Đang dịch PG L'appel de l'ange - Guillaume Musso

Thảo luận trong 'Góc dịch các tác phẩm tiếng Pháp' bắt đầu bởi bluechips, 2/10/13.

  1. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 18: Giấc ngủ mê


    Trong tất cả những nỗi đau, những thứ đau đớn nhất

    chính là nỗi đau mà người ta tự buộc mình phải gánh chịu.

    SOPHOCLE

    San Francisco
    Thứ hai 19 tháng mười hai
    22h30

    Jonathan bước xuống khỏi cáp treo từ nhà thờ Grace Cathedral. Thành phố chìm trong một màu trắng đục bao bọc lấy đủ thứ âm thanh và phủ lên các con đường một tấm màn bí ẩn. Anh đi bộ khỏi đường Powell Street, đi khoảng một trăm mét nữa để đến bệnh viện Lenox.

    - Tôi có hẹn với bác sĩ Morales, anh nói với tiếp tân.

    Do họ nói anh phải đợi ở sảnh, anh thả người lên chiếc tràng kỉ ở phòng chờ và lấy từ túi ra một tờ giấy trên đó in bức chân dung của Alice.

    Khuôn mặt của cô bé đã theo anh cả ngày hôm nay. Anh đã cố gắng để không làm sống lại kỉ niệm đó, tự nói với mình rằng anh đã nhìn lầm người, nhưng không có kết quả gì. Lúc anh gặp Alice Dixon, cô bé có mái tóc nâu và tự xưng là Alice Kowalski, nhưng cô bé mặc đúng chiếc áo pull màu hồng đó và mang cùng một vết thương trong ánh mắt như thế.

    - Chào anh, Jonathan
    - Chào em, Ana-Jucia, anh trả lời trong khi ngước mắt về phía một người phụ nữ trẻ xinh đẹp với nước da sẫm màu và mái tóc đen tuyền.

    Bác sĩ Morales toát lên một vẻ thanh lịch và giản dị. Người nhỏ nhắn, cô mặc một chiếc áo blouse trắng khoác ngoài áo sơ mi, theo kiểu áo vest làm toát lên một cách kín đáo dáng người đầy đặn của cô.

    - Anh vào phòng em nhé ?

    Jonathan theo cô vào thang máy với bước đi chắc chắn.

    - Cũng lâu rồi nhỉ, cô nói trong khi ấn nút thang máy lên tầng sáu.
    - Cũng hơn một năm rồi, Jonathan đồng tình.

    Không khí trở nên im lặng. Anh đã gặp Ana-Jucia vào những tháng đầu tiên khi mới đến San Francisco. Một khoảng thời gian khó khăn của cuộc đời anh. Anh được tư vấn về người bác sĩ tâm lý này bởi Elliot Cooper, một bác sĩ giải phẫu của bệnh viện, khách thường xuyên của nhà hàng anh và sau đó cũng trở thành bạn anh. « Cô ta không có khả năng giải quyết mớ hỗn độn trong cuộc sống của mình, nhưng cô ta biết cách giúp đỡ người khác ngay cả khi cô ấy hơi quá xinh đẹp để là một bác sĩ tâm lý », người bác sĩ già cũng đã lưu ý anh như vậy.

    Jonathan cũng đã thực hiện vài lần điều trị mà anh cảm thấy khá hơn đôi chút, rồi anh chỉ đến để lấy vài liều thuốc an thần, rồi sau đó anh không đến nữa. Sự phân tích tâm lý không phải dành cho anh, dù sao đi nữa, anh vẫn chưa sẵn sàng.

    Một buổi chiều, vài tuần sau lần khám cuối cùng của anh, anh đã tình cờ gặp Ana-Jucia trong một quán bar ở North Beach. Chỗ này gần với một con đường đua hơn là quán Café Costes. Trên sân khấu, một tay guitar độc tấu lại một bài hát cũ của Led Zep'. Jonathan vẫn chưa thoát ra khỏi nỗi đau về người vợ cũ, Ana-Jucia vừa mới bị bạn trai bỏ rơi, một thương nhân giàu có và ích kỉ sống ở đầu kia của đất nước, nhưng cô luôn say mê hắn ta. Họ đã uống vài ly bia, có tán tỉnh nhau đôi chút và xém tí nữa đã cùng nhau làm chuyện ngu ngốc. Người ta ai cũng có những lúc điên loạn như thế...

    - Anh có vẻ ốm đi nhỉ, cô nói để phá vỡ sự im lặng.
    - Có lẽ vậy, anh nói. Thật ra anh có chuyện muốn nhờ em.

    Cửa thang máy mở ra trước một hành lang dài dẫn đến phòng khám của Ana-Jucia : một căn phòng nhỏ với ánh sáng dịu nhẹ hướng ra đường Hyde Street.

    - Em nghe đây.
    - Nếu anh nhớ không lầm, khi anh tới đây khám, em đều lưu lại những lần đó phải không ?
    - Đúng vậy, nhưng em có thể đếm được nó trên đầu ngón tay, cô nói trong khi gõ họ của Jonathan trên bàn phím.

    Xem hồ sơ của anh, cô xác định:

    - Em đã lưu lại ba lần.
    - Em có thể cho anh xem hồ sơ chứ ?
    - Tất nhiên rồi, em sẽ gửi mai cho anh ngay. Nó nằm trong quá trình điều trị. Anh có cần gì khác nữa không ?
    - Cảm ơn em, vậy là được rồi, anh khẳng định trong khi đứng dậy.
    - Được rồi, em sẽ không hỏi thêm nữa.

    Đến lượt cô cũng đứng lên, mặc lại chiếc áo blouse mà cô vừa treo lên trên giá.

    - Ca trực của em đã xong, em đưa anh về nhé ? Cô nói trong khi khoác lên người một chiếc áo khoác không thấm nước bằng da màu nâu làm cô trông giống một người mẫu hơn là một bác sĩ.
    - Cảm ơn em.

    Anh theo cô xuống bãi đỗ xe dưới tầng hầm và tiến đến một chiếc Audi Spyder bóng loáng.

    - Em phải khám bao nhiêu lượt mỗi tuần để sắm chiếc xe xịn này thế ?
    - Nó không phải của em, cô khéo léo lẩn tránh
    - Hiểu rồi : tay thương nhân của em đã trở lại.
    - Thế còn vợ anh ?

    Cho rằng câu hỏi quá phi lý, Jonathan nhún vai.

    Chiếc xe lao ra đường Bush Street và rẽ sang Leavenworth. Ana-Jucia thích một cuộc sống mạo hiểm. Cô tận dụng đường thẳng của California Street để tăng tốc độ mạnh mẽ.

    - Em đang đùa với gì đấy ?
    - Xin lỗi anh, cô giảm tốc độ lại.

    Vẻ nghĩ ngợi, cô chạy chậm lại, vào đường Grant Avenue trong im lặng rồi tới Lombard. Vào lúc đó, cô chợt nhận xét :

    - Anh cũng giống như nhiều người khác, Jonathan : bị lạc trong những góc tối. Anh chỉ có thể thấy khá hơn một khi anh tự giải thoát mình khỏi sức nặng của những bóng ma ấy.
    - Những bóng ma à, chúng thì không nặng lắm đâu, anh nói đùa.
    - Nhưng những gì chúng kéo theo thì có thể nặng đến hàng tấn, cô trả đũa lại.

    Anh suy nghĩ về câu nói đó suốt quãng đường còn lại, rồi cô để anh xuống ở đỉnh của Telegraph Hill.

    - Còn em, em đã khá hơn chưa ? Anh hỏi trong khi mở cửa chiếc Spyder.
    - Chưa, cô nói, nhưng đó là một vấn đề khác.
    - Được rồi, anh không hỏi thêm nữa.

    Cô nở một nụ cười và nhanh chóng lướt đi về phía những ánh đèn của thành phố.

    Cảm thấy thoải mái hơn vì đã trở về, anh đẩy cửa vào nhà. Marcus đã say ngủ trên chiếc ghế dài trước một tập phim cũ của Star Trek. Anh tắt ti vi trước khi ghé mắt vào phòng ngủ của con trai để chắc chắn rằng mọi thứ đều ổn. Charly ngủ với hai tay nắm chặt. Cậu bé chắc đã miệt mài với chiếc máy tính bảng để giúp đỡ những chú Angry Birds trong cuộc chiến với những chú heo xanh.

    Có một chút nổi giận, anh tắt chiếc máy tính. Lúc anh ở tuổi đó, anh ngủ say bên một cuốn sách, chứ không phải một màn hình máy tính ! Anh nghĩ đến những ngày xa xưa lúc anh say mê với những Tintin, Ba chàng lính ngự lâm, Marcel Pagnol, Jules Vernes rồi sau đó là Stephen King và John Irving. Tất cả dường như đã qua xa rồi. Giữa những tivi, điều khiển trò chơi, máy tính và điện thoại, những màn hình và mạng lưới đã xâm chiếm cuộc đời chúng ta từ khi ta còn rất nhỏ. Rõ ràng là mặt xấu nhiều hơn mặt tốt.

    Có phải mình đã trở thành một ông già ngu ngốc ? Anh tự hỏi trước khi đến lượt mình gục ngã trước sự quyến rũ của máy vi tính, anh ngồi trước máy tính để xem xét những mail mà Ana-Jucia đã gửi cho anh.

    Có đúng ba tập tin mp3 phù hợp với ba buổi anh đến khám ở chỗ cô. Anh biết chắc chắn cái mình cần tìm. Đoạn anh muốn nghe lại nằm ở phần đầu của buổi khám thứ hai.

    Anh mang tai nghe vào, tắt đèn và ngồi lên chiếc tràng kỷ để nghe đoạn thu âm.

    Những phút đầu, chủ yếu là nghe giọng của Ana-Jucia, êm dịu một cách đáng kinh ngạc, dùng để đưa bệnh nhân vào một trạng thái thư giãn hoàn toàn để dần tiến vào một giấc ngủ sâu nhẹ nhàng.

    Rồi cô đi thẳng vào chủ đề :

    « Tuần trước, anh đã kể cho tôi nghe về một tuần lễ tồi tệ nhất trong cuộc đời anh : những ngày mà anh vừa mất cả vợ mình và cả công việc nữa. Tuần lễ mà anh biết được cái chết của người cha mà anh đã không nói chuyện từ mười lăm năm nay. Anh đã nói với tôi rằng anh đã do dự rất lâu về việc có đến đám tang của ông không. Và, cuối cùng, anh đã bay đến Paris, phải vậy không ? »

    Sau một lúc im lặng, Jonathan bắt đầu thú nhận. Trong khoảng thời gian huy hoàng của mình, anh đã quen với máy quay và ống kính của các buổi phỏng vấn. Nhưng đã hai năm nay anh không còn là người được phỏng vấn và điều này làm anh thấy kì lạ khi nhận ra vào thời điểm đó giọng nói và cách phát âm của anh đầy cảm xúc và chứa đựng sự cam chịu :

    « Tôi đến Paris vào ngày 31 tháng mười hai vào cuối buổi chiều. Năm đó, mùa đông rất lạnh trên toàn nước Pháp. Tuyết đã rơi từ một tuần trước đó, ở một vài nơi, thủ đô mang dáng vẻ của những khu trượt tuyết... »
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  2. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 19*: Gặp nhau trên đường



    Thành công không phải lúc nào cũng minh chứng cho niềm vui,

    nó thậm chí thường là bề nổi của một nỗi đau bị ẩn giấu

    Boris CYRULNIK

    « Tôi đến Paris vào ngày 31 tháng mười hai vào cuối buổi chiều. Năm đó, mùa đông rất lạnh trên toàn nước Pháp. Tuyết đã rơi từ một tuần trước đó, ở một vài nơi, thủ đô mang dáng vẻ của những khu trượt tuyết... »

    Paris
    Hai năm trước
    31 tháng 12 2009

    Tôi đã thuê một chiếc xe tại sân bay, một chiếc ôtô Đức tiện nghi và có vẻ chạy tốt trong mọi điều kiện. Đáng lẽ tôi đã có thể lấy chuyến bay đến Toulouse, nhưng vì đang là dịp lễ, đám tang của cha tôi đã được dời sang ngày 2 tháng 1, và ý tưởng phải đón một giao thừa tang tóc với chị gái cùng anh rể làm tôi không thoải mái chút nào.

    Cuối cùng tôi đã quyết định đến Auch bằng xe hơi, và chỉ có thể đó vào chiều tối ngày mai. Trong lúc chờ đợi, tôi có 24 tiếng để giết thời gian. Tôi đã không chợp mắt suốt ba ngày liền và tôi đã nghĩ rằng mình có thể nhấn chìm nỗi mất ngủ đó trong một đêm rất dài. Tôi mơ đến những viên tròn tròn có khả năng giết chết cả một trung đoàn, nhưng bây giờ tôi không có rượu mêdốc để dùng chúng và việc gọi một bác sĩ vào giờ này cũng không dễ dàng gì. Trước hết, tôi cần phải tìm một khách sạn, bởi vì chỗ mà tôi thường ở mỗi khi sang đây, ở quận 6, đã không còn lấy một phòng trống.

    Rất tiếc chỗ chúng tôi đã hết phòng, nhân viên tiếp tân lạnh lùng thông báo cho tôi.

    Thông thường, ngay cả khi tôi chỉ ghé qua, các quản lý khách sạn luôn xoay sở để đón tiếp tôi một cách nồng nhiệt nhất bởi vì tôi là Jonathan Lempereur, bởi vì đó là một vinh dự khi tôi chọn khách sạn của họ, bởi vì họ đã treo ảnh được tôi đề tặng trong sảnh nhỏ, kế bên những khách VIP khác đã từng lưu lại đó. Nhưng tin tức đến một cách nhanh chóng và chắc là các nhân viên đã được thông báo về tình trạng « thất sủng » của tôi, bởi vì không một ai có chút cố gắng nào trong việc giúp tôi tìm phòng. Tôi có quen một vài người bạn đồng nghiệp trong lĩnh vực khách sạn và nhà hàng hạng sang, nhưng tôi có lòng tự trọng và tôi đã quyết định không để họ cười nhạo vì tình trạng của mình. Sau một vài cuộc gọi, cuối cùng tôi cũng tìm được một phòng trong một khách sạn khiêm tốn, ở quảng trường Château-Rouge, ở góc giữa đại lộ Barbès và đường Poulet. Căn phòng của tôi đúng thật là « khiêm tốn », thậm chí là khắc khổ. Trên hết là một cái lạnh kinh khủng. Tôi đã thử bật lò sưởi, nhưng nó cũng không thay đổi gì nhiều. Lúc đó là 17 giờ ; trời đã tối rồi. Tôi ngồi trên giường và lấy tay ôm đầu. Tôi nhớ con trai tôi, vợ tôi và cuộc sống của tôi. Trong vòng một tuần, tôi đã mất tất cả. Một vài ngày trước, tôi sống với gia đình trong một căn hộ ở TriBeCa, tôi điều hành một tập đoàn, tôi có Black Card và ba mươi cuộc hẹn phỏng vấn mỗi tuần... Chiều đó, tôi đã muốn khóc và đã trải qua ngày đầu năm mới một cách cô độc trong một căn phòng bần tiện.

    You'll never walk alone... (Bạn sẽ không bao giờ phải đi một mình)

    Một tai nạn ngẫu nhiên bất ngờ ập xuống người tôi. Tôi rời khỏi căn phòng và trở vào xe hơi. Vừa lái xe, tôi vừa gõ một địa chỉ vào thiết bị GPS, đường Maxime-Gorki ở Aulnay-sous-Bois, và đi theo hướng dẫn từ một giọng nữ của thiết bị. Ở ghế bên cạnh tôi là những tờ báo tiếng Pháp và tiếng Mỹ mua từ sân bay. Báo chí Pháp đã bỏ rơi tôi vài năm gần đây lần này lại như đang hoan hỉ : Lempereur bị truất, Sự truất ngôi của hoàng đế...

    Đó chính là trò đùa của truyền thông và tôi đã chuẩn bị sẵn tâm lý. Hôm nay những tựa đề đó là kẻ tàn phá và tôi sẵn sàng đối mặt với chúng cũng như những cú công kích khác. Tôi đã không dám tin được rằng mình sẽ lại hồi phục được. Ngoài việc sáng tạo những công thức nấu ăn, tôi còn biết làm gì khác ? Không gì cả hoặc là rất ít... Khi mất Francesca, tôi đã mất đi ngọn lửa có thể đẩy tôi về phía trước, người đã biến tôi từ một bếp trưởng hạng xoàng thành ông chủ của nhà hàng ngon nhất thế giới. Có hai mươi lăm nhà hàng ba sao ở nước Pháp và gần tám mươi nhà hàng trên toàn thế giới, nhưng chỉ có một nơi mà danh sách chờ kéo dài đến một năm. Đó là nhà hàng của tôi và tôi biết rằng tôi nợ Francesca điều đó. Bởi vì tôi chỉ làm vì điều đó : tình yêu duy nhất, niềm đam mê, khao khát không ngừng để làm cô ấy say đắm. Tôi đã gặp Francesca năm tôi ba mươi mốt tuổi, nhưng tôi đã đi tìm cô ấy từ thời trung học. Mười lăm năm hi vọng rằng một phụ nữ như cô ấy sẽ ở đâu đó trên trái đất này. Một người phụ nữ đẹp như Catherine Zeta-Jones với bộ não của Simone de Beauvoir. Một người phụ nữ có mười đôi Stilettos trong tủ quần áo, nhưng cũng có khả năng nói với bạn về ảnh hưởng của nhạc Haydn lên âm nhạc của Beethoven hay ấn tượng của sự tình cờ trong hội họa của Pierre Soulages.

    Khi Francesca bước vào một căn phòng, cô thu hút hết mọi ánh nhìn. Phụ nữ thì muốn cô ấy trở thành bạn thân nhất của họ, đàn ông thì muốn ngủ với cô, trẻ con thì vui thích với vẻ hiền dịu của cô. Đó là sự thật hiển nhiên và không thể tránh được. Chúng tôi đã trải qua những năm tháng yêu đương nồng cháy và một sự phân chia nhiệm vụ buồn cười : tôi có được danh tiếng, cô ấy có vẻ quyến rũ và sức hút mãnh liệt. Tình yêu của chúng tôi được giữ gìn suốt sáu năm bằng sợi dây liên kết đó.

    *

    Bằng đường cao tốc, tôi đến Aulnay trong vòng hai mươi phút. Tôi tìm được một chỗ trên đường Gorki, cách không xa lắm tòa nhà nơi Christophe Salveyre đang ở.

    - Là Jonathan đây, tôi nói trong khi nhấn chuông.
    - Jonathan nào ?
    - Jonathan Lempereur, em họ của anh đây.

    Salveyre là con trai của dì tôi. Chúng tôi đã không gặp nhau cho đến khi anh ta gọi cho tôi ở New York, ba năm về trước. Đi nghỉ lễ ở Trái táo khổng lồ, anh ta đã bị bắt giữ bởi cảnh sát sau một cuộc ẩu đả trong quán bar. Anh ta không quen biết ai ở Manhantan và không có lấy một xu dính túi. Do tình nghĩa ruột thịt, tôi đã trả tiền bảo lãnh và cho anh ta ở nhờ trong một trong những chi nhánh của nhà hàng trong khi chờ đợi vụ việc ổn thỏa. Anh ta sòng phẳng với tôi và không hề giấu diếm gì những hành động của anh ta ở Pháp : anh ta buôn thuốc phiện. Điều này làm tôi lạnh sống lưng, nhưng anh ta đảm bảo với tôi rằng ở Mỹ thì anh ta trong sạch.

    - Mày tìm kiếm gì ở đây ? Anh ta hỏi trong khi mở cửa.
    - Tôi cần anh giúp tôi một việc, tôi nói trong khi bước vào nhà.
    - Mày tìm sai chỗ rồi, khỉ thật. Tao trở về đây để « kiếm chác », nhưng giờ tao sắp phải rời đi.
    - Điều này quan trọng lắm.
    - Mày muốn gì ?
    - Tôi cần có một vũ khí.
    - Vũ khí ?
    - Một khẩu súng.
    - Mày thấy treo biển « bán vũ khí » trước cửa à ? Mày muốn tao tìm đâu ra cho mày một khẩu súng chứ ?
    - Hãy cố gắng giúp tôi với !

    Salveyre thở hắt ra.

    - Đang là giao thừa, khốn nạn ! Người ta thì nghỉ lễ còn tao thì có một số lượng khổng lồ « hàng trắng » cần phân phối. Ngày mai quay lại gặp tao.
    - Không, tôi cần phải có ngay tối nay !
    - Tối nay, tao không thể. Tao phải chuyển nhiều « hàng » nhất có thể trong khoảng thời gian ngắn nhất.
    - Hãy nhớ lại ngày tôi đã giúp anh khi anh trong tình huống nguy hiểm...
    - Ai sẽ trả tiền cho tao khi tao bỏ lỡ cái lãi này đây ?
    - Hãy nói cho tôi biết anh muốn bao nhiêu !
    - Tao sẽ giúp mày nếu mày mua cho tao 4000 euros thuốc phiện. Và thêm 3000 euros cho khẩu súng.
    - Đồng ý, tôi trả lời một cách không thận trọng. Anh không cách gì để đổi tiền đô la à ?

    Khi rời khỏi New York, tôi đã rút hết tiền trong két sắt và tôi có hơn 10000 đô la tiền mặt.

    - Chờ tao một tiếng, anh ta nói với tôi. Mày có thể đợi ở đây : hãy nghỉ ngơi đi, trông mày thật thảm hại.

    Tôi làm theo lời anh ta và nằm dài lên chiếc trường kỷ. Trên bàn có một chai cognac đã mở. Tôi rót cho mình một cốc lớn rồi một cốc nữa trước khi từ từ chìm vào giấc ngủ.

    Salveyre trở về lúc gần 20 giờ.

    - Tao đưa mày cái mà tao tìm được, anh ta nói trong khi đưa tôi một khẩu súng lục bọc crôm với báng súng màu đen.

    - Khẩu súng rất gọn, nhưng khá nặng. Với năm vỏ đạn, ống đã được nạp đầy.

    - Là một khẩu Smith & Wesson Model 60 cỡ 38 đặc biệt.

    Thông tin đi vào lỗ tai này và ra lỗ tai bên kia.

    Tôi đưa anh ta tiền và anh ta đưa lại tôi một túi có khóa kéo bên trong chứa khoảng hai mươi liều cocain. Tôi do dự định để lại cho anh ta, nhưng rồi cuối cùng quyết định mang theo chúng trong khi tự nhủ rằng mình sẽ hủy nó sau đó.

    Chắc là như thế thì sẽ không có ai sử dụng chúng nữa, tôi tự thuyết phục mình.

    Tôi biết rằng tôi đã quá ngây thơ...

    *

    20 giờ

    Tôi để khẩu súng và thuốc phiện vào ngăn để găng trong xe và lái về hướng khách sạn. Không cần phải bật GPS để đi ngược lại đường lúc nãy : A1, hướng ra cổng nhà thơ,...

    Khỉ thật.

    Tôi vừa mới bỏ qua một ngã rẽ một cách ngu ngốc. Rượu cognac đang gây phiền toái cho tôi. Bất chợt, tôi không còn nhớ rõ tên đường nữa. Giữa cổng Clignancourt và cổng Clichy, tôi tiếp tục lái vào các đại lộ Maréchal khoảng 500 m.

    Khu vực này không mấy sáng sủa. Dưới ánh sáng nhợt nhạt của những tấm biển quảng cáo, một nhóm gái gọi đang kiếm khách. Một vài chiếc xe dừng lại đột ngột : cửa kính hạ xuống, những gã trai ra giá, rồi sao khi có câu trả lời, lại lái đi với một cô nàng trên xe. Hoặc là không. Đèn trước mặt tôi vừa chuyển sang màu đỏ. Tôi bị mắc kẹt trước một chiếc nhà xe. Một cô gái phía Đông, váy ngắn và bốt da, gõ vào cửa kính xe của tôi và quyến rũ tôi. Ban đầu tôi thử bỏ qua, nhưng cô ta thực hiện một đoạn nhỏ vũ đạo của Moulin-Rouge. Đôi mắt cô buồn bã và trống rỗng. Cô làm tôi thấy tội nghiệp và tôi quyết định hạ cửa kính xuống để khen tặng cô về bài nhảy.

    Tôi biết, rằng tôi đã thật ngây thơ...

    *

    Hai chiếc xe cảnh sát đến một cách nhanh và bất thần, hai mươi mét đằng sau tôi. Trong ít hơn ba giây, con đường rung lên bởi những tiếng còi xe kéo dài. Các cảnh sát đã lấy còng tay ra, thể hiện lòng nhiệt tình trong một buổi tối giao thừa, đưa các cô gái lên xe, kiểm tra lý lịch của những khách hàng của họ.

    Trong khi tôi đóng cửa kính lại, một dáng người phụ nữ đột ngột mở cửa xe của tôi và ngồi vào ghế hành khách.

    - Khởi động xe hoặc là chú sẽ bị bắt giam ! Cô ta hét lên trong hoảng loạn.

    - Đó là một cô bé gái. Một thiếu nữ khoảng mười lăm tuổi.

    Một ả gái gọi ? Vào cái tuổi này ư ?

    - Chạy đi, khốn thật ! Cô hét lên.

    Tôi đã tự đưa mình vào hoàn cảnh nguy nan nào vậy ? Tôi đã có khoảng hai gram alcool trong máu, tôi có một khẩu súng, một túi chứa đầy thuốc phiện trong ngăn để găng và một cô bé vị thành niên ngồi trong xe của mình.

    Tôi sẽ phải vào tù và ở trong đó rất lâu.

    Tôi thậm chí không đợi đến khi đèn xanh và ngay lập tức rẽ ngay vào con đường đầu tiên.
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  3. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 19**

    Bằng tốc độ nhanh nhất, tôi trở lại đại lộ Porte-de-Saint-Ouen và hòa vào dòng lưu thông đó.

    - Cháu đang chơi cái trò gì vậy ? Tôi hỏi cô gái đang ngồi cạnh mình.
    - 'just wanna escape these fucking cops' (chỉ là muốn thoát khỏi bọn cớm khốn kiếp đó thôi), cô gái trả lời bằng tiếng Anh với một ngữ âm khó xác định.

    Tôi mở đèn ở mui xe và tận dụng lúc luồng giao thông chậm lại để quan sát cô gái. Đó là một cô bé khoảng mười lăm tuổi, với dáng vẻ mỏng manh và khó nắm bắt. Tóc cô đã được nhuộm đen nhưng vẫn còn vài sợi màu đỏ son. Phần mái quá dài không ngừng phủ xuống đôi mắt cô. Cô mặc một chiếc quần jean bó, mang giày Converse da và một chiếc áo T-shirt bạc màu, khoác bên ngoài là một chiếc áo pull có nón màu hồng xám, trên đó có thêu huy hiệu của đội bóng Manchester United. Một viên kim cương bé xíu sáng lấp lánh trên cánh mũi trái của cô còn trên cổ là một sợi dây chuyền phong cách thời Trung đại bằng bạc và pha lê màu hồng lựu. Phong cách trang điểm gothic – dùng phấn và chì kẻ mắt màu đen trên nền da nhợt nhạt – làm cho cô trông giống như một xác chết, nhưng lại gợi lên một vẻ gì đó có giáo dục.

    Tôi nhìn vào đôi giày của cô gái : chúng gần như là mới. Cô nhỏ này mặc quần áo đồ hiệu và đeo cả trang sức. Đây không phải là một đứa trẻ bụi đời, thậm chí có thể là một tiểu thư giàu có.

    Tôi không biết mình phải làm gì. Tôi không thể bỏ mặc cô bé ở giữa đại lộ. Đáng lẽ tôi cần phải được biết nhiều hơn, nhưng có vẻ như cô nhỏ không phải là người thích nói nhiều. Tôi lái vào ngã rẽ đầu tiên dẫn đến trạm Montreuil và dừng lại ở một bãi đỗ xe.

    - Cháu tên là gì ? Tôi hỏi bằng tiếng Anh.
    - Điều đó có liên quan gì đến chú à ?
    - Nghe này, chính CHÁU đã leo lên xe chú và chú đã không hỏi han gì, vậy thì cháu có thể lùi một bước chứ, OK ?

    Cô bé nhún vai, quay đầu lại

    - Alice, cô bé thở hắt ra. Alice Kowalsky.
    - Cháu ở đâu ?
    - Cháu không thấy điều này có dính líu gì đến chú cả.
    - Tại sao cháu lại sợ mấy cảnh sát lúc nãy ?
    - Còn chú ? Cô bé vặn lại.

    Hết đường, tôi đành chống chế :

    - Chú đã uống hơi nhiều, vậy thôi.

    Vào lúc đó, nắp của ngăn đựng găng mà tôi đã không đóng kĩ rơi xuống và bật ra. Việc nhìn thấy súng và thuốc phiện trong đó làm cô bé sợ hãi. Cô mở cửa để chạy trốn, vì nghĩ rằng mình đã rơi vào tay một tên côn đồ.

    - Đợi đã, không phải như cháu nghĩ đâu ! Tôi nói trong khi chạy theo cô bé trong bãi xe.
    - Để cháu đi, cô bé đáp lời trong khi tìm chỗ ẩn nấp trong trạm xe.

    Tôi đốt một điếu thuốc và quan sát cô bé qua cửa kính. Cô ngồi lên một chiếc ghế gần những chiếc máy bán tự động. Cô bé này là ai ? Cô bé đang tìm cách chạy trốn khỏi điều gì ? Ngay lúc đó, tôi đã có ý định trở lại xe của mình và rút lui khỏi chuyện này. Tất cả những chuyện này chẳng liên quan gì đến tôi. Ngoại trừ những rắc rối thêm vào, tôi chẳng được lợi lộc gì từ chuyện này cả.

    Tôi thở hắt ra, nhưng rồi vẫn quyết định đến gặp cô bé. Trạm xe được trang trí bằng những vật dụng dành cho lễ hội : những nhánh tầm gửi nhấy nháy, cây thông, những quả châu Noël bằng nhựa. Một bản nhạc cũ kĩ từ những năm 80 đang được phát trên radio.

    - Cháu mời chú một tách espresso được chứ ?
    - Cháu không có xu lẻ, cô bé vừa nói vừa lắc đầu.

    Tôi lấy ví ra để tìm tiền lẻ.

    - Cháu muốn gì không ? Tôi hỏi trong khi cho tiền vào máy.
    - Muốn chú để cho cháu được yên.

