Đôi dòng lưu niệm ... Hiểu Sử NGƯỜI... Thấm Xứ TA...

Thảo luận trong 'Bàn Trà' bắt đầu bởi tducchau, 7/1/24.

Moderators: amylee
  1. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    Nguyên lý kết hợp giữa sơn với thủy là y cứ, lý luận của nó. Trong lý luận này, quan trọng bậc nhất là khái niệm về Khí. Khí sinh ra vạn vật trời đất, đó là vũ trụ quan truyền thống. Sách “Quách Phác Táng kinh” viết: “Khí âm dương than thở mà thành gió, bay lên thành mây, hạ xuống thành mưa, lan khắp mặt đất thành sinh khí, sinh khí ấy phát ra trên đất sinh ra vạn vật” (Phù âm dương chi khí y nhi vi phong, thăng nhi vi vân, giáng nhi vi vũ, hành hồ địa trung nhi vi sinh khí, sinh khí hành hồ địa trung phát nhi sinh hồ vạn vật).

    Theo học thuyết của “Hoài Nam tử” hợp khí của trời đất là Âm Dương, khí Âm Dương thực sự lại do khí vũ trụ sinh ra. Âm Dương lại có thể sinh ra vạn vật bốn mùa nên cái gọi là “sinh khí lan khắp mặt đất” chính là tình huống khí Âm Dương sinh ra vạn vật trên mặt đất. Sinh khí là tên gọi khác của khí Âm Dương, nói trắng ra quan niệm khí sinh vạn vật là miêu tả cụ thể của thuật địa lý. Lý luận thuật phong thủy về “Khí” có hai trạng thái là “Chỉ” (dừng lại) và “Tụ” (tụ lại). Khí bị gió thổi tan ra “gặp nước ắt dừng lại” (Giới thủy tắc chỉ).

    Do vậy “Giới thủy” là một trong nhiều mô thức hoàn cảnh. Chọn lựa xác định “Huyệt” rất cần phù hợp với loại lý luận về nước. Khí có dừng lại sau đó mới “tụ” được, mà muốn đạt tới trạng thái “tụ” trước tiên phải chặn được gió thổi. Do vậy, mô thức hoàn cảnh bốn bề chung quanh nơi cư trú cao vọt lên xuất hiện. Nói chung là nơi đó bốn mặt đất cao hơn, lại có cả sông nước mới có khả năng cho khí tụ. Nơi cư trú tốt đẹp được giải thích như thế. Khí có tụ sau đó mới có thể sinh ra vạn vật. Người ta ra đời là được bẩm thụ bởi khí, vì vậy khí tụ mới có sự sống.

    Khí của long huyệt qui kết lại có hai điểm đặc trưng: một là khí cần phải liên tục không đứt đoạn, hai là khí cần phải tụ. Hai điểm này cũng chính là đặc trưng hình tượng của Long huyệt. “Khí” chẳng qua là khái niệm trừu tượng, thế nhưng, không có khái niệm này lại không được, vì chính nó giúp cho lý luận phong thủy tìm được chỗ y cứ. Nếu không, lý luận về chỉnh thể hoàn cảnh của phong thủy chẳng còn cơ sở gì nữa.

    ...

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Click icon này sẽ chuyến về Index... :)
     
    Wanderman thích bài này.
  2. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    Liên quan đến thuật ngữ “Long” và “Huyệt” còn có thuật ngữ “Sa” và “Thủy”. Nghĩa gốc của Sa là cát đá vụn tạo thành đá, trong thuật địa lý, Sa chỉ đơn nguyên cấu tạo thành “Long”. Long là mạch lạc toàn thể địa thế, Sa chỉ là một ngọn núi cá biệt nhưng không phải ngọn núi nào cũng gọi là “Sa”, chỉ có núi tương quan với “Huyệt” (nơi cư trú) mới được gọi là “Sa”. Khái niệm về “Sa” này có liên quan đến mô thức hoàn cảnh cấu tạo nên thuật phong thủy.

    Trên đây có nhắc tới các loại Long mạch, Tổ sơn, Thiếu tổ sơn đều chỉ núi ở sau lưng nơi cư trú, điều này thống nhất với cái mà thuật phong thủy gọi là “Lai long khứ mạch”. Sau lưng nhà là “Lai xứ” (chỗ đến), tên gọi các núi tổ tông là chỉ “Lai xứ” ấy. Tất cả núi hoặc gò đất ở hai bên phải trái hoặc trước mặt nhà ở (Huyệt) là “Sa”. Trong thuật địa lý, núi cạnh trái nhà ở gọi là “Thanh long sa” gọi tắt “Thanh long” hay “Tả phụ”, “Tả kiên”, “Tả tí”; núi cạnh phải nhà gọi là “Bạch hổ” hay “Hữu bật”, “Hữu kiên”, “Hữu tí”.

    PhongThuy_LongMachSaHuyet.jpg

    HÌNH TƯỢNG TRƯNG LONG MẠCH SA HUYỆT

    1-Tổ sơn; 2 Thiếu tổ sơn; 3- Chủ sơn; 4- Huyệt; 5- Án sơn; 6- Triều sơn;
    7- Tả tí sa; 8- Hữu tí sa; 9- Hộ sơn; 10- Hộ sơn; 11- Thủy khẩu sa; 12- Thủy lưu​

    Thanh Long, Bạch hổ là tên gọi tứ tượng, dùng để gọi “Sa” hình như có dụng ý so sánh với tinh tú. Vả chăng, “Huyệt” cũng tượng trưng cho tiểu vũ trụ, “Hữu bật” cũng là tên sao, nghĩa gốc của nó vốn thuộc nhân văn, tên gọi này có ẩn ý ví dụ “Huyệt” là ngôi quân chủ, Kiên (vai) và (tay) là tên gọi bộ phận thân thể con người, dùng ở đây với dụng ý ví dụ thân thể người ta. Các thuật ngữ này rõ ràng muốn biểu hiện vị trí đặc trưng của “Huyệt” tức Chính vị (vị trí trung ương, chính giữa, quan trọng).

    Có nhà ở (Huyệt) rồi mới có “Hộ sơn” (núi che chở bảo vệ). Ở hướng chính diện nhà, hơi gần nơi cư trú có gò đất nhỏ gọi là “Án sơn” (núi bàn), ý là trước mặt nhà vua ngồi phải có bàn. Cách hơi xa nơi cư trú có núi gọi là “Triều sơn” (núi chầu) với ý nghĩa là triều bái, chầu bái. Thể chế lễ gặp nhau giữa vua tôi hay chủ khách đã được thể hiện trong mô thức kiến lập nhà ở (Huyệt). Như vậy đặc trưng cách cục của một nơi cư trú tốt là hoàn toàn rõ ràng, tức nó phải ở giữa trung điểm, đó cũng là Minh đường. Và như vậy, tổng thể đặc trưng của một mô thức cư trú tốt đẹp cũng đã rõ, tức nó cần có mô thức hình tròn hoặc hình vuông ngay ngắn.

