Đang dịch PG L'appel de l'ange - Guillaume Musso

Thảo luận trong 'Góc dịch các tác phẩm tiếng Pháp' bắt đầu bởi bluechips, 2/10/13.

  1. bluechips

    bluechips Mầm non


    [​IMG]


    L'appel de l'ange


    Tác giả: Guillaume Musso

    Dịch và đăng bởi: hagiang1310
    Tình trạng: chưa hoàn thành

    Đăng lại: bluechips

    Nguồn: TVE


    Đây là cuốn sách mới nhất của Guillaume Musso. Em tìm được bản tiếng Pháp trong thự viện mình và vì rất thích tác giả này nên em mạo muội dịch thử cho mọi người cùng đọc. Trước đây em chưa từng dịch bao giờ nên nếu có nhiều sai sót mong mọi người bỏ qua và đóng góp ý kiến để bản dịch có thể hoàn thiện hơn. Em sẽ cố gắng làm tốt nhất có thể và em sẽ vô cùng cảm ơn mọi người đã bỏ chút thời gian để đọc bản dịch của em. Chúc mọi người những giây phút vui vẻ với tác phẩm này.

    Đây là phần mở đầu và một phần chương 1:

    Phần mở đầu

    Một chiếc điện thoại di động ?

    Ban đầu, có thể bạn sẽ không thật sự thấy lợi ích của nó, nhưng để không trở nên lạc hậu, bạn tự cho mình thử nghiệm với một mẫu điện thoại đơn giản cùng gói cước cơ bản nhất. Thời gian đầu tiên, đôi lúc bạn sẽ cảm thấy ngạc nhiên vì bản thân mình có thể nói khá nhiều, trong nhà hàng, trên xe lửa hay trên sân thượng của những quán cà phê. Thật sự là chúng ta cảm thấy tiện lợi và yên tâm hơn khi lúc nào cũng đc ở bên cạnh người thân và bạn bè thông qua giọng nói.

    Giống như mọi người, bạn đã bắt đầu học cách soạn những tin nhắn bằng cách gõ lên cái bàn phím nhỏ xíu và dần dần bạn quen với việc gửi chúng đi bằng hết sức bình sinh của mình. Cũng giống như mọi người, bạn đã từ bỏ cuốn lịch của mình và thay thế nó bằng lịch điện tử. Bằng việc sử dụng điện thoại, bạn đã lưu vào danh bạ của mình số của người thân, bạn bè và người yêu của bạn. Trong đó bạn cũng đã cẩn thận ngụy trang số của người yêu cũ cũng như mã số thẻ tín dụng mà bạn có thể quên bất cứ lúc nào.

    Mặc dù nó tạo ra những âm bản kém chất lượng, bạn cũng đã sử dụng chức năng chụp ảnh của điện thoại. Thật là đáng yêu khi lúc nào bạn cũng sẵn có bên mình một bức ảnh ngộ nghĩnh để khoe cùng các bạn đồng nghiệp.

    Ở những nơi khác, mọi người đều làm những việc giống như thế. Vật dụng này đánh dấu một bước phát triển của thời đại : những vách ngăn giữa cuộc sống riêng tư, công việc cũng như xã hội đã được xóa bỏ. Trên hết, cuộc sống thường ngày trở nên khẩn cấp hơn, linh hoạt hơn, đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng hơn với thời gian biểu của bạn.

    *

    Gần đây, chúng ta đã thay đổi chiếc điện thoại cũ kỹ của mình bằng một mẫu mã tiên tiến hơn : một tuyệt tác bé nhỏ có khả năng giúp bạn truy cập dễ dàng vào hòm thư của mình, lang thang trên Internet và tải về vô vàn những ứng dụng.

    Từ đây bạn đã trở thành một tín đồ. Như được gắn chặt vào cơ thể bạn, điện thoại từ bây giờ giống như phần kéo dài của chính bạn, theo bạn đến tận nhà tắm hay cả toalet. Dù bạn đang ở bất cứ đâu, bạn hiếm khi nào để nửa tiếng trôi qua mà ko nhìn vào màn hình điện thoại, rình rập một cuộc gọi bị nhỡ, một thông điệp thân mật hay một tin nhắn bạn bè. Và nếu hộp thư của bạn trống, bạn bấm liên tục để chắc chắn rằng ko có thư nào vẫn đang ở trạng thái chờ được đọc.

    Giống như vú nuôi của những đứa trẻ, điện thoại làm bạn cảm thấy yên tâm hơn. Màn hình của nó êm dịu, nhẹ nhàng, dễ dàng đưa bạn chìm vào giấc ngủ. Nó luôn giữ vững một thái độ trong mọi tình huống và mang đến cho bạn khả năng liên lạc ngay tức khắc, và khả năng này biến mọi việc đều trở nên có thể.

    *

    Nhưng rồi một buổi chiều, trên đường về nhà, bạn lục tung túi áo cũng như túi xách của mình để rồi phát hiện ra rằng điện thoại của mình đã biến mất. Bị mất rồi sao ?

    Bị lấy cắp ư ? Không, bạn từ chối tin vào điều đó. Bạn kiểm tra lại lần nữa nhưng ko có gì thay đổi, bạn thử tự thuyết phục rằng chắc là mình đã để quên ở văn phòng, nhưng...không : bạn vừa nhớ ra rằng bạn đã xem điện thoại trong thang máy khi rời khỏi nơi làm việc và – chắc chắn – trong tàu điện ngầm và cả xe buýt.

    Suỵt !

    Đầu tiên, bạn cảm thấy giận dữ vì bị mất điện thoại, nhưng sau đó bạn cảm thấy vui mừng vì đã mua bảo hiểm « lấy trộm/đánh mất/hư hỏng », và nhất là khi tính toán tất cả những điểm tích lũy mà, từ ngày mai, có thể giúp bạn tự thưởng một chú dế công nghệ cao và cảm ứng.

    Tuy nhiên, vào lúc 3h sáng, bạn vẫn ko tài nào dỗ mình vào giấc ngủ được....

    *

    Bạn ngồi dậy mà không phát ra tiếng động để không làm thức giấc người đang ngủ say bên cạnh bạn. Trong bếp, trên nóc một chiếc tủ, bạn đi tìm cái hộp thuốc lá cũ kỹ lấp đầy bởi những điếu thuốc mà bạn đã giấu trong những lúc khó khăn. Bạn đốt một điếu, và cùng với nó, bạn mang theo một cốc vodka.

    Chết tiệt !

    Bạn ngồi xuống, cong lưng trên chiếc ghế. Bạn cảm thấy lạnh, vì bạn đã mở cửa sổ do mùi của thuốc lá. Bạn tổng kết tất cả những thứ có trong điện thoại : một vài video, khoảng năm chục bức ảnh, những trang web mà bạn hay truy cập trên Internet, địa chỉ của bạn (bao gồm cả mã số cửa vào tòa nhà), địa chỉ của ba mẹ bạn, số đt của những người ko nhất thiết phải tìm lại, những tin nhắn có thể dẫn đến giả thiết rằng...

    Đừng trở nên hoảng sợ !

    Bạn rít một hơi thuốc nữa và nhấp một hớp rượu. Bề ngoài, không có gì thật sự có thể gây nguy hại, nhưng bạn biết rõ rằng bề ngoài thường là những thứ lừa đảo. Điều mà bạn lo lắng chính là điện thoại của bạn có thể rơi vào tay những kẻ có mục đích xấu xa.

    Vừa rồi, bạn đã tiếc nuối vài bức ảnh, vài bức thư, vài cuộc trò chuyện. Quá khứ, gia đình, tiền bạc, tình dục,...Nếu tìm kiếm kĩ càng, người nào đó muốn làm hại bạn có thể tìm ra điều gì đó để phá hủy cuộc sống của bạn. Bạn tiếc nuối, nhưng những nuối tiếc đó của bạn chẳng được tích sự gì.

    Bởi vì bạn bắt đầu run lập cập, bạn đứng dậy để khép cửa sổ lại. Trán dán chặt vào cửa kính, bạn ngắm nhìn những ánh sáng hiếm hoi còn tỏa sáng trong đêm tối và tự nhủ rằng, ở đầu kia của thành phố, có thể một người nào đó đang săm soi màn hình điện thoại của bạn, xem xét một cách khoái trá những góc tối trong đời sống riêng tư của bạn và lục lọi một cách khoa học tất cả mọi ngóc ngách của chiếc máy để tìm ra những bí mật sâu kín nhỏ bé nhất của bạn.

    Phần 1 : Mèo và chuột

    1. Trao đổi

    Họ là những người mà số phận đã được định sẵn để gặp nhau

    Dù họ đang ở đâu. Dù họ sẽ đi đến đâu. Một ngày nào đó họ sẽ gặp nhau.

    Claudie Gallay

    New York

    Sân bay JFK

    Một tuần trước Noël

    Nàng

    - Rồi sao nữa ?
    - Rồi, Raphael tặng mình chiếc nhẫn kim cương hiệu Tiffany và cầu hôn mình.

    Điện thoại dán vào tai, Madeline đi dạo qua những cửa hàng cao cấp ốp kính hướng ra mặt đường. Cách đó 5000 cây số, trong căn hộ nhỏ ở phía bắc London, người bạn thân nhất của cô đang lắng nghe một cách mất kiên nhẫn bản tường thuật chi tiết về cuộc trốn tìm lãng mạn ở Quả táo khổng lồ.

    - Anh ấy thật sự đã đưa cậu vào một cuộc chơi tuyệt vời ! Du lịch cuối tuần ở Manhattan, phòng nghỉ ở Waldorf, đi dạo trên xe ngựa, cầu hôn theo kiểu cổ điển,....
    - Đúng vậy, Madeline hoan hỉ nói. Tất cả đều hoàn hảo, y như trong một bộ phim vậy.
    - Không phải là quá mức hoàn hảo sao, đúng ko ? Juliane trêu chọc cô
    - Cậu có thể giải thích cho mình thế nào là « quá » hoàn hảo ko, cô nàng đáng chán ?
    Juliane cố gắng một cách vụng về để lấy lại thể diện :
    - Mình muốn nói là có thể điều đó thiếu sự bất ngờ. New York, Tiffany, đi dạo dưới tuyết và trượt băng ở Công viên Trung tâm,...những thứ mình có thể đoán được, giống như khuôn mẫu, ko phải sao ?
    Madeline tinh nghịch trả đũa :
    - Nếu mình nhớ ko lầm, khi Wayne cầu hôn cậu, hình như lúc đó mọi người trở về từ hộp đêm sau 1 cuộc chè chén. Anh ấy như bị nhồi nhét trong một khoang tàu điện ngầm vào giờ cao điểm và anh ta đã đi nôn ra trong toalet ngay sau khi vừa cầu hôn cậu, phải ko ?
    - Ok, lần này cậu thắng, Juliane đầu hàng.

    Madeline mỉm cười trong khi đến gần khu vực soát vé để tìm kiếm Raphael giữa đám đông chật ních. Ở thời điểm bắt đầu kì nghỉ Noël này, hàng ngàn du khách vội vã trong sân ga lúc nào cũng kêu vo vo như tổ ong. Một vài người tới đây để đoàn tụ với gia đình trong khi những người khác đi đến mọi nơi của thế giới, đến những vùng đất như thiên đường, thoát khỏi sự vô vị của New York.

    - Rốt cuộc, Juliane nói tiếp, cậu vẫn chưa nói cho mình câu trả lời của cậu.
    - Cậu đùa à ? Dĩ nhiên là mình nói đồng ý rồi !
    - Cậu ko để cho anh ta có chút mong mỏi chờ đợi nào à ?
    - Mong mỏi ? Jul', mình đã gần 34 tuổi rồi ! Cậu ko nghĩ là mình đã chờ đợi đủ rồi sao ? Mình yêu Raphael, mình hẹn hò với anh ấy 2 năm nay và tụi mình đã cố gắng để có một đứa con. Vài tuần nữa tụi mình sẽ dọn đến ngôi nhà mà tụi mình đã chọn lựa cùng nhau. Juliane, đây là lần đầu tiên trong đời mình cảm thấy được bảo vệ và hạnh phúc.
    - Cậu nói vậy vì anh ta đang ở cạnh cậu, đúng ko ?
    - Ko, Madeline hét lên cùng một tràng cười. Anh ấy đi gửi hành lý rồi. Mình nói vậy vì mình thật sự nghĩ vậy!

    Cô dừng lại trước một quầy báo. Được đặt chồng lên nhau, trang nhất của các tờ báo hằng ngày phác họa chân dung một thế giới mà tương lai có vẻ như sẽ đi theo một vết trượt dài : khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, ồn ào chính trị, sự phẫn nộ của xã hội, thảm họa sinh thái,...

    - Cậu ko sợ rằng với Raphael, cuộc sống của cậu sẽ giống như được sắp xếp trước sao ? Juliane nhấn mạnh.
    - Đó ko phải là một điều xấu ! Madeline đáp lại. Mình cần một người vững chãi, có năng lực và chung thủy. Xung quanh chúng ta, mọi thứ đều bấp bênh, mong manh và dao động. Mình ko muốn điều đó trong mối quan hệ của chúng mình. Mình muốn về nhà vào buổi chiều và chắc chắn rằng mình sẽ tìm được sự yên tĩnh và thanh thản trong căn nhà của mình. Cậu hiểu ko ?
    - Hum..., Juliane ậm ờ.
    - Ko có « hum » gì hết, Jul'. Hãy bắt đầu cuộc dạo chơi qua các cửa hàng để tìm cho mình một chiếc váy cho cô dâu phụ đi !
    - Hum, cô gái trẻ người Anh lại lặp lại, nhưng lần này để che đậy cho cảm xúc của cô nhiều hơn là để thể hiện sự hoài nghi.
    Madeline nhìn đồng hồ. Đằng sau cô, trên những đường băng, những chiếc máy bay trăng trắng xếp hàng nối đuôi nhau chờ đến lượt bay.
    - Được rồi, mình cúp máy đây, chuyến bay của mình sẽ cất cánh lúc 17h30 và đến giờ mình vẫn chưa tìm được chồng của...của mình !
    - Chồng tương lai của cậu, Juliane sửa lại trong tiếng cười. Khi nào cậu mới làm một chuyến đến London thăm mình ? Tại sao ko phải là cuối tuần này ?
    - Mình muốn lắm chứ, nhưng mình ko thể: tụi mình sẽ đến Rossy sớm thôi. Mình chỉ có đủ thời gian để về nhà và tắm trước khi cửa hàng mở cửa.
    - Phải, ít nhất thì cậu ko phải thất nghiệp !
    - Mình là người bán hoa, Jul'! Noël là một trong những mùa mình phải làm việc nhiều nhất.
    - Cố gắng ngủ một chút trên máy bay nhé.
    - Được rồi ! Mình sẽ gọi cho cậu ngày mai, Madeline hứa trước khi gác máy.

    Chàng

    - Đừng nói đi nói lại nữa, Francesca : nếu là việc gặp nhau thì miễn bàn !
    - Nhưng em đang ở cách anh có 20m thôi mà, ngay dưới chân thang máy đây này...

    Điện thoại dán vào lỗ tai, Jonathan nhíu mày lại và tiến lại gần lan can gần chiếc thang cuốn đang vận hành. Phía dưới những bậc thang là một người phụ nữ trẻ tóc nâu với dáng vẻ như Đức Mẹ đang nói chuyện điện thoại và tay luôn giữ chặt một đứa bé được bao bọc kín bởi chiếc áo phao có vẻ hơi quá rộng. Cô ấy có mái tóc dài,, mặc một chiếc quần jean lưng thấp, áo vét lông tơ ôm sát người cùng với cặp kính mát gọng to bản, như một chiếc mặt nạ, che khuất một phần gương mặt cô.

    Jonathan vẫy vẫy tay về phía cậu con trai của mình và làm động tác chào một cách e ngại.

    - Đưa Charly cho tôi còn cô thì đi đi ! Anh ra lệnh trong tiếng nấc.

    Mỗi lần anh nhìn thấy vợ cũ của mình, một sự giận dữ hòa trộn với nỗi đau xâm chiếm lấy anh. Một cảm giác mạnh mẽ mà anh không thể kiểm soát được và lần nào cũng làm cho anh trở nên hung bạo và suy sụp.

    - Anh không thể tiếp tục nói chuyện với em như thế được ! Cô chống cự bằng một giọng nói phảng phất âm điệu của tiếng Ý.
    - Đừng nghĩ đến chuyện sẽ dạy tôi chút bài học cỏn con nào ! Anh bùng nổ. Cô đã lựa chọn và phải hứng chịu hậu quả của nó. Cô đã phản bội gia đình cô, Francesca ! Cô đã phản bội chúng tôi, Charly và tôi .
    - Anh đừng lôi Charly vào chuyện này !
    - Để nó ngoài cuộc sao ? Trong khi chính nó phải trả giá cho những tan vỡ ? Chính vì những hành động ngông cuồng của cô mà thằng bé chỉ có thể gặp cha nó vài tuần trong một năm !
    - Em rất tiếc vì điều...
    - Máy bay đến rồi ! Anh ngắt lời cô. Cô có muốn tôi nhắc lại vì sao Charly luôn sợ khi phải đi máy bay một mình, điều làm tôi luôn phải bay đến đất nước này vào mỗi kì nghỉ không ? Anh nâng cao giọng hỏi.
    - Điều đã xảy ra với chúng ta, đó là...đó là cuộc sống, Jonathan. Chúng ta đã trưởng thành và không phải lúc nào cũng có một bên hiền và một bên ác.
    - Đó không phải là điều mà quan tòa đã nói, anh vặn lại, bất chợt ám chỉ đến cuộc ly hôn đã được tuyên bố là do lỗi người vợ cũ của mình.

    Vừa ngẫm nghĩ, Jonathan vừa đưa mắt xuống mặt đường. Mới chỉ 16h30, nhưng trời thì đã bắt đầu nhá nhem tối. Trên những đường băng được chiếu sáng, một hàng đồ sộ những cỗ máy chuyên chở khổng lồ đang chờ đợi tín hiệu được kiểm tra trước khi cất cánh đến Barcelona, Hồng Kông, Sydney, Paris...

    - Được rồi, nói thế là đủ rồi, anh tiếp lời. Trường học bắt đầu lại vào ngày 3/1, tôi sẽ đưa Charly về với cô một ngày trước hôm đó.
    - Đồng ý, Francesca chấp nhận. Một điều cuối cùng : em đã mua cho con một chiếc điện thoại di động. Em muốn được nói chuyện với con bất cứ khi nào.
    - Cô đùa à ? Miễn bàn đi ! Anh lại bùng nổ. Con người ta không dùng đến điện thoại ở tuổi lên 7.
    - Điều đó có thể được bàn bạc, cô bắt bẻ.
    - Nếu điều đó được bàn bạc, cô sẽ không quyết định nó một mình. Có thể chúng ta sẽ nói chuyện lại sau này, nhưng bây giờ, cô thu dọn đống đồ đạc của cô và để Charly đến với tôi !
    - Được rồi, cô nhẹ nhàng nhượng bộ.

    Jonathan nghiêng người trên lan can và nheo mắt nhận thấy rằng Charly đang đi cùng với Francesca như một sự kết hợp nhỏ bé nhiều màu sắc. Rồi cậu nhóc ôm lấy mẹ, và với một bước đi không chắc chắn, cậu tiến lên chiếc thang cuốn đang chạy. Jonathan xô đẩy vài du khách để đón cậu con trai bé bỏng của mình.

    - Con chào ba.
    - Chào người đàn ông bé nhỏ, anh ôm lấy cậu bé trong vòng tay mình và nói.

    *

    Họ

    Những ngón tay của Madeline lướt đi trên bàn phím với tất cả tốc lực.
    Điện thoại trên tay, cô đi qua những gian hàng ốp kính của không gian mua sắm miễn thuế trong khi đang soạn thảo mà không cần nhìn bàn phím một tin nhắn để trả lời Raphael. Người đồng hành của cô đã gửi hành lý xong, nhưng anh đang xếp hàng để thực hiện những cuộc kiểm tra an toàn.

    Trong tin nhắn, Madeline đề nghị anh đến gặp cô tại quầy cà phê.

    - Ba ơi, con hơi đói, con muốn ăn một cái panini (một loại bánh mì nướng) được không ạ? Charly hỏi một cách lịch sự.

    Đặt tay lên vai con trai, Jonathan băng qua lối đi bằng kính và thép dẫn đến cửa lên máy bay. Anh ghét những sân bay, đặc biệt là trong thời điểm này của năm. Noel và những sân ga luôn nhắc anh nhớ đến hoàn cảnh tệ hại mà anh đã phát hiện ra sự lừa dối của vợ mình vào 2 năm trước. Nhưng với tất cả sự vui mừng vì được gặp lại Charly, anh nhấc bổng cậu bé lên khỏi mặt đất.

    - Một cái panini cho người đàn ông trẻ, đi thôi! Anh hào hứng nói và rẽ về phía nhà hàng.

    Cổng Trời, quầy cà phê chính của cổng ra, được bố trí xung quanh một không gian mà trung tâm là những quầy khác nhau với một bảng dài những đặc trưng ẩm thực.
    Một miếng bánh chocolat hay một góc pizza? Madeline tự hỏi trong khi xem xét quầy ăn. Chắc chắn rồi, một loại trái cây sẽ có lý hơn, nhưng cô đang trong một cơn đói cồn cào. Cô đặt chiếc bánh lên dĩa của mình, rồi để nó lại chỗ cũ gần như cùng lúc khi cái Jiminy Cricket thì thầm vào tai cô số calories mà chiếc bánh sẽ mang lại. Với một chút thất vọng, cô lấy một quả táo trong chiếc giỏ mây, gọi một tách trà chanh và đi đến quầy tính tiền.

    Bánh mì ciabatta, pesto, cà chua dầm, jambom Parme và phô mai mozarella : Charly chảy nước miếng trước chiếc sandwich Ý của mình. Ngay từ lúc còn rất nhỏ, cậu bé đã được cha đưa đến những nhà hàng, điều đó đã mang đến cho cậu khả năng nhận biết những vị ngon và phát triển cho cậu sự tò mò về tất cả các loại mùi vị.

    - Cẩn thận đừng để lật ngược dĩa của con, được chứ ? Jonathan bảo cậu bé sau khi đã trả tiền xong.

    Cậu nhóc gật gật đầu, cẩn thận giữ thăng bằng một cách mong manh giữa chiếc panini và chai nước của mình.

    Nhà hàng đã đầy ắp. Với hình dạng oval, sảnh nhà hàng trải ra theo chiều dài của bức tường kính trông thẳng ra đường băng.

    - Mình ngồi đâu đây ba ? Charly hỏi, gần như mất hút giữa dòng người qua lại.

    Jonathan chăm chú nhìn một cách đầy lo lắng đám đông chật kín đang ngược xuôi giữa những cái ghế. Thoạt nhìn, trông như có nhiều khách hàng hơn là những chỗ còn trống. Sau đó, giống như một phép màu, một cái bàn đã được dọn dẹp gần phía lỗ cửa bằng kính.

    - Cảng phía nam, cậu thủy thủ nhỏ! Anh thông báo bằng một cái nháy mắt với con trai.

    Trong khi anh đang vội vã, tiếng chuông điện thoại của anh vang lên giữa những tiếng inh ỏi. Jonathan do dự về việc nhận cuộc gọi. Dù đôi tay anh một bên thì đang mắc kẹt bởi hành lý xách tay còn một bên là dĩa thức ăn, anh vẫn cố gắng kéo chiếc điện thoại ra khỏi túi áo veste của mình, nhưng...

    Thật là một đám đông hỗn loạn ! Madeline ngao ngán nhìn hạm đội du khách đang xâm lược nhà hàng. Cô đã hi vọng rằng mình có thể thư giãn một chút trước khi lên máy bay, nhưng rốt cuộc cô đã không thể tìm thấy nổi một bàn trống.

    Aie ! Cô lùi lại và la lên khi một cô gái trẻ tuổi nổi loạn dẫm phải chân cô mà không một lời xin lỗi. Oắt con bẩn thỉu, cô thầm nghĩ trong khi đưa mắt nhìn một cách nghiêm khắc về phía cô gái và nhận lại một ánh mắt kín đáo đáp trả có phần mãnh liệt hơn mà ý nghĩa thì không có gì phải nghi ngờ. Madeline không có thời gian để trở nên mất bình tĩnh vì sự tấn công này. Cô vừa mới nhận ra một chiếc bàn trống gần chỗ cửa ốp kính. Cô vội vã bước đến đó, sợ rằng mình sẽ bỏ lỡ chỗ ngồi quý giá này. Cô chỉ cách đó có 3 m khi chuông điện thoại reo lên từ túi xách của cô.

    Không phải là lúc này!

    Cô quyết định sẽ không nghe máy nhưng rồi cô đổi ý : có lẽ là Raphael đang tìm cô. Một cách vụng về, cô vừa cầm dĩa của mình ở một tay, - Mẹ kiếp, sao tách trà này lại nặng quá vậy ! - trong khi vừa lục lọi trong túi xách để lấy ra chiếc điện thoại chìm giữa hộp đựng chìa khóa to tướng, cuốn lịch và cuốn tiểu thuyết mà cô đang đọc. Cô nghiêng mình để nghe điện thoại và đưa nó đến gần lỗ tai đến khi...

    *
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  2. bluechips

    bluechips Mầm non

    (tiếp theo)

    Madeline và Jonathan đâm sầm vào nhau như trời giáng. Tách trà, quả táo, chai coca, cốc rượu : mọi thứ đồng loạt bay lên không trung trước khi cùng nhau rơi thẳng xuống đất. Quá bất ngờ trước cú va chạm, Charly cũng làm rơi dĩa của cậu bé và bắt đầu thút thít khóc. Cái cô này ! Jonathan tỏ ra khó chịu và đứng dậy một cách khó nhọc.

    « Cô không biết nhìn đường khi đi à ! » Anh hét lên.

    Cái gã chết tiệt này ! Madeline nổi cáu trong khi dần lấy lại ý thức.

    - « À, đây là lỗi của tôi chắc ? Đừng có mà hoán đổi vai trò, ông bạn à ! » Cô chống cự lại anh trước khi cúi xuống đất nhặt lại điện thoại, túi xách và hộp chìa khóa của mình.
    Jonathan tiến về phía con trai để dỗ dành cậu bé, nhặt lại chiếc sandwich được gói trong bọc nhựa cùng với chai nước và điện thoại của anh.
    - "Tôi đã thấy cái bàn trống đó trước !" Anh phẫn nộ nói. Đáng lẽ chúng tôi đã ngồi xuống đó nếu như cô không lao đến tới tấp như vậy...
    - Anh đùa à ? Tôi nhận ra cái bàn trước cả anh !

    Cơn giận dữ của người phụ nữ trẻ bộc lộ ngay ra giọng điệu của người Anh mà trước đó vốn không thể nhận biết được.

    Dù sao đi nữa, cô chỉ có một mình trong khi tôi lại đi cùng với con trai.
    « Một cái cớ thật hay ho ! Tôi không biết rằng việc đi cùng với một đứa trẻ sẽ cho anh cái quyền được cản đường và làm hỏng chiếc áo sơmi của tôi cơ đấy. » Cô tỏ ra bực bội khi nhận ra túi áo sơmi của mình đang bị vấy bẩn bởi một vết rượu.

    Jonathan bối rối lắc đầu và đưa mắt lên trời. Anh mở miệng định chống đối lại, nhưng Madeline đã nhanh nhảu hơn:
    « Hơn nữa, trước hết tôi không phải đi một mình ! » Cô nói chắc nịch khi nhác thấy Raphael.
    Jonathan nhún vai và nắm lấy tay Charly.
    « Con trai, chúng ta đi chỗ khác vậy. Tội nghiệp bà cô này... ». Anh thốt lên và rời khỏi nhà hàng.

    *

    Chuyến bay Delta 4565 rời New York với đích đến là San Francisco lúc 17h. Vui mừng vì được gặp lại con trai, Jonathan không nhận ra thời gian đang trôi đi. Từ khi cha mẹ cậu bé chia tay, Charly trở nên sợ máy bay. Cậu không thể tự đi máy bay một mình hay ngủ một giấc ngủ sâu trong chuyến bay. 7 tiếng hành trình của cậu bé trôi qua với những câu chuyện thần thoại và truyện cười, bằng việc xem lại lần thứ hai mươi từ đầu đến cuối bộ phim Người đẹp và kẻ ăn xin trên laptop trong khi nhâm nhi những hộp kem Häagen-Dazs nhỏ. Sự phục vụ đặc biệt này chỉ dành cho những ghế hạng thương gia, nhưng một tiếp viên hàng không đầy cảm thông, người đã bị chinh phục bởi sự kháu khỉnh của Charly và nét quyến rũ vụng về của cha cậu bé, đã vui lòng bỏ qua những luật lệ.

    Chuyến bay Air France 29 rời sân bay JFK lúc 17h30. Trong sự tiện nghi êm ái của hạng ghế thương gia, « Rõ ràng là Raphael đã làm tốt mọi thứ... », Madeline mở máy ảnh của mình và xem lại những bức ảnh đã chụp trong chuyến du hành đến New York này. Dính chặt nhau không rời , đôi tình nhân hồi tưởng lại những khoảnh khắc tươi đẹp của chuyến du lịch tiền trăng mật của họ. Rồi Raphael bắt đầu thiu thiu ngủ trong khi Madeline vui vẻ xem lại không biết lần thứ bao nhiêu vở nhạc kịch cũ của Lubitsch trong phần video theo yêu cầu.

    Nhờ vào sự chênh lệch múi giờ nên vẫn chưa đến 21h khi máy bay của Jonathan đáp xuống San Francisco. Được giải phóng khỏi nỗi kinh hoàng, Charly ngủ gục trên tay của cha mình ngay khi vừa rời khỏi máy bay.
    Ở cổng đến, Jonathan tìm anh bạn Marcus của mình, người cùng với anh quản lý một quán bia Pháp ở trung tâm North Beach và cũng là người sẽ đến đó họ bằng xe hơi. Anh nhón chân lên để cố nhô cao lên khỏi đám đông.
    « Sẽ là một ngạc nhiên lớn nếu như cậu ta đến đúng giờ ! » Anh cáu gắt.
    Anh giải quyết sự nôn nóng của mình bằng cách kiểm tra điện thoại để xem có tin nhắn nào không. Ngay khi anh bỏ chế độ « trên máy bay « , một tin nhắn dài ngay lập tức xuất hiện trên màn hình :

    « Chào mừng đến với Paris, bạn yêu dấu ! Mình hi vọng rằng cậu đã có thể nghỉ ngơi trong chuyến bay và Raphael thì không ngáy quá nhiều ;-). Tha lỗi cho mình vì lúc nãy : mình rất vui vì cậu sẽ đám cưới và tìm được người đàn ông có thể làm cậu hạnh phúc. Mình hứa sẽ thực hiện nghiêm túc và trang trọng nhất có thể vai trò của một cô dâu phụ ! Bạn thân cả đời của cậu, Juliane. »

    « Đây là trò đùa gì đây ? » Anh nghĩ trong khi đọc lại tin nhắn.
    Một câu chuyện đùa nực cười của Marcus ? Anh đã nghĩ như vậy trong vòng vài giây, cho đến khi anh kiểm tra chiếc máy : cùng một mẫu mã, một màu sắc, nhưng...đây không phải điện thoại của anh ! Chỉ một thao tác nhỏ với ứng dụng thư điện tử đã giúp anh khám phá ra chủ nhân của chiếc máy: một cô Madeline Greene nào đó đang sống ở Paris.
    « Chết tiệt ! » Anh càu nhàu, « đây là điện thoại của bà cô ở JFK! »

    Madeline nhìn đồng hồ trong khi đang cố ngăn một cái ngáp. 6H30 sáng. Chuyến bay chỉ kéo dài hơn 7 tiếng, nhưng do sự chênh lệch múi giờ, máy bay đã đáp xuống Paris vào sáng sớm thứ bảy. Roissy (sân bay) tỉnh giấc nhanh dần. Giống như ở New York, rất nhiều hành khách đi nghỉ đông tập trung ở sân bay mặc cho giờ giấc còn khá sớm.
    « Em có chắc là mình muốn làm việc ngay hôm nay không ? » Raphael hỏi trước quầy lấy hành lý.
    « Đương nhiên rồi anh yêu ! ». Cô nói trong khi mở điện thoại để kiểm tra hộp thư. « Em cá với anh rằng đã có rất nhiều đơn đặt hàng đang chờ đợi em đó. »
    Thoạt tiên cô lắng nghe hộp thư thoại nơi mà một giọng nói kéo dài và ngái ngủ hoàn toàn lạ lẫm đã để lại một tin nhắn :
    « Chào Jon', mình Marcus đây. Euh, mình có một rắc rối nhỏ với 4L (không rõ) : một sự rò rỉ dầu mà...thôi mình sẽ giải thích cho cậu sau. Rốt cuộc mình nói vậy để cậu biết rằng có lẽ mình sẽ đến trễ một tí. Xin lỗi nhé ! »
    « Kẻ ngốc nghếch nào đây ? ». Cô tự hỏi và gác máy. « Ai đó đã gọi nhầm số chăng ? »
    Hum...
    Cô xem xét chiếc điện thoại một cách hoài nghi : cùng một nhãn hiệu, một mẫu mã...nhưng nó không phải là của cô.
    « Chết tiệt ! » Cô thở hắt ra. « Đây là điện thoại của kẻ gàn dở ở sân bay »

    (Tin nhắn)

    « Tôi đang cầm điện thoại của cô, cô có giữ của tôi không ? Jonathan Lempereur »
    « Có, anh đang ở đâu ? Madeline Greene»
    « Ở San Francisco, còn cô ? »
    « Ở San Francisco, còn cô ? »

    (hết chương 1)
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  3. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 2: Separates lives

    Thật kinh khủng nếu chỉ còn lại một mình khi trước đó ta đã từng có đôi

    Paul Morand
    Jonathan gửi đi tin nhắn đầu tiên.......
    …......và Madeline trả lời gần như ngay lập tức

    « Ở Paris :( Chúng ta làm thế nào bây giờ ? »
    « Hum, bưu điện, ở Pháp có dịch vụ đó, đúng ko ?
    Tôi sẽ gửi lại điện thoại cho cô ngay ngày mai bằng Fed Ex »

    « Anh thật tử tế...Tôi cũng sẽ làm vậy ngay khi có thể

    Địa chỉ của anh là gì ? »
    « Nhà hàng French Touch, 1606
    Stockton Street, San Francisco, CA. »

    « Còn đây là của tôi : Le jardin extraordinaire (khu vườn kì diệu)

    3 bis đường Delambre ở Paris, quận 14 »
    « Cô bán hoa đúng không ? Nếu vậy thì cô có một
    đơn đặt hàng khẩn cấp từ một ông Oleg Mordholov
    nào đó : 200 bông hồng đỏ gửi đến Nhà hát Châtelet
    cho nữ diễn viên sẽ trút bỏ xiêm y trong cảnh thứ 3.
    Cá nhân tôi nghĩ chắc đó là vợ ông ta... »

    « Sao anh lại tự tiện nghe hộp thư thoại của tôi ? »
    « Tôi chỉ muốn giúp cô thôi mà,
    tôi không cố ý. »

    « Tôi thấy anh có vẻ cộc cằn trong lời nói và thậm chí cả tin nhắn.

    Anh là chủ nhà hàng phải không ? »
    « Đúng vậy. »
    « Lúc này, có khách vừa mới đặt chỗ ở quán ăn tồi tàn của anh :

    một bàn dành cho 2 người vào chiều mai với ông bà Strzechowski.

    Đó là những gì tôi hiểu từ tin nhắn của họ, nhưng có vẻ như

    sự đón tiếp đã không được tốt cho lắm. »
    « Tốt thôi. Chúc ngủ ngon. »
    « Ở Paris lúc này đang là 7 giờ sáng.... »

    Jonathan tức tối lắc đầu và đút chiếc điện thoại vào túi trong áo vest. Người phụ nữ đó làm anh bực bội.

    *

    San Francisco
    21h30
    Một chiếc 4L Renault cổ màu đỏ tươi rời khỏi quốc lộ 101 hướng về lối ra dẫn vào thành phố. Chiếc xe cà tàng lăn bánh như một con ngựa tồi ở Embarcadero, cảm giác như xe đang chạy với một tốc độ thật chậm. Mặc dù lò sưởi đã được mở ở nấc cao nhất, hơi nước vẫn đọng lại trên những tấm kính xe.

    - Cậu để chúng ta trở thành vật trang trí cho cái đống sắt vụn này à ! Ngồi bên ghế hành khách, Jonathan than phiền.
    - Không mà, nó vẫn chạy ro ro đấy chứ. Marcus chống chế. Cậu không biết mình đã chăm chút nó thế nào đâu !

    Tóc ngắn và xù, lông mày rậm, râu ria tua tủa và mí mắt chảy xệ, Marcus trông như được gửi đến từ một thời đại khác, thời tiền sử, hay cũng có thể nói là từ một hành tinh khác. Trong chiếc quần baggy và chiếc áo sơmi kiểu hawai mở đến tận rốn, dáng vẻ còi cọc của anh như được tháo rời ra và lắp ráp lại cho vừa với khoang lái của chiếc xe. Đi một đôi dép lào đã cũ, anh lái xe chỉ với một chân, gót chân đặt lên bộ ly hợp và các ngón chân lần lượt đè lên bộ tăng tốc và bàn đạp thắng.

    - Con thì rất thích xe hơi của chú Marcus ! Charly vui vẻ ngọ nguậy ở ghế phía sau.
    - Cảm ơn cậu nhóc ! Anh trả lời bằng một cái nháy mắt với cậu bé.
    - Charly ! Thắt dây an toàn của con vào và ngừng việc ngọ nguậy suốt như thế đi. Jonathan ra lệnh.
    Rồi anh quay sang bạn mình :
    - Cậu có đến nhà hàng chiều nay không ?
    - Ủa, không phải hôm nay chúng ta đóng cửa sao ?
    - Nhưng ít nhất cậu cũng đã nhận hàng những con vịt rồi chứ ?
    - Vịt nào chứ ?
    - Những cái đùi vịt và con gà mà chúng ta nhận từ Bob Woodmark mỗi thứ sáu hàng tuần đó !
    - Ah ! Mình đã nghĩ là hình như mình quên cái gì đó mà !
    - Cái tên ngốc nghếch này ! Jonathan bực tức. Làm sao cậu có thể quên một thứ duy nhất mà mình chỉ cần cậu nghĩ tới ?
    - Cũng đâu phải gì to tát lắm đâu...Marcus cáu
    - Có chứ ! Ngay cả khi Woodmark là một tên không thể chịu nổi, trang trại của lão ta cung cấp cho chúng ta những sản phẩm tốt nhất. Nếu cậu không đến nơi hẹn, lão sẽ có ác cảm với chúng ta và không muốn chúng ta là khách hàng nữa. Quay lại nhà hàng đi : mình cá với cậu là lão ta để lô hàng ở sân sau đó.
    - Mình có thể đi xem nó một mình mà, Marcus đảm bảo. Trước tiên mình sẽ đưa cậu về nh....
    - Không ! Jonathan cắt ngang. Cậu chỉ là một kẻ vụng về hậu đậu không tin tưởng được, cho nên mình sẽ phải làm tất cả.
    - Nhưng cậu bé đã mệt lử rồi !
    - Không, không ! Charly hoan hỉ, con cũng muốn đến nhà hàng nữa !
    - Xong rồi ! Jonathan cắt đứt cuộc đối thoại. Rẽ ở đường số 3 ấy, anh vừa ra lệnh vừa lấy tay áo lau hơi nước đọng lại trên kính chắn gió.

    Nhưng chiếc 4L cũ kỹ không muốn bị hối thúc trên hành trình của nó. Những bánh xe của nó thiếu sự kết dính và một sự đổi hướng đột ngột có thể gây ra tai nạn.

    - Cậu thấy rõ là cậu không thể điều khiển cái đống hỗn tạp này rồi chứ ! Jonathan la lên. Mẹ kiếp, cậu sẽ giết chúng ta mất !
    - Mình sẽ ráng hết sức có thể mà ! Marcus trấn an khi bẻ lái giữa một rừng những tiếng còi phẫn nộ.

    Hướng về đường Kearney, chiếc xe cà tàng bắt đầu tìm lại được sự ổn định.

    - Vì gặp lại chị gái mình mà cậu trở nên như thế này à ? Marcus hỏi sau một khoảng im lặng kéo dài.
    - Francesca chỉ là chị cùng cha khác mẹ với cậu. Jonathan sửa lại.
    - Chị ấy thế nào ?

