... HUYỄN HÓA TÔNG Một học phái Phật giáo Trung Quốc, với đại biểu là Đạo Nhất. Quan điểm cơ bản của học phái này là: “Mọi chư pháp đều giống như huyễn hóa không có thật, vì giống huyễn hóa nên có tên là “Thế đế”. Tâm thần chân chính không phải là không, đó là nghĩa đầu tiên vì nếu như Thần là không thì làm sao thi hành đạo được? Ai là người tu đạo? Khác người thường lên bậc thánh nên biết Tinh Thần không phải là không” (Nhất thiết chư pháp, giai đồng huyễn hóa, đồng huyễn hóa cố danh thế đế. Tâm thần do chân bất không, thị đệ nhất nghĩa. Nhược thần phục không, giáo hà sở thi? Thùy tu đạo? Cách phàm thành thánh, cố tri thần bất không - An Trừng, Trung luận sớ ký). Như vậy có nghĩa là một cách nói khác của mệnh đề “Thần bất diệt”, tuy khác với tông chỉ của Không tông Bát Nhã nhưng thể hiện được đắc sắc của Phật giáo Trung Quốc. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link ← Click icon này sẽ chuyến về Index... ...
... LÂM TẾ TÔNG Tông phái Phật giáo Trung Quốc, một trong “ngũ gia” Thiền tông hậu kỳ thuộc hệ phái Nam Nhạc. Người sáng lập tông phái này là Nghĩa Huyền, từng trước sau theo học với Hoàng Bá Hi Vận, Đại Ngu, Linh Hựu, sau được Hi Vận ấn khả, đến Lâm Tế thiền viện ở Hà Bắc, Trấn châu (nay thuộc tỉnh Hà Bắc) khai mở tông phái, thu nhận đệ tử, hình thành Lâm Tế tông. Ông chủ trương “Nhân cảnh đều đoạt" (Nhân cảnh câu đoạt) với mục đích hồi quang phản chiếu, quay lại soi xét bản tâm để cầu giải thoát. Đặc điểm Thiền pháp của ông là “Tùy duyên trừ nghiệp cũ, thuận vận mặc áo quần” (Tùy duyên tiêu cựu nghiệp, nhiệm vận trứ y thường) tuân theo chủ nghĩa tự nhiên “xúc loại thị đạo” của hệ phái Nam Nhạc với các phạm trù “Tứ liệu giản”, “Tứ tân chủ”, “Tứ chiếu dụng” (Đây là các phạm trù về phân biệt và chọn lựa). Phong cách độc đặc của tông phái này là dạy các đệ tử bằng gậy và hét: “Cơ lớn dùng lớn thoát võng lưới, ra khỏi khuôn sáo cũ, (lúc ấy thì) hổ lồng, rồng bay, sao chạy, điện loé” (Đại cơ đại dụng thoát la lung, xuất khoa cữu, hổ sậu, long bôn, tinh trì, điện kích). Lâm Tế tông đến đời Bắc Tống chia ra hai phái Dương Kỳ và Hoàng Long, và truyền đến Nhật Bản. Đây là tông phái lưu truyền dài lâu nhất trong “ngũ gia” cho đến cận đại vẫn còn pháp mạch, có ảnh hưởng lớn nhất. ...
... LUẬT TÔNG Một tông phái Phật giáo Trung Quốc. Nhân vì nghiên cứu học tập và chủ yếu là giữ giới luật nên có tên gọi ấy. Tông phái này y cứ vào “Tứ phần luật” trong ngũ bộ luật Phật giáo nên còn được gọi là “Tứ phần luật tông”. Người sáng lập thực tế tông phái này là Đạo Tuyên, cư trú ở núi Chung Nam, vì vậy cũng gọi là “Nam sơn Luật tông”, “Nam sơn tông”. Từ thời Diêu Tần, Tứ phần luật đã được dịch ra chữ Hán, lưu hành khắp nơi, nhưng cho đến thời Tuệ Quang mới được phổ biến rộng. Tuệ Quang viết “Tứ phần luật sớ” và san định “Yết Ma giới bản" xác định cơ sở cho tông phái này. Đệ tử của Tuệ Quang là Đạo Vân truyền cho Đạo Hồng, Đạo Hồng truyền cho Trí Thủ, Trí Thủ dựa trên cơ sở Tứ phần luật sớ, khái quát phần giống và khác của các bộ, quyết định giữ hay bỏ, biên soạn thành một số quyển “Tứ phần luật sớ” mới, đời gọi là “Quảng sớ”. Ông hoằng dương Luật học hơn 30 năm, đại đa số các nhà Luật học đời Đường đều chịu ảnh hưởng của ông. Đệ tử của ông là Đạo Tuyên kế thừa mẫu mực, chuyên nghiên cứu Luật học, cư trú ở Chung Nam sơn, dốc tâm trứ thuật, soạn bộ “Tứ phần luật Tì khâu hàm chú giới bản”, lập pháp đàn, xác định nghi thức thụ giới Phật giáo, chính thức hình thành Nam sơn tông. Cùng lúc với Đạo Tuyên, có Pháp Lệ ở chùa Nhật Quang, Tương châu (nay thuộc Hà Bắc), cùng với Tuệ Hưu hợp soạn “Tứ phần luật sớ”, “Yết Ma sớ”, khai sáng Tướng Bộ tông. Ở chùa Thái Nguyên Đông Tháp có sư Hoài Tố, là đệ tử Huyền Trang, tham gia công việc dịch kinh, biên soạn “Tứ phần luật khai tông ký” 2 quyển, thâu thái các ý kiến giải thích mới trong các bộ “Đại Tì bà sa luận” và “Câu Xá luận", phê bình bác bỏ “Tứ phần luật sớ” của Pháp Lệ, gọi là “Tân sớ", khai sáng "Đông Tháp tông”. Trong ba tông phái Luật tông kể trên, hai tông Tướng Bộ tông và Đông Tháp tông tranh luận với nhau kịch liệt nhất, sau đó cả hai tông này đều dần dần suy yếu, chỉ còn lại Nam sơn tông lưu truyền, nhưng sau đời Tống cũng suy yếu. Sau này, đệ tử của Đạo Tuyên là Hoàng Cảnh du nhập Luật tông tới Nhật Bản. ...