    Tôi cố gắng thuyết phục cô bé.

    - Nghe này, chúng ta đã bắt đầu từ những điều không đúng.
    - Giờ thì chú im lặng đi, cháu có thể tự mình xoay sở.
    - Bằng cách nào ? Cháu không có tiền và không thể nói nổi một từ tiếng Pháp. Chú không thể để cháu một mình như vậy được. Đó là trách nhiệm của một người trưởng thành.

    Cô bé ngước mắt lên trời, nhưng cuối cùng cũng cầm lấy tiền mà tôi đưa. Đến gần chiếc máy bán nước tự động, cô bé chọn một chai sữa nhỏ vị dâu và một gói bánh quy Oreo. Trong lúc cô bé ngồi ăn, tôi cất đi tấm bản đồ tàu điện ngầm đang nằm sẵn trên bàn.

    - Nhìn này, có hình chú trong tờ báo này. Giống như cháu đang thấy, nó không phải nằm trong mục tin vắn.

    Cô bé nhìn vào bài báo rồi ngước mắt lên.

    - Cháu đã từng trông thấy chú trên tivi ! Chương trình mà trong đó chú nổi giận với những người ăn chay !

    Cô bé đang đề cập đến cuộc đấu tranh mà tại đó tôi đã chống đối lại những nhà hoạt động khá quyền lực luôn tìm cách để ngăn cấm việc dùng gan ngỗng tại Mỹ.

    - Nếu chú là một ngôi sao, chú đang làm gì với những ả gái điếm chỉ đáng 20 euros, vào đêm giao thừa, với ngăn đựng găng chứa đầy ma túy ? Cô bé hỏi với sự khiêu khích.
    - Nào, theo chú, tôi bảo cô bé.

    Cầu Chúa ban phúc lành cho ngành truyền thông. Sự nổi tiếng của tôi đã khôi phục đôi chút niềm tin của cô bé và, vẫn giữ một khoảng cách nhất định, cô bé chấp nhận đi theo tôi đến chiếc BMW.

    - Trước tiên, chú không phải là khách hàng của những cô ả kia và cháu biết rõ điều đó, nếu không cháu đã không lên xe chú, ngay cả khi là để trốn cảnh sát...

    Cô bé không trả lời, chứng tỏ là tôi đã lấy thêm được một điểm.

    - Tiếp theo, những thứ gây nghiện này không phải của chú, tôi giải thích trong khi lấy một túi bọc nhựa và vứt nó vào một trong những thùng rác công cộng của bãi đỗ xe. Đây là một câu chuyện phức tạp, nhưng chú buộc lòng phải chấp nhận để có thể lấy được khẩu súng lục này.
    - Vậy thì thứ vũ khí này dùng để làm gì ?
    - Chỉ để tự bảo vệ mình thôi.

    Cô bé chắc chắn là người Mỹ, bởi vì cô chấp nhận lời giải thích này không một chút phản đối.

    - Rồi, giờ thì đến lượt cháu. Nói cho chú biết cháu là ai và cháu ở đâu, nếu không chú gọi cảnh sát đấy.
    - Cháu đã làm một chuyện ngu ngốc, cô bé bắt đầu nói. Một cuộc bỏ trốn, chỉ vậy thôi. Cháu sống ở New York, nhưng cháu đang đi nghỉ với ba mẹ. Gia đình cháu có một ngôi nhà ở Côte d'Azur.
    - Đó là đâu ?
    - Ở Cap-d’Antibes.

    Tôi biết rõ nơi đó. Đó chính là nơi tôi có nhà hàng « đúng nghĩa » đầu tiên của mình.

    - Cháu muốn về nhà, nhưng người ta đã lấy cắp túi xách của cháu trên TGV (tàu tốc hành) và cháu không còn cả điện thoại cả ví tiền.

    Cô bé có vẻ thành thật, ngay cả khi có một cái gì đó khá khập khiễng mà tôi cũng không hiểu tại sao.

    - Hãy gọi cho ba hoặc mẹ cháu nếu như chú không tin !

    Cô bé đưa cho tôi một số điện thoại để tôi gọi. Chỉ sau một hồi chuông, tôi gặp một bà Kowalski nào đó trả lời điện thoại giống như đã được định sẵn. Bà ta đã khẳng định lại tất cả câu chuyện : con gái bà ta đã bỏ trốn sáng nay sau một trận cãi vã. Nỗi lo sợ của bà ta thật rõ ràng, ngay cả khi bà cố gắng không biểu lộ sự hoảng hốt.

    Tôi đưa máy cho Alice để trấn an bà ta. Không muốn trở thành người thiếu tế nhị, tôi ra ngoài hút một điếu thuốc, chống khuỷu tay lên mui xe, nhưng tôi nghe được phần lớn cuộc trò chuyện. Họ nói chuyện rất lâu qua điện thoại. Alice xin lỗi và rơi nước mắt. Khi cô bé đưa điện thoại lại cho tôi, tôi đề nghị bà Kowalski để mình đưa cô bé về nhà. Tôi chỉ phải « đi xuống phía Nam » vì đám tang của cha và tôi có thể đến Antibes vào buổi sáng.

    Bà ta do dự một hồi lâu nhưng cuối cùng cũng đồng ý.

    *

    Chúng tôi đã đi được nửa giờ.

    Dưới tiết trời xám xịt và những bông tuyết, chúng tôi đã lên đường cao tốc Mặt Trời và vừa mới đi qua Évry. Alice đang chìm đắm trong những tờ báo Mỹ mổ xẻ chi tiết những mặt trái nghề nghiệp cũng như đời sống riêng tư của tôi.

    - Vợ chú thật là đẹp... cô bé nói trong khi nhìn chăm chú vào một bức ảnh của Francesca.
    - Ừ, đây là câu nói mà chú được nghe ít nhất một lần mỗi ngày từ mười năm qua...
    - Và điều này làm chú mệt mỏi sao ?
    - Cháu cũng biết rồi đó.
    - Tại sao ?
    - Nếu cô ấy không đẹp như vậy, có thể cô ấy đã không lừa dối chú.
    - Cháu nghĩ là điều đó chẳng liên quan gì cả, cô bé nhận xét một cách già dặn hơn so với tuổi 15 của mình.
    - Tất nhiên là có chứ. Cháu càng xinh đẹp, cháu càng nhận được nhiều lời khen, và nhiều sự cám dỗ hơn. Điều đó là tự nhiên...
    - Nhưng đó cũng là điều tương tự đối với chú, không phải sao ? Trong những chương trình của mình, chú vào vai một bếp trưởng quyến rũ mà...
    - Không ! Tôi ngắt lời cô bé. Nó không giống như vậy. Chú không phải là người như thế.
    - Như thế là thế nào ?
    - Cháu làm chú bực mình đấy.
    - Câu trả lời hay thật, cô bé nhận xét.

    Trước sự im lặng của tôi, cô bé mở radio và dò tần số. Tôi nghĩ rằng cô bé muốn tìm một kênh « âm nhạc của giới trẻ », nhưng cuối cùng cô bé dừng lại ở kênh Nhạc Pháp. Ngay lập tức, Alice bị cuốn theo bản nhạc : một bản piano thanh lịch và tinh tế.

    - Thật là hay, tôi nói.
    - Schumann, Davidsbundlertanze, bản số 6.

    Tôi tin là cô bé đã mặc kệ tôi cho đến khi bản nhạc kết thúc và khi người giới thiệu cất tiếng nói :

    « Các bạn đang lắng nghe Maurizio Pollini với nhạc phẩm Davidsbundlertanze của Rober Schumann. »

    - Tuyệt vời !

    Cô bé tỏ ra khiêm tốn.

    - Cũng dễ thôi mà.
    - Chú không biết gì về Schumann. Dù sao thì chú cũng chưa bao giờ nghe những bản nhạc này.
    - Chúng được dành cho Clara Wieck, cô gái trẻ mà ông ấy yêu thương.

    Cô bé im lặng một lát trước khi đưa ra nhận xét :

    - Đôi lúc tình yêu phá hủy, đôi lúc nó lại kết tinh trong những tuyệt tác nghệ thuật...
    - Cháu chơi piano à ?

    Cô bé ngừng một lúc trước khi trả lời. Một biểu hiện của sự kiềm chế mà cô bé đã thể hiện rất nhiều lần trong đêm nay, giống như cô bé lúc nào cũng sợ mình sẽ cư xử một cách vụng về hoặc là sẽ nói ra quá nhiều điều riêng tư bí mật.

    - Không, cháu chơi violon (vĩ cầm). Âm nhạc là niềm đam mê của cháu.
    - Thế còn trường học, cháu học ổn chứ ? Cháu đang học lớp mấy ?

    Cô bé cười :

    - Đủ rồi, chú đừng tưởng rằng có thể ép cháu nói chuyện được.
    - Thế còn cuộc bỏ trốn này, nó là để chứng minh cho điều gì ?
    - Lần này thì chính chú là cho cháu bực mình đấy, cô bé nói trong khi quay trở lại với những tờ báo.

    *

    23 giờ

    Alice đã ngủ say từ hai tiếng trước, nhưng đã tình dậy ở Beaune khi chúng tôi vẫn đang đi trên đường A6 về hướng Lyon.

    - Đám tang của cha chú dự kiến vào lúc nào ? Cô bé hỏi trong khi dụi dụi mắt.
    - Ngày mốt.
    - Tại sao ông ấy mất ?
    - Chú chẳng biết nữa.

    Cô bé nhìn tôi một cách kì lạ.

    Chúng tôi đã không nói chuyện với nhau từ mười lăm năm nay, tôi nói với vẻ trốn tránh.

    Nhưng bởi vì tôi không hề cảm thấy tội lỗi gì, tôi thú nhận thêm :

    - Ba chú có một nhà hàng, La Chevalière, một nơi rất bình thường, tại quảng trường La Libération ở Auch. Cả cuộc đời của mình, ông đã mơ về việc sở hữu một ngôi sao trong Guide Michelin, nhưng chưa bao giờ ông đạt được điều đó.

    Tôi lái ra làn xe khác trước khi tiếp tục.

    - Mùa hè năm chú mười bốn tuổi, chú làm việc tại nhà hàng như một người phụ tá. Buổi tối, sau khi đóng cửa, chú ở lại trong bếp để thực hiện ý tưởng của mình. Chú đã tạo ra được ba món ăn và hai món tráng miệng mà, cùng với sự thích thú của bếp phó, ba chú đã muốn thêm chúng vào thực đơn. Một cách nhanh chóng, tiếng lành đồn xa, người ta kéo đến nhà hàng để đặc biệt thưởng thức những món ăn đó. Những món ăn của chú. Ba chú không chấp nhận việc bị đứng sau cái bóng của chú. Vào ngày khai giảng, để tránh xa chú, ông đã đăng kí cho chú vào một trường nội trú ở Sophia-Antipolis, phía đông nam của Pháp.
    - Điều đó thật khó khăn...
    - Phải. Và trong những tháng sau đó, Michelin đã trao cho nhà hàng gia đình chú một sao vì những sáng tạo mới của nó ! Cha chú đã giận chú vô cùng, giống như thể chú đã phá hỏng đi ngày đẹp nhất trong cuộc đời ông ấy.
    - Thật là ngu ngốc !
    - Đó là bước đầu tiên dẫn đến sự rạn vỡ trong quan hệ của hai cha con.

    Cô bé lấy tờ Time Out New York dưới chân mình và chỉ cho tôi xem đoạn cô bé đã khoanh tròn.

    - Còn chuyện này, là thật hay chỉ là lời đồn ?
    - Đọc hay lái xe, chú phải chọn lựa à...
    - Người ta nói rằng chú đã quyến rũ vợ mình chỉ với một cái bánh macaron !
    - Đúng là bọn họ đã rút ngắn quá nhiều, tôi cười và nói.
    - Kể cho cháu nghe đi !
    - Vào lúc đó, Francesca vừa mới đám cưới với một ông chủ ngân hàng. Cô ấy đang đi hưởng tuần trăng mật tại Côte d'Azur trong khách sạn mà chú làm việc. Chú đã yêu cô ấy ngay từ cái nhìn đầu tiên, giống như người ta bị nhiễm virus. Sau đó, vào buổi tối, chú gặp lại cô ấy ở bãi biển, nhưng không có chồng cô ấy. Cô ấy đi dọc theo những ngọn sóng và hút thuốc. Chú đã hỏi rằng cô ấy thích món tráng miệng nào. Cô ấy nói là món gạo sữa vani mà bà cô ấy làm...
    - Rồi sau đó ?
    - Chú đã trải qua đêm đó bằng việc gọi điện thoại sang Mỹ. Chú đã nói chuyện được với bà cô ấy để lấy được công thức chính xác của món tráng miệng đó, và ngày hôm sau chú đã làm việc cả ngày để làm ra một chiếc bánh macaron vị gạo sữa. Chú đã làm 12 cái và rồi tặng cho cô ấy. Sau đó thì giống như những gì người ta đã nói.
    - Chú khá đấy, cô nhỏ đồng thuận.
    - Cám ơn cháu.
    - Cơ bản, chú cũng giống như Schumann, cô bé đùa. Để làm người mình yêu vui sướng, ông ấy đã viết những bản nhạc. Còn chú, chú làm cho cô ấy những cái bánh macaron !

    *

    Chalon-sur-Saône, Tournus, Mâcon... Đã là nửa đêm khi chúng tôi nhìn thấy bảng chỉ dẫn : « Lyon : 60 km ».

    - Happy New Year, Alice nói.
    - Bonne Année (chúc mừng năm mới), tôi đáp lại.
    - Cháu đói quá...
    - Chú cũng vậy. Mình sẽ dừng lại ở một trạm nghỉ để mua sandwich.
    - Bánh mì sandwich ! Cô bé kêu lên. Cháu đón mừng năm mới với bếp trưởng lớn nhất thế giới và ông ấy lại muốn tôi ăn những chiếc bánh sandwich đáng chết gói trong giấy ni lông !

    Lần đầu tiên sau một tuần, tôi được một tràng cười thoải mái. Cô bé này có đầu óc thật phong phú.

    - Vậy cháu muốn mình làm gì đây ? Chú không thể nấu nướng gì được cho cháu khi ta đang ở trên xe.
    - Mình có thể dừng lại ở đâu đó ?

    Sau 450 cây số chạy không ngừng nghỉ, cả hai chúng tôi đều đã mệt nhoài.

    - Cháu nói đúng : chúng ta xứng đáng được nghỉ ngơi một chút.

    20 phút sau, tôi đi theo hướng « Ga Perrache », rồi tiếp tục hướng về trung tâm thành phố, nơi tôi sẽ đỗ xe tại một chỗ dành cho việc chuyển hàng.

    - Đi theo chú.

    Mặc kệ cái lạnh, thành phố vẫn rất nhộn nhịp : âm nhạc, sự ồn ào, những kẻ nói năng tục tĩu, những gã hát rống lên những bài hát dâm tục,...

    - Cháu chưa bao giờ thích ngày 31 tháng 12 cả, Alice nói trong khi kéo khóa chiếc áo gió của mình lên tận cổ.
    - Chú cũng vậy.

    Tôi đã không đặt chân đến Lyon từ rất lâu rồi. Vào năm 17 tuổi, tôi đã từng làm phụ bếp trong vòng ba tháng tại một nhà hàng gần Opéra, ở góc đường Longue và đường Pleney.

    - Đóng cửa rồi, Alice nói khi đến trước nhà hàng La Fourchette bên tay trái.
    - Thật ra đó chính là điều chú mong muốn. Vào thời điểm mà chú làm việc, ông chủ đã đóng cửa nhà hàng vào ngày Noël và năm mới.

    Ở đầu đường có một ngõ hẹp nối với đường Plâtre. Ở chính giữa vỉa hè, tôi biết có một cánh cửa dẫn đến một cái sân nhỏ, từ đó có thể đi vào nhà bếp. Rõ ràng nó đã được khóa lại, nhưng đêm đó, tôi đã phạm luật đủ nhiều để không bị chi tiết nhỏ này làm cho bối rối.

    *
    Khu vực bếp của nhà hàng rất hiện đại, hoàn toàn sạch sẽ và ngăn nắp.

    - Chú chắc là không có báo động chứ ? Alice hỏi trong khi quan sát một cách lo lắng tấm kính cửa sổ mà tôi vừa mới làm vỡ.
    - Nghe này, chú không chắc chắn về gì cả, nhưng nếu điều đó không làm cháu yên lòng, cháu có thể trở lại xe hơi. Cháu chắc là sợ lắm nhỉ.
    - Không, cháu không sợ ! Cô bé chống chế.
    - Nhưng mà cháu có thể phá phách trong lúc chú nấu nướng thì sao...

    Cô bé nhìn tôi với vẻ thách thức.

    - OK, cháu sẽ làm mì Ý còn chú thì làm bánh macaron, được chứ ?
    - Bánh macaron ? Không, chú không thể. Chú cần ít nhất 24 tiếng để làm ra được thứ bánh này cho đúng với tên của nó. Nếu ta không để chúng trong tủ lạnh, chúng...
    - Phải, cháu hiểu : chú không làm thì thôi.

    Ánh nhìn của cô bé đã kích động tôi :

    - Thôi được rồi. Cháu định làm mì Ý như thế nào ?
    - Với sốt pesto, cô bé trả lời trong khi mở một trong những ngăn tủ lạnh. Trong tủ lạnh có rau quế tươi.

    Cô bé bắt đầu thu thập nguyên liệu và tôi cũng chuẩn bị phần tôi bằng cách làm nóng lò.

    - Đưa chú cái « đít con gà » kia nào! Tôi nói và chỉ vào cái tô đựng salad bằng Inox.

    Từ ngữ mà tôi dùng làm cô bé khẽ cười. Nụ cười của cô bé thật là hiếm hoi nhưng cũng rất xinh đẹp.

    Trong cái tô đó, tôi cho đường vào, rây vào bột hạnh nhân và cacao. Cô bé thì rửa rau quế trong nước ấm và cắt bỏ ngọn đi chỉ để lấy lá rồi sau đó để cho ráo.

    - Grana Padano hay Parmigiano Reggiano ? (2 loại phô mai) Cô bé do dự.
    - Parmigiano ! Tại sao cháu lại bỏ trốn ? Tôi bất ngờ hỏi trong khi nhìn cô bé đang nạo phô mai.
    - Cháu...cháu có bạn trai ở Paris mà cháu đã gặp trong một chuyến du lịch đến Pháp do trường tổ chức. Cháu muốn đến gặp cậu ấy, nhưng ba mẹ cháu không đồng ý.

    Cảm thấy không thoải mái, cô bé trả lời tôi một cách ngắt quãng, trong lúc lựa chọn từ ngữ, cô bé hay gãi mũi và cằm, tránh nhìn thẳng vào tôi. Những dấu hiệu đó làm tôi nghĩ đến việc rằng cô bé đang nói dối.

    - Cả hai ta đều biết rằng đây không phải là sự thật đúng không ?

    Ánh nhìn của cô bé như đang bám vào tôi, cầu khẩn tôi đừng tìm cách để biết nhiều hơn nữa.

    Tôi quay lại với công thức của mình, đổ hỗn hợp bột cacao vào chỗ lòng trắng trứng đã được đánh bông trong khi cô bé trộn trong chiếc tô hỗn hợp phô mai, lá quế, hành, tỏi và dầu ôliu..

    Khi hỗn hợp đã được trộn kĩ, tôi cho nó vào túi bắt kem và tạo ra những hình tròn theo dạng bánh macaron.

    Cô bé nếm thử món mình chuẩn bị, vừa thêm gia vị và dầu vừa tiếp tục trộn để có được một loại sốt sệt sệt không quá đặc.

    - Ai đã dạy cháu làm nó thế ?
    - Cháu tự học thôi, cô bé trả lời như một điều hiển nhiên.

    Trong khi chờ vỏ bánh cứng hơn, tôi chuẩn bị phần nhân trong khi cô bé luộc mì Ý làm hoàn toàn từ bột mì trong nước sôi.

    Trong mấy cái tủ, tôi tìm thấy một loại sô cô la không đến nỗi tệ. Alice nhón lấy một mẩu trong khi tôi lấy ba thanh để chuẩn bị phần kem của mình.

    - Để bánh được mịn, chúng cần phải được ở trong tủ lạnh nhiều giờ.

    Tôi nhìn đồng hồ. Đã gần 2 giờ sáng.

    Tôi nướng bánh macaron đồng thời bật nhỏ nhiệt độ của lò lại.

    - Chú vẫn chưa kể cho cháu nghe vì sao chú lại đóng cửa nhà hàng và để cho nó lăn lông lốc như thế, cô bé nói trong khi tự lấy cho mình một ly sữa.
    - Phức tạp lắm, cháu không hiểu đâu...

    Vào lúc đó, tôi nghĩ về sự tham lam của Win Entertainment, nơi đã buộc tôi phải bán tất cả tài sản của mình để tránh việc phá sản đồng thời đã sở hữu lại cả tên tuổi và công việc của tôi. Từ lúc đó, tất cả nhà hàng thuộc tập đoàn đó đều có quyền đưa những món ăn của tôi vào thực đơn của họ. Cả một quá trình sáng tạo bị lấy đi không chút đắn đo bởi những kẻ ngu ngốc. Sự phá sản của một cuộc phiêu lưu mà tôi đã dâng hiến cả thể xác và tâm hồn mình từ khi tôi chỉ mới mười sáu tuổi...

    Có một con dao bằng ngà màu đen nhánh đang nằm trên bàn. Tôi cầm lấy cán của nó và tung nó lên. Con dao làm vài vòng trên không trung trước khi dừng lại ngay chính giữa cánh cửa với một âm thanh khó nghe.

    - Chỉ có một « Hoàng đế » (l'empereur).Và Hoàng đế (Lempereur), chính là tôi.

    Không nói lời nào, Alice đến gần cánh cửa và rút con dao ra ngay đúng lúc mà tiếng chuông của đồng hồ hẹn giờ báo hiệu bánh macaron đã chín.

    *

    Tôi đổ một ít nước lên giấy nến và hơi nước giúp cho bánh có thể được lấy ra dễ dàng hơn.

    - Thật lành nghề, Alice nhận xét.

    Cô bé giúp tôi khéo léo cho nhân vào một nửa số vỏ bánh trước khi úp những chiếc vỏ còn lại lên để tạo thành bánh macaron.

    - Để làm đúng cách, ta phải để chúng trong tủ lạnh 24 giờ, nhưng giờ để cho nhanh, ta sẽ để chúng 1 giờ trong tủ đông.

    Trong lúc đó, Alice dọn ra hai dĩa mì Ý và chúng tôi đã ăn rất ngon miệng. Trong bữa ăn, cô bé đã kể cho tôi nghe một đống các giai thoại : nào là ở tuổi mười bốn Mozart đã có thể viết lại được phần bí mật của bản Misere d'Allegri dù chỉ nghe qua có một lần, nào là Adagio d'Albinoni không phải là Albinoni, nào là cuối đời Picasso kí tên những bức vẽ của mình lên chính da của những người ngưỡng mộ ông để tránh việc họ sẽ bán chúng lại, nào là trong bài hát Hey Jude của The Beatles, nhóm chỉ chơi có đoạn thứ ba bởi vì Ringo Starr bận đi toalet !

    Khi cô bé đã thư giãn và dần tin tưởng hơn, giọng của cô bé thay đổi mà chính cô cũng không nhận thức được. Âm điệu giọng nói trong trẻo hơn, âm sắc cũng cao hơn. Điều này, cô bé làm tôi liên tưởng đến anh em Gallenger (ca sĩ và tay guitar của nhóm nhạc rock Oasis, cả hai đều từ Manchester) và tôi cược rắng cô bé này đã từng sống ở phía bắc nước Anh.

    Mặc dù có một lượng kiến thức khổng lồ về văn hóa, nhưng cô bé không phải tỏ ra mình là thông thái, chỉ là luôn tò mò về mọi thứ và có hứng thú muốn chia sẻ về kiến thức của mình. Một đứa trẻ là niềm mơ ước của mọi bậc phụ huynh...
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  4. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 20: Trần trụi


    Nỗi đau của tôi đến từ rất xa

    Flannery O'Connor
    San Francisco
    Tối thứ hai
    Hai giờ sáng

    Trong khi bỏ tai nghe ra, Jonathan nhận ra rằng một dòng nước mắt đang lăn trên má anh. Sự hồi tưởng về những khoảnh khắc của thời kì đen tối nhất trong cuộc đời anh thật là khó khăn.

    Cô bé Alice Kowalski mà anh đã gặp trên đường kia liệu có phải là Alice Dixon, nạn nhân của Kẻ sát nhân của Liverpool ?

    Mặc dù anh đã kiểm tra và xem xét kĩ lại ngày tháng, có một cái gì đó không khớp lắm. Madeline đã nhận được quả tim của Alice vào ngày 15 tháng 6 năm 2009. Bằng phương pháp xác định tính gia truyền, các phòng thí nghiệm khoa học đã chính thức xác nhận nó là của cô bé bị mất tích. « Không có một nghi ngờ nào hết », thậm chí một báo cáo đã dẫn chứng.

    Nhưng Jonathan đã gặp Alice Kowalski vào đêm 31 tháng 12 năm 2009.

    Gần sáu tháng sau !

    Anh mở nút chai vodka và lại rót cho mình một ly. Vẫn còn sốc vì khám phá của mình, anh cố gắng giữ bình tĩnh, xem xét một cách cẩn thận tất cả những ý tưởng trong đầu mình.

    Giả thiết thứ nhất : hai cô bé Alice này không liên quan gì đến nhau. Tất cả chỉ là một sự tình cờ hoặc trùng hợp : cùng một chiếc áo pull lót vải bông, cùng một huy hiệu của đội bóng, cùng một đam mê âm nhạc, cùng một ngoại hình. Thật khó để tưởng tượng, nhưng tại sao không...

    Khả năng thứ hai : Alice có một chị em sinh đôi bí mật. Không. Thật ngu ngốc. Tại sao một cô bé được sống trong một gia đình Mỹ giàu có trong khi cô bé còn lại sống trong một khu phố ổ chuột của Manchester ?

    Lựa chọn thứ ba. Hai Alice này thật ra chỉ là một. Trong trường hợp này, hoặc là phòng thí nghiệm đã lầm trong việc phân tích ADN của tim (ít khả năng), hoặc là Alice đã trải qua một cuộc cấy ghép tim (cũng không đáng tin, chưa kể đến việc trái tim được đưa đến cho cảnh sát đã không được lấy ra theo các quy tắc phẫu thuật, mà hoàn toàn bị chặt một cách vụng về).

    Tình huống cuối cùng : một sự giải thích siêu nhiên, theo dạng một sự hiện thân, nhưng ai sẽ tin vào cái giả thiết ngu ngốc này ?

    Jonathan tiếp tục suy nghĩ một vài phút trước khi nhận ra thời gian trôi qua quá nhanh. Anh quay trở lại phòng mình, nơi mà anh cảm thấy mình không thể nào ngủ được. Từ ngày đầu tiên, anh đã có cảm giác điên rồ này rằng cuộc sống của anh và Madeline bị gắn kết bởi một sợi dây vô hình nào đó. Đêm nay, anh đã phát hiện ra mắc xích còn thiếu : Alice.

    Madeline, Alice...
    Anh nợ những lời giải thích đối với người đầu tiên.
    Anh lại mang một món nợ khác đối với người thứ hai.

     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  5. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 21: The wild side

    Sự cám dỗ không chỉ là nỗi sợ hãi bị cuốn đi.

    Đó chính là tiếng nói từ sâu thẳm bên trong,

    nó thu hút và lôi kéo ta, là nỗi khao khát một thất bại

    mà ta sẽ phải chống lại với một nỗi sợ kinh hoàng.

    Milan KUNDERA
    Paris, Montparnasse
    Thứ 3 20 tháng 12
    19h20

    Trước tấm gương trong căn hộ của mình, Madeline chỉnh sửa lại trang phục của mình : cô trang điểm một cách sang trọng và cẩn thận, dùng giày cao gót để tôn dáng và mặc đầm lụa đen. Mọi thứ làm tôn lên vẻ đẹp của đôi chân : chiếc đầm không quá ngắn cũng không quá dài, chỉ trên đầu gối một chút. Tối nay, cô tự cho rằng mình đang « làm nhiệm vụ », và theo quan sát từ những cô nàng nóng bỏng đã từng cùng George lên giường, chắc chắn rằng cô phải đủ hấp dẫn nếu cô muốn thành công trong việc bẫy hắn ta.

    Cô mặc chiếc áo măng tô bằng vải gabadin mà Raphael đã tặng và rời khỏi căn hộ, tự cảm thấy mình đủ quyến rũ để lừa gạt kẻ thù.

    Vào giờ đó, xe cộ qua lại vô cùng tấp nập. Mặc kệ trời lạnh, cô vẫn thích đi metro hơn taxi và vội vàng đi vào bến Raspail.

    Montparnasse, Pasteur, Sèvres-Lecourbe... (tên các bến metro)

    Đoàn tàu chật ních người. Phần lớn hành khách trở về nhà sau giờ làm, những người khác thì đi ăn tối hay đi xem biểu diễn, những người khác nữa thì đang tất bật chuẩnn bị mua sắm cho Noël. Madeline mở túi xách ra : trong đó có khẩu súng Glock 17 - vũ khí dùng cho công việc trước đây của cô – và một quyển sách nhỏ – Le Cavalier suédois (Kỵ sĩ Thụy Điển), mà người bán sách đã giới thiệu cho cô từ lâu.

    Cambronne, La Motte-Picquet, Dupleix, Bir-Hakeim...

    Đứng đối diện các dãy ghế, cô quan sát xung quanh mình. Cô cho rằng càng ngày càng ít người đọc sách trên các phương tiện giao thông. Giống như những nơi khác, người ta dán mắt vào màn hình điện thoại, nhắn tin, chơi trò chơi, nghe nhạc. Cô cố gắng tập trung vào quyển truyện, nhưng rồi cảm thấy mình không thể. Quá đông người, thêm cả chen lấn xô đẩy, và nhất là sức nặng của cảm giác tội lỗi đang đè nặng lên vai cô. Từ ngày thứ bảy, cô đã nói dối Raphael. Và những lời nói dối của cô càng ngày càng bớt ngây thơ. Chiều nay, cô đã làm anh tin rằng cô đang trên đường đến dự đám tang của con gái một người bạn. May mắn là anh không hề nghi ngờ hay đề phòng gì, nếu không, đối với anh sẽ không khó để vạch trần cô.