    Khí ban sơ tụ là hình tròn, đó là mô thức của vũ trụ ban sơ. Sách “Hoài Nam tử” viết: “Đạo trời tròn, đạo đất vuông” (Thiên đạo viết viên, địa đạo viết phương). Đặc điểm mô thức vuông tròn này là ở vị trí trung chính. Vị trí trung chính cũng là mô thức “trong không sinh có” (Vô trung sinh hữu) của vũ trụ, vạn vật đều manh nha từ đây.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  3. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    Mô thức hoàn cảnh kiến lập của “Huyệt” đương nhiên chịu ảnh hưởng loại tư tưởng truyền thống này. Xét từ hình tượng, mô thức cuộc đất có bốn mặt chung quanh cao hẳn lên hiển nhiên phù hợp với đặc trưng hình thái tụ hợp. Người ta có thể tụ hợp cư trú, khí cũng có thể tụ. Gió thổi khí đến đây bị các gò núi cao chận không vào được. “Khí theo gió ắt tan”, không tan được tức là tụ. Thuật phong thủy gọi huyệt có hình ổ là “Oa huyệt” là nơi cư trú giàu có, trái lại huyệt hình cong như cây cung (Cung hình huyệt) là “Tiện huyệt” (nơi cư trú nghèo nàn). “Oa huyệt” (vì có hình ổ) nên tụ khí và như vậy là Tốt, trái lại “Cung hình huyệt” không tụ khí được nên Xấu, mô thức tụ khí ấy gọi là “Tụ cục”.

    Sách “Thanh nang áo chỉ” của Dương Quân Tùng phát huy thêm thuyết Âm Dương: “Con mái là Âm, con trống là Dương, đó là hai Khí vậy. Nói về mái và trống giống như nghĩa vợ chồng vậy. Vợ chồng giao kết nên sinh nam nữ, mái trống giao hợp nên phẩm loại được nuôi nấng, đó là nghĩa lớn của trời đất hóa sinh vậy”.

    PhongThuy_AmDuongTuCuc.jpg

    HÌNH ÂM DƯƠNG ÔM NHAU THEO “TỤ CỤC”​

    Âm Dương giao hội là gốc sinh ra Khí. Dùng đó để xét mô thức “Tụ cục” bên trái bên phải ôm lấy nhau tự nhiên là hình thế Âm Dương giao hội. Mô thức Khí xoay về trái hay xoay về phải có xuất xứ từ tri thức thiên văn. Cũng trong “Thanh nang áo chỉ”, Dương Quân Tùng viết: “Khí trời xoay về phải là Dương, Khí đất xoay về trái là Âm” (Thiên khí tả toàn vi Dương, Địa khí hữu toàn vi Âm). Như vậy Âm Dương, phải trái của Long mạch hoàn toàn hợp điệu với sự vận hành của vũ trụ trời đất.

    Long mạch đã chia ra Âm Dương, đương nhiên phải chia ra Ngũ Hành, nếu không, không hoàn toàn viên mãn về quan điểm vũ trụ truyền thống. Sách “Quản thị địa lý chỉ mông” viết: “Trước khi trời đất chưa ổn định, năm khí đều ở trong hỗn độn, sau khi chia ra Càn Khôn, mỗi khí có phần riêng biệt của mình” (Cái thiên địa vị định chi tiền, ngũ khí câu tại hỗn độn chi nội, càn khôn ký phán chi hậu, ngũ khí toại các hữu chuyên khư). Đây là y cứ lý luận cho thuật tìm long mạch phong thủy.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  4. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    Trong phép chiêm đoán theo hoàn cảnh hình tượng, nó chia hình thế núi ra 5 đặc trưng, như hình núi đỉnh tròn chân rộng là Kim sơn (núi hình nhọn), núi đỉnh tròn hình nhưng thân thẳng là Mộc sơn (núi hình gỗ), núi đỉnh bằng hình như sóng là Thủy sơn (núi hình nước), núi đỉnh nhọn chân rộng là Hỏa sơn (núi hình lửa), núi đỉnh bằng phẳng thanh tú là Thổ sơn (núi hình đất).

    PhongThuy_CacHinhTheNuiNguHanh.jpg

    HÌNH CÁC THẾ NÚI THEO NGŨ HÀNH​

    Trong thuật phong thủy còn có “Thủy pháp” chuyên môn. Đây là phương pháp chiêm đoán theo hình thái nước (hay sông ngòi) chảy. Thủy (sông nước) có địa vị quan trọng trong thuật phong thủy. Lý luận phong thủy có nhiều câu danh ngôn nhấn mạnh tới tính quan trọng của “Thủy” như “Phép xem phong thủy, được Thủy là hơn hết” (Phong thủy chi pháp, đắc thủy vi thượng), “Khí gặp nước ắt dừng” (Khí giới thủy tắc chỉ). Tính quan trọng của Thủy nằm trong mô thức của Huyệt. Huyệt là sản phẩm do SơnThủy tụ hợp kết thành.

    Núi (Sơn) có các núi vây họp chung quanh, nước (Thủy) cũng có các giòng chảy giao hợp. Núi có nguồn gốc “Tổ tông”, nước cũng có giòng thuận nghịch. Nguyên tắc cấu tạo thành Huyệt của Sơn và Thủy là nhất trí. Thuật ngữ gọi sơn mạch là Long mạch, gọi nước chảy là Huyết mạch. Huyết mạch có nguồn gốc, nhận rõ nguồn gốc là biết được giòng chảy thuận hay nghịch. Điểm ấy nhất trí với thuyết Sơn mạch tương sinh.

    Trong thuật ngữ phong thủy, sự phân biệt nhận biết nguồn gốc Long mạch và Huyết mạch gọi là “Tróc mạch”, còn thuật ngữ “Tam thoa” là nơi ba con sông hợp lại, ở nơi tương hợp này nhất định cần phải nhận rõ quan hệ tụ hay tán. Nơi gọi là “Long thủ” (đầu rồng) tức là “Long sơn”. Xác định được vị trí Long sơn mới xác định được “Huyệt”. Huyệt có khí tụ mới có sự sống. Cũng vì vậy trước mặt Long sơn cần phải có nước, dùng Huyết mạch thay thế Long mạch.

    Khí vận động theo hình thể gặp nơi có sông nước Khí dừng lại, Khí dừng chủ về sự sống. Gió thổi đến Long sơn không thể làm tan Khí (vì bị Long sơn ngăn chặn lại), đó là đại ý của câu “Khí theo gió tan, mạch gặp nước dừng” (Khí thừa phong tán, mạch ngộ thủy chỉ). Trước mặt Long sơn không chỉ cần có thủy mà còn cần có cả sự giao hội của hai dòng nước chảy từ trái và phải. Có như vậy, chẳng những khí được sinh ra mà còn được tụ lại.

    Đối với “Huyệt” mà nói, nơi dòng nước chảy đến gọi là “Cửa trời” (Thiên môn), nơi dòng nước chảy đi gọi là “Cửa đất” (Địa hộ), tên gọi đó thống nhất với tên gọi trên la bàn.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  5. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    Long, Sa, Huyệt, Thủy là bốn thuật ngữ quan trọng nhất trong thuật địa lý và cũng là bốn hệ thống lớn về hoàn cảnh để chiêm đoán mô tả. Trong tình huống sử dụng bốn thuật ngữ này, đại khái có thể rút ra mấy điểm:

    Một, đối tượng mà Long, Sa, Huyệt, Thủy chỉ tới là tồn tại khách quan. Xét một cách tương đối, SaThủy là đối tượng cục bộ; LongHuyệt là đối tượng chỉnh thể, chúng tổ hợp thành do Sa hoặc Thủy.

