Đôi dòng lưu niệm ... Hiểu Sử NGƯỜI... Thấm Xứ TA...

Thảo luận trong 'Bàn Trà' bắt đầu bởi tducchau, 7/1/24.

Moderators: amylee
  1. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    ĐẠO DẪN HÀNH KHÍ VÀ THUẬT NỘI ĐAN


    Trong các thư tịch văn hiến Đạo giáo, người ta gọi phục thực kim đan hoàng bạch là thuật ngoại đan (ngoại đan thuật), còn gom các cách hành khi mô phỏng luyện đan đạo dẫn và phòng trung vào phạm trù nội đan. Nhân vì hình khái niệm luyện đan gọi gồm tất cả phương thuật thần tiên. Thuật ngoại đan đương nhiên xuất hiện rất sớm, tối thiểu là đã hình thành vào thời kỳ Chiến quốc, nhưng còn thuật nội đan xuất hiện từ bao giờ? Vấn đề vấn đề này cũng đáng để nghiên cứu.

    Phương kỹ Đạo giáo chia ra ngoại đan và nội đan, thuyết cũ phần nhiều cho rằng bắt đầu từ Tô Huyền Lãng (hiệu Thanh Hà Tử) đời Tùy, sách “La Phù sơn chí” chép Tô Huyền Lãng “Trong niên hiệu Khai Hoàng đời Tùy, đến ở núi La Phù” bèn viết "Chỉ đạo thiên” biểu thị ý mình. Từ đó Đạo đồ bắt đầu viết nội đan vậy”. Nhưng gần đây các học giả khảo chứng cho rằng, loại phân chia nội, ngoại đan này đã có từ thời Nam Bắc triều, như tăng sĩ Tuệ Tư đời Trần đã đề xuất "Mượn sức ngoại đan tu luyện nội đan, muốn an chúng sinh trước tiên phải tự an”.

    Thuật ngoại đan truyền đến đời Đường là cực thịnh, nhưng rất nhiều hoàng đế vì uống ngoại đan mà trúng độc chết, do vậy đến đời Tống, nhiều người không còn tin ngoại đan nữa, thậm chí có người còn chỉ trích thuật kim đan là tà thuật, họ chuyển sang coi thuật nội đan mới là chân chính. Bản thân kỹ thuật nội đan, như hành khí, đạo dẫn, thuật phòng trung đương nhiên đều có nguồn gốc từ rất sớm, không thể muộn hơn thuật luyện đan. Nhưng khái niệm thuật ngữ của nó thường hay mô phỏng ngoại đan, vì vậy chắc chắn phải xuất hiện sau khi thuật ngoại đan hình thành, điểm này là không thể thay đổi. Đặc biệt nó coi trời đất như là một “đại đỉnh lô” (lò đỉnh nấu lớn), coi bản thân là một “tiểu đỉnh lô” (lò đỉnh nấu nhỏ), coi luyện khí hóa thần như luyện đan, loại so sánh này hiển nhiên bắt nguồn từ thuật luyện đan thời kỳ sau.

    Về việc nghiên cứu nguồn gốc thuật nội đan, chúng ta hãy coi học thuyết đan điền như một loại mấu chốt chủ yếu. Tên gọi “đan điền” đã có ngay trong các ghi chép “Lão tử minh”, “Tiên nhân Vương tử Kiều bi”, "Bão phác tử” thời Đông Hán Hoàn đế. Tên gọi này xuất hiện trước cả Tuệ Tư và Tô Huyền Lãng, các ghi chép ấy là tiêu chí chân chính hình thành thuật nội đan.

    Ngoài ra, cũng nên chỉ rõ, thuật nội đan đời sau, phần lớn căn cứ vào sách “Chu Dịch tham đồng khế”, vì rằng sách này mô phỏng ngoại đan để tiến tới nội đan, tính chất thuần túy dung hợp thuật vừa nội vừa ngoại đan. Nội đan nguồn gốc từ ngoại đan, lại mô phỏng ngoại đan, cùng với ngoại đan hình thành một hệ thống thống nhất, đó chính là quỹ đạo cơ bản để thuật luyện đan Trung Quốc cổ đại phát triển.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Click icon này sẽ chuyến về Index... :)
    ...
     
    viettran_ru and Wanderman like this.
  2. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    ĐỊA LÝ PHONG THỦY VÀ PHONG TỤC TIN VÀO CÁC CUỘC ĐẤT


    Địa lý phong thủy là gì? Sách “Táng kinh” muợn đề tên Quách Phác viết: “Khí theo gió ắt tản mác, hạn vì nước ắt ngưng lại. Người xưa muốn tụ lại khiến cho nó đừng tản mác, làm khiến nó ngưng lại. Nên gọi là phong thủy. Phép coi phong thủy, hơn hết là đắc thủy, kế đó là giữ gió” (Khí thừa phong tắc tán, giới thủy tắc chỉ. Cổ nhân tụ chi sử bất tán, hành chi sử hữu chỉ. Cố vị chi phong thủy. Phong thủy chi pháp, đắc thủy vi thượng, tàng phong thứ chi).

    Như thế có thể biết trong thuật coi đất thời cổ có hai yếu tố lớn. Trọng tâm của nó là sự tiến hành tuyển chọn và xử lý đối với cư trú của loài người. Người xưa mê tín, cho rằng người chết nhưng linh hồn bất diệt, vì vậy nơi chôn sau khi chết chỉ là tiếp tục nơi ở khi sống, vì đó hoàn cảnh cư trú chia ra hai loại là Dương trạch (nhà ở khi sống) và Âm trạch (mồ chôn khi chết). Nghiên cứu phong thủy, từ cơ bản là để đáp ứng nhu cầu tìm tốt tránh xấu của loài người. Chỉ cần tâm lý nhu cầu ấy tồn tại là quan niệm về phong thủy còn tồn tại.

    Phong thủy có nhiều tên gọi khác nhau, ở Trung Quốc gọi các người làm nghề xem phong thủy địa lý là Địa Lý tiên sinh. Còn các tên gọi hơi lạ khác như Thanh nang thuật Thanh ô thuật. Ngoài ra, địa lý còn được gọi là Hình pháp, Tướng địa, Tướng trạch, Kham dư.

    Ý thức phong thủy ra đời ở Trung Quốc từ rất sớm. Đại ước từ 6000 năm trước trong chế độ bộ lạc nguyên thủy như di chỉ phát hiện ở Bán Pha thôn, nhà cửa được xây dựng đã có đặc điểm hướng về mặt trời và gần sông nước, chung quanh có hào đào để phòng sự xâm hại của kẻ thù. Đời Ân Chu còn để lại văn chương chứng minh thái độ chọn nơi ở, như Công Lưu, tổ tiên triều Chu dẫn nhân dân từ đất Thai chuyển sang đất Bân, tự thân ông ta xem xét nơi xây chỗ ở:
    *
    Ký cảnh nãi cương
    Tương kỳ âm dương
    Quan kỳ lưu tuyền

    (Kinh Thi. Đại Nhã. Công Lưu)
    *

    (Đã đo bóng mặt trời để định hướng bốn phương, bèn lên trên sườn núi cao trông xuống mà xem xét.
    Xem xét các lẽ thích nghi về âm dương (ấm lạnh, sáng tối). Xem xét mối lợi về sông ngòi tươm tưới khắp vùng.)​

    Hậu duệ của ông là tổ phụ Chu Văn vương lại dời đến đồng bằng đất Chu và nhận thấy đây là vùng đất màu mỡ có thể trồng trọt sản xuất. Đối với cổ nhân, thông qua xem xét đất đai chọn lựa nơi ở gần sông nước mà không lụt lội, thông khí mà không bị bệnh hoạn là sự tính toán thô sơ nhưng rất hiện thực, chẳng có gì đáng gọi là duy tâm hay thần bí cả. Hiện nay có người xem thuật địa lý phong thủy như một nghệ thuật về không gian cũng không có gì là quá vô lý. Từ xưa Kinh Thi đã viết:
    *
    Nãi triệu Tư không
    Nãi triệu Tư đồ
    Ty lập thất gia

    (Kinh Thi. Đại Nhã. Miên)
    *
    (Lại vời quan Tư không
    Lại vời quan Tư đồ
    Khiến dựng nên nhà cửa)​

    Quan Tư Không đề cập trên ấy, đầu tiên phụ trách việc xây dựng phòng ốc cung thất vậy. Đương nhiên, cổ nhân sau khi xem Địa lý phong thủy xong lại còn cần phải bói một lần nữa như Khổng Tử nói: “Bói được điềm nhà ấy mới ở yên” (Bốc kỳ trạch triệu nhi an thổ chi), coi như đạt tới sự thống nhất giữa trời và người rồi họ mới đưa ra quyết định. Điều này làm cho thuật Địa lý phong thủy dễ dàng kết hợp với thuật chiêm bốc bói toán và bắt đầu tiêm nhiễm màu sắc mê tín.

    Chiến quốc và Tần, Hán là thời kỳ thành thục Địa lý phong thủy. Sách Sử Ký* của Tư Mã Thiên, phần “Hu Lý Tử truyện” chép: “Em cùng cha khác mẹ với Tần Huệ vương đời Chiến quốc là Hu Lý Tử lúc còn sống tự chọn mộ chôn mình ở phía đông Chương đài Vị Nam, đoán rằng: “Sau trăm năm, nơi này có cung điện thiên tử nằm kẹp hai bên mộ của ta”. Quả nhiên tới đời Hán có Trường Lạc cung ở bên đông. Vị Ương cung ở bên tây mộ ấy. Điều thú vị là lúc ấy người ta chẳng những biết chọn nơi ở cho người sống mà còn biết chọn cả nơi ở cho người chết. Sự chọn lựa nơi ở cho người chết được gọi là "Táng pháp".