    Passy, Trocadéro, Boissière, Kléber,...

    Đúng như cô mong đợi, George LaTulip không hề chậm chân trong việc liên lạc lại với cô. Một vài giờ sau vụ « tai nạn », hắn đã gọi đến cửa hàng của cô để đề nghị mời cô ăn trưa. Để kích thích hắn, ban đầu cô giả vờ từ chối, và may mắn thay hắn ta đã nài nỉ, và lần này, cô chấp nhận lời mời ăn tối. Cô biết rõ những kẻ như George. Trong những bài báo phân tích tâm lý trên các tờ tạp chí dành cho phụ nữ, người ta gọi họ là « những chàng trai quyến rũ không kiểm soát được ». Trên thực tế, họ được gọi là những tay sát gái. Chỉ khác nhau ở tên gọi mà thôi...

    Cô xuống ở trạm cuối của tàu 6. Ngay khi bước ra khỏi metro, cô bị choáng ngợp bởi vô số những ánh đèn lung linh. Trên hơn hai cây số, từ quảng trường Concorde đến Étoile, hai hàng cây trên đại lộ đẹp nhất thế giới này được trang trí bằng những dãy đèn màu xanh lấp lánh. Ngay cả người Paris lãnh đạm nhất cũng không thể thờ ơ trước sự kì diệu của cảnh tượng này.

    Cô kéo lại áo khoác, tiến vào đại lộ Hoche và đi bộ đến nhà hàng Royal Monceau.

    Cô thật là xinh đẹp, George chào đón cô.

    Hắn đã không làm cô thất vọng. Phòng ăn của tòa nhà được bày trí hài hòa với những hàng cột, những chiếc ghế bành da màu kem, và với sự phối hợp giữa ghế dài bằng kim loại, quầy bar trong suốt,...

    - Cô thích cách trang trí chứ ? Hắn hỏi cô trong khi một người phục vụ đưa họ tới một cái bàn nhỏ trong một góc kín đáo.

    Madeline lắc đầu.

    - Nó được trang trí bởi Starck. Cô có biết rằng chính ông ta cũng « mặc trang phục » cho nhà hàng của tôi chứ ?

    Không, cô không biết.

    Kể từ lúc đó, cô gần như không nói gì, vui vẻ với việc mình xinh đẹp và đang tươi cười, giả vờ ngưỡng mộ trước sự tán tỉnh của gã George sát gái kia. Bài diễn văn của hắn thật trôi chảy. Một cách thoải mái, hắn thể hiện màn đối thoại của cả hai người, hắn nói về những chuyến du lịch, về những môn thể thao khó nhằn mà hắn đã thử chơi, về David Guetta và Armin van Buuren mà hắn « đặc biệt quen biết », về khung cảnh đêm của Paris mà theo hắn là « buồn, đau thương và gần như chết chóc ».

    - Đúng là đặc biệt nghiêm trọng : không còn một văn hóa ngầm đúng nghĩa ở thủ đô. Những DJ tên tuổi và sáng tạo nhất đã di cư hết sang Berlin hoặc Luân Đôn. Nếu cô thật sự muốn tiệc tùng, hôm nay, cô phải lên máy bay ngay !

    Madeline nghe một cách thờ ơ những lời mà có lẽ hắn đã nói đi nói lại cả trăm lần. Khi người phục vụ mang đến cho họ món ăn – trứng luộc với tôm càng và nấm, thịt bê sốt với cà rốt... - cô nghĩ đến việc Jonathan sẽ nghĩ gì nếu anh ở đây.

    Sau khi đã thưởng thức xong món tráng miệng – một chiếc bánh mille-feuille sô cô la chanh ngon tuyệt - , cô đồng ý đi uống một « ly cuối cùng » tại nhà George.

    Cô ngồi vào ghế hành khách của chiếc Porsche mà người lái xe vừa lái đến. Trước khi khởi động xe, LaTulip xoay người về Madeline và ôm hôn cô.

    Chắc chắn rồi, những tên này chả e ngại gì cả.

    Cô cười với hắn, tỏ vẻ yêu thích điều đó và đáp trả lại nụ hôn của hắn.

    *
    Vào lúc đó, ở San Francisco...

    Đồng hồ ở sân bay chỉ đúng 12 giờ trưa. Jonathan ôm lấy con trai và đặt cậu bé xuống đất. Vé máy bay cầm trên tay, anh đưa mắt về phía Marcus.

    - Nào, tôi giao Charly cho cậu trong hai ngày. Alessandra ở lại trong thành phố vào kì nghỉ, cô ấy có thể đến giúp cậu. Về phần nhà hàng, tôi đã hủy tất cả những lời đặt chỗ cho đến hết tuần.
    - Cậu chắc là mình sẽ bay đến đó chứ ?
    - Chắc chắn.
    - Tôi hoàn toàn mù mờ về thứ cậu sẽ tìm kiếm ở Luân Đôn.
    - Thật ra, tôi sẽ đến Manchester. Chắc chắn là tôi phải gặp ai đó, và tôi phải kiểm tra hai hay ba điều...
    - Và điều đó không thể đợi được sao ?
    - Không.
    - Cậu không muốn giải thích cho tôi nghe à ?

    Jonathan tỏ vẻ lẩn tránh :

    - Tôi có một món nợ phải trả, những bóng ma phải đuổi bắt, một vài góc tối cần được soi sáng...
    - Chúng có liên quan đến người phụ nữ đó, Madeline Greene ?
    - Tôi sẽ kể cho cậu nghe khi tôi nhìn rõ được mọi chuyện. Trong lúc chờ đợi, hãy chăm sóc Charly.
    - Tất nhiên rồi.
    - Đối với cậu, đó là không uống một giọt rượu, không có gái điếm trong nhà, không có ồn ào, tụ tập, những thứ thô thiển, dơ bẩn, và...
    - Tôi chắc là tôi đã hiểu rồi.
    - Và đối với cậu bé, đó là đánh răng vào buổi sáng, trưa và tối, không có phim hay hoạt hình bạo lực, không có truyền hình thực tế, không có đồ ăn vặt mỗi năm phút, ít nhất 5 loại trái cây hoặc rau củ mỗi ngày, mặc đồ ngủ và lên giường vào lúc 20 giờ.
    - Hiểu rồi.
    - Mọi thứ đã rõ hết chứ ?
    - Rõ như ban ngày vậy, Marcus trả lời, làm cho Charly phì cười.

    Jonathan lần lượt siết chặt từng người trong vòng tay một lần cuối trước khi tiến vào phòng cách ly.

    Chuyến bay của British Airways về hướng Luân Đôn cất cánh từ San Francisco lúc gần 13 giờ. Nhìn qua ô cửa, Jonathan cảm nhận được một vết cứa trong tim.

    Liệu có phải là một ý hay khi không dành thời gian với con trai mà anh chỉ được gặp vào dịp nghỉ lễ Noël ? Chắc chắn là không. Tuy nhiên anh tự bắt mình phải xóa bỏ những đắn đo. Hiện tại, anh đã không thể quay lại được nữa. Anh phải hiểu, phải đi đến tận cùng của bí ẩn, bên cạnh những kí ức và những điều còn mù mờ. Sau Madeline, đến lượt anh phải đối mặt với bóng ma của Alice Dixon.

    *
    Paris

    George mời Madeline vào trước trong chiếc thang máy nhỏ. Hắn đóng cửa lại, ấn nút lên tầng 5 và dán lưỡi mình vào miệng cô gái trẻ. Một tay hắn hướng về ngực cô trong khi tay kia đang lần mò cởi chiếc áo đầm của cô.

    Madeline cảm thấy cổ họng mình thắt lại, nhưng cô đã giữ được cảm giác khó chịu. Cô ở đây để làm nhiệm vụ.

    Làm NHIỆM VỤ.

    Căn nhà của George chiếm hai tầng trên cùng của tòa nhà. Được bố trí như một cái lồng, đó là một căn hộ hiện đại với cách trang trí tối thiểu với chút nhấn nhá theo kiểu công nghiệp. Một cái cầu thang bằng thép nối hai tầng với nhau.

    George cởi áo măng tô của khách mời ra và lướt nhẹ qua một công tắc bằng thủy tinh làm âm nhạc bật lên ngay tức thì :

    - Em thích chứ ? Đây là Progressive Trance được mix bởi một người Đan Mạch : Carl Karl, ông hoàng âm nhạc ở Berlin. Đối với tôi giống như một Mozart mới vậy.

    Còn anh thì thật là ngu ngốc, Madeline nghĩ trong đầu khi tặng cho hắn nụ cười dễ thương nhất.

    Bây giờ khi chỉ còn có hai người, cô cảm thấy khó chịu. Tim cô đập mạnh trong lồng ngực. Cô có chút sợ hãi về những điều sắp xảy ra. Một phần trong cô muốn mình đang ở một nơi khác, với Raphael, trong sự tiện nghi êm ái tại nhà của anh. Nhưng mặt khác trong cô, một phần nguyên vẹn khác, cảm nhận được một sự phấn khích tột cùng dưới tác động của hiểm nguy.

    - Em làm cho anh một ly Pink Pussy Cat nhé ? Cô đề nghị trong khi tiến ra sau quầy bar.

    Khi nghe thấy từ pussy (âm hộ), George lè nhè một cách thỏa mãn. Hắn đi đến sau lưng cô, đặt tay lên hông cô trước khi lại đưa chúng lên ngực cô.

    - Chờ đã, anh yêu, em sẽ cởi ra hết mà ! Cô nói trong khi nhẹ nhàng lách ra.

    Cô chộp lấy hai cái ly và đồ đầy đá vào đó.

    - Tôi có quà cho em đây ! Hắn nói trong khi lấy từ túi ra hai viên nén nhỏ màu hồng được tô điểm bởi một ngôi sao.

    Là thuốc lắc...

    Cô lấy một viên và nháy mắt với hắn.

    - Anh phải giảm ánh sáng đi chứ, cô đề nghị trong khi giả vờ như đã nuốt viên thuốc.

    Cái thứ gây u mê này sẽ phá hỏng hết kế hoạch của cô.

    Cô nhanh chóng rót vodka vào hai cái ly mà cô đã cho nước bưởi hồng và một ít xirô lựu. Cô tận dụng một phút không để ý của George để cho vào ly của hắn một lượng Rohypnol, một loại thuốc gây mê đủ mạnh mà các tên trộm hay sử dụng.

    - Cạn ly ! Cô nói khi đưa hắn ly Pink Pussy Cat.

    Chúa phù hộ, không cần mất công năn nỉ để George nốc cạn ly cocktail, nhưng ngay khi hắn bỏ ly xuống, hắn đẩy Madeline xuống một chiếc ghế nhỏ bọc vải đen lốm đốm.

    Hai tay hắn ôm lấy đầu cô, đưa môi cô về phía môi hắn để mang lại một nụ hôn mà theo hắn là đầy xúc cảm. Hắn đưa lưỡi vào miệng cô, cởi chiếc đầm của cô cho đến khi để lộ ra áo ngực rồi cởi chúng từ phía trên, vuốt ve ngực cô, mút rồi cắn vào núm vú cô.

    Cô cảm thấy khuôn ngực của mình như bị nén lại. Cô thấy khó thở. Cơ thể của George dán vào người cô thật nặng nề, thô bạo, tỏa ra một sức nóng và một mùi khó chịu. Nước bọt của hắn nóng và mặn gây cho cô cảm giác khó thở và buồn nôn. Một cách phấn khích, George chi phối cô, ghì lấy cổ cô, cảm giác như hắn đang trong lốt một con sư tử trước khi ngấu nghiến một con linh dương. Cô bị bóp nghẹt và cùng lúc đó, cô cũng đã đồng ý. Không ai ép buộc cô đến cả. Cũng không có ai ép cô ở lại. Cô có thể kết thúc trò chơi chỉ với một lời nói hay một tiếng hét, nhưng cô đã không làm gì cả.

    Để chống lại, cô tập trung vào những thứ xung quanh cô, tập trung vào tiếng động của một tron những chiếc giày của hắn rơi xuống sàn, nhìn chằm chằm lên trần nhà được rọi sáng bởi đèn pha của những chiếc xe hơi chạy trên đường.

    Khuôn mặt của tay chủ nhà hàng dán lên mặt cô. Hắn rời bỏ ngực cô để bắt đầu mân mê hai tai cô.

    - Em thích chứ ? Hắn thì thầm.

    Cô đáp lại bằng một tiếng rên, cảm thấy một sự cương cứng ở phần hông của mình. Bằng một cử chỉ mạnh mẽ, George nắm lấy tay cô và đặt nó lên chỗ ấy của hắn. Madeline nhắm mắt lại và cảm thấy như có hương vị của máu trong miệng mình.

    Tìm kiếm. Biết chắc. Thấu hiểu.

    Điều tra.

    Đó đã là quy tắc của cô từ khi vừa bước chân vào ngành cảnh sát. Cô đã từng là một cảnh sát, cô vẫn là một cảnh sát. Đó là bản chất thật sự của cô. Một ý nghĩ đã khắc sâu vào tâm trí cô và lan tỏa khắp người cô như một căn bệnh.

    Những ngón tay của George bây giờ đang tiến xuống bụng cô, vuốt ve đùi cô, mân mê phần dưới.

    Madeline quay đầu về phía tấm gương lớn trong phòng khách và thấy đôi mắt mình đang sáng lên trong đêm tối. Hương vị của sự cám dỗ, sự mơ hồ của bạo lực, sự cần thiết phải vượt qua ranh giới : phần đen tối mà cô đã kìm nén trong hai năm nay trở lại ngay tức khắc trong cô như một chiếc boomerang. Những kí ức và những cảm giác xưa cũ hiện về ngay trước mắt. Việc gắn liền với nguy hiểm, đây sự phụ thuộc mà nghề này mang lại. Khi cô đối diện với một tên tội phạm nguy hiểm, rất ít thứ có thể cạnh tranh lại khao khát làm việc của cô. Không phải những kì nghỉ, những buổi dạo chơi với bạn bè, thậm chí là quan hệ tình dục. Những cuộc điều tra biến cô trở thành người lập dị, , những bí ẩn đã nuốt chửng lấy cô. Ngày xưa, khi cô đụng phải những vụ việc nghiêm trọng, cô « ở » luôn tại sở cảnh sát, ngủ trong chiếc xe hơi đỗ ở gara hay thậm chí trong những song sắt giam những đối tượng bị tình nghi. Buổi tối hôm đó thì khác. Ít nhất là trên bề mặt. Chắc chắn, không có cái chết nào cả, nhưng bản năng của cô mách bảo phải bám riết theo. Francesca như trở thành nỗi ám ảnh của cô : cái gì có thể khiến người phụ nữ này phá bỏ mối quan hệ vợ chồng và làm tan vỡ gia đình của họ ? Một cách cư xử như vậy chắc chắn ẩn chứa một điều gì đó rất nghiêm trọng...

    Một lúc lâu sau, những ngón tay của George vẫn nán lại trên cơ thể cô, mân mê phần vải bị ướt của áo ngực cô trước khi mất dần sự linh hoạt. Khi cô cảm thấy cơ thể « người tình » của mình đổ gục xuống người cô, cô thoát ra và lách khỏi chiếc ghế như một người thợ phải gấp rút quay về với công việc của mình. LaTulip nằm trên ghế sopha, mụ mị đi vì thuốc mê. Cô kiểm tra để biết chắc rằng hắn vẫn còn thở. Cô hi vọng rằng sự kết hợp giữa thuốc mê và thuốc lắc sẽ không gây ra tác dụng gì có hại.

    *
    23 giờ

    Đừng để mất thời gian. Phải làm việc. Ngay tức khắc.

    Madeline bắt đầu công việc một cách khoa học. Căn hộ này ẩn chứa một bí mật, cô chắc chắn như thế. Trước tiên cô tắt đi thứ âm nhạc ồn ào làm cô khó chịu, mở hết tất cả các đèn và bắt đầu tìm kiếm.

    Căn hộ khá lớn, nhưng có vẻ trống rỗng. Hoặc gần như, mọi thứ đều có chỗ của nó. George là một người tì mì và chắc chắn hắn có thuê một người dọn phòng. Hắn có một phòng thay đồ rộng lớn mà bất cứ cô gái nào cũng ao ước. Trong phòng đọc và trên các kệ, mọi thứ đều được sắp xếp gọn gàng : dụng cụ thể thao, thiết bị hi-fi đời mới nhất, hàng trăm đĩa DVD, một vài quyển sách,... Madeline lục lọi mọi nơi, mở những gì có thể, lật tung mọi ngóc ngách. Kĩ năng này vẫn không hề bị mai một. Cô không biết chắc cái mình tìm là gì, nhưng cô biết rằng có một cái gì đó cần phải được tìm thấy. Có thể là trong đống giấy tờ mà LaTulip để trong những bìa sơ mi chăng ?

    Cô kiểm tra để chắc rằng George vẫn đang ngủ mê, lấy khẩu súng Glock ra phòng trường hợp hắn bất ngờ tỉnh dậy và ngồi vào bàn hắn để xem xét những loại giấy tờ : sao kê ngân hàng, bản khai thuế, hóa đơn tiền điện, hợp đồng nhà đất và sở hữu tài sản. Cuộc « tìm kiếm » này mất một giờ mà chẳng dẫn đến điều gì mà cô chưa từng biết. Tay chủ nhà hàng này có những nguồn phụ thu với tư cách quản lý, nhưng trên hết là giám đốc của tập đoàn DeLillo.

    Madeline bực mình vì đã không tìm kiếm được gì.

    Thời gian trôi qua thật nhanh.

    Vẫn còn chiếc máy tính xách tay bằng nhôm đặt trên chiếc bàn thấp ngoài phòng khách. Cô mở nó lên một cách thận trọng. Khi cô còn là cảnh sát, cô đã có khả năng phân tích nội dung các ổ đĩa với một phương pháp đặc biệt, nhưng khả năng tin học của cô lại khá hạn chế. May thay, chiếc máy tính đã được khởi động, điều này đã giúp cô đỡ phải truy tìm mật mã để đăng nhập vào. Cô thực hiện hai ba thao tác cơ bản, kiểm tra những tập tin ngoài màn hình, xem xét thư mục hình ảnh - nơi chứa đầy các hình ảnh về việc lặn biển –, kiểm tra lịch sử những trang web. Cô lướt nhanh những thư điện tử có trong hộp thư, nhưng vẫn không tìm thấy điều gì hay ho.

    Điều tra là nhấn mạnh.

    Không nản chí, cô lục lọi phần mềm nhắn tin. Tài khoản của George được thiết lập với giao thức IMAP. Madeline cũng làm vậy với tài khoản của mình, điều này giúp cô có thể vừa kiểm tra email trên điện thoại và cả máy tính cá nhân của mình. Không cần phải là một chuyên gia tin học để biết rằng, trong trường hợp này, tất cả những tin nhắn đều được lưu trữ ở máy chủ, ngay cả những tin mà người dùng tưởng rằng mình đã xóa.

    Madeline tiếp tục dạo một vòng qua phần lưu trữ của tài khoản. Có hàng ngàn tin nhắn, được gửi và nhận trong nhiều năm. Cô gõ nhiều từ khóa khác nhau cho đến khi tìm ra được cái thư mà cô chờ đợi. Bằng chứng rằng cô đã đi đúng hướng :

    Từ : Francesca DeLillo
    Đến : George LaTulip
    Chủ đề : Trả lời :
    Ngày : 4 tháng 6 2010, 19:47

    George, em xin anh, hãy hủy bỏ kế hoạch đi gặp Jonathan ở San Francisco. Chúng ta đã quyết định đúng. Đã quá trễ để hối hận, em tin rằng anh đã hiểu khi đọc báo...

    Hãy quên Jonathan và những gì sẽ đến với chúng ta đi. Hãy để anh ấy tự đứng lên.

    Nếu anh nói với anh ấy sự thật, anh sẽ đưa cả ba chúng ta vào một tình huống bi kịch và anh sẽ mất tất cả : công việc, căn hộ và cả chút tiện nghi này nữa.

    F.

    Tin nhắn này rời rạc, nhưng cũng khá thú vị. Không nghi ngờ gì nữa, có những thứ để khám phá khi đọc những dòng này. Cô in bức thư ra, và để chắc chắn hơn, cô gửi một bản đến địa chỉ của mình.

    *
    1 giờ sáng

    Nước đá tạt vào mặt. Rồi đến những cái tát. George mở mắt ngay lúc một chiếc bánh khác bay thẳng vào mặt hắn.

    - Cái gì... ?

    Hắn đang ngồi, bị buộc chặt bởi chính cà vạt của mình vào chiếc ghế salon. Hắn cố gắng để tự giải thoát, nhưng đôi tay hắn đã bị buộc lại phía sau lưng còn mắt cá thì bị gắn chặt với chân ghế. Cách mặt hắn mười centimet, một ngòi súng tự động đang đe dọa hắn. Hắn phải hoàn toàn biết ơn cô gái mà hắn đã không cẩn thận dẫn về nhà và đang « ăn nguội » hắn.

    - Tôi... tôi có thể đưa cô tiền. Có một cái két nhỏ trong tủ quần áo trong đó có ít nhất 20 000 euro.
    - Phải, tôi đã tìm thấy tiền của anh rồi, Madeline trả lời trong khi phe phẩy những cọc tiền trước mặt.
    - Vậy cô còn muốn cái gì nữa ?
    - Sự thật.
    - Sự thật về cái gì ?
    - Về cái này.

    Hắn cúi đầu xuống để nhìn bức thư của Francesca.

    - Cô... Rốt cuộc cô là ai ? Tôi tưởng cô chỉ là một người bán hoa và...
    - Tôi là người phụ nữ đang cầm súng, thế thôi.
    - Tôi không biết cô quan tâm điều gì trong vụ này, nhưng tôi khuyên cô...
    - Ở vị trí của anh, tôi tin rằng anh chẳng có gì để mà khuyên tôi cả. Quay lại với bức thư : tại sao anh lại muốn đến gặp Jonathan Lempereur ở San Francisco ?

    Vô cùng khó chịu, George đổ mồ hôi rất nhiều. Để buộc hắn phải nói, Madeline gia tăng áp lực, ấn đầu súng lên trán tay chủ nhà hàng.

    - Jonathan, đó là người mà tôi nợ tất cả, hắn bắt đầu nói. Anh ấy đã giúp tôi ra khỏi đống rắc rối và nâng đỡ cho tôi những bước đi đầu tiên. Lúc đó anh ấy còn trẻ và tràn đầy năng lượng. Vào thời điểm đó, anh ấy đúng là mẫu người lý tưởng : nhân hậu, có khả năng giúp người khác thoát khỏi quỷ dữ và làm toát lên những giá trị tuyệt vời nhất của họ...
    - Và để cảm ơn anh ấy, anh đã cướp lấy người vợ của anh ta sao ?
    - Hoàn toàn không phải ! Hắn tự bào chữa trong khi trống ngực thì đập liên hồi. Cô tin rằng Francesca có thể yêu được một kẻ như tôi sao ? Cô ấy điên cuồng vì chồng cô ấy thì có !

    Lắc đầu một cái, George chùi mồ hôi đang chảy dọc trên khuôn mặt hắn.

    - Đó là một cặp đôi kì lạ và cuồng nhiệt, hắn tiếp tục. Mỗi người đều bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình đối với người kia. Mỗi người đều muốn làm đối phương kinh ngạc. Họ phân chia nhiệm vụ với nhau, anh ấy thì biểu diễn cùng những chiếc đĩa thức ăn thơm ngon trên tivi, cô ấy thì ở hậu phương, làm công việc khuếch trương sức mạnh tập đoàn. Francesca tôn thờ chồng cô ấy và muốn anh ấy hiểu biết hết về ẩm thực thế giới, nhưng...
    - ...nhưng sao ?
    - Vì muốn tập đoàn nhanh chóng phát triển, cô ấy đã có những quyết định sai lầm về chiến lược dẫn công ty đến bên bờ vực phá sản.

    Lúc này, George nghiến răng ken két. Quầng thâm xung quanh mắt hắn hằn lên như dấu vết của những con bồ hóng. Sự kết hợp giữa thuốc mê và cơn buồn ngủ rõ ràng là không hề mang lại điều gì tốt lành.

    - Những tấm ảnh của anh và Francesca trong máy tính, chỉ là mồi nhử thôi sao ?
    - Tất nhiên ! Vào một ngày, cách đây hai năm, cô ấy gọi điện cho tôi từ Bahamas. Đó chắc chắc là trong kì nghỉ lễ Noël. Tôi đang ở Maldives với một cậu bạn để đi lặn. Hoàn toàn hoảng loạn, cô ấy muốn tôi đến tìm cô ấy ở Nassau trước ngày hôm sau vào lúc 15 giờ. Cô ấy nói là chuyện khẩn cấp. Tôi đã tìm hiểu để biết thêm, nhưng cô ấy nói với tôi rằng tôi càng biết ít thì tôi sẽ càng an toàn.
    - Điều gì đã đấy anh đến việc đồng ý theo lời cô ấy ?
    - Francesca là cô chủ của tôi và tôi không thể nói là cô ấy để cho tôi lựa chọn. Tôi nhớ là lúc đó thật sự khủng khiếp : các chuyến bay đều đã kín chỗ ; tôi đã phải quá cảnh ở Luân Đôn để đến đúng giờ. Tôi đã nghĩ rằng tôi sẽ có nhiều thông tin hơn khi đến đó, nhưng không phải như vậy. Cô ấy chỉ dựng lên những bức ảnh ngu ngốc cùng với một tay paparazzi trong vùng và chúng tôi đã về trên cùng một chuyến bay.
    - Rồi sau đó ?
    - Lúc đến nơi, Jonathan đang đợi chúng tôi ở sân bay. Tôi không biết là ai đã báo trước cho anh ấy, nhưng mọi thứ diễn ra thật tệ hại. Anh ấy đã cho tôi một cú đấm và đã cãi nhau rất to với vợ mình trước mặt mọi người. Ngày hôm sau, họ tuyên bố ly hôn và chuyển nhượng tập đoàn.
    - Anh chưa bao giờ kể sự thật cho anh ấy à ?
    - Chưa. Tôi đã suy nghĩ về điều đó rất nhiều lần. Tôi đã rất hối hận, tôi biết rằng anh ấy đã suy sụp và tìm cách bắt đầu lại ở San Francisco. Tôi đã nói điều đó với Francesca và lần nào cô ấy cũng ngăn chặn tôi làm chuyện ấy, nhất là...
    - ...nhất là khi cô ấy đã trả cho anh cái giá quá lớn để đổi lấy sự im lặng.
    - Nghe này, tôi chưa bao giờ cho răng mình là người tốt, hắn tự bào chữa. Chỉ có Jonathan là tin vào điều đó thôi.
    - Thế còn Francesca ?
    - Cô ấy vẫn ở New York với con trai. Từ khi cha cô qua đời, cô ấy trở thành trụ cột của tập đoàn.
    - Cô ấy có người đàn ông nào khác không ?
    - Tôi không biết. Cô ấy có người đi cùng trong những buổi tiệc chiêu đãi hoặc khai trương, nhưng điều đó không có nghĩa là cô ấy quen với những gã như vậy. Nào, cô thả tôi ra đi chứ, khốn thật !
    - Hạ thấp giọng của anh xuống đi nào, làm ơn đi. Cô ta muốn ám chỉ điều gì khi nói trong thư : « Em tin rằng anh đã hiểu khi đọc báo... »
    - Tôi hoàn toàn không hiểu gì hết !

    Madeline tỏ ra thận trọng. Về điều này, cô cược rằng George đang nói dối. Khi đã lấy lại được ý thức, hắn thậm chí còn mang vẻ đe dọa :

    - Cô có ý thức được rằng ngay khi cô thả tôi ra, tôi sẽ chạy ngay tới đồn cành sát gần nhất và...
    - Tôi không nghĩ như vậy đâu.
    - Tại sao ?
    - Tại vì tôi chính là cảnh sát đây, đồ vô lại !

    Cô cần phải bình tĩnh lại. Cô đang ở trong một tình huống nguy hiểm. Bước tiếp theo là gì ? Chĩa khẩu súng vào miệng hắn à ? Hay là dội nước lên người hắn cho hắn ngộp thở ? Hay là cắt đứt một đốt tay của hắn ?

    Một người đàn ông như Danny sẽ biết cách làm cho George khai ra chỉ trong năm phút. Nhưng cô cũng không chắc rằng Danny sẽ muốn cô cũng trở nên như vậy.

    Cô lấy một con dao trong bếp, cắt đi sợi dây đang trói George, mở trói tay phải của hắn.

    - Phần còn lại anh hãy tự làm lấy, cô nói và đi khỏi căn hộ.

     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  6. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 22: Bóng ma ở Manchester


    Bí mật mà ta gìn giữ giống như một tội lỗi

    mà ta không thú nhận hết : nó sinh ra, ăn mòn ta,

    và chỉ có thể được nuôi sống bằng những bí mật khác nữa.

    Juan Manuel De PRADA
    Thứ tư ngày 21 tháng 12
    Luân Đôn

    Chuyến bay của hãng British Airways hạ cánh ở Heathrow lúc 7 giờ sáng trong bóng tối, mưa và sương mù. Cái thời tiết « Anh quốc » này không ngăn cản Jonathan khỏi ý định ban đầu : anh không đi đến đây để nghỉ dưỡng. Vừa mới ra khỏi máy bay, anh đổi vài đô la và đi đến quầy của hãng Hertz để lấy chiếc xe hơi mà anh đã đặt ngày hôm trước qua mạng Internet.

    Từ Luân Đôn phải mất bốn tiếng đi đường cao tốc mới đến được Manchester. Những cây số đầu tiên giống như một cơn ác mộng : Jonathan đã nghĩ rằng anh sẽ không bao giờ quen được tay lái ở bên trái. Một vài ác cảm đối với xứ sở này thoáng qua trong tâm trí anh (người ta lúc nào cũng phê bình sự kiêu căng của người Pháp, vậy thì người ta nghĩ gì khi một dân tộc luôn dựng lên rào cản đối với đồng euro, tiếp tục ngồi lái phía bên trái và lắc ngón trỏ và ngón giữa như một dấu hiệu của danh dự?), nhưng rồi anh lại đẩy lùi những hình ảnh đó. Anh hít thở và tự nhủ rằng mình phải tĩnh tâm, chạy chậm lại và tập trung hơn.