    Hai, ý nghĩa tượng trưng của Long, Sa, Huyệt, Thủy chủ yếu thông qua phương pháp loại suy mà có, ý nghĩa loại suy không ngoài phạm trù thiên văn và nhân văn, trong ấy nhân văn chiếm đa số như các khái niệm về Tổ sơn, Thiếu tổ sơn, Triều sơn v.v... tất cả những khái niệm này đều có công năng phán đoán tốt xấu. Thuật phong thủy thường dùng loại ý nghĩa hình tượng này đoán định đối tượng tốt hay xấu.

    Ba, sự quan hệ giữa Long, Sa, Huyệt, Thủy là mô thức hóa. Mô thức này là mô thức chỉnh thể của hoàn cảnh tự nhiên, nguyên lý cấu tạo nên nó chủ yếu là lý luận trật tự tương sinh. Loại lý luận này xuất phát từ vũ trụ quan truyền thống, trong ấy quan trọng nhất là khái niệm về “Khí”. Do vậy mô thức này có thể coi là bức ảnh thu nhỏ của địa lý phong thủy vẽ mô thức vũ trụ. Đặc trưng rõ ràng nhất của nó là “Tụ”. “Tụ” ở huyệt chính giữa tức là nơi cư trú. Dưới đây là một mô thức điển hình của nhà ở Trung Quốc.

    PhongThuy_MoThucNhaO.jpg

    MÔ THỨC ĐIỂN HÌNH CỦA NHÀ Ở TRUNG QUỐC​

    Tường bao quanh giống như tường thành, trục tuyến giữa chủ yếu là sảnh đường nhà ở, hai bên sảnh đường có phòng hành lang, đối diện thẳng sảnh đường có cửa lớn, ngoài cửa có bình phong, khoảng giữa có thiên tỉnh. Tường bao quanh và phòng ốc bốn bên cấu tạo nên một không gian trật tự. Mô thức không gian lý tưởng của nhà ở theo thuật phong thủy Trung Quốc là mô thức được khái quát theo đồ hình dưới đây.
    PhongThuy_MoThucKhongGianTt.jpg

    PhongThuy_MoThucKhongGianTt-1.jpg

    Thuật phong thủy (lấy mạch khí) làm gốc lấy “Sa” làm dụng chiêm đoán chọn lựa hoàn cảnh cư trú liên quan rất nhiều đến nội dung của “Sa”, vì vậy phương pháp chia hình thế núi cá biệt còn gọi là “Sa pháp”. Lý luận của “Sa pháp” và “Mạch khí” có quan hệ tới hình và thế. Ngoài căn cứ chiêm đoán về hình tượng của cuộc đất, thuật phong thủy còn một phương pháp chiêm đoán theo số thuật. “Tượng” và “Số” vốn là hai khái niệm đối ứng của Dịch học được thuật phong thủy vận dụng. Tuy vậy, giữa hai môn phái “Tượng” và “Số”, môn phái “Tượng” luôn luôn được coi trọng và được kế thừa liên tục, vì vậy, ở đây chúng tôi chú ý tới phong thủy Tượng thức nhiều hơn.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  6. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    2. PHONG TỤC SÙNG BÁI TƯỢNG THẦN DÂN GIAN


    Cũng giống như nhiều dân tộc cổ đại khác, dân gian Trung Quốc có nhiều tín ngưỡng vật tổ thần linh từ thời “khai thiên lập địa” cho đến khi bước vào chế độ phong kiến ổn định. Dân gian Trung Quốc tôn thờ rất nhiều các loại tượng thần với nhiều lai lịch rất khó truy nguyên nguồn gốc. Ở tiểu mục này, chúng tôi giới thiệu tương đối hệ thống thần linh của họ với chú giải gọn nhưng đầy đủ về xuất xứ mỗi tượng thần. Tiểu mục này, chúng tôi căn cứ hoàn toàn vào sách Dân gian chư thần của Diệp Triệu Tín, Trung Quốc khinh công nghiệp xuất bản xã, Bắc Kinh, 2000.

    *

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    *​

    PHONG TỤC TỤC SÙNG BÁI TƯỢNG THẦN Ở TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI


    Trung Quốc cổ đại là một quốc gia có tinh thần sùng bái thần tượng rất cao. Sùng bái tượng thần không phải chỉ một mình dân tộc Trung Quốc, mà là hiện tượng chung của cả nhân loại. Dân tộc khác nhau và đất nước khác nhau có tín ngưỡng tông giáo khác nhau, mỗi dân tộc và quốc gia đều có lịch sử dài sùng bái thần tượng. So với hoạt động sùng bái thần với các quốc gia khác, hoạt động sùng bái thần ở Trung Quốc có những đặc điểm:

    ① Thần thoại ở Trung Quốc thời viễn cổ tuy rất phong phú nhiều màu sắc, nhưng hiện tại chỉ còn lại chút ít tàn dư; thuật bói toán (vu thuật) ở Trung Quốc cổ đại tuy có nhiều danh mục, nhưng trước sau chưa hề phát triển thành một tông giáo có tính phổ biến. Hiện tượng ấy là do kết quả dưới xã hội phong kiến văn hóa sử quan và học thuyết Nho gia luôn luôn chiếm được địa vị chủ đạo.

    ② Vào đời Thương đã có lý luận “dùng đạo thần lập giáo thì thiên hạ an ổn”, đó chính là tư tưởng chủ đạo giúp các đế vương lịch đại chỉ nhắm vào hoạt động sùng bái thần linh.

    ③ Trong lịch sử Trung Quốc, tuy có khá nhiều tông giáo ngoại lai du nhập vào và cũng có tông giáo sản sinh từ bản địa, nhưng cuối cùng chỉ có Đạo giáo kết hợp với Phật giáo và tư tưởng Nho gia là có thể lưu truyền lâu dài. Dù cho hai tông giáo kia có ảnh hưởng rất lớn với xã hội Trung Quốc nhưng xưa nay chưa bao giờ được coi là có địa vị độc tôn. Trong xã hội phong kiến Trung Quốc chưa hề xuất hiện một loại hình thức quốc gia hợp nhất chính trị và tông giáo.

    ④ Dù giữa các loại tông giáo vẫn tồn tại đấu tranh, nhưng tính chất đấu tranh ấy chỉ nhằm lung lạc triều đình để được ân sủng nhiều hơn; giữa các loại tông giáo, giữa các giáo đồ với nhau sự mâu thuẫn không hề đưa tới chiến tranh tông giáo. Dù trong lịch sử cũng nhiều lần xuất hiện sự việc “diệt Phật” hoặc “diệt Đạo”, nhưng đều chỉ là phản ánh sự đấu tranh trong nội bộ gia đình Hoàng thất, chẳng liên quan gì đến mâu thuẫn giữa các tông giáo cả.

    ⑤ Dân gian sùng bái thần là một loại hiện tượng tông giáo, trong ấy có nhuốm thành phần màu sắc mê tín nhất định, nhưng cũng phản ánh được phong tục tình cảm của dân chúng, là một bộ phận quan trọng tổ hợp liên kết thành mỹ thuật và nghệ thuật dân gian. Trong ấy gửi gấm rất nhiều hi vọng được sáng sủa, được hạnh phúc, được an cư lạc nghiệp của nhân dân, và cũng biểu lộ cả lòng kính phục, tưởng nhớ đến các bậc trung thần lương tướng, danh thần hiền sĩ của nhân dân, có tính giáo dục luân lý trung hiếu, đương nhiên cũng có cả lòng bị khuất phục trước mê tín và vu thuật bói toán.