    Jonathan ném về phía anh một cái nhìn thù địch.

    - Cậu nghĩ là tụi mình đã nói chuyện phiếm sao...

    Marcus hiểu là chủ đề này rất nhạy cảm nên đã không tiếp tục. Anh tập trung vào tay lái để hướng ra đại lộ Columbus và đỗ « cục cưng » của mình trước một quán bia mang biển French Touch, ở góc giữa Union Street và Stockon Street.

    Giống như Jonathan đã dự đoán, Bob Woodmark đã để lô hàng lại phía sau nhà hàng. Hai người tóm lấy những cái sọt để đưa chúng vào phòng lạnh trước khi kiểm tra ở sảnh chính rằng mọi thứ đều theo thứ tự.

    French Touch như một góc nhỏ của nước Pháp ở trung tâm North Beach, khu phố Ý ở San Francisco. Tuy nhỏ nhưng ấm cúng, nơi đây tái hiện lại bên trong một quán rượu Pháp những năm 30 : tường gỗ và những đường chỉ, sàn theo kiểu mosaïque, những chiếc gương to lớn, những tấm áp phích cũ của Joséphine Baker, Maurice Chevalier và Mistinguett. Ở đây cũng phục vụ ẩm thực Pháp truyền thống, giản dị, không kiểu cách. Trên chiếc bảng con treo trên tường, ta có thể tìm thấy : « ốc sên xếp lớp sốt mật ong, ức vịt sốt cam, bánh tarte tropézienne... »

    - Con có thể ăn một cốc kem không ba ? Charly hỏi trong khi ngồi lên quầy rượu sáng loáng trải dài khắp sảnh.
    - Không được đâu con yêu. Con đã ăn rất nhiều trên máy bay rồi mà. Với lại giờ đã quá trễ rồi, đáng lẽ con phải lên giường ngủ từ lâu rồi.
    - Nhưng bây giờ đang là kì nghỉ mà....
    - Thôi nào Jon', hãy làm một người cha thật tuyệt đi nào ! Marcus cũng lên tiếng.
    - Ồ không, cả cậu cũng không nên như vậy chứ !
    - Nhưng đây là Noël mà !
    - Thôi nào 2 anh bạn ! Jonathan không thể nhịn được cười.

    Anh tiến đến một góc nhà hàng, phía đằng sau quầy là một cái bếp mở để khách có thể theo dõi một phần việc chuẩn bị các món ăn.

    - Món nào sẽ làm con vui thích đây ? Anh hỏi con trai
    - Một cốc Dame Blanche ! Cậu bé khoái chí

    Với một sự khéo léo, anh « đầu bếp » bẻ một vài mẩu sôcôla đen vào một cái chén nhỏ để đun cách thủy.

    - Thế còn cậu ? Anh hỏi Marcus
    - Chúng ta có thể mở một chai rượu vang...
    - Tùy ý cậu.

    Một nụ cười nở rộng trên khuôn mặt của Marcus. Anh rời khỏi ghế một cách hứng thú để đến nơi yêu thích nhất của mình : hầm rượu của nhà hàng.

    Trong lúc đó, dưới cái nhìn thèm thuồng của Charly, Jonathan mang ra chiếc cốc với hai viên kem vani cùng một chiếc bánh lòng trắng trứng. Sau khi sôcôla đã chảy hết, anh cho vào đó một muỗng kem sữa. Anh đổ hỗn hợp sôcôla nóng lên kem và bao bọc tất cả bởi chantily và topping hạnh nhân.

    - Vui vẻ nhé ! Anh nói và đặt một cây dù nhỏ lên cốc kem.

    Hai cha con tiến lại một chiếc bàn, ngồi kế nhau trên chiếc ghế nệm dài êm ái. Với đôi mắt sáng lấp lánh như sao, Charly tay cầm chiếc muỗng và bắt đầu thưởng thức cốc kem của mình.

    - Nhìn xem tuyệt tác này này ! Marcus phấn khích khi rời khỏi hầm rượu.
    - Một chai screaming eagle năm 1997 ! Cậu bị mê sảng à ? Cái này chỉ dành cho khách hàng thôi !
    - Nào, xem như đây là món quà Noël cho mình đi. Anh nài nỉ.

    Sau một hồi nghiêm túc phản đối, Jonathan đã đồng ý mở nắp chai rượu nho lớn đó. Dù sao đi nữa, tốt hơn hết là Marcus nên uống vài ly ở nhà hàng. Ít nhất anh có thể trông chừng cậu ta. Nếu không, anh chàng Canada này có thể càn quét một loạt những quán bar, một khi anh ta bị chi phối bởi rượu, những tai họa sẽ ùa nhau kéo đến một cách nhanh chóng. Đã rất nhiều lần, một vài người bạn nhậu đã lợi dụng sự hiền lành và cả tin của anh ta để gian lận trong trò poker và khiến anh phải kí hàng loạt giấy nợ mà rốt cuộc chính Jonathan là người phải trả hết tất cả.

    - Hãy chiêm ngưỡng màu sắc của loại rượu tuyệt hảo này ! Marcus ngây ngất khi rót rượu vào bình để gạn.

    Là con trai ngoài giá thú của cha Francesca và một nữ ca sĩ nhạc đồng quê người Québec, Marcus đã không động đến một xu của phần tài sản được thừa kế từ cha mình, một thương gia New York giàu có. Mẹ anh đã mất trước đó và anh chỉ giữ một mối quan hệ xa cách với người chị cùng cha khác mẹ này. Không một đồng xu dính túi, anh sống trong bộ dạng không quan tâm, dửng dưng với ngoại hình của mình, bỏ qua những quy tắc lễ phép và những nguyên tắc sống của xã hội. Anh ngủ 12 tiếng một ngày, luôn đúng giờ với công việc của nhà hàng, nhưng dường như sự gò bó về giờ giấc làm việc không hề tác động gì đến anh.

    Hiền lành chân chất, vừa đơn giản vừa hấp dẫn, anh luôn khiến người khác có cảm giác động lòng và dễ tha thứ, ngay cả khi những hậu quả do sự thiếu trách nhiệm của anh làm Jonathan kiệt sức mỗi ngày.

    Trong suốt cuộc hôn nhân của mình, Jonathan chỉ thấy Marcus như một kẻ ngốc nghếch chẳng thể cùng chia sẻ được điều gì. Tuy nhiên, khi Francesca rời bỏ anh, cậu em rể này là người duy nhất giúp anh vượt qua điều đó. Tại thời điểm đó, dù có Charly, Jonathan vẫn trượt dài trong hố sâu của tuyệt vọng. Lúng túng và không có tinh thần làm việc, anh chìm đắm trong đau khổ, thường xuyên đến chỗ của Jack Daniel và Johnnie Walker.

    May mắn thay, như có một phép màu, Marcus đã bỏ qua tính lười biếng của mình, và lần đầu tiên trong đời, đảm nhiệm tất cả mọi việc. Anh đã tìm thấy một nhà hàng Ý đang cần thay đổi chủ nhân và tự mình tìm cách thuyết phục những người sẽ sở hữu biến nó thành một quán rượu kiểu Pháp và giao việc bếp núc cho anh rể mình. Bước đệm đó đã giúp Jonathan dần lấy lại bản thân mình. Nhưng đến khi cảm thấy rằng bạn mình đã trở lại, Marcus lại quay về với trạng thái lười biếng cố hữu của mình.

    - Nâng ly nào ! Anh đưa ly rượu cho Jonathan.
    - Đây là tiệc ăn mừng Noël sớm ! Anh chàng người Pháp kết luận trong khi mở chiếc radio Art déco mà anh đã mua tại một chợ đồ cũ ở Pasadena. Anh điều chỉnh đến một kênh nhạc rock đang phát bản live của Light My Fire.
    - A, thật là tuyệt ! Marcus như bị mê hoặc trong khi ngồi xuống phía cuối chiếc ghế nệm, chúng ta không biết là anh đang nói về rượu nho hay về âm nhạc của Doors nữa.

    Jonathan bắt đầu thư giãn. Anh cởi nút cổ áo sơmi và trút bỏ áo vest, nhưng khi nhìn thấy điện thoại của Madeline được đặt trên bàn, anh lại thấy khó chịu. Câu chuyện về mấy cái điện thoại làm mình mất đi nhiều khách đặt chỗ ! Anh thở dài. Trong những khách hàng thường xuyên, có một vài người có số điện thoại cá nhân của anh : đó giống như một ưu thế cho phép họ có được bàn ngay cả trong những ngày cao điểm.

    Trong khi Marcus cầm lấy chiếc điện thoại, anh ngắm nhìn cậu con trai đang thiu thiu ngủ trên chiếc ghế nệm. Anh đã muốn dành ra khoảng mười ngày nghỉ để có thể chăm sóc Charly tốt hơn, nhưng anh không thể tự cho phép mình điều đó. Anh chỉ vừa mới thoát ra khỏi những hao hụt về tài chính đã đeo bám anh vài năm trước đây, và sự giải thoát này đã giúp anh trả hết những khoản vay nợ và cả những khoản tiền phạt khác chưa được thanh toán.

    Thả lỏng người, anh nhắm mắt lại và Francesca lại xuất hiện, như khi anh trông thấy cô ở sân bay. Hai năm sau, nỗi đau dường như vẫn còn nguyên vẹn. Anh mở mắt và nhấp một hớp rượu để xua đi hình ảnh đó. Anh đã không có được cuộc sống mà anh hi vọng, nhưng đó là cuộc sống của anh.

    - Eh, cô nàng này không tồi ! Marcus thốt lên trong khi lướt những ngón tay trên màn hình cảm ứng để xem những bức ảnh có trong chiếc điện thoại.

    Tò mò, Jonathan ghé mắt vào màn hình.

    - Xem nào.

    Trong những tấm ảnh của người phụ nữ trẻ, có một vài tấm khá là gợi cảm. Những bức ảnh đen trắng chụp những tư thế quyến rũ chết người : đăng ten mỏng, tất lụa, bàn tay che hờ khuôn ngực hay lướt nhẹ qua hông. Không có gì nguy hiểm cho đến khi có ai đó đưa chúng lên mạng...

    - Con có thể xem không ba ? Charly hỏi khi bắt đầu tỉnh giấc.
    - Không, không ! Con ngủ tiếp đi, trẻ con không được xem cái này đâu.

    Anh cảm thấy bất ngờ hơn vì so với vẻ kiểu cách có chút sang trọng ở sân bay, thì ra cô nàng cũng có một loạt ảnh chụp tinh nghịch.

    Cảm giác ngạc nhiên hơn là vui thích, anh phóng to khuôn mặt cô. Nhìn bề ngoài, cô trông như đang vui đùa rất thoải mái, nhưng đằng sau nụ cười đó người ta có thể đoán được điều gì đó phiền muộn. Chắc chắn kiểu chụp này là trong chuyến du lịch với bạn trai cô ta khi đến thăm nơi ở của Helmut Newton. Ai đã chụp tấm ảnh này ? Chồng cô ta ? Hay là người tình ? Jonathan chợt nhớ ra có thấy một người đàn ông ở sân bay, nhưng anh không tài nào nhớ được mặt người đó.

    - Vậy là đủ rồi đấy ! Anh dừng lại và đặt điện thoại xuống trong cái nhìn thất vọng của Marcus.

    Cảm giác như một người rình trộm, anh tự hỏi ai cho anh quyền để xen vào đời sống riêng tư của người phụ nữ đó.

    - Cô ta chắc cũng sẽ cảm thấy như thế khi làm vậy thôi ! Anh bạn Canada nhận xét.
    - Mình chả cần quan tâm : chắc chắn không thể có những tấm ảnh loại này trong điện thoại của mình ! Anh vừa nói vừa tự rót cho mình một ly rượu nho. Cậu nghĩ là mình thích chụp ảnh Popaul như thế này sao...

    Rượu nho có mùi vị thoang thoảng của những loại trái cây màu đỏ và bánh mì ngọt. Vừa thưởng thức rượu, Jonathan vừa suy nghĩ về những gì có trong điện thoại của mình. Nói đúng ra thì anh chẳng nhớ gì hết. Dù sao thì cũng không có gì thân mật hay nguy hiểm cả, anh tự trấn an mình.

    Đó là điều mà anh đã hoàn toàn sai lầm.

    *
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  4. bluechips

    bluechips Mầm non

    (tiếp chương 2)

    Paris

    7h30

    Một chiếc Jaguar FX đời mới nhất với chiếc mui được trang trí bằng những đường gân đang lướt đi trong không gian ánh kim màu xanh lạnh lùng của Paris. Khoác lên mình những vật liệu sang trọng – da thuộc màu trắng, gỗ hồ đào, nhôm bóng loáng – khoang lái toát ra một vẻ đầy quý tộc và tiện nghi. Ở ghế sau là những túi hành lý bằng vải Monogram cùng với một chiếc túi gậy đánh golf và một tờ tạp chí Figaro.

    - Em chắc là mình sẽ mở cửa hàng ngay hôm nay chứ ? Raphael lại hỏi.
    - Anh yêu à ! Madeline hét lên. Chúng ta đã nói chuyện này nhiều lần lắm rồi.
    - Chúng ta có thể kéo dài kì nghỉ mà...Anh cố nài. Anh có thể lái xe đến Deauville, chúng ta qua đêm ở Normandy và ăn sáng vào ngày mai với gia đình anh.
    - Thật hấp dẫn, nhưng...không. Mặt khác, anh có một cuộc hẹn với khách hàng đến thăm công trường.
    - Như em quyết định vậy, anh chàng kiến trúc sư đầu hàng trong khi đi vào đại lộ Jordan

    Denfert-Rochereau, Montparnasse, Raspail : chiếc xe đã đi qua một phần lớn của quận 14 trước khi dừng ở số 13, đường Campagne-Première, trước một cánh cửa màu xanh đậm.

    - Chiều nay anh sẽ đến cửa hàng đón em nhé ?
    - Không, em sẽ đến gặp anh bằng xe môtô.
    - Em sẽ chết cóng đấy !
    - Có thể, nhưng em yêu bộ Triumph của mình ! Cô trả lời trong khi ôm anh.

    Cái ôm siết chặt kéo dài đến khi chiếc còi của một chiếc taxi vội vã đưa họ ra khỏi không gian chỉ có hai người.
    Madeline đóng cửa xe lại trước khi gửi một chiếc hôn tạm biệt đến người yêu của mình. Cô nhấn mã số mở chiếc cổng hướng ra khoảng sân lác đác bóng cây. Nơi đó, ở tầng dưới của khu vườn là căn hộ cô thuê từ khi cô sống ở Paris.
    - Brrr ! Trong này chỉ có -15 độ ! Cô run lập cập khi bước vào gian nhà nhỏ hai tầng, đặc trưng của những xưởng thủ công mỹ nghệ được xây dựng trong khu này từ cuối thế kỉ XIX.
    Cô bật máy đun nước trong khi quẹt một que diêm và lấy ấm để chuẩn bị một tách trà.
    Ban đầu là xưởng vẽ, nơi này từ rất lâu đã là một căn hộ hai phòng dễ thương với một phòng khách, một cái bếp nhỏ và một phòng ngủ trên gác. Nhưng chính độ cao của trần nhà, những vách kính ghép màu trải dài trên bức tường chính và sàn nhà bằng gỗ trang trí hình vẽ đã gợi lên một khuynh hướng nghệ sĩ và góp phần tạo nên sự quyến rũ và nét độc đáo của nơi đây.

    Madeline bật TSF Jazz, kiểm tra lò sưởi đã được bật hết công suất và thưởng thức tách trà, đu đưa theo nhịp điệu tiếng kèn trompet của Louis Amstrong trong khi chờ đợi căn phòng ấm lên.
    Cô tắm một cách chớp nhoáng, run cầm cập bước ra khỏi nhà tắm và tóm lấy trong tủ đồ của mình một chiếc t-shirt Thermolactyl, một chiếc quần jean và chiếc áo pull bằng len. Chuẩn bị sẵn sàng, cô ăn ngon lành một thanh kẹo Kinder Bueno trong khi mặc chiếc áo khoác da và choàng qua cổ chiếc khăn ấm áp nhất.

    Đã hơn 8 giờ một chút khi cô ngồi lên yên chiếc xe mô tô màu vàng tươi sáng của mình. Cửa hàng của cô rất gần nhà, nhưng cô không muốn phải vòng về nhà lấy xe khi đến gặp Raphael. Tóc xõa trong gió, cô lướt nhanh qua vài trăm mét của con đường mà cô yêu thích. Tại đó, Rimbaud và Verlaine đã sáng tác những vần thơ, Aragon và Elsa đã yêu nhau và Godard đã tạo nên cảnh kết bất hủ trong bộ phim đầu tay của mình : cảnh tượng rất buồn mà Jean-Paul Belmondo, hoàn toàn kiệt sức với viên đạn trên lưng, lịm đi trước mắt vị hôn thê người Mỹ của mình.

    Madeline rẽ sang đại lộ Raspail và theo đường Delambre đến Khu vườn kì diệu, cửa hàng cô đã mở hai năm về trước và là niềm tự hào của cô.

    Cô mở lớp màn cửa bằng sắt một cách cẩn thận. Cô chưa bao giờ vắng mặt quá lâu như lần này. Trong suốt kì nghỉ ở New York, cô đã tin tưởng giao công việc cửa hàng cho Takumi, anh chàng học việc người Nhật đã tốt nghiệp một trường học về hoa ở Paris.

    Khi cô bước vào trong, cô khẽ thở ra một cách nhẹ nhõm. Takumi đã làm đúng theo những lời chỉ dẫn trong thư của cô. Chàng trai trẻ người châu Á này đã nhập hàng vào ngày hôm qua từ Rungis và căn phòng được lấp đầy bởi hoa tươi : lan các loại, tulip trắng, hoa lys, mimosa, thủy tiên, violet, loa kèn đỏ...Cây thông Noël mà họ đã trang trí cùng nhau sáng lấp lánh và những bó tầm gửi trên trần nhà được treo rũ xuống.

    An tâm, cô cởi áo khoác để mặc tạp dề vào, thu thập dụng cụ làm việc của mình - kéo cắt cây, bình tưới nước, cuốc xới – và bắt đầu một cách hạnh phúc những công việc khẩn cấp nhất, dọn dẹp lá cây sung, trồng lại một cây lan, tỉa một cây bonsai.

    Madeline đã biến xưởng hoa của cô thành một nơi kì diệu và nên thơ, một không gian đầy mộng mơ, một chỗ ẩn náu yên bình an toàn tránh xa những ồn ào náo nhiệt và bạo lực của thành phố. Dù có những buồn đau như thế nào đi nữa, cô luôn muốn khách hàng của mình tạm quên đi những lo lắng ngay khi họ vừa đặt chân đến cửa hàng này. Vào dịp Noël, không khí của Khu vườn kì diệu càng đặc biệt được ưa thích hơn, với mùi hương của tuổi thơ và của những truyền thống Giáng sinh.

    Khi những việc đầu tiên hoàn tất, cô lấy những cây thông ra để trưng bày ở phía trước và mở cửa hàng khi tiếng chuông đồng hồ điểm đúng 9 giờ.

    Cô mỉm cười khi nhìn thấy khách hàng đầu tiên bước vào – trong nghề này, có một ngạn ngữ nói rằng nếu đó là một người đàn ông, ngày hôm ấy sẽ vô cùng thuận lợi - , nhưng rồi mặt cô tối sẫm đi khi nghe yêu cầu của anh ta : gửi bó hoa đến một người phụ nữ nhưng không để lại danh thiếp. Đây là một chiêu thức mới của những ông chồng hay ghen : gửi hoa một cách vô danh và rình xem phản ứng của vợ. Nếu khi họ về nhà, người vợ không nhắc gì đến bó hoa, họ sẽ dựa vào đó kết luận rằng cô ta đã ngoại tình...Anh ta trả tiền và rời khỏi cửa hàng mà không thèm quan tâm đến việc chọn những loại hoa. Madeline đành phải tự làm bó hoa một mình - và Takumi sẽ giao nó đến một ngân hàng ở đường Boulard vào lúc 10 giờ – cho đến khi một đoạn nhạc Jumpin’ Jack Flash vang lên trong cửa hàng. Cô chủ cửa hàng hoa nhíu mày. Bài hát nổi tiếng của nhóm Rolling Stones vọng ra từ chiếc túi xách trong đó cô để chiếc điện thoại của gã Jonathan máy móc kia. Cô ngần ngại định bắt máy, nhưng ngay khi cô quyết định, tiếng chuông đột ngột bị ngắt. Im lặng trong một phút cho đến khi một âm thanh ngắn và đục vang lên báo hiệu có một tin nhắn.

    Madeline nhún vai. Cô sẽ không tiếp tục nghe một cuộc gọi không phải là của mình nữa...Cô có nhiều việc khác phải làm ! Và cô sẽ mặc kệ cái gã Jonathan máy móc vừa khó ưa vừa mất lịch sự đó. Và...

    Không thể kiềm chế được sự tò mò, cô chạm vào màn hình và đưa điện thoại lên tai. Một giọng trầm và ngần ngại vang lên trong điện thoại : một người phụ nữ Mỹ, âm điệu pha chút tiếng Ý, đang vất vả kiềm nén những tiếng nức nở.

    Jonathan, là em Francesca đây. Gọi lại cho em đi anh. Chúng ta cần phải nói chuyện, chúng ta phải...Em biết là em đã phản bội anh, em biết là anh đã không hiểu tại sao em lại phá hỏng tất cả. Hãy quay lại, em xin anh, hãy làm điều đó vì Charly và vì chúng ta. Em yêu anh. Anh sẽ không thể quên được điều đó, nhưng anh sẽ tha thứ cho em. Chúng ta chỉ được sống một lần, Jonathan, và chúng ta được sinh ra để chia sẻ cuộc sống với nhau và cùng nhau có những đứa con khác. Hãy cùng thực hiện lại những dự định, tiếp tục như chúng ta trước đây. Không có anh, với em đó không còn là cuộc sống nữa...

    Giọng của người phụ nữ Ý như bị bóp nghẹt trong nỗi đau khổ vô tận và tin nhắn thoại kết thúc.

    Nhiều giây sau đó, Madeline lặng người đi, choáng váng bởi những gì nghe được và bị xâm chiếm bởi cảm giác tội lỗi.

    Đôi tay cô trở nên sởn gai ốc. Cô khẽ run lên rồi đặt chiếc điện thoại chứa tin nhắn đẫm nước mắt kia lên bàn rồi và tự hỏi cô nên làm gì đây.

    Lời bài hát : « Quand je pense à Fernande, je bande, je bande... » (khi tôi nghĩ đến Fernande, tôi lại băng bó, băng bó... )
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  5. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 3: Bí mật

    Tất cả mọi người đều có bí mật.

    Chỉ có một điều đơn giản đó là khám phá chúng

    Stieg LARSSON

    Jonathan nhả côn và vào số ba. Hộp số phát ra một tiếng ồn chói tai inh ỏi giống như là chiếc xe đang thả lỏng tại chỗ. Anh đã phải ngồi vào vô lăng của chiếc 4L : mặc dù nhà anh rất gần, anh không thể nghĩ đến việc để Marcus cầm lái. Xoải ra ở ghế bên cạnh, cậu bạn của anh đang nằm nghỉ để dã rượu trong khi tuôn ra hàng loạt những câu nói thô tục của Georges Brassens :

    - Nói nhỏ thôi ! Jonathan ra lệnh trong khi đưa mắt nhìn vào gương chiếu hậu để chắc rằng con trai mình vẫn chìm trong xứ sở của những giấc mơ.
    - Xin lỗi, Marcus tỏ ý hối lỗi trong khi nhổm dậy để hạ cửa kính xuống.

    Anh chàng người Canada thò đầu ra cửa sổ, hướng khuôn mặt mình về phía những cơn gió, như để cho không khí ban đêm giúp anh tỉnh rượu.

    Cậu ta đã hoàn toàn bị phủ băng...Jonathan nghĩ và giảm tốc độ đến khi đạt đến vận tốc của một con ốc sên bị hen suyễn.

    Chiếc xe nhỏ tiến về hướng tây của đường Filbert Street, một trong những con đường dốc nhất của San Francisco. Ở đoạn đầu của con dốc, chiếc xe cà tàng húng hắng ho, có dấu hiệu như sẽ dừng lại, nhưng cuối cùng nó cũng chịu đựng tiếp tục để tiến đến một cách khó nhọc ngọn đồi được chiếu sáng bởi ánh sáng trắng của Coit Tower, ngọn tháp ngự trị thành phố. Jonathan thực hiện một thao táo mạo hiểm để đỗ xe, quay bánh xe vào phía trong vỉa hè. Thoải mái vì đã đến nơi an toàn, anh ôm con trai mình trong tay và đi vào lối đi giữa những cây bạch đàn, cây cọ và cây hoa giấy.

    Marcus loạng choạng đi theo anh. Anh ta lại rống lên những câu hát nhả nhớt làm người khác phải nổi cáu.

    - Làm sao chúng tôi ngủ được đây ! Một người hàng xóm than phiền.

    Jonathan tóm vai anh bạn mình và thúc giục anh bước nhanh hơn.

    - Cậu là người bạn thân thật sự duy nhất của mình, chỗ dựa duy nhất của mình... Anh chàng say rượu vừa lẩm bẩm vừa níu lấy cổ mình.

    Jonathan phải rất vất vả mới dựng được anh bạn dậy, và bằng những bước ngắn, « hai người đàn ông rưỡi » đi xuống những bậc thang bằng gỗ hướng về phía Telegraph Hill. Cầu thang uốn lượn giữa thảm thực vật gần như là nhiệt đới tạo thành đường đi đến những căn nhà nhỏ nhiều màu sắc. Được tích lũy từ những tàn phá do trận động đất năm 1906 gây ra, những căn nhà nhỏ này, vốn được xây dựng cho những thủy thủ và công nhân bến cảng, nay đã thuộc quyền sở hữu của một khách hàng nghệ sĩ có tri thức và giàu có.

    Cuối cùng họ cũng đến trước cổng một khu vườn hoang dã và um tùm, nơi mà cỏ dại đã hoàn toàn chiến thắng trong cuộc đối đầu với văn anh và đỗ quyên.

    - Nào, mọi người ai về phòng nấy đi ! Jonathan lên tiếng với uy quyền của người chủ gia đình.

    Anh thay quần áo cho Charly, dỗ cậu bé ngủ và ôm hôn cậu bé trước khi sắp xếp lại xung quanh giường để đảm bảo an toàn. Anh cũng làm thế với Marcus, ít nhất là một cái hôn chúc ngủ ngon. Dù sao người ta cũng không nên làm quá mọi chuyện...

    *

    Cuối cùng cũng được yên tĩnh, Jonathan đi vào bếp, tự làm một cốc nước và bước ra hiên với máy tính xách tay. Bị ảnh hưởng bởi sự chênh lệch múi giờ, anh cản lại một cơn ngáp trong khi vỗ nhẹ lên mí mắt và buông người xuống chiếc ghế bằng gỗ tếch.

    - Này con trai của ta, con không buồn ngủ à ?

    Jonathan nghiêng đầu về phía giọng nói vừa cất lên : đó là Boris, con vẹt nhiệt đới của anh.
    Thì ra mình đã quên mất nó !

    Con vẹt này thuộc về người chủ cũ của nơi này, một người kì quặc đã viết trên di chúc của mình về nghĩa vụ, cho tất cả những ai mua ngôi biệt thự này, phải chăm sóc cẩn thận và nghiêm túc con vật yêu thích của ông ta. Boris đã hơn sáu chục tuổi. Trong nhiều thập kỷ, người chủ đã dành mỗi ngày một giờ để dạy nó nói hàng ngàn từ và hàng trăm cấu trúc câu mà đến giờ nó có thể bật ra đúng hoàn cảnh một cách đáng ngạc nhiên.

    Một cách điềm tĩnh, nó thích nghi rất tốt với gia đình mới và làm cho Charly rất vui thích. Hơn hết, nó cực kì thân với Marcus và anh ta đã dạy nó tất cả những câu rủa của thuyền trưởng Haddock. Nhưng con vẹt chỉ là một kẻ pha trò kì lạ và Jonathan chỉ đánh giá nó khá tốt ở cái tính cách kì quặc và giọng nói leo lẻo của nó.

    - Cậu không buồn ngủ à ? Con vẹt lập lại.
    - Có chứ, nhìn đây này, nhưng tao đã quá mệt để ngủ rồi.
    - Đồ mặt rỗ ! Boris mắng anh.

    Jonathan đến gần con chim, với một chiếc mỏ khoằm lớn và đôi chân với bộ móng đầy uy lực, đang chễm chệ với vẻ oai vệ trên cái giàn của nó. Mặc dù nó đã già, bộ lông nửa vàng nửa xanh ngọc của nó vẫn giữ được vẻ lộng lẫy, và lông tơ màu đen ngoằn ngoèo quanh mắt mang lại cho nó một phong thái tự hào và ngạo nghễ.

    Con vẹt lúc lắc chiếc đuôi dài của mình, dang rộng đôi cánh ra và yêu cầu :

    - Ta muốn những trái táo, mận, chuối....

    Jonathan quan sát chuồng chim.

    - Mày đã không ăn dưa leo và rau diếp.
    - Đám rau diếp khó ngửi ! Ta muốn hạt thông, hạt dẻ và đậu phộnggggggg.
    - Phải rồi, còn tao thì muốn Hoa hậu Hoàn vũ trên giường của mình.

    Jonathan lắc đầu và mở máy tính. Anh xem lại hộp thư, trả lời hai nhà cung cấp hàng, kiểm tra những khách đặt chỗ và đốt một điếu thuốc trong khi quan sát hàng ngàn ánh sáng đang lấp lánh ngoài đại dương. Từ đây, tầm nhìn hướng ra vịnh đúng là tuyệt đẹp. Những tòa nhà chọc trời của khu phố thương mại lọt thỏm giữa không gian bao la của vịnh Bridge trải dài đến Oakland. Khoảnh khắc yên tĩnh đó đột ngột bị phá vỡ bởi một tiếng chuông điện thoại không quen thuộc : một đoạn violon, khúc dạo đầu bản Caprice của Paganini, theo như những kiến thức âm nhạc xa vời của anh.

    Là điện thoại của Madeline Greene.

    Nếu anh muốn ngủ, lẽ ra anh không nên quên tắt nó đi, vì với sự chênh lệch giờ giấc, những cuộc gọi có thể sẽ nhiều hơn. Tuy nhiên anh quyết định sẽ nghe cuộc gọi này.

    - Alô.
    - Là cậu phải không ?
    - Hum...
    - Cậu không mệt chứ ? Mình hi vọng là cậu đã có một chuyến đi vui vẻ.
    - Rất tuyệt. Thật tốt vì cô đã quan tâm.
    - Nhưng anh không phải là Madeline ?
    - Đúng vậy !
    - Là Raphael phải không ?
    - Không, tôi là Jonathan, từ San Francisco.
    - Juliane Wood, rất vui được biết anh. Liệu tôi có thể hỏi vì sao anh lại trả lời điện thoại của cô bạn thân nhất của tôi không ?
    - Bởi vì chúng tôi đã vô ý trao đổi điện thoại với nhau.
    - Ở San Francisco à ?
    - Ở New York, tại sân bay. Uhm, chuyện khá dài để giải thích.
    - A, thật buồn cười...
    - Phải, nhất là khi nó xảy ra với người khác. Còn cô...
    - Làm thế nào mà chuyện đó xảy ra ?
    - Nghe này, bây giờ đã trễ và chuyện đó cũng không có gì thú vị.
    - Có chứ ! Ngược lại là đằng khác, nào kể tôi nghe đi !
    - Cô gọi từ châu Âu à ?
    - Tôi gọi từ Luân Đôn. Tôi sẽ yêu cầu Madeline kể cho tôi nghe. Số điện thoại của anh là ?
    - Xin lỗi ?
    - Số điện thoại của anh.
    - …
    - Để tôi có thể gọi cho Madeline.
    - Nhưng tôi không thể cho cô số được, chúng ta thậm chí còn không quen biết nhau !
    - Nhưng vì Madeline đang giữ điện thoại của anh mà !
    - Ờ, xem nào ! Cô có cách khác để liên lạc với cô ta mà. Cô chỉ cần gọi cho Raphael thôi !

    Đúng là phụ nữ lắm chuyện ! Anh nghĩ trong khi nhấn phím tắt để dừng cuộc đối thoại.

    - Alô, alô ! Juliane lặp lại ở bên kia đầu dây

    Đúng là một gã thô lỗ ! Cô nổi cáu khi nhận ra rằng anh ta đã dập máy trước.

    *

    Jonathan đã định tắt điện thoại nhưng sự tò mò xui khiến anh một lần nữa xem lại những tấm hình trong điện thoại. Ngoài hai hay ba tấm hình nhạy cảm, phần lớn đều là những tấm ảnh khi đi du lịch, một album ảnh thực sự về những chuyến du hành lãng mạn của cặp đôi. Madeline và Raphael ghi dấu tình yêu của họ tại quảng trường Navone ở Rome, trên một chiếc thuyền gondola ở Venise, trước những công trình của Gaudí tại Barcelona, trên những chuyến tramway tại Bồ Đào Nha hay tại khu trượt tuyết ở dãy Alpes. Cũng giống như những nơi mà chính anh và Francesca đã cùng đặt chân đến trong thời gian hai người yêu nhau. Nhưng hạnh phúc của người khác chỉ làm anh thêm đau đớn, anh chỉ xem lướt qua bộ ảnh đó.

    Tuy vậy anh vẫn tiếp tục khám phá chiếc điện thoại, xem qua kho nhạc của Madeline một cách thích thú. Trong khi anh nghĩ chắc đó sẽ là sự kết hợp của đủ mọi thể loại, của pop và R'n'B, mắt anh nhíu lại khi phát hiện tất cả âm nhạc mà anh yêu thích : Tom Waits, Lou Reed, David Bowie, Bob Dylan, Neil Young...

    Những bản nhạc u sầu và phóng đãng hát về sự mơ hồ, về sự đau khổ của những buổi sáng nhợt nhạt tái xanh và những định mệnh tan vỡ.

    Thật là ngạc nhiên. Đúng là « chiếc áo không làm nên thầy tu », nhưng anh khó lòng tưởng tượng một cô nàng đỏm dáng, tay đắp móng giả và xách túi Louis Vuitton ở sân bay lại có thể chìm đắm trong những suy nghĩ day dứt băn khoăn này.

    Bắt đầu dò xét kĩ lưỡng hơn, anh xem xét những tựa phim mà Madeline đã tải. Lại một bất ngờ khác : không hề có nhạc kịch lãng mạn, những tập phim Sex and the City hay Desperate Housewives, mà là những bộ phim dài khó hiểu hơn và gây nhiều tranh cãi : Le Dernier Tango à Paris, Crash, La Pianiste, Macadam Cowboy et Leaving Las Vegas.

    Jonathan dừng lại ở tựa phim cuối : câu chuyện tình yêu không tưởng giữa một chàng trai nghiện rượu sắp chết và một cô gái điếm khốn khổ là bộ phim yêu thích của anh. Lúc anh xem bộ phim đó, anh đang ở đỉnh cao của sự nghiệp và hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên, sự trượt dài vì rượu của Nicolas Cage, nhấn chìm thất bại của cuộc đời bằng rượu, lại gần như rất thân thuộc với anh. Đó là thể loại phim làm sống lại những vết thương của bạn, đánh thức những con quái vật già nua và những bản năng tự hủy hoại bản thân của bạn. Thể loại truyện mà sẽ để bạn đối mặt với những nỗi sợ thầm kín nhất, với nỗi cô độc, và nhắc bạn nhớ rằng sẽ không có bất cứ ai phải xuống địa ngục. Tùy vào tâm trạng của bạn, tác phẩm sẽ khiến bạn buồn nôn hay ngược lại, làm cho bạn hiểu rõ hơn bản thân mình. Trong mọi trường hợp, điều đó luôn luôn đúng.

    Rõ ràng, Madeline có những sở thích thật khó lường.

    Ngày càng trở nên lúng túng, anh tự để mình xem xét những email và tin nhắn của cô. Ngoài những tin nhắn với nội dung công việc, phần lớn những cuộc trao đổi của cô là với Raphael - người bạn đồng hành, có vẻ như rất yêu và quan tâm đến cô – và người bạn thân nhất của cô – cô nàng Juliane nổi tiếng nhiều chuyện và hay đặt điều, nhưng là một người bạn trung thành và hài hước. Hàng chục email của một chủ thầu ở Paris cho thấy rằng Madeline và Raphael sắp dọn đến một căn nhà ở Saint-German-en-Laye mà họ đã sắp xếp với một sự chăm chút và nhiệt tình cho tổ ấm tình yêu đầu tiên của họ.

    Có vẻ như, cặp đôi đang tận hưởng hạnh phúc trên những đám mây, ngoại trừ...

    …...khi anh tiếp tục cuộc « đào bới » của mình, Jonathan tìm thấy lịch điện tử của Madeline và phát hiện những cuộc hẹn thường xuyên với một gã Esteban nào đó. Anh tưởng tượng ngay đến một gã play-boy người Argentina, người tình của cô nàng Anh quốc trẻ này.

    Hai lần một tuần, thứ hai và thứ năm từ 18 đến 19 giờ, Madeline đến gặp gã Casanova người Nam Mỹ của mình ! Cô gái ngoan hiền Madeline sẽ đến gặp gã Casanova người Nam Mỹ ! Liệu anh chàng Raphael ngốc nghếch có biết về những chuyện điên rồ này của cô vợ chưa cưới đáng yêu của mình không ? Không, dĩ nhiên rồi. Chính Jonathan cũng đã trải qua điều tồi tệ y như vậy và không hề hay biết gì cho đến khi tận mắt chứng kiến sự lừa dối của Francesca, trong khi anh vẫn nghĩ gia đình mình thật sự hạnh phúc.

    Đàn bà đều giống nhau cả......Anh nghĩ, hoàn toàn vỡ mộng.

    Trong những tấm hình, Raphael trông có vẻ không cá tính với áo pull và sơ mi xanh theo kiểu cổ điển. Nhưng so với tay câu chuyên đi phá vỡ hạnh phúc của người khác mà anh chắc đó là Esteban,, Jonathan không thể ngăn được một sự đồng cảm và gắn kết kì lạ của những ông chồng bị lừa dối.

    *

    Trong số những cuộc hẹn khác, thuật ngữ « phụ khoa » lặp lại khá thường xuyên : đó là với bác sĩ Sylvie Andrieu, người đã hội chẩn Madeline trong 6 tháng gần đây về bệnh lý sinh sản. Ít nhất đó là những gì dự đoán được từ các email gửi đến từ một phòng thí nghiệm chẩn đoán y khoa mà Madeline đã lưu lại.

    Trước màn hình điện thoại của cô, Jonathan có chút cảm giác của kẻ rình trộm và hơi khó chịu, nhưng có cái gì đó ở người phụ nữ này thu hút anh.

    Những tuần vừa rồi, Madeline đã trải qua những cuộc kiểm tra bình thường nhất để xác định khả năng có thể bị vô sinh : đo nhiệt độ, xét nghiệm... Jonathan có chút hiểu biết ở chỗ này : Francesca và anh đã gặp phải những vấn đề tương tự và cũng đã trải qua những bước như vậy để có được Charly.

    Anh dành thời gian để xem kết quả một cách chú tâm. Với những gì anh biết, chúng có vẻ tốt. Madeline có một chu kì đều đặn, liều lượng hormone được đảm bảo và việc rụng trứng cũng không cần thiết phải được kích thích. Ngay cả chồng chưa cưới của cô cũng sẵn sàng cho cuộc kiểm tra tinh dịch và Raphael đã nhẹ nhõm nhận thấy rằng tinh trùng của anh đủ nhiều và hoạt động đủ khả năng để cô có thể thụ thai.

    Chỉ còn thiếu một cuộc kiểm tra nữa, gọi là « test Hühner », để hoàn thành tất cả. Trong khi xem xét những ghi chú trong lịch điện tử, Jonathan nhận thấy rằng, đã ba tháng nay, ngày hẹn liên tục bị hoãn lại.

    Thật kì lạ...

    Anh nhớ rất rõ tâm trạng mình vào thời điểm đó, khi anh trải qua cuộc xét nghiệm đó cùng Francesca.

    Chắc chắn, cuộc xét nghiệm, dùng để kiểm tra sự tương thích của cặp đôi, đã gặp phải trở ngại – cuộc kiểm tra phải được thực hiện trong 2 ngày trước ngày rụng trứng và ít hơn mười hai tiếng sau một lần quan hệ không sử dụng biện pháp ngăn ngừa - , nhưng một khi bạn đã quyết định thực hiện nó, bạn chỉ có duy nhất một ước muốn : kết thúc nó thật nhanh để có thể cảm thấy an tâm.