    Rồi anh đến vòng xoay, cảm thấy như đang bị mất phương hướng vì sự đảo ngược thứ tự của các bộ phận điều khiển, thay vì bật đèn hiệu, anh lại bấm nhầm nút mở cần gạt nước.

    Trên đường cao tốc, anh chạy một cách cẩn thận, chú ý từng chút một trên từng cây số. Đến ngoại ô Manchester, anh gắn thiết bị GPS vào và nhập vào đó địa chỉ của sở cảnh sát Cheatam Bridge. Anh đi theo chỉ dẫn đến một tòa nhà xám xịt mang lại cho anh một cảm giác kì lạ. Nơi này giống y như những gì anh đã tưởng tượng. Đây là nơi Madeline đã từng làm việc, nơi mà vào một buổi sáng trời âm u Erin Dixon đã đến để thông báo về sự mất tích của con gái mình...

    Ở cổng vào, anh hỏi thăm để biết liệu thám tử Jim Flaherty vẫn còn làm việc ở đây hay không. Bởi vì anh ta vẫn ở đây, anh hỏi liệu viên cảnh sát có thể tiếp anh được không.

    - Tôi muốn cập nhật vài tình tiết mới của một trong số những cuộc điều tra của ông ấy.

    Nhân viên tiếp tân nhấc điện thoại lên rồi sau đó mời anh đi theo cô ấy. Họ băng qua cái sảnh lớn với thiết kế theo không gian mở mà anh nhớ mình đã nhìn thấy trên bức ảnh sinh nhật của Madeline. Đã nhiều năm trôi qua, không có gì thay đổi rõ rệt, ngoại trừ việc cái poster của Cantona đã được thay thể bởi Wayne Rooney.

    Đây không phải là sự lựa chọn tốt nhất, các anh bạn à...

    Nhân viên đưa anh vào văn phòng mà Flaherty làm việc cùng với một trung úy trẻ.

    - Điều tra viên sẽ tiếp đón ông.

    Jonathan chào viên trung úy và tiến sâu hơn vào phòng. Flaherty đã lấy lại tấm poster của « Canto » và dán nó ngay bên cạnh tấm áp phích về concert của The Clash.

    Một điểm cộng cho anh ta...

    Trên bàn làm việc của mình, anh ta đính lên rất nhiều hình ảnh – sinh nhật, liên hoan trước nghỉ hưu của các cảnh sát khác, nhiều cuộc liên hoan khác nữa – tất cả đều được chụp vào thời gian mà Madeline vẫn còn « ở đây ». Cuối cùng, trên cao phía bên phải là một bức áp phích đã ngả vàng và bị rách được in vào thời điểm của cuộc điều tra vụ mất tích của Alice Dixon. Không những Flaherty không gỡ nó ra, mà anh ta còn dán bên cạnh nó tấm chân dung người nữ cộng sự của mình. Một sự hiển nhiên đập ngay vào mắt : cả hai người phụ nữ đều có cùng một ánh nhìn, buồn và mờ ảo, cùng một vẻ đẹp và cùng mang lại một cảm giác xa xăm, trong một thế giới chỉ thuộc về họ, rất xa với người đang chụp ảnh.

    - Tôi có thể giúp gì được cho anh ? Flaherty hỏi trong khi đóng cửa phòng lại.

    Jonathan chào anh ta. Viên cảnh sát có một gương mặt thanh tú, tóc màu hung, và một dáng vẻ oai vệ. Trên những bức ảnh, anh ta thật sự « đẹp trai », mặc dù hiện tại người ta thấy có một vẻ hơi bất cần. Trên hết, phần bụng anh ta bị trễ xuống : vài tuần lễ ăn kiêng « Dukan » chắc cũng không thể giúp anh ta có được một thân hình quyến rũ hơn.

    - Chúng ta có chung một mối quan hệ, thưa cảnh sát. Jonathan mở lời trong khi ngồi xuống.
    - Là ai vậy ?
    - Madeline Greene.

    Một ngọn lửa nhỏ sáng lên trong mắt Flaherty.

    - Madeline... Cô ấy đã không liên lạc gì với tôi kể từ khi từ chức. Cô ấy thế nào rồi ?
    - Vẫn tốt, tôi nghĩ thế. Cô ấy mở một cửa hàng bán hoa ở Paris.
    - Đó là những gì tôi đã được biết.
    - Thật ra, Jonathan nói tiếp, tôi không phải ở đây để nói với anh về Madeline, mà là về Alice Dixon.

    Flaherty bối rối và nhíu mày lại với một vẻ đe dọa. Vào lúc đó, không khí rất căng thẳng và Jonathan thậm chí đã từ bỏ ý định khuyên nhủ anh ta thực hiện một chế độ ăn kiêng.

    - Anh là một tay nhà báo chuyên đi bới lông tìm vết phải không ?
    - Hoàn toàn không, tôi là một người sếp.
    - Sếp gì ?
    - Một bếp trưởng.

    Viên cảnh sát quan sát anh và có vẻ dịu đi một chút :

    - Đã có thời anh thường hay lên tivi phải không ?
    - Đúng vậy, chính là tôi.
    - Vậy thì cơn gió nào đã đưa anh đến văn phòng của tôi ?
    - Tôi có một điều có thể làm anh hứng thú.

    Viên cảnh sát kín đáo nhìn người đồng nghiệp của mình rồi lướt nhìn cái đồng hồ treo tường vừa mới chỉ 13 giờ.

    - Anh đã ăn trưa chưa ? Anh ta hỏi.
    - Vẫn chưa. Tôi bay từ San Francisco và vừa mới đến Luân Đôn sáng nay.
    - Chỉ để nói chuyện với tôi thôi sao ?
    - Đúng vậy.
    - Có một quán bar mà các cảnh sát ở khu vực gần đây hay lui tới. Một phần cá và khoai tây, anh đồng ý không ?
    - Sao cũng được, Jonathan trả lời trong khi đứng dậy để đi theo anh ta.
    - Nhưng tôi nói trước với anh, đó không phải là Fat Duck đâu đấy... (một nhà hàng nổi tiếng sang trọng ở Anh).

    *
    Về điều này, viên cảnh sát đã không nói dối. Chỗ đó thật ồn ào và có thể cảm thấy cả mùi chiên xào, mùi bia và cả mùi mồ hôi.

    Vừa mới ngồi xuống, Flaherty đã vào thẳng ngay chủ đề :

    - Anh có vẻ thân thiện, nhưng dù sao tôi vẫn phải đề phòng : vụ án Alice Dixon đã kết thúc cách đây hai năm, anh hiểu chứ ? Do đó nếu anh đến để nói với tôi về những điều vô căn cứ hay những giả thiết vớ vẩn thì tôi sẽ nhúng đầu anh vào dĩa thức ăn đấy, rõ chưa ?
    - Rõ như ban ngày, Jonathan nói.

    Đó hẳn không phải là hình ảnh ẩn dụ hợp lý, anh nghĩ trong khi nhìn thông qua cửa kính một cơn mưa lớn cùng những đám mây xám xịt đang trôi lơ lững trên trời.

    - Vậy thì, tôi đang nghe anh đây, Jim nói trong khi đang ngấu nghiến một miếng cá lớn.
    - Erin Dixon bây giờ thế nào ? Jonathan bắt đầu.
    - Mẹ của cô bé à ? Cô ta đã chết năm ngoái do dùng thuốc quá liều. Cô ta đốt hết tất cả tiền mà người ta trao tặng vào thuốc phiện. Đừng có trông chờ rằng tôi sẽ thương hại cái thứ như thế...
    - Tại sao vụ án lại nhanh chóng kết thúc như thế ?
    - Nhanh chóng ? Chúng tôi đã nhận được trái tim của cô bé cách đây hai năm rưỡi, vào cuối mùa xuân năm 2009, mười ngày trước khi bắt được Harald Bishop, kẻ giết người của Liverpool. Chúng tôi đã có bằng chứng về cái chết của Alice và tay giết người đã vào tù, điều đó không đủ với anh sao ?
    - Tôi đã đọc rằng Bishop đã bị kết án bởi vài cái chết mà hắn đã không làm...
    - Phải, đó là điều bình thường đối với một kẻ giết người hàng loạt. Người ta vẫn không thể biết rõ tất cả những gì Bishop đã làm. Hắn ta nói rất nhiều, nhưng không hoàn toàn là những trường hợp mà người ta muốn nghe. Giống như rất nhiều tên quái thú khác trên thế giới, hắn là một kẻ vừa điên khùng vừa tính toán. Trong những cuộc thẩm vấn, hắn luôn đùa giỡn với thanh tra : hắn thú nhận một số điều, rồi lại chối bỏ, lại nói về một tội ác khác. Người ta tiếp tục phân tích tất cả các thi thể tìm thấy trong vườn nhà hắn. Người ta đã không thể xác định được thi thể của Alice, nhưng điều đó cũng không có nghĩa là hắn đã không giết cô bé.

    Jonathan nhấm nháp một miếng cá chiên và cảm thấy hơi buồn nôn. Anh cảm thấy khó chịu trong cái nơi chật hẹp và nóng nực như lò hấp thế này. Anh cởi một nút áo sơ mi và gọi một chai Perrier.

    - Anh vẫn còn yêu Madeline Greene đúng không ? Anh hỏi trong khi mở nút chai bia.

    Flaherty nhìn anh một cách sững sờ. Anh ta cảm thấy như đang bị ù tai.

    - Nào, hãy nhìn vào điều đó, Jim ! Jonathan tiếp tục. Đó là một người phụ nữ đẹp, thông minh và sâu sắc, cùng với một chút yếu đuối càng làm cho cô ấy thêm hấp dẫn. Thật khó để không phải lòng cô ấy, đúng không ?

    Flaherty đấm tay xuống bàn.

    - Anh lấy đâu ra...
    - Chỉ cần nhìn mấy tấm ảnh trên bàn làm việc của anh thì biết. Từ lúc Madeline ra đi, anh đã lên mấy kí ? Mười lăm ? Hai mươi ? Anh đã bỏ mặc bản thân mình. Tôi nghĩ rằng sự ra đi của cô ấy đã dày vò anh và...
    - Ngừng nói những điều ngu ngốc đi ! Viên cảnh sát nói trong khi túm lấy cổ áo anh.

    Nhưng điều đó không ngăn cản Jonathan tiếp tục :

    - Tôi cũng nghĩ rằng anh không hoàn toàn bị thuyết phục bởi việc Bishop đã giết Alice. Anh vẫn giữ tấm áp phích thông báo về sự mất tích của cô bé trong văn phòng mình, bởi vì, đối với anh, vụ án chưa bao giờ hoàn toàn kết thúc. Tôi chắc rằng anh nghĩ đến Alice mỗi ngày. Tôi tin rằng anh vẫn tiếp tục tự mình điều tra và rằng có thể anh đã tìm thấy vài tình tiết gì mới. Không phải là bằng chứng để có thể lật lại cuộc điều tra, nhưng là những chi tiết đủ sức để phá hỏng giấc ngủ của anh...

    Ánh nhìn của Flaherty có chút bối rối. Lúng túng, anh buông Jonathan ra. Jonathan chỉnh lại áo vest, đứng dậy và để tờ 10 bảng lên bàn. Anh bước đi dưới mưa, băng qua con đường để tránh cơn bão dưới mái hiên của một ngôi trường.

    - Đợi đã ! Flaherty hét lên khi đuổi theo anh. Anh nói rằng anh có vài điều muốn chia sẻ với tôi.

    Hai người đàn ông ngồi xuống một băng ghế gỗ ngoài hiên. Lúc đó đang là kì nghỉ Noël. Khuôn viên trường học rất yên tĩnh và vắng lặng. Cơn bão có sức tàn phá thật mãnh liệt, bao trùm cả khu phố bởi một cơn mưa lớn và dai dẳng nhấn chìm hết mọi thứ.

    - Tôi không phải là ông già Noël, Jonathan nói trước. Trước khi nói với anh điều mà tôi tìm thấy, tôi muốn biết chính xác anh đã tìm hiểu thêm được những gì.

    Jim thở hắt ra, nhưng cũng đồng ý nói về sự tiến triển trong cuộc điều tra của mình :

    - Anh nói đúng : mặc dù vụ án đã được khép lại, tôi vẫn tiếp tục trong những lúc có thời gian, tìm tòi theo những hướng mà Madeline đã đưa ra. Trong đó đặc biệt có một hướng, liên quan đến nhật kí của Alice, thứ luôn làm chúng tôi phải suy nghĩ.
    - Tại sao ?
    - Bởi vì trong đó toàn là những thứ tầm phào, không có gì có thể coi là « bí mật » cả...
    - Các anh đã phân tích nó rồi à ?
    - Phải, trước tiên bởi một nhà phân tích chữ viết để xác nhận tính xác thực của nó, rồi bởi một nhà hóa học. Mặc dù khá khó khăn để xác định ngày tháng của các văn bảng, người ta cũng rút ra được nhiều điều từ những trang được viết nguệch ngoạc. Anh có biết một vài nhà sản xuất cho vào trong những cây bút của họ vài « dấu tích hóa học » cho phép biết được năm ra đời của một loại mực không ?

    Jonathan lắc đầu. Jim tiếp tục :

    - Mực bị « già đi » ngay khi tiếp xúc với giấy. Vài thành phần của nó bị hao mòn và có một số sản phẩm người ta có thể phân tích được bằng phép sắc ký và bằng tia hồng ngoại. Tóm lại, tôi sẽ bỏ qua phần tả chi tiết. Báo cáo xét nghiệm đã xác định : những trang đó đúng là được viết bởi bàn tay của Alice, nhưng quyển nhật ký ghi lại các sự kiện diễn ra trong suốt hơn một năm đã được viết lại chỉ trong một tích tắc !

    Jonathan không chắc chắn rằng mình đã hiểu hết. Jim kể sâu hơn về khám phá của mình :

    - Tôi tự thuyết phục rằng đó chỉ là một bản sao « tóm lược » được viết bởi Alice để đánh lạc hướng cuộc điều tra.
    - Tôi đồng ý với anh rằng điều này khá kì lạ, nhưng vậy không phải quá đơn giản sao ?
    - Còn một điều nữa, Flaherty nói tiếp. Nhạc cụ mà người ta đã tìm thấy trong phòng cô bé.
    - Đàn violon ?
    - Phải. Alice học đàn từ năm 6 tuổi với Sarah Harris, một nghệ sĩ solo khá nổi tiếng đã phát hiện cô bé trong một lần làm từ thiện ở trường học. Bởi vì cô bé có năng khiếu, Harris đã tặng cô một cây đàn violon chất lượng tốt. Một cây đàn có giá từ 5 đến 7000 euros...
    - Nhưng đó không phải là cây đàn mà người ta tìm thấy trong phòng Alice, đúng không ?
    - Không, tôi đã cho kiểm tra nhạc cụ : đó chỉ là một cây đàn bình thường được sản xuất ở Trung Quốc với giá không đáng một xu...

    Lần này, Jonathan buộc phải đồng ý rằng sự việc thật rắc rối. Liệu có phải Alice đã bán cây đàn trước khi mất tích ? Dù sao đi nữa, cô bé không ở cùng với nó trong những bức ảnh chụp lại từ camera theo dõi.

    - Mặc dù tôi đã xem xét hết các sự việc theo mọi hướng, tôi vẫn không thể tìm ra logic của tất cả chúng, Jim thú nhận.
    - Liệu anh đã xem xét trái tim chưa ?
    - Anh cho rằng tôi là kẻ ngốc sao ? Anh đang nghĩ gì vậy ? Một cuộc cấy ghép à ?
    - Biết đâu được...
    - Hiển nhiên là tôi đã kiểm tra rồi ! Đó không phải là điều gì quá phức tạp : người ta không thể làm điều đó trong gara và số lượng những ca cấy ghép ít ỏi buộc tôi phải nghĩ điều đó là không thể. Tôi đã kiểm tra lại những thiếu niên được nhận tim mới trong vòng vài tháng sau khi tìm ra xác của Alice. Chỉ có khoảng vài chục trường hợp. Tất cả đều đã được xác nhận danh tính và đều trải qua đúng các thủ tục.

    Jonathan mở khóa chiếc túi đeo vai của mình để lấy ra một túi nilon trong đó có hai mẩu khăn giấy được viết nguệch ngoạc trên đó có dính lốm đốm sô cô la.

    - Cái gì vậy ? Jim hỏi trong khi cố gắng đọc thông qua lớp giấy gói.

    Anh nhận ra nét chữ giờ đã trở nên quen thuộc. Những dòng đầu tiên bắt đầu bằng :

    Gửi ông Lempereur, không, cháu muốn nói là chú Jonathan.

    Cháu đã tự cho mình cái quyền rút hết đạn trong khẩu súng của chú và vứt chúng vào thùng rác của bãi đỗ xe trong khi chú đang uống cà phê của mình...

    - Hãy gửi những mẩu giấy này đến phòng thí nghiệm. Hãy thử tìm lại những dấu vết.
    - Nói tôi nghe thêm đi nào, viên cảnh sát nài nỉ.
    - Đọc những dòng chữ ở mặt sau rồi anh sẽ hiểu.

    Jim nhíu mày trong khi lật túi nilon lại. Một dòng chữ màu vàng nhảy múa ở chính giữa tờ khăn giấy. « Trạm dừng Total chúc quý khách một năm 2010 tốt lành. »

    - Điều này là không thể : vào lúc này, Alice đã chết được sáu tháng !
    - Gọi cho tôi khi anh có kết quả, Jonathan nói trong khi đưa anh ta danh thiếp.
    - Đợi đã ! Anh quay trở về San Francisco sao ?
    - Phải, Jonathan nói dối. Tôi có một chuyến bay vào buổi tối và một nhà hàng cần phải được mở cửa lại.

    Anh đứng dậy và đi ra xe hơi dưới màn mưa.

    Anh mở công tắc, bật cần gạt nước và khởi động xe. Tâm trí để nơi khác, anh nghiền ngẫm lại những chi tiết mà Flaherty vừa kể cho anh. Câu chuyện về quyển nhật ký, cây đàn violon,... Chìm đắm trong suy nghĩ của mình, anh không để ý rằng mình đang chạy theo thói quen về phía phải. Anh đang chạy với một tốc độ cao, một chiếc xe bus đang ở ngay phía trước anh. Jonathan hét lên, quay vòng vô lăng bằng tất cả sức lực của mình và giữ cho xe không lộn nhào. Anh để mất một chụp trục bánh xe, làm xướt chiếc xe và hoàn toàn bị lạc trong nỗi sợ hãi.

    Nhưng anh vẫn còn sống.

    *
    Paris 16h30

    - Em sẽ đi gặp Juliane ở Luân Đôn sao ! Raphael thốt lên. Như vậy là ngay tức thì sao ?
    - Điều đó làm em thấy vui vẻ, Madeline trả lời.

    Họ có một cuộc hẹn trong một quán cà phê nhỏ trên đường Pergolèse, phía dưới tòa nhà nơi đặt văn phòng của Raphael.

    - Khi nào em đi ?
    - Khoảng chiều tối : tàu Eurostar lúc 18h13.
    - Nhưng chỉ còn vài ngày nữa là giao thừa !

    Cô cố gắng trấn an anh :

    - Anh đừng lo : em sẽ về vào buổi tối ngày 24.
    - Còn cửa hàng thì sao? Anh chắc rằng em chưa bao giờ bận hơn lúc này phải không ?
    - Nghe này, cô nổi cáu, em muốn đến thăm bạn thân của em ở Anh, chỉ vậy thôi ! Chúng ta không còn ở những năm 1950, cho nên em có quyền bỏ qua sự cho phép của anh.

    Bất ngờ mất đi sự kiên nhẫn, cô đứng dậy và rời khỏi quán. Bàng hoàng, Raphael thanh toán hóa đơn và đuổi theo cô đến chỗ đỗ taxi trên đại lộ Grande-Armée.

    - Chưa bao giờ anh thấy em như vậy, Raphael lo lắng. Em có gì lo lắng sao ?
    - Không, anh yêu à, đừng có như thế. Em chỉ cần một ít thời gian nghỉ ngơi thôi, được chứ ?
    - Dĩ nhiên rồi, anh nói trong khi giúp cô bỏ túi xách vào cốp xe taxi. Em sẽ gọi cho anh khi đến nơi chứ ?
    - Tất nhiên rồi, cô nói và ôm hôn anh.

    Anh nghiêng đầu nói với tài xế : « Vui lòng đến ga hướng Bắc. »

    Chiếc xe lăn bánh. Madeline vẫy tay tạm biệt Raphael qua cửa kính. Kiến trúc sư trả lời cô bằng một động tác mô phỏng nụ hôn.

    Người phụ nữ trẻ chờ cho xe đi đến quảng trường Étoile rồi nói với tài xế :

    - Hãy quên ga hướng Bắc đi, cho tôi đến Roissy. Cửa 1.

    *
    Madeline trình hộ chiếu và vé máy bay cho nhân viên hãng hàng không Air China. Vào thời điểm này của kì nghỉ, tất cả các chuyến bay đi San Francisco đều kín chỗ hoặc giá vé rất cao. Với ít hơn 1000 euros, cô chỉ tìm được trên Internet chiếc vé một chiều của một hãng Trung Quốc. Cuộc lẩn trốn đến California buộc cô phải chấp nhận một thời gian quá cảnh ngắn ở Bắc Kinh !

    Cô bước vào đường dẫn đến máy bay. Quần jean cũ, áo phông cổ tròn, áo khoác da : hình ảnh phản chiếu qua các lớp kính mang lại cho cô một dáng vẻ không có chút gì nữ tính. Cô xõa tóc, không trang điểm, gần như mặc kệ. Bộ dạng nhàu nhĩ đó như đang thể hiện sự rối loạn đang ngự trị trong tâm trí cô.

    Cô tự trách mình đã nói dối Raphael. Anh là một người đàn ông mẫu mực, có trách nhiệm và đáng tin cậy. Anh biết rõ quá khứ của cô và không phán xét nó. Anh mang lại cho cô sự thanh thản và tin tưởng. Cô không có quyền lừa dối anh như vậy.

    Tuy nhiên, cô đã không ngại ngần lấy một giây để mua một chiếc vé máy bay đến đầu kia của thế giới chỉ vài giây sau cuộc gọi của Jim Flaherty.

    Người cộng sự cũ của cô đã tìm thấy số điện thoại của cửa hàng hoa và gọi cho cô vào đầu buổi chiều để nói với cô về một người tên Jonathan Lempereur, tự nhận là quen biết cô, đã đến hỏi anh về vụ án Dixon.

    Vụ án Dixon...

    Alice.

    Chính sự gợi nhớ này là nguyên nhân chính cho một cú sốc có thể lý giải toàn bộ thái độ của cô những ngày gần đây. Đó là dấu hiệu của định mệnh ! Số phận đã trêu đùa cô ngay từ lúc đầu khi tráo đổi điện thoại của cô và Lempereur. Trong khi điều tra về George, Francesca và Jonathan, cô lại trở về với Alice !

    Trong tâm trí cô, không có gì là xa xăm, không có gì mờ nhạt cả. Ký ức về cô bé vẫn còn rất sống động. Một hình ảnh rõ nét mà cô cố gắng xóa đi trong tuyệt vọng để bảo vệ sức khỏe tinh thần của mình. Một vết thương trong tâm hồn còn nhức nhối đến nỗi không một ngọn lửa nào có thể thiêu đốt nó được.

    Con người không thể tự giải thoát được trong quá khứ. Con người cũng không thể trốn chạy khỏi những ám ảnh của chính mình.

    Alice đã quay trở lại tìm cô.

    Alice đã quay trở lại ám ảnh cô.

    Lần trước, nỗi sợ hãi về hình ảnh của « trái tim » đã buộc cô từ bỏ việc điều tra.

    Lần này, cô đã sẵn sàng để đi đến tận cùng.

    Không quan trọng cái giá phải trả sẽ là gì.

     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  7. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 23: Chiếc gương hai mặt

    Tôi không biết con đường tôi đi sẽ dẫn đến đâu,

    nhưng tôi sẽ bước đi vững vàng hơn khi tay tôi siết chặt lấy tay em.

    Alfred DE MUSSET
    Thứ năm 22 tháng 12
    Sân bay Nice-Côte d'Azur
    11h55

    Ánh mặt trời mùa đông chiếu sáng cả đường băng.

    Jonathan đã rời buổi sáng ảm đạm của nước Anh để đến với cái nắng dịu của vùng Địa Trung Hải. Vừa xuống máy bay, anh đón ngay một chiếc taxi đến Antibes. Đường sá khá ngoằn ngoèo, tài xế ra khỏi đường cao tốc để tiến về phía vùng đất chạy dọc theo đường bờ biển. Trên đường, người ta có cảm giác như đang là mùa xuân hay đang ở California : những vận động viên tập chạy, những cụ già dẫn chó đi dạo và, vào giờ ăn trưa, rất nhiều nhân viên tận hưởng bữa ăn của mình trong khi chiêm ngưỡng vịnh Anges dưới những tán cây.

    Trong vòng 20 phút, taxi đã đến Antibes. Nó băng qua trung tâm thành phố và đi vào đường Garoupe. Càng gần đến đích, Jonathan càng cảm thấy một sự phấn khích đang dâng lên trong người. Ai đang ở « nhà của Alice » ngay lúc này ? Người ta đang trong thời điểm nghỉ lễ. Có thể cô bé anh đã đưa về đây cách đây hai năm bây giờ đang tận hưởng kì nghỉ Noël với gia đình không ?

    - Xin đợi tôi vài phút, anh nói với tài xế khi vừa đến ngõ cụt Sans-Souci.

    Lần này, hàng rào đang đóng kín. Anh đã phải nhấn chuông rất nhiều lần và chứng minh mình đi tay không trước camera theo dõi trước khi người ta đồng ý mở cửa cho anh.

    Anh lại đi bộ trên lối đi lát sỏi băng qua rừng thông. Trong không khí thoang thoảng mùi xạ hương, hương thảo và hoa oải hương. Trên bậc thềm của lối vào ngôi nhà, một phụ nữ khoảng năm mươi tuổi đang đợi anh. Bà choàng một chiếc khăn trên tóc, trên tay là một bảng màu và vài đốm đồi mồi trên khuôn mặt : anh chắc hẳn đang làm phiền việc vẽ tranh của người phụ nữ này.

    - Tôi có thể giúp gì được cho anh ? Bà ta nói bằng một giọng đặc chất Áo giống như Romy Schneider.

    Bà ta tên là Anna Askin và là chủ nhân của ngôi nhà từ mùa xuân năm 2001. Bà cho thuê nơi này gần như suốt năm, thường là theo tuần, cho nhiều người giàu có từ Nga, Anh và Hà Lan.

    Jonathan chỉ ngạc nhiên một nửa. Rõ ràng, Alice đã nói dối anh : « cha mẹ » của cô bé không phải là chủ của nơi này. Chắc chắn họ chỉ thuê nơi này trong kì nghỉ mà thôi.

    - Thứ lỗi cho tôi đã làm phiền bà, nhưng tôi đang tìm kiếm một gia đình đã thuê căn nhà này của bà vào hai năm trước. Ông bà Kowalski, bà có nhớ không ?

    Anna Askin lắc đầu. Thông thường, bà không gặp trực tiếp người thuê nhà : theo chế độ tự động, chồng bà đã điều khiển toàn bộ ngôi nhà. Mọi thứ đều hoạt động theo mã và tia hồng ngoại, tòa nhà được trang bị một mạng lưới điều khiển bởi một chương trình vi tính.

    - Tôi không biết nữa, nhưng tôi có thể kiểm tra lại.

    Bà ra hiệu cho Jonathan theo mình lên sân thượng. Anh đi theo bà đến một ban công vòm tròn hướng ra biển và bãi đá. Bên cạnh cái giá, trên chiếc bàn, một chiếc máy tính xách tay đời mới phát ra tiếng nhạc dễ chịu. Người phụ nữ Áo mở bảng Excel thể hiện các vụ cho thuê nhà của mình.

    - Ông bà Kowalski, chính xác. Một cặp đôi người Mỹ. Họ đã thuê căn nhà mười lăm ngày từ 21 tháng 12 năm 2009 đến 4 tháng 1. Kì lạ là họ đã trả nhà trước thời hạn : căn nhà đã trống từ buổi chiều ngày 1 tháng 1.

    Họ đã ra đi chỉ vài giờ sau sự trở về của Alice, Jonathan nghĩ.

    - Bà có địa chỉ của họ không ?
    - Không, họ đã trả tất cả bằng tiền mặt : 9000 đô la mà họ đã chuyển từ nhiều tuần trước đến văn phòng của chồng tôi ở New York. Thật không phải bình thường, nhưng họ là người Mỹ mà. Họ có một « tôn giáo thờ tiền mặt », bà nói với một giọng hơi khinh thường.
    - Thế còn tiền đặt cọc ?
    - Họ chưa bao giờ đòi được trả lại.

    Khỉ thật...

    - Vậy thì bà hẳn còn giữ cái gì đó chứ !
    - Chỉ là một địa chỉ mail. Chúng tôi đã liên lạc bằng phương tiện này.

    Không đặt quá nhiều hi vọng, Jonathan ghi lại địa chỉ mail : một tài khoản Hotmail có thể được tạo chỉ để dùng vào việc này và không để lại bất cứ thứ gì để khai thác thêm.

    Dù sao thì anh cũng cảm ơn Anna Askin vì sự hợp tác của bà và nói người tài xế đưa anh trở lại sân bay.

    *
    14 giờ

    Jonathan di chuyển về quầy của hãng Air France để mua vé đi Paris vào lúc 15 giờ. Anh đi qua khu vực cách ly và kiên nhẫn chờ đợi trong khi nhấm nháp một chiếc sandwich tại một trong những nhà hàng có phong cảnh hướng về phía đường băng.

    Thông thường, anh cảm thấy khó chịu khi ở sân bay, nhưng tại Nice thì khác. Ưu tiên sự trong suốt, sân bay có hình dạng của một chiếc ly bằng kính khổng lồ với mái vòm.. Mặt tiền ốp kính mở ra một khung cảnh tuyệt vời của biển Grande Bleue, vịnh Anges và những đỉnh núi tuyết phủ của Esterel. Siêu thực và nhẹ nhàng, nơi này đưa người ta đến với giấc mơ. Ánh sáng ở mọi nơi, giống như ở một vùng giao nhau bất tận giữa trời và biển...