... MẬT TÔNG Một tông phái Phật giáo Trung Quốc, cũng gọi là Mật giáo, Bí Mật giáo, Du Già mật giáo, Chân ngôn thừa. Niên hiệu Khai Nguyên thứ 4 đời Đường (716), Thiện Vô Úy đến Trung Quốc dịch khá nhiều kinh điển Mật tông, trong số ấy quan trọng nhất là bộ “Đại nhật kinh” 7 quyển, sau này sẽ trở thành bộ kinh chủ yếu của Mật tông. Nhất Hạnh là người được truyền khẩu quyết sau đó, soạn thành “Đại nhật kinh sớ” 20 quyển, chính thức mở đầu cho sự giao truyền Mật tông Trung Quốc. Sự truyền thụ trong tông phái này chủ yếu là bằng khẩu quyết giới mật. Niên hiệu Khai Nguyên thứ 8, Kim Cương Trí đến Trung Quốc, trước sau dịch 4 bộ, 7 quyển “Kim Cương đỉnh Du Già trung lược xuất niệm tụng pháp", rồi đệ tử là Bất Không lại dịch “Kim Cương đỉnh kinh”, đây cũng là bộ kinh chủ yếu được Mật tông tôn thờ. Sự truyền thừa giữa thầy và trò họ chủ yếu là Kim Cương giới mật pháp. Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí, Bất Không được gọi chung là “Khai Nguyên tam đại sĩ". Nhờ họ hoằng dương khắp nơi, dần dần hình thành một tông phái lấy tu trì mật pháp làm chủ – Mật tông. Nghĩa lý của tông phái này là “Lục đại duyên khởi", chủ trương sắc và tâm là một (Sắc tâm bất nhị). Chúng sinh theo pháp tu trì “Tam mật gia trì” để “Tức thân thành Phật”. Kinh điển của họ rất nhiều, nghi lễ cách thức phức tạp. Trung Quốc hiện bảo tồn các bản dịch kinh Mật tông với số lượng rất nhiều và chất lượng rất cao, là nguồn tư liệu quý giá để nghiên cứu Mật tông Ấn Độ và Trung Quốc. Ở vùng Tây Tạng, Trung Quốc hiện nay, Mật tông thông hành được gọi là “Tạng Mật”, pháp môn của họ có “Đại viên mãn”, “Đại thủ ấn” v.v... Niên hiệu Trinh Nguyên thứ 20 (824), tăng sĩ Nhật Bản là Không Hải đến triều Đường học Phật pháp, được Huệ Quả trao truyền hai bộ Mật pháp Kim Cương giới và Thai tạng giới. Sau khi trở về nước, Không Hải sáng lập Chân Ngôn tông, chủ yếu phụng trì Kim Cương giới Mật tông, được gọi là “Đông Mật”, giáo nghĩa hơi giống với Mật tông Trung Quốc. Sau đó, các tăng sĩ Nhật Tối Trừng, Viên Nhân, Viên Trân trước sau sang Trung Quốc học Mật, trở về nước hoằng dương truyền giáo, gọi là “Thai Mật” chủ yếu phụng trì Thai tạng giới Mật tông. – Từ đó Mật giáo thịnh hành ở Nhật Bản. ...
... NAM NHẠC HỆ PHÁI Một hệ phái sau Thiền tông Huệ Năng thuộc Phật giáo Trung Quốc, do Hoài Nhượng khai sáng, được Mã Tổ Đạo Nhất và các môn đệ phát huy xiển dương hình thành. Nhân vì hệ phái này có thế lực hoạt động ở vùng Giang Tây Nam Xương nên còn gọi tên là “Hồng châu tông”; cùng với “Hà Trạch tông”, “Ngưu đầu tông” lập thế ba chân vạc, trở thành các hệ phái chủ yếu đời Nam Tống. Trước tiên Hoài Nhượng học ở Tung sơn Lão An thiền, sau đến Tào Khê tham bái Huệ Năng, được pháp ấn rồi cư trú ở chùa Bát Nhã Nam Nhạc hoằng dương Thiền pháp hơn 30 năm. Trong các đệ tử có Mã Tổ Đạo Nhất đứng đầu. Đạo Nhất được Hoài Nhượng truyền tâm ấn, thu đồ đệ thuyết pháp ở Giang Tây, nêu ra chủ trương “thuận hồ tự nhiên", được nhiều tín đồ và quan lại ở đó hâm mộ. Đạo Nhất hoằng dương Thiền pháp suốt vùng Hồng châu, Chung Lãng làm tông môn hưng khởi. Đệ tử của ông, Hoài Hải là người đầu tiên xây dựng “Thiền viện” ở Bách Trượng sơn, Hồng châu (nay thuộc Giang Tây), ấn định ra “quy chế thiền môn” gọi là “Bách Trượng thanh quy”. Sau đời Bách Trượng, thế lực ngày càng phát triển mạnh. Thiền Hồng châu chủ trương “Tức Tâm tức Phật” và “Phi Tâm phi Phật” với lý luận tu dưỡng “Tâm bình thường là Đạo” (Bình thường tâm thị đạo). Tinh thần của hệ phái này là tùy thuận tự nhiên. Hệ phái Nam Nhạc sau đời Bách Trượng Hoài Hải có đệ tử là Quy Sơn Linh Hựu, truyền xuống cho Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch phát triển thành “Quy Ngưỡng tông”. Bách Trượng còn một đệ tử khác là Hoàng Bá Hi Vận truyền xuống cho Lâm Tế Nghĩa Huyền, hình thành “Lâm Tế tông”. Cùng với “Vân Môn tông”, “Tào Động tông”, “Pháp nhãn tông” thuộc hệ phái Thanh Nguyên, được gọi chung là “năm nhà bảy tông” (Ngũ gia thất tông). ...
... NGŨ GIA THẤT TÔNG Tông phái Phật giáo Trung Quốc, tên gọi chung các hệ phái Thiền tông hậu kỳ. “Ngũ gia” (năm nhà) do hai hệ phái Nam Nhạc và Thanh Nguyên trước sau khai sáng ra. Hệ phái Nam Nhạc khai sáng “Quy Ngưỡng tông” và "Lâm Tế tông”, hệ phái Thanh Nguyên khai sáng “Tào Động tông", “Vân Môn tông” và “Pháp Nhãn tông”. Đó là việc ứng với câu: “Một hoa nở năm cánh, kết quả tự nhiên thành” (Nhất hoa khai ngũ diệp, kết quả tự nhiên thành). Sau này Lâm Tế tông lại chia ra “Hoàng Long phái” và “Dương Kỳ phái”, tất cả gọi gộp chung lại là “Ngũ gia thất tông”. Trong đó tư tưởng đặc điểm và phong cách của Hoàng Long phái và Dương Kỳ phái kém xa “Ngũ gia” đời trước. Ngũ gia thất tông phát triển rất khác biệt nhau, đến đời Tống chỉ còn lại hai “gia” là Lâm Tế và Tào Động. Sự thay đổi nghiêm trọng nhất là họ chủ trương “Thiền, Giáo là một” (Thiền giáo thống nhất) để những loại “Tụng cổ” “Công án” xuất hiện. ...