    Tại sao Madeline lại trì hoãn đến ba lần ngày hẹn xét nghiệm ?

    Anh lục lọi trong tâm trí mình trong khi biết rằng mình hoàn toàn không thể tìm được câu trả lời. Trên hết, những cái lỗi hẹn có thể bắt nguồn từ chứng bệnh phụ khoa hay là từ Raphael.

    - Đi ngủ đi, Coco ! Boris hét lên với anh.

    Đây là lần đầu tiên anh cảm thấy con vẹt có lý. Anh đang làm trò gì vậy, vào lúc 2 giờ sáng, dò xét một cách tuyệt vọng màn hình điện thoại của một người phụ nữ mà anh chỉ chạm mặt có hai phút trong cuộc đời này ?

    *

    Jonathan rời khỏi chiếc ghế, đã quyết định đi ngủ, nhưng chiếc điện thoại lại tiếp tục thực hiện quyền lực thu hút sự chú ý của mình.

    Không thể bỏ nó xuống, anh kết nối nó với mạng wifi trước khi xem lại lần nữa bộ sưu tập những bức ảnh. Anh lướt qua những bức ảnh của Madeline đến khi thấy được thứ anh cần tìm.

    Anh trở lại phòng khách và in nó ra.

    Máy in kêu rè rè trước khi nhả ra một tấm chân dung một người phụ nữ trẻ trước con Kênh Lớn ở Venise. Jonathan lấy bức hình và chăm chú nhìn vào ánh mắt của Madeline.

    Có một vẻ bí ẩn trong khuôn mặt này. Đằng sau ánh sáng và nụ cười, anh cảm nhận được một sự rạn vỡ, một cái gì đó bị hỏng không thể sửa chữa được, giống như bức ảnh đang mang một thông điệp ẩn giấu mà anh không tài nào giải mã được.

    Jonathan lại bước ra hiên. Như bị thôi miên bởi chiếc điện thoại, anh thống kê lại những ứng dụng mà khác nhau mà Madeline đã tải xuống : thông tin báo chí, bản đồ tàu điện ngầm Paris, dự báo thời tiết,...

    Bí mật của cô là gì, Madeline Greene ? Anh thì thầm khi lướt tay trên màn hình.
    Madeline Greeeeeene, con vẹt lặp lại bằng cách hét to.

    Ánh đèn bật sáng ở ngôi nhà đối diện.

    Chúng tôi muốn được ngủ ! Người hàng xóm ca cẩm.

    Jonathan mở miệng định quở mắng Boris nhưng một chương trình đã thu hút sự chú ý của anh : một « cuốn lịch của phụ nữ » trong đó Madeline ghi lại một phần lớn cuộc sống riêng tư của mình.

    Được sắp xếp như một cuốn sổ những việc cần làm, ứng dụng lưu giữ những ngày của chu kỳ, chỉ rõ những ngày rụng trứng, những ngày thuận lợi cho việc quan hệ và tính toán trung bình của những chu kỳ kinh nguyệt. Một « nhật ký » theo dõi sự thay đổi của cân nặng, nhiệt độ và tâm trạng trong khi những biểu tượng kín đáo hình trái tim cho phép người dùng kiểm tra lại những ngày cô đã làm « chuyện ấy ».

    Chính việc xem xét sự sắp xếp của những trái tim trên lịch đã dẫn đến một sự thật hiển nhiên bày ra ngay trước mắt Jonathan : Madeline có ý định có con, nhưng cô chủ ý chỉ quan hệ vào những ngày nằm ngoài thời kì thuận lợi của mình.....
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  6. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 4: Chênh lệch giờ giấc

    Trái tim người phụ nữ như một mê cung của những ẩn ý tinh tế

    thách thức tâm hồn thô bạo đang ẩn nấp của người đàn ông.

    Nếu bạn thật sự muốn sở hữu một người phụ nữ, trước hết hãy suy nghĩ

    như cô ấy và điều cần làm đầu tiên là chinh phục tâm hồn cô ấy.

    Carlos RUIZ ZAFON

    Trong lúc đó, ở Paris...

    - Takumi, cậu hãy giúp tôi một việc nào.

    Đồng hồ treo tường của cửa hàng vừa mới điểm 11 giờ.

    Đứng trên một cái thang nhỏ, tóc búi bằng một cây trâm, tay đeo găng, Madeline vừa treo xong một bó lớn những cây nhựa ruồi.

    - Tất nhiên rồi, thưa bà ! Người tập sự trẻ trả lời.
    - Đừng có gọi tôi là « bà » chứ ! Madeline tỏ vẻ khó chịu khi bước xuống vài bậc thang.
    - Vâng ạ, Madeline, anh chàng người châu Á đỏ mặt đáp lại. Việc gọi sếp của mình bằng tên tạo ra một sự thân mật làm anh cảm thấy khó chịu.
    - Tôi cần cậu đi gửi giúp tôi một gói hàng, cô giải thích trong khi lấy một phong bì bằng giấy thô trong đó cô đã để điện thoại của Jonathan vào.
    - Tất nhiên rồi, thưa b.....ừm, Madeline.
    - Đây là một địa chỉ ở Mỹ, cô nói rõ khi đưa cậu một tờ 20 euro.

    Takuma xem xét địa chỉ :

    - Jonathan Lempereur..........Có vẻ như đây là một ông chủ ? Cô tự hỏi trong khi cưỡi lên chiếc xe đạp điện phục vụ cho việc giao hàng của mình.
    - Cậu biết ông ta à ? Cô chủ cửa hàng hoa ngạc nhiên khi đi cùng anh ra vỉa hè.
    - Ai cũng biết mà, anh lại nói mà không nhận ra sự vụng về của mình.
    - Điều đó có nghĩa là tôi là nữ hoàng của những kẻ ngu ngốc sao ? Madeline đáp lại.
    - Không, ừm....không phải vậy, tôi..., anh lắp bắp.

    Lúc này, Takumi đang đỏ mặt tía tai. Những giọt mồ hôi lấm tấm chảy trên trán anh và đôi mắt anh thì cúi gầm xuống đất.

    - Được rồi, cậu sẽ phải tự xử vào một lúc khác - cô nói với anh. Còn bây giờ, nói tôi nghe về người này đi.

    Takumi nuốt nước miếng.

    - Cách đây vài năm, Jonathan Lempereur quản lý nhà hàng tốt nhất ở New York. Ba mẹ tôi đã đưa tôi đến đó để ăn mừng lễ tốt nghiệp đại học của mình. Đó là một nơi tuyệt vời : thời hạn ở trong danh sách khách hàng chờ đợi lên đến một năm và những hương vị độc đáo mà người ta không thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác.
    - Tôi không nghĩ anh ta là người đó đâu, cô nói khi chỉ vào phong bì. Địa chỉ mà anh ta đưa tôi đúng là của một nhà hàng, nhưng đó là một quán ăn rẻ tiền chứ không phải một nhà hàng 5 sao.

    Takumi cất gói hàng vào trong balô và nổ máy mà không có ý muốn biết gì thêm.

    - Lát nữa gặp lại.

    Madeline vẫy tay chào cậu và đi vào cửa hàng.

    Những lời nói của anh chàng học việc đã kích thích sự tò mò của cô, nhưng cô cố gắng tập trung vào công việc như chưa từng có gì xảy ra. Từ khi mở cửa, cửa hàng không hề vắng khách. Cũng giống như ngày lễ Tình nhân, Giáng sinh cũng đánh thức những xúc cảm : tình yêu, hận thù, cô đơn, sầu muộn. Chỉ có buổi sáng hôm nay, cô đã đón tiếp tại cửa hàng của mình một loạt những khách hàng độc đáo : một người đàn ông thích chinh phục gửi 12 bó hoa đến 12 người phụ nữ ở 12 thành phố khác nhau, một người phụ nữ trung niên tự gửi cho mình những nhánh hoa lan để có dịp với những đồng nghiệp cùng văn phòng, một cô gái trẻ người Mỹ lên đường trong tiếng khóc gửi đến anh chàng người yêu người Paris của mình một bó hoa héo úa tượng trưng cho sự chia ly. Còn anh chàng bán bánh mì của khu phố, anh đã yêu cầu một món quà gửi đến người mẹ kế yêu dấu của mình là một chậu xương rồng lớn với những cái gai dài và sắc nhọn....

    Madeline thừa hưởng từ cha mình đam mê về nghệ thuật hoa.

    Được cảm hứng dẫn đường, cô mày mò tự học hỏi trước khi theo học trường Piverdière, trường học về hoa rất nổi tiếng của Angers. Cô tự hào vì mình làm công việc đánh dấu tất cà những sự kiện quan trọng nhất của cuộc đời một con người.

    Ngày sinh, lễ rửa tội, buổi hẹn hò đầu tiên, đám cưới, giảng hòa, thăng chức, nghỉ hưu, đám tang : những bông hoa luôn đồng hành cùng con người từ cái nôi đến ngôi mộ của họ.

    Người phụ nữ trẻ tiếp tục làm một bó hoa khác, nhưng cô từ bỏ nó chỉ sau năm phút. Cô không tài nào dẹp bỏ câu chuyện mà Takumi vừa kể ra khỏi đầu mình.

    Cô đi ra đằng sau quầy và mở máy tính của cửa hàng. Khi gõ « Jonathan Lempereur » vào công cụ tìm kiếm Google, người ta sẽ nhận được hơn sáu ngàn kết quả ! Cô vào trang Wikipedia. Bộ bách khoa toàn thư trên mạng này ghi lại một lượng thông tin lớn về một người chủ nhà hàng với một bức ảnh, mà cô không có một chút nghi ngờ nào, chính là người đàn ông mà cô đã gặp ngày hôm qua ở sân bay, mặc dù trong ảnh Jonathan có vẻ trẻ trung và quyến rũ hơn. Một cách lúng túng, Madeline mang cặp kính mỏng của mình vào, và trong khi gặm cây bút chì của mình, cô bị cuốn hút vào màn hình :

    Jonathan Lempereur, sinh ngày 4 tháng 9 năm 1970, là một bếp trưởng và một doanh nhân người Pháp phát triển phần lớn sự nghiệp của mình ở Mỹ.

    Thực tập :

    Là người Pháp gốc Gascogne, anh sinh trưởng trong một gia đình giản dị làm công việc nhà hàng và bắt đầu làm việc khi còn rất trẻ trong nhà hàng của cha mình, La Chevalière, tại quảng trường Libération ở Auch. Khi mới mười sáu tuổi, anh vừa học vừa làm để thu thập kinh nghiệm : phụ bếp ở Ducasse, Robuchon và Lenôtre, trước khi trở thành phó bếp của bếp trưởng Jacques Laroux tại nhà hàng La Bastide ở Saint-Paul-de-Vence.

    Phát hiện :

    Cái chết bất ngờ của bếp trưởng đã đưa Lempereur lên đứng đầu nhà hàng La Bastide. Trái với mọi dự đoán, anh đã tiếp tục duy trì được vị thế của nhà hàng. Hai mươi lăm tuổi, anh trở thành bếp trưởng trẻ nhất nước Pháp đứng đầu một nhà hàng 3 sao ở Guide Michelin.

    Khách sạn nổi tiếng Cap-d’Antibes đã mời anh về giúp đỡ cho nhà hàng của họ : La Trattoria. Chưa đầy một năm sau khi mở cửa, nhà hàng nhanh chóng đạt được vị trí 3 sao, đưa Jonathan Lempereur trở thành một trong bốn bếp trưởng dành được 6 sao trong sự nghiệp của họ.

    Công nhận :

    Năm 2001, anh gặp Francesca, con gái của doanh nhân người Mỹ Frank DeLillo, trong khi cô đang đi hưởng tuần trăng mật tại khách sạn Cap-d’Antibes cùng chồng, chủ ngân hàng Mark Chadwick. Nữ thừa kế trẻ và chàng bếp trưởng đã gặp tiếng sét ái tình và Francesca thực hiện ngay thủ tục ly hôn chưa đầy một tuần sau đám cưới, làm xáo trộn gia đình mình trong khi khách sạn ngay lập tức sa thải bếp trưởng của mình để giữ thanh danh.

    Cặp đôi mới chuyển đến New York và kết hôn.

    Với sự giúp đỡ của vợ, Jonathan Lempereur mở nhà hàng riêng của mình, Imperator, và vị trí của nó là ở đỉnh của Rockefeller Center.

    Với Lempereur, đó chỉ là khởi đầu của một thời kì đầy sáng tạo. Thử nghiệm những kĩ thuật mới trong khi vẫn giữ nguyên hương vị của vùng Địa Trung Hải, anh trở thành một trong những người tuyên truyền « ẩm thực phân tử ». Thành công lập tức đến với anh.

    Chỉ trong vài tháng, anh trở thành con cưng của những ngôi sao, những chính trị gia và những nhà phê bình ẩm thực. Chỉ mới ba mươi lăm tuổi, anh được chọn là đầu bếp tài năng nhất thế giới bởi một hội đồng giám khảo quốc tế gồm bốn trăm nhà phê bình đã từng thử qua « ẩm thực sáng chói » và khả năng mang đến cho thực khách « một chuyến du lịch kì diệu bằng vị giác » của anh. Vào thời điểm đó, nhà hàng của anh đón tiếp hàng chục ngàn thực khách từ khắp nơi trên thế giới và người ta thường phải đợi đến một năm để có thể đặt được chỗ.

    Biểu tượng của truyền thông :

    Cùng với sự nghiệp đầu bếp, Jonathan Lempereur trở nên nổi tiếng vì sự xuất hiện trong rất nhiều chương trình truyền hình, tiêu biểu là « Một giờ cùng Jonathan » trên kênh BBC hay « Bí mật của bếp trưởng » trên kênh Fox, những chương trình này thu hút hàng triệu khán giả theo dõi mỗi tuần và còn được xuất bản thành sách hay DVD.

    Năm 2006, được ủng hộ bởi Hilary Clinton, thượng nghị sĩ của New York, Lempereur đã đánh bại cuộc vận động chống lại thực đơn ở những nhà ăn của « Trái táo lớn ». Cuộc gặp gỡ của anh với học sinh, các bậc phụ huynh và các giáo viên kết thúc bằng việc bắt đầu thực hiện những thực đơn cân bằng hơn trong khắp hệ thống trường học.

    Với một nụ cười quyến rũ, áo khoác da và âm điệu tiếng Pháp khó thể cưỡng lại, anh chàng bếp trưởng trẻ này trở thành biểu tượng của nền ẩm thực hiện đại và vinh dự được xếp vào danh sách những nhân vật có tầm ảnh hưởng nhất của tạp chí Time Magazine. Tuần san này còn nhân cô hội đó đặt cho anh biệt danh « Tom Cruise của nhà bếp ».

    - Cô có bán những thứ để trang trí không ?
    - Xin lỗi ?

    Madeline ngước lên khỏi màn hình. Bị cuốn hút bởi cuộc sống của Lempereur, cô không nhận ra có một nữ khách hàng vừa bước vào cửa hàng.

    - Những đồ trang trí, cô có bán chúng không ? Người phụ nữ lập lại khi chỉ vào những cái kệ hồng phấn bằng gỗ trên đó có những phụ kiện : nhiệt kế kiểu cũ, đồng hồ chim cúc cu, lồng chim, gương trang trí, đèn chùm và nến thơm.
    - Ừm...rất tiếc là không, chúng dùng để trang trí cửa hàng – Madeline nói dối – vội vã đuổi khéo người phụ nữ để tìm hiểu kĩ hơn lai lịch của Jonathan.

    Doanh nhân thành đạt : xây dựng tập đoàn Imperator dựa trên sự nổi tiếng.

    Lempereur cùng với vợ xây dựng tập đoàn Imperator chuyên về luân chuyển hàng hóa. Đôi vợ chồng mở rộng cơ ngơi của họ : quán rượu, nhà máy bia, quán bar, khách sạn sang trọng,....Hệ thống nhà hàng của họ bành trướng khắp nơi trên thế giới, từ Las Vegas đến Miami qua đến tận Bắc Kinh, Luân Đông và Dubai. Năm 2008, tập đoàn Imperor, ước tính khoảng hai ngàn nhân công tại hơn hai mươi quốc gia, thu về lợi nhuận hàng chục triệu đô la.

    Khó khăn tài chính và sự quay lưng lại của giới ẩm thực :

    Trong khi những khách hàng tiếp tục đổ dồn về nhà hàng New York của anh, chàng bếp trưởng người Pháp này lại trở thành mục tiêu của những cuộc tấn công ngày càng mạnh bạo. Những nhà phê bình trước đây đã thán phục sự sáng tạo cũng như khả năng của anh, giờ đây chỉ trích anh vì sự phân tán của nhà hàng và dần biến thành « một cái máy chạy theo đồng tiền ».

    Tuy nhiên, hàng loạt hoạt động của tập đoàn không có khả năng thu hồi lại vốn. Tập đoàn Imperator ngập trong nợ nần và đứng bên bờ vực phá sản vào tháng 12 năm 2009.

    Vài tuần sau, sau cuộc chia tay với người vợ, Jonathan từ bỏ mọi thứ, anh tuyên bố « mệt mỏi vì những chỉ trích », « cạn kiệt ý tưởng » và « không còn hứng thú với thế giới ẩm thực ». Ở tuổi ba mươi chín, buộc phải nhượng lại quyền kinh doanh của mình, Lempereur chính thức rút khỏi thương trường sau khi để lại một dấu ấn lớn cho nền ẩm thực đương đại.

    Đoạn cuối của ghi chú cho Madeline biết rằng người bếp trưởng này đã xuất bản một quyển sách năm 2005, « Tự thú của một đầu bếp đang yêu ».

    Một cuộc tìm kiếm khác bằng hai hay ba cái click chuột dẫn cô đến trang web của quán bia French Touch mà Jonathan đang quản lý tại San Francisco. Trang web chưa được cập nhật đầy đủ. Người ta chỉ tìm thấy được vài menu 24 đô la : súp hành, dồi lợn nhồi táo, bánh tarte. Không có gì gọi là thú vị từ một người, vài năm trước đây, đã từng được công nhận là đầu bếp giỏi nhất thế giới.

    Làm thế nào mà anh ta lại ra nông nỗi này ? Cô tự hỏi trong khi đi vòng quanh những cây thông và những chậu lan. Cô đi đến cuối cửa hàng, nơi được bố trí như một khu vườn, và với ánh nhìn xa xăm, cô ngồi xuống chiếc xích đu được cột vào một cành cây lớn trên trần nhà.

    Chuông điện thoại của cửa hàng kéo cô ra khỏi những suy nghĩ.

    Cô đứng lên tấm ván nhỏ và nghe máy. Đó là Takumi.

    - Cậu vẫn ở bưu điện à ?
    - Không, thưa b.......Madeline. Đang có cuộc đình công nên các văn phòng đều đóng cửa hết.
    - Được rồi, trước khi quay về, hãy ghé qua nhà sách và mua giùm tôi một quyển. Cậu có gì để ghi chép không ? Tựa của cuốn sách là : Tự thú của một đầu bếp đang yêu của..........
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  7. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 5 : Bạn có thư


    Ước muốn hiểu biết hoàn toàn về một con người là một cách để

    hòa hợp với họ, khám phá họ. Đó là một mong ước xấu hổ mà ta phải chối bỏ.

    Joyce Carol Oates

    San Francisco, giữa đêm

    Jonathan giật mạnh chuỗi đèn neon treo trên gương của phòng tắm. Không thể nhắm mắt được. Sự căng thẳng và cảm giác nóng rực ở dạ dày không ngừng tra tấn anh từ khi anh uống thứ rượu chết tiệt đó. Bằng ánh sáng nhạt nhòa của chiếc đèn khí, anh lục lọi trong tủ thuốc để tìm kiếm thuốc an thần. Trên tay cầm hai viên thuốc, anh đi vào bếp uống chúng với một ngụm nước khoáng.

    Căn nhà vô cùng yên tĩnh. Marcus, Charly và cả Boris đã chìm sâu vào giấc ngủ từ lâu. Cửa sổ cánh sập vẫn đang được để hé mở, nhưng bên ngoài trời cũng không lạnh lắm. Một cơn gió nóng nổi lên, làm rung nhẹ chiếc chuông gió bằng tre trong khi ánh trăng đang xuyên qua cửa kính soi rọi màn hình chiếc điện thoại anh đặt trên bàn. Jonathan không thể từ bỏ nó : nhấn vào chiếc nút duy nhất, anh khởi động máy, ngay lập tức màn hình sáng lên và trở nên trong suốt. Một nút nhỏ màu đỏ báo rằng Madeline vừa nhận được một bức thư sáng lên. Một loại giác quan thứ sáu pha lẫn chút tò mò thúc đẩy anh nhấn vào biểu tượng để đọc tin nhắn. Nó đã được gửi vào mười phút trước, và thật lạ lùng làm sao, nó được gửi đến cho anh....

    *

    Gửi Jonathan (chúng ta bỏ qua cách xưng hô trịnh trọng M. Lempereur và Mlle Greene có được không? Sau tất cả, tôi đoán rằng nếu anh đã táo tợn xem hộp thư của tôi, chắc là anh cũng sẽ ghé mắt vào những bức ảnh của tôi, đặc biệt là hai hay ba bức ành “nghệ thuật” trong album của tôi. Anh là một kẻ ác độc và đó là vấn đề của anh, nhưng làm ơn bằng mọi cách có thể đừng đưa chúng lên Facebook, bởi vì tôi không chắc rằng chồng tương lai của tôi sẽ muốn điều đó....)

    Gửi Jonathan (bis), tôi tận dụng giờ nghỉ trưa của mình (tất nhiên, bây giờ đã hơn 12 giờ trưa ở Paris) để viết thư cho anh trong khi đang nhâm nhi một chiếc bánh sandwich ăn kèm với chả của vùng Mans được làm ra một cách chăm chút bởi Pierre và Paul, hai nhân vật lổi lạc của Hội những nghệ nhân làm chả và bánh mì mà tiệm của họ ở ngay phía trước cửa hàng của tôi. Tôi hướng về ánh mặt trời và ngồi sau quầy để thưởng thức nó. Miệng tôi thì đầy thịt còn áo pull thì đầy những vụn bánh mì và những vết mỡ lấm tấm trên màn hình điện thoại của anh : tôi thừa nhận là nó chẳng hay ho gì, nhưng nó rất là ngon. Rốt cuộc, anh không phải là người mà tôi phải thuyết phục về sự cần thiết của việc biết thưởng thức thú vui của những thứ đắt tiền...

    Lại là gửi Jonathan, tôi gửi cho anh mẩu tin ngắn này để thông báo cho anh hai tin : một tốt và một xấu. Bắt đầu bằng tin xấu trước : như anh có thể đã biết, ngay từ khi kì nghỉ bắt đầu, một cuộc đình công đã làm tê liệt đất nước Pháp tươi đẹp. Sân bay, đường cao tốc, phương tiện giao thông công cộng, bưu điện : tất cả đều bị tắc nghẽn. Takumi, người tập sự trẻ của tôi, vừa trở về từ một bưu điện đóng cửa trên đại lộ Montparnasse và tôi không thể gửi chiếc điện thoại cho anh ngay bây giờ được.

    Chúc anh những điều tốt lành. Madeline.


    Jonathan phản hồi lại không chút chờ đợi. 12 phút sau, câu trả lời của anh được gửi đi:

    Cô đang đùa tôi đấy à? Câu chuyện về cuộc đình công đó là như thế nào?

    Nếu cô không gửi lại cho anh điện thoại, hãy quên đi chuyện anh sẽ gửi nó lại cho cô!

    Và Madeline nhắn lại 30 giây sau :

    Anh vẫn còn thức vào giờ này sao, Jonathan? Anh không bao giờ ngủ à? Sự thiếu ngủ không phải là nguyên nhân của tính dễ nổi cáu và tâm trạng không tốt của anh chứ?

    Jonathan thở dài một cái và gửi một tin nhắn khác đến người phụ nữ trẻ:
    Rốt cuộc, cô đã nói có một tin tốt bù lại cho tin xấu đó mà...

    Ngồi trên chiếc ghế đẩu, Madeline ăn nốt miếng sandwich còn lại trước khi trả lời tin nhắn:

    Đúng vậy, và đây là tin tốt : bỏ qua cái lạnh và những cuộc đình công, ở Paris trời đang rất đẹp.

    Ngay khi vừa gửi tin nhắn cô đã đoán được câu trả lời sẽ nhanh chóng được gửi cho cô.

    À, ít nhất là lần này, không có gì nghi ngờ nữa: cô hãy biến đi.

    Cô không thể kiềm nổi một nụ cười dù đang lo lắng. Trong khi ngăn cản việc gửi trả điện thoại về cho chủ của nó, sự đình công của những dịch vụ công cộng đẩy cô vào một đống hỗn độn. Cô phải gánh giùm anh một trách nhiệm nặng nề mà cô không hề mong muốn. Cô có nên báo cho Jonathan biết về tin nhắn của người vợ cũ gọi từ New York để cầu xin anh quay lại với cô ta không? Một cách không tự nguyện, Madeline đang nắm giữ thông tin chủ chốt liên quan đến tương lai của một cặp đôi và điều đó không hề làm cô thích thú.

    Người phụ nữ trẻ gọi ly rượu thứ hai và cô uống nó trong khi ngắm nhìn qua cửa kính dòng người và xe cộ đang ngược xuôi. Gần với rất nhiều cửa hàng tên tuổi, con đường Delambre trở nên sôi động trong dịp mua sắm cuối tuần cuối cùng của Noel. Trên những vỉa hè ngập tràn ánh nắng mặt trời, những chiếc áo măng tô cài nút của dân Paris, những chiếc áo phao lớn của đám thiếu niên, những chiếc khăn choàng đủ màu sắc, những chiếc mũ trẻ con, những tiếng giày cao gót lọc cọc và hơi nước phả ra từ miệng của tất cả mọi người hòa trộn lại tạo thành một chuyển động say sưa của màu sắc và những khuôn mặt.

    Madeline kết thúc ly rượu của mình, và khi đã ngà ngà say, cô cầm điện thoại lên để soạn tin nhắn cuối cùng cho Jonathan.

    Gửi Jonathan,
    Bây giờ là 13 giờ. Giờ nghỉ trưa của tôi cũng phải kết thúc và tốt hơn là nên như thế, vì nếu tôi còn ở đây thêm một phút nữa, tôi có cảm giác tôi sẽ đổ gục vì chiếc bánh tarte táo renet của họ với một viên kem và tất cả mọi thứ. Một sự “tàn sát” thật sự, giống như người ta nói ở chỗ của anh, nhưng đó là một sự cám dỗ mà, ngoại trừ trong tuần lễ của giao thừa, nó sẽ không hợp lí lắm, anh sẽ đồng ý với tôi điều đó.
    Đó là một vinh hạnh cho tôi vì được nói chuyện dù ngắn ngủi với anh, bỏ qua thái độ hung hãn cũng như khía cạnh hay càu nhàu, thô thiển và hay hờn dỗi mà tôi đã quá hiểu, chúng tạo nên “thương hiệu” của anh mà không ai có thể tìm được chút hấp dẫn nào. Trước khi tạm biệt anh, cho phép tôi được thỏa mãn sự tò mò của mình bằng ba câu hỏi:
    1) Tại sao người được mệnh danh là “đầu bếp giỏi nhất thế giới” ngày hôm nay lại đi phục vụ những món ăn nhanh tầm thường trong một quán bia của khu phố?
    2) Tại sao anh vẫn còn thức vào lúc 4 giờ sáng?
    3) Anh có còn yêu vợ cũ của mình không?


    *

    Ngay khi vừa nhấn nút “gửi tin” Madeline đã nhận ra rằng cô vừa làm một điều ngu ngốc. Thế nhưng đã quá trễ....

    Cô rời khỏi tiệm Pierre&Paul và băng qua đường, trở nên mụ mẫm vì rượu.

    - Ê, nhìn xem cô đang đi đâu vậy, người đàn bà ngu ngốc kia! Một người đì đường hét lên với sự giận dữ trong mắt, suýt chút nữa đã tông vào cô với chiếc xe đạp của mình.

    Để tránh chiếc xe đạp, Madeline đột ngột lùi lại một bước nhưng lại đón nhận thêm một tiếng còi của một chiếc xe 4x4 to gần gấp đôi chiếc xe đạp ở phía bên phải. Cô trở nên sợ hãi và nhanh chóng chạy sang vỉa hè phía đối diện, gót của đôi bốt của cô đã bị gãy trong khi cô chạy qua.

    Chết tiệt! Cô thở ra khi mở cửa hàng để tiến vào Khu vườn kì diệu của mình. Cô thích Paris, cô ghét dân Paris....

    - Tất cả đều ổn chứ, thưa bà? Takumi hỏi cô, trông thấy rằng cô vẫn đang hoảng hốt.
    - Cậu nghỉ ngơi lâu quá rồi đấy! Cô trách móc cậu vì thái độ lễ phép đó.
    - Tôi xin lổi, anh chàng người châu Á sửa lại. Mọi thứ ổn cả chứ, Madeline?
    - Không sao, chỉ là cái gót giày chết tiệt này...

    Cô dừng câu nói giữa chừng và vả một ít nước lên mặt trước khi cởi giầy và áo khoác trước cái nhìn sợ sệt của cậu nhân viên.

    - Đừng có nhìn tôi bằng cái ánh mắt kích thích đó, tôi sẽ không đi xa hơn với cái vũ điệu thoát y này đâu!

    Ngay khi cô nhìn thấy mặt Takumi đỏ lên như gấc, Madeline cảm thấy hối hận về sự nổi khùng vô cớ của mình và không muốn tạo ra phiền phức giữa hai người.

    - Cậu có thể đi ăn trưa. Hãy tận hưởng thời gian của mình, ở đây cứ để tôi lo.

    Còn lại một mình trong cửa hàng, Madeline cuống cuồng mở điện thoại của Jonathan. Anh vừa mới trả lời cô:

    Gửi Madeline,
    Hi vọng điều này sẽ làm thỏa mãn sự tò mò của cô, đây là câu trả lời của tôi:
    1) Về con người mà tôi đã từng là trước đây, đã từ rất lâu rồi tôi không còn là “đầu bếp giỏi nhất thế giới”. Theo cách nói của một nhà văn, tôi đã mất đi nguồn cảm hứng và đam mê cần thiết để thực hiện những sáng tạo tân tiến. Điều đó có nghĩa là, nếu cô đến San Francisco cùng với anh chàng Raphael của cô, cô không cần thiết phải đến thưởng thức những “món ăn nhanh tầm thường” của nhà hàng chúng tôi. Những miếng thịt của chúng tôi rất mềm mại và ngon lành, còn về “khoai tây chiên”, thật sự đó là khoai tây sốt tỏi với lá basilic và lá quế. Những “củ khoai tuyệt đẹp vùng Fontenay” được trồng với số lượng nhỏ bởi một nhà sản xuất của vùng được tất cả khách hàng của chúng tôi khen ngợi vì độ chín cũng như sắc vàng đẹp mắt của chúng.
    2) Đúng là bây giờ là 4 giờ sáng và tôi thì vẫn còn thức. Lý do? Có hai câu hỏi nhảy nhót trong đầu tôi và ngăn cản tôi đến với giấc ngủ.
    3) Cô muốn nghĩ sao thì tùy.


    *

    Trên đường Odessa, Takumi đi vào một nhà hàng nhỏ mà anh vẫn thường ăn. Anh chào ông chủ và tìm cho mình một chỗ yên tĩnh ở phòng thứ hai, ít ồn ào và đông đúc hơn. Anh gọi một chiếc bánh xếp cà chua với thịt dê : món ăn đặc biệt mà Madeline đã giới thiệu cho anh.Trong khi chờ đợi món khai vị, anh lấy trong túi ra một quyển từ điển xách tay để tra nghĩa của từ « dâm đãng » mà anh cảm thấy bối rối. Vì quá bất ngờ, anh đột nhiên thể hiện một thái độ kì quặc làm cho mọi khách hàng đều quay lại nhìn anh bằng một cái nhìn khó chịu. Madeline tinh quái luôn cảm thấy thích thú khi làm anh rối loạn và hoài nghi với những điều mà anh đã từng chắc chắn. Anh hơi buồn vì cô không nghiêm túc với anh và cô xem anh như một thiếu niên nhiều hơn là như một người đàn ông. Người phụ nữ này tỏa ra một vẻ quyến rũ như một bông hoa bí ẩn. Bình thường, cô là một « mặt trời lớn », rực rỡ như hoa hướng dương, tỏa ra ánh sáng, sự tin tưởng và nhiệt huyết. Nhưng có đôi lúc, cô lại trở nên bí ẩn và lạnh lùng, như hình ảnh của một nhánh lan màu đen : một loại hoa hiếm được rất nhiều người sưu tập hoa tìm kiếm chỉ nở vào giữa đông trên những cây cọ ở Madagascar.

    *

    Người khách đã đến vào lúc không thích hợp. Để phục vụ anh, Madeline đành phải ngưng việc soạn thư và đút điện thoại vào chiếc túi nhỏ trên tạp dề của cô. Đó là một cậu thanh niên, khoảng 15-17 tuổi, có vẻ ngoài của một rocker trẻ tuổi mà người ta thường nhìn thấy vào giờ tan học ở những trường cấp ba của những khu phố xinh đẹp : giày Converse, quần jean bó, sơ mi trắng, áo khoác cài nút hàng hiệu, tóc được đánh rối một cách khéo léo.

    - Tôi có thể giúp gì được cho cậu ?
    - À....vâng, em muốn mua hoa, cậu ta giải thích trong khi đặt túi đàn ghi ta của mình xuống một cái ghế.
    - Tất nhiên rồi. Tưởng đâu cậu hỏi tôi về bánh sừng trâu, vậy thì tôi phiền phức rồi.
    - Cái gì ạ ?
    - Không có gì đâu, bỏ qua đi. Cậu muốn một bó tròn hay những cành hoa lớn ?
    - À, em cũng không biết nữa.
    - Màu hơi nhạt hay rực rỡ ?
    - Sao ạ ? Cậu thiếu niên hỏi lại giống như cô đang nói với cậu một ngôn ngữ vô cùng khó hiểu.

    Chắc chắn cậu ta không phải là kẻ khéo léo so với những bạn trẻ khác cùng độ tuổi, cô nghĩ trong khi cố gắng giữ sự bình tĩnh và nụ cười.

    - Ừm, cậu có ý tưởng nào về số tiền phải chi cho bó hoa này không ?
    - Em không biết. Em có thể mua gì đó với 300 euro không ?

    Lần này cô không thể kiềm nổi một tiếng thở dài : cô ghét những người không hề có khái niệm gì về giá trị của đồng tiền. Trong một phần giây, một vài kỷ niệm thời thơ ấu như hiện về trước mắt cô : những năm tháng thất nghiệp của cha cô, những hi sinh của gia đình để đầu tư cho việc học của cô,... Sao lại có một khoảng cách lớn như thế tồn tại giữa một cậu nhóc sinh ra với một cái thìa bạc trong miệng và cô nhóc mà cô đã từng là ?

    - Nào, nghe này anh bạn trẻ, cậu không cần đến tận 300 euro chỉ để mua một bó hoa. Ít nhất thì không phải trong cửa hàng của tôi, cậu hiểu chứ ?
    - Dạ hiểu, cậu nhẹ nhàng trả lời.
    - Những bông hoa này, cậu muốn tặng cho ai ?
    - Cho một người phụ nữ.

    Madeline đưa mắt nhìn lên trời.

    - Cho mẹ hay bạn gái cậu ?
    - Thật ra thì đó là cho một người bạn của mẹ em, cậu trả lời với một chút khó chịu.
    - Vậy cậu muốn nhắn gửi điều gì khi tặng bó hoa này ?
    - Một lời nhắn gửi ?
    - Cậu tặng bà ấy hoa vì mục đích gì ? Để cảm ơn vì đã tặng cậu một chiếc áo pull vào dịp sinh nhật hay có ý gì khác ?
    - Ừm....chắc là ý thứ hai.
    - Chết tiệt, tình yêu làm cậu trở nên ngốc nghếch hay vốn dĩ cậu là như thế ? Cô lắc đầu và hỏi.

    Cậu thiếu niên cho rằng mình không cần thiết phải trả lời. Madeline rời khỏi quầy và chuẩn bị bó hoa.

    - Cậu tên là gì ?
    - Jeremy.
    - Vậy còn bạn của mẹ cậu, bà ta bao nhiêu tuổi ?
    - Ừm, dù thế nào thì cũng lớn tuổi hơn chị.
    - Vậy theo cậu thì tôi bao nhiêu tuổi ?

    Một lần nữa, cậu lại chọn cách không trả lời, chứng tỏ rằng cậu không ngu ngốc như cách mà cậu đang thể hiện.

    - Nào, cậu không hợp lắm với chúng, nhưng đây là những thứ tốt nhất, cô giải thích trong khi đưa cho cậu bó hoa. Đó là loài hoa yêu thích nhất của tôi : hoa violet ở Toulouse, vừa đơn giản, sang trọng lại lịch thiệp.
    - Chúng rất dễ thương, cậu đồng ý, nhưng trong ngôn ngữ của loài hoa, chúng có ý nghĩa gì ?

    Madeline nhún vai.

    - Bỏ qua ngôn ngữ của loài hoa đi. Chỉ cần tặng thứ gì cậu thấy đẹp, vậy là đủ.
    - Dù sao thì...Jeremy cố nài.

    Madeline có vẻ như đang suy nghĩ.

    - Trong thứ cậu gọi là « ngôn ngữ của loài hoa », hoa violet thể hiện sự khiêm tốn và e ấp, nhưng nó cũng tượng trưng cho một tình yêu bí mật, và, nếu như cậu sợ là nó sẽ mơ hồ, tôi sẽ thay thế chúng bằng một bó hoa hồng.
    - Không, hoa violet rất phù hợp với em, cậu trả lời và nở một nụ cười hết cỡ.

    Cậu trả tiền và, trước khi rời khỏi cửa hàng, cậu cảm ơn Madeline về những lời khuyên.
    Còn lại một mình, cô lại lấy điện thoại ra và vội vã soạn tiếp tin nhắn đang bỏ dở :

    Ngàn lần xin lỗi anh, Jonathan, vì sự can thiệp thiếu tế nhị vào cuộc sống riêng tư của anh. Vì một ly rượu đã làm tôi cẩu thả hơn trong những câu chữ (một ly rượu Vouvray trắng với mật ong, hương hoa hồng và quả mơ. Chắc là anh biết, còn nếu không thì cho tôi xin lỗi.)
    Tôi nghĩ là cuộc đình công của bưu điện sẽ không kéo dài quá lâu, nhưng để phòng trường hợp ngược lại, tôi sẽ gọi cho một hãng vận chuyển tư nhân. Tôi đã liên lạc với một nhân viên và anh ta sẽ đến lấy điện thoại của anh vào cuối buổi chiều.Tính cả những ngày lễ và cuối tuần, người ta đã đảm bảo với tôi rằng anh sẽ nhận được gói hàng trước thứ tư.
    Cho phép tôi chúc anh cũng như con trai anh những ngày lễ vui vẻ và an lành.

    Madeline.

    P/s : Tôi lại tò mò nữa, xin lỗi anh. Trong tin nhắn vừa rồi anh có nói là, nếu như anh còn thức vào lúc giữa đêm như thế, là vì có hai câu hỏi đang lẩn quẩn trong đầu anh và ngăn cản anh đến với giấc ngủ. Có quá vô ý tứ không khi tôi hỏi chúng là gì ?

    *

    Gửi Madeline,
    Cô muốn biết hai bí ẩn đã ngăn cản giấc ngủ của tôi sao, chúng đây :
    1. Tôi tự hỏi Estaban là ai.
    2. Tôi tự hỏi tại sao cô làm cho người thân của mình tin rằng cô đang muốn có con trong khi cô đang làm mọi cách để điều đó đừng xảy ra...

