mạnh thêm thanh thế. Thời đại Minh, Thanh, Quan Vũ cực hiển hách, được tôn xưng là “Võ Thánh nhân”, nghiễm nhiên đứng ngang hàng với “Văn Thánh nhân” Khổng Tử*, vì vậy Quan miếu cũng được gọi là Võ miếu.

    Dân gian tin tưởng Quan đế có rất nhiều thần lực ban lộc, giúp thi cử đỗ đạt, trị bệnh trừ tà, tuần sát âm ti, thậm chí đem đến tiền của, che chở cho buôn bán nữa. Do đó nhân gian từ nam phụ lão ấu đều lễ bái Quan Thánh đế quân như một vị “Vạn Năng thần”.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
Moderators: amylee

Chia sẻ trang này