    Lòng sùng bái thần của dân gian luôn luôn bị những đoàn thể bí mật lợi dụng, tạo thành sự uy hiếp phá hoại cho trật tự chính thống dưới xã hội cũ. Sùng bái thần ở Trung Quốc cổ đại là một đề tài vừa rộng lớn vừa phức tạp, sách này chỉ chọn lọc một số tư liệu, giới thiệu giản lược một số hiện tượng sùng bái thần ở Trung Quốc cổ đại. Sùng bái thần linh vốn có nguồn gốc từ quan niệm xa xưa “Vạn vật hữu linh” (Muôn vật có linh hồn) ở hậu kỳ xã hội nguyên thủy.

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 30/6/25 lúc 23:12
    Wanderman thích bài này.
  7. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    QUAN NIỆM “VẠN VẬT HỮU LINH”


    Hậu kỳ xã hội nguyên thủy, nhân dân thời đại ấy bắt đầu dùng nhãn quan ấu trĩ để quan sát và nhận thức thế giới. Trong tình cảm nhận thức chất phác thuần khiết của họ, thế giới chung quanh thực khó hiểu, ví dụ các hiện tượng sấm sét giáng xuống từ trời cao, lửa bốc lên trong rừng, sự vận hành của mặt trời mặt trăng, sự biến ảo của cầu vồng mây ráng, biến hóa bốn mùa, cuộc sống sinh diễn phồn thực v.v... đều là do một sức mạnh siêu tự nhiên thao túng - Thần linh. Dân thời nguyên thủy nhận định: đã có sức mạnh siêu tự nhiên - Thần linh làm chủ tể nhiều bộ phận hoặc toàn thể bộ phận vật chất ở thế này, thì sao người ta không mượn từ sự sùng bái Thần linh, mượn sự thờ phụng Thần linh để hi vọng được thuận lợi thực hiện hi vọng vào huyễn tưởng của nhân loại.

    PTSB1-ThaiDuongThan.jpg

    THÁI DƯƠNG THẦN
    (Hình vẽ trên động đá)​

    Do vậy, trong lòng nhân dân nguyên thủy không chỉ coi mặt trời, mặt trăng, núi sông, mưa gió, sấm sét là Thần mà còn coi cả các loại động vật, thực vật, thậm chí đến cả các loại sinh vật nhỏ bé đều là Thần linh để được sùng bái. Từ quan điểm hiện đại mà xét, đó là quan niệm mông muội tối tăm, nhưng từ chỗ tối tăm mông muội ấy mới sản sinh ra sự sùng bái tông giáo nguyên thủy và thần thoại nguyên thủy.
    PTSB2-TeThan.jpg

    TẾ THẦN
    (Hình vẽ trên động đá, Quảng Tây)​

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  8. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    SÙNG BÁI TỔ TIÊN


    Sùng bái tổ tiên là tục thờ lạy vong linh tổ tiên đã khuất. Nhân dân nguyên thủy nhận định: Người chết rồi linh hồn vẫn tiếp tục sống. Vì vậy, vong linh tổ tiên có năng lực che chở và ban phúc cho con cháu đời sau. Sùng bái tổ tiên bắt đầu hình thành ở chế độ gia đình vào cuối xã hội nguyên thủy, đó chính là sản vật kết hợp giữa quan niệm thị tộc, gia tộc và tín ngưỡng linh hồn, là lòng kính ngưỡng của nhân loại đối với người có quan hệ máu huyết với chính mình. Sự xác lập chế độ mẫu quyền là điều kiện sinh tồn của xã hội. Do xã hội thị tộc bắt đầu từ Mẫu hệ thị tộc, nhân dân nguyên thủy trước tiên thờ phụng tổ tiên phụ nữ.

    Gần đây, ở phía tây tỉnh Liêu Ninh và khoảng giữa huyện Kiến Bình có phát hiện khảo cổ di chỉ miếu nữ thần và “Tế phường di chỉ”. Trên tế phường ấy có khoảng đất bằng phẳng, cạnh khoảng đất có tường đá, cạnh nam là Nữ Thần điện. Ở di chỉ này, đào được 5, 6 tượng thần phụ nữ, trong ấy có một pho khá lớn phụ nữ bằng gốm khỏa thân có thai. Các nhà khảo cổ nghiên cứu cho biết tượng nữ thần và tục sùng bái tổ tiên nói trên có liên quan, nhưng nó vượt qua phạm vi tế tự thị tộc, có khả năng đây là tượng Mẹ thủy tổ của bộ lạc - tính sùng bái nữ tổ tiên, trong ấy ngẫu tượng đang có thai, thuyết minh rõ đây chắc là Nữ thần sinh thực chủ tể cho sự sinh sản đông đúc của nhân loại.

    PTSB3-PhuDieuHinhNguoi.jpg

    PHÙ ĐIÊU HÌNH NGƯỜI
    (Trên bình gốm màu, Thanh Hải)​


    Nghiên cứu khảo cổ học và dân tộc học chứng thực sự thờ bái nữ tổ tiên ở thời đại Mẫu hệ Trung Quốc là có thực. Đương thời đều nói “Nhận nhiều phúc đức là do vương mẫu” chứ không hề nói tới “Vương phụ”.

    Truyền thuyết mẫu thần của họ Phục Hi là Hoa Tao, mẫu thần của họ Thần Nông là An Đăng, mẫu thần của họ Hữu Hùng là Phụ Bảo, mẫu thần của họ Thiếu Hạo là Nữ Tiết, mẫu thần của họ Đào Đường là Khánh Đô, mẫu thần của họ Hữu Ngu là Ác Đăng, mẫu thần của họ Hạ Hậu là Tu Dĩ, mẫu thần tộc Thương là Giản Địch, mẫu thần tộc Chu là Khương Nguyên v.v... nữ thần trên đàn tế lễ của những dân tộc ấy, cho biết phụ nữ đã được tôn sùng trong xã hội thị tộc mẫu hệ.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  9. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    THẦN BỘ LẠC, THẦN DÂN TỘC


    Trong sự sùng bái thần linh ở đời viễn cổ, ngoài các loại thần tự nhiên, còn có thần bộ lạc và thần dân tộc hợp nhất thần và người. Thần bộ lạc và thần dân tộc là sản vật kết hợp cùng sùng bái tự nhiên và tổ tiên, và cũng là sản vật của kinh tế thị tộc lúc ấy.

    PTSB4-NgoiHinhPhucHyNuOa.jpg

    NGÓI CÓ HÌNH PHỤC HY, NỮ OA
    (Tứ Xuyên)​

    Thần bộ lạc là thần của tín ngưỡng tông giáo mà bộ lạc thị tộc ấy sùng bái, thường có liên quan đến nguồn gốc của thị tộc. Ví dụ như liên quan đến nguồn gốc của thị tộc Ân như sau: con gái họ Hữu Nhung là Giản Địch, nhờ nuốt trứng chim én sinh ra Tiết, Tiết trở thành thần tổ tiên của thị tộc Ân. Thần thoại này biểu minh, thần bộ lạc tộc Ân đã trải qua quá trình sùng bái vật tổ (chim én hay chim phụng), sùng bái nữ thần (họ Hữu Nhung và Giản Địch) sùng bái nam thần.