    ...
     
    viettran_ru and Wanderman like this.
  3. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    Thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều, quan niệm phong thủy tiếp tục truyền bá và được khá nhiều người tin theo. Các thuật sĩ phong thủy có đất sống rộng rãi. Sử sách giai đoạn này ghi tên một đại gia chiêm bốc là Quản Lạc, chuyện kể một lần ông đi qua mộ Ngụy tướng Mẫn Khâu Kiệm, ông “dựa vào cây than thở”. Người ta hỏi nguyên nhân, ông đáp: “Cây cối tuy tốt tươi nhưng không có hình thế lâu dài. Bia minh tuy đẹp đẽ, nhưng không còn đời sau để giữ. Huyền Võ dấu đầu, Thanh Long không chân, Bạch Hổ ngậm xác, Chu Tước buồn khóc, bốn điều nguy đủ cả, theo pháp sẽ bị diệt tộc”.

    Thuyết về tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, tiền Chu Tước, hậu Huyền Võ vốn chỉ bốn sao bốn phương, nhưng ở đây mượn khái niệm ấy để chỉ hình thế núi non chung quanh mộ địa, thuyết minh phong thủy không thích hợp, con cháu sẽ bị họa diệt tộc. Nghe nói sau đó câu tiên tri trên ứng nghiệm rất mau. Tương truyền “Táng kinh” của Quách Phác kế thừa thuyết này. Thực ra, thực quyền lúc ấy nằm cả trong tay cha con họ Tư Mã, nhà Mẫu Khâu Kiện bại binh bị tru diệt chẳng liên quan gì đến phong thủy.

    Thời kỳ Đường Tống kinh tế rất phát triển, xã hội tôn trọng cả tam giáo Nho, Phật, Đạo, phong thủy nhờ vậy cũng tương đối hưng thịnh. Mặc dù một vài anh quân đời Đường như Đường Thái tông, Đường Huyền tông đều có chỉ dụ ngăn cấm việc chôn cất tang ma quá lớn nhưng thực tế không giải quyết vấn đề từ căn bản, vì trước tiên phần mộ của đế vương hậu phi bao giờ cũng là điển hình của phong tục chôn cất trọng hậu theo phong thủy.

    Tùy Văn đế Dương Kiên đã có lần nói: “Tốt xấu do người, không do cuộc đất” nhưng cuối cùng vẫn nghe lời tôi thần bói chọn đất táng cho Hiến Hoàng hậu. Lý luận phong thủy dưới 2 đời Đường Tống, địa vị trung tâm của thuyết Ngũ hành bắt đầu bị lay động, thay vào đó là quan niệm Âm Dương Bát Quái. Điều này có khả năng vì chịu ảnh hưởng chủ trương Lý học của Chu Hi, Chu Đôn Di, nhất là chịu ảnh hưởng quan niệm về “Táng pháp ngũ hoạn” của hai anh em họ Trình (Trình Hạo, Trình Di), sau này được các thuật sĩ phong thủy rất tôn sùng.

    Vùng đông nam đời Tống chia ra hai phái phong thủy là phong thủy gia Giang Tây phái (tức Hình thế phái) và Phúc Kiến phái (tức Ốc trạch phái). Phái trước đồn rằng truyền từ Dương Quân Tùng đời Đường. Sau cuộc loạn Hoàng Sào, Quân Tùng trộm được “sách của bí phủ” trốn nạn tới Giang Tây rồi truyền tông lập phái thu nhận nhiều đệ tử với đặc điểm chủ về hình thế, xác định phương hướng, nhấn mạnh sự phối hợp giữa Long, Huyệt, Sa và Thủy. Phái sau lưu hành rộng dưới triều Nam Tống, nghiên cứu nguyên lý Trạch pháp, theo Ngũ hành Bát quái, xác định lý sinh khắc, Những sự thực trên đây, phản ánh sự phát triển của lý luận phong thủy Đường Tống. Đến cuối Đường với sự phát minh và ứng dụng la bàn càng làm cho lý luận phong thủy có ý nghĩa thực dụng.

    Xã hội phong kiến các đời Minh, Thanh dần dần bước tới đường cùng, chính trị đen tối, xã hội động loạn, các mối nguy cơ càng sâu sắc. Một mặt các hoàng để càng mê tín phong thủy, lúc đang sống đã vội vàng chọn đất xây lăng để thuận tiện kéo dài cuộc sống hưởng lạc ở bên kia thế giới.

    Mặt khác với trăm họ hạ tầng chỉ biết gửi hy vọng vào phong thủy để mong mau mau thay đổi được số phận bất hạnh của con cháu gia tộc mình. Do vậy, họ càng chân thành tha thiết với mọi việc chọn nhà ở hay chọn mộ chôn. Để đáp ứng với yêu cầu mọi hình dạng ấy, các loại sách phong thủy đua nhau ra đời “Không dưới vài trăm loại” cơ hồ đã đạt đến mức độ thật giả lẫn lộn. Ngay cả cái tên “Địa lý chính tông” mà sách nào cũng tự nhận, đã có vài chục ấn bản khác nhau với nhiều người chú giải khác nhau.

    Đối với nhà Địa lý phong thủy học, có 5 yếu tố được gọi là “Địa lý ngũ quyết” (5 yếu quyết của địa lý) là Long, Huyệt, Sa, ThủyHướng. Long, tục gọi Long mạch, tức “mạch đất đi hay dừng, lên hay xuống gọi là Long”. “Đất là thịt rồng, đá là xương rồng, cây cỏ là lông rồng”. Vì vậy tìm cầu Long mạch (Mạch rồng) là việc quan trọng nhất đối với Dương trạch và Âm trạch.

    Trong tiểu mục về Địa lý phong thủy này, chúng tôi chỉ có thể lược thuật những điều căn bản trích từ “Kham Dư bộ” của sách “Cổ kim đồ thư tập thành”. Sau đó, chúng tôi liệt kê tiểu sử các nhà Địa lý phong thủy của Trung Quốc cổ đại ít được các sách đề cập đến và nhiều truyền thuyết Địa lý phong thủy được chép trong các sử sách. Từ các đề mục này, hy vọng bạn đọc sẽ có cái nhìn tổng thể về một phong tục phổ biến ở Trung Quốc cổ đại.

    ...
     
    viettran_ru and Wanderman like this.
  4. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    Những khái niệm căn bản của môn địa lý


    Trong Địa lý phong thủy, có nhiều khái niệm rất trừu tượng khó định nghĩa chính xác vì thuộc phạm trù trừu tượng của Kinh Dịch như Thái cực, Âm Dương, Khí, Ngũ hành, Long mạch... Để hiểu Địa lý phong thủy nói riêng cũng như để hiểu các học thuật huyền học khác của Trung Quốc nói chung, có lẽ chúng ta cần tìm hiểu kỹ Kinh Dịch (đã đề cập trong Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link). Ở đây, trong phạm vi liên quan đến Địa lý phong thủy, chúng tôi chỉ giải thích một số khái niệm căn bản để không trùng lặp.

    ۞ KHÍ: Trong nhiều môn học của Trung Quốc và Nhật Bản cổ đại, Khí là khái niệm thường được nhắc đến và được nhấn mạnh. Trong đông y và khí công, Khí được hiểu như một dạng năng lực lưu thông trong cơ thể theo 12 kinh và 8 mạch. Nếu dòng khí này luân lưu điều hòa thông suốt thì cơ thể khỏe mạnh. Trái lại, có nghĩa là dòng khí trong cơ thể bị bế tắc hay thiếu hụt. Trong môn Địa lý, nguồn năng lượng nằm trong lòng đất (địa khí) được đặc biệt khai thác bằng một số kỹ thuật nhằm tập trung hay điều hòa dòng khí lưu chảy trong lòng đất kết vào căn nhà chúng ta đang ở nhằm đem lại cuộc sống hài hòa may mắn cho chủ nhân ở tại căn nhà ấy.

    Ngày nay, với sự tiến bộ của ngành vật lý lượng tử và nhiều ngành khoa học khác, khái niệm về vật chất và năng lượng được xem như một dạng của sự chuyển hóa. Vật chất chuyển hóa thành năng lượng và năng lượng chuyển hóa thành vật chất. Mọi vật thể trong vũ trụ đều tương quan tương tác mật thiết với nhau. Môn Địa lý đã vận dụng những điều này trong việc xây dựng một lý luận về kiến trúc xây dựng.

    ۞ LONG MẠCH: Long mạch là khái niệm để chỉ hình thể sông núi có mang địa khí mạnh có thể tác động đến môi trường chung quanh. Các chuyên gia Địa lý ở Trung Quốc xưa cho rằng: nước Trung Quốc ở về phía đông nam của dãy núi Côn Lôn, sơn mạch trong thiên hạ đều bắt nguồn từ núi Côn Lôn, từ đó phân chia ra khắp nơi.

    Lấy rồng (Long) làm biểu tượng cho thế đất nhấp nhô vì người xưa cho rằng rồng là một linh vật đẹp đẽ linh hoạt uyển chuyển biến hóa khôn lường, lúc ẩn lúc hiện, thoạt to thoạt nhỏ, chợt đông chợt tây, khi ẩn mình dưới vực sâu, khi bay lượn trên chín tầng mây v.v... Nước cũng là một hình ảnh khác của Long. Nước (Thủy) về hình thức cũng muôn hình vạn trạng như núi (Sơn). Các chuyên gia Địa lý vẫn có thói quen coi sông nước như hình ảnh của Thủy long. Người xưa quan niệm núi có tác động đến con người, còn sông nước tác động đến hoàn cảnh vật chất của đời sống. Vì vậy hình ảnh của sông và núi là không thể tách rời.

    ۞ ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH: Xin đọc Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link!

    ...
     
    viettran_ru and Wanderman like this.
  5. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    GIÁP CỐT THƯƠNG CHU VÀ CÁCH BÓI TOÁN THỜI KỲ ĐẦU


    Bói toán bằng cách bốc phệ lưu hành cực thịnh trong hai đời Thương, Chu và từng là hình thức bói toán chủ yếu của vương thất. Thế nhưng đến đời Chiến quốc và Tần-Hán, địa vị của Thức chiêm dần hưng thịnh lên, quan hệ của bốcphệ phát sinh nhiều biến hóa, từ chỗ dựa vào nhau, cả hai trở thành hai môn loại độc lập. Không hiểu nguyên nhân vì sao bốc lại suy yếu dần, còn chiêm phệ lại dần hưng thịnh.