... NHIẾP LUẬN HỌC PHÁI Một học phái Phật giáo Trung Quốc lưu hành từ đời Trần đến đời Tùy Nam Bắc triều, nhân vì nghiên cứu học tập và hoằng dương bộ “Nhiếp đại thừa luận” nên có tên gọi ấy. Cũng gọi là “Nhiếp luận tông”, các học giả phái này được gọi là “Nhiếp luận sư”. Nhiếp đại thừa luận là trứ tác quan trọng của phái Du Già trong đại thừa Ấn Độ do Vô Trước viết phần luận, Thế Thân viết phần giải thích. Từ khi sư Chân Đế sang Trung Hoa dịch Nhiếp đại thừa luận ra chữ Hán, các nhà nghiên cứu sách này càng lúc càng nhiều, dần dần hình thành nên học phái Nhiếp luận ở phương bắc với ba hệ phái tương đối thịnh hành của Đạo Ni, Tịnh Tung và Đàm Thiên. Đạo Ni căn cứ vào tông chỉ của Chân Đế, rất nổi tiếng, niên hiệu Khai Hoàng thứ 10 đời Tùy (590), vâng chiếu đến Trường An truyền bá học thuyết Nhiếp luận ở kinh sư. Tịnh Tung tinh thông Nhiếp luận và Câu Xá, lại thông hiểu cả các kinh điển khác, ông cư trú ở chùa Sùng Thánh, Bành Thành (Từ châu) giảng Nhiếp luận, soạn “Luận sớ” và các huyền nghĩa khác, môn đồ hưng thịnh rất đông. Đàm Thiên hoằng dương Nhiếp luận ở Bành Thành dưới triều Tùy Văn đế, ông kiêm giảng cả các Kinh Lăng Già và Đại thừa khởi tín luận, phát triển học thuyết Nhiếp luận ở phương bắc, tạo ảnh hưởng rất lớn. Sau đời Tĩnh Tung, Đàm Thiên, học phải Nhiếp luận dần suy yếu, đến khi Huyền Trang hưng khởi học phái Pháp tướng Duy Thức học, Nhiếp luận bị tuyệt truyền. Đời sau có người gộp chung “Nhiếp luận học phái” và “Địa luận học phái” vào với nhau và gọi chung là “Duy Thức học thời kỳ đầu” (Tiền kỳ Duy Thức học) và gọi Pháp tướng Duy Thức học của Huyền Trang là “Duy Thức học thời kỳ sau” (Hậu kỳ Duy Thức học). Học phái Nhiếp luận vốn không có sự truyền thừa giữa thầy và trò một cách nghiêm cẩn, luận học của các nhà cũng không hoàn toàn nhất trí, chỉ dựa vào quan điểm tất cả chúng sinh đều có Phật tính gọi là Chân Như Phật tính. ...
... NIẾT BÀN HỌC PHÁI Một học phái Phật giáo Trung Quốc, lưu hành từ khoảng từ Nam Bắc triều đến đời Tùy, nhân nhờ nghiên cứu và hoằng dương Niết Bàn kinh nên có tên gọi ấy. Cũng được gọi là Niết Bàn tông, các học giả của tông phái này được gọi là “Niết Bàn sư”, mà đại biểu trứ danh hệ phái phương nam là Trúc Đạo Sinh. Trước khi kinh Niết Bàn truyền nhập phương nam, Trúc Đạo Sinh đã đề xướng tư tưởng mọi vật đều có Phật tính và viết “Đốn ngộ Phật tính luận”, được coi là vị tổ sư học phái Niết Bàn phương nam, cùng nổi tiếng ngang với môn hạ của La Thập là Tuệ Quán, chủ trương “Tiệm ngộ”. Hai người thành lập hai hệ phái lớn trong học phái Niết Bàn. Sau Đạo Sinh, Tuệ Quán, phương nam sản sinh không ít Niết Bàn sư như các ông Pháp Lãng, Bảo Xướng cùng hợp soạn sách “Đại Bát Niết Bàn kinh tập”, coi như tập đại thành học thuyết Niết Bàn các đời Tống, Tề, Lương. Chính Đạo Lãng đề bài tựa phát huy yếu chỉ huyền diệu của Niết Bàn, phát minh ý nghĩa sâu xa của Phật tính và trở thành vị Niết Bàn sư đầu tiên ở phương bắc. Từ đó về sau, từ Bắc Ngụy đến đầu đời Tùy, các Niết Bàn sư nổi tiếng liên tục xuất hiện và đều giỏi luận Niết Bàn. Sau khi triều Tùy thống nhất, học phái Niết Bàn vẫn đứng đầu Phật học lúc ấy. Từ đời Đường trở về sau, học phái Niết Bàn ở miền nam và miền bắc đều dần suy yếu, dưới áp lực của các tông phái Thiên Thai, Tam Luận mới hưng khởi lên, học phái Niết Bàn không đủ nội lực phấn phát. Học phái Niết Bàn tin thờ thuyết “Nê hoàn bất diệt, Phật hữu chân ngã; nhất thiết chúng sinh, giai hữu Phật tính” và coi Như Lai Tạng là lý luận chủ yếu, nhưng trong kinh lại giải thích Phật tính rất phân vân không thống nhất. Tuy vậy, trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, học phái Niết Bàn vẫn là một khâu quan trọng. ...
... PHÁP NHÃN TÔNG Một tông phái Phật giáo Trung Quốc, một trong “ngũ gia thất tông” Thiền tông hậu kỳ, thuộc hệ phái Thanh Nguyên. Nhân vì người khai sáng tông phái này là Văn Ích, sau khi chết được Nam Đường Trung chủ Lý Cảnh ban tên thụy “Đại Pháp Nhãn thiền sư” nên có tên gọi ấy. Văn Ích viết “Tam giới duy tâm tụng” chủ trương “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức ”và viết “Hoa Nghiêm lục tướng tụng” làm rõ ý nghĩa Lý Sự viên dung, xác định tư tưởng tông phái. Đệ tử ông là Đức Thiều đưa ra bài kệ tụng “Thông huyền tới đỉnh, chẳng phải nhân gian, ngoài tâm chẳng pháp, đầy mắt núi non” (Thông huyền phong đỉnh, bất thị nhân gian, tâm ngoại vô pháp, mãn mục thanh san) kế thừa và phát huy tư tưởng “Nhất thiết hiện thành” của Văn Ích. Đệ tử cách đời là Vĩnh Minh Diên Thọ“ đưa nhất tâm làm tông, chiếu vạn pháp như kính” (Cử nhất tâm vi tông, chiếu vạn pháp như kính), ông viết “Tâm kính lục” 100 quyển và các sách “Tâm phú chú”, "Duy tâm quyết” để xiển dương tông chỉ “tất cả đều do tâm tạo” và tư tưởng thiền, giáo thống nhất của Văn Ích. Tông phái này truyền thụ được ba đời, đến đầu đời Tống cực hưng thịnh, nhưng sau đó suy yếu hẳn, trước sau không quá 100 năm. Từ đời Tống, tông phái này được Vĩnh Minh Diên Thọ truyền vào Triều Tiên. ...