    *

    Ngập tràn sợ hãi, Madeline tắt điện thoại và tránh xa nó như để chạy trốn khỏi nguy hiểm.
    Anh ta biết điều đó ! Anh ta đã lục lọi điện thoại của cô và đã đặt câu hỏi về Estaban và đứa trẻ !
    Một giọt mồ hôi chảy dọc khắp xương sống của cô. Cô nghe tim mình đập thình thịch trong lồng ngực.Tay và chân cô run rẩy.
    Làm sao lại có chuyện này chứ ? Sổ ghi chú và hộp thư của cô, chắc chắn rồi....
    Một khoảng trống bất ngờ được tạo ra trong bụng cô và cô phải cố gắng để đứng vững. Cô cần phải bình tĩnh : chỉ với những chi tiết đó, Jonathan Lempereur không thể biết gì nhiều hơn. Chừng nào anh ta chưa đụng tay đến những thứ khác, đó không phải là một mối đe dọa thật sự.
    Nhưng trong điện thoại cô có một tài liệu mà anh ta tốt nhất đừng nên đụng vào. Một thứ mà Madeline không có quyền sở hữu. Một thứ đã từng phá hủy cuộc đời cô và dẫn cô đến ngưỡng cửa của sự điên loạn và cái chết.
    Về mặt lý thuyết, bí mật của cô được bảo vệ an toàn. Lempereur là một kẻ thọc mạch bẩn thỉu, không phải một thiên tài tin học hay một ông chủ lắm điều. Anh ta đã chơi lại cô, đùa cợt với những bí mật của cô, nhưng nếu cô không tiếp tục trò chơi, anh ta cũng sẽ chán nó.
    Ít nhất đó là những gì cô hi vọng.
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  8. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 6: Sợi dây


    Bởi vì (họ) được nối kết bằng một sợi dây […]
    chỉ tồn tại giữa hai cá nhân của một giống loài, hai cá nhân mà
    người này tìm thấy sự cô đơn của mình trong người kia.
    Paolo Giordano

    San Francisco,
    9 giờ 30 sáng

    Marcus rời khỏi giấc ngủ một cách khó khăn.
    Như một người mộng du, anh bước đến phòng tắm, đi vào buồng tắm mà không cởi cả quần đùi lẫn áo sơ mi và đứng bất động dưới vòi sen cho đến khi hơi nước bốc hơi hết. Nước lạnh làm anh mở mắt, và sau khi nhanh chóng lau khô, anh chạy ngay về phòng mình và nhận ra rằng ngăn kéo để đồ lót hoàn toàn trống rỗng. Tất cả quần lót cũng như áo t-shirt của anh đang được chất đống trong cái giỏ mây. Anh chàng người Canada nhíu mày. Jonathan, người đã nhiều lần đe dọa anh về việc không chịu giặt quần áo, đã biến sự cảnh cáo của mình thành hiện thực !

    - Jon' ! Anh than phiền trước khi nhận ra rằng hôm nay là thứ bảy và vào giờ này, ông chủ nhà hàng chắc chắn đã rời khỏi nhà để thực hiện cuộc viếng thăm hàng tuần đến chợ nông trại ở Embarcadero.

    Vẫn còn chưa tỉnh hẳn, anh lục lọi trong đống đồ dơ và lấy ra những bộ « có thể tái sử dụng ».

    Rồi Marcus đi vào nhà bếp và tìm thấy trong khi đang mò mẫm món Thermos de pu-erh mà Jonathan đã chuẩn bị vào buổi sáng. Anh gieo mình xuống ghế và uống một hơi một tách đầy trà đen. Có vẻ như thức uống đó đã đánh thức những nơ rôn của anh, một tia sáng lóe lên trong đầu anh và anh cởi tất cả quần áo ra để giặt đồ lót của mình trong bồn với nước rửa chén. Sau khi vắt nước, anh cho chúng vào lò vi sóng và chình thời gian là tám phút.

    Tự hài lòng với chính mình, trong bộ dạng « hoàn toàn không mặc gì », anh bước ra hàng hiên.

    - Xin chào anh chàng lúc-nào-cũng-uống-dù không-khát ! Boris đón chào anh.
    - Chào « con người » đầy lông, Marcus trả đũa khi chọc vào lông của con vẹt.

    Như một cử chỉ cuối cùng của sự cộng tác, con chim nhảy nhót, nghiêng đầu và mở chiếc mỏ của nó ra, nhả ra cho anh một miệng trái cây hỗn tạp đã được tiêu hóa một phần.

    Marcus cảm ơn anh bạn của mình rồi vươn dài người về phía ánh nằng và ngáp đến sái quai hàm.

    - Cử động xương sườn của cậu đi ! Con vẹt hét lên.

    Bị kích thích bởi những lời khích lệ đó, Marcus thực hiện việc mà anh cho là quan trọng nhất trong ngày của mình : anh kiểm tra hệ thống bơm nước tưới cho khoảng một chục cây gai dầu ẩn nấu sau những bụi hồng trong khu vườn. Jonathan không đánh giá cao việc trồng trọt nhỏ bé của anh, nhưng anh ta nhắm mắt cho qua. Sau tất cả, California là nhà cung cấp phương Tây hàng đầu của cây gai dầu Ấn Độ còn San Francisco chỉ là biểu tượng của sự bao dung và những thứ không phải là trồng trọt.

    Marcus ở lại hàng hiên một chút để tận hưởng không khí ấm áp. Trải qua phần lớn cuộc đời mình trong cái lạnh giá của Montréal, anh thưởng thức một cách đặc biệt sự êm dịu của khí hậu ở California.

    Trên ngọn đồi nhỏ Telegraph Hill, người ta khó có thể tin là Noël đang đến gần : những nụ hoa lài vàng ươm như những chiếc kèn trompet bắt đầu hé nở ; những cây cọ, cây mận và cây trạng nguyên rạng rỡ trong ánh mặt trời ; những căn nhà gỗ uốn lượn theo những dây trường xuân, chìm vào giữa khu rừng rậm um tùm, nơi mà những chú chim sẻ vui tươi và những con chim ruồi đủ màu sắc thi nhau kêu ríu rít.

    Mặc dù bây giờ vẫn còn khá sớm, một vài người đi dạo để xuống đến những bậc thang trải hoa của cầu thang Filbert. Bất chấp sự phát triển phong phú của các loài thực vật, căn nhà không hoàn toàn thoát khỏi những ánh nhìn tò mò. Một vài người qua đường cảm thấy vui thích, vài người khác thấy kinh ngạc, nhưng không một ai dừng lại để nói chuyện tầm phào với một con vẹt.

    Marcus không bị ảnh hưởng gì về điều đó cho đến khi một khách du lịch rút máy ảnh ra để ghi lại cảnh tượng kì lạ này.

    - Không thể yên tĩnh nổi dù là đang ở chính ngôi nhà của mình ! Marcus càu nhàu khi đi vào nhà bếp, đúng lúc lò vi sóng báo đã xong chế độ « nấu chín ».

    Tò mò về kết quả, anh mở lò ra để lấy đồ của mình. Chúng không chỉ khô ráo, vả lại còn nóng hổi và mềm mại nữa !

    Ngoài ra, chúng còn có mùi của bánh xốp, anh tự khen ngợi mình khi ngửi thử số đồ vừa « giặt » xong.

    Đứng trước gương, anh mặc chúng vào, cảm thấy thỏa mãn, anh chỉnh lại quần đùi, vuốt phẳng áo t-shirt mà anh rất thích vì câu khẩu hiệu : Out of beer (life is crap)

    Bụng anh sôi ùng ục. Đói cồn cào, anh mở tủ lạnh và lục lọi trong đống thực phẩm trước khi lấy đại vài thứ. Trên một miếng bánh mì, anh trét một lớp bơ đậu phộng, trải lên đó cá hộp và xếp thêm những khoanh chuối tròn.

    Tuyệt ngon ! Anh thầm nghĩ khi hít một hơi để ngửi thử mùi vị.

    Anh chỉ vừa mới nhấm nháp vài miếng bánh sandwich của mình cho đến khi anh phát hiện ra chúng. Những tấm ảnh của Madeline.

    Hơn năm mươi tấm chân dung được đặt trên bàn, đính bằng nam châm trên cánh cửa tủ kim loại hay dán trực tiếp lên tường.

    Có vẻ như anh bạn cùng nhà của anh đã dành gần cả đêm để in những tấm ảnh này. Người phụ nữ trẻ xuất hiện với đủ mọi tư thế : một mình, với người yêu, cận mặt, cả người...Jonathan thậm chí còn phóng lớn một vài tấm, chủ yếu là đôi mắt và khuôn mặt của cô.

    Lúng túng, Marcus ngừng nhai và tiến đến gần những bức ảnh. Cố ý không tỏ ra quá lộ liễu, Marcus chăm chú theo dõi Jonathan. Tại sao anh ta lại làm điều này ? Bí ẩn nào mà anh đang muốn tìm hiểu đằng sau ánh nhìn của Madeline Greene ?

    Đằng sau vẻ bề ngoài, anh hiểu được sự mong manh của bạn mình và biết rằng « sự phục hồi » của anh vẫn còn rất bấp bênh.

    Mỗi người đàn ông mang trong trái tim mình một khoảng trống, một vết nứt, một cảm giác bị bỏ rơi và cô đơn.

    Marcus biết rằng vết nứt trong trái tim của Jonathan rất là sâu. Và cách cư xử như thế này không mang lại chút cảm giác gì tốt đẹp cả.

    *

    Vào lúc đó, cách đó vài cây số...

    - Ba ơi, con có thể thử thịt bò khô này không ? Charly hỏi. Đây là thịt dành cho những anh chàng cao bồi !

    Với cậu con trai trên vai, Jonathan đã dạo khoảng một tiếng qua các hàng thịt của khu chợ được dựng nên trên bãi đất trước bến tàu. Đối với một người làm nhà hàng, đây là một nghi thức bất di bất dịch : mỗi thứ bảy, anh đi tiếp thêm hàng hóa và tìm cảm hứng để tạo ra thực đơn trong tuần.

    Chợ Farmer thực sự là một « thể chế » ở San Francisco. Xung quanh Ferry Building là sự tụ họp của khoảng một trăm trang trại, những chỗ đánh bắt cá và trồng rau, nơi bán những sản phẩm địa phương lấy từ việc trồng trọt theo phương pháp bảo vệ sinh thái. Chính từ đây người ta tìm thấy những loại rau tươi nhất, những trái cây mọng nước nhất, những con cá tươi ngon nhất và những loại thịt mềm nhất. Jonathan thích cái nơi tập trung đủ mọi thành phần ô hợp này : khách du lịch, đầu bếp, những người sành ăn đến để tìm những sản phẩm chất lượng.

    - Đi mà ba, đằng kia có khô bò kìa ! Con chưa từng ăn chúng bao giờ cả !

    Jonathan « thả » cậu bé xuống và cậu nhanh chóng chạy đến gian hàng đó. Một cách thích thú, Charly bỏ ngay một miếng khô bò vào miệng trước khi kiềm lại vẻ mặt nhăn nhó.

    Jonathan nháy mắt tinh nghịch với cậu.

    Ở giữa festival của những mùi vị, anh cảm thấy như đang ở nhà. Lá basilic, dầu ôliu, các loại hạt, những trái bơ, trái mướp, cà chua, cà tím, cỏ thơm, bí đỏ, xà lách : anh xem xét, ngửi thử, nếm và chọn lựa. « Người đầu bếp tồi là người tìm cách che đậy hương vị chính gốc của nguyên liệu thay vì tôn vinh nó lên. » Jacques Laroux, người bếp trưởng đã dạy anh điều đó, đã truyền cho anh bí quyết và sự nghiêm khắc trong việc chọn lựa các nguyên liệu, cách chọn theo mùa và cách tìm kiếm các nhà cung cấp hàng.

    Ở đây, trong vườn rau của nước Mỹ, điều đó không quá khó khăn. Đã từ rất lâu rồi, thực phẩm bio không còn là của riêng của những người híp pi. Từ đó nó đã trở thành lối sống của San Francisco cũng như cả California.

    Vừa ngó chừng Charly, Jonathan vừa thêm vào danh sách mua hàng của mình năm con gia cầm, mười khúc cá bơn và một sò Saint-Jacques. Anh cũng lấy khoảng mười con tôm hùm và năm kí tôm Na Uy.

    Với mỗi loại hàng, anh đều đưa cho chủ gian hàng số của chỗ mà anh đậu chiếc xe tải nhỏ của mình để các nhân viên có thể giao hàng đến xe cho anh.

    - Này, Jonathan, nếm thử xem ! Người chủ của Point Reyes gọi và đưa cho anh một con hàu.

    Đó là một trò đùa giữa họ, vì anh chàng người Pháp này, không đánh giá cao phong tục của vùng là ngâm nước con hàu trước khi ăn nó, không bao giờ cho loại động vật này vào thực đơn của nhà hàng mình.

    Jonathan cám ơn và ăn nó với một miếng chanh và một lát bánh mì.

    Anh tận dụng lúc nghỉ chân này để lấy từ áo khoác ra điện thoại của Madeline. Anh nhìn vào màn hình và có chút thất vọng khi thấy rằng cô gái bán hoa vẫn chưa trả lời tin nhắn của anh. Liệu anh có nên gửi lại cho cô một tin nhắn để xin lỗi không ? Có phải anh đã đi quá xa ? Nhưng cô ta cũng đã như vậy với anh...Đêm đó, ngay sau khi in những tấm ảnh ra, anh đã có một khám phá kì lạ trong khi xem xét sự phân bố dữ liệu trong điện thoại :

    Dung lượng của bộ nhớ : 32 Gb

    Dung lượng còn trống : 1.03 Gb

    % sử dụng : 96.8

    % còn trống : 3.2

    Điều đó làm anh rất ngạc nhiên. Bằng cách nào bộ nhớ của điện thoại lại bị bão hòa như vậy ? Thoạt nhìn, điện thoại có chứa năm bộ phim, khoảng mười lăm ứng dụng, năm mươi bức ảnh, khoảng hai trăm bài nhạc,...và đó là tất cả. Chúng không đủ để làm đầy một chiếc smartphone, không cần phải là một chuyên gia máy tính để biết được điều đó. Kết luận ? Bộ nhớ có chứa những dữ liệu khác.

    Chống khuỷa tay lên lan can hướng về phía vịnh, Jonathan đốt một điếu thuốc, nhìn theo Charly đang chơi đùa gần những chuồng thỏ. Chắc chắn rằng anh không được phép hút thuốc ở đây, nhưng vì hơi buồn ngủ nên anh cần lượng nicotin trong thuốc lá. Anh rít một hơi trong khi gật đầu chào một anh bạn đồng nghiệp. Jonathan chưa bao giờ được đánh giá cao tại đây cho đến khi họ biết anh đã từng rất nổi tiếng. Khi họ gặp anh, phần lớn những nhà sản xuất và những chủ nhà hàng đều chào anh với một vẻ pha trộn giữa kín trọng và thương hại. Ở đây, phần lớn mọi người đều biết anh là ai : Jonathan Lempereur, cựu bếp trưởng sáng tạo nhất của thời đại, cựu Mozart của ẩm thực, cựu lãnh đạo của nhà hàng tốt nhất thế giới...

    Cựu, cựu, cựu,...

    Ngày hôm nay, anh không là gì cả, hay gần như vậy. Về mặt pháp luật, anh thậm chí còn không có quyền mở cửa một nhà hàng. Khi anh bắt buộc phải bán đi quyền kinh doanh đứng tên mình, anh thật sự đã cam kết sẽ tránh xa nhà bếp. French Touch không thuộc về anh và tên của anh không bao giờ được để trước, trên trang web của nhà hàng cũng như trên carte visite của nó.

    Trong một bài báo, một nhà báo của tờ Chronical đã nhận ra anh, nhưng cô ta cũng hiểu ra rằng nhà hàng khiêm tốn mà anh đang làm việc bây giờ không có một chút hào nhoáng nào của Imperator ngày trước. Jonathan mặt khác lại tận dụng báo chí để nhấn mạnh những ý chính : đúng, nhà hàng mới của anh chỉ phục vụ những món ăn đơn giản với giá cả phải chăng ; sai, hơn bao giờ hết anh đang tạo ra thực đơn nghèo nàn nhất và cảm hứng của anh vẫn chưa quay trở lại ; sai, hơn bao giờ hết anh đang có những khát khao ẩm thực bình thường nhất. Ít nhất, mọi thứ đều rõ ràng và bài báo có đủ sức để trấn an những bếp trưởng đang lo lắng về sự trở lại của Lempereur đằng sau bếp lò.

    - Ba ơi, con có thể thử những hạt wasabi kia không ? Charly nài nỉ trong khi quan sát với vẻ tò mò gian hàng của một người châu Á lớn tuổi bán lưỡi vịt và súp rùa.
    - Không, con trai của ba. Con sẽ không thích đâu : chúng rất là cay đó !
    - Đi mà ba ! Có vẻ như chúng rất là ngon !

    Jonathan nhún vai. Tại sao, ngay từ khi còn rất nhỏ, loài người luôn tìm cách chống lại những lời khuyên mang tính chất cảnh báo ?

    - Cứ làm điều con muốn đi.

    Anh lại hít một hơi thuốc lá và nhíu mắt lại vì ánh nắng mặt trời. Đi rollers, đi bộ hay đi xe đạp, rất nhiều người đi dạo đang tận hưởng ngày đẹp trời để rong chơi dọc trên bờ biển. Ở đằng xa, đại dương lấp lánh và trên bầu trời nhuộm một màu xanh biếc, những con chim mòng biển chao lượn và tìm kiếm tất cả những gì có thể ăn được.

    Bị chơi một vố bởi thịt bò khô, đáng lẽ Charly phải cẩn thận hơn, nhưng màu xanh đẹp mắt của những hạt wasabi làm cho cậu bé tin tưởng hơn. Không ngại ngần, cậu bé bốc ngay một nắm nhỏ những hạt mù tạc và....

    - È...Cay quá ! Cậu bé la lên trong khi cố nhổ ra thứ mà cậu vừa mới ngấu nghiến.

    Dưới ánh nhìn thích thú của ông lão người Nhật, cậu bé quay lại phía cha mình.

    - Đáng lẽ ba phải nói trước với con chứ ! Cậu trách cha mình trong khi che giấu sự phật ý.
    - Đi nào, ba sẽ mua cho con một tách sôcôla, Jonathan đề nghị trong khi nghiền nát mẩu thuốc lá và kéo Charly lên vai.

    *
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  9. bluechips

    bluechips Mầm non

    Cùng thời điểm đó, tại Paris...

    Lúc đó khoảng hơn 19 giờ khi một nhân viên vận chuyển bước vào « Khu vườn kì diệu ». Mặc dù đã khá trễ, cửa hàng vẫn còn rất nhộn nhịp và Madeline đang cố gắng hết sức để làm vừa lòng khách hàng.

    Trong khi cởi nón bảo hiểm ra, người nhân viên có cảm giác như mình đang lạc vào một thế giới khác. Với những đóa hoa mang sắc màu của mùa thu, những hương thơm trộn lẫn, chiếc xích đu và cái bình tưới bằng kim loại cổ, xưởng hoa như tái hiện lại trước mắt anh khu vườn của căn nhà ở vùng quê của bà anh, nơi mà anh đã trải qua phần lớn những kì nghỉ khi còn nhỏ. Ngạc nhiên bởi sự êm dịu đến không ngờ của không gian đậm chất thiên nhiên này, anh có cảm giác như mình lại đang hít thở theo đúng nghĩa của từ đó, lần đầu tiên kể từ rất lâu rồi.

    - Tôi có thể giúp gì cho anh ? Takumi hỏi.
    - Federal Express, anh trả lời và bừng tỉnh khỏi giấc mộng đẹp. Công ty bảo tôi đến lấy một gói hàng.
    - Vâng, đúng vậy, nó đây này.

    Người nhân viên cầm lấy túi carton mà anh chàng người châu Á đưa cho anh.

    - Cảm ơn, chúc anh một buổi tối tốt lành !

    Anh bước ra đường và cưỡi lên chiếc xe máy của mình. Anh vào số, khởi động xe và tăng tốc để đi vào đại lộ. Anh đã đi được khoảng mười mét trước khi anh nhìn thấy trong gương chiếu hậu một người phụ nữ đang gọi anh. Anh thắng xe và dừng lại trên vỉa hè.

    - Tôi là Madeline Greene, cô giải thích khi gặp được anh. Chính tôi đã hoàn tất thủ tục trên mạng để sử dụng dịch vụ gửi gấp gói hàng này, nhưng...
    - Cô muốn hủy bỏ gửi hàng à ?
    - Và lấy lại gói hàng, xin anh vui lòng giúp cho.

    Không gây khó dễ gì, người đàn ông trẻ đưa lại gói hàng cho Madeline. Hiển nhiên, có rất nhiều người gửi thay đổi quyết định vào phút cuối.

    Cô nhận lại gói hàng và đưa anh một tờ 20 euro như một sự đền bù.

    Madeline quay trở lại cửa hàng và ôm chặt chiếc điện thoại vào ngực, tự hỏi liệu quyết định đó của cô có đúng không. Khi chọn lựa không gửi trả lại điện thoại cho Jonathan, cô đã ý thức được mình sẽ phải hứng chịu những rủi ro mà nó sẽ gây ra. Nếu cô không có thêm tin tức gì từ anh trong vài ngày tới, cô sẽ trả lại anh chiếc điện thoại, nhưng nếu mọi chuyện diễn biến tồi tệ, cô muốn giữ phương tiện để có thể liên lạc trực tiếp với anh.

    Trong khi hi vọng rằng chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra.

    *

    San Francisco

    Jonathan tiếp tục đi bộ xuống những dãy thang uốn lượn của Ferry Building. Hơn một trăm năm tuổi, cảng hàng hải này trải dài cả vùng Embarcadero. Thời kì huy hoàng nhất của nó là vào những năm 1920 khi đây chính là điểm đến của nhiều du khách quan trọng nhất thế giới. Ngày nay, tòa nhà quan trọng nhất của nơi này đã trở thành một trung tâm thương mại, nơi mà những cửa hàng bán phô mai tự làm, cửa hàng thịt, nhà hàng Ý và cửa hàng gia vị nối tiếp nhau suốt quãng đường đi dạo của những người sành ăn.

    Người chủ nhà hàng kết thúc việc mua hàng bằng một lô những loại trái cây mùa đông, nho, kiwi, chanh, lựu, cam, trước khi giữ lời hứa sẽ mua cho con trai một tách sôcôla tại một trong những quán cà phê của cảng.

    Bằng cách thưởng thức hương vị ngọt ngào của cacao, Charly đã làm dịu được vị mù tạc đã gần như đốt cháy miệng cậu bé. Jonathan hài lòng với một tách trà pu-erh. Tâm trí của anh đang để ở nơi khác. Trong khi nhấp một ngụm trà, anh lại kiểm tra màn hình điện thoại. Vẫn không có tin tức gì từ Madeline.

    Một giọng nói từ bên trong thầm nói với anh rằng hãy dừng lại tại đây. Anh đang chơi trò gì vậy ? Anh đang tìm cách chứng minh điều gì ? Sự tìm tòi của anh sẽ mang lại kết quả gì ngoại trừ những sự chán nản ?

    Nhưng anh đã quyết định bỏ qua những lời cảnh báo đó. Đêm hôm trước, anh đã mở tất cả các ứng dụng một cách hệ thống và duy nhất chỉ có một cái khiến anh nghi ngờ : một khoảng lưu trữ cho phép đọc các tập tin có kích thước lớn – PDF, hình ảnh, vidéo – sao khi tải chúng từ máy tính vào điện thoại. Nếu Madeline ngụy trang những tài liệu trong điện thoại – và đó là điều mà sự phân tích bộ nhớ của điện thoại cho phép suy đoán được - , thì đây chính là nơi chúng được tìm thấy.

    Ngoại trừ một chuyện là ứng dụng đó đã được bảo vệ bởi một mật khẩu !

    ENTER PASSWORD

    Jonathan nhìn vào dấu nháy, kêu gọi anh nhập mật khẩu vào. Với hi vọng nhỏ nhoi, anh lần lượt thử với MADELINE, GREENE và PASSWORD.

    Nhưng người ta không thể mơ mộng quá nhiều.

    Sau khi lần thử thứ ba thất bại, anh nhìn đồng hồ và phát cuồng vì đã khá muộn. Vào cuối tuần, anh tuyển một người phụ bếp để giúp đỡ anh trong công việc ở nhà hàng, nhưng anh chàng đầu bếp trẻ này không có chìa khóa và anh cũng không thể tin tưởng vào Marcus về khoản đúng giờ.

    - Đi nào chàng thủy thủ, nhổ neo nào ! Anh ra lệnh trong khi giục Charly mặc áo khoác vào.
    - Ba ơi, mình có thể đến chào những chú sư tử biển trước không ?

    Cậu bé rất thích được cha mình dẫn đến xem những sinh vật biển lạ lùng đó, mà từ sau trận động đất năm 1989, Pier 39 đã trở thành nhà ở cố định của chúng.

    - Không được đâu con yêu, ba còn phải đi làm, Jonathan trả lời cậu bé với một chút tội lỗi. Ngày mai mình sẽ đi xem chúng ở Bodega Bay và đi câu cá bằng thuyền, OK ?
    - OK ! Charly hét toáng lên trong khi nhảy khỏi ghế.

    Bằng một chiếc khăn giấy, Jonathan lau đi những « vết râu » mà sôcôla vẽ lên dưới chiếc mũi của cậu bé.

    Họ vừa ra đến bãi đỗ xe, ngay lúc đó điện thoại di động run lên trong túi của anh. Jonathan lấy nó ra và nhận thấy rằng cái tên ESTEBAN đang hiển thị trên màn hình.

    *

    Trong thoáng chốc, anh do dự định bắt máy, nhưng một nhân viên giao hàng đã đến và giúp anh chuyển hàng hóa vào xe. Charly cảm thấy vui thích khi giúp đỡ một tay và ba người đàn ông nhanh chóng chất những kiện hàng vào chiếc minibreak Autin, một hình ảnh sống động của những năm 1960 với những phụ kiện bằng gỗ là biểu tượng của nhà hàng.

    Cài dây an toàn của con vào, Jonathan yêu cầu con trai trước khi mở lại điện thoại.

    Trong khi vẫn lái xe về hướng khu phố Ý, anh gắn điện thoại vào chỗ cắm trên xe và...

    Bingo ! Estaban đã để lại một lời nhắn ! Anh nối dây vào loa để nghe, nhưng trong khi anh chờ đợi đó là một giọng nam thì một giọng nói nữ tính và êm dịu cất lên :

    « Xin chào cô Greene, đây là văn phòng của bác sĩ Estaban, tôi gọi để hỏi liệu có thể dời lại 1 tiếng cuộc hẹn của cô vào thứ hai không. Tôi rất cảm ơn nếu như cô có thể gọi lại. Chúc cô một cuối tuần vui vẻ. »

    Jonathan thể hiện rõ một sự ngạc nhiên. Thì ra, Estaban không phải là tên của một gã người tình người Nam Mỹ, mà là của một bác sĩ! Bị kích thích bởi sự tò mò, anh mở ứng dụng « những trang vàng » trên điện thoại trước khi con trai anh nhắc nhở :

    - Ba ơi nhìn đường kìa !

    Anh quay sang con trai :

    - Ok con trai, hãy giúp ba nào.

    Vui sướng vì được nhờ vả, Charly gõ vào màn hình cảm ứng để nhập số liệu vào danh bạ trực tuyến. Với hướng dẫn của cha mình, cậu gõ BÁC SĨ ESTABAN, rồi PARIS, và nhấn nút tìm kiếm. Trong vài giây, chương trình hiển thị kết quả :

    Laurence Estaban

    Bác sĩ tâm thần

    66 bis, đường Las Cases 75007 Paris


    Rốt cuộc, Jonathan đã đi sai hướng về việc ngoại tình của Madeline, nhưng anh đã đoán được sự kì lạ của cô. Trên những bức ảnh, người phụ nữ trẻ có thể luôn biểu hiện tất cả những dấu hiệu của hạnh phúc, nhưng một người phải gặp một bác sĩ tâm thần hai lần mỗi tuần thì rất khó có thể là một người thanh thản...
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  10. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 7: Hoàng đế bị truất ngôi

    Chúng ta cần phải quên đi, cả hai chúng ta, quên những thời kì đen tối,
    trước khi mang hành lý của chúng ta đi xa đến tận hư vô. […].
    Hai con người đau khổ tựa vào vai nhau vì cùng một nỗi cô đơn.
    Romain GARY
    Paris, quận 8
    1 giờ sáng
    Trong căn hộ của một tòa nhà nhỏ ở Faubourg-du-Roule

    Một cơn mưa lẫn những bông tuyết đang rơi trên những mái nhà của thủ đô.

    Dưới ánh sáng của ngọn đèn ngủ, cuộn tròn trong lớp chăn, Madeline đọc những trang cuối của quyển « Tự thú của một người đầu bếp đang yêu », quyển sách của Jonathan Lempereur mà Takumi đã mua giúp cô vào buổi sáng.

    Nằm ngay bên cạnh, Raphael đã ngủ từ hai giờ trước. Ngay khi vừa lên giường, anh đã hi vọng rằng người vợ chưa cưới của mình sẽ dừng việc đọc sách lại trước sự « âu yếm » của anh, nhưng Madeline như bị dính chặt vào cuốn sách và, sau khi đã mong đợi quá nhiều, anh kết thúc bằng việc ngủ thật say.

    Madeline thích đọc sách một cách yên tĩnh vào ban đêm. Mặc dù căn hộ của Raphael nằm gần đại lộ Champs-Elysées, đây vẫn là một không gian yên bình, tránh xa những tiếng tuýt còi của cảnh sát và những tiếng la hét của bọn ăn chơi. Cô đã đọc ngấu nghiến những dòng văn của Jonathan với một cảm giác như bị thôi miên và cô cũng cố gắng chống lại nó. Quyển sách được phát hành năm 2005. Lúc đó Jonathan đang ở thời kì hoàng kim của mình, điều này được chứng minh bởi bìa sau của quyển sách, nơi in những lời nhận xét vô cùng hài lòng và nhất trí mà anh đã được nhận vào thời điểm đó. : « ảo thuật gia của hương vị », « Mozart của nền ẩm thực », « bếp trưởng tài năng nhất thế giới ».

    Qua những bài phỏng vấn, Jonathan bày tỏ quan điểm của mình : sáng tạo ẩm thực là một nghệ thuật riêng biệt, cũng giống như hội họa hay văn chương. Đối với anh, ẩm thực không chỉ dừng lại ở việc làm thỏa mãn đầu lưỡi, mà còn phản ánh một nghệ thuật. Hơn cả việc nấu nướng, anh tự cho mình là một người sáng tạo, so sánh công việc của mình như một nhà văn trước những trang giấy trắng, và khẳng định mình đang theo đuổi con đường « sáng tác ẩm thực »

    « Ngoài nhiệm vụ cơ bản của ẩm thực, tôi muốn những món ăn của mình biết kể những câu chuyện và tạo ra những xúc cảm. », anh bày tỏ.

    Với quan điểm này, anh tìm về cội nguồn của những sáng tạo để xác định gốc rễ của nghệ thuật mà anh theo đuổi. Bằng cách nào những ý tưởng của anh được hình thành ? Làm thế nào anh phối hợp vị này với vị khác để tạo ra một mùi vị chưa ai từng nếm thử ? Thành phần của món ăn cũng như cách bày trí nó có vai trò như thế nào ?

    « Tôi luôn tò mò về mọi thứ, anh thú nhận. Tôi nuôi dưỡng sự sáng tạo của mình bằng cách đến thăm những viện bảo tàng, những triển lãm hội họa, trong khi nghe nhạc, xem phim và nhìn ngắm phong cảnh, nhưng nguồn cảm hứng chính đó là vợ tôi, Francesca. Tôi đóng cửa nhà hàng trong vòng ba tháng để đi đến xưởng của mình ở California. Tôi cần khoảng thời gian đó để tự tái tạo lại mình và cho ra đời những công thức mới cho Imperator vào năm sau. »

    Madeline rất ngạc nhiên vì số lượng những chương sách mà anh viết về hoa. Jonathan dùng chúng rất nhiều trong ẩm thực, anh kết hợp những hương hoa khác nhau vào những công thức chế biến của mình : mứt hoa hồng, đùi ếch caramel với hoa violet, kem mimosa và bánh trứng lilas, kẹo hương hoa mỹ nhân...

    Madeline cảm thấy bụng mình đang sôi ùng ục. Việc đọc cuốn sách này làm cô cảm thấy đói ! Cố gắng không làm ồn, cô trườn ra khỏi giường và mặc vào một chiếc áo khoác trước khi đi vào gian bếp hướng ra những mái nhà. Cô đặt ấm trà lên bếp và mở tủ lạnh tìm thứ gì đó để ăn vặt.

    Hum, gần như chẳng có gì...
    Lục lọi hết những cái tủ, cuối cùng cô cũng tìm thấy một hộp bánh Granola đã mở. Trong khi chờ nước sôi, cô ăn một chiếc bánh quy và xem phần phụ lục của « Tự thú của người đầu bếp đang yêu », trong đó có in một vài công thức tiêu biểu làm nên tên tuổi của nhà hàng New York của Lempereur. Vào thời điểm mà Jonathan vẫn còn đứng bếp, L'Imperator giới thiệu vào mỗi buổi tối một chuyến du lịch của vị giác tạo ra bởi gần hai mươi món ăn được thưởng thức với số lượng hạn chế, theo một trình tự chính xác như một kịch bản phim, món nào cũng gây nên sự ngạc nhiên và kích thích. Trong khi xem xét thực đơn, Madeline không tài nào kiềm chế được việc chảy nước miếng.

    Khai vị

    Đuôi tôm sống và trứng cá hồi
    Thịt bacon và phô mai đút lò
    Trứng trộn với nhím biển và bánh nugatin
    Hoa acacia tẩm bột rán với hương hoa thục quỳ
    Tôm sốt tỏi với vỏ bánh mì
    Bánh hỏi nissarde

    Món chính

    Saint-Jacques áp chảo xào ăn kèm cơm Ý hương hạnh nhân
    Cơm Ý hương cacao với sốt sôcôla trắng
    Thịt bê hầm theo kiểu nước Basque với hương hoa lài
    Thịt cừu tẩm mật ong và húng tây

    Tráng miệng
    Kem kẹo dẻo cháy
    Dứa với hương hoa mộc lan
    Dâu với hương hoa capucine vàng
    Bánh trứng hoa lilas với kem sữa mật ong
    Chuối ướp cacao và gạo sữa
    Kem dừa caramel
    Kẹo lạnh hình râu ông già

    Với tách trà trên tay, Madeline ngồi vào máy tính. Qua khung cửa kính, cô ngắm nhìn những bông tuyết mềm mại đang tuôi rơi trên mái nhà. Từng chút một, dù muốn dù không, Madeline như đang bị quyến rũ càng ngày càng nhiều bởi Lempereur và bởi bí ẩn xung quanh việc rút lui đột ngột khỏi nhà bếp của anh. Tại sao một người đàn ông vẫn còn trẻ, đang ở đỉnh cao của danh vọng và tài năng, chỉ trong phút chốc lại lựa chọn kết thúc sự nghiệp của mình ?

    *
    Cùng lúc đó, ở San Francisco...

    Bốn giờ chiều, Jonathan vừa phục vụ xong món tráng miệng cuối cùng trong ngày – một cái bánh tarte hương trái mơ và mùi hương thảo – trước khi cởi tạp dề ra và rửa tay.

    Công việc đã xong ! Anh thầm nghĩ trong khi rời khỏi nhà bếp. Ở sảnh, anh chào khách hàng và đi ra sau quầy để chuẩn bị hai cốc espresso, một cho người phụ bếp và một cho anh. Anh lấy những cái tách, kiểm tra nhiệt kế để chắc rằng nhiệt độ không làm hư tách và hương cà phê được giữ nguyên vẹn. Ở North Beach, khu phố Ý của thành phố, người ta không có hứng thú với chuyện đó. Không có gì lạ khi người ta có thể đổi nó bằng một tách ristretto hoặc sử dụng một chiếc máy pha cà phê bình thường mà, từ Thượng Hải đến New York, có thể tạo ra cùng một hương vị cà phê trên khắp hành tinh này.

    Với tách cà phê trên tay, anh đi ra hàng hiên và thoải mái vì Charly không cảm thấy quá buồn chán. Trên chiếc máy tính bảng cảm ứng, cậu bé đang chìm đắm trong thế giới của những con khủng long và không mảy may chú ý đến cha mình khi anh đến ngồi gần cậu.

    Anh kín đáo đốt một điếu thuốc trong khi ngắm nhìn khách qua đường và những đứa trẻ ngược xuôi trên quảng trường Washington. Anh thích nơi này và không khí đặc biệt của nó. Mặc dù bây giờ phần lớn người dân nơi đây là người châu Á, khu phố vẫn thừa hưởng những nét đặc trưng Ý-Mỹ, bằng chứng là những người bán kem dạo, những cây đèn được bao quanh bởi cờ « xanh, trắng, đỏ » và rất nhiều nhà hàng gia đình mà người ta có thể thưởng thức những món ăn Ý như : nui pesto, panna cota hay tiramisu. Nơi này là một huyền thoại : Kerouac từng sống ở đây, Marilyn Monroe từng kết hôn tại một nhà thờ ở đây và Francis Coppola, đạo diễn của phim Parrain, sở hữu tại đây một nhà hàng và nhiều văn phòng.

    Jonathan lấy từ túi của anh ra chiếc điện thoại của Madeline. Vẫn không có tin nhắn nào. Anh mở ứng dụng bí ẩn, quyết định tìm cách vượt qua hàng rào bảo vệ của mật khẩu :

    ENTER PASSWORD
    Được rồi, tốt nhất là nên làm theo trình tự. Từ trước đến giờ bạn được dạy rằng chìa khóa bảo vệ tài khoản của bạn cũng quan trọng như mã số bí mật của thẻ tín dụng vậy. Người ta luôn lặp đi lặp lại lời khuyên với bạn rằng phải chọn một mật mã thực sự an toàn : tránh những từ ngữ quá ngắn, không sử dụng những thông tin mà người thân của bạn có thể biết, chọn lựa một sự phối hợp giữa chữ, số và kí tự đặc biệt. Người ta đảm bảo với bạn rằng, với logic đó, một công thức kiểu «! Efv (abu#$vn%rgiubfv0oalkùs, dCX » sẽ là một mật khẩu tuyệt vời gần như không thể giải mã nổi.

    Trừ việc nó cũng gần như không thể nhớ nổi...

    Jonathan uống một ngụm cà phê. Anh bị thuyết phục rằng mình phải tìm một cái gì đó đơn giản. Trong cuộc sống hiện đại, người ta phải ghi nhớ hàng loạt những mã số : thẻ tín dụng, hộp mail, khu vực đặc biệt,... Để có thể truy cập vào một dịch vụ, người ta cần phải có một mật khẩu. Như vậy là quá sức đối với trí nhớ của con người. Do đó, để đơn giản hóa cuộc sống, phần lớn người ta có xu hướng chọn những mật mã ngắn gọn và thân thuộc, dễ nhớ. Bỏ qua tất cả những quy tắc an toàn, sự lựa chọn của họ thường là ngày tháng năm sinh, tên của vợ hoặc con, tên của thú cưng, số điện thoại hay một dãy số liên tiếp hoặc những chữ cái liền nhau.

    Một cách hệ thống, Jonathan thử với « 123456 », « abcde », « raphael », « greene » và cả số điện thoại của Madeline.

    Thất bại.

    Trong khi lục tìm lịch sử hộp mail của cô, anh tìm thấy một tin nhắn đặc biệt đáng quan tâm : hồ sơ đăng kí mà Madeline gửi cho người đã bán chiếc xe môtô cho cô. Ngoài những thứ khác trong đó có bản sao chứng minh nhân dân của cô. Biết được ngày sinh của cô, anh thử « 21/03/78 » rồi bằng tiếng anh « 03211978 », « march211978 », « 03/21/1978 ».

    Lại thất bại.

    Suy nghĩ đi ! Anh tự động viên mình.

    Vì địa chỉ mail của Madeline là [email protected], anh thử « maddygreene », rồi « maddygreene78 ».

    Thất bại.

    Jonathan cảm thấy sự giận dữ và ý muốn tước đoạt đang dâng cao trong anh. Anh nắm chặt tay lại và thở hắt ra. Thật là bực tức khi đã đứng ngay trước cửa của bí mật mà không tài nào bước vào được !

    *
    Madeline đeo kính vào để có thể đọc một cách thoải mái những kết quả của cuộc tìm kiếm đang hiển thị trên màn hình của cô.

    Lempereur bị tước ngôi, Lempereur bị phế truất, Sự thất bại của Lempereur : những nhà báo người Pháp đã sử dụng những lối chơi chữ để thông báo về sự « nghỉ hưu » của Jonathan. Cô bấm vào một liên kết dẫn đến một bài báo trên mạng của tờ Libération.