    GiapCotDoiDongChu-PhuongThuat.jpg
    GIÁP CỐT ĐỜI ĐÔNG CHU
    Nguồn: PHƯƠNG THUẬT​

    Đời Hán thịnh hành cái học về tượng số, bói dịch thường phối hợp với phép bói dùng âm dương ngũ hành để giải thích biến đổi của việc người và việc tai dị của trời đất, hình thành đủ các loại quái khí, lục nhật thất phân, phi phục nạp giáp v.v... Thêm đó, “Chu Dịch” lại là kinh điển Nho gia, theo cùng địa vị thăng tiến của Nho gia, bốc phệ cũng mở rộng ảnh hưởng. Từ đời Đường trở đi, trong học thuật số thuật, sách bàn về Dịch thành một loại có ảnh hưởng lớn nhất.

    Giáp cốt đời Thương vốn là một trong “ba đại phát hiện” lớn nhất chấn động đầu thế kỷ XX (hai phát hiện khác là các sách thẻ tre đời Hán ở Tây vực và sách vở ở Đôn Hoàng). Với những phát hiện được tích lũy cho đến hiện nay, số lượng đã đạt tới hơn 10 vạn mảnh xương thủ có khắc chữ hoặc không khắc chữ, hình thành một khoa học chuyên môn gọi là “Giáp cốt học”.

    ...
     
    viettran_ru and Wanderman like this.
  6. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    HỆ THỐNG BÓI TOÁN VÀ PHÁT HIỆN HỮU QUAN


    Tri thức về vũ trụ và trời đất ở thời cổ vốn có liên quan đến “Số thuật” hoặc “Thuật số”. Từ “Số thuật” này đại khái quan hệ với khái niệm về “Tượng số”. Tượng là biểu hiện bằng hình dáng bên ngoài, chỉ biểu tượng hoặc tượng trưng. “Số” là nội hàm bên trong, chỉ quan hệ số lý và quan hệ luận lý. Nó bao gồm môn học về lịch toán thiên văn và lịch số thiên tượng qua nghiên cứu thực tế, cũng bao gồm cả các thuật bói toán suy đoán theo số và các phương pháp huyền bí theo tượng đi tìm nghĩa. Tuy theo lý giải hiện nay, bói toán và lịch toán thiên văn là hai loại khác nhau hoàn toàn, nhưng trong lý giải của người cổ đại, chúng lại cùng chung một hệ thống. Vì theo quan niệm cổ, bói toán và thiên văn đều là những kỹ thuật để tiếp xúc câu thông giữa người và trời.

    Số thuật cổ đại là một hệ thống tương đối phức tạp, như phần Số thuật lược sách Hán chí chia ra 6 loại: “Thiên văn”, “Lịch phổ” nghiên cứu thiên tượng và lịch số, nhưng cũng bao gồm chiêm đoán về tinh khí (chiêm đoán tượng các ngôi sao và khí mây), “Ngũ hành” dùng để bói toán (dùng một loại công cụ mô phỏng kết cấu vũ trụ tức cách thức tiến hành bói toán) và từ đó phái sinh ra các thuật coi bói chọn ngày lành tháng tốt, “Thi quy” là chỉ bói mai rùa, phệ chiêm (dùng mai rùa và cỏ thi tiến hành bói toán), “Tạp chiêm” dùng để bói mộng, đuổi ma trừ quỷ và cầu phúc tránh họa, “Hình pháp” thuộc loại coi tướng, cả tướng về địa hình đất đai, tướng mộ chôn và tướng người, súc vật v.v... Sáu loại ấy có thể phản ánh hết phạm vi của số thuật.

    Do phần này đang chỉ bàn về các loại vu thuật bói toán trong phong tục Trung Quốc cổ đại nên ở đây chỉ chú trọng về chủ đề ấy.


    ① CHIÊM ĐOÁN TINH TÚ KHÍ MÂY

    Trong chiêm bốc cổ đại, chiêm đoán tinh tú và khí mây là một loại có quan hệ mật thiết với thiên văn, xưa nay các thư tịch lịch sử đều chép phụ vào trong loại “Thiên văn”. Sách viết về thiên văn cổ đại rất nhiều, nhưng phần nhiều đã mất, số còn lại nổi tiếng có các sách: “Ất tị chiêm” của Lý Thuần Phong đời Đường và “Khai Nguyên chiêm kinh” của Cù Đàm Tất Đạt (người Ấn Độ). Các sách gọi là “Chiêm kinh” này dùng để chiêm đoán nội dung chủ yếu là mặt trăng mặt trời, các ngôi sao, nhị thập bát tú, sao băng sao rơi, sao chổi cầu vồng, nhật thực nguyệt thực, mua gió sấm sét, núi lở nước phun v.v…

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 12/1/25
    Wanderman thích bài này.
  7. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    ② CHIÊM BỐC

    Chiêm bốc là một loại dùng công cụ mô phỏng kết cấu vũ trụ để tiến hành bói toán. Công cụ mà nó dùng rất nhiều loại, phương pháp cũng khác hẳn nhau, có phương pháp gọi là Lục nhâm, Thái ất, Độn giáp, Lôi công v.v... Loại chiêm đoán này quan hệ mật thiết với thiên văn lịch toán. Ví dụ như Lục Nhâm với hình thức mô phỏng kết cấu vũ trụ, trên là phần viên bàn tượng trưng bầu trời, giữa là Bắc đẩu, chung quanh Nhị thập bát tú do các sao biểu thị 12 tháng, dưới có phương bàn tượng trưng mặt đất, lại chia tinh dã đối ứng Nhị thập bát tú và biểu thị sự vận hành của nhật nguyệt với thiên can địa chi. Tất cả thao tác đều mô phỏng từng bước phương pháp tính lịch, dùng thiên bàn xoay về bên trái (mô phỏng “trời xoay trái đất chuyển phải”) rồi xem chuôi sao đẩu và nguyệt thần ở đâu trong địa bàn để tiến hành suy đoán.

    ThienBan1.jpg
    THIÊN BÀN
    Nguồn: PHƯƠNG THUẬT​

    Loại chiêm đoán này, từ công cụ đến phương pháp đều mô phỏng thiên văn lịch toán, nhưng cách thức vẫn không phải nghi thức thiên văn chân chính. Đặc biệt các đồ thực phù hiệu mà nó sử dụng đều có tính trừu tượng rất cao, khiến người chiêm đoán có nhiều tự do suy đoán xử lý, lợi dụng đó để trả lời các câu bốc hỏi một cách linh động. Đây đương nhiên là một sức hấp dẫn rất lớn trong thời cổ. Phân tích các loại bói toán này, chúng ta dễ dàng nhận ra, học thuyết Âm dương ngũ hành thời kỳ Chiến quốc và Tấn Hán chính là bối cảnh thuận lợi giúp chúng hình thành. Đặc điểm của chúng là phù hiệu hóa và cách thức hóa, thích hợp với sự suy diễn vô cùng về bất cứ điểm nào. Do vậy, mô thức tư duy này vừa xuất hiện, lập tức thẩm thấu vào tri thức thực dụng mà Trung Quốc đã vốn có, trở thành công cụ luân lý bao gồm hết các hệ thống tri thức. Đối với khoa học kỹ thuật Trung Quốc, lý luận vũ trụ và tư tưởng triết học, bất cứ phương diện nào, nó đều có ảnh hưởng sâu xa.

    Trong hệ thống bói toán của Trung Quốc cổ đại, bói chọn ngày tháng tốt là loại bói toán chủ yếu. Xét về góc độ “Tượng số”, nó có nghiêng về “Số” hơn, bao hàm các loại suy đoán thần bí về lịch nhật (đời Tống gọi là “Nội toán”). Về kỹ thuật đây là loại tương đối phức tạp, nhưng về nguồn gốc niên đại, nó có vẻ xuất hiện hơi muộn, chủ yếu thịnh hành vào thời kỳ Chiến quốc, Tần Hán. Học thuyết “Âm dương ngũ hành” phái sinh từ chiêm bốc đặc biệt thịnh hành ở thời kỳ Chiến quốc, Tần Hán. Đó là hiện tượng lịch sử hết sức quan trọng (thuộc về hiện tượng của thời đại then chốt). Nhiều học giả cho người thời ấy đặc biệt mê tín, nhưng xét ra, chính là vì tâm lý thích những điều tai dị và cấm kỵ ngày tháng của họ; nói khác đi, bối cảnh lúc ấy trong lúc thiên văn học hết sức phát đạt mà năng lực thực tế của con người chỉ có hạn. Chỉ có thời kỳ này, người ta mới biểu hiện được lòng tự tin tương đối, tự tin rằng mình có khả năng tìm được kỹ thuật để câu thông giữa trời và người.

    DiaBan1.jpg
    ĐỊA BÀN
    Nguồn: PHƯƠNG THUẬT​

    Thuật chiêm bốc có ảnh hưởng lớn dưới đời Hán, liên quan tới các môn loại số thuật phức tạp, như phần Nhật giả liệt truyện sách Sử ký* chép Hán Võ đế tụ tập các nhà chiêm bốc để quyết định chọn ngày cưới vợ, có tới 7 môn phái Ngũ hành, Kham dư, Kiến trừ, Tùng thần, Lịch, Thiên nhân, Thái nhất có mặt, 7 môn phái này đại để có liên quan đến phương pháp chiêm đoán. Sau đời Hán, chiêm bốc tuy vẫn lưu hành nhưng địa vị không còn như trước nhân. Do vì kỹ thuật của nó quá phức tạp, môn phái quá nhiều, số đông không nắm vững hết được, thêm nữa thuật chiêm bốc cổ đại có liên quan đến Thiên văn, xưa nay đều bị Ty Thiên giám khống chế, bị cấm chỉ dân gian học tập, do vậy trình độ phổ biến có bị hạn chế.