... PHẬT GIÁO TRUNG QUỐC Phật giáo phát triển tại Trung Quốc có hình thức đặc thù hoặc có thể nói là Phật giáo đã được Trung Quốc hóa. Lấy trung tâm là Phật giáo phương bắc (Trung Quốc), có thể chia ra làm Phật giáo Hán tộc, Phật giáo Tây Tạng và Phật giáo Tiểu thừa. Phật giáo truyền vào nội địa Trung Quốc vào khoảng giữa hai đời Hán, từ đó đến tận cuối đời Tam quốc, sự lưu truyền cũng chỉ chậm chạp từ từ. Đầu tiên, Phật giáo cũng chỉ được coi là một loại phương thuật thần tiên. Cuối đời Đông Hán, một số lớn kinh Phật dịch ra chữ Hán đã xuất hiện, giáo nghĩa Phật giáo bắt đầu kết hợp với tư tưởng truyền thống Trung Quốc và được truyền bá với tốc độ mau lẹ, chủ yếu là phái Thiền học tiểu thừa do An Thế Cao làm đại biểu và học phái Bát Nhã Đại thừa do Chi Sấm, Chi Khiêm làm đại biểu. Thời kỳ Ngụy Tấn, sự phát triển của Phật giáo ở Trung Quốc tiến đến một cục diện mới. Biểu hiện trong triết học, chủ yếu là học phái Bát Nhã* với “Huyền Phật kết hợp” (kết hợp giữa Huyền học và Phật học), Cưu Ma La Thập* với “Quan Hà chi học”, tư tưởng “Triệu luận” với đại biểu Tăng Triệu*, cho đến nhân quả báo ứng luận và tư tưởng thần bất diệt luận của Phật học Tuệ Viễn*. Thời kỳ Nam Bắc triều, Phật giáo Trung Quốc đã phát triển đến cao trào đầu tiên, lúc này, theo sự gia tăng mạnh của nhiều kinh điển được phiên dịch, rất thịnh hành phong trào chỉ chuyên học một kinh nào đó, xuất hiện liên tục các đại sư chỉ chuyên giảng một thuyết như Niết Bàn, Tì Đàm, Thành Thật, Địa luận, Nhiếp luận v.v... mà chủ yếu là thuyết “Niết Bàn Phật tính” với đại biểu trứ danh là Trúc Đạo Sinh*. Phật giáo trải qua 4, 5 thế kỷ lưu truyền và phát triển ở Trung Quốc, đến các đời Tùy, Đường là tới đỉnh cao, hình thành một số tông phái: Thiên Thai tông*, Tam luận tông*, Pháp tướng Duy Thức tông*, Luật tông*, Hoa Nghiêm tông*, Mật tông*, Tịnh Độ tông*, Thiền tông* v.v... và truyền bá sang các nước Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, hình thành một vùng văn hóa Phật giáo Á châu. Các tông giáo và học phái có nhiều điểm rất khác nhau, đó chính là tiêu chí của đặc điểm căn bản của Phật giáo Trung Quốc. Sau đời Đường, Phật giáo bắt đầu suy yếu. Các đời Tống, Nguyên, Minh, Thanh, Phật giáo càng sa sút nhiều. Tư tưởng của các tông phái, do vì giữa các tông phái với nhau cho đến “tam giáo” càng ngày càng dung hợp, giới hạn khác biệt ngày càng mơ hồ. Đến lúc này về tư tưởng triết học Phật giáo, có 3 điểm đáng chú ý: ① Vấn đề Tâm tính trở thành trọng tâm của triết học. ② Các tông phái đều có xu thế dung hợp với nhau. ③ Khuynh hướng điều hòa với các tư tưởng Nho, Đạo càng rõ ràng. Đó là 3 điểm phản ánh đặc điểm tưởng triết học của Phật giáo Trung Quốc hậu kỳ. Trong khi đó, ở vùng cư trú của Tây Tạng và vùng cư trú của dân tộc Thái Vân Nam hình thành “Tây Tạng Phật giáo” và “Thái tộc Tiểu thừa Phật giáo”. Trong quá trinh phát triển lâu dài, Phật giáo Trung Quốc có ảnh hưởng lớn rộng đến mọi giai tầng xã hội, là một bộ phận quan trọng cấu tạo nên văn hóa truyền thống Trung Quốc. Nó không ngừng thích ứng với nhu cầu của xã hội phong kiến Trung Quốc. Về đại thể, Phật giáo đã điều hòa được các thế lực bên ngoài, dung hòa được với các tư tưởng bản địa bên trong, diễn biến phát triển theo quỹ đạo từ phiền phức đến giản dị, từ đó cấu tạo nên diện mạo cơ bản của sự phát triển tư tưởng Phật giáo Trung Quốc, biểu hiện được tính cách điển hình đặc biệt. Về các mặt hình thái, phương pháp và hệ thống lý luận nó đều khác với Phật giáo Ấn Độ. Đặc điểm ấy đã bắt rễ trong thổ nhưỡng văn hóa và kinh tế, chính trị riêng biệt của Trung Quốc, có nguồn gốc từ ý thức tâm lý dân tộc, phương pháp tư tưởng và phong tục tập quán của người Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc vẫn được coi là quốc gia có số lượng kinh Phật và sử liệu văn hóa Phật giáo hoàn bị vào hạng nhất. Chẳng những nhiều nhất về văn bản Phật kinh chữ Hán (Đại tạng kinh), mà còn lưu giữ cả bản Đại tạng kinh bằng chữ Tây Tạng, Mông Cổ, Mãn Châu. Ngoài ra, Trung Quốc còn bảo tồn được nhiều tư liệu Phật điển “Nam truyền Phật giáo” (chữ Pali), là kho tàng quý giá của thế giới. Trong quá trình phát triển của Phật giáo, đã tạo ảnh hưởng làm phong phú mọi lĩnh vực: âm nhạc, vũ đạo, hội họa, kiến trúc, văn học, nghệ thuật v.v... của Trung Quốc. ...
... QUY NGƯỠNG TÔNG Tông phái Phật giáo Trung Quốc, một trong “ngũ gia thất tông” Thiền tông hậu kỳ, thuộc hệ phái Nam Nhạc. Nhân vì các người khai sáng tông phái này là Linh Hựu ở Quy Sơn (Hồ Nam) và đệ tử là Tuệ Tịch ở Ngưỡng Sơn (Giang Tây), trước sau truyền giáo sáng lập tông phái nên có tên gọi ấy. Tư tưởng cơ bản của Quy Ngưỡng tông là chia thế giới chủ quan và khách quan ra làm “Tam chủng sinh”, tức “Tưởng sinh”, “Tướng sinh” và “Lưu chú sinh”. Tưởng sinh trỏ tư duy chủ quan, cho rằng “Tưởng sinh là bụi, thức tình là dơ bẩn” (Tưởng sinh vi trần, thức tình vi cấu), cần phải lìa xa nó mới đạt được tới giải thoát. Tướng sinh trỏ cảnh giới suy nghĩ tới, cần phải “Hồi quang một phá liền quay lại, mộng kín mở ra mắt rõ ràng” (Hồi quang nhất kích tiện quy khứ, u mộng nhất khai song nhãn minh). Lưu chú sinh tức là quá trình sinh diệt không hề gián đoạn, do vậy “Tam chủng sinh đều là bụi bặm dơ bẩn, nếu có thể làm cho trong sạch thì mới được tự tại” (Tam chủng sinh câu thị trần cấu, nhược năng tĩnh tận, phương đắc tự tại). Về lý luận tu hành, tông phái này tuân theo tông chỉ “Lý Sự như như” của hệ phái Nam Nhạc với chủ trương chính “Phương viên mặc khế”, họ dùng Phương viên (vuông tròn) đại biểu cho Sự và Lý, viên tức Lý, phương tức Sự, Lý Sự viên dung. Về mặt thực tiễn tông giáo đưa ra quan điểm: “Cha từ con hiếu, trên ra lệnh dưới tuân theo; người muốn ăn cơm ta liền bưng canh, người muốn qua sông ta liền chèo thuyền” (Phụ từ tử hiếu, thượng lệnh hạ tòng, nhĩ dục ngật phạn, ngã tiện bổng canh, nhĩ dục độ giang, ngã tiện sanh thuyền) thể hiện phong cách “tùy thuận tự nhiên” của hệ phái Nam Nhạc. ...