    PTSB5-HoaVanChimThu.jpg

    HOA VĂN CHIM THÚ
    (Trên bình gốm, Thiểm Tây)​

    Thần dân tộc là thần do tông giáo dân tộc tín ngưỡng, thường có liên quan đến thần thoại nguồn gốc dân tộc. Do các bộ lạc vì luôn luôn tìm cách thôn tính mà dung hợp với nhau, một số thần bộ lạc lớn hơn cũng dần dần hợp nhất, hoặc trong ấy hình thành một hoặc nhiều vị chủ thần. Một số thần bộ lạc và thần dân tộc có ảnh hưởng lớn không bị tiêu diệt dù bộ lạc hoặc dân tộc mình đã bị thôn tính, mà vẫn được lưu truyền với hình thức tông giáo lớn hơn. Ví dụ như Hoàng đế, Viêm đế đều đã từng là thần dân tộc hay như Xuy Vưu là thần dân tộc của dân Miêu. Các thần thủy tổ của Trung Quốc tuy có nhiều, nhưng hầu hết đều coi Phục Hi, Nữ Oa là chuẩn tắc.

    PTSB6-HoaVanMatThu.jpg

    HOA VĂN MẶT THÚ
    (Trên đỉnh đời Thương Chu)​

    Tóm lại, phong tục sùng bái thần linh ở thời viễn cổ Trung Quốc là rất nhiều, nhưng do vì nguyên nhân lịch sử, tư liệu còn lại mất mát nhiều, rất khó tìm hiểu rõ. Theo sự tiến bộ của văn minh nhân loại, sùng bái thần linh viễn cổ cũng thay đổi ít nhất là từ chế độ mẫu hệ tiến sang chế độ phụ hệ. Đầu tiên là rất nhiều thần, trải qua đa thần, chủ thần, nhất thần rồi theo thứ tự phát triển đơn nhất hóa. Địa vị các thần và xã hội nguyên thủy cũng làm cho thế giới thần tiên vốn đơn giản, từ từ xuất hiện một hệ thống thần linh phức tạp với những chức vụ khác hẳn nhau.

    Chức trưởng quản toàn bộ thần linh như Thiên thần, Địa thần là Đại thần; còn các chức chỉ cai quản một bộ phận, một hệ thống hay một loại, một phương diện nào đó là Tiểu thần. Phần lớn trong thời kỳ đầu xã hội nguyên thủy đều coi Địa thần là thần tối cao, vì cho rằng đất là mẹ của vạn vật, thích hợp với sùng bái phụ nữ thời ấy. Đến khi xã hội phụ hệ dần dần hình thành, bắt đầu sùng bái thần nam, xã hội mẫu hệ bước tới giải thể thì Trời trên cao, đất dưới thấp, Thiên thần được chuyển làm Thần tối cao.

    PTSB-TamGuongVeHinhXeNgua.jpg

    TẤM GƯƠNG VẼ HÌNH XE NGỰA THẦN TIÊN ĐỜI HÁN
    (Chiết Giang)​
     
    Wanderman thích bài này.
  10. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    SÙNG BÁI THẦN LINH VỚI CÁC ĐẾ VƯƠNG TRUNG QUỐC


    VUA – CON TRAI CỦA THIÊN ĐẾ Ở TRẦN GIAN


    Người đời Ân xây dựng cơ sở ổn định cho văn hóa dân tộc Trung Quốc, trải qua 600 năm khai mở của dân Ân, phương bắc Trung Quốc, đặc biệt là vùng lưu vực Hoàng Hà, văn hóa phát triển tương đối cao. Trung Quốc, tên gọi ấy bắt đầu từ đời Thương như thiên Tử tài sách Kinh Thư* hay thiên Dân Lao, Đại Nhã, Kinh Thi* đều gọi vương triều Thương là Trung Quốc. Điều ấy là vì đương thời trong các nước nhỏ chung quanh, vương triều Thương với văn hóa, chính trị, kinh tế tiến bộ được coi là nước trung tâm duy nhất.

    PTSB-HinhMatThu.jpg

    HÌNH MẶT THÚ TRANG TRÍ TRÊN NGỌC ĐỜI TÂY CHU​

    Thậm chí con cháu vài trăm năm của dân Ân vẫn tưởng nhớ đến tổ tiên Thành Thang của mình với chiến công hiển hách:

    Tích hữu Thành Thang
    Tự bỉ Chi, Khương
    Mạc cảm bất lai hương (hưởng)
    Mạc cảm bất lai vương

    Tạm dịch:
    Xưa trong thời vua Thành Thang
    Từ nước rợ Chi, rợ Khương kia
    Chẳng có ai dám không đến dâng cống
    Chẳng ai dám không đến chầu.
    (Thi Kinh. Thương tụng. Ân vũ)
    *
    Vũ vương mỹ bất thắng
    Long kỳ thập thừa
    Đại xí thập thừa
    Bang kỳ thiên lý
    Duy dân sở chỉ
    Triệu vực bỉ tứ hải
    Tứ hải lai cách
    Tạm dịch:
    Là vua về vũ bị, không có nơi nào là không thắng
    Mười chiếc xe cắm cờ long kỳ
    Chở lúa nếp đến dâng cống
    Kinh kỳ của nhà Thương rộng ngàn dặm
    Là chỗ của dân chúng ở
    Lãnh vực mở rộng xa đến bốn bể
    Người bốn bể đều đến thuận phục nhà Thương.
    (Thi Kinh. Thương tụng. Huyền điểu)​

    PTSB-HinhMatNguoiDoiThuong.jpg

    BÌNH MẶT NGƯỜI ĐỜI THƯƠNG
    (Hà Nam)​

    Do vì chế độ nô lệ đã thành lập, quyền lực đã quy về một người dưới đất, thần ở trên trời cũng chẳng còn nhiều nữa. Xét những “lời bói” (bốc từ) còn lại ngày nay, dân tộc Ân đã sáng tạo ra một “Thiên đế” chí tôn vô thượng, không gì không làm được, không chỉ quản lý họa phúc của con người mà còn chi phối cả hiện tượng tự nhiên. Con trai của vị “Thiên đế” ấy là chủ nô lệ trần gian. Các vua cuối đời Thương trong đế hiệu thường kèm theo chữ “Đế” như “Đế Ất”, “Đế Tân” v.v... ấy là muốn biểu thị tình cha con mật thiết với “Thiên đế” của vua Thương. Chủ nô lệ đời Thương và giới quý tộc cơ hồ ngày nào cũng có hoạt động tế lễ quỷ thần và tổ tiên, thậm chí một ngày tế lễ mấy lần. Trong cung thành, miếu đền dựng khắp nơi.

    PTSB-HoaVanMatNguoiTrenDinh.jpg

    HOA VĂN MẶT NGƯỜI TRÊN ĐỈNH VUÔNG ĐỜI THƯƠNG
    (Hồ Nam)

    PTSB-HoaVanMatThuDoiThuong.jpg

    HOA VĂN MẶT THÚ ĐỜI THƯƠNG​

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  11. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    Ý thức tôn trọng thần và sùng bái tổ tiên ấy, chẳng những để mua lòng vui của quỷ thần và tổ tiên, hi vọng họ giáng phúc che chở cho mình, mà còn biểu thị tình quan hệ mật thiết giữa họ và thần linh cho giới bị thống trị nô lệ biết rằng chỉ có họ mới được thần linh che chở và đe dọa giai cấp nô lệ bị thống trị nên ở yên với sự an bài sắp xếp của thần linh. Kiểu dùng thần linh để đe dọa dân chúng này được ghi chép đầy dẫy trong sử sách cổ, điển hình nhất là trong Kinh Thư.