    ...
     
    viettran_ru and Wanderman like this.
  8. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    ③ CHỌN NGÀY VÀ CẤM KỴ

    Chọn ngày và cấm kỵ phái sinh từ phương pháp chiêm bốc, đều thuộc thuyết về “Nhật giả” cổ đại. Nó quan hệ với chiêm bốc có điểm giống như phép bốc phệ quan hệ với “Chu Dịch”. “Chu Dịch” tuy được coi là sách nghiên cứu Dịch lý, nhưng là một sách giúp người ta coi bói, trước sau nó cũng kết hợp với bói toán. Tách rời khỏi bói toán, Chu Dịch mất nhiều ý nghĩa không phải không quan trọng.

    Cổ nhân chọn ngày phối hợp với những cấm kỵ theo lịch pháp để giúp người chọn lựa. Trong ấy có loại tương đối thô sơ là chia một năm ra 12 tháng, chỉ bàn về cấm kỵ trong tháng, được gọi là “Nguyệt húy”. Còn một loại chia ra kỹ lưỡng hơn, theo can chi của ngày rồi qui định ngày nào có thể làm gì, tránh làm gì, hoặc làm việc gì vào ngày nào thì tốt, việc gì ngày nào lại xấu, đó gọi là “Nhật cấm”.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  9. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    MỆNH VẬN CỦA NGƯỜI VÀ MỆNH VẬN CỦA NHÀ Ở


    Khoa học cho chúng ta biết vũ trụ chúng ta đang sống là một từ trường vĩ đại các tinh cầu trong thái dương hệ không giây phút nào không chuyển động và mỗi tinh cầu đều có từ trường phát ra hình thành một năng lượng vô hình trong vũ trụ. Muôn vật muôn sự trong vũ trụ đều bị chi phối bởi năng lượng vô hình ấy. Mỗi cá nhân đều có một “Mệnh cách” chỉnh thể, quyết định trong giây phút người ấy sinh ra đời, chịu nhận năng lượng vũ trụ trong giây phút ra đời ấy để hình thành và bị chi phối bởi “Mệnh cách”, đây chính là như câu nói cửa miệng: “Ra đời khóc oa oa. Mệnh xấu, tốt đã ra”.

    Còn như “Vận” là hình thành từ năng lượng biến hóa từng giờ từng phút của vũ trụ. Nhà ở của chúng ta cũng có “Mệnh” và “Vận”. Bản thân của nhà cửa cư trú là “Mệnh”, nhưng vào thời khắc khác nhau tạo ra ảnh hưởng là "Vận”. Do đó, kết hợp thành các bộ phận khác nhau của "Phong thủy học”. Vũ trụ có ảnh hưởng tới con người ra sao? Căn cứ vào các thuyết phong thủy cổ, được ấn định như sau:

    ۞ Thủy tinh có ảnh hưởng tới bệnh thần kinh của con người.
    ۞ Kim tinh có ảnh hưởng tới chứng viêm thể tuyến.
    ۞ Hỏa tinh có ảnh hưởng tới tinh lực và thể lực.
    ۞ Mộc tinh có ảnh hưởng tới cơ năng can tạng.

    Trong ấy ảnh hưởng tới nhân loại lớn nhất là Mộc tinh, nó gặp mỗi năm một lần với Thổ tinh (gọi gặp là xét từ quan sát tại địa cầu), hai sao Mộc và Thổ vận chuyển đến cùng một cung (Thiên văn học Trung Quốc lấy mặt trời làm trung tâm, chia ra 12 cung theo 12 địa chi, mỗi cung 30°).

    Phong thủy huyền không học chia ra 9 vận, mỗi vận 20 năm, so với 180° vận hành của các hành tinh khớp với nhau, không biết như vậy có liên quan gì không? Phong thủy huyền không học còn được gọi là “Cửu cung phi tinh” do vì mở đầu 1 vận cho đến 9 vận cộng lại là 180 năm. Bắt đầu từ vận thứ nhất quay vòng 180 năm lại trở lại vận thứ nhất.

    Do vậy, vận Phong thủy huyền không cứ theo đó tuần hoàn không cùng, 60 năm từ vận thứ nhất đến vận thứ ba là “Thượng nguyên”, 60 năm từ vận thứ tư đến vận thứ sáu là “Trung nguyên”, 60 năm từ vận thứ bảy đến vận thứ chín là “Hạ nguyên”, bảng sau đây sẽ kê khai 3 nguyên thượng, trung, hạ hiện nay căn cứ vào năm dương lịch:

    TamNguyenCuuVan.jpg

    Về mặt tên gọi:

    Nhất bạch tinh tên Tham Lang
    Nhị hắc tinh
    tên Cự Môn
    Tam bích tinh
    tên Lộc Tồn
    Tứ lục tinh
    tên Văn Khúc
    Ngũ hoàng tinh
    tên Liêm Trinh
    Lục bạch tinh
    tên Vũ Khúc
    Thất xích tinh
    tên Phá Quân
    Bát bạch tinh
    tên Tả Phụ
    Cửu tử tinh
    tên Hữu Bật.​

    Trên đây là tên gọi và năm phân bố của “Nguyên vận” theo Phong thủy học.

    ...
     
    viettran_ru and Wanderman like this.
  10. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    NGUỒN GỐC LUYỆN ĐAN VÀ PHỤC THỰC


    Ở đây chúng ta cần bàn về một phong tục rất phổ biến có liên quan đến văn hóa cổ đại Trung Quốc. hệ thống tri thức này đời cổ gọi là “Phương kỹ”. Chữ “Phương kỹ” này đại khái có quan hệ tới khái niệm “Y phương” và “Y kỹ”, nó lấy y học làm cơ sở, nhưng “Phương kỹ” không bằng y học được vì phạm vi của nó rất rộng, ngoài tri thức y dược thực dụng, Phương kỹ còn bao gồm khá nhiều nội dung dưỡng sinh thuật phức tạp có liên quan cả với thuyết thần tiên cổ đại và vẫn giữ đặc điểm rõ ràng chưa phân biệt vu thuật và y học ở thời nguyên thủy.

    Trong bốn môn loại ghi chép của “Hán chí”*, phần “Phương kỹ lược”, “Y kinh” và “Kinh phương” chủ yếu thuộc phạm trù y học thực dụng, còn “Phòng trung” lại quan hệ với thuật dưỡng sinh theo cách giao phối nam nữ, mà “thần tiên” thì quan hệ đến các thuật cầu tiên như “Phục thực”, “Hành khí”,“Đạo dẫn”. Do vì trọng điểm nghiên cứu của phần này là tư tưởng sử chứ không phải là khoa kỹ sử, mà y học theo nghĩa hẹp lại là lãnh vực khoa học kỹ thuật, nên chúng tôi chỉ xin đề cập đến các luận điểm liên quan đến phục thực, hành khí, đạo dẫn và phòng trung mà thôi.

    ...
     
    viettran_ru and Wanderman like this.
  11. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    ① KHÁI NIỆM PHỤC THỰC: NHỮNG ĐIỂM LIÊN HỆ VÀ KHÁC BIỆT CỦA NÓ VỚI Y THUẬT


    Phương kỹ” của Trung Quốc cổ đại là một hệ thống lẫn lộn giữa y dược dưỡng sinh và thuyết thần tiên. Tuy từ Hán Đường trở về sau, y dược dưỡng sinh và thuyết thần tiên đã dần dần phân hóa, hình thành nên 2 lãnh vực khác hẳn nhau, nhưng đầu tiên 2 môn loại ấy cùng kết hợp làm một Đặc biệt, hạng mục “Dược” cùng quan hệ lớn với thần tiên phương thuật. Y thuật cổ đại có chia ra “nội trị” và “ngoại trị” như câu viết: “Thuốc trị bên trong, châm cứu trị bên ngoài” (Độc dược trị kỳ nội, châm thạch trị kỳ ngoại). “Nội trị” chính là uống thuốc, rất giống với “phục thực” của thuyết thần tiên, cả hai đều có ngụ ý “dược” ở bên trong, đó là mối quan hệ chủ yếu giữa y thuật và thuyết thần tiên.

    BinhLuyenDanDoiDuong.jpg

    BÌNH LUYỆN ĐAN ĐỜI ĐƯỜNG
    Nguồn: PHƯƠNG THUẬT​

    Phục thực” cũng gọi là “Phục nhĩ” (Nhĩ là một loại thức ăn), chủ yếu là một loại ăn thức ăn, thông qua miệng và bụng tiến hành cách thức giao hoán với tự nhiên giới. Cổ nhân phục thực, nội dung cực rộng, từ thực vật, động vật cho đến khoáng vật và các loại điều chế bằng hóa học, cơ hồ không gì không bao quát, nếu như chỉ xét về thành phần, hình như phương dược trong y thuật cổ đại không có gì khu biệt quá lớn. Y học cổ đại cũng chỉ gồm các chủng loại thuốc chiết xuất từ thảo (cây cỏ), mộc (thực vật), trùng (động vật), thạch (khoáng vật), cốc (lương thực) gọi là “Ngũ dược” (5 loại thuốc). Muốn hiểu sự khác biệt của chúng, có lẽ chúng ta phải tìm hiểu về mục đích sử dụng thuốc và cách sử dụng.

    MinhVanTrenKinhDoiHan.jpg

    MINH VĂN TRÊN KÍNH ĐỜI HÁN NÓI VỀ UỐNG NGỌC TUYỀN
    Nguồn: PHƯƠNG THUẬT​

    Trong nội thiên sách “Bão phác tử”*, Cát Hồng có giảng về thuốc ở thiên Tiên dược, ông chia thuốc ra làm 3 phẩm thượng, trung, hạ. Thượng dược là thuốc uống vào có thể bay lên tiên; trung dược là loại “dưỡng tính” (tức thuốc dưỡng sinh) tuy không thể thành tiên, nhưng cũng đủ bổ ích, phòng bệnh, kéo dài mạng sống; hạ dược là thuốc “chữa bệnh” chỉ có thể trừ bệnh mà thôi. Trong thiên này Cát Hồng chỉ luận về thượng dược, tức loại “tiên dược” mà ông cho rằng chủ yếu là kim thạch khoáng vật như đan sa, hoàng kim, bạch ngân, ngũ ngọc, hùng hoàng, thạch anh, thạch não v.v... Chế luyện “Hoàng đan” thuộc về thuật luyện đan, nhưng chế luyện “Kim ngân” lại thuộc về “Hoàng bạch thuật”.