... TAM LUẬN TÔNG Một tông phái Phật giáo Trung Quốc, vì lý luận căn cứ vào 3 bộ “Trung luận”, “Bách luận”, và “Thập nhị môn luận”, nên có tên gọi ấy. Người sáng lập thực tế tông phái này là Cát Tạng. Hệ thống truyền thừa như sau: Cưu Ma La Thập → Tăng Triệu → Tăng Lãng → Tăng Thuyên → Pháp Lãng → Cát Tạng. Cưu Ma La Thập dịch rất nhiều bộ kinh, phần lớn có quan hệ tới Tính Không Bát Nhã, với hàng ngàn đệ tử, hình thành đoàn thể học thuật Phật giáo trung tâm Trường An có tên gọi là "Quan Hà chi học”, trong số hàng ngàn đệ tử ấy, Tăng Triệu* là người xuất sắc và được coi là “người hiểu tính Không hàng đầu” (Môn hạ giải Không đệ nhất), còn Cát Tạng được tôn xưng là “Thủy tổ của Huyền tông” (Huyền tông chi thủy). Học phái này sau đó được Tăng Lãng truyền bá, truyền nhập xuống phương nam. Tăng Lãng cư trú ở chùa Sái Hà, Nhiếp sơn hoằng dương giáo nghĩa Tam luận, thu nhận môn đồ, trong số các môn đồ có Tăng Thuyên là người đạt tới thành tựu nối tiếp hệ thống của thầy. Tăng Thuyên cư trú ở chùa Chỉ Quán, Nhiếp sơn được đời gọi là “Sơn trung sư” hay “Chỉ Quán Thuyên”, suốt đời ông chỉ giảng Tam luận và kinh Ma Ha Bát Nhã, coi “Trung luận” là trung tâm chính giải của Bát Nhã. Môn hạ của Tăng Thuyên rất nhiều, đặc sắc nhất là Pháp Lãng. Pháp Lãng phụng sắc cư trú ở chùa Hưng Hoàng, được gọi là “Hưng Hoàng đại sư” giáo hóa lan rộng khắp nơi, thu nhận môn hạ hầu như khắp nước. Phần lớn học giả Tam luận dưới các đời Trần, Tùy đều là học trò của Pháp Lãng. Nhưng xây dựng thành học thuyết Nhiếp lĩnh sơn lại chính là Cát Tạng. Đầu tiên Cát Tạng cư trú ở chùa Gia Tường, Cối Kê (nay là Thiệu Hưng, Chiết Giang), mở rộng giảng đường, học trò đến hỏi đạo thường hơn số ngàn, được đời gọi là “Gia Tường đại sư”, sau đó ông được Tùy Dượng đế mời đến cư trú ở chùa Tuệ Nhật, Dương châu và chùa Nhật Nghiêm, Trường An; viết sớ giải Tam luận và các sách “Tam luận huyền nghĩa”, "Đại thừa huyền luận”, “Nhị đế nghĩa”. Đời ông đã giảng Tam luận hàng trăm lần, hoàn thành hệ thống học thuật Tam luận tông, hình thành một tông phái đầu tiên trong Phật giáo sử Trung Quốc, học thuật Tam luận thịnh hành đầu đời Đường, sau đó khi các học phái tông giáo Duy Thức*, Hoa Nghiêm*, Thiền Tông* kiến lập và lưu hành, Tam luận tông dần dần suy yếu. Trung tâm lý luận của Tam luận tông là thuyết Trung đạo thực tướngtrong chư pháp tính Không, không phân biệt Đại Tiểu thừa. Giới học thuật cho rằng Tam luận tông không phải là “tông phái” thuần túy mà thực chất là học phái. Năm 625, đệ tử Cát Tạng là Tuệ Quán người Cao Ly du nhập Tam luận sang Nhật Bản lần đầu tiên. Tam luận tông lưu hành rộng ở Nhật Bản dưới thời đại Nại Lương. ...
... TÀO ĐỘNG TÔNG Một tông phái Phật giáo Trung Quốc, một trong “ngũ gia thất tông” Thiền tông hậu kỳ, thuộc hệ phái Thanh Nguyên. Nhân vì các người khai sáng tông phái này là Lương Giới ở Động sơn, Quân châu (nay là Nghi Phong, Giang Tây) và Bản Tịch ở Tào sơn, Phủ châu (nay là Nghi Hoàng, Giang Tây) trước sau truyền pháp sáng lập nên có tên gọi ấy. Tào Động tông kế thừa tư tưởng “Tức sự nhi chân” của Hi Thiên*, chú trọng do việc cá biệt (Mạt) hiển thị ra Lý (Bản), chủ trương Sự và Lý viên dung (Thể dụng viên dung). Lương Giới từng chứng minh sự quan hệ giữa Sự và Lý, dùng hình tượng “Ánh sáng giữa ban đêm” (Dạ bán chính minh) để chứng minh hình dung trong tối có sáng và hình tượng “Trời sáng không lộ ra” (Thiên hiểu bất lộ) để miêu tả trong sáng có tối, phát huy tinh thần quán thông Lý Sự của Hi Thiên trong sách “Tham đồng khế”. Tào Động tông nêu cao tinh thần “Gia phong tế mật, ngôn hành tương ứng, tùy cơ lợi vật, tựu ngữ tiếp nhân” biểu hiện sự kết hợp giữa tông giáo và thực tiễn. Tông phái này lưu truyền trong một thời gian dài ở Trung Quốc và vẫn tồn tại từ sau đời Tống đến nay. Tào Động tông được truyền nhập vào Nhật Bản từ đời Nam Tống. ...