    PTSB-DongVuongCuoiRong.jpg

    ĐÔNG VƯƠNG CÔNG CƯỠI RỒNG
    (Hình vẽ trên gạch đời Hán)

    PTSB-TuThan.jpg

    TỨ THẦN
    (Hình vẽ trên đá đời Hán – Sơn Đông)​

    Các vua Thương dựa vào lòng sùng bái trời của giới nô lệ để củng cố Chính quyền, họ tự coi mình là con trai của Trời (Thiên tử). Vương triều Chu tiếp theo sau, vẫn không hề thay đổi quan điểm “Dùng thần đạo lập giáo để an trị thiên hạ”, vua Chu vẫn tự coi mình là con trời “khắp dưới thiên hạ, không nơi nào không là đất của vua, những gì trên đất ấy, không gì không phải là tôi thần của vua”. Vua nắm hết quyền lực chí cao vô thượng trong thiên hạ. Hoạt động sùng bái trung tâm của nhà Chu là tế lễ “Việc lớn của nước là tế lễ và quân sự” (Quốc chi đại sự, tại tự dữ nhung) và căn cứ vào sách Chu Dịch để tiến hành bói hào quẻ nhuốm đầy màu sắc thần bí.

    PTSB-TayVuongMau.jpg

    TÂY VƯƠNG MẪU
    (Đời Hán – Tứ Xuyên)​

    Thiên tử Chu và các chủ nô lệ, bất cứ trước khi khởi công làm việc gì đều chuẩn bị bói tốt xấu bằng hào quẻ, từ mọi việc tế lễ, chiến tranh, săn bắt, đến gieo trồng, buôn bán, công nghệ, hôn nhân... nghĩa là gần như không ngoại trừ bất cứ hành vi nào.

    PTSB-HinhYenCuVeDa.jpg

    HÌNH YẾN CƯ VẼ TRÊN ĐÁ
    (Đời Hán)​

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  12. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    A) CÁC THẦN ĐỊA PHƯƠNG


    Thời kỳ Xuân Thu, quyền lực của vương triều Đông Chu ngày càng sa sút. Các nước chư hầu thôn tính lẫn nhau, các nước lớn đua nhau xuất hiện. Trong quá trình thôn tính ấy, chế độ nô lệ cũng dần tan vỡ. Lấy tiêu chí lịch sử 3 họ Ngụy, Triệu, Hàn chia nước Tấn (năm 403 trước công nguyên), thời kỳ Chiến quốc bắt đầu xuất hiện, cục diện văn hóa phồn vinh "Trăm nhà tranh tiếng, trăm hoa đua nở”. Tín ngưỡng “Thiên tử là con của trời” bắt đầu lung lay theo sự lung lay của địa vị vua Đông Chu.

    PTSB-DongHoaDeQuan.jpg

    ĐÔNG HOA ĐẾ QUÂN
    (Cận đại – Hà Nam)​

    Sự mở rộng quyền lực của các chư hầu, ở các vùng do các chư hầu cai quản xuất hiện nhiều thần địa phương độc lập. Ví dụ, nước Sở có các thần “Chúc Dung”, “Dục Hùng”. Các thần ấy hưởng tế lễ ở từng khu vực được phong và bài xích các thần được phong ở các khu vực khác.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  13. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    B) THẾ GIỚI THẦN TIÊN


    Thời kỳ Tần Hán, các loại Vu giáo, Thần thoại, thuyết Ngũ hành Âm dương, sấm vĩ, thần tiên, phương thuật thịnh hành. Đạo Hoàng Lão mượn tư tưởng Hoàng đế và Lão tử ra đời, đây chính là Đạo giáo thời kỳ đầu. Trong điều kiện lịch sử ấy, các tông giáo vu thuật và nội dung sùng bái chư thần thời Thương và Chu bắt buộc phải dung hòa với trào lưu tư tưởng mới, chúng dung hợp hòa quyện vào nhau để lập thành một hệ thống thần tiên, âm dương ngũ hành linh vị, sấm vĩ đặc sắc.

    PTSB-TaoQuanBaiVi.jpg

    TÁO QUÂN TRÊN BÀI VỊ
    (Bắc Kinh)​

    Tần Thủy hoàng là vị hoàng đế có hùng tài đại lược, đưa ra mục đích “biểu thị quyền uy, khuất phục bốn phương”. Trong vòng 12 năm ở trên ngôi đế, ông từng đi tuần 5 lần, trước sau lên núi Thái Sơn, núi Cối Kê, núi Lang Nha, núi Chi Phù, lúc thì tế phong thiện, lúc thì khắc đá, lúc tế thần. Nhưng Tần Thủy hoàng không chỉ muốn mượn việc sùng bái thần để củng cố Chính quyền mà bản thân ông ta rất ham thích ảo tưởng trường sinh bất tử, mong được lên cõi thần tiên.

    PTSB-BoTatDoiTong.jpg

    BỒ TÁT ĐỜI TỐNG
    (Tứ Xuyên)​

    Do vậy, cùng lúc xây lăng mộ vĩ đại cho mình, ông ta còn chiêu tập phương sĩ đến cầu tiên. Từ Phúc là người mượn cớ ra ngoài biển tìm thuốc tiên cho ông ta, dẫn 300 đồng nam đồng nữ trốn bỏ triều Tần.

    Theo ghi chép trong Phong thiện thư, sách Sử Ký*, Tần có 8 vị thần là Thiên chủ, Địa chủ, Binh chủ, Âm chủ, Dương chủ, Nguyệt chủ, Nhật chủ, Thời chủ. Người đời Tần phong cho các vị thần này quyền uy có tính toàn quốc, nhưng vùng mà các thần được hưởng tế lễ nhiều nhất tập trung ở bán đảo Sơn Đông. Sách Sử Ký phần Phong thiện thư ấy còn chép hàng trăm đền miếu thờ đủ loại thần tinh tú, mưa gió khác nữa.

    PTSB-ThienMau.jpg

    THIÊN MẪU
    (Hình trên giấy mã - Giang Tô)​

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  14. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    Lưu Bang, xuất thân nông dân, chỉ giữ qua chức đình trưởng, trong chiến tranh dành giật thiên hạ với Hạng Võ lật đổ Tần, từng khôn khéo lợi dụng hoạt động sùng bái thần để tuyên dương cái gọi là “chân long thiên tử” của mình và mở rộng ảnh hưởng, tăng thêm uy tín, cuối cùng trở thành đế vương khai sáng vương triều Hán. Ông ta còn bịa ra sự ra đời thần thánh của mình “mẹ ông thường nghỉ ở bờ đầm lớn, có lần nằm mộng gặp thần. Lúc ấy sấm sét u ám. Cha ông đến nhìn thấy có con giao long ở trên đầu, rồi mẹ ông thụ thai ông”. Sau đó lại có câu chuyện thần thoại “Lưu quý tử chém rắn”. Thần thoại này kể rằng: “Sau một cơn say, Lưu Bang rút kiếm chém con rắn lớn trên núi. Đêm chém chết con rắn ấy bỗng có bà lão đến khóc: “Con ta là con của Bạch đế hóa thành rắn chận đường. Nay bị con của Xích đế chém chết”. Vì câu chuyện ấy, khi Lưu Bang dấy binh chống Tần, chọn màu cờ đỏ (Xích đế) tạo ảnh hưởng mở rộng màu sắc thần bí cho mình.