    Anh kéo phần dây thun để mở quyển sổ trong đó anh đã ghi chép lại cuộc trò chuyện với Jim Flaherty. Anh ghi vào đó những gì anh vừa nghe được từ Anna Askin và ý thức được rằng anh vẫn chưa tiến triển được gì nhiều. Đến lượt mình, câu chuyện của Alice Dixon làm anh rối bời, nhưng anh cũng chưa làm được gì hơn những người đã điều tra vụ án trước anh : anh càng điều tra, bức màn bí ẩn càng dày thêm và những hướng đi lại nhân lên, càng ngày càng xa rời nhau.

    Anh ghi lại vài điểm, cố gắng nối những chi tiết lại với nhau, thể hiện ra giấy tất cả những giả thiết lướt qua trong đầu anh. Chìm đắm trong suy nghĩ, anh đợi đến khi người ta gọi tên mình mới đứng dậy và đi đến lối vào máy bay.

    Ý thức được rằng những suy diễn của mình đang đụng phải một bức tường và rằng anh không thể tự mình tìm ra chìa khóa giải mã bí ẩn, một sự hiển nhiên buộc anh phải tuân theo : anh phải liên lạc với Madeline Greene.

    *
    Sân bay San Francisco
    8h45

    Bằng một sự tự hào không che giấu, phi công của Air China thông báo với hành khách rằng máy bay vừa mới đáp xuống sân bay sớm năm phút so với dự kiến.

    Đeo túi trên vai, Madeline nối đuôi theo dòng người đang xếp hàng trước các quầy làm thủ tục nhập cảnh. Hoàn toàn lạc lõng, cô phải mất một lúc để nhận ra rằng bây giờ mới chỉ là 9 giờ sáng. Khi người ta hỏi cô hộ chiếu, cô nhận ra rằng, trong lúc vội vã, cô đã quên xem xét thủ tục nhập cảnh trên mạng cho phép cô đặt chân vào nước Mỹ !

    Cô vừa mới ở New York cách đây vài ngày. Thủ tục đó có thời hạn đến hai năm, nhân viên hành chính trấn an cô.

    Cô không kiểm soát được và bật ra ngay một tiếng « ouf » lớn và cố gắng trấn tĩnh lại. Không có hành lý, cô đi thẳng ra chỗ đậu taxi và đưa cho tài xế địa chỉ duy nhất của Jonathan mà cô có : địa chỉ nhà hàng của anh.

    Trời nắng và nóng. Thật khó để tin rằng, chỉ vài giờ trước đây thôi, cô vẫn còn đang trong cái thời tiết âm u của Paris. Cô mở cả cửa kính để tận hưởng hết sự êm dịu của khí hậu.

    California...

    Cô luôn mơ ước được đến đây, nhưng cô đã tưởng tượng rằng đó phải là một kì nghỉ, với người yêu đi cùng. Không phải như thế này, vội vã, và nói dối người đàn ông vừa mới cầu hôn cô.

    Khốn kiếp... tại sao mình lại làm rối tung mọi chuyện ?

    Cô đã mất hai năm để xây dựng lại cuộc sống ổn định và thanh thản, nhưng sự cân bằng đó lại bay vụt đi mất cùng với sự trở lại đen tối của những bóng ma trong quá khứ. Chỉ trong vài ngày, cô đã để lạc mất mọi điểm mốc của mình. Cô cảm thấy như mình đang bị lạc giữa một hòn đảo không người đáng sợ, bị kẹt giữa hai cuộc sống mà không cái nào thật sự là của cô cả.

    Chiếc xe chạy được khoảng 20 phút, băng qua thành phố từ những khu phố phía nam đến vùng North Beach.

    Lúc đó là 10 giờ khi chiếc taxi thả Madeline trước nhà hàng của Jonathan...

    *
    Vào lúc đó, ở Paris

    Mười tám giờ. Chuyến bay cất cánh từ Nice trễ hơn dự kiến : một cuộc đình công ngẫu hứng của nhân viên sân bay đã làm tê liệt mọi hoạt động trong vòng một giờ. Rồi, khi đã đến Orly, anh đã phải đợi thêm gần 20 phút nữa để được xuống máy bay. Trời tối, lạnh, tuyết rơi, đường phố bị tắc ; dễ thương như cánh cửa tù, người tài xế taxi bật radio hết cỡ mà không thèm quan tâm gì đến khách của mình.

    Chào mừng đến Paris !

    Jonathan không có được dáng vẻ của người Paris. Trái ngược với New York, San Francisco hay những thành phố ở phía Tây Nam, thủ đô không phải là nơi dành cho anh. Anh không cảm thấy như đang ở nhà, không thấy mình có thể có kỉ niệm đẹp ở đây, càng không muốn nuôi nấng con trai mình tại nơi này.

    Khi đã qua được cửa Orléans, đường đi có vẻ thông thoáng hơn. Họ tiến đến gần Montparnasse. Anh đã kiểm tra trên điện thoại « của mình » thời gian mở của cửa hàng hoa mà Madeline là chủ. Cô chủ chỉ đóng cửa hàng vào lúc 20 giờ. Trong vài phút nữa, anh sẽ gặp cô, nói chuyện với cô. Anh cảm nhận được một sự pha trộn cảm giác phấn khích và e ngại. Chưa bao giờ anh có cảm giác biết rõ về một người ít qua lại đến như vậy. Chỉ cần việc trao đổi điện thoại giữa anh và cô cũng đủ để anh cảm thấy giữa họ có một mối liên hệ mạnh mẽ.

    Chiếc taxi đi qua con sư tử nổi tiếng của Belfort trên quảng trường Denfert-Rochereau, tiếp tục đi trên đại lộ Raspail rồi rẽ vào đường Delambre. Đây rồi, chỉ còn vài mét nữa. Anh đã nhận thấy mặt trước màu xanh hạnh nhân của cửa hàng mà anh đã thấy trên Internet. Đậu trước một nhà hàng sushi, một chiếc xe tải đang chặn lối đi. Vội vã, Jonathan trả tiền rồi đi bộ vài mét đến cửa hàng...

    *
    San Francisco

    Treo trước bảng hiệu, một tấm bảng con treo trên cửa của French Touch thông báo :

    Kính thưa quý khách,

    Nhà hàng chúng tôi đóng cửa đến hết ngày 26.

    Cảm ơn vì sự thông cảm của quý khách.
    Madeline không thể tin được vào mắt mình : Jonathan đang đi nghỉ lễ ! Không phải cô vừa mới vượt hơn mười hai ngàn cây số chỉ để... không được cái gì hết à ?

    Khốn thật ! Lẽ ra cô phải bớt bốc đồng, kiểm tra kỹ trước khi đến đây, nhưng Jim Flaherty đã đảm bảo với cô rằng người chủ nhà hàng đã lên máy bay từ tối hôm trước.

    Cô đọc lại dòng chữ viết tay bằng phấn :

    Cảm ơn vì sự thông cảm của quý khách.
    Sự thông cảm ? Mày có biết mày sẽ được đặt ở đâu không, sự thông cảm ? Cô gào lên dưới cái nhìn kì lạ của một bà lão đang dắt chó đi dạo.

    *
    Paris

    Các bạn thân mến,

    Vì các dịp lễ tết vào cuối năm,

    Khu vườn tuyệt vời sẽ đóng cửa từ thứ tư 21/12 đến hết thứ hai 26/12

    Chúc mọi người những ngày lễ tốt lành !

    Madeline + Takumi
    Không thể tin được, Jonathan chớp mắt : một cô chủ cửa hàng hoa lại đi đóng cửa hàng tuần lễ ngay trước Noël ! Nhìn bề ngoài, cô gái trẻ người Anh có vẻ đã bị khuất phục bởi lịch nghỉ lễ thất thường của người Pháp ! Sự mất tinh thần của anh ngay lập tức chuyển thành sự cáu giận.. Trong khi anh đang sôi lên vì cơn giận, anh nghe thấy điện thoại mình đổ chuông trong túi. Là Madeline...

    *
    Cô : Anh đang ở đâu ?
    Anh : Hê, hô, người ta không dạy cô biết chào hỏi à ?
    Cô : Chào anh. Anh đang ở đâu ?
    Anh : Còn cô ?
    Cô : Trước cửa nhà hàng anh, nhìn đây này !
    Anh : Hả ?
    Cô : Tôi đang ở San Francisco. Nói cho tôi biết anh đang ở đâu và tôi sẽ tới đó.
    Anh : Nhưng bây giờ tôi không có ở nhà !
    Cô : Nghĩa là...
    Anh : Tôi đang ở Paris, trước cửa hàng của cô.
    Cô : …
    Anh : …
    Cô : Anh không thể báo trước cho tôi à, khỉ thật !
    Anh : Là lỗi của tôi sao ? Tôi có thể rút lại lời khen của cô đó, tôi nói trước với cô đó !
    Cô : Chính ANH đã lục lọi điện thoại của tôi ! Chính ANH đã làm rối tung mọi chuyện không liên quan đến mình ! Chính ANH đã đào xới cái hồ sơ đã phá hoại cuộc đời tôi. Chính ANH...
    Anh : ĐỦ RỒI ! Nghe này, chúng ta cần phải nói chuyện, thật bình tĩnh. Mặt đối mặt.
    Cô : Với khoảng cách mười ngàn cây số, điều đó là quá khó đối với tôi !
    Anh : Chính vì thế mà tôi đề nghị mỗi người hãy tiến một bước về phía người kia.
    Cô : … ?
    Anh : Tôi đề nghị chúng ta hãy gặp nhau tại Manhattan. Sẽ nhanh thôi, và với sự chênh lệch múi giờ thì chúng ta có thể ở đó ngay tối nay.
    Cô : Anh có vấn đề à ? Trước hết, tất cả các chuyến bay đều đã kín chỗ, còn tài khoản của tôi đang ở mức báo động đỏ và tôi muốn nói với anh là...
    Anh : Có một chuyến bay của hãng United Airlines vào lúc 14h30. Tôi thường đi chuyến đó để đến đón Charly ở New York. Tôi có khá nhiều điểm thưởng và tôi sẽ tặng cô chiếc vé đó.
    Cô : Vinh hạnh quá nhỉ, anh đang đài thọ tiền vé cho ai đấy ?
    Anh : Nào, chẳng ích gì khi làm quá vấn đề như thế. Gửi cho tôi số hộ chiếu của cô, ngày và nơi cấp. Tôi cần chúng để đặt vé cho cô.
    Cô : Ngừng cái kiểu ra lệnh và nói chuyện với tôi như đối với một đứa con nít của anh đi ! Anh không phải là bố tôi !
    Anh : Dĩ nhiên rồi, ơn trời...
    Cô : Và ngừng cả việc lục lọi cuộc sống riêng tư và những cuộc điều tra của tôi ngay !
    Anh : Những cuộc điều tra của cô ? Tôi cũng nhắc cô nhớ rằng cô đã không còn là cảnh sát lâu rồi.
    Cô : Tôi không thể hiểu nổi tại sao anh lại quấy rầy tôi cũng như cả cái điều mà anh đang tìm kiếm là gì. Anh muốn tôi phải kể lể ra hết à ?
    Anh : Đừng nực cười thế, tôi chỉ muốn giúp đỡ cô thôi.
    Cô : Hãy bắt đầu bằng việc tự giúp chính mình ấy.
    Anh : Ý cô là sao ?
    Cô : Tôi muốn nói là cuộc sống của anh cũng là một mớ hỗn độn mà thôi và vợ cũ của anh cũng giấu anh khá nhiều điều đấy.
    Anh : Điều gì cho phép cô khẳng định như vậy ?
    Cô : Tôi cũng đã tìm tòi một vài chuyện...
    Anh : Thêm một lí do để chúng ta gặp mặt, đúng không ?
    Cô : Tôi không có gì để nói với anh cả.
    Anh : Nghe này, tôi có vài thông tin mới về Alice Dixon.
    Cô : Anh rảnh rỗi thật...
    Anh : Để tôi giải thích...
    Cô : Anh tự đi mà tìm một mình !

    Cô đã gác máy. Anh cố gắng gọi lại cho cô, nhưng cô đã tắt điện thoại. Ôi trời ! Cô ấy không hoan nghênh việc này…

    Một loạt tia chớp xuất hiện cùng những đám mây đen và rồi sấm sét gầm lên. Trời tiếp tục mưa bão dữ dội. Jonathan không có cả áo mưa và dù, còn áo khoác của anh thì đã ướt một cách thảm hại. Anh cố gắng gọi một chiếc taxi, nhưng ở đây không phải là New York. Bực mình, anh đi bộ đến ga Montparnasse và hòa mình vào dòng người. Dáng vẻ đen thẫm và sừng sững của ngọn tháp xấu xí này làm xấu đi bầu trời của Paris. Giống như bất cứ lần nào anh đến khu phố này, anh đều tự hỏi tại sao người ta lại có thể xây dựng một tòa nhà vừa tối tăm, đáng sợ, vừa mất thẩm mỹ như vậy.

    Anh vừa leo lên một chiếc taxi đúng lúc một âm thanh nhẹ nhàng và vui vẻ báo hiệu một tin nhắn vang lên trong túi chiếc áo đẫm nước của anh.
    Đó là một tin nhắn của Madeline. Trong đó là một dãy chữ và số cùng với nội dung : « Đã gửi đến Manchester, ngày 19 tháng 6 năm 2008. »

    *
    Ở Charles-de-Gaulle, Jonathan lấy chuyến bay của hãng Air France xuất phát lúc 21h10. Chuyến bay kéo dài bảy tiếng năm mươi lăm phút và sẽ hạ cánh tại sân bay New York JFK lúc 23h05.

    Madeline rời San Francisco lúc 14h30. Cô đã nhận được mail có chiếc vé điện tử như Jonathan đã hứa. Chuyến bay đến New York kéo dài năm tiếng hai mươi lăm phút. Lúc đó là 22h55 khi máy bay hạ cánh xuống sân bay JFK.

    *
    New York
    Vừa mới xuống máy bay, Jonathan đi xem xét ngay lịch trình các chuyến bay đến trên bảng điện tử. Chuyến bay của Madeline đã hạ cánh trước chuyến của anh mười phút. Không biết cô đang ở đâu, anh do dự định gọi cho cô, rồi chợt thấy nhà hàng Cổng trời, nơi đã xảy ra sự đụng độ của họ.

    Có thể là ở đó…

    Anh đến gần quán cà phê và nhìn qua tấm kính. Madeline đang ngồi tại bàn với một ly cà phê va một chiếc bánh vòng. Anh mất một lúc để nhận ra cô. Phong cách thời trang thanh lịch đã nhường chỗ cho một cô nàng thành thị năng động. Lớp trang điểm cũng đã biến mất. Một đôi Converse thay thế cho đôi giầy cao gót, một chiếc áo khoác da đánh bật chiếc áo măng tô Prada, và một chiếc túi màu xanh thủy thủ để trên ghế đã chiếm ngôi của những thứ hành lý sang trọng đắt tiền.

    Tóc cô được búi gọn gàng, vài sợi tóc vàng buông nhẹ trên mặt cô, che đi phần nào vết sẹo nhưng cũng mang lại một vẻ thật nữ tính cho diện mạo mới của cô. Jonathan gõ nhẹ hai lần lên kính, giống như anh đang gõ cửa. Cô ngước mắt lên nhìn anh và ngay lập tức anh nhận ra rằng cô gái trước mặt anh không có vẻ gì giống với người phụ nữ xinh đep duyên dáng mà anh đã gặp vào thứ bảy tuần trước. Anh chàng thám tử của Manchester quả là đã bị chinh phục bởi cô nàng bán hoa của Paris.

    - Chào buổi tối, anh nói trong khi đến gần chiếc bàn.

    Đôi mắt của Madeline đỏ lên bởi sự thiếu ngủ và ánh lên vẻ mệt mỏi.

    - Chào buổi tối… tôi còn không biết giờ là mấy giờ, hay là ngày mấy nữa…
    - Tôi mang trả cho cô đây, anh nói và đưa cô chiếc điện thoại.

    Đến lượt mình, cô lục lọi trong túi để lấy máy của Jonathan và đưa nó về phía anh.
    Từ bây giờ, họ không còn đơn độc nữa.

     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  8. bluechips

    bluechips Mầm non

    PHẦN 3 : Nương tựa vào nhau


    Chương 24 : Điều mà người đã khuất để lại cho người còn sống

    Điều mà người đã khuất để lại cho người còn sống, […],

    chắc chắn đó là một nỗi đau khôn xiết, nhưng cũng là nghĩa vụ phải sống,

    phải hoàn thành phần đời còn nguyên vẹn mà người chết đã phải rời xa.

    François CHENG

    Manchester
    Sở cảnh sát Cheatam Bridge
    4 giờ sáng

    Trong ánh sáng mờ ảo tại văn phòng mình, Jim Flaherty tăng công suất lò sưởi lên, nhưng cái máy sưởi được chính quyền cấp miễn phí này đã đến thời kỳ nghỉ hưu và nó chỉ phả ra được toàn hơi lạnh. Mặc kệ nó, anh chỉ còn cách phải thắt chặt khăn quàng cổ và mặc chiếc áo lạnh dày của mình vào. Vào cái đêm trước giao thừa như thế này, sở cảnh sát gần như không còn một bóng người. Bên phía phòng thẩm vấn, màn đêm buông xuống một cách tĩnh lặng : cái lạnh đã làm tê liệt phía tây bắc nước Anh ít nhất cũng kiềm hãm được sự phạm tội.

    Một âm thanh báo hiệu có mail đến. Jim ngẩng đầu lên nhìn vào màn hình và mắt anh sáng lên. Là cái thư mà anh đang đợi : báo cáo của nhà phân tích chữ viết mà anh đã gửi tấm ảnh chụp mảnh giấy của Jonathan Lempereur. Hôm qua, khi anh đã điền xong thủ tục hành chính, yêu cầu của anh đã bị từ chối với lý do là vụ án Dixon đã khép lại và chính quyền không có thời gian cũng như tiền bạc để điều tra lại nó. Anh đã phải đi đường vòng và gọi cho một trong những giáo sư ở trường cảnh sát của mình : Mary Lodge, cựu trưởng khoa giám định « So sánh chữ viết tay » của Scotland Yard. Giờ bà đang làm công việc tham vấn về các loại thuế, nhưng bà vẫn đồng ý giúp đỡ miễn phí cho anh.

    Jim đọc đi đọc lại bức thư một cách bồn chồn. Nhưng kết luận của báo cáo thật mơ hồ. Những câu chữ trên mảnh khăn giấy rất có thể được viết bởi Alice, nhưng chữ viết thay đổi khi con người ta lớn lên : chữ viết lần này có vẻ « trưởng thành » hơn so với trong cuốn nhật ký, làm cho việc giám định một cách chính xác trở nên khó khăn hơn.

    Jim thở hắt ra.

    Một tiếng động vang lên. Có ai đó đang bước vào văn phòng mà không gõ cửa.

    Flaherty ngẩng đầu lên và nheo mắt rồi nhận ra người đồng nghiệp của mình, Trevor Conrad.

    - Ở đây rét thật ! viên cảnh sát trẻ vừa nói vừa kéo khóa chiếc áo khoác của mình.
    - Cậu xong việc chưa ? Jim hỏi.
    - Tôi nói trước với anh, đây là lần cuối cùng tôi giúp anh làm việc cả đêm cho cái hồ sơ đã kết thúc cách đây vài tháng này đấy. Tìm lại các dấu vết không hề là một việc dễ dàng, tin tôi đi…, anh nói trong khi đưa lại cho Jim chiếc túi nhựa trong đó có mảnh khăn giấy dính sô cô la.
    - Cậu có tìm được gì đáng chú ý không ?
    - Dù sao thì tôi cũng đã làm việc như một gã điên. Tôi đưa nó đến cho DFO. Tôi có những dấu vết, những mảng miếng, nhưng tất cả đều rời rạc.

    Anh đưa cho Jim một cái USB cùng với lời cảnh báo :

    - Tôi đã sao chép lại cho anh tất cả, nhưng mọi thứ đều lộn xộn : anh đừng nên trông chờ một bảng hoàn chỉnh.
    - Cảm ơn cậu, Trevor.
    - Thôi, tôi đi về đây. Cùng với sự ngốc nghếch của anh, Connie sẽ tiếp tục tin rằng tôi có một cô giáo suốt ngày bắt tôi làm việc thôi, viên thanh tra càu nhàu trong khi rời khỏi phòng.

    Còn lại một mình, Jim gắn chiếc USB vào máy tính. Trevor đã tách ra khoảng mười mẫu, trong đó có hai hay ba cái có thể dùng được. Jim đưa chúng ra màn hình máy tính của mình. Anh phóng to các mẫu đó và mất một lúc lâu để nghiền ngẫm một cách say mê những dấu vân tay giúp phân biệt chính xác sự khác nhau của mỗi người.

    Anh kết nối vào chương trình chứa những dấu vân tay kĩ thuật số. Anh biết rằng chỉ có thể là đúng hoặc sai, nhưng trong sự cô đơn và lạnh lẽo của bóng đêm, anh vẫn muốn tin vào một ánh sao hi vọng. Anh thử so sanh ba mẫu trên với hàng trăm ngàn mẫu có trong dữ liệu. Chương trình bắt đầu quét với một tốc độ chóng mặt. Trong ngành này, luật pháp nước Anh là một trong những luật đòi hỏi nhất trên thế giới : nó quy định sự tồn tại đồng thời của mười sáu điểm hội tụ để có thể xác định hai mẫu vân tay kĩ thuật số hoàn toàn giống nhau.

    Bất chợt, màn hình hiện ra khuôn mặt u buồn của Alice Dixon.

    Jim cảm nhận sự run rẩy trên khắp thân mình : những dấu vân tay trân mảnh khăn giấy đúng là của cô bé.

    Người tên Jonathan Lempereur đã không kể cho anh những điều bịa đặt. Vào tháng mười hai năm 2009, hơn sáu tháng sau khi người ta nhận được quả tim được cho là của cô bé, Alice Dixon vẫn còn sống !

    Anh cảm thấy tay mình run lẩy bẩy và mọi thứ đang hỗn loạn trong anh. Anh sẽ mở lại cuộc điều tra. Anh sẽ nói với sếp, với truyền thông, với Madeline. Lần này, họ sẽ tìm ra cô bé. Không có thời gian để bỏ lỡ, anh…

    Một tiếng nổ lớn và vang vọng cắt đứt sự tĩnh lặng của màn đêm.

    Bị bắn ở cự ly gần, viên đạn giết chết Jim ngay lập tức.

    *

    Cái bóng sượt qua khung cửa sổ.

    Y phục toàn đen từ đầu đến chân, kẻ giết người tiếp tục nhiệm vụ mà người ta đã giao cho hắn. Hắn dúi khẩu súng vào tay Jim để dựng hiện trường như một vụ tự sát, rồi, như người ta đã yêu cầu, hắn lấy đi túi nhựa có chứa mảnh khăn giấy cùng với chiếc USB. Hắn kết nối tiếp một cái ổ cứng nhỏ vào máy tính của viên cảnh sát quá cố và dùng nó để đưa virus « Tchernobyl 2012 » vào đó : một thứ virus có khả năng, trong một thời gian ngắn kỉ lục, ảnh hưởng đến toàn bộ chương trình trong máy tính, xóa toàn bộ nội dung các ổ đĩa và ngăn cản việc phục hồi chúng.

    Việc đó chỉ mất chưa đến ba mươi giây. Hiện tại, hắn cảm thấy gấp rút hơn. Tuy là sở cảnh sát đang gần như không người, nhưng cũng khó tránh khỏi việc sẽ có người sớm đến văn phòng này và phát hiện sự việc. Sự tĩnh lặng bao trùm nơi này mang lại một hiệu quả nhất định. Hắn đã điều chỉnh cường độ của tiếng nổ nhỏ lại nhưng không đến mức giống như tiếng suỵt ngắn gọn mà người ta thường thấy trong phim.

    Hắn thu gọn nhanh chóng đồ nghề của mình. Đúng lúc hắn chuẩn bị thoát ra bằng cửa sổ, hắn nghe thấy điện thoại của Jim rung lên trên bàn. Hắn không thể ngăn mình liếc mắt về phía chiếc smartphone : một cái tên hiện lên trên màn hình

    MADELINE
     
    Last edited by a moderator: 8/5/15
  9. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 25: Thành phố không bao giờ ngủ

    Đàn ông nói chuyện với đàn bà để lên giường với họ ;

    đàn bà ngủ với đàn ông để có thể cùng họ nói chuyện.

    Jay Mc INERNEY
    Vào lúc đó, ở New York...

    - Không có gì để làm cả : Jim không trả lời, Madeline kết luận sau khi ngắt cuộc gọi trong khi chiếc taxi chở họ đỗ lại trước một nhà hàng nhỏ của Greenwich Village.

    Jonathan mở cửa xe cho cô.

    - Không có gì lạ cả, bây giờ đang là năm giờ sáng ở Manchester ! Anh chàng Jim của cô chắc vẫn đang khò khò trên giường, thế thôi...

    Cô nàng điều tra viên theo anh chàng người Pháp vào bên trong nhà hàng. Ngay lúc bước vào, ông chủ nhà hàng đã nhận ra ngay người sếp cũ của mình :

    - Jonathan ! Thật là hân hạnh cho tôi !
    - Rất vui được gặp lại ông, Alberto.

    Ông chủ để họ ngồi tại một chiếc bàn nhỏ gần cửa sổ.

    - Tôi sẽ mang đến cho hai người hai suất Special One, ông ta nói.

    Một lần nữa, Madeline gọi cho Flaherty, cũng không thành công y như mấy lần trước. Có gì đó rất lạ...

    - Jim là một người tham công tiếc việc. Với những điều mà anh đã kể, đáng lẽ anh ấy phải dùng hết tất cả sức ảnh hưởng của mình để có được những phân tích khoa học. Và đáng lẽ bây giờ, anh ấy đã phải có những kết quả bước đầu.
    - Chúng ta chỉ còn cách Noël có hai ngày : mọi dịch vụ đều chậm lại. Hãy để đến ngày mai rồi gọi cho anh ta.
    - Mmm, Madeline nhân nhượng. Còn điều này, anh định sẽ để tôi ngủ ở đâu ? Bởi vì tôi muốn nói trước với anh là, tôi đã mệt lắm rồi và...
    - Cô đừng lo : chúng ta sẽ đến nhà Claire.
    - Claire Lisieux ? Cô phó bếp cũ của anh ở L'Imperator ?
    - Phải, cô ấy có một căn hộ gần đây. Tôi sẽ gọi cho cô ấy để nhờ vả. Chắc là ổn thôi : cô ấy không ở New York vào dịp Noël.
    - Bây giờ cô ấy đang làm việc ở đâu ?
    - Ở Hồng Kông, tại một trong những nhà hàng của Joel Robuchon.

    Madeline hắt hơi. Jonathan đưa cho cô một tờ khăn giấy. Alice có thể vẫn còn sống..., cô nghĩ, đôi mắt sáng lên. Bị hỗn loạn bởi những điều Jonathan đã kể, cô cố gắng kiềm chế tiếng nói bên trong của mình, và cả sự phấn khích tột độ, từ chối vui mừng trước khi nhận được những bằng chứng không thể phủ nhận.

    - Nóng hổi đây ! Alberto kêu lên trong khi mang ra món đặc biệt của nhà hàng : hai miếng thịt bò tái kẹp trong một ổ bánh mì giòn rụm cùng với hành tây, dưa leo và khoai tây xào.

    Nằm ở phía bắc của Greenwich Village, ở góc University Place và trên đường số 14, nhà hàng của Alberto là một trong những quán ăn đêm còn sót lại ở Manhattan. Phục vụ 24 trên 24, nhà hàng thu hút, trong một không gian rétro, một hàng vô tận những thực khách ăn đêm đến để thưởng thức trứng rán, bánh mì Pháp, hot dog, bánh xếp và bánh kẹp.

    Ông chủ người Mỹ lai Ý đặt hai ly sữa lắc trước hai dĩa ăn.

    - Tối nay, hai vị là khách mời của tôi. Không, Jonathan, đừng cãi tôi, được chứ ? Chắc chắn đây là lần cuối cùng, hơn nữa...
    - Tại sao vậy ?
    - Tôi cũng vậy, họ nắm thóp tôi rồi ! Alberto nói trong khi chỉ tấm áp phích dán trên tường.

    Trên đó thông báo với khách hàng rằng vì lí do tiền thuê mặt bằng quá cao nên nhà hàng đang hoạt động những ngày cuối cùng và sẽ đóng cửa vào mùa xuân.

    - Tôi rất tiếc, Jonathan nói
    - Không có gì ! Tôi sẽ làm lại ở một nơi khác, ông khẳng định trong khi lấy lại vẻ mặt vui vẻ trước khi lại biến mất vào nhà bếp.

    Ông vừa đi khỏi là Madeline nhào ngay vào chiếc bánh sandwich của mình.

    - Tôi đói muốn rã ruột rồi, cô thú nhận trong khi nhai nhồm nhoàm chiếc bánh Special One.

    Bản thân mình cũng đói ngấu, Jonathan cũng chẳng ngần ngại ngấu nghiến phần của mình. Họ tận hưởng bữa ăn trong cái vẻ quyến rũ đặc biệt của nhà hàng. Đó là một không gian vượt thời đại được trang trí một cách hài hòa bởi sự phối hợp giữa các yếu tố nghệ thuật, những mảnh tường sáng loáng và những thứ đồ đạc bằng Formica. Trên tường, đằng sau quầy bar, một chuỗi ảnh của các ngôi sao nổi tiếng được tái hiện – từ Woody Allen đến thị trưởng của New York – đến đây ăn một đĩa pasta hay arancini. Ở góc phòng, một cái jukebox đã cũ đang phát bản Famous Blue Raincoat, một trong những bản hay nhất của Leonard Cohen, bất kể sự u ám và đen tối của lời bài hát.

    Một cách kín đáo, Jonathan khẽ ngắm nhìn người phụ nữ Anh đang thưởng thức chiếc hamburger của mình.

    - Thật kì lạ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy cô, tôi đã cho rằng cô thuộc kiểu mấy người ăn chay trường kì có thể luôn luôn vui vẻ chỉ với 2 lá xà lách mỗi ngày.
    - Đâu ra cái hình ảnh đấy thế... cô cười.