... THANH NGUYÊN HỆ PHÁI Một hệ phái sau Thiền tông Huệ Năng thuộc Phật giáo Trung Quốc, do Hành Tư khai sáng, được Hi Thiên và các môn đệ phát huy xiển dương hình thành. Hành Tư là đệ tử đắc ý của Huệ Năng, trụ trì và thuyết pháp ở chùa Tịnh Cư núi Thanh Nguyên, Cát châu (nay thuộc tỉnh Giang Tây) mở ra hệ phái Thanh Nguyên. Hi Thiên vốn theo học với Huệ Năng, sau lại tôn Hành Tư làm thầy, sau khi đắc pháp đến Nam tự Nam Nhạc dựng am trên núi đá, được gọi là “Thạch Đầu Hi Thiên”, là nhân vật quan trọng khai mở và phát dương hệ phái Thanh Nguyên. Ông viết sách “Tham đồng khế” xác định đặc trưng cơ sở tư tưởng hệ phái Thanh Nguyên: “Tức sự nhi chân” cho rằng các quan hệ đối lập giữa Sự Lý, tâm vật, nội ngoại đều do “Linh nguyên” dung thông, “Tức tâm tức Phật, tâm Phật chúng sinh, bồ đề phiền não, tên gọi khác nhưng thể chất vốn một” (Tức tâm tức Phật, tâm Phật chúng sinh, bồ đề phiền não, danh dị thể nhất). Hệ phái Thanh Nguyên do đệ tử của Hi Thiên là Đạo Ngộ truyền thừa ra một chi nhỏ để sau này mở thành “Vân Môn tông”*, “Pháp Nhãn tông”*. Một đệ tử khác của Hi Thiên là Duy Nghiễm truyền thừa ra một chi nhỏ để sau này mở thành “Tào Động tông”*. Cùng với “Quy Ngưỡng tông”*, “Lâm Tế tông”* thuộc hệ phái Nam Nhạc được gọi chung là “ngũ gia thất tông” Thiền tông hậu kỳ. ...
... THIÊN THAI TÔNG Một tông phái Phật giáo Trung Quốc. Nhân vì người thực tế sáng lập tông phái là Trí Khải thường cư trú ở núi Thiên Thai, Chiết Giang nên có tên gọi ấy, lại nhân vì coi Kinh Pháp Hoa là kinh điển chủ yếu nên còn được gọi là Pháp Hoa tông. Sự truyền thừa nối đời Thiên Thai tông theo thứ tự sau: Long Thọ→ Tuệ Văn→ Tuệ Tư→ Trí Khải→ Quán Đỉnh→ Trí Uy→ Tuệ Uy→ Huyền Lãng→ Trạm Nhiên. Chín vị này được gọi là “Cửu tổ tương thừa” nhưng thực tế cho đến Trí Khải mới là người kế thừa đời trước mở đường đời sau, ông viết “Thiên Thai tam đại bộ”, hình thành đặc trưng tư tưởng độc lập “Nhất niệm tam thiên” và “Tam đế viên dung”. Đệ tử của Trí Khải là Quán Đỉnh (561-632) là nhân vật quan trọng trong thời kỳ giao tiếp của Thiên Thai tông. Truyền qua bốn đời đến Trạm Nhiên, tập đại thành tư tưởng của các tiền bối, viết “Kim Cương bài” xiển dương lý luận “Vô tình hữu tính” nỗ lực trấn áp các tông phái khác, trung hưng Thiên Thai, được xác định là “Thiên Thai cửu tổ” và được đời gọi là “Kinh Khê đại sư”. Sau này trải qua cuộc pháp nạn phân tranh đời Ngũ đại, Thiên Thai tông suy yếu nhiều, kinh điển mất mát. Đến đời Tri Lễ Bắc Tống cố hưng khởi vực dậy Thiên Thai tông, từ chỗ suy yếu chuyển sang thịnh vượng và nổi lên cuộc tranh giành giữa hai phái “Sơn gia” và “Sơn ngoại”. Sau đời Tri Lễ, dưới các thời đại Nguyên, Minh, Thiên Thai tông lại suy yếu. Cuối đời Minh có Trí Húc cố phát huy giáo nghĩa Thiên Thai nhưng cũng giống như các tông phái Phật gia khác, chỉ là hữu danh vô thực. Thiên Thai tông lấy “Pháp Hoa kinh” làm tông chỉ chủ yếu, “Đại trí độ luận” là chỉ nam, “Đại Niết Bàn kinh” làm nghĩa sớ phù trợ, “Đại Bát Nhã kinh” làm quan điểm, do vậy “Thiên Thai tam đại bộ” chính là kinh điển để tông phái này y cứ, tự coi mình là “Viên giáo”. Tư tưởng chủ yếu của Thiên Thai tông là các học thuyết “Thực tướng” và “Chỉ quán”, dùng “Thực tướng” làm luận lý chứng minh và “Chỉ quán” làm phương pháp chỉ đạo tu hành. Thế kỷ thứ 9, tăng nhân người Nhật là Tối Trừng đem tông phái này vào nước Nhật, hình thành Thiên Thai bản tông và Nhật Liên tông ở Nhật, đến nay vẫn còn hưng thịnh. Nhật Liên tông chia ra nhiều môn phái và tạo nhiều ảnh hưởng trong nghệ thuật Phật giáo. ...
... THIỀN TÔNG Một tông phái Phật giáo Trung Quốc, cũng gọi là “Phật tâm tông”. Từ Bồ Đề Đạt Ma đến Hoằng Nhẫn là những người mở đầu Thiền tông. Hoằng Nhẫn là người ở giữa giai đoạn quá độ, sau đó Thiền tông chia ra “Nam Năng bắc Tú” (phương nam của Huệ Năng, phương bắc của Thần Tú) hoặc gọi là “Nam Bắc Thiền tông”. “Nam tông” đứng đầu là Huệ Năng dần dần thay thế “Bắc tông” trở thành chủ lưu chính thống của Thiền tông. Môn phái này đề xướng pháp môn “Đốn ngộ” (giác ngộ ngay tức thì) với chủ trương “truyền giáo pháp ngoài kinh điển, không lập văn tự, chỉ bằng tâm người, thấy tính thành Phật” (Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật), là đại biểu điển hình cho Phật giáo Trung Quốc hóa. Tư tưởng của Thiền tông bao hàm trong bộ “Đàn kinh” được coi là kinh điển chủ yếu, gồm: ① “Tự tâm là Phật” (Tự tâm thị Phật): “Tâm là đất, Tính là vua, vua ở trên đất ấy, Tính còn vua còn, Tính mất không vua. Tính còn thân tâm còn, Tính mất thân tâm nát, Phật ở trong Tính, không cầu ở bên ngoài thân” (Tâm thị địa, Tính thị vương, vương cư tâm địa thượng. Tính tại vương tại, Tính khứ vương vô. Tính tại thân tâm tồn, Tính khứ thân tâm hoại. Phật hướng tính trung tác, mạc hướng thân ngoại cầu - Đàn kinh, Nghi vấn phẩm), “Nếu tự tính giác ngộ, chúng sinh là Phật; nếu tự tính còn mê muội, Phật là chúng sinh” (Tự tính nhược ngộ, chúng sinh thị Phật; tự tính nhược mê, Phật thị chúng sinh - Đàn kinh, Nghi vấn phẩm), “Tự tâm là Phật, chẳng còn nghi ngờ gì. Bên ngoài (tâm) không một vật mà kiến lập, tất cả đều do bản tâm sinh ra muôn loại hiện tượng” (Tự tâm thị Phật, cánh mạc