    Văn hóa 30/12/2009

    Hoàng đế bị truất ngôi
    Thần đồng của nền ẩm thực đã mở một cuộc họp báo bất ngờ vào chiều qua tại Manhattan, để thông báo về sự đóng cửa của nhà hàng cũng như sự chuyển nhượng tất cả những hoạt động của anh.

    Dáng điệu thất thần và râu ria tua tủa, mắt thâm quầng, dáng người tròn trịa quá mức : với bộ dạng đó mà lãnh tụ của nền ẩm thực New York, bếp trưởng người Pháp Jonathan Lempereur, đã thông báo vào ngày thứ năm sự đóng cửa ngay lập tức của nhà hàng L'Imperator (3 sao ở Michelin), cùng với sự bán lại toàn bộ những hoạt động kinh doanh của tập đoàn mà anh đã xây dựng cùng người vợ, Francesca DeLillo. Một quyết định gây ảnh hưởng nặng nề đến hai ngàn nhân viên của doanh nghiệp.

    Hơn cả một bếp trưởng

    Tọa lạc tại Rainbow Room huyền thoại, L'Imperator đã từng được tôn vinh rất nhiều lần là « nhà hàng tốt nhất thế giới » bởi tạp chí chuyên về ẩm thực của nước Anh Restaurant Magazine.

    Có tầm nhìn rộng và đầy sáng tạo với một vài người, với những người khác thì như một tên bịp bợm và lừa gạt, Lempereur chia rẽ thế giới ẩm thực đã được gần mười năm.

    Sự mệt mỏi

    Để chứng minh cho quyết định bất ngờ của mình, người đầu bếp dùng những từ ngữ « mệt mỏi, mất động lực và cũ kỹ », thể hiện cả sự kiệt sức vì không có lúc nào được nghỉ ngơi và luôn phải làm việc 18 tiếng một ngày, 360 một năm.

    « Tôi chính thức chấm dứt tất cả », Lempereur tuyên bố, không tính đến việc quay trở lại lãnh đạo một nhà hàng lớn nữa. « Tôi không còn chút hứng thú nào để tiếp tục theo đuổi nghệ thuật của mình và tôi không nghĩ là hứng thú đó có thể quay trở lại một ngày nào đó. », anh giải thích, đồng thời bày tỏ sự mệt mỏi với những nhà phê bình đã không còn hiểu về công việc của anh nữa.

    Những vấn đề hôn nhân

    Hơn cả những nhà phê bình, có lẽ chính những vấn đề về hôn nhân đã dẫn anh đến quyết định rút khỏi thế giới ẩm thực. « Tôi đã từng rất phụ thuộc vào vợ mình, Francesca, và không có gì nghi ngờ rằng cuộc chia tay của chúng tôi gần đây đã ảnh hưởng đến quyết định của tôi. », Lempereur tự nhận, tuy nhiên khéo léo lẩn tránh tất cả những câu hỏi liên quan đến đời tư của mình.

    Những vấn đề tài chính

    « Nhưng những vấn đề tài chính cũng chính là nguyên nhân chắc chắn dẫn đến quyết định về việc rút lui không thể tránh khỏi của tôi », anh làm rõ. Từ nhiều năm nay, tập đoàn Imperator thật sự đã bị khủng hoảng về nợ nần, mắc kẹt trong một thế giới kinh tế ít hiệu quả và những sự đầu tư vô căn cứ. Trong tình thế dao kề ngay cổ mà Jonathan buộc phải từ bỏ quyền kinh doanh mang tên mình và chuyển nhượng cho doanh nghiệp của chuỗi khách sạn sang trọng Win Entertainement, nơi thu hồi toàn bộ những hoạt động kinh doanh của tập đoàn.

    Một tương lai không chắc chắn

    Gần bước sang tuổi bốn mươi, Lempereur sẽ làm gì vào thời điểm hiện tại ? Nghỉ ngơi ? Tự hồi phục lại ? Nhảy vào một trò chơi khác ? Người bếp trưởng vẫn còn đang mù mờ về tương lai của mình. Vội vã kết thúc lời thông báo của mình, người đàn ông đơn độc với ánh nhìn thất vọng rời khỏi cuộc họp báo. Một người đàn ông mệt mỏi, nhưng cũng có thể có vẻ được an ủi một cách kín đáo khi không còn tham gia vào trò chơi « hoàng đế ». (chơi chữ : Lempereur => L'empereur = hoàng đế )

    Madeline nhấn vào một liên kết khác : một bài báo của tờ New York Times hé lộ thêm chi tiết về câu chuyện này.

    Hội chứng Vatel
    Bởi Ted Booker
    Đăng ngày 30 tháng 12 năm 2009
    Người tiên phong tiêu biểu của ẩm thực avant-garde, Jonathan Lempereur liệu có phải đang hứng chịu hội chứng Vatel ?
    Người bếp trưởng nhà hàng New York này không phải là thiên tài ẩm thực đầu tiên rút khỏi cuộc chơi một cách đột ngột sau một sự thất vọng. Từ Bernard Louseau đến Jacques Laroux, rất nhiều bếp trưởng lớn trước anh đã thể hiện một nỗi lo sợ thường trực về sự suy tàn.
    Jonathan Lempereur đã thành công một cách kì diệu trong việc tập hợp sự sáng tạo, sự công nhận của những nhà phê bình và lợi nhuận trong vòng mười năm. Chính sự cân bằng bấp bênh này đã vừa mới bị phá vỡ vào tối hôm qua.

    Theo ý kiến từ những nhân chứng, điều này làm cho bài báo có vẻ giống như một danh sách người chết, tất cả những người được hỏi đều nói về Lempereur như thể anh đã....chết.

    Michael Bloomberg, thị trưởng New York, ca ngợi tài năng tuyệt vời của người bếp trưởng từ nhiều năm nay đã trở thành con cưng của New York. Hilary Clinton nhắc lại « sự ủng hộ tích cực của Jonathan Lempereur cho những cuộc vận động trong nhà trường nhằm tạo sự hứng thú học hành cho trẻ em ». Frédéric Mitterand, Bộ trưởng bộ Văn hóa Pháp, tôn vinh anh như « một vị thần của sáng tạo ẩm thực, người đã có công quảng bá ẩm thực Pháp ra thế giới ».

    Bên cạnh những phản ứng đồng thuận đó, lại có một ý kiến đi ngược lại với số đông : đó là Alec Baxter, bếp trưởng người Ê-cốt đã bị Jonathan soán ngôi bếp trưởng tài năng nhất thế giới. Baxter nắm lấy cơ hội trả thù và không hề che dấu sự thỏa mãn của mình : « Lempereur chỉ là một ngôi sao vụt sáng trên bầu trời của nền ẩm thực. Một ngôi sao băng được tạo ra bởi các phương tiện truyền thông và cuối cùng lại bị chính hệ thống đó nuốt chửng. Ai sẽ nhớ đến tên của anh ta trong mười năm nữa đây ? »

    Nhưng nhân chứng thuyết phục nhất, gần gũi nhất và xót xa nhất, đó là Claire Lisieux, một trong hai bếp phó của L'Imperator. « Tôi làm việc với Jonathan đã mười năm nay, người phụ nữ trẻ giải thích. Chính anh là người đã dạy tôi tất cả. Anh đã phát hiện tôi khi tôi còn là phục vụ bàn trong một quán cà phê ở Madison mà anh đến mỗi ngày để dùng bữa sáng. Tôi không có công việc chính thức và chính anh đã giúp đỡ tôi giải quyết vấn đề bằng cách tuyển tôi vào nhà hàng của mình. Đó là một người đàn ông đầy tham vọng và yêu cầu cao trong công việc, nhưng cư xử rất hòa nhã với nhân viên của mình. »

    Chắc là cô đã yêu thầm anh ta rồi... Madeline lẩm bẩm trước khi lại quay lại đọc tiếp bài báo.

    « Jonathan là một sự hòa trộn giữa sức mạnh và sự yếu ớt, Claire tiếp tục. Một con người luôn hết lòng, vượt qua những trở ngại, đồng thời được yêu mến và bị căm ghét bởi báo chí và bởi sự nổi tiếng của mình. Thời gian gần đây, tôi cảm thấy anh ấy đang vô cùng suy sụp. Bị quá tải, chịu sức ép thường xuyên, anh miệt mài tìm kiếm một sự hoàn hảo đến mức gần như trở thành nô lệ cho nó. Anh trở nên mệt mỏi, làm việc không ngừng nghỉ từ sáng đến tối. Anh gần như bỏ qua tất cả các kì nghỉ. Lúc vợ chồng anh vẫn còn mặn nồng, anh đã làm việc một cách điên cuồng, nhưng khi cô ấy bỏ đi, điều đó trở nên vượt qua sức chịu đựng của anh. Bởi vì cả thế giới đã lầm tưởng về Jonathan Lempereur : khao khát nổi tiếng của anh, tham vọng của anh, sự phấn đấu của anh cho thứ hạng cao nhất, những thứ đó không phải là dấu hiệu của một tính cách tự cao tự đại quá đáng. Tôi tin rằng anh chỉ muốn làm điều đó vì Francesca. Để làm cô vui, để cô yêu anh. Vào thời điểm mà họ chia tay, tôi nghĩ rằng chẳng còn gì làm anh quan tâm nữa, chẳng còn gì có ý nghĩa nữa... »

    - Em đang làm gì vậy ?

    Madeline giật nảy mình và quay lại giống như đang phạm lỗi. Trong bộ đồ ngủ, vẫn còn chưa tỉnh, Raphael nhìn cô với một điệu bộ buồn cười.

    - Không có gì, không có gì, cô nói trong khi vội vã đóng màn hình máy tính lại. Em chỉ tính toán vài thứ : doanh thu, tiền phí,...Anh biết tất cả chúng mà.
    - Nhưng bây giờ đã hai giờ sáng rồi !
    - Em không tài nào chợp mắt được, anh yêu à, cô giải thích và bỏ mắt kính ra.

    Cô nhấp một ngụm trà đã nguội lạnh, nhìn vào hộp bánh quy và nhận ra rằng nó đã hết.

    Raphael tựa vào người cô để đặt một nụ hôn lên môi cô. Anh đặt một tay lên áo cô và vuốt ve bụng cô. Rồi môi anh rời môi cô và di chuyển xuống vùng cổ. Chậm chậm, anh tụt bộ đồ ngủ bằng lụa của cô xuống rồi đến áo ngực...

    Hứng thú yêu đương của anh đột ngột bị cắt ngang bởi đoạn nhạc Jumpin' Jack Flash. Raphael rùng mình vì ngạc nhiên và bước lùi lại.

    Madeline nhìn vào chiếc điện thoại của Jonathan đang rung bên cạnh máy tính của cô. Bức hình một người phụ nữ tóc nâu, với đôi mắt sâu và sẫm màu, hiện lên trên màn hình. Trên đó là một cái tên : Francesca

    Không mất thời gian suy nghĩ, Madeline bắt máy...

    *
    - Ba ơi, con thấy hơi lạnh.

    Jonathan rời mắt khỏi màn hình. Đã một tiếng rồi, anh chìm đắm trong những suy luận ngoằn ngoèo của mình, cố gắng giải mã mật khẩu của Madeline nhưng không thành công. Anh đã xem qua khá nhiều thư trong hộp mail của cô, chọn lựa thông tin một cách tỉ mỉ và với mỗi dấu hiệu tìm được, anh đều gõ vào một mật mã thích hợp.

    - Đi lấy một chiếc áo pull đi con yêu, anh nói trong khi đưa cậu con trai một tờ khăn giấy để lau nước mũi đang chảy ra như thác nước.

    Mặt trời đã khuất bóng để nhường chỗ cho màn sương trắng dày đặc bao phủ khắp các con đường và công viên mà từ hàng hiên có thể nhìn thấy được. Không phải ngẫu nhiên mà San Francisco được mệnh danh là Thành phố sương mù. Đó là một trong những phương diện bí ẩn và mờ ảo của thành phố : màn sương đang lan tỏa, chỉ trong vài phút, nó đã bao bọc toàn bộ thành phố và cả cây cầu Golden Gate nổi tiếng.

    Khi Charly quay lại, ấm áp trong một chiếc áo cổ lọ dày, Jonathan nhìn vào đồng hồ.

    - Alessandra sẽ không đến trễ đâu. Con có muốn đi xem Wicked với cô ấy không ?

    Cậu bé gật đầu đồng ý trước khi la lên :

    - Cô ấy đến rồi kìa !

    Và nhảy cẫng lên vui sướng khi thấy cô vú nuôi của mình.

    Cô gái này là con gái của Sandro Sandrini, ông chủ của một trong những nhà hàng Ý lâu đời nhất của khu phố. Cô đang theo học ở Berkeley và, trong mỗi kì nghỉ của Charly ở California, Jonathan gọi cô đến để giúp anh trông cậu bé.

    Anh chào cô gái và ngay lúc đó điện thoại rung trên tay anh. Anh nhìn vào màn hình và nhận ra những con số quen thuộc, đó chính là số điện thoại của người vợ cũ của anh !

    - Alô ?

    Bằng một giọng bình tĩnh, Francesca giải thích với anh rằng khi cô gọi cho anh cô đã nói chuyện với một cô gái Paris, người đã giải thích cho cô về chuyện hoán đổi điện thoại. Cô chỉ muốn biết rằng mọi chuyện đều ổn và muốn nói chuyện với Charly.

    - Mẹ con gọi này, Jonathan nói và đưa điện thoại cho con trai.
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  11. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 8: Người mà ta yêu quý



    Đôi khi, đó cũng chính là tình yêu : là khi bạn

    để những người yêu quý của mình ra đi.

    Joseph O'CONNOR


    Quận Sonoma
    California
    Sáng chủ nhật

    - Ba không còn yêu mẹ nữa phải không ? Charly hỏi.

    Chiếc xe Austin chạy dọc theo bờ biển Thái Bình Dương. Jonathan và con trai thức dậy vào lúc bình minh. Họ đã rời San Francisco bằng Highway I, băng qua liên tiếp bãi biển cát đen Muir Beach và ngôi làng Bolinas, nơi mà những người dân, từ hàng thế kỉ nay, phá hủy tất cả những bảng chỉ dẫn nhằm tự bảo vệ khỏi những tác động của ngành du lịch.

    - Ba còn yêu mẹ nữa không ? Charly lại hỏi
    - Tại sao con lại hỏi ba điều này ? Jonathan hỏi lại cậu trong khi vặn nhỏ tiếng radio.
    - Tại con biết là mẹ rất nhớ ba và luôn muốn chúng ta quay lại sống như trước kia.

    Jonathan lắc đầu. Anh luôn từ chối không muốn để con trai mình nghĩ rằng sự chia tay của cha mẹ cậu chỉ là tạm thời. Bằng kinh nghiệm của mình, anh biết rằng một đứa trẻ luôn hi vọng thầm kín rằng cha mẹ nó sẽ trở lại với nhau vào một ngày nào đó và anh không muốn Charly rơi vào ảo tưởng đó.

    - Quên chuyện đó đi con trai. Chuyện đó sẽ không xảy ra đâu.
    - Ba vẫn chưa trả lời con, cậu bé vặn lại. Ba vẫn còn yêu mẹ một chút chứ, phải không ?
    - Nghe này, Charly, ba biết là thật khó cho con để chịu đựng được điều này. Ông bà nội cũng chia tay nhau khi ba đang ở độ tuổi như con. Giống như con, ba đã từng rất buồn và đã từng trách họ tại sao không cố gắng để làm hòa. Ba hoàn toàn công nhận rằng cả ba chúng ta đã từng rất hạnh phúc khi ba và mẹ con còn yêu thương nhau. Nhưng buồn thay, không phải tất cả những câu chuyện tình yêu đều vĩnh cửu. Sự thật là như vậy. Điều quan trọng là con phải hiểu rằng thời gian đó đã qua và nó sẽ không trở lại nữa.
    - Hum...
    - Mẹ con và ba, chúng ta đã từng rất yêu nhau và con là kết tinh của tình yêu đó. Chính vì điều này, ba sẽ không bao giờ hối tiếc khoảng thời gian đó.
    - Hum...

    Trước mặt con trai, Jonathan không bao giờ phê bình Francesca với vai trò người mẹ. Mặt khác, dù anh có thể trách cứ cô vì là một người vợ không chung thủy, đối với Charly cô là một người mẹ tuyệt vời.

    - Trái ngược với mối quan hệ tình cảm, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái tồn tại suốt đời, anh tiếp tục, vận dụng những lời khuyên trong những cuốn sách tâm lý mà anh đã đọc. Con không cần thiết phải chọn lựa giữa chúng ta : mẹ luôn là mẹ của con và ba cũng luôn là ba của con. Chúng ta luôn là hai người phải chịu trách nhiệm cho việc giáo dục con và luôn bên con trong những khoảng thời gian hạnh phúc cũng như đau buồn của cuộc đời con.
    - Hum...

    Jonathan quan sát phong cảnh thông qua kính chắn gió. Khúc khuỷu và hoang dã, con đường uốn lượn quanh bờ biển. Với những vách đá nham nhở và bị gió quất vào, nơi này gợi nhớ nhiều đến nước Anh hay Irland hơn là California.

    Anh cảm thấy có lỗi vì không biết cách nói chuyện với con trai bằng những từ ngữ đúng đắn hơn. Với Charly, sự chia tay của cha mẹ là một chấn động mạnh và vô cùng bất ngờ. Đến bây giờ, Jonathan luôn cẩn thận để không kể chi tiết cho cậu bé nghe về quan hệ giữa anh và mẹ cậu, liệu điều đó có phải là một giải pháp tốt ? Phải, chắc chắn rồi : làm sao có thể giải thích với một đứa trẻ về sự phức tạp của mối quan hệ lứa đôi và tác hại của sự phản bội ? Bỏ qua tất cả, anh quyết định làm rõ :

    - Ba không muốn phủ nhận quá khứ, nhưng đến một ngày, ba hiểu ra rằng mẹ con không còn là người phụ nữ mà ba đã từng tin tưởng rằng mình hiểu rõ. Trong những năm cuối cùng của cuộc hôn nhân đó, ba đã ôm ấp một ảo tưởng. Con hiểu không ?
    - Hum...
    - Dừng những cái « hum » của con lại nào ! Con có hiểu hay không ?
    - Con không biết nữa, cậu bé trả lời với một cái bĩu môi buồn cười.

    Chết tiệt, tại sao mình lại nói cho con nghe điều này chứ ?... Jonathan hối hận.

    Họ đã vượt qua một đàn bò cái và đến điểm đến của họ : ngôi làng câu cá nhỏ ở vịnh Bodega. Cách San Francisco khoảng sáu mươi cây số về hướng Tây Bắc, nơi này đã nổi tiếng khắp thế giới từ khi Alfred Hitchock tới đây quay phần lớn những cảnh phim của « Những con chim »

    Vào buổi sáng mùa đông này, thành phố biển này thức dậy một cách nhẹ nhàng. Anh đỗ xe vào một bãi đỗ gần như trống. Charly bước ra khỏi xe và chạy lên bến tàu để ngắm nhìn những con sư tử biển đang phơi nắng, cùng với những tiếng hét vui sướng.

    Trên cảng, nhiều cửa hàng bán đủ thứ tôm cua vẫn còn sống, và dưới những mái che của nhà hàng, dù trời vẫn còn sớm, một vài người lớn tuổi vừa ngồi xích đu vừa thưởng thức bánh mì và súp.

    Như anh đã hứa với con trai, Jonathan thuê một chiếc thuyền mũi nhọn giống như một chiếc thuyền của Marseille.

    - Đi nào, chàng thủy thủ nhỏ, ra khơi thôi !

    Mặt nước rất yên bình, hoàn toàn phù hợp để đi thuyền.

    Chiếc thuyền xa dần bờ và dừng lại cách cảng hai dặm. Charly lấy cần câu ra và với sự giúp đỡ của cha cậu, treo một lưỡi câu vào trước khi buông cần.

    Jonathan kiểm tra điện thoại của Madeline, nhưng ở vùng này, điện thoại bị mất sóng. Ngó chừng con trai, anh đốt một điếu thuốc và trong khi hít một hơi đầu tiên anh quan sát lũ chim chân màng đang vây quanh chiếc thuyền. Rõ ràng, Hitchock đã được tạo cảm hứng : nơi này được bao phủ bởi đủ mọi loại chim - mòng biển, chim cốc, dẽ giun, hải âu – mà tiếng kêu của chúng trộn lẫn với nhau trên mũi thuyền.

    - Ba, sao ba lại hút thuốc dù biết nó có hại ? Charly hỏi.

    Jonathan có vẻ như không nghe thấy và hỏi lại :

    - Nó có hại sao ?

    Nhưng cậu bé không muốn bỏ rơi cuộc vận động chống thuốc lá của mình :

    - Con không muốn ba sẽ chết đâu, cậu bé nói, đôi mắt ươn ướt.

    Jonathan thở dài.
    Làm sao chống lại nó đây ?

    Anh đầu hàng, nghiền nát mẩu thuốc lá sau khi rít một hơi cuối cùng.

    - Hài lòng chưa ?
    - Hài lòng ! Cậu bé trả lời và nhanh chóng lấy lại vẻ mặt tươi cười.

    *

    Vào lúc đó, ở Deauville...

    Chiếc đồng hồ ở phòng khách vừa điểm 19 giờ.

    Ngọn lửa nổ lốp đốp trong lò sưởi. Raphael và cha mình đang đứng đối diện quanh chiếc bàn bida. Ngồi trên chiếc trường kỷ bằng da êm ái, Madeline đung đưa đầu một cách máy móc, lắng nghe một cách lơ đãng câu chuyện phiếm của Isaure – mẹ chồng tương lai của cô – trong khi Sultan, đầu bếp người Anh của gia đình, đang khen ngợi huyên thuyên về đôi giày mới của cô.

    Bên ngoài, mưa rơi trên cửa kính suốt từ đầu buổi chiều.

    - Ah ! Ta rất thích chương trình này ! Isaure kêu lên, chuyển sự chú ý khỏi Madeline để tăng âm lượng của ti vi mà, vào thời điểm cuối năm này, phát một đống những chương trình vớ vẩn.

    Madeline tận dụng sơ hở đó để rời khỏi chiếc ghế.

    - Em đi hút một điếu thuốc đây.
    - Anh tưởng rằng em đã ngừng hút rồi chứ, Raphael cằn nhằn.
    - Điều đó sẽ giết chết con đấy, con yêu à, Isaure thêm vào.
    - Chắc chắn rồi, cô công nhận, nhưng trước sau gì chúng ta cũng chết vì một thứ gì đó, phải không nào ?

    Rồi cô lấy chiếc áo phao của mình và bước ra hàng hiên.

    Trời đã tối từ lâu, một hệ thống chiếu sáng tinh vi đang soi rọi khuôn viên mang dáng vẻ pha trộn giữa nước Anh và nước Đức, làm nổi bật lên những ngôi nhà gỗ và mặt nước xanh biếc của hồ bơi.

    Madeline dạo bước ra hàng hiên và dựa tay vào lan can. Tầm nhìn tại đây có thể bao quát hết toàn bộ Deauville.

    Cô đốt một điếu thuốc, hít vào một hơi đầu tiên. Gió quất vào mặt cô. Được làm dịu đi bởi âm thanh của biển, cô nhắm mắt lại, cố gắng tìm cho mình sự thanh thản.

    Sự tiện nghi này cùng với sự kéo dài của kì nghỉ cuối tuần với gia đình này tạo cho cô nhiều cảm xúc trái ngược : sự xoa dịu, sự yên tĩnh, sự nổi loạn, ước muốn chạy trốn...

    Có thể là theo thói quen...

    Bầu không khí lạnh buốt. Cô kéo khóa chiếc áo phao của mình lên đến tận cổ, đội nón lên và lấy chiếc điện thoại ra.

    Từ buổi sáng, phần lớn những suy nghĩ của cô đều hướng về Francesca DeLillo, người mà cô đã nói chuyện điện thoại đêm hôm trước. Người phụ nữ đó, bí ẩn của cô ta, câu chuyện của cô ta mang đến cho cô một sức hút kì lạ. Cuộc nói chuyện của họ ngắn gọn, nhưng đủ gây chú ý và ám ảnh cô suốt cả ngày nay. Khi Francesca hiểu ra vấn đề, cô ấy đã nhờ cô, với một chút ngượng ngùng, rằng hãy xóa lời nhắn ở hộp thư thoại của Jonathan và nhất là đừng nói gì với anh ta cả. « Một phút yếu lòng. », cô ấy đã thú thật như vậy. Madeline đã hiểu.

    Cô mở trình duyệt của điện thoại lên và gõ tên « Francesca » vào mục hình ảnh của công cụ tìm kiếm. Khi cô còn trẻ, trong khi theo học về quản lý, nữ thừa kế này đã làm người mẫu cho nhiều nhãn hiệu thời trang nổi tiếng. Những tấm hình đầu tiên vào những năm 1990 đưa cô lên bục danh dự và trên những quảng cáo. Theo những tấm hình đó, cô có dáng vẻ của những Demi Moore, Catherine Zeta-Jones hay Monica Belluci. Tiếp đó là hàng loạt bức ảnh chụp với Jonathan, chứng minh rằng, trong những năm tháng hạnh phúc, cặp đôi này không ngần ngại dùng cuộc sống riêng tư của mình để làm tăng sự nổi tiếng cho công ty của họ.

    Mưa ngày càng nặng hạt. Sấm gầm gừ, sét đánh tới gần căn nhà, nhưng đang chìm đắm với chiếc điện thoại, Madeline không để ý đến điều đó.

    Ngón tay cô lướt trên màn hình và nhấn vào một liên kết dẫn đến trang web của tạp chí Vanity Fair. Vài năm trước đây, tờ Paris Match của Mỹ đã dành hẳn sáu trang cho cặp đôi này với bài báo tựa đề : « Ẩm thực, chính là tình yêu ! ». Đó là một bài phỏng vấn dài với những hình ảnh chỉ có một chút liên quan đến ẩm thực. Trên một trong những bức ảnh đó, người ta có thể thấy cặp đôi này đã cùng nhau xăm lên bả vai phải một câu nói giống nhau. Madeline phóng to ảnh để giải mã câu nói đó :

    You'll never walk alone

    (bạn sẽ không bao giờ phải đi một mình)


    Thật là đẹp...với điều kiện là người ta chắc chắn sẽ ở bên nhau suốt đời. Bởi vì hôm nay, khi nhìn lại, bức ảnh như có chút gì đó xót xa.

    - Em yêu, em sẽ bị lạnh đấy ! Raphael cất tiếng nói khi mở cửa.
    - Em vào ngay đây, anh yêu ! Madeline trả lời trong khi không rời mắt khỏi điện thoại.

    Trong khi lướt qua từng bức ảnh, một sự hiển nhiên bày ra trước mắt cô. Tùy vào lúc cô đứng một mình hay bên cạnh Jonathan, tư thế của Francesca luôn thay đổi : cô người mẫu yểu điệu, hoàn toàn ý thức được sức quyến rũ của mình, biến thành một người phụ nữ đang yêu với ánh nhìn say đắm. Ngay cả với những tư thế được đạo diễn trước bởi các nhà báo, tình yêu mà hai người thể hiện cũng không có gì phải nghi ngờ.

    Điều gì đã chia rẽ họ ? Cô tự hỏi trong khi đi vào lại phòng khách.

    *

    - Tại sao họ lại chia tay ? Charly hỏi trong khi xếp cần câu vào cốp xe.
    - Ai ?
    - Ông bà nội.

    Jonathan nhíu mày. Anh mở cửa xe và bằng một cử chỉ bảo con trai phải thắt dây an toàn vào. Chiếc xe tải rời vịnh Bodega và tiến về San Francisco.

    Trong khi vừa cầm lái, Jonathan vừa cầm chiếc ví của mình và lấy ra tấm ảnh của một nhà hàng ở vùng quê.

    - Ông bà nội của con có một nhà hàng ở vùng Tây Nam nước Pháp, anh giải thích trong khi chỉ cho con trai tấm hình.
    - La Che-va-lière, Charly đọc từng chữ một trong khi căng mắt ra để nhìn tấm biển hiệu.

    Jonathan gật đầu.

    - Khi ba còn nhỏ, trong vòng vài tháng, ông nội đã yêu một người phụ nữ khác : nữ đại diện của một nhãn hiệu rượu champagne cung cấp rượu cho nhà hàng của ông.
    - A?
    - Tình yêu đó kéo dài hơn một năm. Bởi vì trong những thành phố nhỏ, tin đồn lan rất nhanh, họ đã tìm cách để giữ bí mật đó nhưng không thể.
    - Tại sao ông nội lại làm như vậy ?

    Jonathan kéo nón xuống để tránh bị chói mắt bởi ánh nắng mặt trời buổi trưa.

    - Tại sao những người đàn ông lại lừa dối vợ mình ? Tại sao những người phụ nữ lại lừa dối chồng mình ?

    Anh để ngỏ câu hỏi trong vài giây, rồi giống như anh đang nói to suy nghĩ của mình :

    - Có hàng tá lý do, ba nghĩ vậy : không còn hứng thú, sợ tuổi già, nhu cầu được thử thách sức hấp dẫn của mình, suy nghĩ rằng một cuộc phiêu lưu sẽ không gây ra hậu quả gì nhiều...Những lời giải thích chắc chắn đều rất có hiệu lực. Ba không thể nói với con rằng ba đã tha thứ cho ông, nhưng ba cũng không oán trách gì ông cả.
    - Nhưng không phải vì thế mà ba không nói chuyện với ông cho đến khi ông mất sao ?
    - Không, không phải vì thế con trai à. Ông còn có nhiều khuyết điểm khác nữa, nhưng bỏ qua sự thiếu chung thủy, ba chưa bao giờ nghi ngờ tình yêu của ông với bà. Ba chắc rằng sự ngoại tình đó đã làm ông đau khổ rất nhiều, nhưng đam mê như một chất gây nghiện : ban đầu, con nghĩ rằng con có thể chế ngự nó, nhưng rồi một ngày, con phải chấp nhận rằng nó đã chi phối con...

    Vừa ngạc nhiên vừa bối rối bởi những lời thú nhận đó, Charly nhìn cha mình với một ánh mắt kì lạ thông qua kính chiếu hậu phía trong, nhưng Jonathan đã lại tiếp tục :

    - Cuối cùng, ông đã có thể tự giải thoát khỏi người phụ nữ đó. Nhưng sáu tháng sau cuộc phiêu lưu đó, ông không tìm được cách gì tốt hơn là thú nhận cuộc ngoại tình đó với bà con.
    - Tại sao ? Cậu bé hỏi trong khi mở to đôi mắt.
    - Ba nghĩ rằng vì ông muốn làm điều đó và vì ông cảm thấy có lỗi.

    Jonathan bật đèn tín hiệu để đỗ vào trạm xăng duy nhất của chỗ tự phục vụ.

    - Rồi sau đó ? Cậu bé hỏi trong khi đi theo cha.

    Jonathan mở ống bơm nhiên liệu.

    - Ông đã cầu xin sự tha thứ của vợ mình. Bởi vì họ đã có hai đứa con, ông cầu xin bà hãy giữ hạnh phúc gia đình, nhưng bà đã bị suy sụp bởi sự phản bội. Chồng bà đã phá hủy tình yêu của họ và tất cả những gì họ đã cùng nhau xây dựng. Vì thế, bà đã từ chối lời xin lỗi của ông và rời bỏ ông.
    - Ngay lập tức ?

    Jonathan trả tiền và trở lại xe.

    - Bà con là như vậy đấy, Jonathan giải thích trong khi khởi động lại xe.
    - Có nghĩa là ?
    - Đó là một người phụ nữ yêu hết mình, một người lý tưởng hóa, cuồng nhiệt và đầy đam mê. Đùng một cái, bà phát hiện người đàn ông mà mình yêu thương nhất trên đời lại có khả năng lừa dối mình và làm mình tổn thương. Bà luôn nói rằng giữa một cặp đôi thì niềm tin là quan trọng nhất. Bà nói rằng, không có sự tin tưởng, tình yêu không thật sự là tình yêu và với điều này, ba tin rằng bà đã đúng.

    Có vẻ như Charly đã bắt đầu hiểu, cậu bé nhận xét :

    - Điều đó giống như khi ba sống với mẹ vậy.

    Jonathan đồng ý :

    - Phải, trong nhiều năm, với mẹ con, chúng ta như là một vậy. Chúng ta đã chia sẻ mọi thứ và tình yêu bảo vệ chúng ta khỏi mọi thứ. Nhưng đến một ngày.... một ngày tình yêu ra đi.... và không còn gì để nói nữa.

    Charly lắc đầu một cách ủ rũ và, bởi vì họ không còn gì để nói nữa, cả hai im lặng cho đến khi về đến nhà.
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  12. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 9: Bí mật được giấu kín


    Giữa họ đã từng có một bí mật hoàn toàn được giấu kín.

    Marguerite YOURCENAR

    San Francisco
    Chủ nhật
    Đầu buổi chiều

    Charly mở cửa ngôi nhà và lao đến chiếc ghế salon.

    - Chú Marcus, nhìn này ! Con câu được hai con cá đó !

    Nằm dài trên chiếc ghế, chân hình rẽ quạt, Marcus đang hút một ống thuốc to như một gói khoai tây chiên.

    - Cái mùi này ghê quá, cậu bé nói trong khi bịt mũi lại.

    Marcus ngồi dậy và vội vã dập tắt điếu thuốc trong cái gạt tàn đặt dưới chiếc bàn thấp.

    - Hê hê, chào cậu nhóc !

    Nhưng Jonathan đã nhìn xoáy vào mắt anh.

    - Tôi đã nói với cậu bao nhiêu lần rồi... ? Anh bắt đầu lớn tiếng.
    - Được rồi, chuyện này chẳng có làm chết ai cả, anh chàng người Canada chống đối một cách uể oải.
    - Với những chiêu thức của cậu, e rằng tôi cũng sẽ tự mình tước đi cái quyền bảo vệ con trai mình, do đó, chuyện này gây chết người đó !

    Jonathan mở tất cả các cửa sổ để thông thoáng trong khi Charly lấy từ trong tủ đá ra một con cá quân và một con cá chép nhỏ vẫn còn sống.

    - Chúng còn rất tươi ! Cậu bé nói, tự hào vì hai con cá mình câu được.
    - Đúng vậy, chúng không giống như chú Marcus... Jonathan thêm vào với một ý châm chọc để làm con trai cười.

    Đúng là anh bạn cùng nhà của anh có một khái niệm rất đặc biệt về « quần áo của ngày chủ nhật » : quần đùi nhăn nheo, vớ chiếc này chiếc nọ và chiếc áo t-shirt lần này được trang trí bởi một chiếc lá của cây gai dầu nổi bật trên lá cờ Jamaica.

    - Con muốn ăn trái cây không ? Jonathan hỏi trong khi cất lại vào tủ lạnh những đồ còn thừa của chuyến đi.
    - Con muốn chú Marcus làm cho con chiếc sandwich ba tầng của chú...
    - Sao chứ ? Anh hỏi lại đầy nghi vấn.
    - Quyết định vậy đí ! Marcus nói trong khi lấy các nguyên liệu ra từ tủ.

    Liếm mép thèm thuồng, Charly trèo lên một chiếc ghế quanh quầy bar.

    Một cách thành thạo, Marcus trét lên lát bánh mì đầu tiên một lớp ca cao, trước khi phủ lên đó một lát khác được trét một lớp sữa đặc và cuối cùng là một lát khác được phủ bởi một lớp xi rô.

    Charly ăn cái sandwich một cách ngon lành và nói khi miệng vẫn đang nhai nhồm nhoàm :

    - « Gất » là ngon, cảm ơn chú !

    Rất hài lòng vì lời khen, Marcus cũng tự làm cho mình một cái như vậy.

    - Mình làm cho cậu một cái nhé, Jon' ?

    Jonathan mở miệng định từ chối – muốn anh ăn cái hỗn hợp đầy năng lượng này thì quên đi – nhưng rồi anh thay đổi ý kiến. Tại sao lại quay lưng lại với tất cả sự vui thích và những khoảnh khắc hợp tác với Marcus và con trai anh ? Sau tất cả, em rể của anh tuy có nhiều khuyết điểm, nhưng cậu ta cũng mang lại phần nào sự vui tươi và độc đáo cho căn nhà này. Và trên hết, anh không được như cậu ấy, có thể làm cho Charly vui vẻ, trong khi anh, bị nhốt trong nỗi buồn, không phải là người cha lý tưởng mà bất cứ đứa con nào cũng mơ ước có được.

    - Được đó, sao lại không chứ ! Jonathan nói trong khi đến bàn ngồi với họ.

    Anh mang đến cho tất cả một tách trà pu-erh trước khi vặn radio và điều chỉnh đến tần số chuyên phát nhạc rock California. Trong giai điệu những bài hát của The Eagles, Toto và Fleetwood Mac, họ thưởng thức bữa ăn nhẹ của mình.

    - Con biết không, ba định cho « bánh sandwich ba tầng nổi tiếng của chú Marcus » vào thực đơn tráng miệng của nhà hàng đó, Jonathan bông đùa. Ba chắc rằng nó sẽ được hưởng ứng lắm đây !

    Trong khi cậu bé cười một cách vui vẻ, cậu ngước mắt lên và :

    - Tại sao ba lại dán tất cả những bức ảnh này lên ? Cậu bé ngạc nhiên và chỉ vào những bức ảnh của Madeline đang đính trên bức tường của nhà bếp.

    Jonathan cảm thấy như có lỗi. Đã hai ngày nay, anh bị dẫn dắt bởi trí tò mò, nhưng hiện tại anh không thể lý giải được sự logic và ý nghĩa của thái độ mà anh đang thể hiện. Tại sao cuộc sống của người phụ nữ đó lại có sức hút đến vậy ? Tại sao anh lại đầu tư tâm trí vào chuyện này ?

    - Con nói đúng, ba sẽ gỡ chúng xuống, anh đồng ý, gần như thoải mái vì quyết định hợp lí đó.
    - Mình sẽ giúp cậu, cậu em rể đề nghị.

    Hai người đàn ông đứng lên và bắt đầu gỡ từng tấm một ra khỏi tường.

    Madeline ở Venise, Madeline ở Rome, Madeline ở New York...

    - Này, cậu thấy không ? Đây là Cantona...
    - Đâu ?

    Marcus đưa cho anh tấm hình mình vừa gỡ xuống. Trong áo khoác da và sơ mi cắm thùng, Madeline đang cười trước một chiếc bánh sinh nhật cắm 29 cây nến. Sự kiện này cách đây cũng đã năm sáu năm. Khi cô còn trẻ, cô đã ít thanh lịch và nữ tính hơn người phụ nữ mà Jonathan đã chạm trán ở sân bay. Vào thời điểm đó, cô có khuôn mặt tròn hơn, một vẻ gì đó hơi con trai và một vài quầng thâm dưới mắt.

    Bức chân dung được chụp tại văn phòng : người ta có thể thấy những tủ hồ sơ, một cái máy tính lỗi thời cùng những cây viết bi, viết mực và một cây kéo được đặt trong một cái ca. Mặc dù chất lượng không tốt lắm, người ta có thể nhận thấy, dán trên tường, là một poster Eric The King (1) trong bộ áo may ô của Red Devils.

    - Cậu biết tấm hình này được chụp ở đâu không ? Marcus hỏi.
    - Không.
    - Theo mình, đó là tại một sở cảnh sát.
    - Tại sao ?

    Anh chỉ vào những bóng dáng màu đen và vàng lấp ló ở cuối màn hình.

    - Hai chỗ này, đó là cảnh sát.
    - Sao cũng được !
    - Cậu có thể phóng to nó không ?
    - Nghe này, chúng ta không phải ở trong phòng giám định...
    - Thử đi nào !

    Không tin tưởng lắm, Jonathan lấy máy tính xách tay trong đó anh đã lưu vào tất cả những bức ảnh của Madeline. Anh nhấn vào liên kết của bức ảnh để mở nó trong Photoshop và dùng công cụ zoom ảnh của phần mềm. Tất nhiên, nó không được rõ nét lắm nhưng người ta vẫn có thể nhìn thấy thêm nhiều chi tiết.

    Thật ra, không phải là không thể khi cho rằng những chấm vàng đen ở góc màn hình là những chiếc áo gilê màu vàng với dải băng phản chiếu mà những cảnh sát người Anh thường mặc. Nhưng nó cũng không đủ thuyết phục. Khi xem xét những phần khác của bức ảnh, một chi tiết khác thu hút sự chú ý của anh : ba chữ « GMP » trang trí trên cái ca của Madeline.

    - GMP ? Nó gợi cho cậu điều gì à ?