    PTSB-MonThan.jpg

    MÔN THẦN
    (Tranh mộc bản)​

    Lưu Bang lên ngôi không lâu, mỗi mùa xuân thu hạ đông đều cử hành tế lễ chư thần trong cung. Tế lễ thần xã được chế độ hóa, đồng thời thiết lập đền thờ các thần sông, thần núi. Ở kinh đô Trường An lập các chức nữ tế quan chia ra coi sóc việc tế lễ chư thần. Ở các quận, huyện, miếu đền thờ thần mọc lên khắp nơi, nhưng quy mô nhất vẫn là tế lễ thần xã tắc.

    Tế lễ qui định cả theo đẳng cấp, thần do hoàng đế tế lễ, đều là thần tượng trưng cho Chính quyền quốc gia, như Thượng đế, các thần thuộc mặt trời, mặt trăng, tinh tú, thần hậu thổ, thần ngũ nhạc, tứ độc v.v... Thần do các vương chư hầu tế lễ ở từng địa phương là thần tượng trưng cho Chính quyền địa phương. Đến các thần do nhân dân bình thường tế lễ là Xã thần. Xã thần đời Hán tức là thần thổ địa ngày nay. Đây là thần có địa vị tương đối thấp.

    PTSB-ThienPhi.jpg

    THIÊN PHI
    (Phù điêu gỗ màu hiện đại – Phúc Kiến)​

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  15. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    Trong phong tục sùng bái các thần của dân đời Tần Hán, có xuất hiện một loại thần tiên khác nhau. Tiên, là hình tượng ảo tưởng của các đạo sĩ hoặc phương sĩ, là loại người siêu phàm có khả năng trường sinh bất tử. Tiên có nhiều loại như sách “Thiên ẩn tử" viết: “Ở cõi người gọi là Nhân tiên, ở cõi trời gọi là Thiên tiên, ở dưới đất gọi là Địa tiên, ở dưới sông gọi là Thủy tiên, có thể biến hóa gọi là Thần tiên” (Tại nhân viết Nhân tiên, tại thiên viết Thiên tiên, tại địa viết Địa tiên, tại thủy viết Thủy tiên, năng thông biến chi viết Thần tiên).

    PTSB-TongTuQuanAm.jpg

    TỐNG TỬ QUAN ÂM
    (Tranh mộc bản – Sơn Đông)​

    Tiên nhân cũng có cái gọi là đẳng cấp – Tiên phẩm xét theo mức độ đắc đạo, chia ra 3 hoặc 9 phẩm cấp khác nhau, có sách ghi 3 phẩm cấp là Thiên tiên, Địa tiên, Giải tiên; có sách ghi 9 phẩm cấp là Thượng tiên, Thứ tiên, Thái thượng chân nhân, Phi thiên chân nhân, Linh tiên, Chân nhân, Linh nhân, Phi tiên, Tiên nhân. Trong sự sùng bái thần đời Tần Hán, người ta không chỉ xin thần linh về làm chủ tể, chi phối nhân gian mà còn muốn làm cho người đạt tới cõi tiên, tham dự vui vẻ với các thần nữa.

    Tiên nhân, là một loại sùng bái mới ở thời kỳ Tần Hán đã phản ánh mơ ước trường sinh bất tử của loài người, phản ánh mong muốn được hưởng thụ sung sướng của nhân gian. Nhờ tu luyện hoặc uống thuốc đều có thể thành tiên. Thế giới thần tiên trang nghiêm không phải là thế giới ảo tưởng khó tưởng tượng nữa mà là một hiện thực không xa trần gian bao nhiêu, ai ai cũng có thể đạt tới được. Đó là thế giới cực lạc ai ai cũng có thể chia với thần an hưởng sung sướng. Thời kỳ Tần Hán mở đầu cho lệ các hoàng đế thi nhau uống thuốc trường sinh.

    PTSB-NamNayPhatTai.jpg

    NĂM NAY CHẮC CHẮN PHÁT TÀI
    (Tranh mộc bản – Sơn Đông)​

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  16. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    C) KẾT THÂN VỚI CÁC THẦN LINH


    Lý Uyên, hoàng đế mở đầu triều Đường, vốn là người tin thờ Phật giáo, khi ông ta dấy binh lật đổ triều Tùy, từng có đại nguyện với đức Phật rằng nếu được làm hoàng đế ông ta sẽ hoằng dương tam bảo. Thế nhưng, bước lên ngai vàng, ông liền thay đổi lời hứa, quay sang tin thờ Đạo giáo. Nguyên nhân vì Lý Uyên là dòng dõi họ Lý ở Lũng Tây, dưới triều đại Tùy, xét về môn đệ, họ Lý ở vùng Quan Lũng ấy còn xa mới so sánh được với giới quý tộc môn đệ ở Sơn Đông.

    PTSB-VoMonThan.jpg

    VÕ MÔN THẦN
    (Tranh mộc bản – Thiểm Tây)​


    May thay, ông tổ Đạo giáo cũng có họ Lý (tức Lão Tử, Lý Nhĩ) được Đạo giáo thờ như vị thần tối cao. Lý Uyên nảy ra ý định kết thân với ông tổ Đạo giáo này. Năm thứ ba Lý Uyên bước lên ngai vàng (620), có người ở Tấn châu tên Cát Thiện Hành gặp một lão nhân cỡi ngựa trắng ở núi Dương Giác, lão nhân này nhờ họ Cát chuyển lời nói với vua Đường rằng: “Ta là tổ tiên của ngươi, năm nay sau khi thắng tên giặc Vương Thế Sung, con cháu ta sẽ được hưởng nước ngàn năm”.

    Lý Uyên nghe được lời ấy, liền hạ lệnh xây dựng miếu Lão quân ở núi Dương Giác, năm sau lại đến núi Chung Nam bái yết miếu Lão quân. Có lẽ từ sau khi dựng miếu Lão quân ở núi Dương Giác, các nơi khắp nước đua nhau dựng miếu Lão quân, mượn đó để tuyên dương khoe khoang mối quan hệ thân thuộc giữa vua Đường với Lão quân.

    Đến khi Lý Thế Dân lên ngôi, Thượng thư bộ Lại là Cao Sĩ Liêm phụng mệnh biên soạn sách “Dân tộc chí” vào năm Trinh Quán thứ 12 (638) vẫn ghi họ Thôi ở Sơn Đông là họ lớn nhất thiên hạ, họ Lý hoàng gia chỉ xếp hàng thứ hai. Lý Thế Dân quở trách, ông ta mới đưa họ Lý hoàng gia lên hàng đầu.