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 13/1/25
    viettran_ru and Wanderman like this.
  12. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...

    ② NGUỒN GỐC THUẬT LUYỆN ĐAN: THUẬT ƯỚP XÁC VÀ THUẬT LUYỆN KIM


    Cổ đại Đan thuật tức uống “Kim đan”, “Hoàng bạch” là chủ yếu. Uống “Kim đan”, “Hoàng bạch” có quan hệ với sự tìm hiểu thân thể của cổ nhân. Nguồn gốc sự tìm hiểu này có từ rất xa xưa, nhưng luyện đan (bao gồm luyện kim) cần phải dựa vào kỹ thuật hóa học phức tạp. Các chuyên gia hóa học hiện nay cho rằng thuật luyện đan Trung Quốc có thể bắt nguồn từ loại “thuốc bất tử” của các phương sĩ nước Tề, nước Yên đời Chiến quốc và Tần. Thế nhưng, loại “thuốc bất tử” ấy thực sự là gì?, hiện nay không biết được rõ. Chúng ta chỉ có thể dựa vào sách “Diêm thiết luận” chép “đời Tần, bọn phương sĩ Tề, Yên tranh nhau đến Hàm Dương “bàn chuyện tiên nhân ăn vàng uống chu (sa) sau đó thọ lâu như trời đất” để phỏng đoán rằng, những loại thuốc ấy đại khái có liên hệ nhất định với “Kim đan”, “Hoàng bạch”. Thuật luyện đan thời kỳ đầu cũng có điểm khá rõ, chắc chắn là ở thời kỳ Tây Hán.

    Thời Hán Võ đế, phương sĩ Tề là Lý Thiếu Quân tự nói mình có thể dùng “Từ táo” (chắc là một loại lò nấu kim loại) biến đan sa thành vàng ròng, “lấy làm khí cụ ăn uống” khiến người trường thọ, thậm chí có thể gặp cả tiên trên trời (xem Sử ký*. Phong thiện thư). Hoài nam vương Lưu An cũng đã từng viết sách “Chẩm trung hồng bảo uyển bí thư” bàn việc “thần tiên hoàng bạch”. Những việc ấy đều thuộc thời kỳ Tây Hán. Nhưng đến ngày nay, chưa hề phát hiện tư liệu khảo cổ nào chứng minh trực tiếp thuật luyện đan có trước đời Hán. Thư tịch về luyện đan ra đời sớm nhất là 2 sách còn truyền ở đời là “Thái thanh kim dịch thần đan kinh” và “Hoàng đế cửu đỉnh thần đan kinh”, theo nghiên cứu đều xuất hiện khoảng hai đời Hán.

    Về việc nghiên cứu nguồn gốc của thuật luyện đan thời kỳ đầu, có hai vấn đề đáng chú ý. Một là thuật ướp xác, hai là thuật luyện kim. Vấn đề trước giúp chúng ta hiểu được mục đích thực dụng của thuật luyện đan, vấn đề sau giúp ta hiểu bối cảnh kỹ thuật của nó.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  13. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    Trong nghiên cứu mộ táng Trung Quốc cổ đại, xác ướp là vấn đề lớn. Trước tiên hãy ví dụ bằng những xác ướp thành công đã được phát hiện. Hiện nay nói tới xác ướp, chúng ta lập tức nghĩ tới xác phụ nữ ở Mã vương đôi và xác đàn ông ở núi Phụng hoàng lên (ký hiệu khảo cổ Mã vương đôi M1 và Phụng hoàng sơn M168). Trong các báo cáo khảo cổ đã chỉ ra, kỹ thuật ướp xác của Trung Quốc có nhiều chỗ khác với kỹ thuật ướp xác ở các vùng khác trên thế giới, hai xác ướp nói trên thuộc kỹ thuật ướp khô, khác với kỹ thuật ướp lạnh, kỹ thuật này được các học giả gọi là “Mã vương đôi thi” (xác Mã vương đôi). Cách làm đại khái là:

    1) Tẩm liệm rất sớm, trước khi liệm rửa sạch xác bằng hương liệu và dùng nước đá hạ nhiệt độ trong quan tài rồi dùng các loại ngọc bịt thất khiếu (đàn ông), hoặc cửu khiếu (đàn bà), quấn chặt xác bằng vải.

    2) Chôn sâu kín, trừ chất than quanh quan quách, còn dùng thạch cao nhão bọc kín mộ để không khí không thể lọt vào.

    3) Trong xác có ngậm chì, thủy ngân, loại đá có thể giết vi khuẩn làm nát xác.

    Ngoài ra, khí hậu địa lý vùng Trường Sa Hồ Nam và Giang Nam Hồ Bắc cũng là điều kiện có tác dụng đối với việc bảo tồn xác chết.

    Hai xác ướp ví dụ ở trên là đại biểu cho truyền thống cơ bản về kỹ thuật ướp xác của Trung Quốc. Cho đến tận đời Tống, Minh, kỹ thuật ướp xác ấy vẫn được bảo tồn. Trong kỹ thuật kể trên, sử dụng chu sa rất đáng được chú ý. Nhân vì mộ táng cổ đại sử dụng chu sa là loại từ thời đại tân thạch khí đến chiến quốc Tần-Hán rất phổ biến. Ở mộ táng nào chúng ta cũng dễ dàng bắt gặp chu sa được rải khắp mộ. Trong hai ví dụ nêu trên, tuy chu sa không phải là nguyên nhân duy nhất để bảo tồn xác chết, cũng không phải là vật chất duy nhất có tác dụng diệt vi khuẩn làm hủ nát xác chết (trong mộ còn rất nhiều hương liệu), nhưng nó rất có khả năng ngăn ngừa hủ nát ở thời cổ.

    Sau nữa, tuy không có công hiệu rõ rệt, nhưng trong quan niệm của cổ nhân, “ngậm ngọc” cũng có tác dụng ngăn ngừa thân xác khỏi bị hủ nát. Chôn theo đồ ngọc là truyền thống của Trung Quốc. Theo phát hiện khảo cổ, ngọc khí (các đồ dùng bằng ngọc) xuất hiện sớm hơn thanh đồng khí rất nhiều. Các di chỉ khảo cổ phát hiện những năm gần đây tìm được rất nhiều loại ngọc chôn theo (Tùy táng) người chết chứng minh điều đó. Do vì ngọc khí ở Trung Quốc cổ đại xuất hiện sớm, phân bổ rộng, chủng loại nhiều, trình độ cao, hiện nay tất cả đều đã công nhận, nó chính là một trong những đặc điểm của văn minh Trung Quốc. Ngọc khí cổ đại có rất nhiều chủng loại được gọi bằng nhiều tên khác nhau như ngọc khuê, ngọc chương, ngọc bích, ngọc tòng, ngọc hổ, ngọc hoàng v.v... Nó dùng để trang sức đeo trong người khi sống, dùng để liệm xác khi chết. Theo sách Chu Lễ* cách dùng ngọc có nhiều loại:

    1. Dùng phục sức để làm tiêu chí đẳng cấp thân phận.
    2. Dùng vào việc tế lễ hay quân lễ lớn.
    3. Dùng để liệm xác.
    4. Dùng làm vật sính lễ hôn nhân.

    Hiện nay, phần lớn học giả chia ngọc khí ra các loại là lễ khí, binh khí, công cụ và trang sức, nhưng bất luận dùng vào việc gì, nếu dùng chôn theo người chết, đều được gọi là “Liễm ngọc”. Đời cổ dùng ngọc khí liệm xác có mộ thời đại tân thạch khí ở văn hóa Lương Chử đầy đủ tính tiêu biểu, các học giả gọi đây là “Ngọc liễm táng” (chôn liệm ngọc). Trong mộ này có rất nhiều lớp ngọc làm thành từng nhóm trang sức, lót dưới xác và bày trong mộ. Đối với hiện tượng này, các học giả giải thích không thống nhất, phần lớn coi là lễ khí tế tự, nhưng cũng có người suy đoán đó là pháp khí do thầy bói câu thông giữa trời và người, hoặc có người cho là tượng trưng cho sự giàu Có.

    Đến đời Thương Chu, chế tạo ngọc khí lại càng phát đạt. Như mộ cổ phát hiện ở Ân khư chẳng hạn, chỉ một ngôi mộ mà đã khai quật được 755 khối ngọc, đó là chưa kể các mộ phát hiện gần đây, số ngọc khí tìm được càng nhiều hơn.

    Ngoài ra, cũng nên kể thêm, trong mộ táng Lương Chử, chúng ta tìm được hai khối ngọc đã bị đốt cháy. Nó làm chúng ta liên tưởng đến câu chuyện lúc Võ vương diệt Trụ, Trụ vương đeo ngọc nhảy vào lửa tự thiêu. Chính sách Sử ký* chép chuyện này. Truyền thuyết Trụ vương may hết 4000 khối ngọc lại với nhau rồi mặc như mặc áo. Truyền thuyết này tuy khác với hầu hết các mộ táng nhưng cũng cho biết tác dụng của loại ngọc đeo theo khi chết là tập tục có thật.

    NgocLiemTang.jpg

    NGỌC LIỄM TÁNG
    Nguồn: PHƯƠNG THUẬT​
    ...
     
    viettran_ru and Wanderman like this.
  14. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    Còn về việc lý giải Chu sa, đây là nguồn tham khảo quan trọng đối với việc tìm hiểu phục thực Đạo gia vì xưa nay Đạo gia vốn tin tưởng vào loại “thượng dược” làm người trường sinh bất lão này. Trong các kinh điển dược học ra đời sớm nhất và cũng là y cứ được Đạo gia phái phục thực tôn thờ là sách “Thần nông bản thảo kinh”, "Đan sa" (tức Chu sa) được liệt vào hạng đứng đầu các dược liệu, dưới “Đan sa” là “Vân mẫu”, dưới nữa là “Ngọc tuyền” (dùng ngọc vụn chế thành thức uống). Đại biểu cho phái Đan đỉnh cổ đại là Cát Hồng trong sách Bão phác tử từng viết: “Tiên dược cao nhất là Đan sa, dưới là vàng ròng, dưới nữa là bạc, dưới nữa là linh chi, dưới nữa là ngũ ngọc...”, coi Đan sa và ngọc là những vật quan trọng nhất trong phục thực. Ở đây xin bàn đến Đan sa và ngọc.