    Jonathan mở một trình duyệt và gõ vào « GMP+Police ». Kết quả đầu tiên dẫn đến trang web của Greater Manchester Police : sở cảnh sát của quận Manchester.

    - Cậu nói đúng, đó là một sở cảnh sát.
    - Cậu biết nhiều chứ, những người thường ăn sinh nhật của mình trong tù đó ?

    Câu hỏi được để ngỏ trong vài giây. Câu trả lời tự hiện ra : trong một quá khứ từ rất lâu rồi, người phụ nữ này đã từng là cảnh sát !

    Jonathan hiểu ra rằng anh vừa tìm được chiếc chìa khóa để giải mã bí ẩn mà Madeline đang che giấu. Nhưng khi anh đã chạm đến nó, trong anh tràn ngập sự hoài nghi. Anh có quyền gì mà phá vỡ bí mật của cô ? Chúng đã được cất giữ để chắc chắn rằng người ta sẽ không khuấy động chúng lên để trả đũa và...

    - Nhìn này !

    Khi ngồi vào máy tính, Marcus đã tự mình quyết định. Trên thanh công cụ tìm kiếm, anh gõ : « Madeline+Greene+Police+Manchester »

    Có hàng trăm kết quả, nhưng cái đầu tiên hiện ra là một bài báo lấy từ tờ Guardian :

    Madeline Green, điều tra viên

    của vụ án Dixon,

    có ý định tự tử.


    (1) biệt danh của cầu thủ Éric Cantona khi chơi cho đội Manchester United.
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  13. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 10: Cuộc sống của người khác



    Nỗi đau lớn của sự tồn tại chính là chúng ta luôn luôn
    một mình, và bằng mọi nỗ lực, tất cả hành động
    của chúng ta chỉ là để trốn chạy khỏi nỗi cô đơn đó.
    Guy de MAUPASSANT

    Paris
    Thứ hai 19 tháng 12
    4h30 sáng

    Một trận tuyết nhẹ và dày đặc đã rơi từ vài phút tại quận VIII. Đông cứng bởi cái lạnh của màn đêm, khu phố Faubourg-du-Roule hoàn toàn vắng lặng.

    Một chiếc Peugeot Partner trắng bật đèn tín hiệu để đi vào giữa hai làn của đường Berri. Giấu mình trong chiếc áo phao có mũ lông cỡ lớn, một dáng người phụ nữ bước ra từ tòa nhà theo kiểu bourgeois rồi chui ngay vào chiếc xe tải nhỏ.

    - Vặn lò sưởi to lên, rét quá ! Madeline càu nhàu trong khi thắt dây an toàn.
    - Nó đã được bật lớn nhất rồi, Takumi trả lời trong khi khởi động xe, chị đã có một ngày chủ nhật vui vẻ chứ ?

    Người phụ nữ trẻ lẫn tránh câu hỏi và mang đôi găng tay len vào, trong lúc chờ đợi khoang lái ấm lên.

    Takumi không hỏi nữa. Chiếc xe đi về đường Artois rồi rẽ phải để đến đường La Boétie rồi Champs-Élysées.

    Madeline nới lỏng khăn choàng, lôi ra một hộp thuốc lá và đốt một điếu.

    - Tôi tưởng rằng chị đã ngừng...
    - Được rồi ! Cậu cũng đừng có lên lớp tôi nữa chứ ! Cậu biết Gainsbourg chứ ? « Tôi uống và tôi hút : rượu chính là trái cây và thuốc lá là thịt. »

    Takumi trở nên tư lự trong vài giây trước khi lên tiếng :

    - Thứ nhất, câu nói đó là của Hemingway...
    - … còn thứ hai ?
    - Thứ hai, cả hai người đó đều đã mất, đúng không ?
    - Tốt thôi, nếu nó làm cậu phiền, hãy đến nơi khác mà làm việc hoặc là làm cho tôi một chiến dịch chống lại chứng nhiễm độc thuốc lá.
    - Tôi nói thế vì muốn tốt cho chị thôi, Takumi phản kháng nhẹ nhàng.
    - Nghe này, hãy để tôi cởi giày, được chứ ? Và mang tôi ra khỏi cái sự ngột ngạt này ! Cô ra lệnh trong khi chỉ tay vào chiếc radio đang phát gần hết phiên bản Nhật của bài hát Que je t'aime (Anh yêu em biết bao), do chính Johnny thể hiện.

    Takumi lấy CD ra và Madeline dò tần số radio đến khi tìm thấy một kênh nhạc cổ điển đang phát bài la Suite bergamasque. Âm nhạc làm cô dịu đi một chút. Cô quay người ra cửa sổ và ngắm nhìn tuyết đang bắt đầu phủ lên các vỉa hè.

    Ở vòng xoay Dauphine, Takumi đi vào con đường nối để hướng ra ngoại ô. Madeline nhấc chân trái lên, bởi vì điều đó lâu lâu lại đến với cô, nhưng cảm giác gắt gỏng đó không bao giờ kéo dài lâu. Anh giấu một cái ngáp nhẹ. Những lần đến Rungis vào ban đêm làm anh thích thú. Đáng tiếc là anh phải dậy từ lúc bình minh... Ở những nơi khác, tất cả những người bán hoa đều không làm cái việc khổ sở này. Phần lớn những « đồng nghiệp » của anh đều hài lòng với việc nhận hoa chuyển thẳng tới cửa hàng của họ sau khi chuyển đơn đặt hàng qua Internet ! Madeline đã thuyết phục anh rằng tiêu chuẩn đầu tiên của một người bán hoa thực thụ chính là việc tìm kiếm những sản phẩm hoàn hảo.

    Vì trời tuyết, con đường hơi trơn trợt, nhưng điều đó không làm giảm hứng thú của Takumi trong việc lái xe về đêm ở Paris. Sự thay đổi khó nắm bắt của giao thông có chút gì đó làm anh say sưa và mơ mộng. Anh tiếp tục trên quốc lộ A6 để đến Orly và nhanh chóng tiến đến điểm thu phí của khu chợ của những sản phẩm tươi sống lớn nhất thế giới.

    *

    Rungis làm Takumi say mê. Cái « bụng của Paris » cung cấp phân nửa số cá, trái cây và rau quả tiêu thụ trên khắp thủ đô. Đây chính là nơi lấy hàng của những đầu bếp và những doanh nghiệp đòi hỏi yêu cầu cao nhất. Vào mùa xuân trước, khi cha mẹ của anh chàng người Nhật này đến Pháp, đây là nơi đầu tiên anh đưa họ đến thăm, trước cả tháp Eiffel ! Nơi đây vô cùng ấn tượng : một thành phố với hàng ngàn người sinh sống, có sở cảnh sát riêng, nhà ga, cứu hỏa, ngân hàng, tiệm làm tóc, nhà thuốc và hai mươi nhà hàng ! Anh thích sự sôi động này, vào lúc bốn năm giờ sáng, khi hoạt động bước vào giờ cao điểm với hàng loạt những xe tải nơi người ta chất và dỡ hàng với đủ mọi hương thơm và mùi vị.

    Ở trạm thu phí, Madeline đưa ra tấm thẻ mua hàng để đi vào bên trong và chiếc xe đỗ lại giữa đường Maraichers và đường Villette, tại một trong những chỗ đỗ xe dành cho người làm vườn.

    Họ lấy một chiếc xe đẩy cao và len lỏi vào không gian đầy kính và sắt. 22 ngàn mét vuông của khu C1 này hoàn toàn được dành riêng cho hoa được cắt sẵn. Bước qua những cánh cửa tự động, người ta sẽ như chìm đắm trong một thế giới khác và màu xám xịt bên ngoài nhường chỗ cho một bản hòa tấu của màu sắc và mùi hương.

    Phấn chấn hẳn lên bởi điều đó, Madeline chớp mắt, làm cho mình tỉnh táo và sải bước chắn chắn qua cánh cửa. Trên một diện tích tương đương ba cái sân bóng, khoảng năm mươi cửa hàng buôn bán nằm kế nhau trong không gian rộng lớn và mỗi cửa hàng là tên một loài hoa : Mimosas, Iris, Anémones...

    - Xin chào người đẹp của tôi ! Émile đón tiếp cô, người chủ cửa hàng mà cô thường mua.

    Với chiếc mũ rơm, kéo cắt cây, quần áo lao động và ria mép, Émile Fauchelevent là một thương hiệu. Có mặt ở Rungis từ khi khai trương cửa hàng năm 1969, ông thông tường tất cả những mật mã và các nhân viên ở đây.

    - Tôi làm cho cô một tách « đen không đường » nhé ? Ông nói trong khi bỏ vài gói vào máy pha cà phê.

    Madeline cảm ơn ông bằng một cái gật đầu.

    - Và một tách trà cho Katsushi ? Ông thêm vào trong khi thách thức ánh nhìn của anh chàng vệ sĩ của cô bán hoa.
    - Tôi tên là Takumi, anh chàng người châu Á trả lời lạnh lùng, và tôi sẽ dùng một tách cappuccino.

    Émile không hề nao núng.

    - Một cappuccino cho Tsashimi, một tách !

    Người đàn ông trẻ tóm lấy cốc của mình và cúi đầu, thất vọng vì không được người chủ cửa hàng tôn trọng.

    - Một ngày nào đó, cậu phải cho ông ta nếm mùi cú đấm của cậu, Madeline huých anh trong khi Émile tiến về phía một khách hàng khác. Điều này tôi không thể làm thay cậu được.
    - Nhưng... đó là một người lớn tuổi.
    - Ông ta hơn cậu ba cái đầu và nặng gần gấp đôi cậu ! Nếu điều này có thể an ủi cậu, lễ « thu nạp » của tôi đã kéo dài đến sáu tháng. Mỗi lần ông ta thấy tôi, ông ta đều gọi tôi là « miếng thịt bò » hay « người Anh ».
    - Vậy làm thế nào điều đó ngừng lại ?
    - Khi tôi dí cốc cà phê nóng hổi vào mặt ông ta. Từ đó ông ta đối xử với tôi như công chúa.

    Takumi cảm thấy lúng túng. Tại nơi mà anh sinh ra, người ta bằng mọi giá ngăn ngừa những xung đột, đối đầu hay những thái độ cực đoan.

    - Nhưng... tại sao mọi chuyện ở đây lại như vậy ?
    - Chuyện xảy ra như vậy ở khắp nơi, cô nói trong khi bóp nát chiếc cốc của mình trước khi quẳng nó vào giỏ rác. Và nếu cậu muốn nghe ý kiến của tôi, cậu cần phải đối diện với những tình huống thế này để có thể trở thành một người đàn ông.
    - Nhưng tôi là một người đàn ông, Madeline !
    - Đúng, nhưng không phải là người mà cậu muốn trở thành.

    Cô để lại anh một mình suy nghĩ để đến với Bérangère, một trong những nữ bán hàng của Fauchelevent mà cô hay đi cùng qua các cửa hàng khác nhau. Cô mua hai ba lô cành lá, trả giá hoa tulip, hoa cúc và hoa trà, nhưng không cưỡng lại được ba bó hoa hồng Équateur tuyệt diệu. Cô hoàn toàn dễ chịu trong việc « mua sắm » này, đồng ý trả tiền cho những đóa hoa xứng đáng với giá trị của chúng. Takumi lo việc chuyển chuyến hàng đầu tiên này và quay lại cùng cô chủ của mình trong khu vực dành riêng cho cây cối này.

    Bằng con mắt của chuyên gia, Madeline lựa chọn những cây thu hải đường và cây tai chuột trong chậu trong khi người học việc của cô, do những ngày lễ cuối năm, xem những « ngôi sao » của Noël như cây nhựa ruồi, tầm gửi,...

    Cô cũng để anh chọn những cây chống ô nhiễm rất được ưa dùng ở các nhà máy, nhưng cô cho rằng chán chết, để dành thời gian chọn những cành lan trằng và hồng đã làm nên tên tuổi của cửa hàng mình.

    Tiếp đó cô cũng dạo nhanh một vòng qua các nhà kính, nơi mà những « vật dụng tân tiến » có thể giúp khách hàng của cô tặng được những món quà thú vị và ít tốn kém hơn : nến thơm, cây « ăn thịt », xương rồng nhỏ tạo hình trái tim, lá cà phê trồng trong những tách espresso...

    Ở quầy bán đồ trang trí, cô bị mê hoặc bởi một thiên thần bằng sắt nung đang bày tỏ sự cuồng nhiệt sau tủ kính. Takumi theo sau cô và như uống từng lời của cô. Tuy dáng vẻ mảnh khảnh, anh vẫn được vinh dự đảm trách những việc nặng nhọc, đẩy chiếc xe hàng càng lúc càng nặng qua từng trạm dừng, nâng bằng một tay một túi đất mùn mười kg hay một bao lớn đựng chậu hoa đầy đất.

    Gió làm rung những nhà kín. Thông qua các lớp kính người ta trông thấy những bông tuyết lấp lánh lướt trên bầu trời trước khi bao phủ mặt đường bằng một lớp băng trắng xóa.

    Để trì hoãn việc phải đối mặt với cái lạnh, Madeline thu mình vào cái kén của mình. Việc mua những bông hoa của mùa xuân – huệ, thủy tiên, giọt sữa – đã kéo cô ra khỏi sự phiền não. Với cô, người ghét thời gian lễ hội, đầu mùa đông chính là thời gian buồn tẻ nhất của năm, nhưng cũng là thời gian mà cô nhu cầu tìm lại cuộc sống nhất. Với cô, đó mới chính là điều hứa hẹn nhất của Noël...

    *

    6h30

    Takumi đóng cốp xe lại cẩn thận. Chiếc xe tải gần như bị nứt ra.

    - Đi nào, tôi sẽ mời cậu bữa sáng ! Madeline đề nghị.
    - Cuối cùng cũng có một lời vui vẻ !

    Họ đẩy cánh cửa của Les Cordeliers, quán rượu tọa lạc ngay chính giữa khu vực dành cho người làm vườn. Xung quanh quầy, nhiều khách hàng đang bàn tán về đủ mọi chủ đề, thay đổi lại thế giới với những trái bóng đỏ hay đen của họ. Một vài người đang chăm chú đọc tờ Le Parisien, những người khác lại đang lấp đầy những ô trống của trò Loto hay PMU. Rất nhiều cuộc trò chuyện xoay quanh những cuộc bầu cử quốc hội sắp tới : Sarko sẽ tiếp tục được bầu ? Liệu cánh tả đã chọn được ứng cử viên tốt nhất chưa ?

    Họ ngồi vào một chiếc bàn, trong một góc ít ồn ào hơn. Madeline gọi hai tách espresso và Takumi bị cuốn vào một chiếc kebab rất béo.

    - Này, cậu có một cái dạ dày lớn thật đấy ! Cậu dạy tôi bài học về thuốc lá, nhưng chính cậu cũng phải coi chừng lượng cholesterol của mình đấy !
    - Tôi luôn cởi mở với tất cả các nền văn hóa, anh chàng người châu Á tự bào chữa trong khi ăn đầy một miệng chiếc bánh mì của mình.

    Người phụ nữ trẻ cởi bỏ găng tay và cởi dần chiếc áo phao ra để lấy chiếc điện thoại của Jonathan.

    - Chị vẫn chưa gởi trả lại nó à, Takumi nói.
    - Cậu đúng là một kẻ quan sát tốt.
    - Thật ra thì nó cũng không làm tôi ngạc nhiên lắm.
    - Vậy nó có làm gì phiền cậu không ? Cô đáp lại như đang phòng thủ.
    - Không, tôi chắc rằng câu chuyện của Lempereur đã làm chị quan tâm...

    Cô tự làm dịu mình và có thoáng do dự trước khi đưa cho anh xem một tờ giấy mà cô đã in vào đêm hôm qua.

    - Cậu đã từng sống ở Mỹ, cậu đã bao giờ nghe nói đến nó chưa ?

    Tò mò, Takumi mở bài báo ra và đọc đầu đề in đậm :


    JONATHAN LEMPEREUR BỊ LỪA

    BỞI NGƯỜI BẠN THÂN NHẤT

    Chỉ trong vài ngày, người nổi tiếng nhất trong số các bếp trưởng đã đánh mất người vợ,

    nhà hàng và cả người bạn thân nhất. Một sự phản bội nhân đôi.

    (PEOPLE Mag – 3 janvier 2010)

    - Tôi không biết rằng chị cũng đọc loại báo này đấy, anh nói trong khi mang kính vào.
    - Ngừng những câu xiên xỏ của cậu đi, được chứ ?

    Bốn bức ảnh minh họa cho bài báo chứng minh cho sự chắc chắn của người viết. Chúng được chụp vào ngày 18/12/2009 tại Naussau, Bahamas. Người ta thấy Francesca đi cùng với một anh chàng George LaTulip. Cặp đôi này đã bị chộp bởi các tay săn ảnh trong một góc của thiên đường dưới tên gọi Cable Beach. Mặc dù được chụp chớp nhoáng, những bức ảnh vẫn rất đẹp. Trong bộ quần áo coton sáng màu, cô nàng cựu người mẫu bước đi tay trong tay với người tình của mình trên bãi biển cát trắng và nước xanh màu ngọc bích lấp lánh. Thái độ của họ đã phản ánh được tình cảm : tay trong tay, họ cười nói và tán tỉnh, giống như họ là những người duy nhất trên thế giới này. Ở bức ảnh cuối, cặp tình nhân đang ôm hôn thắm thiết trên sân thượng của một quán cà phê với kiến trúc thuộc địa.

    Những kiểu chụp này có một vẻ glamour và vintage, gợi nhớ đến những quảng cáo Calvin Klein vào những năm 1990.

    Chủ yếu thiên về những chuyện điên rồ của phái nam, tờ báo lá cải này không hề hiền dịu với những « hành động điên cuồng của Francesca ». Phải nói rằng, trong cái thế giới giả dối và thiện ác lẫn lộn này, tất cả mọi nguyên liệu có thể được tập hợp lại để tạo cho sự lừa dối này những cảm giác của một bi kịch thời cổ đại. Một mặt, người vợ ngoại tình với một sắc đẹp mê đắm có thể đi cùng trời cuối đất với người bạn thân nhất của chồng mình. Mặt khác, người chồng chung thủy ở lại New York để chăm sóc con trai và cứu vớt nhà hàng của mình khỏi cơn nguy hiểm. Cuối cùng nhưng không phải là nhỏ nhất (last but not least), vai của tình nhân được đóng một cách oai vệ bởi George LaTulip. Người đàn ông này cao lớn, tóc nâu, bí ẩn, quyến rũ. Một người « đẹp trai », mặc dù tên gọi khá buồn cười, thể hiện một sự tương đồng kì lạ với Richard Gere của thời đại huy hoàng.

    Khi người ta đọc bài báo kĩ càng hơn, người ta biết được rằng George LaTulip làm việc như trợ lý của Jonathan ở L'Imperator : đó là cộng sự gần gũi nhất, và cũng là bạn của anh. Trước khi gặp Jonathan, George trải qua rất nhiều buổi thử việc và bán hot dog trên một trong những chiếc xe đẩy leng keng đi khắp Manhattan. Jonathan có một năng khiếu phát hiện được tài năng của con người. Anh đã đào tạo George cho đến khi để anh ta làm trợ lý, mang lại cho anh ta sự ổn định, thoải mái về vật chất và một sơ yếu lí lịch đảm bảo cho anh ta có thể tìm được việc làm đến cuối đời. Và để cảm ơn anh, anh ta đã cướp đi người vợ của anh...

    - Cậu nghĩ sao về điều này ?
    - Tôi nghĩ rằng đôi khi phụ nữ thật là khốn nạn, Takumi trả lời.
    - Nếu điều này làm cho cậu nói những điều ngốc nghếch đó, Madeline lẩm bẩm, tôi nghĩ rằng mình sẽ phải ngừng việc đưa cậu đến các quán rượu, và...

    Nhưng anh chàng người Nhật không để cho cô kịp nói hết câu :

    - Đợi đã ! Cái tên này : George LaTulip, hình như tôi đã nghe được ở đâu đó. Chúng ta không phải đã giao hoa đến cho anh ta chứ ?
    - Không, tôi không nghĩ vậy. Nhưng với một cái tên giống như thế, tôi dĩ nhiên vẫn còn nhớ ! Và điều làm tôi ngạc nhiên là anh ta sống ở Paris...

    Nhưng Takumi đã nhanh chóng bắt lấy ý nghĩ của cô.

    - Chị có máy tính ở đây chứ ?

    Madeline thở ra và lấy từ trong túi ra chiếc netbook mà cô đã nhập vào đó « dữ liệu khách hàng ».

    Takumi đặt màn hình trước mặt và gõ « LaTulip ». Không phải chờ đợi quá lâu để một thanh xuất hiện :

    George LaTulip

    Café Fanfan, 22 bis, avenue Victor-Hugo

    75116 Paris

    - Chính tôi đã đến giao cho anh ta một đóa hoa thược dược màu tía, cách đây tám tháng. Một đơn hàng mà người đồng nghiệp của chị ở quận XVI, Isidore Brocus đã giúp. Tôi đã ghi hóa đơn dưới tên của nhà hàng, vì vậy mà họ đã không nói gì với chị cả.
    - Thế còn cậu ? Cậu có nhớ gì về anh ta không ?
    - Không, tôi đã gửi bó hoa đó cho một nhân viên.

    Madeline không thể tin nổi vào mắt mình. George LaTulip không chỉ mở lại một nhà hàng, mà anh ta còn sống ở Paris. Rõ ràng, thế giới chỉ là một ngôi làng....

    - Nào, đi thôi, chúng ta xuất phát, cô ra lệnh. Cậu hãy ăn nốt bánh mì của mình trong xe hơi, nhưng cẩn thận đấy nếu tôi tìm thấy bất cứ vết mỡ nào trên chiếc ghế !
    - Chúng ta quay về cửa hàng à ?
    - Cậu sẽ quay về cửa hàng : còn tôi, tôi nghĩ là tôi sẽ làm một chuyến viếng thăm nho nhỏ đến « Fanfan la Tulipe »....
    - Nhưng là vì cớ gì ?
    - Cậu cho rằng tôi phải cần đến một cái cớ để nói chuyện với một người đàn ông sao...
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
    Doflamingo thích bài này.
  14. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 11: Truy tìm

    Điều quan trọng là, con người chính là thứ mà họ
    che giấu : một đống nhỏ những bí mật khốn khổ.
    André MALRAUX

    San Francisco

    Như bị thôi miên bởi màn hình máy tính, Jonathan đọc lại bài báo đó lần thứ ba.

    MADELINE GREENE, ĐIỀU TRA VIÊN

    CỦA VỤ ÁN DIXON CÓ Ý ĐỊNH TỰ TỬ

    guardian.co.uk – 8 tháng 7 2009

    Cheatam Bridge – Một tháng sau vụ việc phát hiện một tử thi đã loại bỏ gần như hoàn toàn mọi hi vọng tìm thấy cô bé Alice Dixon còn sống sót, trung úy của đội cảnh sát điều tra sự việc, Madeline Greene, ba mươi mốt tuổi, đã có ý định tự tử vào đêm đó bằng cách treo cổ trên xà tại nhà mình.

    Cô cảnh sát trẻ trong khi ngã xuống đã làm cho một chiếc tủ kính rơi xuống sàn, đánh thức người hàng xóm ở cùng tầng với cô. Juliane Wood, người này đã nhanh chóng phản ứng. Sau khi thực hiện những thao tác cơ bản, Madeline Greene được chuyển đến bệnh viện Newton Health.

    Theo các bác sĩ, tình hình của cô được cho là đáng lo ngại, nhưng khả năng sống của cô vẫn chưa được dự đoán chắc chắn.

    Những di chứng của một cuộc điều tra gây ám ảnh
    Làm sao giải thích hành động bất hạnh này ? Sự tội lỗi ? Sự quá tải ? Không có khả năng lật sang trang mới cuộc điều tra gây ám ảnh này ? Dù sao thì đó cũng là những lời giải thích hợp lý. Henry Polster, quản lý cao nhất của đội cảnh sát Manchester, cho biết rằng Madeline Greene đã dừng mọi công việc lại từ khi biết tin về cái chết của Alice Dixon, mười bốn tuổi, nạn nhân cuối cùng của Harald Bishop, kẻ giết người hàng loạt khét tiếng đã bị bắt vài ngày trước bởi cảnh sát Merseyside. Với những đồng nghiệp của Madeline Greene thì sự ngạc nhiên xen lẫn với những xúc cảm. « Dù đã ở sau song sắt, kẻ tàn bạo của Liverpool vẫn tìm được một nạn nhân khác. », cộng sự của cô, thám tử Jim Flaherty bày tỏ sự thương xót.


    Jonathan gãi đầu : vụ án này đã rất nổi tiếng ở nước Anh trong vòng vài tháng, nhưng nó đã không vượt qua Đại Tây Dương.

    - Cậu có bao giờ nghe về vụ án « Alice Dixon » hay « Kẻ tàn bạo của Liverpool » không ? Anh hỏi người bạn mình.
    - Chưa bao giờ, anh bạn Canada đáp lời.

    Chắc rồi. Không có gì để hi vọng : những người như Marcus sống trong một thế giới trôi nổi, xa rời thực tế. Thế giới mà Bill Clinton vẫn còn là tổng thống, bức tường Berlin vẫn chưa sụp đổ và người ta vẫn còn chơi ma túy hay thuốc phiện trong các quán bar...

    Một ý nghĩ đến một cách hiển nhiên. Jonathan mở điện thoại của Madeline và chạy cái ứng dụng được bảo vệ bởi một mật mã.


    ENTER PASSWORD

    Anh gõ « ALICE » và ứng dụng được mở....

    *

    Điện thoại chứa hàng trăm tư liệu liên quan đến « vụ án Dixon » : những ghi chú, bài báo, hình ảnh, vidéo. Chúng hiện lên dần dần trên màn hình, Jonathan cũng đồng thời chuyển chúng vào máy tính của mình để xem xét sau. Ban đầu, anh nghĩ rằng những tập tin đó chỉ chứa một lượng lớn những bài báo liên quan đến việc bắt cóc và cái chết của cô bé, nhưng anh càng tiến triển trong việc khám phá, anh càng hiểu tại sao Madeline đã làm mọi cách để bảo vệ những dữ liệu này. Cô cảnh sát trẻ đã scan, sao chép, tạo bản sao của tất cả những gì liên quan đến vụ án cuối cùng của cô ! Người ta có thể tìm thấy lẫn lộn trong đó cả những ghi chép của cô, những bản đóng dấu, những đoạn phim đáng nghi, những bức ảnh và mô tả chi tiết về chứng cứ, hàng chục trang điều tra về những vụ tương tự. Tất cả những tư liệu đó được đóng dấu bởi Greater Manchester Police và chúng lẽ ra sẽ không bao giờ được rời khỏi sở cảnh sát địa phương hay tòa án...

    - Cái gì vậy ba ? Charly hỏi, lo lắng khi thấy một loạt những hình ảnh nức nở trên màn hình máy tính của cha mình.
    - Đừng có nhìn, con yêu, chúng không phải dành cho trẻ con đâu, Jonathan trả lời trong khi xoay màn hình lại.

    Anh kiểm tra tốc độ tải. Dù là mạng wifi, tốc độ cũng không nhanh lắm và còn phải cần đến tận hai tiếng nữa.

    - Đi nào ! Chúng ta chơi một trận bóng rổ với chú Marcus nào, anh đề nghị bằng giọng hào hứng.

    Họ đi xuống một trong những cái sân được đặt lưới sắt xung quanh Levi's Plaza. Cuối cùng đội anh bị thắng. Charly đã chạy hết sức, và sau khi đánh được vào rổ khoảng hai chục trái, hoàn toàn mệt lử khi trở về nhà, ăn một phần con cá của mình và say ngủ trước một tập phim Two and a Half Men.

    Jonathan đưa cậu bé vào phòng ngủ. Bên ngoài, màn đêm đã buông xuống. Marcus lại tiếp tục hút điếu thuốc của mình ngoài hiên trong khi nói chuyện với Boris.

    Jonathan lục tìm trong ngăn đá của tủ lạnh và lấy ra một chai vodka hương sơri được tặng bởi một khách hàng người Nga. Trong khi khởi động máy tính, anh làm một ly « nước của cuộc đời » mà, theo nhãn dán, đã được chưng cất từ nhựa cây bulô trước khi được làm dịu bởi một lớp kim cương.

    Chỉ vậy thôi...

    Anh kiểm tra rằng tất cả các dữ liệu đã được lưu vào ổ cứng của mình. Không phải hàng chục, mà là hàng trăm tư liệu mà Madeline mang theo với cô. Tổng cộng, gần một ngàn tập tin tạo nên một thư mục chết chóc và bi kịch. Có thể thấy rằng, cô cảnh sát trẻ đã theo đuổi vụ án được sáu tháng, làm việc ngày đêm với nó, để nó lấy đi sức khỏe và xem nó như lẽ sống. Một câu chuyện tồi tệ đã cướp đi cuộc đời cô...

    Jonathan mở những bức ảnh đã tải : thật sự không thể chịu đựng nổi. Anh thể hiện rõ một sự do dự. Liệu anh có muốn và đủ can đảm để dấn thân vào câu chuyện mất tích và cái chết của một đứa trẻ không ?

    Câu trả lời là không.

    *

    Tuy nhiên, anh nhấp một hớp vodka, một hớp nữa và bắt đầu hành trình đến địa ngục của mình.
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  15. bluechips

    bluechips Mầm non

    Phần 2: Vụ án Alice Dixon - Chương 12: Alice



    Điều đó đã xảy ra vào một mùa hè xanh rì và điên rồ. Frankie
    lúc đó mười hai tuổi. Cô bé không phụ thuộc vào hội nhóm nào,
    hay bất cứ thứ gì tương tự trên thế giới này. Cô bé đã là một cá thể
    không ràng buộc, có thể bước xung quanh các cánh cửa, và cô bé sợ hãi.
    Carson McCULLERS

    Ba năm trước
    8 tháng 12 2008
    Sở cảnh sát Cheatam, tây bắc Manchester

    Madeline cao giọng :

    - Cô cần phải giải thích rõ ràng hơn cho tôi vì tôi chẳng hiểu gì cả. Tại sao cô lại chờ đến TÁM NGÀY mới đến trình báo về sự mất tích của con gái mình ?

    Trước mặt cô, với nước da nhợt nhạt và tóc thì bết lại, Erin Dixon ngồi không yên trên chiếc ghế. Khó chịu, run rẩy, mắt cô chớp liên tục và tay thì vò vò chiếc cốc cà phê.

    - Cô biết những đứa tuổi dậy thì mà, chết tiệt thật ! Chúng đến, rồi chúng đi. Và tôi cũng đã nói với cô rồi : Alice lúc nào cũng độc lập, nó luôn tự xoay xở, nó...
    - Nhưng cô bé chỉ mới MƯỜI BỐN TUỔI ! Madeline lạnh lùng cắt ngang.

    Erin lắc đầu và yêu cầu được ra ngoài để hút một điếu thuốc.

    - Không được ! Cô cảnh sát dứt khoát.

    Cô khép mắt lại và nghỉ một chút. Người phụ nữ mà cô đang hỏi khoảng ba mươi tuổi (cùng tuổi với cô), nhưng cô ta đã thiếu nhiều răng và trên mặt cô, được chiếu sáng bởi ánh sáng lạnh lùng của chiếc đèn trần, hoàn toàn bị bao phủ bởi vẻ mệt mỏi.

    Đã một giờ từ khi cô đến sở cảnh sát địa phương, Erin đã trải qua mọi giai đoạn : đầu tiên là nước mắt khi nói về sự biến mất của con gái, tiếp theo là khó chịu và giận dữ khi người đặt câu hỏi cứ đào sâu tìm hiểu còn cô thì không thể nói được hai câu có liên kết để giải thích tại sao cô lại mất đến một tuần để đến trình báo.

    - Thế còn ba của cô bé, anh ta nghĩ gì ?

    Erin nhún vai.

    - Anh ta đã biến mất lâu rồi... Thật ra thì tôi cũng không chắc lắm về lai lịch của anh ta. Lúc đó tôi ăn ngủ linh tinh mà không có sự đề phòng nào...

    Đột nhiên, Madeline trở nên phẫn nộ. Cô đã làm việc 5 năm ở sở cảnh sát và đã quá quen thuộc với điều này : sự bồn chồn này, ánh nhìn tránh né này chính là những dấu hiệu của một kẻ đang thiếu thuốc gây nghiện. Những vết quanh môi của Erin chính là những vết cháy của một điếu thuốc Pyrex. Bà Dixon là một kẻ nghiện lâu năm.

    - Nào, chúng ta đi thôi, Jim ! Madeline quyết định trong khi tóm lấy áo khoác và vũ khí của mình.

    Trong khi cô làm một vòng qua văn phòng của các cấp trên, cộng sự của cô đưa Erin đến bãi xe và châm cho cô một điếu thuốc.

    Đã mười giờ sáng, nhưng bầu trời đầy mây đen tạo cảm giác như trời vẫn chưa sáng.

    *

    - Chúng ta đã nhận được câu trả lời của trung tâm các sự việc khẩn cấp, Jim thông báo khi gác điện thoại. Không có bệnh viện nào có hồ sơ bệnh nhân với tên Alice Dixon hết.
    - Tôi đã cược rồi mà, Madeline trả lời trong khi vào số xe.

    Chiếc Ford Focus đột ngột bị lệch hướng trên con đường ướt. Đèn tín hiệu và còi được bật, chiếc xe tiến về những khu phố phía bắc. Tay trái cầm vô lăng, tay phải dò tần số radio, nữ điều tra viên thực hiện những giải pháp đầu tiên : gửi ảnh của Alice đến tất cả các sở cảnh sát của quốc gia, đưa thông tin về sự mất tích lên báo và những phương tiện truyền thông, yêu cầu thiết lập khẩn cấp một đội cảnh sát khoa học...

    - Đi từ từ thôi, cô sẽ quăng chúng ta vào không trung đấy ! Jim phàn nàn trong khi Madeline đụng vào mé vỉa hè một cách nguy hiểm.
    - Anh không nghĩ là chúng ta đã mất đủ thời gian rồi sao ?
    - Chỉ là, chúng ta chỉ cách đó có mười phút...
    - Anh thật là ngốc nghếch !

    Hai cảnh sát đến ngã tư của một khu phố bình dân. Với những dãy nhà bằng gạch đỏ trải dài đến khuất tầm mắt, Cheatam Bridge là kiến trúc tiêu biểu cho vùng ngoại ô cổ bị công nghiệp hóa. Những năm gần đây, những nhà đầu tư đã rót rất nhiều tiền vào việc sửa sang lại các khu phố phía tây bắc, nhưng Cheatam Bridge không được hưởng nhiều lắm từ việc đó. Rất nhiều nhà ở bị dùng vào việc khác, phần lớn các khu vườn đều bị bỏ hoang, và khủng hoảng làm cho nền kinh tế nước Anh không thể thu xếp ổn thỏa mọi thứ.

    Nếu khu vực này không được xếp vào những nơi nên đến khi đi du lịch, thì phải nói sao về Farm Hill Road, khối nhà mà người mẹ của Alice đang ở ? Đó thật sự là một nơi khốn khổ, nhuộm đỏ bởi tội ác. Madeline và Jim đi theo Erin trong cái dãy nhà tồi tàn hư hỏng dành cho người vô gia cứ, gái điếm và bọn buôn bán thuốc phiện.

    Khi bước vào căn nhà tồi tàn đó, Madeline cảm thấy buồn nôn. Phòng khách nổi mốc và ghê tởm : nệm dưới đất, cửa sổ bị chặn bởi thùng carton và những miếng gỗ dán, mùi thức ăn ôi thiu... Hiển nhiên, Erin đã dọn đến khu phố « thuốc phiện » để tống tiền bọn buôn bán sử dụng chỗ này. Ngay cả khi cô biết rằng cảnh sát sẽ đến khám nhà mình, cô cũng không buồn che giấu những hoạt động đó : một ống thuốc tự làm từ một ống chai vẫn còn nằm trên bệ cửa sổ bên cạnh những chai bia rỗng và một cái gạt tàn với một hộp thuốc đã hút hơn ba phần tư.

    Madeline và Jim trao đổi một ánh nhìn lo lắng : với số người kéo đến đây thường xuyên, cuộc điều tra chắc sẽ không đơn giản. Họ lên tầng, mở cửa phòng của Alice và....

    *

    Căn phòng hoàn toàn khác hẳn với phần còn lại của ngôi nhà. Nó rất giản dị và ngăn nắp với một cái bàn học, kệ sách và những cuốn sách. Nhờ một hộp hương thơm, một mùi hương dễ chịu của hoa iris và hương vani bay bổng trong không khí.

    Một thế giới khác...

    Madeline ngước mắt nhìn chăm chú những bức tường được trang trí bởi hình dán và những tiết mục của các chương trình mà Alice tham dự : những vở opéra – Carmen và Don Giovanni ở Lowry Theatre - , một cái vé – Vườn thú bằng kính ở Playhouse - , một vở balê – Romeo và Juliet của BBC Philharmonic Orchestra.

    - Đúng là một cô bé lạ lùng phải không ? Jim hỏi.
    - Phải, Madeline lẩm nhẩm. Cô bé... cô bé lúc nào cũng vậy : lúc nào cũng say sưa với những cuốn sách, hội họa và âm nhạc... Tôi tự hỏi từ đâu mà cô bé có thể trở nên như vậy.

    Dù sao cũng không phải từ mình, Madeline nghĩ.

    Cô cảnh sát như bị thôi miên với những gì cô phát hiện được. Từ đầu này và đầu kia của bàn học, hai bức họa sao chép đang đối diện nhau : một bức tự họa của Picasso vào thời kì xanh và bức Verrou nổi tiếng của Jean Honoré Fragonard.

    Jim nhìn tựa những cuốn sách trên kệ : những tiểu thuyết cổ điển, những vở nhạc kịch.

    - Cô có biết nhiều đứa trẻ tuổi dậy thì ở Cheatam Bridge đọc « Những anh em Karamazov » hay « Những mối liên kết nguy hiểm » không ? Anh hỏi khi lấy ra hai đầu sách.
    - Tôi biết ít nhất là một đứa, Madeline trả lời, với một vẻ lơ đãng.
    - Ai vậy ?
    - Tôi...

    Cô cố gắng đuổi kỉ niệm ra khỏi tâm trí. Những vết thương của tuổi thơ vẫn còn sống động và đây không phải là ngày để gợi nhớ đến những điều xót xa đó.

    Cô đeo găng tay vào rồi mở tất cả những ngăn kéo và lục lọi một cách nhanh chóng.

    Trong những ngăn tủ, Madeline tìm thấy khoảng một chục gói bánh quy sôcôla kem vani – bánh Oreo – cùng với những cái chai sữa dâu Nesquik nhỏ bằng nhựa.

    - Nó chỉ ăn bánh quy chấm sữa thôi để sống thôi, mẹ cô bé giải thích.

    Alice đã « đi » mà không mang gì theo : đàn violon của cô bé để trên giường, máy tính – một cái Mac đời cũ mà bây giờ không còn ai dùng – nằm trên bàn học, còn quyển nhật ký thì nằm ở chân giường. Madeline mở nó với một sự tò mò và tìm thấy ở bìa của nó một tờ 50 bảng được gấp làm tư.

    Một nét kì lạ ánh lên trong mắt Erin. Có thể thấy rằng cô ta đang tự trách mình vì đã không có ý định lục lọi căn phòng trước khi đến lượt những cảnh sát.

    Điềm xấu, Madeline nghĩ. Nếu cô bé định bỏ nhà ra đi, cô bé sẽ không để lại khoản tiền đó ở nhà.

    Đội ngũ mà cô vừa yêu cầu đã đến. Cô yêu cầu họ phải khám xét kĩ lưỡng căn nhà. Với những cái kẹp, dao mổ và băng gòn, những cảnh sát lần lượt lấy các mẫu thử và cho vào các bọc kín. Trong khi họ thu thập chứng cứ, Madeline mở tập hồ sơ trong đó cô bé lưu giữ một vài bài tập của mình : điểm của cô bé rất cao cùng nhiều lời khen của giáo viên.

    Alice lớn lên trong một bức tường thành của văn hóa để trốn khỏi cuộc sống hằng ngày bẩn thỉu của mình. Giáo dục và kiến thức giống như những cái khiên để che chắn cô bé khỏi bạo lực, sự sợ hãi và sự tầm thường...

    *

    Năm chiếc xe cảnh sát hiện tại đang đỗ ở Farm Hill Road. Madeline trao đổi vài câu với người phụ trách đội điều tra, người đảm bảo với cô rằng đã tìm đủ số tóc trên lược của Alice để tạo nên những mẫu thử ADN chất lương cao.