hồ nghi. Ngoại vô nhất vật nhi năng kiến lập, giai thị bản tâm sinh vạn chủng pháp - Đàn kinh, Phó chúc phẩm), ② Đốn ngộ thành Phật (Giác ngộ tức thì thành Phật): Đây là tư tưởng trung tâm của Thiền tông. “Đàn kinh” viết: “Không tu tức là người thường, khởi lên một niệm tu hành là bằng pháp thân Phật” (Bất tu tức phàm, nhất niệm tu hành, pháp thân đẳng Phật). “Một niệm trước còn mê muội là người thường, một niệm sau giác ngộ tức thành Phật” (Tiền niệm mê tức phàm, hậu niệm ngộ tức Phật). Bản tính đốn ngộ là tư tưởng căn bản của Thiền tông. Các nhà Thiền tông hậu kỳ chẳng qua cũng chỉ diễn dịch và mở rộng thêm loại tư tưởng ấy mà thôi. ③ Tông chỉ “Vô niệm”, như Đàn kinh, Định tuệ phẩm viết: “Pháp môn này của ta, từ trước đến nay, trước hết theo tông chỉ vô niệm lấy vô tướng làm thể, vô trụ làm gốc”. “Vô niệm” không phải là không suy tư mà là khi tiếp xúc với ngoại vật không bị ảnh hưởng bởi bất cứ gì của ngoại giới “không sinh tâm ở cảnh vật” (Bất ư cảnh thượng sinh tâm). “Vô trụ là không bị vướng mắc vào chư pháp, nên không có chỗ bám vào mà sinh ra cái tâm ấy” (Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm). “Vô tướng là lìa bỏ tất cả các hình tướng bên ngoài”. Sau đời Huệ Năng, các đệ tử của ông mỗi người ở một phương, hình thành cục diện 3 hệ phái “Hà Trạch tông”, “Nam Nhạc hệ” (Hồng châu tông), “Thanh Nguyên hệ”. Trong đó hai hệ phái Nam Nhạc và Thanh Nguyên hưng thịnh nhất. Thiền tông hậu kỳ đem Thiền pháp hòa nhập vào trong đời sống hàng ngày chia ra nhiều môn phái khác như “Cơ phong”, “Bổng hát” thịnh hành từ đời Đường đến Ngũ đại. Đến đời Tống, Nho và Phật dần dần dung hợp, nhiều văn nhân khuynh hướng vào Thiền, xuất hiện rất nhiều “Ngữ lục”, “Đăng lục” Thiền tông và nhiều “Công án". Đặc trưng của Thiền tông Nho hóa đưa tới sự xuất hiện khá nhiều Thiền tăng kiêm thông Nho học. Các loại “Văn tự thiền”, “Khán thoại thiền" thịnh hành dung hợp với “Tịnh Độ tông”*. Ba đời Nguyên, Minh, Thanh, Thiền tông bị suy yếu. Thiền tông là Phật giáo Trung Quốc hóa triệt để, lưu truyền lâu và xa, ảnh hưởng rất sâu đậm, chiếm địa vị quan trọng trong triết học sử Trung Quốc. Thiền tông ảnh hưởng trực tiếp đến Lý học Tống Minh và ảnh hưởng lan sang cả Triều Tiên, Việt Nam. Sau khi du nhập vào Nhật Bản, Thiền tông hình thành 24 phái, trong đó có 20 hệ thống Dương Kỳ, Lâm Tế. Thiền tông còn ảnh hưởng trực tiếp đến Võ Sĩ đạo Nhật Bản: các võ sĩ Nhật dùng giáo nghĩa Thiền tông trau dồi tinh thần. “Trà thiền” khi vào Nhật Bản trở thành “Trà đạo”. Thiền tông Việt Nam tiền phái và hậu phái, Tuyết Đậu Minh Giác phái, Trúc Lâm Lâm Tế thiền và Liên tông đều hình thành sau khi Thiền tông Trung Quốc du nhập vào. ...
... THỨC HÀM TÔNG Một học phái Phật giáo Trung Quốc, với đại biểu là Vu Pháp Khai. Quan điểm cơ bản của học phái này cho rằng: “Cõi tam giới là căn phòng trong đêm tối, tâm thức như chủ của giấc mộng lớn. Nay các hiện tượng của vạn hữu đều là hiện tượng trong giấc mộng. Đến khi tỉnh giấc mộng rồi, đêm tối sáng ra tức là hiểu biết sai lầm (trong giấc mộng) bị diệt hết, cả tam giới đều không còn (các hiện tượng thấy trong mộng đều là huyễn tượng)” (Tam giới vi trường dạ chi trạch, tâm thức vi đại mộng chi chủ. Kim chi sở kiến quần hữu, giai ư mộng trung sở kiến. Kỳ ư đại mộng ký giác, trường dạ hoạch hiểu, tức đảo hoặc thức diệt, tam giới giai không - Trung Quán luận sớ). Quan điểm này phủ nhận hiện tượng vật chất (quần hữu) và khẳng định hiện tượng tinh thần (tâm thức), cho rằng hiện tượng vật chất chỉ là cái giả có (giả hữu), khẳng định tâm thức là cái có tự tính, coi hiện tượng tinh thần là thực hữu, điều này không phù hợp với tinh thần của Bát Nhã Không Tông. ...
... TÌ ĐÀM HỌC PHÁI Một học phái Phật giáo Trung Quốc, bắt đầu xuất hiện từ Nam Bắc triều. Nhân nhờ nghiên cứu học tập tất cả “A Tì Đàm” hữu bộ nên có tên gọi ấy, cũng gọi là “Tì Đàm tông”. A Tì Đàm là phiên âm chữ Phạn, gọi đủ tên là “A Tì Đạt Ma”, gọi tắt là “A Tì”. Nghĩa là “Đối pháp” hoặc “Luận”, nghĩa là nghị luận phân tích và dịch Phật kinh Phật pháp. Hữu bộ “Tì Đàm” từ Ấn Độ truyền nhập vào Trung Quốc khá sớm, nhưng học phái Tì Đàm chỉ hưng thịnh sau khi bản dịch “Tạp A Tì Đàm tâm luận” (gọi tắt là “Tạp tâm luận”) ra đời. Các đại sư đều coi bản “Tạp tâm luận” này là kinh điển chủ yếu và coi đó là tổng kết của Hữu bộ Tì Đàm. Sự nghiên cứu nghĩa lý Tì Đàm học bắt đầu ở phương nam nhưng lại hưng thịnh ở phương bắc. Tuệ Tập, đại biểu nổi tiếng ở phương nam viết bộ “Tì Đàm đại nghĩa sớ” được lưu truyền ở đời. Phương bắc có Tuệ Tung được xưng tụng là “bậc Khổng Tử trong học phái Tì Đàm” (Tì Đàm Khổng Tử) có rất nhiều đệ tử và đều nổi tiếng hoằng dương được giáo nghĩa Tì Đàm. Đời Tùy, học phái Tì Đàm chỉ thịnh hành ở phương bắc. Đời Đường, do vì Huyền Trang chuyển dịch một số lớn sách Luận Hữu bộ, dịch lại bộ “Câu Xá luận”, dấy lên cao trào nghiên cứu càng đẩy học phái Tì Đàm xuống chỗ suy yếu. Học phái Tì Đàm không có tổ sư và sự truyền thừa nhất định, cũng không có tổ khai sơn độc lập, chỉ có nghĩa học lưu hành trong một giai đoạn theo phong trào. Họ rất giỏi biện luận về Nhân duyên nên còn được gọi là “Nhân duyên tông”. ...