    Bây giờ là hơn một giờ sáng. Ngồi đối mặt nhau trên một cái ghế da, họ tận hưởng chút thời gian nghỉ ngơi này. Mặc kệ sự mệt mỏi, cả hai đều mong muốn thoát khỏi tình trạng này. Đã nhiều giờ rồi, một loại adrenaline mới như đang làm cho máu chảy nhanh hơn trong người họ. Jonathan đã hết uể oải và gay gắt, tình trạng mà anh đã trải qua suốt hai năm trời. Về phần Madeline, cô đã dừng việc tin rằng cuộc sống đơn điệu không sóng gió kia sẽ bảo vệ mình khỏi ác quỷ.

    Khoảnh khắc chia sẻ đó, một chút không thực tế, chính là « tâm bão » của họ : sự tĩnh lặng tuyệt đối trước sự trở lại của một cơn bão chắc chắn là mạnh mẽ và khốc liệt hơn. Họ không hề hối hận về lựa chọn của mình, nhưng họ cũng biết rằng trước mắt họ là bí ẩn : khoảng trống, những câu hỏi, nỗi sợ hãi... Điều gì sẽ xảy ra vào ngày mai ? Cuộc điều tra này sẽ dẫn họ đi đến đâu ? Liệu họ có biết cách đối mặt hay thoát khỏi cái thử thách khốc liệt này không ?

    Một cái điện thoại rung lên trên bàn. Họ cúi mắt xuống cùng lúc. Một cách tự nhiên, họ đặt hai chiếc điện thoại kế nhau. Là điện thoại của Jonathan đang rung, nhưng lại là tên « RAPHAEL » đang nhấp nháy trên màn hình.

    - Tôi nghĩ rằng nó là của cô, anh nói trong khi đưa cô điện thoại. Cô dám lưu cả tên của anh ta vào máy tôi cơ đấy !
    - Tôi xin lỗi. Anh ấy đã hỏi số của anh. Anh ấy không biết rằng tôi đã lấy lại điện thoại của mình.

    Điện thoại vẫn tiếp tục rung.

    - Sao cô không trả lời ?
    - Không, tôi không đủ can đảm.
    - Nghe này, đây không phải là việc của tôi và tôi cũng không biết chính xác cô đã nói gì với anh ta trước khi đi, nhưng tôi nghĩ rằng cô cũng không nên biến mất không chút tin tức như vậy...
    - Anh nói đúng đấy : đây không phải việc của anh.

    Điện thoại đã ngừng rung. Jonathan nhìn cô với vẻ trách móc.

    - Anh ta có biết rằng cô đang ở đây không ?

    Cô nhún vai.

    - Anh ấy nghĩ rằng tôi đang ở Luân Đôn.
    - Ở nhà bạn cô, Juliane, phải không ?

    Cô gật đầu.

    - Chắc là anh ta đã gọi cho bạn cô, Jonathan đoán. Anh ta biết cô không ở với cô ấy.
    - Mai tôi sẽ gọi cho anh ấy.
    - Mai ? Nhưng anh ta có thể chết vì lo lắng đấy ! Anh ta sẽ gọi điện thoại đến sân bay, sở cảnh sát, bệnh viện...
    - Dừng bộ phim của anh lại đi ! Sao anh không nói luôn đến chuyện gọi đến nhà xác đi ?
    - Cô không có trái tim à ? không có chút thương xót nào cho cái gã tội nghiệp đang bị nỗi lo lắng gậm nhấm sao ?
    - Anh làm tôi bực mình đấy ! Và Raphael không phải là một gã tội nghiệp !
    - Tất cả phụ nữ đều như nhau !
    - Không phải vì anh có vấn đề với phụ nữ mà mình tôi phải nghe những lời này !
    - Cô không trung thực với anh ta. Nói cho anh ta sự thật đi.
    - Sự thật là gì ?
    - Là cô không còn yêu anh ta nữa. Rằng anh ta chỉ là một cứu cánh cho cuộc đời cô, một chỗ dựa...

    Cô giơ tay lên để tát anh, nhưng anh nhanh chóng chụp lại, tránh được cú tát giận dữ.

    - Tôi thật lòng khuyên cô hãy bình tĩnh lại.

    Anh đứng dậy, mặc áo khoác vào, lấy điện thoại và đi ra ngoài hút thuốc trên vỉa hè.

    *
    Ánh đèn néon của biển hiệu sáng lên trong đêm tối. Trời vô cùng lạnh, đã vậy lại còn thêm những cơn gió lốc buốt giá. Jonthan chụm tay lại để che chắn cho lửa từ hộp quẹt của mình, nhưng gió mạnh đến nỗi anh phải quẹt đến hai lần mới đốt được điếu thuốc.

    *
    Giận dữ, Madeline rời khỏi bàn và đi thẳng đến quầy bar để gọi một ly cocktail với whisky với nước dứa. Từ chiếc jukebox, giọng hát trầm và sâu lắng của Leonard Cohen đã nhường chỗ cho tiếng ghi ta và trống êm dịu của The Beatles. I Need You do George Harrison hát. Đây là một bản nhạc đúng chất 1960, nhẹ nhàng và tinh khôi, mà « mẩu thứ ba của The Beatles » viết cho Pattie Boyd, trong lúc họ còn yêu nhau, ngay trước khi bà ta rời bỏ ônd để đến với Eric Clapton.

    Với ly cocktail trên tay, Madeline trở về bàn. Cô nhìn qua cửa kính người đàn ông kì lạ mà cô chỉ mới biết cách đây một tuần, nhưng, vài ngày trở lại đây, đã chiếm gần hết toàn bộ tâm trí cô, hay nói khác đi đã ám ảnh cô. Được bao bọc bởi chiếc áo lạnh, anh ta đang quan sát bầu trời. Ánh sáng từ đèn đường mang lại cho anh một vẻ mờ ảo, vừa trẻ thơ lại vừa u sầu. Ở anh toát ra một nét thu hút và lay động. Một sự quyến rũ đơn giản, một gương mặt tạo cảm giác tin cậy. Anh toát ra một vẻ tôi-không-quan-tâm, thẳng thắn, trung thực và tin tưởng. Đến lượt mình, anh nhìn cô và từ đây có cái gì đó như đang thay đổi. Run rẩy, cô cảm giác dạ dày mình đột nhiên thắt lại.

    Cô càng tìm cách che giấu những cảm xúc không mong đợi đó, tim cô lại càng đập mạnh hơn, đôi chân cô run rẩy, trong bụng cô như đang có cả một đàn kiến bò lúc nhúc.

    Cảm xúc ngạc nhiên bất chợt trỗi lên trong cô. Tâm trí hoàn toàn xáo trộn, cô tự hỏi sự run rẩy làm cô không thể tự chủ này xuất phát từ đâu. Cô không thể kiểm soát được gì nữa. Lạc lối, không có khả năng chống cự, cô không thể ngăn nổi ánh nhìn của mình hướng về phía anh. Lúc này đây, gương mặt của anh trở nên thân thuộc, giống như cô đã quen biết anh từ lâu lắm rồi.

    *
    Jonathan rít một hơi thuốc lá và phả ra những làn khói mà cái lạnh của màn đêm làm chúng không tài nào tan được trong không khí. Cảm nhận được ánh nhìn của Madeline hướng về mình đằng sau lớp kính, anh quay đầu lại, và lần đầu tiên, mắt họ thật sự chạm nhau.

    Người phụ nữ này... Anh biết rằng đằng sau cái vỏ bọc lạnh lùng và vững chãi ấy là một con người nhạy cảm và phức tạp. Chính nhờ cô ấy mà anh thoát khỏi sự đờ đẫn. Một lần nữa, anh cảm thấy một mối liên hệ kì lạ giữa họ. Những ngày gần đây, mỗi người đều cố gắng tìm hiễu về người kia. Mỗi người đều nuôi dưỡng một ảo ảnh về người kia, xâm nhập vào những bí mật riêng tư nhất, lột trần những điểm yếu, sự mong manh dễ vỡ, khám phá sức mạnh và cả những khuyết điểm đi kèm.

    *
    Trong vòng vài giây, họ cảm thấy như mình hoàn toàn hòa hợp vào nhau. Một cái lóa mắt, một tia sáng, một khoảnh khắc của cuộc đời. So sánh con đường cùng những hiểm nguy khi tiến về phía nhau, họ buộc phải chấp nhận rằng họ là những tâm hồn đồng điệu : hai tâm hồn hòa hợp đã nhận ra nhau và cùng nhau hướng về một đích đến duy nhất. Hiện tại, giữa họ là một sự hiển nhiên và hứng khởi. Một thứ cảm xúc nguyên thủy làm sống dậy nỗi sợ hãi và những hi vọng của tuổi thơ. Một sự thật làm người ta rung rẩy, rằng cuối cùng họ cũng được đối diện với người có khả năng lấp đầy khoảng trống trong họ, làm cho nỗi sợ hãi im bặt và chữa lành những vết thương trong quá khứ của họ.

    *
    Madeline đầu hàng và buông xuôi trước thứ tình cảm mới lạ đó. Nó chơi vơi và lạ lẫm như khi bạn buông mình vào khoảng không tối mịt. Cô lại nghĩ về cuộc gặp gỡ giữa họ. Sẽ không có gì xảy ra nếu như không có cuộc đụng độ ở sân bay. Sẽ không có gì xảy ra nếu họ không bị đổi điện thoại một cách tình cờ. Nếu cô bước vào quán cà phê sớm hay muộn hơn ba mươi giây, họ sẽ không bao giờ gặp nhau. Đó đã là định mệnh. Một trò đùa của số phận đã sắp xếp để đưa họ lại gần nhau vào một khoảng thời gian xác định. Lời gọi từ thiên thần, như bà cô đã nói...

    *
    Bất động trong đêm tối, Jonathan chìm đắm trong dòng suy nghĩ, để mặc cho một ngọn lửa thiêu đốt những tàn dư của quá khứ và phác thảo lên những nét vẽ của tương lai.

    Sự mầu nhiệm kéo dài chưa đến một phút. Ngay lập tức, sự quyến rũ bị cắt đứt. Điện thoại anh đang rung lên trong túi áo. Raphael lại tiếp tục gọi đến. Lần này, Jonathan chọn cách không trả lời. Anh đi vào trong nhà hàng, tiến về phía bàn của mình và đưa điện thoại cho Madeline.

    - Của cô này.

    Rốt cuộc cũng phải quay lại thực tế.

    *
    Hai mươi phút sau

    - Đừng trẻ con như thế ! Cô sẽ bị cảm khi chỉ mặc có mỗi chiếc áo khoác đó đấy !

    Cái lạnh càng lúc càng dữ dội. Mặc độc mỗi chiếc áo pull và áo khoác nhẹ, Madeline đi theo Jonathan trên đường số 14, nhưng cô kiên quyết từ chối chiếc áo lạnh mà anh đề nghị cô khoác vào.

    - Cô sẽ bớt tự phụ ngay ngày mai khi bị sốt 40 độ...

    Ở góc đại lộ số 6, anh dừng lại để mua ít nước, cà phê cùng với một chiếc túi lớn đựng gỗ và củi.

    - Làm sao anh biết trong nhà có ống khói ?
    - Bởi vì tôi biết căn nhà đó. Tôi là người bảo lãnh để giúp Claire mua nó.
    - Anh và cô ấy khá thân thiết đúng không ?
    - Phải, đó là một người bạn rất tốt. Nào, cô có mặc áo lạnh vào không, có hay không ?
    - Không, cảm ơn. Ở đây thật tuyệt, cô thích thú khi khám phá khu phố.

    Trong một thành phố mà mọi thứ đều đã thay đổi, Greenwich Village giống như nơi duy nhất được bảo vệ khỏi sự hiện đại hóa. Khi Madeline đến Manhattan với Raphael, họ đã ở Midtown, tham quan quảng trường Times Square, các bảo tàng và cửa hiệu trên đại lộ số 5. Ở đây, cô khám phá được một New York không có những tòa nhà chọc trời. Một New York thân thiện hơn với những vỉa hè bằng gạch và những bậc thềm bằng đá làm người ta liên tưởng đến những khu phố bình dị ở Luân Đôn thời cổ. Trên hết, trái ngược với những làn đường thẳng tắp ở đầu kia thành phố, nơi này có những lối đi ngoằn ngoèo gợi liên tưởng về những con đường cổ kính, mang đậm dấu ấn thời gian khi mà Greenwich chỉ mới là một ngôi làng nhỏ.

    Mặc dù trời lạnh và cũng đã tối muộn, những quán bar và nhà hàng vẫn còn khá nhộn nhịp. Trên những lối đi đầy cây xanh, họ gặp những người chạy bộ cùng những chú chó, cùng với những sinh viên đại học NYU đang chúc mừng kì nghỉ lễ Noël trong khi hát vang những bài hát Giáng Sinh dưới ánh đèn đường.

    - Đây đúng thật là thành phố không bao giờ ngủ ! Cô kết luận
    - Đúng vậy, về điểm này thì truyến thuyết không nói dối...

    Khi họ đến Washington Square, Jonathan rẽ vào một lối đi được chắn bởi một hệ thống cửa bảo vệ.

    - MacDoughal Alley ngày trước có đặt chuồn ngựa tại những khu vực xung quanh công viên, anh giải thích trong khi nhấn mã số để mở cửa. Có thể đây là con đường duy nhất của Manhattan còn được thắp sáng bằng gaz.

    Họ tiến vào ngõ cụt khoảng chừng trăm mét. Thật khó để tin rằng họ đang ở New York, thế kỉ XXI, tại một không gian có vẻ bí ẩn và vô định.

    Họ dừng lại trước một căn nhà một tầng tuyệt đẹp. Jonathan làm theo chỉ dẫn của Claire, nhấc một chậu cây đặt ngay trước cửa lên để lấy chùm chìa khóa mà người giữ cổng đã cất ở đó.

    Anh bật công tắc để mở đèn và sưởi rồi chuẩn bị củi cho vào ống khói. Madeline đi dạo khắp các căn phòng. Căn nhà được trang trí lại theo phong cách đặc biệt. Nội thất khá hiện đại, nhưng người ta vẫn giữ lại vài góc nguyên thủy như tường bằng gạch đỏ, những thanh xà to và một cái giếng trời mang lại cho không gian một vẻ kì ảo.

    Tò mò, cô gái người Anh quan sát những tấm ảnh treo trên tường. Claire Lisieux là một cô gái dễ thương, cao lớn và năng động. Cô bỗng cảm thấy có chút ghen tỵ.

    - Anh không nhận thấy có gì bất thường khi mình có mặt trên hơn một nửa những bức ảnh treo trong nhà này à ?
    - Bất thường thế nào ? Jonathan hỏi trong khi quẹt một que diêm để mồi lửa.
    - Anh có mặt ở khắp nơi : Claire và Jonathan ở trong bếp, Claire và Jonathan ở Fish Market, Claire và Jonathan ở nhà của Dean và Deluca, Claire và Jonathan ở chợ bio, Claire và Jonathan cùng với người này người kia,...
    - Cô ấy là bạn tôi. Việc cô ấy giữ những thứ ấy làm kỉ niệm cũng bình thường thôi mà.
    - Ngoại trừ ba cô ấy, anh là người đàn ông duy nhất trên tất cả những tấm hình !
    - Cô đang muốn nói gì đây ?
    - Cô gái này là ai ? Người yêu của anh à ?
    - Không ! Cô muốn hỏi tôi điều này bao nhiêu lần nữa đây ?
    - Tuy nhiên, cô ta lại yêu anh, điều này thật hiển nhiên.
    - Tôi không biết.
    - Giờ tôi nói cho anh biết rồi đó.
    - Có gì thay đổi không ?
    - Sau khi anh ly hôn, lẽ ra anh có thể đến gần cô ấy hơn. Cô ấy trẻ, đẹp như một nữ thần, có vẻ thông minh...
    - Thế là đủ rồi đấy.
    - Không, để tôi nói hết.
    - Chẳng có gì để nói cả.
    - Anh có muốn tôi cho anh thấy không ? Cô thách thức anh trong khi tiến về phía trước
    - Không, tôi không cần.

    Jonathan cố gắng lùi lại, nhưng anh đang quay lưng về phía ống khói và lửa bắt đầu cháy lên.

    - Dù sao thì tôi vẫn sẽ nói ! Claire Lisieux thật hoàn hảo : đó là một cô gái nhẹ nhàng, dịu dàng và nghiêm túc. Cô ấy sẽ là người mẹ lý tưởng nếu anh muốn có những đứa con khác. Anh đánh giá cao và tôn trọng cô ấy rất nhiều, nhưng... nói thế nào nhỉ ?... Điều này thật quá dễ dàng, quá đơn điệu,...

    Madeline đang tiến tới ngày càng gần hơn. Lúc này, môi của cô chỉ còn cách môi Jonathan vài centimét. Cô tiếp tục :

    - Nhưng đó lại không phải là điều anh tìm kiếm trong tình yêu, phải không ? Cái anh cần là đam mê, là chinh phục, là sự cháy bỏng. Tóm lại, Claire không phải là người phụ nữ dành cho anh...

    Jonathan ngần ngại không trả lời. Anh cảm nhận được hơi thở của Madeline đang quyện vào hơi thở của anh. Cô đẩy sự khiêu khích lên đến cực điểm :

    - Còn tôi ? Tôi có phải là người phụ nữ dành cho anh không ?

    Anh ghì sát người cô vào người mình rồi ôm hôn cô.

    *
    Jonathan đã không làm tình từ khi chia tay với Francesca. Một cách vụng về, anh cởi áo khoác và áo pull của cô ra. Cô cởi nút áo sơ mi của anh trong khi cắn nhẹ vào cổ anh. Anh thả lỏng bớt để vuốt ve khuôn mặt cô và tận hưởng vị ngọt đôi môi cô. Cô có một mùi hương dịu nhẹ của sự kết hợp giữa mùi bạc hà và oải hương.

    Cơ thể mềm mại và mảnh mai của Madeline quấn lấy anh và cả hai cùng ngã xuống chiếc tràng kỷ. Cơ thể họ tan quyện vào nhau để tạo ra một tác phẩm nghệ thuật sinh động, chuyển động nhấp nhô ánh trăng mờ ảo.

    Tóc, mùi hương, làn da, làn môi của họ quấn lấy nhau. Mắt họ dán chặt vào nhau, họ để cho toàn bộ sự vui sướng xâm chiếm lấy mình.

    Ngoài kia, cuộc sống vẫn tiếp tục, trong thành phố không bao giờ ngủ.

     
    Last edited by a moderator: 9/5/15
  10. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 26: Cô gái mang đôi mắt của Modigliani

    Tôi đã không còn là tôi của ngày trước nữa

    HORACE
    Vào lúc đó, ở Juilliard School,
    ngôi trường nghệ thuật danh giá nhất của New York

    - Tớ vừa mới nhận được một tin nhắn từ Luke ! Lorely reo lên trong khi mở cửa phòng tắm và vẫy vẫy chiếc điện thoại trước mắt cô bạn cùng phòng.

    Đầu nghiêng về phía lavabo, bàn chải đánh răng trong tay, Alice hỏi :

    - Anh ta muốn gì ở cậu ?
    - Cậu nói gì ?

    Cô gái trẻ súc miệng và nói lại cho rõ :

    - Anh ta muốn gì ở cậu ?
    - Anh ấy mời tớ đi ăn tối chiều mai ở Café Luxembourg !
    - May mắn thật ! Cậu không nghĩ anh ta có nét gì của Ryan Reynolds sao ?
    - Dù sao thì anh ấy cũng thật dễ thương ! Lorely cười khúc khích trong khi đóng cửa lại.

    Còn lại một mình, Alice tự ngắm mình trong gương trong lúc tẩy trang bằng một chiếc khăn giấy ướt. Chiếc gương mang lại hình ảnh một cô gái mười bảy tuổi xinh xắn, với khuôn mặt nhỏ nhắn được ôm lấy bởi mái tóc vàng óng. Cô có một cái trán cao, một cái miệng láu lỉnh và đôi gò má cao. Đôi mắt màu xanh rêu tối có vẻ trái ngược với làn da trắng như sứ của cô. Ở đây, tại trường học, do tên và ngoại hình này, mọi người đều nghĩ cô có nguồn gốc Ba Lan. Cô tên là Alice Kowalski. Ít nhất, đó là cái tên trên chứng minh nhân dân của cô...

    Cô hoàn thành việc vệ sinh cá nhân rồi ngắm nhìn mình thêm vài giây, vui vẻ thay đổi ngay nét mặt. Giống như trong những bài tập của cô trong giờ diễn xuất, cô khẽ bĩu môi như hờn dỗi, ngước nhìn một lượt một cách e thẹn rồi khiêu khích.

    Cô ra gặp Lorely trong phòng lớn mà cả hai cùng chia sẻ. Mọi thứ đều trở nên chộn rộn vì cuộc hẹn sắp tới của cô ấy, nàng ca sỹ trẻ người Mĩ gốc Phi này mở nhạc Lady Gaga và thử lần lượt hết bộ này đến bộ khác : váy đen cùng áo khoác da theo kiểu Gossip Girl, đầm vintage theo phong cách gypsy, quần jean Chloé và áo màu sắc theo kiểu Cameron Diaz,...

    - Tớ mệt chết đi được, Alice thú nhận trong khi cuộn tròn mình lại sau những cái gối
    - Bình thường thôi. Tối nay, cậu đã là nữ hoàng của vũ hội !

    Cô ấy đang nhắc đến vở công diễn cuối năm : tác phẩm West Side Story trong đó Alice đóng vai Maria.

    - Thật không, cậu thấy tớ diễn tốt thật chứ ?
    - Tỏa sáng ! Cậu hoàn toàn có năng khiếu diễn nhạc kịch giống như chơi violon vậy.

    Má hơi ửng đỏ, Alice cảm ơn bạn mình. Trong khoảng mười lăm phút, hai cô gái tán dóc với nhau, diễn tả lại buổi tối vừa qua.

    - Khỉ thật, tớ để quên túi xách trong phòng thay đồ của khán phòng rồi ! Alice bất thần nhận ra.
    - Không sao mà, cậu có thể lấy nó vào ngày mai, đúng không ?
    - Vấn đề là trong đó có thuốc của tớ.
    - Mấy thứ mà cậu dùng cho chỗ cấy ghép phải không ?
    - Nhất là mấy thứ chống tăng huyết áp, cô nói rõ trong khi nằm dài ra giường.

    Bối rối, cô suy nghĩ vài giây rồi nói :

    - Tớ sẽ đến đó ! Cô quyết định rồi nhảy khỏi giường.

    Cô mặc ngay một cái quần vào và mở tủ áo lấy ngay một chiếc áo pull.

    Theo bản năng, cô lấy ngay chiếc đầu tiên nhìn thấy : một chiếc áo khoác có nón màu hồng xám có logo của Manchester United. Vật duy nhất còn sót lại từ cuộc sống trước đây của cô.

    Cô mang ngay một đôi giày thể thao vào, thậm chí không buồn thắt lại dây.

    - Tớ sẽ đi mua đồ ăn luôn, cô quyết định. Tớ thèm bánh Oreo và sữa dâu.
    - Mua giùm tớ một hộp bánh xếp nhé ? Cô bạn cùng phòng hỏi
    - Ok, lát gặp.

    *
    Alice ra khỏi phòng mình. Trong hành lang, không khí thật dễ chịu. Vào đêm trước kì nghỉ, một bầu không khí lễ hội bao trùm toàn bộ kí túc xá. Tại đây hơn ba trăm sinh viên đang cư trú khắp mười hai tầng trên cùng của Lincoln Center : những vũ công, diễn viên và nhạc công tương lai với hơn năm mươi quốc tịch khác nhau ! Mặc dù bây giờ đã gần hai giờ sáng, các học sinh vẫn qua lại phòng nhau. Rất nhiều người đang sửa soạn hành lý để rời trường ngày mai và về tham dự lễ Giáng Sinh với gia đình.

    Bước vào cổng chính, Alice bấm thang máy. Trong lúc chờ đợi, cô nhìn qua cửa sổ những ánh đèn đường rọi xuống dòng sông. Cô vẫn còn đang trong trạng thái hưng phấn của buổi diễn và khẽ nhảy một bước. Hơn lúc nào hết, vào lúc cuối năm như thế này, cô luôn cảm thấy biết ơn cuộc sống của mình. Cô sẽ ra sao nếu tiếp tục ở lại Manchester ? Liệu đến bây giờ cô có còn sống được không ? Rất có thể là không. Ở đây, tại Manhattan, cô được tỏa sáng và, mặc kệ những di chứng của ca ghép tim, cô đang được sống trên mây. Cô, một cô gái bé nhỏ của Cheatam Bridge, tối nay đã được đóng vai chính trong vở diễn của trường nghệ thuật danh tiếng nhất New York !

    Bất chợt cô cảm thấy hơi lạnh và cô đút tay sâu hơn vào túi áo khoác. Chiếc áo khoác màu hồng cũ kĩ gợi lên những kỉ niệm, và những hình ảnh của cuộc sống trước đây đột ngột ùa về trong cô : mẹ cô, trường học, khu phố, nỗi đau khổ, những tòa nhà cũ nát, mưa, nỗi cô đơn và sợ hãi cứ bám chặt lấy cô. Giờ đây, cô vẫn thường có những giấc ngủ không trọn vẹn, nhưng cô không hối hận về quyết định của mình. Và cô sẽ không bao giờ hối tiếc.

    Ở đây, tại Juilliard School, mọi người đều đam mê văn hóa nghệ thuật. Con người đều hướng đến trí tuệ, sự bao dung và sáng tạo. Cuộc sống thật dễ dàng và có thật nhiều điều kiện tuyệt vời cho công việc : nếu cô muốn, cô có thể chơi violon vào lúc nửa đêm, trong những phòng cách âm có tại mỗi tầng lầu. Trường học có rất nhiều khán phòng và phòng tập luyện, một trung tâm săn sóc, một trung tâm thể thao,...

    Khi thang máy cuối cùng cũng đến, Alice nhấn nút tầng thứ mười hai trên đó có sảnh lớn dành cho các buổi họp mặt chung. Góc phòng vẫn còn nhộn nhịp : một vài học sinh đang xem concert trên màn hình lớn, một số khác chơi bi da, vài người khác lại ngồi tại quầy của chỗ sinh hoạt chung, chia sẻ với nhau những cái bánh cupcake của Magnolia Bakery.

    - Tiêu rồi ! Cô bỏ cuộc, bực mình vì máy bán hàng tự động đã gần như cạn kiệt.
    - Chuyện gì thế, cô gái nhỏ ? Người gác cổng hỏi
    - Loại bánh mà cháu thích hết mất rồi !

    Nơi này được canh giữ 24 trên 24 bởi một hệ thống thiết bị hiện đại. Ở Juilliard, không ai dám đùa giỡn với an ninh : ngôi trường đón nhận những học sinh ưu tú, với vương miện trên đầu và thậm chí cả con gái của tổng thống đến theo học.

    Trước khi quay lại thang máy, Alice mua nước cùng với bánh xếp cho Lorely. Cô đi xuống mấy tầng dưới, nơi có những khán phòng cho concert. Đến tầng hai, khi cửa mở ra, Alice phát hiện một bóng người cao lớn đang đứng đợi mình. Một người đàn ông trùm kín mặt với khẩu súng ngắn trong tay. Cô lùi lại, định thét lên, nhưng hắn đã tiến tới và giơ súng lên.

     
    Last edited by a moderator: 9/5/15
  11. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 27: Tù binh

    Không ai có thể mang mặt nạ quá lâu

    SÉNÈQUE
    Hai luồng xung điện từ khẩu súng Taser nhắm thẳng vào phần bụng dưới của Alice, phóng ra một dòng điện cực mạnh làm cô choáng váng Hoàn toàn tê liệt, cô bé đổ nhào người xuống đất, hơi thở và đôi chân không còn sức sống, não dừng hoạt động.

    Kẻ tấn công đến gần cô bé ngay tức thì. Hắn nắm lấy cổ cô và nhấn một cách thô bạo một cái khăn mù soa vào miệng cô, trước khi khóa miệng cô lại bằng một cái khăn dài. Cửa thang máy đóng lại. Hắn nhấn nút đi xuống tầng hầm và, trong lúc thang máy đi xuống, hắn đẩy Alice xuống sàn. Trước khi cô bé lấy lại ý thức, hắn đặt cô bé nằm úp xuống, trói cổ tay và cổ chân cô bé bằng hai sợi dây nylon mà hắn buộc chặt lại hết mức.

    Trong vòng vài giây, họ đã xuống đến bãi đỗ xe. Người đàn ông, vẫn trùm kín từ đầu tới chân, nắm lấy Alice như nắm cái túi xách và vác cô bé lên vai. Vẫn còn đang mơ màng, cô bé cố gắng chống cự một cách yếu ớt, nhưng cô bé càng động đậy thì hắn càng sung mãn hơn. Hai cánh tay hắn lực lưỡng và thô bạo như có khả năng nghiền nát xương của cô. Làm sao hắn có thể đùa giỡn với hệ thống an ninh cực kì tinh vi như thế ? Làm sao hắn biết rằng Alice sẽ đi thang máy vào lúc đó ?

    Trong ánh sáng mờ ảo, họ băng qua chỗ đậu xe và tiến đến một chiếc Dodge màu đỏ bordeaux. Với cấu trúc và thiết bị hiện đại, chiếc xe đạt được một tốc độ đáng kinh ngạc. Người đàn ông đặt Alice vào ghế sau, được ngăn cách với khoang lái phía trước bằng một lớp kính giống như ta thường thấy trong taxi. Hắn ngồi vào vô lăng và rời khỏi bãi xe không chút lo lắng, với một cái thẻ từ.

    Ngay khi hắn ra được bên ngoài, hắn cởi bỏ áo choàng, cho phép Alice nhìn thấy gương mặt qua gương chiếu hậu trung tâm. Đó là một người đàn ông có mái tóc được cắt rất sát, cặp mắt lờ đờ, đôi gò má nhăn nheo và ửng đỏ. Cô chưa bao giờ gặp hắn trước đây. Chiếc xe hòa vào dòng lưu thông và tiến đến Broadway trước khi rẽ sang đại lộ Columbus.

    *
    Hai đầu gối run rẩy, tim đập mạnh, Alice dần dần thoát khỏi trạng thái u mê do súng Taser gây ra. Tuy hoàn toàn bị xâm chiếm bởi cảm giác sợ hãi, Alice vẫn cố gắng nhìn ra cửa sổ để xem xét đường đi của kẻ bắt cóc. Miễn là họ vẫn ở trong những khu phố du lịch, cô vẫn giữ được hy vọng. Cô bé cố gắng gõ mạnh vào cửa bằng chân, nhưng sợi dây buộc quá chặt làm cô không tài nào cựa quậy được. Vô cùng hoảng sợ, cô bé gần như bị nghẹt thở với cái giẻ đang bịt miệng và cản trở sự hô hấp của cô. Cô bé định thử tự cởi trói tay, nhưng những sợi dây nylon cứa vào cổ tay cô một cách đau đớn.