    Rồi cô cảnh sát dựa vào một chiếc xe và châm một điếu thuốc trong khi nhìn chăm chăm vào bức ảnh của Alice. Đó là một cô bé dễ thương, cao và mảnh dẻ, trông có vẻ lớn hơn tuổi. Khuôn mặt cô bé trắng muốt, với một vài chấm đỏ không rõ lắm, phản ánh nguồn gốc Irlande của mình. Cô bé có cặp mắt màu hạnh nhân pha xanh xám gợi nhớ đến những bức chân dung của Modigliani và trong đó người ta có thể thấy được một sự chán nản, cùng với một sự tự nguyện che giấu vẻ đẹp của mình, ý thức được rằng, trong môi trường mà cô bé lớn lên, điều đó chỉ mang lại những nguy hại thay vì những lời khen ngợi.

    Có gì đáng trông đợi ở tương lai khi những điều kiện cơ bản của cuộc sống lại khó khăn đến thế ? Làm sao người ta có thể lớn lên ở những nơi tệ hại như thế này mà không trở nên điên rồ một chút, giữa những kẻ nghiện ngập và những kẻ như đã chết rồi ?

    Có phải cuối cùng con đã trốn đi không ? Madeline như đang hỏi Alice. Có phải con đã rời bỏ khu phố thối nát nơi chỉ có những kẻ thân tàn ma dại ? Có phải con đã muốn chạy trốn khỏi người mẹ yếu ớt thậm chí không thể cho con biết cả cha mình là ai ?

    Nhưng Madeline không tin vào giả thuyết đó. Có vẻ như Alice là một cô bé thông minh và chu đáo. Rời khỏi khu nhà ? Đồng ý. Nhưng để đi đến đâu ? Với ai ? Và để làm gì ?

    *

    Cô cầm điếu thuốc của mình và hít một hơi khác.

    Căn phòng của Alice đã làm sống dậy những kỉ niệm của chính cô. Giống như 99% những đứa trẻ lớn lên trong khu phố, Madeline đã có một tuổi thơ hỗn loạn với người mẹ suy nhược và người cha luôn mang theo chai rượu bên mình. Thời niên thiếu, cô đã thề sẽ chạy trốn khỏi cái thảm họa này, đi tìm may mắn của mình ở nơi khác. Giấc mơ của cô là một ngày nào đó sẽ được sống ở Paris ! Cô đã là một học sinh giỏi và cô đã vượt qua tất cả các cuộc thi về luật, rồi hiện thực của khu phố lại đeo đuổi cô và cô lại chọn nghề cảnh sát, nhanh chóng được thăng tiến, nhưng rốt cuộc vẫn bị dính chặt vào màu xám xịt và buồn tẻ của Cheatam Bridge.

    Cô không hề than phiền về số phận của mình, thậm chí ngược lại. Công việc này mang lại cho cô hứng thú vì nó mang một ý nghĩa : hạn chế tội phạm, cho phép các gia đình có thể được an ủi khi tìm được kẻ đã giết chết người thân của họ, cứu sống nhiều người, đôi khi là thế. Chắc chắn, không phải ngày nào cũng dễ dàng. Ở đây cũng như ở khắp các nơi khác, có một sự khó chịu sâu thẳm đối với các cảnh sát. Không chỉ là họ cảm thấy không được tôn trọng, mà công việc của họ phải hứng chịu nhiều lời chửi rủa và đe dọa. Đó là một thực trạng chung, nhưng người ta có thể cảm nhận hơn thế ở một khu phố như Cheatam Bridge. Những đồng nghiệp làm việc tại đây luôn che giấu công việc của mình với hàng xóm và yêu cầu cả con cái của mình làm như vậy ở trường. Người ta rất thích cảnh sát trong những phim truyền hình dài tập, nhưng lại khạc nhổ vào những người làm việc trong khu phố của họ... Họ luôn phải đối diện thường xuyên với stress, chịu đựng sự chống đối của dân chúng, sự không tuân thủ kỉ luật. Họ chấp nhận nhìn những chiếc xe của mình bị cán đinh và sử dụng những trang thiết bị của thời đại xưa cũ nào đó : nhiếu chiếc xe thậm chí còn không có radio, một vài máy tính vẫn còn chạy CPU Pentium II...

    Có nhiều lúc, thật sự rất khó khăn. Bạn sẽ cảm thấy trong sâu thẳm, cá nhân bạn, sự vô lý của những tai nạn chết người, sự chịu đựng của những người phụ nữ bị đánh đập, nỗi khiếp sợ của những đứa trẻ bị lạm dụng, nỗi đau của những gia đình nạn nhân....

    Vì phải lặn ngụp trong tội lỗi và sống trong áp lực, một vài người đã suy sụp. Năm ngoái, một cảnh sát ở đơn vị của cô đã làm đứt dây cáp và thả đi, không biết lý do chính xác, một kẻ giang hồ trong lúc đang chất vấn ; cách đây sáu tháng, một nữ thực tập sinh trẻ đã tự sát tại sở cảnh sát bằng chính vũ khí của mình.

    Trái với rất nhiều đồng nghiệp của mình, Madeline không hề nản chí hay suy sụp. Cô tình nguyện ở lại khu phố « khó nhằn » này để từng bước thăng tiến lên. Không nhiều những người lâu năm hay những người trẻ mới gia nhập trụ lại lâu ở đây. Điều này mở ra nhiều cơ hội nghề nghiệp... Qua nhiều năm, cô đã có được một vị trí đặc biệt cũng như một quyền hạn cho phép cô điều tra những vụ án « nghiêm trọng » nhất, thường là những vụ khó khăn và thương tâm nhất.

    - Cô bé không phải tự bỏ nhà ra đi, đúng không ? Jim hỏi trong khi tiến đến gặp cô.
    - Không, nếu như là bỏ trốn, đáng lẽ cô bé phải dọn dẹp và không để lại tờ 50 bảng đó
    - Với số tiền mà Erin phải có trong tài khoản, chúng ta cũng có thể loại bỏ khả năng đòi tiền chuộc.
    - Chắc rồi, cô tán thành, nhưng dù sao ta cũng vẫn phải điều tra những băng nhóm sử dụng ma túy xung quanh nhà cô bé : với những kẻ này, có thể đó là một sự trả thù hay một cuộc tống tiền.
    - Chúng ta sẽ tìm được cô bé, Jim khẳng định cũng như đang tự thuyết phục mình.

    Chúng ta không phải đang ở Mỹ, cũng không phải trong tiểu thuyết trinh thám : ở nước Anh hiện nay, những vụ mất tích trẻ em không được giải quyết rất hiếm.

    Hai năm trước, Madeline và Jim đã giám sát một cuộc điều tra về vụ mất tích của một cậu bé trong khi đang chơi trong vườn với cha mẹ mình. Báo động được chuyển đi ngay tức khắc : họ đã có thể triển khai việc tìm kiếm đáng kể trong một khoảng thời gian ngắn. Kẻ bắt cóc đã bị bắt vài giờ sau đó bởi tín hiệu xe ô tô của mình và nhận tội sau đó. Trước khi đêm xuống, họ đã tìm được cậu bé, bị trói trong một túp lều nhưng hoàn toàn khỏe mạnh.

    Khi hồi tưởng lại vụ án nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phản ứng nhanh, Madeline bùng nổ cơn giận :

    - Khốn thật, người đàn bà ngu ngốc ! Cô cáu tiết đấm vào cửa chiếc Focus. Đợi đến tám ngày để trình báo việc biến mất của con gái ! Tôi sẽ đưa cô ta vào tù, chính tôi !

    Trong bất kì vụ mất tích nào, bốn mươi tám giờ tiếp theo chính là mấu chốt. Nếu, vượt qua thời hạn đó, người ta không thể tìm thấy người mất tích, có khả năng rất lớn là sẽ không bao giờ tìm thấy nữa.

    - Bình tĩnh nào ! Jim yêu cầu trong khi bước ra xa cô. Tôi đã lấy số điện thoại của cô bé. Chúng ta thử xem liệu có thể gọi được không.

    Một lần nữa, Madeline nhìn bức ảnh và cổ họng cô thắt lại. Cô xem Alice như em gái mình, thậm chí như con gái... Giống như Erin, lẽ ra cô đã bị cưỡng hiếp bởi một tên vô lại vào năm mười bảy tuổi, trong khi về nhà từ hộp đêm vào tối thứ bảy, ở băng ghế sau của một chiếc Rover 200.

    Con đang ở đâu ? Cô thì thầm.

    Một điều hiếm khi xảy ra với cô, cô cảm thấy một sự chắc chắn không gì lay chuyển được : Alice vẫn còn sống. Nhưng ngay cả trong trường hợp này, Madeline cũng không muốn có bất kì ảo tưởng nào. Cô bé không thể ở trong một nơi đàng hoàng được. Chắc là trong một cái hầm tối và ẩm ướt của một tên điên nào đó hoặc ở giữa móng vuốt của bọn mafia chuyên bắt cóc phụ nữ trẻ và dắt gái.

    Dù sao đi nữa, một điều là chắc chắn.

    Cô bé phải rất hoảng sợ.

    Một nỗi sợ kinh dị.
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  16. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 13: Ngày sụp đổ

    Mọi người cùng đếm hay chẳng có ai đếm cả.
    Michael CONNELLY

    « Người » cuối cùng nhìn thấy Alice Dixon còn sống lại chính là một cái camera theo dõi. Theo băng video, quay tại chỗ giao nhau tại đường Pickle Cross, người ta nhận thấy một dáng người mảnh khảnh của một cô gái trẻ đang bước xuống xe buýt, với túi xách trên vai. Người ta thấy rõ ràng cô gái rẽ ở góc đường để đi ngược về phía trường của mình. Một quãng đường ít hơn 800 mét. Và rồi... không có gì nữa. Những ngày im lặng, dửng dưng và bí ẩn. Không một ai thấy gì cả, nghe cũng không. Giống như Alice đã bị bốc hơi rồi vậy.

    *

    Giống như tất cả các thành phố lớn ở Anh, Manchester ngập trong hàng ngàn chiếc camera. Từ mười năm nay, một chính sách theo dõi bằng video trên diện rộng được bao phủ mọi ngóc ngách của thành phố. Một công dân có thể được lên hình đến ba trăm lần một ngày. Một phương tiện không có cách gì tránh được để ngăn ngừa tội phạm. Ít nhất, đó là trong bài diễn văn của các chính trị gia, bởi vì, trên thực tế, đó lại là chuyện khác : vì thiếu vốn cần thiết, thường thì công cụ này rất tệ hại. Sáng ngày Alice mất tích, tất cả các máy quét qua khu vực trường học đều bị phá hủy hoặc bị điều chỉnh, hình ảnh chúng cho ra đều rất mờ và không thể sử dụng được...

    *

    Trong những ngày tiếp theo, Madeline huy động 150 cảnh sát để lục lọi khắp các căn hộ, hầm rượu cũng như vườn tược trong bán kính 3 km quanh trường học. Họ lấy lời khai của hàng trăm nhân chứng, xem xét những dấu vết để lại và lần theo đường của một chiếc xe tải nhỏ màu trắng mà nhiều học sinh phát hiện ra.

    *

    Cho rằng mình phải chịu một trách nhiệm nặng nề trong việc mất tích của Alice, Madeline đưa Erin Dixon vào diện theo dõi, thẩm vấn cô đã hơn 20 tiếng đồng hồ. Đối với một cảnh sát, Erin là một con ma cà rồng, hoàn toàn lệ thuộc vào ma túy, có thể làm tất cả cho một liều thuốc, thậm chí là bán con gái mình cho bọn dắt gái. Nhưng cuộc thẩm vấn của cô không mang lại điều gì đáng kể. Theo lời khuyên của luật sư, Erin yêu cầu được sử dụng máy phát hiện nói dối – một trò bá láp chính hiệu – và vượt qua được cuộc kiểm tra. Cô ta tự do thoát khỏi người thẩm vấn và, trước máy quay, bằng những tiếng nấc trong giọng nói, đưa ra những tên có khả năng là kẻ bắt cóc.

    *

    Hệ thống máy tính của sở cảnh sát dễ dàng bị thâm nhập với mật mã máy tính của Alice : HEATHCLIFF, giống như người anh hùng của truyện Les Hauts de Hurlevent, tiểu thuyết yêu thích của cô. Nhưng đáng tiếc thay, việc phân tích ổ cứng cũng như hộp mail của cô không mang đến một bước tiến nào đáng kể.

    *

    Trong khi lần theo nhật kí của Alice, Madeline khám phá ra rằng cô bé có thói quen tìm những công việc và nói dối tuổi của mình. Nhờ vậy mà cô bé kiếm được tiền để mua sách và trả tiền cho những lần sinh hoạt văn hóa của mình. Những tháng gần đây, cô bé làm việc tại Soul Café, một quán bar trên đường Oxford Road trong khu phố đại học. Bị bắt giữ và buộc tội vì đã thuê trẻ vị thành niên, người chủ được loại ra khỏi danh sách kẻ bị tình nghi.

    *

    Ngày 15 tháng 12, những người tìm kiếm lùng sục hơn hai kilômét bên bờ tây của Irk. Những người khác tìm ở ao Rockwel nằm cách trường 400 m. Họ tìm thấy rất nhiều xe hơi, Caddie, Mobilette, hai cái tủ lạnh và nhiều thanh chắn an toàn. Nhưng không có một cơ thể nào.

    *

    Jim xem xét tất cả các cuộc gọi đi và đến trong điện thoại của cô bé. Tất cả những người có tên trong danh sách liên lạc đều được thẩm vấn. Nhưng cuộc thẩm vấn họ cũng chẳng mang lại kết quả gì.

    *

    Noël trôi qua mà cuộc điều tra vẫn không mảy may có một chút tiến triển.

    Madeline bỏ qua kì nghỉ của mình. Cô bắt đầu sử dụng thuốc ngủ để có thể ngủ trong vài giờ.

    Tuy nhiên đó không phải là khởi đầu. Đã nhiều năm rồi từ khi cô làm việc tại khu phố độc địa này. Những năm tháng bạo lực và kinh hoàng trở thành một phần cuộc sống hàng ngày của cô. Những năm tháng mà cô đã thấy rất nhiều tội ác, những cuộc khám nghiệm tử thi và những cuộc theo dõi tội phạm. Cô đã chạm trán những tên giết người, bắt giữ những tên trộm cắp, đối diện với những tên bắt cóc, phá tan những ổ ma túy. Nếu phải đếm lại, có lẽ cô đã đối mặt với hàng chục và hàng chục kẻ giết người. Ba năm trước, thậm chí cô đã đến thật gần với cái chết, trong một cuộc đấu súng tay đôi : một viên đạn .357 Magnum đã sượt qua đầu cô, làm rách một mảng da đầu của cô và để lại một vết sẹo mà cô phải che lại bằng tóc mái.

    Cuộc đời cô, chính là cuộc điều tra.

    Ngay cả khi điều tra thường mang lại ám ảnh, nỗi cô đơn và nguy hiểm thường trực.

    Ngay cả khi cuộc điều tra biến bạn thành con ma đối với bạn bè, gia đình và đồng nghiệp của bạn.

    Nhưng trong tình huống hiện tại thì phải chăng đó chỉ là cái giá phải trả : trở thành một con ma để đi tìm một con ma khác sao ?...

    *

    Vào tháng một, Jim và ê kíp xem xét những cuộc gọi đi đến gần chỗ gửi đồ gần trường học, nơi mà Alice đã đến trước khi mất tích. Tên của họ trùng hợp với những thông tin của cảnh sát. Hơn hai trăm người được xác định, phần lớn là những tội phạm tuổi vị thành niên. Tất cả đều được thẩm vấn, thời gian biểu của họ được kiểm tra, nhà cửa được khám xét. Trong số đó có một người đàn ông năm mươi tuổi, Fletcher Walsh, bị kết án bởi tội hiếp dâm hai mươi năm trước và là chủ của một break blanc...

    *

    Thoạt nhìn, chứng cứ tội phạm của Fletcher Walsh không có gì để nghi ngờ, nhưng trong khi lục lọi gara của hắn, đội cảnh sát đã tìm thấy những dấu máu sau chiếc xe của hắn. Những mẫu thử được gửi đến trung tâm xét nghiệm ở Birmingham và cảnh sát theo dõi Walsh 24/24 trong khi chờ đợi kết quả.


    *

    Ngày 13 tháng 2, người phát ngôn của Manchester Greater Police thông báo kết quả phân tích những mẫu máu tìm thấy tại chỗ của Fletcher Walsh không cho phép xác nhận một cách chắc chắn chúng là của Alice Dixon.

    *

    Sau đó dư luận dần lắng xuống. Lực lượng cảnh sát của cuộc điều tra dần được điều sang những vụ khác. Rốt cuộc vụ án dậm chân tại chỗ.

    *

    Đêm nào cũng vậy, Madeline tiếp tục mơ về Alice và bị ám ảnh bởi ánh mắt của cô bé. Mỗi sáng, cô đều thức dậy với hi vọng có được môt chút chi tiết nhỏ hoặc một phần gì đó mà họ có thể đã bỏ qua.

    Những cộng sự và cấp trên của cô đều xem cô như một cảnh sát sắt đá, nhưng lần này, cô đã đánh mất điều đó. Cô lớn lên trong một hoàn cảnh không chắc chắn, từ một cái khung bảo vệ kiên cố nhưng không loại trừ được một lòng trắc ẩn thật sự. Cô cũng không thể khá hơn khi mà nỗi đau của những nạn nhân có thể trở thành nỗi đau của cô. Một sự gần gũi nguy hiểm, nhưng lại làm cho cô trở nên hiệu quả hơn.

    Đó là điều xảy ra với Alice. Từ ngày đầu tiên, sự mất tích của cô bé đã gây cho cô phiền não. Cô bé này gợi cho cô rất nhiều điều về thời niên thiếu của mình. Một lai lịch không xác minh, một liên kết mơ hồ, một sự ràng buộc sâu thẳm. Một cảm giác mà cô biết đó là sự giày vò, nhưng trái lại cô cũng không tìm cách để chống lại nó.

    Đó không chỉ là một vụ án cá nhân, nó còn hơn thế nữa. Cô tin chắc rằng mình là người duy nhất quan tâm lo lắng đến số phận của cô gái nhỏ. Cảm giác thay thế người mẹ và gánh trên vai trách nhiệm về sự mất tích của cô bé.

    *

    Sự mệt mỏi nhấn chìm cô. Đôi lúc, cô cảm thấy còn tệ hơn cả khi người ta thông báo về cái chết của cô bé, bởi vì cô không ngừng tưởng tượng đến những gì Alice phải gánh chịu. Những hình ảnh bi thảm và ngột ngạt xâm chiếm lấy tâm trí cô.

    Để củng cố niềm tin, cô đã tìm đến một thầy lên đồng. Trong khi chạm vào và xem xét kĩ một bộ đồ của Alice, người này cho rằng cô bé đã chết và cho cả địa chỉ của nơi đang chứa xác cô bé. Madeline huy động một đội tìm kiếm cả khu vực đó. Hoàn toàn không dấu vết.

    *

    Sau khi biết về vụ việc đó, cấp trên cho rằng cô cần phải nghỉ ngơi vài ngày. « Chúng ta cần phải hiểu sự thật trước mắt : Alice Dixon đã mất tích được ba tháng. Đó là một bi kịch, nhưng, vào thời điểm này, cô biết rõ rằng hi vọng tìm thấy cô bé gần như là con số không. Còn rất nhiều những vụ điều tra và những hồ sơ khác đang cần đến cô... »

    *

    Nhưng Madeline cảm thấy mình không thể làm việc được với « những vụ điều tra và những hồ sơ khác ». Cô sẵn sàng làm mọi thứ để níu giữ chút hi vọng nhỏ nhoi có thể tìm thấy Alice.

    *

    Rốt cuộc, cô đã tự đi đến kết quả là đi về phía địa ngục một mình.
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  17. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 14: Kẻ thù thân thuộc



    Chúng ta luôn có sự chọn lựa. Và chúng ta

    cũng là tổng hợp những lựa chọn của chính mình.

    Joseph O'CONNOR

    Madeline đỗ chiếc xe hơi của mình trước Black Swan, hộp đêm thuộc quyền của gia đình Doyle đã từ nhiều thế hệ.

    Cheatam Bridge là một vùng nhỏ với ít hơn mười ngàn dân, nằm cách trung tâm Manchester ba kilômét về hướng đông bắc. Ngày xưa phần lớn người dân là người Ailen, vùng công nghiệp xưa cũ này từng chứng kiến sự nhập cư của người Ấn Độ, người Antille, người Pakistan, người châu Phi và gần đây là người Đông Âu. Sự đa chủng tộc này tạo nên một sự pha trộn giữa các nền văn hóa, nhưng cũng là một trong những nguyên nhân của những cuộc chiến tranh đẫm máu và không ngừng nghỉ. Hoạt động của cảnh sát ở đây rất khó khăn và mức độ tội phạm có thể khiến người ta hốt hoảng.

    Vừa mới bước vào hộp đêm, Madeline đã bị chất vấn bởi một giọng đầy mỉa mai :

    - Chào Maddie ! Cô có biết cô luôn là cái mông bé nhỏ xinh đẹp nhất của tất cả cảnh sát ở Manchester không ?

    Cô xoay người lại và nhận ra ở góc phòng là Danny Doyle, chống cùi chỏ lên quầy bar với một can bia đang hướng về phía cô. Xung quanh hắn là những tên vệ sĩ đang cười sằng sặc vì câu chuyện đùa của hắn.

    - Chào Daniel, cô nói trong khi tiến tới. Đã lâu không gặp.

    Danny « Dub »(1) Doyle là sếp của một trong những băng cướp quyền lực nhất ở Manchester. Người đại diện của một gia tộc đầy tội ác đã ngự trị năm mươi năm tại vương quốc nghèo nàn Cheatam Bridge. Ở tuổi ba mươi bảy, hắn đã trải qua rất nhiều ngày tù tội và hồ sơ hình sự của hắn thì dài như cánh tay vậy : những lần tra tấn, buôn bán ma túy trái phép, đua xe, rửa tiền, dắt gái, xung đột với cảnh sát...

    Danny trên hết là một con người thô bạo, có thể hành hạ trên bàn billard người sếp của băng đảng đối thủ. Với em trai và băng đảng của mình, « Dub » đã hạ sát khoảng hai chục người, đa phần là trong những cuộc tra tấn dã man tàn khốc.

    - Tôi mời cô một ly bia được chứ ? Hắn đề nghị.
    - Tôi muốn một ly rượu bordeaux hơn, Madeline trả lời. Cái kỉ lục Guinness ghê tởm của anh ngày càng chồng chất đấy.

    Một tiếng thì thầm đầy ngạc nhiên phát ra từ người vệ sĩ đứng gần Doyle. Không một ai cho phép mình nói với hắn bằng một giọng như vậy và một phụ nữ thì càng không. Madeline nhìn hội đồng những tay anh chị đó một cách khinh bỉ. Đó là sự pha trộn giữa những con gorila và những cậu trai đã xem Scarface và Le Parrain quá nhiều. Họ luôn tìm cách nhại lại điệu bộ cũng như lời nói đó, nhưng với một sự lố lăng và một giọng điệu sắt như dao, họ không bao giờ tiến đến được một nửa của tầng lớp Corleone.

    Không cao giọng, Danny Doyle hỏi người phục vụ xem có rượu bordeaux không.

    - Rượu bordeaux à ? Dạ không có. Trừ phi... có thể trong những thùng mà Liam mang về từ nước Nga...
    - Đi kiểm tra đi, Doyle ra lệnh.

    Madeline nhìn thẳng vào mắt hắn.

    - Ở đây thật là tối tăm. Chúng ta ra ngoài lần này đi vì hôm nay trời khá đẹp.
    - Tôi sẽ theo cô.

    Danny là một gã phức tạp và khiến người ta khó chịu. Hắn chia sẻ vị trí dẫn đầu băng đảng với em trai song sinh của mình, Jonny, ra đời năm phút sau hắn, nhưng không bao giờ chấp nhận vị trí em út. Chủ nhân của những tội hành hung không thể đoán trước, Jonny bị mắc chứng tâm thần phân lập và đã nhiều lần bị bắt giam, trường hợp của hắn thường là được đưa vào một bệnh viện tâm thần hơn là một nhà giam. Cả hai tên, chính Jonny mới là kẻ khát máu và Madeline luôn nghĩ rằng phần nào đó để duy trì sự thống trị của em trai mình mà Danny mới đưa mình vào vòng xoáy bạo lực này.

    Trong khi họ vào đến sân trong, một gã tóc hung tiến đến với ý định tiếp cận cô cảnh sát trẻ, nhưng Madeline đã ngăn chặn hắn lại :

    - Này, nếu anh đụng vào người tôi thì tôi sẽ chặt anh thành hai mảnh đấy.

    Danny cười nhẹ và đưa tay lên để làm dịu đồng bọn của mình và cho hắn lui ra. Hắn cũng yêu cầu Madeline gỡ bỏ vũ trang của mình ra và đảm bảo rằng cô không giấu một cái nào khác trong lưng hay mắt cá.

    - Đừng có lợi dụng mà sờ soạng tôi !
    - Tôi phải lo hậu sự của mình chứ : nếu một ngày bọn cớm các người muốn hạ sát tôi, thì chính cô sẽ là người được giao cái việc bẩn thỉu đó...

    Dưới một vòm tròn những cây thường xuân, họ ngồi đối mặt nhau tại một cái bàn sắt tráng men.

    - Có lẽ chúng ta sẽ gặp nhau ở Provence hay Italie, Doyce bắt đầu để phá đi không khí ngột ngạt.

    Madeline khẽ run người. Thật không dễ dàng chút nào khi ngồi đối mặt với quỷ dữ.

    Ngoại trừ việc trước khi trở thành quỷ dữ, Danny Doyle đã từng là bạn học tiểu học của cô, và sau này, ở trung học, là người con trai đầu tiên được quyền ôm hôn cô...

    - Tôi đang nghe cô đây, Danny nói và khoanh tay lại.

    Với vóc dáng trung bình, tóc màu nâu, khuôn mặt vuông và nhẵn, Doyle có vẻ như là « quý ông của mọi người ». Madeline biết rằng hắn ngưỡng mộ sự linh hoạt của nhân vật do Kevin Spacey đóng trong phim Usual Suspects. Vận toàn bộ một màu đen, hắn khoác lên người một cách không phô trương bộ đồ Ermenegildo Zegna trị giá hơn 1000 bảng. Khác với hầu hết các cảnh sát, Doyle không hề bị tàn phá bởi những vết sẹo. Hắn cũng có sự quyến rũ của một người đàn ông phong trần.

    - Tôi đến gặp anh vì chuyện của Alice Dixon, Daniel.
    - Cô bé đã mất tích đó hả ?
    - Phải. Chính tôi là người phụ trách điều tra đã ba tháng nay. Anh nắm được thông tin chứ ?

    Doyle lắc đầu.

    - Không, tại sao ?
    - Anh thề với tôi rằng anh không phải là kẻ đứng sau tất cả chuyện này chứ ?
    - Vì lí do gì tôi phải đưa cô bé đó đi ?
    - Để cô bé làm việc, khai thác cô bé...
    - Cô bé chỉ mới mười bốn tuổi !

    Madeline rút trong ví ra tấm ảnh của Alice.

    - Cô bé trông như mười sáu tuổi. Và, cô bé khá là dễ thương, đúng không ? Cô nói trong khi đưa tấm ảnh lại trước mặt hắn. Đừng có nói với tôi là anh sẽ không đụng tới cô bé nhá !

    Doyle không chịu được sự khiêu khích đó. Bằng một động tác nhanh chóng, hắn nắm lấy tóc Madeline, đưa mặt cô lại gần, cách mặt hắn vài centimét và nhìn thẳng vào mắt cô :

    - Cô đang chơi trò gì đây, Maddie ? Tôi có tất cả những khuyết điểm trên đời này, tay tôi dính đầy máu và chỗ của tôi được định sẵn là địa ngục, nhưng tôi KHÔNG BAO GIỜ đụng vào một đứa trẻ !
    - Vậy thì hãy giúp đỡ tôi ! Cô hét lên trong khi cố gắng thoát khỏi hắn.

    Doyce buông tay ra trước khi hỏi một cách khó chịu :

    - Cô muốn tôi làm gì?
    - Anh biết tất cả mọi người trong khu phố này và phân nửa họ nợ anh một cái gì đó. Anh giải quyết những vấn đề giữa hàng xóm, anh bảo vệ những thương nhân, anh thậm chí còn tổ chức những buổi phát quà Noël cho những gia đình khốn khổ nhất...
    - Thì ra tôi cũng có tính cách của Robin Hood nhỉ, Doyle mỉa mai.
    - Anh luôn làm cho người khác cảm thấy biết ơn mình.
    - Đó là điều cơ bản của thương trường...
    - Phải, và tôi muốn anh sử dụng mạng lưới của mình để tìm những thông tin về việc bắt cóc Alice.
    - Thông tin gì ?
    - Những điều mà các nhân chứng không dám nói với cảnh sát.

    Doyle thở hắt ra và suy nghĩ vài giây.

    - Maddie... Cô bé đó đã mất tích ba tháng nay. Cô cũng biết rằng việc tìm ra cô bé là không....
    - Tôi không đến đây để nghe những điều ngu ngốc đó, cô ngăn hắn lại trong khi tiếp tục lời thỉnh cầu của mình. Trong những mối quan hệ của mình anh có biết vài gã làm chính trị và những thương gia. Những người mà, chính họ, cũng nợ anh vì anh đã không gửi cho vợ họ hay gửi lên báo những bức ảnh mà trên đó người ta thấy họ dan díu với gái gọi. Cuối cùng, anh sẽ biết nhiều điều hơn tôi, bởi vì những cô gái đó, chính anh là người trả tiền cho họ...

    Một cái nhếch mép căng thẳng thoáng trên môi của Doyle.

    - Làm sao cô cập nhật chúng đây ?
    - Tôi là cảnh sát, Daniel à. Anh biết rằng điện thoại của anh đã được nghe lén từ nhiều tháng nay.
    - Điện thoại à, tôi có hàng chục cái, hắn tự bào chữa trong khi nhún vai.
    - Chẳng sao cả. Tôi muốn anh dùng những chiếc « cổ trắng » đó để huy động lại ý kiến tập thể.

    Người phục vụ mang ra chai rượu bordeaux mà cuối cùng anh cũng tìm thấy.

    - Cái này đã vừa ý chưa, thưa quý cô ? Hắn hỏi.
    - Một chai từ năm 1989 ! Cô nói trong khi nhìn nhãn hiệu. Chúng ta không thể mở nó được. Đó là một chai rượu thượng hạng !

    Bằng một cái lắc đầu, Doyle ra lệnh cho anh chàng barman phục vụ cho họ hai ly.

    = Nó thuộc về con trai một mụ điếm của Ruskoff, kẻ bây giờ đã yên nghỉ cả sáu chân dưới mồ ! Và đó thật sự là một vinh hạnh cho tôi vì được uống nó để mừng sức khỏe cho hắn.

    Vì không muốn chống lại hắn, Madeline nhấp môi vào ly rượu và canh chừng câu trả lời của Doyle.

    - Nếu tôi giúp cô tìm được cô bé, đổi lại tôi sẽ được gì ?
    - Một sự thỏa mãn cá nhân, sự xá tội của Chúa cho một vài tội của anh, một sự chuộc tội...

    Hắn cười nhẹ.

    - Và nghiêm túc hơn ?

    Để lấy thêm can đảm, Madeline uống một hơi ly rượu. Cô đã chuẩn bị cho cuộc trao đổi này. Doyle không cho không cái gì và chính vì thế mà cô chỉ đến gặp hắn vào những lúc nguy cấp nhất.

    - Ở GMP, một kẻ chỉ điểm đã cho chúng tôi biết về kế hoạch của anh trong vài tuần nay..., cô bắt đầu.

    Doyce lắc đầu.

    - Cô chắc rằng đó là một trong số chúng tôi chứ ? Cô đang lòe tôi.
    - Hắn đã báo cho chúng tôi về việc đánh cắp chiếc xe hòm của Butterfly Bank mà anh đã vạch kế hoạch, vào thứ sáu tuần tới...

    Doyle vẫn thản nhiên.

    - Nếu tôi giúp cô, cô sẽ cho tôi biết tên hắn chứ ?

    Madeline dán người sâu vào chiếc ghế của mình.

    - Dĩ nhiên là không, tôi đã nói với anh mà. Hãy lấy lại sự cân bằng của mình bằng chính những phương tiện của anh.
    - Cô muốn làm tổn hại danh tiếng của mình khi đã đến cầu xin sự giúp đỡ của tôi, nhưng cô cũng chưa sẵn sàng để làm dơ bẩn tay mình đến cùng, đúng không ?
    - Daniel, tôi xin anh... Nếu tôi nói ra tên gã đó, hắn sẽ chết ngay chiều mai.
    - Điều đó thì không có gì phải nghi ngờ, hắn trả lời trong khi nhìn cô bằng một ánh mắt trìu mến lẫn chút trách cứ.

    Họ được liên kết bởi một sợi dây kì lạ. Ngoại trừ cô, không một ai dám gọi hắn là « Daniel » và gần như chắc chắn rằng cô cũng không cho phép nhiều người gọi mình là « Maddie ».

    - Với trường hợp này, không có giải pháp nửa vời, Maddie à. Hoặc là cô lặn xuống để cứu cô bé, hoặc là cô từ chối việc tự làm mình ướt. Tự cô phải chọn lựa thôi.
    - Anh không bao giờ để tôi chọn cả.
    - « Người ta lúc nào cũng phải chọn lựa. Con người là tổng hợp của những sự lựa chọn. » Đó là trong cuốn sách nào ấy nhỉ ? Một trong những cuốn tiểu thuyết mà cô đã gửi cho tôi khi lần đầu tiên tôi vào tù ấy.

    Trước thuộc hạ của mình, Daniel như một kẻ vô học, nhưng lần này không phải như vậy. Trái ngược với người em trai, anh quan tâm đến nghệ thuật và, trước khi bị tống giam, anh đã theo học chuyên ngành kinh tế và quản lý, đầu tiên ở Luân Đôn sau đó là đại học California.

    Madeline lấy từ quần jean của mình ra một mảnh giấy được gấp làm tư và đưa cho Doyle.

    - OK, đây là tên của kẻ chỉ điểm, cô nói.

    Cô đứng dậy để rời khỏi hộp đêm.

    - Ở lại năm phút nữa đi, anh yêu cầu trong khi nắm lấy tay cô.

    Nhưng cô đã gỡ tay anh ra. Và rồi, để giữ cô ở lại thêm một chút, anh lấy trong túi ra một cái bật lửa và đốt cháy mảnh giấy mà không đọc nội dung trên đó.

    - Được rồi, em đã thắng.

    Cô đồng ý ngồi lại và anh lại rót cho cô một ly rượu nữa.

    - Tại sao em lại không đi khỏi cái Manchester chết tiệt này ? Anh hỏi trong khi đốt một điếu thuốc. Lúc nào em cũng nói là e muốn sống ở Paris mà...
    - Còn anh, tại sao anh không đi Mỹ ? Những khu bất động sản và nhà hàng mà anh đã mua ở Los Angeles, anh để chúng làm gì ? Để rửa tiền à ?

    Anh lẩn tránh câu hỏi trong khi nhớ lại :

    - Em đã từng muốn mở một cửa hàng hoa...
    - Còn anh thì nói rằng mình muốn viết những vở nhạc kịch !

    Doyle cười khi nhớ về điều đó. Câu lạc bộ kịch nghệ ở trung học. Năm 1988. Lúc đó anh mười bốn tuổi.

    - Tôi ư, cuốn sách đời tôi đã được viết sẵn trước khi tôi ra đời rồi ! Khi em sinh ra ở Cheatam Bridge và em mang tên Danny Doyle, em không thể chạy trốn khỏi số phận của mình.
    - Tôi tưởng rằng chúng ta luôn được chọn lựa, cô trả lời một cách ranh mãnh.

    Một ánh sáng lóe lên trong ánh nhìn của Doyle, tiếp đó là một nụ cười thẳng thắn thay đổi trong phút chốc gương mặt anh, mang lại cho anh một vẻ rất dễ gần. Thật khó để tưởng tượng rằng, cũng chính người đàn ông đó, một tháng trước đây, đã chặt đứt bằng dao rựa hai tay và hai chân của một người Ukraina vì đã tìm cách vượt qua anh. Cô biết rằng cái xấu và cái tốt luôn tồn tại song song trong mỗi con người. Rằng một vài người, do lựa chọn hay ép buộc, phải thể hiện cái xấu trong người họ. Vào lúc này, cô tự hỏi Daniel sẽ là người như thế nào nếu anh thể hiện mặt tốt của mình thay vì chọn con đường chạy trốn mà phía trước toàn là thảm họa.

    Trong hai hay ba giây thời gian như ngừng lại. Hai hay ba giây mà họ thấy như mình vẫn đang mười lăm tuổi. Lúc mà họ cười với nhau. Lúc mà Daniel vẫn chưa giết hại ai. Lúc mà cô vẫn chưa là cảnh sát. Lúc mà Alice vẫn chưa mất tích. Hai hay ba giây mà cuộc sống vẫn còn tràn đầy hứa hẹn.

    *

    Hai hay ba giây...

    *

    Rồi một trong những tay vệ sĩ bước ra hàng hiên và sự quyến rũ chết người ngay lập tức biến mất.

    - Chúng ta phải đi thôi, thưa cậu chủ, nếu không ta sẽ để vuột mất tay người Jamaica kia.
    - Tôi sẽ gặp cậu trong xe.

    Daniel uống cạn ly rượu và đứng dậy.

    - Em có thể tin vào tôi, Maddie, nhưng có thể đây là lần cuối cùng chúng ta gặp nhau.
    Tại sao ?
    - Bởi vì không lâu nữa tôi sẽ chết.

    Cô nhún vai.

    - Anh đã nói thế hàng năm trời rồi.

    Doyle chớp mắt một cách chán nản.

    - Lần này, tất cả đều muốn lột da tôi : người Nga, người Albani, cảnh sát, OFAC(2), bọn đầu sỏ mới của khu vực không coi ai ra gì...
    - Anh luôn biết là mọi thứ sẽ kết thúc như thế, không phải sao ?
    - Sớm hay muộn thôi, anh nói trong khi đưa lại cô vũ khí.

    Rồi anh nhìn cô một lần cuối và những lời nói anh chưa hề chuẩn bị trước đột nhiên được thốt ra từ miệng anh :

    - Nụ hôn của chúng ta... Tôi vẫn thường hay nghĩ về nó.

    Cô cụp mắt xuống.

    - Đã hơn hai mươi năm rồi, Daniel.
    - Đúng vậy, nhưng tôi muốn em biết rằng kỉ niệm đó sẽ theo tôi đến suốt đời và tôi sẽ không bao giờ hối tiếc về nó.

    Đến lượt cô, cô nhìn anh. Thật khó để lắng nghe, thật khó để chấp nhận. Có lẽ có chút gì đó không phải, nhưng thế giới không phải toàn là màu trắng hay đen nhưng sự chân thật đã làm cô nhận ra :

    - Tôi cũng vậy, Daniel, tôi cũng không hối tiếc về điều đó.

    (1) Dub : cách viết khác của Dubh, tên tiếng Ailen có nghĩa là đen tối
    (2) Office of Foreign Assets Control : một nhánh của Hiệp hội tài sản Mỹ chuyên chống lại nạn rửa tiền.
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  18. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 15: The girl who wasn't there




    Cô ấy không biết rằng Địa ngục, đó chính là

    sự thiếu vắng.

    Paul VERLAINE

    Tuần lễ tiếp theo sau cuộc gặp gỡ giữa Madeline và Danny, những nhân chứng mới « tự nhiên » xuất hiện tại sở cảnh sát, cho phép khởi động lại việc theo dấu chiếc xe tải màu trắng. Ít nhất ba người khẳng định rằng đã thấy một cô bé tóc vàng khoảng mười lăm tuổi trong một chiếc xe chuyên dụng giống như của thợ đặt ống nước hay thợ điện.

    Những nhân chứng đó cho phép tạo nên một chân dung « người máy » của một người Albani, từ 30 đến 40 tuổi, và người đại diện của Crown Prosecution Service đồng ý phát lệnh truy nã trên diện rộng.

    *

    Một cách bí mật, Doyle lập một trang web, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, thành lập một tổ chức quyên góp để lấy vốn chi cho hàng trăm panô ở khắp các ga tàu, trạm xe buýt và những gian hàng trên toàn bộ nước Anh.