    Cổ nhân coi trọng Đan sa, ngoài việc cho rằng “nó chủ về trăm thứ bệnh trong ngũ tạng thân thể, nuôi dưỡng tinh thần, làm an ổn hồn phách, ích khí sáng mắt, trừ quỷ tà ma mị, dùng lâu thông tới thần minh”. Đan sa vừa có công hiệu dưỡng thần ích khí và trừ tà, còn có nguyên nhân là nó công hiệu trong việc trị liệu các vết thương, như sách Chu Lễ viết: “Phàm trị liệu vết thương, dùng ngũ độc trị đó”. Trong cái gọi là “ngũ độc” ấy có “Đan sa” (theo ý kiến của Trịnh Nghĩa). Cổ nhân cho rằng vết thương là thuộc về thân thể bị sa sút, yếu đuối già cả, cái chết cũng là hiện tượng giống thế. Do đó, suy rộng ra, người xưa cho Đan sa là thuốc “làm người sống đề phòng suy yếu”, mà nếu phục thực Đan sa không có hiệu quả gì đi nữa, cuối cùng vẫn chết, người ta lại cho rằng dù sao nó cũng có tác dụng ngăn ngừa sự thối rữa của thi thể.

    Còn ngọc, cũng là một loại “thuốc tiên” để cổ nhân muốn tìm “Kim thạch chi thọ”. Họ thường đeo ngọc “Quân tử vô cớ, ngọc không rời thân” (Quân tử vô cố, ngọc bất khứ thân); họ còn thường coi ngọc là đồ ăn, hoặc giã nhỏ vụn thành nước, hoặc vo nhào thành phấn làm thành viên. Như ở các di vật quãng đời Hán thường thành đọc được câu này nhiều lần: “Trên có người tiên không biết già, khát uống ngọc vụn đói ăn táo” (Thượng hữu tiên nhân bất tri lão, khát ẩm ngọc tuyền cơ thực táo).

    Chữ “Ngọc tuyền” trong hai câu minh văn ấy là dùng ngọc vụn nát chế thành thức uống. “Thần nông bản thảo kinh” nói Ngọc tuyền “chủ trăm thứ bệnh trong ngũ tạng, mềm gân cứng xương, an ổn hồn phách, mạnh da thịt, ích khí, uống lâu chống được nóng lạnh, không cảm thấy đói khát nữa, thành thần tiên bất lão, người sắp chết uống năm cân, chết ba năm sắc không biến đổi”. Chẳng những bảo Ngọc tuyền “làm người hết đói khát” mà còn cho rằng nó còn có công năng đề phòng thi thể thối rữa (chết ba năm sắc không biến đổi). Cát Hồng trong Bão phác tử cũng nói “vàng ngọc lấp cửu khiếu, thì người chết (xác) không nát”. Thậm chí sau này có cả việc liệm xác bằng vàng ngọc giống như dùng muối ướp thịt khô vậy.

    Những điều ấy thuyết minh rõ, trong quan niệm của cổ nhân, Đan sa, vàng ngọc, đã là dược loại cho người sống ăn uống, còn là dược loại “thông dụng” ngăn ngừa xác thối rữa khi người đã chết. Họ “phục thực” loại dược liệu này, trước hết cầu bất lão thành tiên, thứ nữa cầu không bệnh sống lâu, dưới nữa cầu chết rồi xác không nát rữa, đó là một quá trình liên tục.

    ...
     
    viettran_ru and Wanderman like this.
  15. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỦA MƯỜI HAI CON GIÁP


    Mười hai con giáp, Trung Quốc gọi là Thập nhị sinh tiêu (hay còn gọi là Thuộc tướng) là một loại hiện tượng trong phong tục dân gian đặc thù của Trung Quốc. Dù trên thế giới có khá nhiều nước đều có hoặc đã từng có phương pháp ghi chép năm tháng bằng 12 con thú gần giống với Trung Quốc, nhưng coi nó là một thuộc tướng ghép vào tuổi người ta thì chỉ có ở Trung Quốc (và các nước chịu ảnh hưởng, ví dụ Việt Nam). Như thế lại sản sinh ra hai vấn đề thú vị: một, đem 12 loại động vật làm thuộc tướng của con người bắt đầu từ bao giờ? Hai, 12 thuộc tướng ấy thật sự là “thổ sản” của Trung Quốc hay là do nước ngoài du nhập vào?

    Mười hai thuộc tướng có quan hệ với 12 chi (Tí, Sửu, Dần v.v... ). Trong Giáp cốt văn đời Thương đã rõ ràng có tên gọi 12 chi và phối hợp với thập can (10 thiên can: Giáp, Ất, Bính, Đinh v.v... ), hình thành 60 giáp tí (Giáp Tí, Ất Sửu, Bính Dần v.v...) dùng ghi ngày tháng. Đồng thời trong văn hiến trước đời Tần cũng đã có dấu vết đối ứng giữa loại động vật với phù hiệu cá biệt. Ví dụ, trong Kinh Thi - Tiểu Nhã - Cát Nhật có câu: “Ngày tốt là ngày Canh Ngọ, đã lựa chọn ngựa cho ta” (Cát nhật canh ngọ, ký sai ngã mã) dùng Ngọ đối xứng với ngựa, còn trong Tả truyện - Hi công ngũ niên có câu: “Đuôi rồng phục ở Thìn” (Long vĩ phục thìn), dùng Thìn đối với rồng. Tả truyện - Tương công thập tứ niên chép việc nước Tần sai người đi giết quý tộc Khánh Hổ và Khánh Dần (đây là tập quán cổ, cha con hoặc anh em có tên khác nhau nhưng ý nghĩa giống nhau, ở đây HổDần đều nghĩa là con cọp). Điều này thuyết minh HổDần đối ứng. Đủ biết, sự quan hệ đối ứng giữa 12 chi và 12 động vật đã sơ bộ xác lập từ thời Xuân Thu. Đáng để chú ý là, liên quan đối ứng lúc ấy và liên quan đối ứng hiện nay hoàn toàn giống nhau.

    Quan hệ đối ứng giữa 12 chi và động vật bắt nguồn từ người thượng cổ sùng bái động vật. Trong sách Sơn Hải kinh* từng đưa ra khá nhiều thần động vật, chúng đều do hai loại động vật hợp thể hoặc do động vật hợp thể với người mà thành. Loại động vật đặc biệt này trong tự nhiên giới không hề tồn tại. Nhưng xét từ chủng loại hợp thể động vật, chúng không ngoài những con thú như rồng, ngựa, trâu, dê, hổ, báo, rắn, heo, chó v.v… trong đó, trừ rồng là có tính thần bí ra, tất cả con khác đều là vật thông thường, có quan hệ gắn bó với đời sống con người.

    Heo, ngựa, trâu, dê, chó là đối tượng săn bắn, sau này là thú vật được thuần dưỡng vừa là thực phẩm vừa là tư liệu sản xuất quan trọng ở thời cổ đại; hổ, báo, rắn là động vật đáng sợ, uy hiếp tới sự an toàn của con người. Chủng loại động vật mà con người tiếp xúc rất nhiều nhưng con người chỉ chọn ra một số để sùng bái, ắt vì những động vật ấy có quan hệ mật thiết với con người, những động vật ấy sau này phần lớn được liệt vào 12 địa chi thuộc tướng. Đó là nguồn gốc quan hệ giữa 12 thuộc tướng và tín ngưỡng sùng bái động vật.

    ...
     
    viettran_ru and Wanderman like this.
  16. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    Đến thời kỳ Chiến quốc, học thuyết Âm Dương Ngũ Hành hưng khởi, bọn phương sĩ đem can chi ghi ngày tháng đối ứng với động vật sở thuộc và liên hệ thuộc tính Ngũ Hành với 12 chi, tức Dần Mão thuộc Mộc, Tỵ Ngọ thuộc Hỏa, Thân Dậu thuộc Kim, Hợi Tý thuộc Thủy, Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ, dùng đó để giải thích hiện tượng tự nhiên và suy đoán họa phúc cát hung.

    12ConGiapDoiDuong.jpg

    TƯỢNG 12 CON GIÁP ĐỜI ĐƯỜNG

    (Phát hiện khảo cổ học ở Trường Sa, Hà Nam)
    Nguồn: PHƯƠNG THUẬT​

    Phương pháp suy đoán ấy kéo dài liên tục đến tận thời đại Tần Hán, lúc ấy gọi người làm nghề suy đoán này là “Nhật giả”, dùng nghề này mê tín người khác. Vương Sung* đời Đông Hán từng phê phán loại quái đản này nhưng nó lại được Đạo gia kết nạp vào trong học thuyết của mình, trong sách “Bão Phác tử”, Cát Hồng* khi bàn đến thuật thành tiên nói, tiến vào hang núi thường có quỷ mị hãm hại, những ngày có chi khác nhau sẽ xuất hiện ma quỷ khác nhau, như “Trong núi ngày Dần, có người tự xưng là Ngu lại, chính là hổ đấy”, “Ngày Tuất, người nói tên tự của mình, chính là chó vậy”, v.v... “nhưng nếu biết tên con vật thì không thể hại được”.

    12ConGiapHoaVan.jpg

    HOA VĂN TRANG SỨC 12 CON GIÁP CỔ ĐẠI

    Nguồn: PHƯƠNG THUẬT​

    Đến như dùng 12 chi động vật liên hệ với năm sinh của con người, muộn nhất đã có từ thời Nam Bắc triều, lúc ấy mỗi khi thuật chuyện người nào đều nói tới thuộc tướng của người ấy, như “Đông Hôn hầu thuộc heo”, “Thôi Tuệ Cảnh thuộc ngựa” v.v... (sách Nam Tề thư). Còn như nguồn gốc của nó thì sách sử không có minh chứng, suy đoán rất có thể ở vào thời Đông Hán. Nhân vì can chi bắt đầu từ Đông Hán, đem 12 loại động vật đại biểu cho năm tháng và làm thuộc tướng năm sinh của con người là điều hết sức tự nhiên.