    Chiếc xe đi vào đại lộ số 9 và tiến đến đường số 42. Giờ họ đang ở gần Hell's Kitchet – nhà bếp của quỷ dữ. Alice cố gắng suy luận :

    Bình tĩnh nào ! Thở đi nào ! Không được sợ !

    Cô sẽ không chết. Ít nhất không phải là ngay lập tức. Nếu hắn muốn giết cô, hắn đã ra tay rồi. Chắc chắn hắn cũng sẽ không cưỡng hiếp cô. Một kẻ loạn óc đơn thuần chỉ muốn thỏa mãn nhu cầu sẽ không mạo hiểm đến mức xâm nhập vào một tòa nhà an ninh như Juilliard.

    Vậy rốt cuộc người đàn ông này là ai ? Có một điều làm cô chú ý : hắn cố gắng không đụng chạm vào phần ngực của cô, thay vào đó hắn bắn điện với phần bụng dưới.

    Hắn biết rằng mình được ghép tim và chút xung điện gần tim có thể giết chết mình...

    Vẫn chưa biết được động cơ của kẻ bắt cóc, Alice hiểu ra rằng, tối nay, quá khứ lại đuổi bắt cô.

    Người đàn ông lái xe một cách cẩn thận, chú ý không vượt quá tốc độ cho phép để tránh sự kiểm tra của cảnh sát. Hắn lái đến cực Tây của thành phố rồi lái xuống miền Nam men theo hướng chảy của sông. Họ đã chạy được gần mười lăm phút cho đến khi chiếc xe tiến vào đường hầm Brooklyn Battery.

    Dấu hiệu xấu, họ sắp rời khỏi Manhattan...

    Họ vừa mới qua khỏi trạm thu phí trước khi điện thoại của kẻ lạ mặt rung lên. Hắn nhấc máy ngay sau hồi chuông đầu tiên, với thiết bị nghe điện thoại rảnh tay gắn trên xe, cho phép Alice nghe được phần lớn cuộc nói chuyện :

    - Sao rồi, Youri ? Giọng nói kia hỏi
    - Tôi đang trên đường. Mọi thứ diễn ra theo kế hoạch, hắn thông báo bằng một thứ giọng sắc mang âm hưởng tiếng Nga.
    - Anh không làm đau nó chứ ?
    - Tôi đã làm theo chỉ dẫn.
    - Tốt. Anh biết mình còn phải làm điều gì chứ ?
    - Ừ, tay người Nga trả lời
    - Đừng quên lục soát người nó và thu dọn chiếc xe.
    - Tôi biết rồi.

    Giọng nói trong điện thoại... Là giọng của... Không, không thể nào...

    Mọi thứ đã sáng tỏ. Tim Alice đập ngày càng nhanh hơn, vì cô vừa hiểu ra rằng nguy hiểm còn lớn hơn điều mà cô đã tưởng tượng.

    Dưới áp lực của nỗi sợ, cái giẻ càng làm cô ngộp thở hơn. Cô cố gắng thở thật chậm. Cô phải thử làm điều gì đó.

    Điện thoại của mình !

    Cố gắng để không gây sự chú ý, Alice cố gắng vặn người để kéo điện thoại trong túi áo sau của mình ra. Thật không may, hai cổ tay bị trói làm mọi việc vô cùng khó khăn, cộng thêm sự theo dõi sát sao qua gương chiếu hậu của gã « Youri » kia. Tuy nhiên, bằng sự kiên nhẫn và cố gắng, cô đã lấy được điện thoại ra và mở khóa nó. Trong bóng tối, cô bấm hai số đầu tiên của 911 trong khi chiếc Dodge thắng lại một cách đột ngột. Chiếc điện thoại nảy ra khỏi tay Alice và rơi xuống dưới băng ghế.

    - Гандон ! Tay người Nga rít lên với người lái môtô vừa vượt lên.

    Bị buộc lại như một cây xúc xích, Alice không thể làm gì được : điện thoại hoàn toàn nằm xa tầm với của cô.

    Họ chạy thêm khoảng hai mươi phút nữa, hướng về phía Nam. Hắn đang đi đâu vậy ? Cô bé cho rằng họ đã ra khỏi Brooklyn được một lúc khi cô phát hiện tấm pa nô của đại lộ Mermaid, một trong những tuyến đường chính của Coney Island.

    Cô có một hi vọng điên rồ khi chiếc xe lướt qua xe cảnh sát đang tuần tra trên đại lộ Surf, nhưng hai tay cảnh sát đỗ xe trước cửa Nathan's Famous lại đang bận ngấu nghiến hot dogs. Không phải họ là người mà Alice muốn chào hỏi.

    Gã người Nga rẽ vào một ngõ tối và tắt đèn pha. Không có chiếc xe nào khác trong tầm ngắm. Hắn tiến đến một tòa nhà đổ nát và tắt công tắc xe.

    Sau khi xem xét xung quanh, Youri mở một cánh cửa xe phía sau để cho cô bé ra ngoài.

    Bằng một nhát dao, hắn cắt đứt dây trói cổ chân cô.

    - Tiến lên !

    Alice nghe thấy tiếng sóng và cảm nhận được vị mặn trên mặt mình. Họ đang ở giữa một khu vực tăm tối và vắng lặng, gần Đại Tây Dương. Bao trùm khắp đảo là một không khí tang tóc, khác xa các tòa nhà chọc trời ở Manhattan và sự sôi động ồn ào của Brooklyn. Đầu thế kỉ XX, Coney Island đã từng là một nơi vô cùng nhộn nhịp. Những trò giải trí độc đáo ở đây đã từng thu hút hàng triệu du khách từ khắp mọi nơi trên nước Mỹ. Những vòng quay ngựa gỗ tại đây lúc nào cũng sôi nổi và tấp nập. Vòng quay tại đây là lớn nhất đất nước, những chiếc xe lửa ma đáng sợ nhất và chương trình Freak Show với nhiều thứ quái vật nhất. Treo người bằng dây cáp, người ta có thể thử trò rơi tự do một cách thú vị nhất.

    Nhưng thời đại hoàng kim đó đã xa rồi. Trong cái đêm lạnh lẽo tháng mười hai này, nơi đây không còn chút ánh sáng nào của thời đại huy hoàng đó. Từ những năm 60, nơi này rơi vào sự suy tàn, không thể kháng cự lại hoạt động của Disneyland và các công viên giải trí hiện đại khác. Ngày nay, nó chỉ còn là các dãy đất trống, bãi đỗ xe phế thải và những tòa nhà đổ nát. Chỉ còn duy nhất một cái vòng xoay ngựa gỗ còn hoạt động trong những tháng hè. Phần còn lại trong năm, những trò giải trí khác mang lại cảm giác mục ruỗng, với các thiết bị rỉ sét và hư hỏng.

    - Mày mà tìm cách trốn thì tao sẽ làm thịt mày như một con cừu đấy, Youri báo trước trong khi kề lưỡi dao găm lên cổ Alice.

    *
    Hắn dẫn cô bé đến một bãi đất đầy bùn, được bảo vệ bởi các hàng rào cao trên đó có một bầy chó săn. Những con chó săn Đức lông vào cùng với đôi mắt sáng lên trong màn đêm. Tình trạng gầy guộc của chúng cho thấy sự thiếu dinh dưỡng và thay vào đó là sự cáu bẳn và những tiếng sủa đáng sợ. Youri thậm chí gặp phải khó khăn khi bắt chúng im miệng. Hắn đẩy Alice vào một nhà kho bỏ hoang mà hắn đã mở cửa, buộc cô đi xuống một cầu thang bằng kim loại dẫn đến một đường hầm hẹp. Một bầu không khí lạnh giá bao trùm lấy họ trong không gian chập hẹp đó. Lối đi tối đến mức gã người Nga phải mở đèn pin. Rất nhiều đường ống và lối đi chằng chịt dưới lòng đất. Những động cơ và điện kế cũ kỹ xếp chồng lên nhau trên lối đi. Trên tường là các tấm panô bằng gỗ vẽ hàng chục con quái vật quảng cáo cho SHOW DIỄN ĐÁNG SỢ NHẤT THÀNH PHỐ : biển quảng cáo cho những chiếc xe lửa ma trong công viên vào năm mươi năm trước. Hẳn rồi, họ đang ở trong phòng máy của một vòng xoay cũ kỹ.

    Ánh sáng thật yếu ớt. Bóng của họ nhảy múa trên tường. Ánh đèn phản chiếu lại trên những vũng nước tù đọng. Dưới lòng đất, họ đang làm phiền một lũ chuột cống đang sợ hãi chạy lung tung mọi hướng. Nước mắt lăn dài trên má của Alice. Cô bước lùi lại, nhưng Youri lại tiếp tục đe dọa cô bằng dao găm để cô bước đến đoạn đường xoắn ốc dẫn đến nơi sâu hơn. Tại đó, họ đi qua khoảng mười cái cửa sắt dọc theo một hành lang cũ nát. Đi trong bóng tối, Alice chìm sâu trong nỗi sợ hãi, cảm thấy một vực thẳm đang lan rộng trong dạ dày của mình.

    Cuối hàng lang, họ đến một cánh cửa bằng kim loại. Youri lấy chìa khóa ra và mở cánh cửa của địa ngục.

    *
    Bên trong vô cùng lạnh giá. Căn phòng tối om. Youri đưa đèn lại gần để tìm cầu chì. Một chiếc đèn néon phủ đầy bụi hắt ra thứ ánh sáng leo lét, thắp sáng một căn phòng với những bức tường đổ nát. Nơi đây toát lên một mùi ẩm mốc. Được chống đỡ bởi những cây cột kim loại đã rỉ sét, căn hầm có một cái trần thấp có thể mang lại cho bất kì ai một cảm giác sợ hãi những nơi chật hẹp. Nơi này vừa khắc khổ vừa độc hại : bên phải là một cái toa lét nhỏ và bồn vệ sinh bị rỉ sét ; bên trái là một cái giường nhỏ bằng thép.

    Một cách thẳng thừng, gã người Nga đẩy Alice vào căn phòng chật chội. Cô ngã xuống mặt đất, nơi mà nước chảy xuống tạo nên một vũng lầy lội.

    Mặc dù tay bị trói, Alice đã đứng dậy được và dùng hết sức bình sinh đá một cú thật mạnh vào đũng quần của kẻ bắt cóc.

    Con khốn ! Gã vũ phu thét lên đau đớn

    Hắn lùi lại, nhưng cần phải tiếp tục để làm hắn ngã xuống. Trước khi Alice có thể tự vệ, hắn xông vào cô, đốn ngã đầu gối để cô té xuống sàn và nắm lấy vai cô.

    Alice thở hổn hển. Cô bối rối trong vài giây, rồi cô nghe vài tiếng lách cách và thấy mình bị còng tay bằng một sợi dây xích dày kéo dài cả bức tường.

    Nhận ra rằng miếng giẻ đang làm cô ngạt thở, Youri lấy nó ra khỏi miệng cô. Trong nước mắt, cô bé ho một tràng dài trước khi lấy lại được hơi thở, rồi cô cố gắng hít thật nhiều không khí vào.

    Youri đã lấy lại được phong độ, cảm thấy vui thích trước sự chịu đựng của nạn nhân của mình :

    - Thử đánh tao nữa xem nào ! Hắn bỡn cợt.

    Alice la lên. Tiếng kêu la là thứ vũ khí cuối cùng. Cô biết rằng ở độ sâu này, cùng với sự hoang vu của nơi đây, không ai có thể nghe thấy cô, tuy nhiên cô vẫn dùng hết sức lực để phá tan bầu không khí tĩnh mịch của đêm khuya.

    Gã người Nga đứng lặng hồi lâu. Mọi thứ làm cho hắn phấn khích : nỗi sợ hãi của cô gái, sự chật hẹp và tối tăm của không gian này, cảm giác quyền lực đang dâng trào trong người hắn. Nhưng hắn phải kiềm chế mong muốn của mình. Người ta đã nói hắn không được đụng chạm vào cô bé trong ba ngày đầu tiên. Sau đó, hắn có thể làm bất cứ điều gì hắn muốn...

    *
    Bây giờ, Alice đã hít thở lại bình thường, nhưng những tiếng la hét của cô giờ đã chuyển thành những trận mưa nước mắt. Youri cho rằng trò đùa đã đi đủ xa. Hắn lục trong túi và lấy ra một cuộn băng keo dùng để bịt miệng cô gái. Để an toàn, hắn buộc cổ chân cô bé lại trước khi để cô lại một mình trong căn phòng rồi hắn đi ra và đóng cánh cửa kim loại lại.

    Hắn quay lại lối ra, lên lại căn hầm, đi con đường xoắn ốc, đoạn đường hầm lạnh giá và cầu thang bằng thép. Cuối cùng hắn trở lại mặt đất và cho bầy chó ăn để tránh sự tò mò. Bây giờ, bước tiếp theo là hắn phải xử lý chiếc Dodge. Hắn có thể đốt cháy nó trên một mảnh đất trống, nhưng như thế rất nguy hiểm bởi cảnh sát có thể phát hiện ra nó. Cách đơn giản nhất là để nó lại đâu đó ở Queens. Với vành bánh xe 20 pouces và các bộ phận hiện đại, nó là một trong những chiếc xe hàng đầu. Thứ mà các tay trộm rất thích dòm ngó. Nhất là khi người ta để chìa khóa xe ngay ở bộ phận điều khiển.

    Thỏa mãn với quyết định của mình, hắn đi đến con đường nhỏ mà hắn đã đỗ xe và nhận ra rằng...

    ...chiếc xe đã không còn ở đó !

    Hắn nhìn xung quanh. Không một bóng người. Hắn lắng tai nghe. Chỉ có tiếng sóng và tiếng gió thổi qua các vòng xoay.

    Youri đứng bất động một hồi lâu, sững sờ bởi sự nhanh nhẹn mà ai đó đã làm để đánh cắp chiếc xe. Hắn phải lo lắng hay tận hưởng điều đó ? Trên hết, hắn có phải báo cáo điều này với ông chủ không ? Hắn quyết định sẽ không nói gì cả. Người ta muốn anh làm chiếc xe biến mất và chiếc xe đã biến mất. Vậy thôi.

    Điều quan trọng, chính là có được cô gái...

     
    Last edited by a moderator: 9/5/15
  12. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 28: Francesca


    Khi bạn yêu một ai đó,

    bạn sẽ cho người ấy là tất cả,

    với mọi sự gắn bó và phục tùng.

    Bạn nắm lấy quá khứ và hiện tại của họ.

    Bạn lấy tất cả, hoặc là không gì cả.

    R.J. ELLORY

    Greenwich Village
    5 giờ sáng

    Jonathan tỉnh giấc trước, đầu gối lên vai của Madeline. Mặc kệ việc mình bất thần tỉnh giấc, anh cảm thấy thật sảng khoái. Căn nhà đã ấm lên. Bên ngoài là tiếng gió và tiếng ồn ào của thành phố. Anh nhìn đồng hồ, nhưng trong khoảnh khắc thả lỏng người, anh chạm nhẹ vào cơ thể mềm mại và hấp dẫn đó. Rồi anh nhanh chóng rời khỏi trong yên lặng cái nơi ấm áp đầy tình yêu vừa nảy nở kia.

    Anh mặc áo pull và quần jean vào trước khi khép cửa phòng ngủ để ra ngoài phòng khách. Từ túi áo khoác, anh lấy ra bản sao mà Madeline đã đưa anh ngày hôm qua : bức thư điện tử lấy từ máy tính của George.

    Từ : Francesca DeLillo
    Đến : George LaTulip
    Chủ đề : Trả lời :
    Ngày : 4 tháng 6 2010, 19:47

    George, em xin anh, hãy hủy bỏ kế hoạch đi gặp Jonathan ở San Francisco. Chúng ta đã quyết định đúng. Đã quá trễ để hối hận, em tin rằng anh đã hiểu khi đọc báo...

    Hãy quên Jonathan và những gì sẽ đến với chúng ta đi. Hãy để anh ấy tự đứng lên.

    Nếu anh nói với anh ấy sự thật, anh sẽ đưa cả ba chúng ta vào một tình huống bi kịch và anh sẽ mất tất cả : công việc, căn hộ và cả chút tiện nghi này nữa.

    F.

    Jonathan ngồi vào chiếc bàn bằng gỗ sồi trên đó có đặt chiếc máy vi tính. Claire chắc hẳn thường xuyên cho bạn bè ở nhờ : có một mảnh giấy note đính trên màn hình ghi rõ mật khẩu để mở máy theo chế độ « khách ». Jonathan truy cập Internet và đọc lại mẩu tin nhắn. Có lẽ, Francesca và George đã không lừa dối anh... Nhưng anh vẫn chưa tin tưởng được điều này. Tại sao họ lại phải dựng lên màn kịch bẩn thỉu này ? Để bảo vệ cho một bí mật nào đó chăng ?

    Trong khi đọc bức thư đến lần thứ ba, anh tô đậm câu « em tin rằng anh đã hiểu khi đọc báo... ». Francesca đang muốn ám chỉ điều gì ? Bức mail được gửi vào một ngày tháng sáu. Madeline cũng đã nói với anh rằng cô đã xem xét tỉ mỉ những bài báo được đăng vào vài tháng trước có tên của Francesca và George nhưng cô không tìm được bất cứ điều gì bí ẩn cả.

    Anh kiềm lại một cơn ngáp, đứng dậy để pha cà phê trước khi trở lại làm việc và đích thân tra cứu những bài báo trên mạng. Cách giải thích điều bí ẩn này là ở đó. Sau khoảng một tiếng, Jonathan tìm thấy một bài báo kì lạ của tờ Daily News :

    Bahamas : Thi thể một nhà tài chính được tìm thấy trong bụng một con cá mập !

    Trong lúc đi câu cá trên đảo Columbus, một du khách đã phát hiện một điều khủng khiếp khi một con cá mập mắc vào lưới của anh ta. Khi anh đang cố gắng kéo nó lên thuyền, con cá đã khạc ra một mẩu xương dài trông rất giống xương cánh tay của con người. Tò mò, người đàn ông đã nhờ đội tuần tra bờ biển mổ bụng con cá và họ đã tìm thấy những mẩu khác của bộ xương người, đặc biệt là một góc xương lồng ngực và xương hàm.

    Theo phân tích ADN từ những cái xương đó, cảnh sát Bahama đã xác định được danh tính của thi thể. Đó là doanh nhân người Mĩ Lloyd Warner, phó chủ tịch tập đoàn khách sạn Win Entertainment. Hưởng thọ bốn mươi lăm tuổi, ông Warner đã mất tích vào ngày 28 tháng mười hai vừa qua, khi ông được phát hiện lần cuối cùng tại sân bay New York trong một cửa hàng quần áo, khi vừa mới quay về từ Bahamas.

    Jonathan không thể tin vào mắt mình. Lloyd Warner đã chết cách đây hai năm và đến tận hôm nay anh mới biết điều đó ! Lloyd Warner, giám đốc tài chính của Win Entertainment... Người đã đẩy anh đến sự sụp đổ khi đã từ chối phân chia lại khoản nợ của Imperator. Trong tích tắc, khoảng thời gian đen tối đó hiện về trước mắt anh : cái vòng lẩn quẩn của nợ nần, sự phá sản của công ty anh, những khó khăn tài chính mà Francesca phải chống chọi để ngăn cản quyền thâu tóm của Warner và về những kẻ tham lam, những cựu cộng sự đã hoàn toàn im lặng trước sự chiếm đoạt của các « tay săn mồi ».

    Phải chăng đây chính là bài báo mà vợ cũ của anh muốn ám chỉ với George ? Phải chăng cô ấy có liên quan gì đến cái chết của Lloyd Warner ? Nhưng với mục đích gì, bởi vì hành động này cũng không thể ngăn cản sự phá sản của công ty họ ?

    Hoàn toàn bối rối về khám phá đó, Jonathan vội vã in bài báo ra và viết vội vài dòng lên tấm bảng treo tường cho Madeline. Rồi anh mặc áo khoác vào trước khi chộp lấy chìa khóa xe và biến mất sau cánh cửa.

    *
    Vừa đến, Jonathan đã nhận ra chiếc Smart màu xanh hạnh nhân của Claire đang đỗ trên lối đi riêng. Cái lạnh ngày càng khủng khiếp. Anh khởi động xe và làm nóng mô tơ trong khi lắng nghe tin tức :

    « ...ở California tiếp tục quá trình tìm kiếm Jezebel Cortes, con gái của chủ tịch một tập đoàn thuốc phiện. Được mệnh danh « La Muneca », cô là con gái của tay trùm... »
    Nhưng anh không có tâm trí để nghe ngóng tất cả những bất hạnh của thế gian. Anh tắt đài và đi vào đường Grove Street. Vào lúc sáng sớm tinh mơ thế này, lưu thông rất thoải mái. Đại lộ số 7, Varick rồi Canal Street... Anh dần nhớ lại đường phố của New York, trở lại quãng đường mà anh đã đi hàng trăm lần khi anh còn ở nơi đây.

    Giữa hàng dài những chiếc taxi màu vàng, anh phát hiện một chiếc Ferrari màu đen qua kính chiếu hậu. Ngay cả khi anh có tiền, anh cũng không phải một kẻ đam mê xe hơi, nhưng điều này thì khác. Cha anh đã tặng anh mẫu xe đồ chơi này khi anh còn nhỏ : một chiếc 250 GT California Spyder với khung ngắn. Một trong những chiếc xe hiếm và đẹp nhất trong lịch sử, chỉ được sản xuất khoảng vài chục chiếc vào đầu những năm 60. Anh đang quay đầu lại để nhìn trong khi một chiếc xe mui trần đang vượt lên phía tay phải và tăng tốc kinh hoàng trước khi biến mất về hướng SoHo.

    Thật bệnh hoạn...

    Tuy TriBeCa là một trong những khu phố đắt đỏ nhất ở Manhattan, Jonathan chưa bao giờ thật sự cảm thấy dễ chịu khi ở đây, vì nó thiếu một nơi yên tĩnh và quyến rũ.

    Anh đỗ xe vào một chỗ ngay trước tòa nhà vợ cũ của anh đang ở. Excelsior, tòa nhà mười lăm tầng rộng lớn được xây dựng từ những năm 1920. Gần đây, vài nhà đầu tư đã nắm lấy cái khách sạn Art déco cũ này để khôi phục lại và biến nó thành một nơi sang trọng và hiện đại dành riêng cho các khách hàng triệu phú.

    - Xin chào Eddy ! Anh nói khi bước vào tòa nhà

    Mặc bộ đồng phục màu nâu với dây đeo màu vàng, người gác cổng mất vài giây để nhận ra anh :

    - Ông Lempereur ! Thật ngạc nhiên..., ông bỏ lửng câu nói để sửa lại nón của mình.
    - Tôi đến gặp Francesca. Ông có thể nói với cô ấy rằng tôi đợi ở sảnh được không ?
    - Giờ vẫn còn sớm lắm...
    - Tôi năn nỉ mà, Eddy, là chuyện rất quan trọng.
    - Tôi sẽ gọi điện thoại trực tiếp cho bà ấy.

    Vẻ bề ngoài theo phong cách B.B. King, Eddy Brock là « người đàn ông nắm giữ chìa khóa » của tòa nhà, theo mọi nghĩa của từ đó, người biết các bí mật của mọi người sống tại đây : cãi vã, phản bội, đối xử thậm tệ, nghiện thuốc,... Tùy theo mối quan hệ mà bạn xây dựng với ông ta, cuộc sống của bạn sẽ là thiên đường hay trở thành địa ngục.

    - Được rồi thưa ông, bà ấy đang đợi ông.

    Jonathan cảm ơn người gác cổng bằng một cái gật đầu và đi đến thang máy ở cuối sảnh. Anh nhấn mã đi thẳng đến căn hộ của vợ cũ, nằm đối diện với hành lang dẫn lên hai tầng cuối cùng của tòa nhà.

    Jonathan đi vào phòng khách, căn phòng được lát gạch vuông với nội thất bằng gỗ hồ đào. Tại đây, tất cả đều đơn giản và không cầu kì. Vào buổi sáng, ánh sáng rọi vào rất đẹp, pha trộn giữa màu hồng, màu tía và màu xám trắng.

    Mặc dù anh đã sống ở đây hai năm, Jonathan giờ cảm thấy như vô cùng xa lạ. Khu vườn phía trong, sân thượng bốn trăm mét vuông, góc nhìn thoáng đãng, dịch vụ phòng mọi lúc, nhân viên của tòa nhà, hồ bơi được làm ấm với hai mươi mét chiều dài, phòng tập thể dục, phòng tắm hơi,... Vào thời điểm mà anh là « Hoàng đế », mọi sự sang trọng đó đối với anh là bình thường. Ngày hôm nay, anh có cảm giác như ngày xưa mình là một ông hoàng và giờ đây anh chỉ còn là một người bình thường đang đi thăm các đấng chúa trời trên đỉnh Olympia.

    Đi ra từ căn phòng tầng trên, Francesca tỏ ra vội vã.

    - Có việc gì với Charly sao ?
    - Charly rất ổn. Nó đang ở San Francisco với anh trai cô.

    Được trấn an, cô bước xuống cầu thang bằng kính trông như cô đang đi trên không trung.

    Vào lúc này, chắc hẳn cô đã vội vã mặc vào chiếc quần jean đen và chiếc áo pull cổ chữ V màu kem. Tuy nhiên trông cô vẫn rất hoàn hảo. Cô có dáng vẻ kiêu kì của những người sinh ra trong gia tộc giàu có từ nhiều đời. Tiền của cô mang dấu ấn « given, not earned » (thừa hưởng, chứ không phải kiếm được). Có thể chính vì điều đó đã chia rẽ họ. Anh thì ngược lại, tự kiếm tiền của mình... trước khi để mất nó.

    - Cô đã giết ông ta, phải không ? Anh hỏi trong khi đưa cô tờ giấy in bài báo nói về cái chết của Lloyd Warner.

    Cô thậm chí không cúi mắt xuống để nhìn. Cô không hỏi anh đang nói về ai. Cô chỉ đứng im lặng trong một lúc trước khi ngồi xuống chiếc tràng kỷ và bắt đầu cuộc nói chuyện.

    - Ai nói với anh điều này ? Có phải là gã George ngu xuẩn đó không ? Không... chắc chắn là không...
    - Điều đó đã diễn ra như thế nào ?

    Cô nhắm mắt lại, để cho kí ức ùa về.

    - Đó là cuối tháng mười hai, cách đây đúng hai năm..., cô bắt đầu. Buổi sáng anh đã đưa em đến sân bay và em nói với anh rằng mình đến Luân Đôn để thăm một trong số các nhà hàng của chúng ta. Đó là một lời nói dối. Tuần trước đó, em đã biết được rằng Lloyd Warner sẽ đi Bahamas, Nassau, để thương lượng hợp đồng liên quan đến một trong các sòng bạc của hắn. Em đã quyết định đi đến đó, để thuyết phục ông ta chấp nhận phân chia thời hạn các khoản nợ của chúng ta. Lúc đến nơi, em đã để lại một lời nhắn cho ông ta ở khách sạn, nói rằng ông ta hãy đến gặp em ở Columbus. Vào thời điểm đó, anh vẫn chưa nhận thức được sự khủng hoảng về nợ nần của chúng ta. Chuỗi nhà hàng của mình bắt đầu phát triển, nhưng khủng hoảng kinh tế và tài chính đã kiềm hãm nó. Em muốn rằng Win Entertainment sẽ gia hạn thời gian trả nợ cho chúng ta, và em cũng không có cách nào nói chuyện riêng với ông ấy tại New York.
    - Ông ta đã đến gặp cô ?
    - Phải. Em đã ăn tối cùng ông ấy. Em đã cố gắng thuyết phục ông ta cho gia hạn, nhưng ông ấy đã không nghe em. Thay vào đó, ông ta tán tỉnh em cả tối, đến mức em phải rời bàn trước khi món tráng miệng được mang ra.

    Một người phục vụ phòng bước vào, mang theo một ấm trà và hai cái tách. Francesca đợi cô ấy ra khỏi và tiếp tục :

    - Lúc em tưởng rằng ông ta đã đi khỏi, Lloyd Warner đến phòng em và đề nghị một cuộc trao đổi. Ông ta chấp nhận việc gia hạn, với điều kiện là...
    - ...là cô sẽ ngủ với hắn ta.

    Cô gật đầu :

    - Khi em đuổi cổ hắn đi, hắn đóng cửa lại và nhảy lên người em. Hắn đã uống quá nhiều, chắc chắn là có cả thuốc phiện nữa. Em đã hét lên, nhưng một đám cưới đã làm chủ toàn bộ khách sạn. Để tự vệ, em lấy một cái tượng trên bàn : một bản sao bằng đồng của Giacometti. Em đập vào đầu hắn, rất mạnh. Hắn ngã xuống. Đầu tiên em cho rằng hắn bất tỉnh, nhưng hắn đã chết.

    Choáng váng, Jonathan loạng choạng ngồi vào chiếc ghế bành gần Francesca. Khuôn mặt tái nhợt và không sức sống, cô ấy lại dường như khá bình tĩnh. Jonathan không thể xác định được rằng mình đã được an ủi hay càng trở nên đau đớn hơn. Hai năm vùi dấu sau bí mật được giải quyết chỉ trong vài câu nói. Hai năm không thể tin tưởng bất cứ ai vì anh không thể đối diện được với sự phản bội của vợ mình... để rồi nhận ra rằng cô ấy đã không phản bội anh.