    PTSB-HinhTrangTriBatTien.jpg

    HÌNH TRANG TRÍ BÁT TIÊN TRÊN BÌNH GỐM
    (Trích đoạn – đời Thanh)​

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  17. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    Đường Cao tông cũng tin thờ Đạo giáo, nhưng hoàng hậu Võ Tắc Thiên lại tin thờ Phật giáo. Niên hiệu Càn Phong nguyên niên (666) tức năm thứ 6 Võ Tắc Thiên nắm quyền, Đường Cao tông đang là bù nhìn đến tế lễ miếu Lão quân ở Hào châu, tôn Lão Quân làm chức “Thái thượng huyền nguyên hoàng đế”, chính thức thừa nhận vương thất Đường là con cháu cùng huyết mạch với vị thần chí cao Đạo giáo, kỳ thực đây là hành động ảo tưởng muốn mượn đó để cứu vãn sự thất thế của họ Lý.

    Sau khi Đường Trung tông khôi phục ngôi đế, ý thức được sứ mệnh chấn hưng hoàng gia họ Lý của mình, cũng tôn xưng Lão quân là “Thái thượng huyền nguyên hoàng đế”, nhưng chẳng lâu sau ông ta lại bị Vi hoàng hậu tin thờ Phật giáo đoạt mất quyền lực.

    Đường Huyền tông soi tấm gương bị hai bà hậu họ Võ và họ Vi, năm sau khi lên ngôi lập tức chấn hưng Đạo giáo. Đường Huyền tông khoe được gặp Lão quân trong mộng, tỉnh dậy bèn cho vẽ chân dung Lão quân ban bố đặt thờ khắp nơi và cử hành nghi thức ban bố đại quy mô.

    PTSB-TaiThanQuanCong.jpg

    TÀI THẦN – QUAN CÔNG
    (Trên gốm hiện đại)​

    Để đối kháng lại bốn Đại Bồ Tát Phật giáo, Đường Huyền tông phong Trang Tử làm Nam Hoa chân nhân, Văn Tử làm Thông Huyền chân nhân, Liệt Tử làm Xung Hư chân nhân và Canh Tang tử làm Động Linh chân nhân. Một loạt hành vi của vương triều Đường kể trên là vì muốn mượn sự sùng bái Đạo giáo để tăng cường quyền lực vương triều họ Lý. Nhưng về khách quan đã khẳng định tín ngưỡng Đạo giáo với sự sùng bái Lão Tử, đẩy mạnh thêm tác dụng phát triển của Đạo giáo.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  18. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    SÙNG BÁI THẦN LINH CỦA DÂN GIAN TRUNG QUỐC

    Phạm vi sùng bái thần linh của dân gian Trung Quốc khá rộng, có thể chia ra hai loại là sùng bái thần nghề nghiệp và sùng bái các loại thần tổng hợp (tạp thần).


    ① SÙNG BÁI THẦN NGHỀ NGHIỆP

    Sùng bái thần nghề nghiệp có nguồn gốc sùng bái người sáng lập ra một nghề nào đó. Do vậy, sùng bái thần nghề nghiệp phản ánh sự kính ngưỡng của giới lao động với mong ước được vị thần sáng lập ấy bảo hộ, phù trì cho mình được an cư lạc nghiệp.

    Nội dung và số mục của thần nghề nghiệp có thể thay đổi về đại thể. Từ đời Minh, Thanh đến nay, các nghề công nghiệp phát triển lớn mạnh, nghề nghiệp tăng lên nhiều, tự nhiên số thần nghề nghiệp cũng tăng hơn nhiều. Xét về các thần nghề nghiệp có từ đời Minh, Thanh, rất nhiều thần nghề nghiệp đúng là có liên quan rất mật thiết với nghề ấy. Ví dụ như Khổng Tử là thần bảo hộ trường học, Đỗ Khang chân nhân là thần của nghề nấu rượu, Thái Luân là thần nghề làm giấy, Mông Điềm là thần nghề sản xuất bút viết v.v...

    Có một số thần nghề nghiệp chính là người sáng lập nên nghề ấy, ví dụ ông Táo, thần bếp, Văn Xương đế quân, thần sách vở, Khương Tử Nha, thần nghề coi bói, Ngô Đạo Tử, thần nghề vẽ tranh. Tuy vậy vẫn có số thần không lý giải được rõ nguồn gốc. Sùng bái thần nghề nghiệp là một bộ phận của tín ngưỡng dân gian Trung Quốc. Dù các vị thần ấy có phản ánh đặc điểm nghề mình được tôn thờ hay không, nó vẫn là một phong tục xã hội nhiều màu sắc phong phú. Tính phức tạp trong sự sùng bái thần nghề nghiệp của dân gian Trung Quốc chính là biểu hiện tính phức tạp trong toàn bộ hệ thống các thần dân gian Trung Quốc. Trong các thần nghề nghiệp, có không ít thần vốn là thần linh tín ngưỡng dân gian đã phổ biến như Táo quân, Văn Xương đế tinh, Quan Âm, Dược vương, Quan Công, Tài thần, Thổ địa thần, Tống tử nương nương v.v...

    SBTL-TamThanhCoDong.jpg

    TAM THANH CỔ ĐỘNG
    (Đời Tống – Tứ Xuyên)​

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  19. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    ② SÙNG BÁI CÁC LOẠI THẦN TỔNG HỢP (TẠP THẦN)

    Thời kỳ Minh, Thanh, rất nhiều tạp thần, phần lớn thuộc Đạo giáo, một số ít hơn thuộc Phật giáo. Trong xã hội Minh, Thanh, Phật giáo và Đạo giáo ở vào vị trí khá giống nhau, không có xung đột lớn giữa các giáo phái, nhưng ảnh hưởng sâu sắc nhất với dân gian vẫn là Đạo giáo. Đạo giáo ngoài thần do mình tạo ra, còn liên tục hấp thu thêm những thần khác được dân gian tín ngưỡng để đưa vào phổ hệ thần tiên, từ đó mở rộng ảnh hưởng Đạo giáo trong tín ngưỡng dân gian. Quan đế, Huyền đế, Lã tổ, Thành Hoàng thần... là những vị thần linh tương đối mới mẻ nhưng lại được dân gian sùng bái nhất, miếu đền xây dựng để thờ phượng khắp nơi.

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
  20. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    CÁC THẦN TỐI CAO DÂN GIAN


    SBTL-TamThanhDoiThanh.jpg

    TAM THANH ĐỜI THANH
    (Quảng Đông).​

    “Tam Thanh, tức Ngọc Thanh Nguyên Thủy Thiên tôn, Thượng Thanh Linh Hư Thiên tôn, Thái Thanh Đạo Đức Thiên tôn. Thái Thanh Đạo Đức Thiên tôn tức Thái Thượng Lão quân, tức Lão Tử. Còn chỉ nơi ở của ba vị Thiên tôn ấy là Tam Thanh thiên cảnh. Thiên tôn là tiếng tôn xưng thần tối cao Đạo giáo.

    SBTL-NgocThanhThuongThanh.jpg

    NGỌC THANH THƯỢNG THANH THÁI THANH CHÍ TÔN
    (Tranh in giấy, Giang Tô).

    SBTL-NguyenThuyThienTon.jpg

    NGUYÊN THỦY THIÊN TÔN
    (Ảnh đời Thanh - Cam Túc)

    SBTL-ThaiThuongLQ.jpg

    THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN
    (túc Lão Tử, một trong "Tam Thanh", thủy tổ Đạo giáo).

    SBTL-ThaiThuongLQ-LT.jpg

    THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN​

    ...
     
    Wanderman thích bài này.
Moderators: amylee

Chia sẻ trang này