    Đến đời Đường, 12 con giáp lại càng lưu hành, xuất hiện những hoa văn 12 con giáp trên gương đồng, có cả trong mộ táng đào được những tượng con giáp. Đáng để chỉ ra rằng, 12 con giáp trong một giai đoạn thời gian dài bị bôi lên một lớp màu mê tín. Lỡ gặp việc may rủi, họa phúc, người ta thường liên hệ tới chúng, thậm chí trong việc hôn nhân, người ta cũng rất chú ý không để con giáp năm sinh của chú rể xung khắc với con giáp năm sinh của cô dâu.

    Trong tay bọn thầy bói, những con giáp là một căn cứ quan trọng để suy đoán cát hung, xét tới nguồn gốc, chẳng qua bọn thầy bói này là diễn biến từ thuyết sinh khắc của bọn “Nhật giả” đời Hán. Theo thời gian vận chuyển, đối với nhiều người, sự mê tín 12 con giáp cũng phai nhạt dần nhưng nếu coi đây là những ký hiệu để ghi nhớ và tính toán năm tháng thì chúng chẳng còn ý nghĩa gì đặc biệt nữa.

    ...
     
    viettran_ru and Wanderman like this.
  17. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    SỰ HƯNG KHỞI VÀ SUY TÀN CỦA SẤM VĨ


    Sấm vĩ là tông giáo mê tín lưu hành ở đời Hán. “Sấm” là dự đoán thần bí, lời nói kín đáo khó hiểu dự đoán tốt xấu (Ngụy vi ẩn ngữ, dự quyết cát hung). Loại dự đoán này được cho là xuất phát từ Thượng đế, là phù hợp với ý trời nên lại được gọi là “Phù” hoặc “Phù mệnh”; để hiển thị tính thần bí của Sấm thư, thường thường loại bùa này được nhuộm bằng màu xanh đậm (màu lục) nên lại được gọi là “Lục”. Do vì “Phù lục” thường có hình vẽ nên cũng gọi là “Đồ sấm”.

    ” là trứ tác do các phương sĩ dùng quan điểm thần học đối lập kinh điển Nho gia giải thích và phụ hội, nó có tên gọi ấy vì đối lập với “Kinh” của Nho gia. Nghĩa gốc của chữ “Kinh” là tên gọi sợi tơ nằm dọc trên một tấm vải đan, còn “” là tên gọi sợi tơ nằm ngang. Loại sách Vĩ thư dựa vào Kinh thư giống như đường tơ ngang phối hợp cùng đường tơ dọc trên một tấm vải. Nho học đời Hán có các thuyết “Ngũ kinh”, “Thất kinh”, phương sĩ cũng có thuyết “Ngũ vĩ”, “Thất vĩ”. Vì trong Vĩ thư cũng có sấm ngữ nên sau này thường gộp chung “Sấm” và “” lại làm một, gọi là “Sấm vĩ”.

    Sấm và Vĩ tuy có sai biệt nhưng đều thấm đậm màu sắc tông giáo thần bí. Tác giả của loại Sấm thư thường mượn danh Thiên đế, Thần tiên, như đời Hán Thành đế có người chế tạo ra Sấm thư, bèn hô lên là do Thượng đế sai chân nhân Xích Tinh Tử hạ phàm dạy cho. Vĩ thư mượn danh Khổng Tử*, vốn là người xây dựng học phái Nho gia cuối đời Xuân Thu, nhưng trong sách Vĩ thư lại bị biến thành người “trước biết việc ngàn năm, sau biết việc vạn đời” trở thành một giáo chủ thông thiên.

    Sách “Hiếu kinh câu mệnh quyết” còn miêu tả tướng mạo kỳ dị của Khổng Tử là miệng rộng như biển, mũi như trâu, lưỡi có chín lớp, tay hổ, lưng rùa. Nội dung cơ bản và khuynh hướng chủ yếu của học thuyết Sấm Vĩ là thần bí hóa và tông giáo hóa kinh điển Nho gia, nó đem một vài hiện tượng ngẫu nhiên của tự nhiên giới liên hệ vào với chính trị xã hội nhân loại rồi giải thích tùy tiện, khiên cưỡng phụ hội, thực tế đây là sản phẩm hỗn hợp của Kinh học dung tục và Thần học phong kiến. Đương nhiên, ngoài tông giáo mê tín, nó còn lưu giữ được một số truyền thuyết thần thoại cổ đại, bao gồm một bộ phận tri thức về thiên văn, lịch pháp và địa lý. Ví dụ trong “Vĩ thư – Khảo linh diệu” nói: “Đất luôn luôn chuyển động không ngừng mà người không biết, ví như người ngồi trong khoang thuyền lớn, đóng cửa sổ lại, thuyền chạy mà không biết” (Địa hằng động bất chỉ nhân bất tri, thí như nhân tại đại chu trung, bế dữ nhi tọa, chu hành bất giác dã) phán ánh sự suy luận chất phác của người đương thời đối với thuyết trái đất chuyển động.

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 18/1/25
    viettran_ru and Wanderman like this.
  18. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    Trước đời Chiến quốc không hề có thuyết Sấm vĩ. Bắt đầu từ đời Tần, đã xuất hiện hiện tượng lợi dụng điềm triệu cát hung để dự đoán, sử gọi là “Tần sấm”. Truyền thuyết Tần Thủy hoàng từng sai phương sĩ Lư sinh ra biển tìm tiên, được một bộ sách viết dòng chữ “Làm mất Tần là Hồ đó” (Vong Tần giả Hồ dã), đó là ghi chép sớm nhất liên quan đến Sấm vĩ. Tần Thủy hoàng cho rằng “Hồ” là Hung Nô, bèn sai đại binh trấn giữ phương bắc, đề phòng Hung Nô nhưng kết quả sau này triều Tần mất vì tay Hồ Hợi, người giảng giải căn cứ vào câu sấm vĩ nói: “Làm mất Tần là Hồ đó”, “Hồ” đây là Hồ Hợi.

    Từ đời Chiến quốc về sau, Nho sinh và Phương sĩ, Nho gia và Âm Dương gia, Thần tiên gia từng bước đến hợp lưu, đến trung diệp Tây Hán, do Đổng Trọng Thư* tập đại thành Kinh học Nho gia, đặt cơ sở lý luận là Âm Dương Ngũ Hành, Thiên Nhân cảm ứng, kiến lập một hệ thống tư tưởng duy tâm thần học hoàn chỉnh, khiến học thuyết Nho gia từ đây bị Thần học hóa. Nó phát triển thêm một bước, sản sinh một loại Thần học sấm vĩ trong mọi lĩnh vực hình thái ý thức từ cuối Tây Hán đến Đông Hán.

    Sấm vĩ Thần học thịnh hành trong khoảng Ai đế và Bình đế cuối đời Tây Hán, điều ấy cũng có căn nguyên từ xã hội chính trị. Cuối đời Tây Hán là thời kỳ xã hội nguy cơ bộc phát, kiêm tính đất đai và thế lực đại địa chủ hào cường phát triển tàn ác khiến cho mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, các cuộc khởi nghĩa liên tục nổ ra, vương triều Tây Hán lay động sắp sụp đổ. Thế mà giới thống trị phong kiến chỉ vùi đầu cầu xin nơi tông giáo mê tín, ý đồ mượn “mệnh trời” và thần linh ru ngủ dân chúng, giới thống trị ở tầng lớp cao có dã tâm lợi dụng các loại mê tín phù lục bùa chú để chiếm đoạt chính quyền, một số quan lại và phần tử trí thức bất mãn trước sự thống trị hủ bại của vương triều Hán cũng lợi dụng phương thức mê tín ấy, đưa ra hàng loạt kháng nghị cảnh cáo.

    Trong tình hình như thế Sấm vĩ Thần học càng được phát huy rộng rãi. Thời Ai đế, Hạ Hạ Lương từng căn cứ Sấm vĩ khuyên Hoàng đế đổi niên hiệu, cho rằng làm vậy để cứu vãn nguy cơ xã hội. Vương Mãng vì muốn chiếm lấy chính quyền thực hiện cái gọi là “thác cổ cải chế” (mượn cổ sửa chế độ), bịa ra chuyện tìm được “Đồng phù bạch đồ” ở trước cung Vị Ương để hô lên ông ta chính được nhận “mệnh trời” lên ngôi Hoàng đế.

    Trong các cuộc chiến tranh cuối đời Tây Hán, Lưu Tú và Công Tôn Thuật cũng đều tranh nhau dùng Sấm vĩ nhận rằng đó là căn cứ hợp pháp để mình lên ngôi đế, như câu sấm ngữ lưu hành lúc ấy “Lưu Tú đem quân bắt (kẻ) vô đạo, mão kim sửa đức làm Thiên tử” (Lưu Tú phát binh bổ bất đạo, mão kim tu đức vi thiên tử).

    Sấm vĩ Thần học đến Đông Hán đã thành tư trào quan trọng trong xã hội. Lưu Tú lợi dụng sấm vĩ bước lên ngai vàng rồi, liền coi sấm vĩ là một loại công cụ trọng yếu để thống trị. Ông ta rất thường dựa vào sấm vĩ để quyết định chính sự, thậm chí hầu hết chế độ, màu sắc quần áo cho đến phong chức vụ cho tôi thần đều quyết định hợp với sấm vĩ, rồi với danh nghĩa Hoàng đế “tuyên bố Sấm vĩ cho thiên hạ”. Từ đây đã chính thức xác lập Sấm Vĩ thần học là tư tưởng chính trị của quan phương.

    Sau này Hán Chương đế lại đích thân chủ trì, tổ chức cho các Bác sĩ và Nho sinh đến Bạch Hổ quán mở hội thảo luận Kinh học có tính toàn quốc, bàn luận về các điểm khác và giống trong Ngũ kinh, dùng Sấm vĩ giải thích nghĩa kinh. Ghi chép trong hội nghị giao cho Ban Cố* tiến hành chỉnh lý, biên tập thành sách “Bạch Hổ thông đức luận” (gọi tắt là “Bạch Hổ thông”).