    *

    Ngày 21 tháng ba, ở Twickenham, tại Cuộc tranh tài của Sáu Quốc Gia, người ta đã phát 82000 phiếu tìm người cho khán giả của trận đấu bóng bầu dục Anh-Écosse.

    Tại Rebelote ngày 7 tháng tư, trong trận bán kết của giải Ligue des Champions giữa Manchester United và FC Porto : chân dung của Alice được chiếu trong vòng một phút trên các màn hình lớn của sân Old Trafford trước bảy mươi ngàn người và hàng trăm triệu khán giả xem truyền hình.

    *

    Từ đó, những nhân chứng tỏ ra hoàn toàn nhất quán.

    Sở cảnh sát nhận được hàng tá cuộc gọi của những kẻ loạn óc và những kẻ phá hoại, nhưng những bước tiến mới cũng dần được nâng cao : một bác sĩ khẳng định rằng đã nhìn thấy Alice vào ngày cô bé mất tích trên tàu Eurostar đến Bruxelles. Một cô gái nói rằng đã từng « làm việc » cùng Alice ở khu phố De Wallen, khu đèn đỏ của Amsterdam, nơi nổi tiếng với những sex-shop, peep-show và những cô gái « trong lồng kính ». Một người thề rằng đã từng ở chung nhà với cô ở Soho. Một người lái xe tải chắc chắn rằng đã nhìn thấy cô bé trong một chiếc Mercedes màu đen trên một đường cao tốc ở Phần Lan. Một khách du lịch gửi cho cảnh sát một bức ảnh chụp gần hồ bơi của một khách sạn sang trọng ở Thái Lan, nơi mà người ta thấy một cô bé giống Alice như hai giọt nước. Cô bé đi cùng một người đàn ông lớn tuổi. Tấm ảnh được phát tán trên Internet và được nghiên cứu bởi các chuyên gia, nhưng kết quả đó không mang lại bước tiến gì mới.

    *

    Trong một bức thư nặc danh, một kẻ mất trí tự nhận mình đã bắt cóc, hành hạ và giết chết cô bé, nhưng hắn để lại quá nhiều dấu vết để cảnh sát có thể tìm ra ngay trong ngày. Người ta nhanh chóng nhận ra rằng hắn ta đang bị tống giam vào thời điểm Alice mất tích.

    *

    Ngày 12 tháng tư, ở tầng hầm thứ ba của một bãi đỗ xe ở Moss Side, người ta tìm thấy xác của Liam Kilroy, bị đánh chết bởi một cây gậy bóng chày. Người được biết đến như một trong những thuộc hạ của Danny « Dub » Doyle. Cái chết này không là một vụ án của cảnh sát, vì hắn cũng chính là tay chỉ điểm và đầu mối chính để hạ gục tên đầu sỏ của Manchester.

    *

    Madeline đã không ngủ vào đêm hôm đó.
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  19. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 16: Chiếc hộp

    Ai nhúng tay mình vào máu sẽ phải rửa chúng bằng nước mắt.

    Ngạn ngữ Đức


    Ngày 15 tháng 6, một chiếc hộp kì lạ được gửi đến sở cảnh sát của Cheatam Bridge.

    Nó được gửi cho Trung úy Madeline Greene, người chịu trách nhiệm của vụ án Alice Dixon.

    Đó là một chiếc hộp kín bằng nhựa giống như thứ người ta vẫn hay dùng để đựng nước đá khi đi cắm trại. Madeline mở chiếc hộp ra : nó được phủ bởi những viên nước đá. Cô gạt chúng ra bằng tay. Lớp đầu tiên có màu trăng trắng, nhưng khi cô càng mở sâu hơn, một dòng chất lỏng màu đỏ chảy lên trên lớp nước đá. Khi cô nhận ra đó là máu, nhịp tim của cô như ngừng lại. Cô cố gắng để không tỏ ra sợ hãi và ngừng lại một chút trước khi tiếp tục xem xét chiếc hộp. Ở dưới đáy có một... mẩu thịt được để đông lạnh một nửa và cô nhìn nó với một vẻ ghê tởm. Và cô hiểu ra ngay đó là bộ phận nào.

    Một trái tim bị chặt một cách thô bạo.

    Một trái tim con người.

    Trái tim của Alice.

    *

    Lúc đó, phòng thí nghiệm của Birmingham đã được trang bị đầy đủ các thiết bị và chỉ cần vài giờ để xác minh những mẫu trích từ trái tim đông lạnh đó phù hợp với mẫu ADN được lấy từ tóc của Alice.

    Hiện tại, không còn gì để nghi ngờ.

    Alice đã chết.

    *

    Ngày hôm đó, một cái gì đó như vỡ vụn ra trong lòng Madeline. Cô trở về nhà như một người mộng du, uống thêm nhiều ly whisky và hai viên thuốc an thần. Ngày hôm sau, cô không đến làm việc, và cả những ngày tiếp theo nữa. Trong ba tuần, cô nằm lả đi trên giường, trong một trạng thái bơ phờ, ngập chìm trong rượu và thuốc. Sự thật đối với cô quá tàn nhẫn. Không còn gì là quan trọng nữa. Ngay cả việc bắt giữ kẻ đứng sau tội ác này. Cô trở nên lúng túng, hoàn toàn không có khả năng hoạch định tương lai, sẵn sàng nhấn nút « Off » cho cuộc đời mình.

    *

    Ngày 19 tháng 6, tờ Sun thông báo rằng Erin Dixon đã liên lạc với một tổ chức sản xuất chương trình và ả đã nhận được 50000 bảng để đưa câu chuyện về sự mất tích và bị giết hại của con gái mình lên truyền hình.

    *

    Ngày 26 tháng 6, trong một cuộc kiểm tra đường bộ thông thường, cảnh sát của Merseyside đã bắt giữ một tên Harald Bishop nào đó. Trong trạng thái say rượu, hắn vận chuyển một xe dụng cụ chứa đầy các vật có lưỡi dính đầy máu. Đầu tiên hắn khai rằng mình đã giết một con lợn lòi mà hắn đã đánh ngã trong khu rừng Bowland. Nhưng hành tung của hắn thì rối loạn và đáng nghi. Hắn bị thẩm vấn và bị đưa vào nhà giam để làm cho tỉnh rượu tại sở cảnh sát nhỏ ở Prescot. Ngay khi cuộc theo dõi bắt đầu, những cảnh sát không có gì để nghi ngờ rằng trước mắt họ chính là kẻ đã được báo chí nhiều năm vừa qua đặt cho biệt danh « Gã săn thịt của Liverpool ».

    Trong cuộc thẩm vấn, Bishop thú nhận đã giết hai mươi người gồm phụ nữ trẻ và trẻ em gái vị thành niên và cũng bằng đó những cuộc tra tấn trong khoảng thời gian từ năm 2001 đến năm 2009.

    Sự ngạc nhiên bao trùm. Một cuộc kiểm tra nồng độ cồn đơn giản đã có thể cho phép bắt giữ một trong những kẻ gây tội ác hàng loạt kinh khủng nhất của nước Anh. Hàng chục vụ giết người cũng như những vụ bắt cóc nan giải từ mười năm nay ngay lập tức tìm được hướng giải quyết.

    Lời thú tội của Harald Bishop diễn ra suốt đêm. Đến rạng sáng, người cuối cùng hắn thừa nhận mình đã giết chính là Alice Dixon. Hắn nói rằng đã vứt xác của cô bé xuống sông Mersey sau khi gửi trái tim đến sở cảnh sát Manchester.

    *

    Vụ án được lên trang nhất của nhiều tờ báo trong nhiều tuần. Bishop bị thẩm vấn hàng chục lần, nhưng trí nhớ của hắn đã giảm đi nhiều, thường xuyên nhầm lẫn ngày tháng và mập mờ trong cách thức gây án của một vài vụ. Trong khi khám soát chỗ ở của hắn, những nhân viên điều tra tìm thấy rất nhiều phần còn lại của các thân thể đến nỗi người ta không thể nhận dạng một cách chính xác.

    *

    Ngày 7 tháng 7, vào giữa đêm, Madeline Greene treo sợi dây phơi đồ lên cái xà chìa ra từ gác của ngôi nhà.

    Điều này cần phải được dừng lại.

    Với phần whisky còn lại, cô nuốt tất cả chỗ thuốc mà cô có trong tay, phần lớn là thuốc ngủ và thuốc an thần. Rồi cô bước lên một chiếc ghế, nắm lấy sợi dây để tạo thành một nút thắt. Cô đưa đầu vào đó và siết chặt chỗ thắt.

    Điều này cần phải được dừng lại.

    Đã một tháng nay, những hình ảnh kinh dị đó xâm chiếm tâm trí cô. Những hình ảnh không thể chịu đựng nổi không cho cô được một chút ngơi nghỉ. Những hình ảnh gợi cho cô những điều ghê tởm mà Alice đã phải chịu đựng.

    Điều này cần phải được dừng lại.
    Điều này cần phải được dừng lại.

    *

    Và rồi, cô nhảy xuống.
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  20. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 17: Hoa lan đen



    Một mình […] Tôi lúc nào cũng một mình / dù có điều gì xảy ra.

    Marilyn MONROE

    San Francisco

    Sáng thứ hai

    Ngày mới vừa lên trên đồi Telegraph Hill. Những tia nắng mặt trời đầu tiên phản chiếu qua bề mặt của tủ lạnh, làm cho nhà bếp tối mờ ngay lập tức được chiếu sáng. Bị chói bởi ánh nắng, Jonathan đưa tay lên che mặt.

    Trời đã sáng rồi...

    Kiệt sức vì thức trắng đêm bên màn hình máy tính, anh xoa xoa mí mắt. Mắt anh như mờ đi, tai anh thì kêu ong ong, còn trí óc anh thì ngập tràn sự khiếp sợ.

    Anh đứng dậy một cách khó nhọc, mở chiếc máy pha cà phê, nhưng, giống như một vận động viên đấm box sau một loạt cú đánh, anh dừng lại một lúc lâu không phản ứng, ánh nhìn trống rỗng, sau cú sốc từ những câu chuyện tăm tối đó. Anh khẽ run người ; bóng ma của Alice, theo sau là bóng của Madeline, vẫn còn phảng phất đâu đó trong phòng. Trong tâm trí anh, mọi thứ đều rối tung lên, vụ án giết người điên rồ của Kẻ giết thịt ở Liverpool, sự khốn khổ ở Cheatam Bridge, sự trả thù của những gã nghiện, sự nhập nhằng của Danny Doyle, máu, nước mắt, cái chết,... Bỏ qua sự ghê sợ đó, anh chỉ có duy nhất một mong muốn : trở lại máy tính để tiếp tục xem xét những tư liệu mà anh vẫn chưa mở đến. Nhưng Charly sẽ sớm dậy thôi, và trước khi chuẩn bị bữa sáng cho con trai, anh cần phải tắm rửa để tẩy đi những chuyện điên rồ này. Anh đứng im một hồi dưới những tia nước bắn ra từ vòi sen, bôi sữa tắm lên khắp da thịt như để gột rửa những hình ảnh của cơn ác mộng đang bám chặt lấy tâm trí anh. Những câu hỏi ám ảnh giày vò anh và liên tục trở lại trong đầu anh. Điều tàn bạo nào mà Bishop đã bắt cô bé xấu số kia phải chịu đựng trước khi bị giết ? Hắn có khai điều gì khác về Alice không ? Madeline liệu có một lần nữa đi cùng con đường với Danny, và trên hết, bằng cách nào cô cảnh sát tận tâm của Manchester lại trở thành một cô gái bán hoa hiền lành ở Paris ?

    *

    Paris, quận 16
    10 giờ sáng

    Madeline đỗ chiếc xe Triumph của mình vào chỗ dành riêng cho xe hai bánh ở đầu đại lộ Victor Hugo. Cô cởi chiếc nón bảo hiểm, chỉnh lại tóc và đẩy cánh cửa của L'Aiglon, một quán bia truyền thống với dáng vẻ bình dân trông như lạc điệu với khu phố quý tộc kia. Cô ngồi vào chiếc bàn đầu tiên gần cửa sổ. Từ đây, cô có thể trông thấy được Café Fanfan, nhà hàng của George LaTulip với biển hiệu danh dự ở phía bên kia đường. Cô gọi một tách trà, một chiếc bánh croissant, lấy chiếc máy tính xách tay ra khỏi túi và...

    Mình tìm cái gì ở đây nhỉ ?

    Được đặt bởi nửa cái đầu còn lại, câu hỏi đó làm cô bối rối. Tại sao cô lại đột nhiên bước ra khỏi đường ray quen thuộc của cuộc đời mình ? Chỗ của cô là ở cửa hàng, với Takumi và những khách hàng. Không phải ở trong góc khuất tại một nhà hàng của những người mà cô không hề quen biết.

    Cô không còn trong ngành cảnh sát nữa, người bạn à ! Cô không còn trong ngành cảnh sát nữa ! Cô lập lại để tự thuyết phục mình. Nhưng có bao giờ người ta tránh xa được một nghề nghiệp như thế này không ?

    Vài phút sau, cô chọn cách bỏ qua việc hợp lí hóa cách xử sự của mình. Cô lấy trong túi ra bài báo chỉ ra mối quan hệ giữa George và Francesca.

    Động não đi nào ! Cô tự nhủ trong khi mở nó ra trên bàn.

    Một lần nữa, cô xem xét chi tiết các bức ảnh, những bằng chứng không thể chối cãi về việc ngoại tình của Francesca. Có cái gì đó không phù hợp trong những bức ảnh này. Chúng có vẻ như quá là nghệ thuật. Là một cựu người mẫu, Francesca luôn biết cách diễn trước ống kính và đùa giỡn với ánh đèn flash. Trong khi chuỗi các bức ảnh này có thể được xem như một tác phẩm của một tay paparazzi, thì ngược lại Madeline lại có một niềm tin rằng, thay vì bị chụp trộm, chúng nằm trong một kế hoạch được dàn dựng một cách tỉ mỉ.

    Nhưng bởi ai ? Và với mục đích gì ?

    Cô ăn chiếc bánh sừng trâu của mình trong khi kết nối vào Internet. Trên trang web về nhà hàng, cô dễ dàng tìm thấy số điện thoại của Café Fanfan. Cô gọi và xin được nói chuyện với George, nhưng người ta trả lời rằng ông LaTulip không ở đó trước mười một giờ. Cô tận dụng khoảng thời gian đó để tìm hiểu sâu hơn. Trang web chính là hình ảnh của nhà hàng : hiện đại và sang trọng. Khi nhìn vào phần doanh nghiệp, người ta có thể thấy nơi đây thuộc quyền sở hữu của tập đoàn khách sạn sang trọng Win Entertainment.6n

    Tập đoàn đã mua lại toàn bộ những hoạt động của Lempereur...

    Trong thực đơn, mà giá cả thì vô cùng đắt đỏ, cô nhận ra một vài món trong số những công thức tạo nên danh tiếng của Jonathan. George không chỉ cướp đi vợ của anh, mà thậm chí là những công thức nổi tiếng nhất của anh !

    Thật bất công...

    Madeline lại một lần nữa tìm kiếm về George LaTulip, và lần này cô hạ cánh đến một blog về... lặn. Nhìn sơ qua, có thể LaTulip là một người có đam mê với những hình ảnh dưới đại dương. Được cập nhật một cách hoàn hảo, trang blog như một lăng kính tái hiện lại những chuyến du lịch khác nhau của anh và giới thiệu hàng trăm bức ảnh tuyệt đẹp về những con cá đủ màu sắc, những con rùa khổng lồ và những loại san hô màu sắc rực rỡ. LaTulip khám phá thế giới đã nhiều năm rồi. Anh đã từng lặn ở Belize, Hawaii, Zanzibar, Maldives, Brasil, Mexico... Tất cả đều được sắp xếp, phân loại và bình luận. Trong khi dạo qua các trang web, Madeline dừng lại trước một bức ảnh về một con cá mập da báo tuyệt đẹp. Theo lời dẫn, bức ảnh được chụp tại Maldives, ngày 29 tháng 12 năm 2009. Ngày tháng đó đã kích thích giác quan của cô cựu cảnh sát. Theo báo chí, những bức ảnh với Francesca được chụp vào ngày 28 tháng 12 năm 2009. Chúng được chụp tại một bãi biển ở Naussau, Bahamas. Ngoại trử việc Maldives và Bahamas ở cách nhau ít nhất 15 ngàn kilômét, ở hai đầu trái ngược của địa cầu... Nối liền hai nơi này bằng một chuyến bay ít hơn hai ngày, việc đó chắn chắn là có thể, nhưng sẽ khó khăn vì sẽ có rất nhiều điểm quá cảnh. Cho rằng mình đã tìm được một cái gì đó, cô tiếp tục làm theo trực giác của mình. Trong khi xem hết trang này đến trang nọ, cô nhận thấy rằng không có chuyến đi nào của LaTulip kéo dài ít hơn một tuần. Điều này là hợp lí khi người ta đi đến tận cùng thế giới để lặn... Nhưng chuyến đi đến Maldives chỉ kéo dài có hai ngày. Mọi thứ dẫn đến suy nghĩ rằng George đã bất ngờ cắt đứt kì nghỉ của mình để đến gặp Francesca.

    Madeline cảm nhận được một vết thương đang cồn cào trong bụng cô. Một sự thiêu đốt đầy kích thích và mạnh mẽ, một sự rùng mình luôn thể hiện ở cô khi khám phá được một bí ẩn trong cuộc điều tra. Cô không còn là cảnh sát NỮA, một giọng nói bên trong cô lặp lại.

    Nhưng cô đã lựa chọn không nghe nó và, thỏa mãn với khám phá của mình, cô bước ra ngoài vài phút để châm một điếu thuốc.

    *

    San Francisco

    - Chào ba.
    - Chào anh bạn của ba, Jonathan nói trong khi nâng Charly lên bằng tay để ôm hôn cậu bé trước khi đặt cậu ngồi xuống một chiếc ghế cao trong nhà bếp.

    Cậu bé chớp mắt và cúi đầu xuống cốc sôcôla nóng hổi của mình. Jonathan làm cho cậu bé một chiếc bánh mì bơ với một ít mật ong. Charly cảm ơn anh và hỏi liệu cậu bé có được xem phim hoạt hình trên màn hình nhỏ không. Sáng nay, Jonathan có lý do chính đáng để tiết kiệm những lời quở trách dai dẳng của mình.

    - Tất nhiên rồi, con trai., anh nói trong khi mở thiết bị bằng điều khiển.

    Charly xích lại gần hơn. Jonathan tận dụng lúc con trai anh đang bị cuốn theo Bob l'Éponge để trở lại bên máy tính và tiếp tục khám phá « hồ sơ Dixon ».

    Trong số những tài liệu mà anh chưa xem qua có một tập tin video được nén lại, anh mở nó sau khi đã mang tai nghe vào. Hình ảnh có chất lượng không được tốt cho lắm. Chắc chắn nó được quay bởi một chiếc điện thoại hay máy quay vào giữa những năm 2000. Tuy nhiên âm thanh thì có thể nghe được.

    Ngay từ đầu, người ta có thể nhận thấy Madeline, đôi mắt nhắm kín. Đang ngủ trên một chiếc giường trong bệnh viện, cô có vẻ như vẫn còn trong trạng thái hôn mê hay ít nhất là đang ngủ rất sâu. Rồi người cầm « máy quay » đặt nó lên bàn và tự quay mình. Đó là một người tóc nâu, rắn rỏi, khuôn mặt vuông vắn, với ánh nhìn u tối và mệt mỏi.

    - Lần này, em phải tự vượt qua thôi, Maddie..., anh ta bắt đầu bằng một giọng không cảm xúc.

    Jonathan ngay lập tức hiểu ra rằng đó chính là Danny Doyle...

    *

    Paris

    Chiếc Porsche Panamera dừng lại ngay trước nhà hàng khoảng hơn 11h30. George LaTulip bước ra khỏi xe và đưa chìa khóa cho người giữ xe.

    Ngồi ngay sau cửa kính của tiệm café, Madeline chớp mắt để nhìn anh ta rõ hơn. Anh ta có vẻ già hơn so với những bức ảnh, nhưng trông vẫn rất phong độ : dáng vẻ chỉn chu, thân hình thể thao. Hai bên thái dương đã lấm tấm bạc, chắc rồi, nhưng vẫn chưa đủ để người ta có thể gọi là « đẹp lão ».

    Cô quyết định vẫn ngồi chờ và quan sát anh ta. Theo như giờ mà anh ta đến nhà hàng, George chắc sẽ tập trung cho quan hệ công chúng nhiều hơn là cho nhà bếp của mình. Cô bị thuyết phục rằng chắc chắn anh ta sẽ không làm chậm công việc của mình cho đến khi hết giờ phục vụ.

    Giờ ăn trưa càng đến gần, Aiglon – quán café nhỏ mà cô đang ẩn náu – ngày càng đông. Bà chủ hỏi cô có muốn dùng thêm gì không, và cô gọi ngay một món để không bị mất chỗ quan sát này. Cô gọi món ăn đặc biệt của ngày. Thực đơn không bằng của nhà hàng đối diện, nhưng cô đói đến mức có thể nuốt trọn chiếc « xúc xích Toulouse kèm húng tây và hành tây caramel » chỉ sau vài lần nhai.

    Đây rồi, cô lại hướng về phía khoảng sân : nơi ẩn nấp, sự theo dõi, sự phỏng đoán, những bữa ăn vội vàng... Tuy cô cho rằng mình đã tìm thấy được điều gì đó, nhưng những ý nghĩ xưa cũ lại nhanh chóng ùa về. Cô đang tìm cách chứng minh điều gì ? Rằng cô vẫn chưa đánh mất sự nhạy bén ? Rằng cô vẫn còn khả năng gỡ những nút thắt của một bí ẩn ?

    Điều đó làm cô vừa thích thú vừa khiếp sợ. Đã hơn hai năm nay, cô luôn tìm cách để xóa bỏ quá khứ của mình, và ngày hôm nay cô sợ nó sẽ lại nổi dậy, giống như một con quỷ dữ trong chiếc hộp của cô vậy. Cô như một tay nghiện rượu hay ma túy : không bao giờ được chữa khỏi hoàn toàn, dễ dàng bị nghiện lại chỉ với một chút kích thích.

    Khi quá khứ được gợi lại, nước mắt bắt đầu rơi trên mắt cô. Kiềm chế nỗi đau từ xa. Nhất là không được nghĩ về Alice. Cuộc điều tra cuối cùng đã đẩy cô đến đáy vực thẳm. Cô đã tỉnh lại trong bệnh viện sau hai ngày hôn mê vì tự tử không thành. Khi cô mở mắt ra, cô thấy chiếc điện thoại đang nằm trong tay mình. Vẫn còn chưa tỉnh hẳn, cô nhìn vào màn hình mà không hiểu gì. Trên chiếc bàn nhỏ, bên cạnh một bó hoa violet có một phong bì trong đó là một tấm card visit :

    « Người ta luôn có sự lựa chọn »

    Em hãy bảo trọng

    Daniel

    Cô nhìn lại điện thoại của mình và nhận thấy rằng ai đó đã dùng nó để quay phim. Khi cô bật đoạn phim đã lưu, khuôn mặt của Danny xuất hiện trên màn hình. Cô chưa bao giờ trông thấy anh mệt mỏi và thậm chí là « người » như vậy :

    - Lần này, em phải tự vượt qua thôi, Maddie..., anh ta bắt đầu bằng một giọng không cảm xúc.

    *

    "Lần này, em phải tự vượt qua thôi, Maddie, nhưng lần này không giống những lần khác. Anh hiểu những cảnh sát : họ không quá khác so với những kẻ như anh. Anh biết rằng đến cuối cùng phần lớn đều đi theo con đường không mấy tốt đẹp : con đường chìm sâu trong bóng tối, bạo lực, sự chịu đựng, những nỗi ám ảnh, cái chết...

    Anh biết rằng em đi ngủ với súng của mình. Anh biết rằng em đã quen với nỗi sợ hãi. Anh biết rằng đêm nào của em cũng bị xáo động, bị quấy rầy bởi những bóng ma, xác chết và quỷ dữ. Anh biết sự quyết đoán của em, nhưng anh cũng biết cả phần đen tối đó trong em. Em đã mang nó từ khi còn học trung học và công việc của em bây giờ chỉ làm mở rộng nó ra thêm thôi. Nhưng chính nó cũng đã biến em thành một cái xác không hồn. Em đã đánh mất sự trong sáng của mình, sự tươi trẻ và ánh sáng của mình. Từ đây, ánh sáng duy nhất có thể lóe lên trong em chỉ là ánh sáng của sự vây dồn. Từ sâu thắm, em không khác mấy so với mẹ của cô bé, người đang bị lệ thuộc vào ma túy. Em đã trở thành một kẻ bất nhân, một kẻ thường dùng ma túy luôn tìm mọi cách để lấy được liều thuốc cho mình. Đó là mục tiêu, đích đến, ý nghĩa của cuộc đời em. Chính từ đây em tự làm đau mình và ngày càng lún sâu hơn..."

    Danny ngừng lại, có vẻ như đang tìm những từ ngữ trong khi châm một điếu thuốc. Anh đang ở trong bệnh viện, nơi mà hút thuốc là một việc hoàn toàn cấm kỵ, nhưng nếu cái luật đó chỉ áp dụng với những người chết, thì nó không liên quan gì đến Doyle.

    "Em đang khao khát sự thật, anh tiếp tục, nhưng cuộc tìm kiếm sự tuyệt đối đó đang gậm nhấm em và không bao giờ dừng lại được. Sau Alice, sẽ có những cái chết khác, những cuộc điều tra khác, những tội ác khác lại tiếp diễn... Và mỗi lần như vậy, em lại càng cảm nhận được nỗi u sầu, cô đơn và hoang mang. Em muốn săn đuổi cái Ác, nhưng cái Ác không có gì phải chạy trốn em cả. Nó sẽ hủy hoại em và để em lại một mình, đó là tất cả. Cái Ác luôn chiến thắng vào phút cuối cùng, tin anh đi...

    Em đang đi qua cuộc đời mình, Maddie. Em cần phải thoát ra khỏi quả cầu này trước khi ngã vào một vực thẳm mà em sẽ không thể trở lại được nữa.

    Anh không muốn em tồn tại như thế. Anh không muốn em tự để mình bị nghiền nát.

    Hãy đi khỏi đây, Maddie. Hãy đi khỏi cái thành phố khốn nạn này. Hãy thực hiện ước mơ của em. Đến Paris đi. Hãy mở một cửa hàng hoa mà em đã nói từ rất lâu rồi ! Đừng để nó chỉ là ảo tưởng. Em thậm chí đã đặt cho nó một cái tên, anh còn nhớ mà... Là gì nhỉ ? Tựa đề của một bài hát nhạc Pháp xưa cũ, anh nhớ vậy : Khu vườn kì diệu..."

    Câu nói được để ngỏ. Danny cởi một chiếc nút áo sơ mi và rít vài hơi thuốc trong khi hướng mắt ra khỏi điện thoại. Anh chớp mắt, thở hắt ra, tìm kiếm cái gì đó để thêm vào, đưa tay lại gần điện thoại định tắt đi nhưng rồi lại đổi ý. Anh có dáng vẻ của một người đang tuyệt vọng. Một giọt nước mắt mệt mỏi làm anh ngạc nhiên và chảy dài xuống má anh. Anh chùi nó một cách vụng về, giống như trẻ con vậy. Cuối cùng, anh thì thầm :

    "Anh yêu em."

    Rồi hình ảnh vụt tắt.

    Và Madeline cảm thấy theo bản năng rằng Danny đã chết.

    Từ giường bệnh của mình, cô nhìn bó hoa violet rồi lại nhìn lần nữa tấm card visit. Trong khi lật nó lại, cô nhận thấy một dãy số. Một số điện thoại mà cô bấm một cách mơ hồ. Đó là của một ngân hàng, ở Thụy Sĩ. Cô nói tên mình và họ cho biết có một tài khoản được mở dưới tên cô và trong đó là 300 000 euros.

    *

    San Francisco

    Hình ảnh vụt tắt.

    Trong vòng vài giây, Jonathan vẫn còn sửng sốt trước màn hình, xúc động và có một sự ngưỡng mộ đối với gã vô dụng này.

    Tên Danny Doyle này... Một gã thật nực cười...

    Anh ta đã ra sao hai năm rưỡi nay ?

    Trong thời đại đáng sợ của chúng ta, phần lớn câu hỏi đều nhanh chóng được tìm thấy trên Internet và, lần này cũng vậy, Google mang đến cho anh một câu trả lời gần như tức thì.

    Khám phá rùng rợn ở Manchester

    Bài báo được đăng ngày 10 tháng 7 năm 2009. Một hay hai ngày sau khi ghi lại đoạn phim. Danny không nói dối : anh ta biết mình đang cận kề cái chết. Nhà báo giải thích rằng xác của người đứng đầu bọn tội phạm Danny « Dub » Doyle đã được tìm thấy với tay và chân bị chặt đứt, còn tất cả các răng đều được kẹp lại. Băng đảng Ukraina rõ ràng đã trả thù một cách thích đáng...

    Tin vừa mới đọc được này làm anh thấy lạnh sống lưng. Jonathan trở lại bàn làm việc. Chỉ còn một tập tin anh phải mở nữa thôi. Một tập tin JPG : một hình ảnh. Anh rê chuột, click vào tập tin, và máu anh đông cứng lại.

    *

    Paris
    Đại lộ Victor-Hugo

    George LaTulip rời khỏi nhà hàng khoảng gần 14 giờ. Ngay lập tức, Madeline nhảy lên chiếc môtô của mình và bám sát theo để không bị mất dấu anh ta. Cô theo anh ta đến đường Clément-Marot, ở giữa Tam giác vàng. Chiếc Porsche đỗ lại vài giây trước một hãng môi giới nhà đất sang trọng. Người phụ nữ trẻ chui vào xe anh và ôm anh một cách cuồng nhiệt. Chắc chắn là một nhân viên của hãng. Cao lớn, tóc vàng, trẻ, váy ngắn và có vẻ là người Slave. Dáng vẻ đủ để thuyết phục một khách hàng giàu sang mua những ngôi nhà ba bốn triệu euros. Chiếc xe rời khỏi quận 8 để hướng về bờ bên trái và đến bãi đỗ xe của một trường Y. Tay trong tay, cặp đôi đi dọc theo đường Saint-Sulpice, rẽ sang đường Bonaparte trước khi bước vào cổng của một tòa nhà trên đường Abbaye.

    Madeline phải đứng chờ trước cổng hai mươi phút trước khi một bà lão bước vào. Cô vội vã theo sau để đến xem những thùng thư. Một trong số chúng có để tên LaTulip. Chắc chắn rồi, George có một cuộc sống sang trọng : xe đẹp, quản gia trẻ xinh đẹp, nhà ở Saint-German-des-Prés. Không tồi đối với một người đã từng đi bán hot dog.

    Phút giải lao tình ái của họ cũng khá ngắn ngủi : mười lăm phút sau, cặp đôi lại tiếp tục lên đường. Bằng những bước nhanh, họ ra đến bãi đỗ xe, rồi George lại đưa cô ta về nơi làm việc. Không nhận ra rằng mình đang bị theo dõi, anh trở về khu phố Ternes bằng đại lộ Wagram, rẽ sang đường Néva và đi vào cổng đỗ xe của một khách sạn màu trắng.

    Đỗ lại trên vỉa hè, chiếc môtô của Madeline dừng lại trước tấm biển mạ vàng của tòa nhà trên đó có khắc dòng chữ : Tập đoàn DeLillo.

    Cô « cảnh sát » đỗ chiếc xe của mình không xa sảnh Pleyel lắm và lại bắt đầu đi bộ. Thời tiết băng giá của buổi sáng sớm đã nhường chỗ cho mặt trời, nhưng trời vẫn còn rất lạnh và có thể thấy hơi phả ra từ miệng của cô gái trẻ người Anh này.

    Họ đang ở trong những khu phố thật đẹp ; không hề thiếu những cửa hàng dành cho người sành ăn : Maison du Chocolat, Mariage Frères... Cẩn thận để không lọt khỏi tầm mắt lối vào của tòa nhà, nhưng vì muốn được sưởi ấm, Madeline ngồi vào một chiếc bàn của quán trà nổi tiếng nhất của Paris.

    Quầy được bao bọc bởi một lớp gỗ sồi nặng trên đó trang trí bởi hàng chục chiếc hộp sắt bên trong đựng những chai rượu nho quý giá nhất. Nơi này thoang thoảng mùi nhựa hương và hoa nhài. Trên thực đơn có quá nhiều loại trà. Một cách khá tình cờ, Madeline bị cuốn hút bởi sự nên thơ của những tên gọi và chọn cho mình một tách « Sương mù ở Himalaya » và một chiếc bánh xốp bơ.

    Như một phản xạ, Madeline lấy máy tính ra và bật kết nối wifi để vào mạng Internet.

    Việc tìm hiểu về Tập đoàn DeLillo cho cô biết rằng Frank DeLillo, cha của Francesca, đã thành lập nơi này này vài năm trước khi mất. Ông có khuynh hướng muốn giúp đỡ những học sinh giỏi nhưng không có điều kiện tiếp tục việc học của mình bằng cách cấp học bổng cho họ. Tổ chức này – một trong những tổ chức danh giá nhất thế giới – có trụ sở ở New York, nhưng có một chi nhánh ở Paris mà người quản lý chính là … George LaTulip.

    Vừa nghĩ ngợi, Madeline vừa nhấp một ngụm của thứ nước uống có vị quả phỉ và nho xạ này. Mọi thứ sang trọng đều xoay quanh LaTulip. Nhờ phép màu nào mà con người đi lên từ hai bàn tay trắng này lại có thể vừa đạt được sự chiếu cố của tập đoàn đã từng « sa thải » Jonathan và cả tập đoàn nhà Francesca ?

    Mỗi khám phá mới lại càng làm tăng cảm giác hưng phấn trong cô. Cuộc điều tra này mang lại cho cô cảm hứng. Hiện tại, cô không nghĩ gì đến những đóa hoa, những vật trang trí hay cửa hàng của cô nữa. Cô chỉ nghĩ đến việc khám phá bí mật của George LaTulip mà, cô chắc chắn rằng, đó cũng là bí mật của sự chia tay giữa Francesca và Jonathan.

    *

    Hai tiếng rưỡi sau

    Trời đã tối từ khi George rời khỏi tòa nhà của tập đoàn DeLillo. Giữa lúc đó, Madeline đã có thời gian để thưởng thức nhiều loại trà khác nhau. Cô vội vã thanh toán hóa đơn và trở lại với chiếc mô tô ngay lúc chiếc Porsche tiến ra đại lộ Courcelles.

    Khỉ thật !

    Cô cưỡi lên chiếc Triumph và rồ ga nhưng, trong lúc cô đến quảng trường Ternes, cô đã mất dấu chiếc Panamera.

    Đừng hoảng sợ.

    Một cách logic, nhất định George phải quay lại nhà hàng để phục vụ vào buổi tối.

    Đúng vậy ! Cô đuổi kịp chiếc xe tại vòng xoay Étoile. Một lần nữa, cô cảm thấy mình run lên vì phấn khích. Dần dần cô thấy hứng thú với trò chơi « điều tra » của mình. Cô CẦN PHẢI khám phá bí mật của George, lục lọi trong căn hộ của anh ta, thẩm vấn để buộc anh ta phải nói ra, …

    STOP ! Mày không còn là cảnh sát nữa rồi ! Một giọng nói hét lên trong đầu cô.

    Đúng vậy : tiến hành một cuộc điều tra sẽ khó khăn hơn nhiều khi không có thẻ cảnh sát. Không thể điều anh ta đến đồn cũng như thực hiện một cuộc khám soát nhà của anh ta. Tuy không làm được những điều đó, nhưng cô vẫn có thể sử dụng mưu mẹo và tìm cách nói chuyện rồi giành lấy sự tin tưởng của anh ta.

    Cách gì đây ?

    Gió thổi vào mặt cô, Madeline theo chiếc xe đến đại lộ Victor-Hugo và dừng lại cạnh nó trước đèn đỏ. Café Fanfan chỉ còn cách đó khoảng hai chục mét.

    Tìm cái gì đó đi. Ngay bây giờ.

    Ngay khi đèn chuyển sang màu xanh, cô tăng tốc để vượt lên chiếc Panamera.

    Mày không cần phải làm nát xương thịt mình như vậy đâu !

    Nhưng có một lực nào đó đẩy cô về phía trước.

    Đừng có phá nát chiếc mô tô đẹp đẽ này !

    Trong lúc chiếc Porsche giảm tốc, Madeline chắn ngang đường của nó, cô thắng gấp lại để chặn bánh sau của nó. Thanh chắn của chiếc xe rơi ra khi nó ngã xuống. Madeline văng khỏi chiếc Triumph đang trượt trên đường và kết thúc đường đua của mình ngay trước cột đèn. Người phụ nữ trẻ lăn trên đường. Đầu cô đập vào mặt đất, nhưng nó đã được bảo vệ bởi chiếc mũ bảo hiểm chắc chắn và cú sốc đã được giảm nhẹ bởi tốc độ thấp khi va chạm.

    Bánh xe của chiếc Panamera rít lên ken két, để lại rải rác vụn cao su trên mặt đường và dừng lại hẳn. Hốt hoảng, George ra khỏi con quái vật bằng thép của mình và vội vã đến gần Madeline.

    - Tôi... tôi xin lỗi ! Cô đã chắn đường của tôi !

    Madeline quan sát mức độ thiệt hại : áo khoác của cô bị sờn, quần jean thì bị rách, còn tay và cánh tay cô thì trầy trụa. Nhưng không có gì quá nghiêm trọng.

    - Tôi sẽ gọi xe cấp cứu, George nói trong khi mở điện thoại ra.
    - Tôi nghĩ rằng không cần phải thế đâu, cô chắc chắn trong khi mở nón bảo hiểm ra.

    Cô hất tóc ra và tặng cho anh ta một nụ cười xinh đẹp nhất.

    Một tia nhìn hứng thú ánh lên trong mắt George : khát khao chinh phục.

    Trong khi nắm lấy tay anh ta đưa ra để đứng lên, Madeline hiểu rằng cô vừa mới đặt được một chân vào cánh cửa.

    Đây là pha số 1 : thâm nhập kẻ thù.

    *

    San Francisco

    Jonathan click vào tập tin cuối cùng. Bức ảnh mở ra toàn màn hình. Đó là bản sao của áp phích đã được in ra hàng ngàn bản rải trên khắp nước Anh để thông báo về sự mất tích của Alice Dixon. Ở giữa trang là hình một cô bé khoảng mười lăm tuổi, tóc vàng và thẳng, nụ cười gượng gạo và khuôn mặt nhợt nhạt, lấm tấm tàn nhang. Người ta đã chọn bức ảnh này vì trong đây cô bé mặc chiếc áo khoác giống như hôm cô bị bắt cóc : một chiếc pull lót vải bông có nón, màu hồng và xám, của hiệu Abercrombie & Fitch. Chiếc áo khoác quá lớn so với cô bé và cô đã làm cho nó độc đáo bằng việc may vào đó cái khiên biểu tượng của đội bóng Manchester United.

    Trong số những tài liệu khác nhau của « hồ sơ Dixon », Jonathan tập trung chủ yếu đến những ghi chép cá nhân của Madeline và những tài liệu chính thức của cuộc điều tra. Đây là bức chân dung đầu tiên của Alice mà anh mất nhiều thời gian để quan sát đến như vậy.

    Ngay khi bức ảnh hiện lên trên màn hình, tim anh giật thót lên trong lồng ngực. Một làn sóng khó chịu xâm chiếm lấy anh. Rồi mắt anh bắt gặp ánh mắt của Alice và bụng anh thắt lại.

    Anh biết cô bé này.

    Anh đã từng gặp cô bé.

    Anh đã từng nói chuyện với cô bé.

    Sửng sốt bởi nỗi sợ hãi, anh vội vã tắt máy tính. Nhịp tim của anh bị kích thích, tay anh run lên. Anh hít thở sâu để lấy lại bình tĩnh, nhưng thật là khó khăn.

    Kỉ niệm về cuộc gặp gỡ đã để lại trong anh một vết sẹo không thể nào phai nhạt lại trỗi dậy một cách mạnh mẽ. Anh cố gắng chống lại nó, nhưng cơ thể anh như có một cơn rét run lạnh giá đang lướt qua dưới tác động của nỗi sợ.

    Anh cần phải có một trái tim trong sạch.
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15

Chia sẻ trang này