... TỊNH ĐỘ TÔNG Một tông phái Phật giáo Trung Quốc, cũng gọi tên khác là Liên tông. Tông phái này chủ trương trì danh niệm Phật, chuyên thành tu để vãng sinh về “Tịnh thổ” nên có tên ấy. Những người mở đầu tông phái này là Tuệ Viễn, Huyện Loan và Đạo Xước, người sáng lập là Thiện Đạo đời Đường. Niên hiệu Nguyên Hưng nguyên niên đời Đông Tấn (402), Tuệ Viễn và nhóm 123 người gồm các ông Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tông kết hợp thành một xã, sử gọi là “Bạch Liên xã”. Đây là tập thể truyền bá đầu tiên tư tưởng Tịnh Độ ở Trung Quốc. Sau đó Huyện Loan truyền bá pháp môn Tịnh Độ ở phương bắc, thực hành “Niệm Phật tam muội”, tức “Trì danh niệm Phật". Sau đó coi “Trì danh niệm Phật” đổi thành chuyên trỏ miệng đọc tên đức Phật và trở thành đặc trưng riêng của Tịnh Độ tông. Để xác định cơ sở Tịnh Độ tông, Đạo Xước lập nên Thánh đạo. Thiện Đạo kế thừa truyền thống của Đạo Xước, chính thức sáng lập Tịnh Độ tông. Huyện Loan, Đạo ước, Thiện Đạo là đợt truyền bá tư tưởng Tịnh Độ lần thứ hai và cũng là chính truyền của Tịnh Độ tông. Sau đời Thiện Đạo, các danh sư xuất hiện nhiều, nổi tiếng nhất là Tuệ Nhật thuộc hệ phái Lạc Dương, chủ trương Giáo, Thiền nhất trí, Thiền Tịnh song tu nhưng cuối cùng vẫn quay về vãng sinh tịnh thổ. Từ đời Ngũ đại đến đời Tống, Tịnh Độ tông vẫn thịnh hành, cuối đời Ngũ đại có Vĩnh Minh Diên Thọ đề xướng Thiền Tịnh song tu, viết bộ “Vạn thiện đồng quy tập” hoằng dương tu tưởng Tịnh Độ. Trong hai đời Tống, Nguyên, Tịnh Độ tông càng phát triển, xuất hiện các nhóm Bạch Liên xã, Tịnh Độ hội v.v... Đời Minh, nổi tiếng truyền bá tư tưởng Tịnh Độ là Chu Hoằng, Trí Húc. Kinh điển của Tịnh Độ tông có quan niệm gọi là “ba kinh một luận” (Tam kinh nhất luận), ba kinh là “Vô lượng thọ kinh”, “Quán Vô lượng thọ kinh”,“A Di Đà kinh”, một luận là “Vãng sinh luận”. Tông chỉ tu hành của Tịnh Độ tông chủ yếu dùng niệm tên Phật làm động lực bên trong, dùng nguyện lực A Di Đà Phật làm động lực trợ duyên bên ngoài, trong ngoài tương ứng, nhân duyên hòa hợp, vãng sinh vào thế giới cực lạc. Nhờ đề xướng niệm Phật và “chép kinh”, tông phái này bảo tồn được rất nhiều điển tịch Phật giáo, cung cấp nhiều tư liệu quý giá trong nghiên cứu văn hóa Phật giáo. Trong khoảng thế kỷ thứ 6, Tịnh Độ tông du nhập vào Việt Nam. Thế kỷ thứ 8, “Quan kinh sớ” của Thiện Đạo truyền vào Nhật Bản. Thế kỷ thứ 12, tăng nhân Nhật là Nguyên Không sáng lập Tịnh Độ tông ở Nhật, rồi đệ tử là Thân Loan sáng lập Tịnh Độ chân tông. ...
... TỨC SẮC TÔNG Một học phái Phật giáo Trung Quốc, với đại biểu là Chi Đạo Lâm. Học phái này cho rằng: “Tính của sắc là không tự có sắc. Sắc không tự có nên tuy có sắc mà là không, cho nên bảo sắc tức là không, sắc lại khác không” (Phù sắc chi tính dã, bất tự hữu sắc. Sắc bất tự hữu, tuy sắc nhi không, cố viết sắc tức vi không, sắc phục dị không). Mệnh đề “Sắc lại khác không" (Sắc phục dị không) biểu đạt nơi quan hệ tương tức ở bản thể và hiện tượng, nhưng mệnh đề này vẫn chia Thể và Dụng ra thành hai phần và phá hủy sự tương tức của Thể và Dụng. Điều này chứng tỏ Chi Đạo Lâm chưa hoàn toàn nắm vững quan điểm thống nhất vừa Thể vừa Dụng của tinh thần “Sắc tức là Không. Không tức là Sắc” (Sắc tức thị không, không tức thị sắc) của Không Tông Bát Nhã. Còn mệnh đề “Sắc tức là Không” (Sắc tức vi không) của Chi Đạo Lâm chỉ biểu đạt ở mặt “sắc không là tự sắc” (Sắc bất tự sắc), “Do nhân duyên mà thành” (Nhân duyên nhi thành), xét từ quan từ điểm Bát Nhã học, khái niệm Không ở đây chưa triệt để. Đạo Lâm chỉ quy kết Sắc Không cấu thành là do “nhân duyên”, không hiểu rằng bản tính sắc tức là không. Trong “Bất chân không luận”, Tăng Triệu* viết: “Tức sắc hiểu rõ sắc không tự có sắc nên tuy sắc mà không phải sắc. Người nói về sắc nhưng lại coi sắc là sắc, há đợi có sắc là sắc rồi mới coi là sắc sao?” (Tức sắc giả, minh sắc bất tự sắc, cố tuy sắc nhi phi sắc dã. Phù ngôn sắc giả, đãn đương sắc tức sắc, khởi đãi sắc sắc nhi hậu vi sắc tai?). Nguyên Khang trong “Triệu luận sớ” lại viết: “Pháp sư Lâm (Chi Đạo) chỉ biết nói sắc không tự sắc mà là do nhân duyên tạo thành nhưng không biết sắc vốn là không, như tồn tại cái hữu giả tạo vậy” (Lâm pháp sư đãn chi ngôn sắc phi tự sắc, nhân duyên nhi thành, nhi bất tri sắc bản thị không, do tồn giả hữu dã). ...