    Sách này kế tục sau sách “Xuân Thu phần lộ” của Đổng Trọng Thư, tiến thêm một bước đưa Kinh học Nho gia hòa hợp cùng với Sấm Vĩ mê tín, giải thích rộng rãi chính trị xã hội phong kiến và đạo đức luân lý. Như vậy Sấm Vĩ Thần học đã lợi dụng lực lượng chính trị để chiếm địa vị trong pháp điển quốc gia. Do được giới thống trị đề cao, Sấm Vĩ Thần học được lưu hành rộng rãi và được ứng dụng. Đương thời, các Nho gia, Sĩ đại phu đua nhau học Đồ vĩ, thành một thứ phong trào. Sấm Vĩ sản sinh ảnh hưởng sâu sắc đối với xã hội Đông Hán, thấm nhập vào mọi lãnh vực hình thái ý thức, thậm chí đến nỗi Sấm Vĩ đã trở thành đặc trưng chủ yếu của tư tưởng đời Đông Hán. Có thể nói rằng, không hiểu biết hệ thống tư tưởng của Sấm Vĩ Thần học là không thể nắm vững được văn hóa tư tưởng và xã hội đời Đông Hán.

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 18/1/25
    Wanderman and viettran_ru like this.
  19. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    Cuối đời Đông Hán trở về sau Sấm Vĩ Thần học dần dần suy yếu, nguyên nhân suy yếu ấy, một mặt do vì khoa học tự nhiên phát triển và do bị một số nhà tư tưởng tiến bộ phê phán. Ví dụ Hoàn Đàm* đời Đông Hán công khai phản đối sùng tín Sấm Vĩ, ông chỉ trích Sấm vĩ là “việc kỳ quái không có thật” (Kỳ quái hư đản chi sự), mở đầu cho phong trào phê phán Sấm Vĩ Thần học. Nhà tư tưởng duy vật kiệt xuất đời Đông Hán là Vương Sung* viết bộ sách “Luận hành” phê phán toàn diện Sấm Vĩ Thần học và những điều cấm kỵ trong đời sống thế tục.

    Sau đó tiếp theo có các ông Vương Phù, Trọng Trường Thống liên tục đả kích làm cho Sấm Vĩ Thần học tơi tả mất hết uy tín. Đồng thời, trong thời kỳ này hai tông giáo Đạo và Phật, nhất là Phật giáo ngoại lai phát triển mau lẹ, cả hai tông giáo đều tuyên truyền nhân quả báo ứng, sinh tử luân hồi, thiên đường địa ngục và tư tưởng Đạo giáo thần tiên, tương đối có hệ thống tinh vi chặt chẽ. Từ Ngụy Tấn về sau, lại hình thành một hệ thống Huyền học duy tâm. Như vậy so sánh hình thức hoang đản của Sấm Vĩ Thần học với các tổ chức tinh xảo, hệ thống chặt chẽ của Phật giáo, Đạo giáo và Huyền học, sự thô thiển, đơn giản và non nớt đã hiện ra rõ ràng.

    Vả chăng, trong xã hội Đông Hán biến động không yên, sau khi trải qua các hỗn loạn vì khởi nghĩa Khăn vàng và loạn Đổng Trác, đế quốc Đông Hán rộng lớn đã rệu rã phân tán. Trong tình hình như thế, Sấm Vĩ Thần học sống dựa vào cơ sở kinh tế chính trị cũng ngày càng tan nát, lui khỏi giới chính trị, tư tưởng, học thuật đã là việc đương nhiên của lịch sử. Dù cho nó vẫn âm thầm lưu hành nhưng đã ở vào vị thế suy tàn. Đến đời Tùy Dượng đế, chính thức hạ lệnh cấm tuyệt Sấm Vĩ

    Từ đó Sấm Vĩ ẩn nấp dưới một vài hình thức như Đồ Vĩ, Phù mệnh vẫn được giữ lại, như dưới đời Đường có câu sấm “Nữ chúa Võ vương (Tắc Thiên) thay thế chiếm thiên hạ” (Nữ chúa Võ vương đại hữu thiên hạ), nhưng với tư cách là một hệ thống thần học, cuối cùng coi như Sấm Vĩ đã chấm dứt.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  20. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    THUẬT “PHÒNG TRUNG” VÀ VĂN HOÁ CỔ ĐẠI TRUNG QUỐC


    Hơn hai ngàn năm trước đây, qua những thư tịch khảo cổ còn lại, Trung Quốc đã có thuật “Phòng trung” (thuật dưỡng sinh thông qua nhiều kỹ thuật giao hợp nam nữ) thuộc loại sớm nhất trên thế giới. Thuật Phòng trung này vừa đầy đủ vừa có hệ thống hoàn bị, cơ hồ không có gì chênh lệch lớn nếu so với hướng dẫn tình dục học của tây phương hiện đại. Hệ thống này ngoài chi tiết về kỹ thuật, về nhiều phương diện có tương quan với văn hóa cổ đại Trung Quốc. Nó bao gồm ba tầng lớp cơ bản:

    Hợp thiên đạo. Có quan hệ với bối cảnh số thuật học, từ đó phát sinh các loại cấm kỵ trong việc “phòng trung”.

    Nuôi dưỡng tính mệnh. Có mục đích chung với những nhánh về mặt phương kỹ học (y dược, phòng trung, phục thực, hành khí, đạo dẫn).

    Hòa hợp vợ chồng, kéo dài dòng dõi con cháu. Quan hệ với nhiều nội dụng như bảo vệ gia đình, hôn nhân, cầu có con, chọn lọc giống tốt v.v...

    Thảo luận về sự phát triển của tính dục học Trung quốc cổ đại, chúng ta có thể đưa ra nhiều lĩnh vực liên quan giữa thuật phòng trung với văn hóa. Ở đây xin nêu vài điểm chính:

    Một, sự hình thành Đạo giáo thời kỳ đầu luôn luôn là vấn đề quan trọng về lĩnh vực nghiên cứu tư tưởng sử Trung Quốc, vấn đề này liên quan đến Đạo gia Tiên Tần, đặc biệt là Lão, Trang. Xưa kia khi học giới thảo luận về phạm trù “Đạo”, “Đức”, thường bê nguyên si khái niệm triết học cận đại vào, bất kể lý giải tự thân của cổ nhân và nguồn gốc học thuật. Kỳ thực, Đạo gia Tiên Tần là phái biệt ra sao, điểm này và bối cảnh tri thức của nó hữu quan là: nó khác với Âm Dương gia, Âm Dương gia thích giảng “thiên đạo” (đạo trời) tức bốn mùa trời đất, âm dương ngũ hành; còn Đạo gia lại giảng về “nhân đạo” (đạo người), tức dưỡng sinh kéo dài mệnh sống, thông hiểu thần minh.

    NuThanPhonThuc.jpg
    TƯỢNG NỮ THẦN PHỒN THỰC
    (Đào được ở Liêu Ninh)
    Nguồn: PHƯƠNG THUẬT​

    Âm Dương gia quan hệ chủ yếu với số thuật, Đạo gia quan hệ chủ yếu với phương kỹ. Ví dụ, sách Lão Tử* luận “Đạo” trọng điểm không bàn về sự vận hành của đạo trời, mà bàn về sự hoá sinh của trời đất muôn vật, cái mà nó gọi là “Đại đạo” tuy là khái niệm bên ngoài con người, nhưng vẫn không phải là bản thân trời đất muôn vật, mà chính là một loại nguồn gốc của vạn hữu, một loại sức sáng tạo nguyên thủy “dùng cái không làm” (Dĩ vô vi dụng). Để thuyết minh về cái gọi là “Đạo” ấy, nó ví dụ bằng khái niệm lớn không gì ngoài được và sâu không gì có đáy là “sinh thực khí”, tức “Huyền tẫn” (mẹ huyền diệu) điển hình cho khái niệm “Cửa của khắp nơi”, “cửa của mặt đất” – earth womb – nó cho rằng tất cả “thực hữu” (cái có thực) đều do “hư không” sản sinh ra. Do vì quan điểm cơ bản này, theo đó tất cả đều cường điệu giống cái là vượt thắng giống đực (Tẫn thắng ư mẫu) hoặc mái thắng trống (Thư thắng hùng), hư không thắng thực có (Hư thắng thực), dưới thắng trên (Hạ thắng thượng), tĩnh lặng thắng hoạt động (Tĩnh thắng động), mềm yếu thắng cứng mạnh (Nhu nhược thăng cương cường).

    Thậm chí còn ví dụ bằng tinh khí của trẻ con (Xích tử) và sự giao hợp nam nữ để thuyết minh Đạo Đức sâu xa, giống như “Xích tử” vậy. Cần phải bắt chước “giống cái trong thiên hạ” (Thiên hạ chi tẫn) “sự giao hợp trong thiên hạ, giống cái luôn luôn dùng tĩnh thắng giống đực; vì sự tĩnh ấy, nên cần phải ở dưới vậy” (Thiên hạ chi giao dã, tẫn hằng dĩ tĩnh trẫm mẫu. Vị kỳ tĩnh dã, cố nghi vi hạ dã - theo Lão tử bạch thư phát hiện mới ở Mã vương đôi, ấn bản). Những khái niệm ấy, không những tất cả đều có liên quan đến thuật dưỡng sinh mà còn trực tiếp chịu sự gợi ý của thuật phòng trung. Thuật phòng trung từ sau đời Hán sử dụng khá nhiều thuật ngữ của sách “Lão tử” như “Huyễn tẫn” (sinh thực khí nữ), “Xích tử” (nguyên dương), “Ác cố” (giữ vững tinh khí). Chẳng những nó lưu hành vào cuối đời Đông Hán, mà còn được ghi chép trong các sách phát hiện mới ở Mã vương đôi, thuyết minh cả hai có quan hệ mật thiết.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
Moderators: amylee

Chia sẻ trang này