    - Sao cô không báo cho cảnh sát ?
    - Anh thật sự tin rằng người ta sẽ tin vào lý do tự vệ đơn thuần đó sao ? Với món nợ mà chúng ta đang mang ? Với tin nhắn mà em đã gửi cho ông ta tỏ ý muốn gặp mặt ?
    - Cô đã làm thế nào với cái xác ấy ?
    - Em đến căn nhà sàn mà chúng ta đã từng thuê. Em có ý mượn thuyền của khách sạn dành cho du khách. Đó là một chiếc Hacker Craft bằng gụ, anh nhớ không ? Em đã xoay sở đưa nó đến bãi đỗ và cho cái xác vào khoang. Đêm đó tối đen như mực. Em đã cầu nguyện để không gặp phải đội tuần tra trên biển, và em đã quăng xác của tên... thổ phỉ đó cách bờ biển khoảng hai mươi dặm.. Trước đó, em đã tính đến việc phải lấy bóp tiền và điện thoại của hắn.
    - Ở khách sạn, không có ai nhìn thấy cô lấy con thuyền sao ?
    - Không, lễ cưới thu hút toàn bộ sự chú ý của nhân viên. Anh có thấy cho rằng em đáng sợ không ?

    Bối rối, Jonathan quay đầu lại để tránh ánh nhìn của Francesca. Quyết định nói hết sự thật, cô không để sự im lặng được tiếp tục.

    - Em đã rất sợ hãi, cô nói. Nếu người ta phát hiện được sự mất tích của Warner ở Bahamas, người ta sẽ nhanh chóng truy ra được em. Hàng chục người nhìn thấy em và hắn ăn tối cùng nhau ở nhà hàng. Cơ hội duy nhất của em là người ta không thể tìm thấy thi thể của hắn ngay lập tức – vì thế, em đã giấu cái xác dưới hầm tàu – và, làm cho mọi người nghĩ rằng Warner đã trở về Mỹ. Trong khi xem xét email trong điện thoại của hắn, em tìm thấy một tin nhắn mời hắn làm thủ tục cho chuyến bay lượt về. Em truy cập vào trang web của hãng hàng không và điền hết các thủ tục. Mọi thứ đều hoàn hảo, chỉ còn thiếu một người thay thế vị trí của Lloyd. Em đã nghĩ đến George vì sự giống nhau vô cùng của anh ta với Warner.
    - George đồng ý với cô à ?
    - Phải. Với lý do rằng anh ấy là người tình của em, em có thể chứng minh sự có mặt của mình ở Bahamas và nói rằng anh ấy là người ở cùng với em ở khách sạn. Đó là lý do cho những tấm hình của những tay paparazzi. Anh ta đã bay cùng với danh nghĩa của Lloyd trên chuyến bay lượt về. Và khi đến New York, em đã nhờ anh ấy mua thật nhiều đồ với thẻ mà em lấy từ túi áo vest của Warner. Vài ngày sau, người ta thông báo về sự mất tích của Warner, cảnh sát bị thuyết phục rằng hắn đã quay trở lại Manhattan. Không một ai tra xét đến sự việc ở Bahamas cho đến khi người ta tìm thấy thi thể của hắn, sáu tháng sau.
    - Vậy cuộc điều tra đã đi đến đâu ?

    Vẫn không đụng vào tách trà, Francesca lấy gói thuốc Dunhill trên bàn và đốt một điếu.

    - Em không biết. Em nghĩ họ đã cho hồ sơ ngủ yên. Dù sao thì cũng không có ai hỏi em về điều đó, vì trên danh nghĩa, hắn không phải là người em đã ăn tối cùng, mà là George.

    Sau một hồi lâu, Jonathan trở nên giận dữ :

    - Tại sao cô không gọi cho tôi, chồng của cô ? Cô có ít niềm tin vào tôi vậy sao ? Không nói đến việc giấu tôi về chuyến đi, mà là việc giấu tôi một cái chết !
    - Đó là để bảo vệ anh và Charly ! Để em không biến anh trở thành đồng phạm ! Để chúng ta không thể vào tù hết cả hai ! Kế hoạch của em có chín trên mười nguy cơ thất bại. Anh nghĩ đi : ai sẽ nuôi dạy con chúng ta nếu cả hai ta bị bắt vào tù ?

    Jonathan suy nghĩ lời cô nói. Một phần trong anh ngưỡng mộ sự lạnh lùng, bản lĩnh và lý trí cùng sự thông minh sắc bén mà nhờ đó Francesca đã không lôi anh vào sự việc và bảo vệ gia đình họ. Liệu anh có khả năng dựng lên một kịch bản như vậy không ? Rất có thể là không. Chắc chắn anh sẽ nhận tội về phía mình. Chắc chắn anh sẽ làm theo cảm xúc của mình...

    Bất thần, cái cảm giác khó diễn tả và hỗn loạn trong anh kể từ khi họ chia tay đột ngột biến mất. Điều đã xảy ra với họ có một ý nghĩa đằng sau đó. Nhưng cũng từ lúc đó, Jonathan nhận ra rằng giờ đây đối với anh Francesca như một người xa lạ. Anh đã không còn chút cảm giác hay tình cảm gì với cô, giống như có một rào chắn vô hình đã vĩnh viễn chia cắt họ từ đây.

     
    Last edited by a moderator: 9/5/15
  13. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 29: Thiên thần dưới địa ngục

    Luctor et emergo

    (Tôi đấu tranh để không bị nhấn chìm)

    Ngạn ngữ Hà Lan
    Kho hàng của Coney Island
    5 giờ sáng

    Lạnh giá và ẩm ướt, ánh sáng yếu ớt đang liếm láp căn phòng mang một mùi ẩm mốc khó chịu.

    Hai bàn tay bị trói, đôi chân bị buộc chặt bởi dây nylon, Alice cố gắng dùng hết sức để làm gãy đường ống đã bị rỉ sét. Nhưng nó quá cứng và cô gái bé nhỏ đổ người xuống sàn nhà sũng nước.

    Một tiếng khóc tuyệt vọng như đang xé tan cổ họng cô, nhưng nó đã bị chặn lại bởi miếng băng dính.

    Đừng khóc !

    Cơ thể cô bị giày vò bởi những cơn run lập cập. Cái lạnh đóng băng từng bộ phận trên cơ thể cô, cắt da cắt thịt cô, len lỏi vào tận xương tủy cô. Những vòng xích sắt làm cổ tay cô tê tái, tạo ra một cơn đau khủng khiếp lan đến tận phần gáy.

    Suy nghĩ đi...

    Nhưng cái lạnh và cơn khủng hoảng làm cho mọi sự tập trung trở nên khó khăn. Một cảm giác bồn chồn lo sợ và bất an chắn ngang ngực cô. Chợt có một tiếng kêu nhỏ khẽ vang lên đằng sau cái bồn nước nhơ nhớp. Alice ngẩng đầu lên và trông thấy cái mõm của một con chuột cống có kích thước của một con mèo con. Một lần nữa, cổ họng nó lại phát ra tiếng kêu. Cũng sợ hãi như cô, con chuột luồn lách bò trên bức tường phía đối diện và trốn vào dưới chiếc giường.

    Bình tĩnh nào...

    Cô cố cầm nước mắt, thử mở hàm ra, nhưng miếng vải làm cô nghẹt thở, buộc chặt lấy miệng cô. Tuy nhiên cô đã thành công khi đưa lưỡi mình xuống dưới một trong những cái mép của miếng vải và, với răng cửa, cô nhai từ từ một đầu của miếng băng dính cho tới khi giải thoát được cho phần môi trên của mình. Cô hít lấy hít để cái bầu không khí bị ô nhiễm đó. Giờ cô đã có thể thở tốt hơn, nhưng, mặc dù nhiệt độ đang thấp, cô bé vẫn cảm nhận được nhịp tim mình đang đập ngày càng nhanh hơn.

    Thuốc của mình !

    Bất chợt cô nhận ra rằng mình sẽ không thể tiếp tục việc điều trị ! Từ khi cô được ghép tim, túi xách của cô đã trở thành một tủ thuốc di động. Cô có thể sống gần như bình thường miễn là tuân thủ nghiêm ngặt chế độ thuốc được định ra : viên nén chống đào thải, và nhất là thuốc chống tăng huyết áp và chống loạn nhịp tim.

    Bác sĩ của cô đã luôn nhắc nhở rằng việc không dùng thuốc có khả năng phá hỏng toàn bộ phần thận trong vòng vài ngày, thậm chí chỉ vài giờ ! Điều này có thể xảy ra bất cứ lúc nào, nhất là trong trường hợp mất nước.

    Hiện giờ, cổ họng cô vô cùng khô rát. Cô cần phải uống nước để tránh cho khả năng lọc của thận bị yếu đi. Bằng cả hai tay hai chân, cô đã tiến lại được gần cái lavabo, nhưng cái robinê ở quá cao. Thử lại lần nữa, cô vận dụng các cơ của mình và với một sức mạnh to lớn cố gắng làm gãy đường ống. Tuy nhiên cô đã nhanh chóng phải từ bỏ : mỗi lần đập vào nó, những cái rìa sắc của vòng xích cứa vào tay cô đến rỉ máu. Bỏ cuộc, cô thả người dựa vào tường. Nằm trên đất, cô có cảm giác mình không khác gì một con thú buộc phải ngoan ngoãn chịu trói phải tuân theo lệnh ông chủ. Nản lòng, cô phải tự cứu mình bằng cách hớp từng ngụm nước hôi thối trên sàn nhà.

    *
    TriBeCa
    8 giờ sáng

    Mặt trời mọc lên trên bầu trời quang đãng.

    Dưới cú sốc vì những lời thú nhận của Francesca, Jonathan loạng choạng ra khỏi tòa nhà Excelsior. Anh đi trên vỉa hè đến chỗ Smart de Claire. Anh ngồi vào vô lăng và hướng đến East Village, nơi anh có hẹn với Madeline. Anh do dự khi gọi cho cô để biết chắc rằng cô đọc được lời nhắn, nhưng lại tự nói rằng có thể cô vẫn còn đang ngủ.

    Khi dừng đèn đỏ ở đầu đường Little Italy, anh bất giác nhìn vào gương chiếu hậu và anh vô cùng ngạc nhiên khi thấy thấp thoáng trong dòng xe cộ là chiếc Ferrari màu đen trên làn đường bên phải phía sau anh.

    Kì lạ...

    Anh chớp mắt để nhìn cho chắc. Không thể nào nhầm lẫn được : đó đúng là cùng một chiếc xe có mui đặc biệt, đèn pha hình thoi mang lại cho nó một dáng vẻ như bò sát. Anh quay lại. Lần này, chiếc xe vẫn đứng yên, nhưng ánh mặt trời phản chiếu qua kính chắn gió làm Jonathan lóa mắt, anh không thể nhìn được gương mặt của người lái nó. Anh muốn ghi nhớ biển số xe, nhưng thật kì lạ là chiếc xe không hề có biển số !

    Đèn chuyển sang màu xanh. Một tiếng còi buộc anh phải khởi động lại và vượt qua ngã tư. Ngay khi anh có thời gian để lướt mắt qua kính chiếu hậu thì chiếc xe bí ẩn đã biến mất...

    *
    Kho hàng của Coney Island

    Những tiếng bước chân.

    Alice mở mắt, choàng tỉnh khỏi giấc ngủ chập chờn đã quật ngã cô.

    Bây giờ là mấy giờ ? Đã bao lâu rồi cô ở trong tình trạng không ý thức ? Năm phút hay năm tiếng ?

    Cái lạnh làm cô run lập cập. Chân cô tê điếng và những vòng xích như cứa nát cổ tay cô. Cô thử tìm cách đứng lên, nhưng rốt cuộc đành từ bỏ. Bây giờ cô thấy mình quá yếu để chống chọi.

    Cánh cửa mở ra trong tiếng kêu cọt kẹt và cái dáng người to lớn của Youri xuất hiện ngoài khuôn cửa.

    сучка ! (Con chó!) Hắn bực tức khi thấy cô đã nhai miếng vải.

    Hắn nắm tóc cô, nhưng cô van nài hắn :

    - Tôi cần phải uống nước ! Tôi không có thuốc ! Tôi sẽ bị...
    - Ngậm miệng lại !

    Hắn giật mạnh đầu cô từ phía sau, kéo theo một nhúm tóc. Cô hiểu rằng mình sẽ có lợi khi im lặng. Gã người Nga có vẻ như đã dịu lại. Hắn đưa mặt lại gần cô, ngửi mùi cơ thể cô, vuốt ve má cô bằng những ngón tay bẩn thỉu. Alice cảm nhận được hơi thở của hắn gần miệng cô và không thể không cảm thấy ghê tởm. Cô quay đầu đi. Lúc này cô thấy được cái máy quay phim trong tay hắn.

    Cái bóng đen và to lớn của Youri từ từ xa dần dưới ánh đèn néon mù mờ.

    - Mày sẽ được uống nước, hắn hứa, nhưng trước đó cả hai ta phải cùng quay một bộ phim nho nhỏ...

     
    Last edited by a moderator: 9/5/15
  14. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 30: Phía bị che khuất của mặt trăng

    Mỗi người chúng ta là một mặt trăng,

    với một phía bị che khuất mà không ai thấy được.

    Mark TWAIN
    Lower East Side
    8 giờ sáng

    Jonathan đỗ chiếc Smart vào khoảng trống giữa hai chiếc xe hơi đậu vuông góc trước vỉa hè và đi vào khu Bowery, đường số 2. Sau một thời gian dài mang tiếng xấu, Lower East Side ngày nay trở thành một trong những khu vực theo xu hướng nhất với những quán cà phê nhỏ xinh và những chuỗi nhà hàng tấp nập. Jonathan đẩy cửa của Peels, chỗ ưa thích của anh để dùng bữa sáng. Nơi này rất sống động và toát ra một vẻ ấm áp. Từ 11 giờ đến 13 giờ, nơi đây đông nghẹt khách, buổi sáng thì yên tĩnh hơn.

    Jonathan tìm Madeline giữa cái sảnh đang đắm mình trong ánh nắng. Quanh một quầy dài bằng gỗ màu sáng, một vị khách phóng khoáng và thời thượng đang thưởng thức những chiếc bánh pancake chuối cùng với cà phê cappuccino.

    Madeline không ở đây. Anh cảm thấy lo lắng. Có thể cô đang hối hận về chuyện đêm qua chăng ? Hay là cô đã bỏ đi ? Hay là...

    Điện thoại anh rung lên. « Em ở trên lầu », một SMS thông báo. Anh ngẩng đầu lên và nhìn thấy cô, đang đứng dựa vào lan can và vẫy tay với anh.

    An tâm, anh bước lên cầu thang để gặp cô. Tường màu trắng và sàn màu vàng nâu, nhiều cửa kính lớn, đèn trần cách điệu : căn phòng được thiết kế thật đẹp mắt.

    - Em đến lâu chưa ?

    Anh không dám ôm hôn cô dù thật tâm rất muốn. Cô mặc một chiếc quần jean và áo khoác da có khóa kéo rất tôn dáng làm anh không nhận ra.

    - Em mới đến thôi. Nơi đây thật đẹp. Anh đã ở đâu vậy ?
    - Chỗ vợ cũ anh. Anh sẽ kể em nghe, anh nói trong khi ngồi xuống đối diện cô.

    Madeline thể hiện nét mặt thư thái ; tuy nhiên, cô thấy anh có vẻ rất buồn bã, giống như họ đã đánh mất nhau... Jonathan cố nắm lấy tay cô nhưng cô rụt lại. Ánh mắt họ chạm nhau, một khoảng lặng kéo dài. Madeline, một cách tinh tế, nhẹ nhàng đan tay cô vào tay anh. Hiện tại, rõ ràng rằng giữa họ không chỉ là ham muốn nhất thời đối với người kia, ngay cả khi họ vẫn chưa sẵn sàng để gọi quan hệ đang ràng buộc họ là « tình yêu ».

    Với đôi kính gọng lớn, áo sơ mi ca rô và râu quai nón : một người bồi bàn với phong cách hippie đến gần họ để lấy order. Jonathan lướt qua thực đơn và chọn một tách espresso cùng một chiếc Monkey Bread. Madeline chọn một chiếc Blueberry Cream Cookie và một ly sữa.

    - Em mượn bộ đồ của bạn gái anh. Chúng hơi khác người, nhưng...
    - Chúng rất hợp với em. Và đó cũng không phải là « bạn gái anh »... Có tin tức gì của Jim không ?
    - Chẳng có gì cả, cô trả lời với vẻ mặt tối đi. Điện thoại anh ta vẫn để chế độ trả lời tự động. Em sẽ gọi trực tiếp đến sở cảnh sát.

    Trong khi cô bấm số, Jonathan lướt mắt qua tờ New York Post mà một người khách đã để lại trên ghế. Tờ báo để lên trang nhất vụ việc mà anh đã nghe qua radio :

    Mở phiên tòa xử án nữ thừa kế một tập đoàn thuốc phiện

    Phiên tòa xử án Jezebel Cortes được mở ngày hôm nay tại tòa án California. Được mệnh danh là La Muneca, cô là con gái của Alfonso Cortes, một trong những tay trùm đầu sỏ lớn mạnh nhất của Mexico, bị hạ bởi một băng đảng đối thủ vào tháng ba năm 2001.

    Nhập cư vào Los Angeles với giấy tờ giả, Jezebel Cortes bị bắt giữ vào ba năm trước trong khi đang đi mua sắm trên Rodeo Drive. Cô bị kết tội chủ yếu do việc chủ mưu nhiều vụ xuất khẩu cocaine sang Mỹ cũng như tạo ra một đường dây rửa tiền tinh vi. Phiên tòa xử án người phụ nữ này đã bị hoãn nhiều lần, những luật sư của La Muneca đang tìm mọi cách để hạn chế số tội mà cô sẽ phải gánh chịu.

    Anh ngừng đọc khi Madeline đã kết nối thành công với sở cảnh sát Manchester. Cô gọi cho cộng sự cũ của mình, nhưng người nhấc máy lại là Trevor Conrad :

    - Madeline ? Thật vui khi cô gọi đến...
    - Tôi đã cố liên lạc với Jim từ tối qua. Anh ta đâu rồi ?

    Ở bên kia đầu dây, viên cảnh sát im lặng một hồi lâu trước khi nói thật :

    - Jim đã mất rồi, Madeline.
    - Sao lại thế được ? Hai ngày trước anh ấy còn gọi cho tôi mà !
    - Tôi rất tiếc : chúng tôi tìm được anh ấy sáng nay tại văn phòng. Anh ấy đã tự tử.

    Madeline ngước đôi mắt bàng hoàng của mình lên nhìn Jonathan và khẽ lắp bắp một từ : « Chết ! ». Vô cùng ngạc nhiên, anh tiến đến gần cô để theo dõi cuộc trò chuyện. Người phụ nữ trẻ đang hỏi để biết thêm chi tiết :

    - Chờ đã, Jim mà tôi biết không phải là một người tùy tiện như thế. Anh ta có vấn đề cá nhân gì sao ?
    - Tôi không nghĩ vậy.
    - Điều đó xảy ra như thế nào, Conrad ?

    Viên cảnh sát do dự câu trả lời.

    - Chúng tôi đang điều tra. Tôi không thể nói gì thêm cả.
    - Đừng có ngốc nghếch thế : Jim đã là cộng sự của tôi trong sáu năm đó !

    Một sự im lặng khác.

    - Tôi sẽ gọi lại cho cô trong năm phút nữa, anh ta nói trước khi gác máy.

    *
    Bị sốc, Madeline lấy hai tay ôm đầu mình. Cái chết bất ngờ của Jim làm cô hỗn loạn trong cảm xúc và tổn thương. Cô cố gắng chống cự lại chúng để không phạm vào vết sẹo cũ của mình. Bàng hoàng vì tin đó, Jonathan cũng bối rối. Anh khẽ vỗ về cô, nhưng Madeline khép mình lại.

    - Conrad chắc chắn sẽ gọi lại cho em từ điện thoại di động hoặc từ một bốt điện thoại. -Mọi cuộc gọi của sở cảnh sát đều có thể bị thu âm lại. Anh ta không muốn mạo hiểm, em nghĩ vậy.
    - Em không tin vào giả thuyết tự tử à ?
    - Em không biết nữa, cô thú thật. Hơn nữa, anh đã gặp anh ấy trước em mà.

    Jonathan nhớ lại cuộc gặp của anh với viên cảnh sát và hồi tưởng lại những cảm giác lúc đó.

    Anh ta có vẻ mệt mỏi và cáu kỉnh, hoàn toàn bị chinh phục bởi vụ án Alice Dixon và nôn nóng muốn biết thêm thông tin mới. Nhưng chuyện tự tử thì rất là bí ẩn, khó đoán và khó phát hiện.

    Điện thoại rung lên. Là Conrad.

    - Được rồi, cô muốn biết điều gì ? Anh hỏi
    - Điều đó xảy ra như thế nào ?
    - Jim bị một viên đạn bắn vào đầu ngay tại văn phòng, vào khoảng 4 giờ rưỡi sáng.
    - Với súng của mình sao ?
    - Không, với một thứ súng không được xếp loại
    - Vậy anh không thấy điều này kì lạ sao ?
    - Cô xem tôi là thằng ngốc sao, Madeline.
    - Tất cả những cảnh sát tự tử đều dùng vũ khí của chính mình !
    - Không phải là tất cả, Conrad đáp trả. Tôi biết một người treo cổ trong phòng khách tại nhà.

    Đó là một chuyện bất ngờ, nhưng Madeline vẫn tiếp tục.

    - Nói tôi biết thêm về thứ vũ khí đó đi.
    - Một khẩu Beretta 92 có bộ phận giảm thanh.
    - Không thể nào ! Khi anh quyết định bắn đạn vào đầu mình, anh sẽ không thể nào quan tâm đến chuyện sẽ đánh thức hàng xóm !
    - Nếu ta nghĩ như vậy, có một chi tiết khác kì lạ, viên cảnh sát nói tiếp.
    - Nói tôi nghe nào.
    - Jim cầm vũ khi bên tay phải.
    - Chết tiệt !

    Flaherty là người thuận tay trái.

    - Mọi thứ đều kì lạ, nhưng nó chẳng chứng minh được gì cả, anh nói.
    - Anh không nghĩ đến tôi sao ?
    - Khi cô đưa súng lên thái dương mình, đó sẽ là một cú bắn chính xác. Sẽ rất khó có khả năng cô bắn trật dù cho cô dùng tay nào đi nữa...

    Madeline lấy lại ý thức của mình.

    - Jim đang thụ lý vụ án nào gần đây ?

    Nhưng Conrad không thể nói hết tất cả mọi điều.

    - Tôi nghĩ tôi đã nói với cô đủ nhiều rồi. Tôi phải gác máy đây.
    - Đợi đã ! Anh có thể gửi cho tôi những bức thư điện tử gần nhất mà Jim nhận được vài giờ trước khi chết không ?
    - Cô đùa à ? Cô không còn làm công việc này nữa rồi, Madeline.
    - Jim là bạn của tôi !
    - Vô ích thôi. Và ngay cả khi tôi muốn làm điều đó, tôi cũng không thể.
    - Tại sao ?
    - Từ sáng, một loại virus đã được cài vào máy chủ và lây lan khắp các máy tính. Không ai có khả năng đăng nhập vào máy tính của mình cả.
    - Anh hãy tìm một lí do khác đi.
    - Đó là sự thật. Cô hãy bảo trọng, Madeline.

    *
    Madeline đổi lại ly sữa mà người ta vừa mới đặt lên bàn và thay bằng một ly cà phê đen. Rồi cô lấy từ túi xách ra chiếc máy tính của Jonathan.

    Em mang máy tính của anh đến. Em muốn xem lại hồ sơ của Dixon. Anh đã nói là anh tải nó vào rồi đúng không ? Xem nó trên đây sẽ dễ hơn là xem trên điện thoại của em.

    Jonathan mở máy lên.

    - Em tin rằng Jim đã bị giết sao ?
    - Em cũng không biết nữa.
    - Còn anh thì nghĩ rằng người ta đã ám sát anh ta và cái chết đó có liên quan đến thứ mà anh ta đã khám phá ra về Alice.
    - Anh đừng liên tưởng quá như thế. Cách đây một tuần, anh còn chưa biết đến sự có mặt của vụ án đó nữa.
    - Chính vì thế mà anh mới có một góc nhìn mới như thế...
    - Cái gì dẫn anh đến kết luận ấy ?...
    - Anh nghĩ rằng cảnh sát hay các thế lực bí mật nào đó đang cố gắng để bóp chết vụ việc này.
    - Anh chỉ tưởng tượng thôi !
    - Em không thấy kì lạ sao ? Những cái camera theo dõi ! Anh đã xem hồ sơ : vào thời điểm đó, có khoảng mười hai cái camera đặt tại những con đường xung quanh trường học của Alice. Mười hai ! Và giống như là tình cờ, chúng đều bị hỏng vào đúng ngày đó. Điều này không làm em cảm thấy kì lạ à ?
    - Trí tưởng tượng của anh cũng phong phú thật.
    - Anh đã thấy Alice sáu tháng sau ngày em nhận được trái tim được đặt trong nước đá của cô bé.
    - Ta sẽ không bao giờ biết đó có phải là cô bé hay không.
    - Chính là cô bé ! Và cũng bởi vì Jim có bằng chứng mà anh ta đã bị giết !
    - Anh nói như thế thì chẳng ai tin được cả. Ta phải có bằng chứng.
    - Alice vẫn chưa chết, tin anh đi.
    - Lòng tin chẳng giúp gì được trong hoàn cảnh này cả.
    - Alice chưa chết, anh lặp lại. Và nếu cô bé vẫn còn sống, cô bé đã được ghép tim. Một cuộc phẫu thuật không được lưu lại trong hồ sơ của bất cứ bệnh viện nào. Em có tưởng tượng được sự phức tạp và tinh vi cần thiết để làm được điều đó không ? Ai có khả năng làm một cuộc phẫu thuật như vậy ngoài một tổ chức của chính phủ ?
    - Anh xem phim truyền hình quá nhiều rồi đấy. Nghe này, tất cả mọi người đều bỏ mặc Alice Dixon kể từ khi em phụ trách điều tra về cô bé : đầu tiên là bà mẹ, một người nghiện ngập sống trong một khu phố nghèo đói. Cô bé này, không phải là con của ai cả và em không nghĩ là chính phủ sẽ làm gì đó cho cô bé.

    Madeline nhấp một ngụm cà phê rồi, giống như hàng trăm lần trong quá khứ, chìm đắm vào hồ sơ của Alice để tìm lại kí ức. Biên bản cuộc thẩm vấn đầu tiên của kẻ giết người hàng loạt Bishop hiện lên trên màn hình cùng với nhiều bức ảnh khác nhau : những bức ảnh về ngôi nhà đổ nát của Erin trái ngược với hình ảnh ngăn nắp gọn gàng của phòng Alice, sách vở, áp phích concert, bánh quy Oreo và sữa dâu.

    Nhưng hình ảnh của Jim cứ lởn vởn trong tâm trí của Madeline. Anh ta đã làm gì sau cuộc gặp với Jonathan ? Cô đáng lẽ phải làm gì ? Chắc chắn anh đã yêu cầu một cuộc phân tích chữ viết và một bản in dấu vân tay. Cũng có thể là một bản xét nghiệm di truyền... Trong khi xem xét điện thoại, cô tìm được số của Tasha Medeiros, một trong những nhà xét nghiệm ADN của phòng thí nghiệm khoa học Birmingham. Đó là một nhà sinh học sáng giá, nhưng lại rất dễ tính đối với các thủ tục. Trong quá khứ, Jim và cô thường nhờ bà ta vì bà ấy chấp nhận làm những cuộc phân tích khẩn cấp mà không đòi hỏi phải tuân thủ quy tắc. Phải nói rằng Tasha tiêu thụ một lượng « có kiểm soát » chất cocaine và Jim, để giữ quan hệ tốt, đôi lúc hay lấy vài liều cho bà ta mỗi khi bắt giữ được những tên cung cấp theo số lượng nhỏ.

    - Buồn cười nhỉ, Jonathan bình luận.
    - Cảnh sát không phải là con nít ! Madeline đáp lại trong khi bấm số.

    Tasha không làm việc hôm nay. Bà ta ở nhà với con gái, nhưng cô cũng xác nhận được rằng Jim đã nhờ bà ta làm một cuộc phân tích. Bà ta trực đêm hôm qua và đã gửi cho anh ta kết quả bằng mail vào rạng sáng.

    - Chị không còn nhớ gì về nó sao ?
    - Đó là một phép so sánh giữa hai mẩu ADN.
    - Chị có thể gửi cho em thư đó không ?
    - Hôm nay thì hơi khó.
    - Điều này rất quan trọng đấy, Tasha. Jim vừa mới chết. Em đang thử tìm hiểu xem tại sao.
    - Trời đất...
    - Em sẽ gửi cho chị địa chỉ mail của em.
    - OK, chị sẽ đến văn phòng với Paola. Em sẽ có được kết quả trong vòng một tiếng nữa.

    *
    Trên máy tính, Jonathan xem những bức ảnh về những cuộc thảm sát của Bishop. Hắn bị khép tội giết Alice trong khi không có bằng chứng nào cả. Ở giữa biển máu và bạo lực đó, Jonathan bất chợt nhận ra rằng chính vì những điều tàn bạo đó mà anh và Madeline mới ở cùng nhau sáng hôm đó. Không có sự mất tích của Alice, họ sẽ không bao giờ có thể gặp lại nhau...

    Trong khi cô mân mê điện thoại để xem xét kết nối mạng, Madeline cũng tranh thủ lọc lại hộp thư của mình. Trong đó có khoảng ba mươi cái thư rác đủ loại mời cô mua những chiếc đồng hồ sang trọng, những viên nénn để kích thích nhu cầu tình dục hay những sản phẩm nhiệm màu có thể giúp cô giảm mười kí trong vòng mười ngày.

    - Anh nhìn này !

    Giữa những bức thư tạp nham, một cái làm cô chú ý. Nó được gửi cách đây hai mươi bốn tiếng bởi... Jim Flaherty.

    Tim cô đập nhanh hơn. Tại sao bức mail của Jim lại lọt vào chương trình chống thư spam ? Có thể bởi vì nó được đính kèm quá nhiều tập tin nặng ? Cô cuống cuồng đọc nó :

    Từ : Jim Flaherty
    Đến : Madeline Greene
    Chủ đề : Khám nghiệm
    Ngày : 22/12/2011 18:36

    Chào Madeline,
    Cô không thấy có gì bất thường trong những tấm ảnh này sao ?
    Gọi cho tôi nếu cô cảm thấy cần thiết.
    Bạn cô, Jim.

    Tiếp đó là một tập tin PDF cùng với rất nhiều hình ảnh. Madeline chuyển bức mail sang máy tính để đọc tập tin rõ hơn. Tất cả đều liên quan đến việc khám nghiệm tử thi của Danny Doyle, tay trùm của Cheatam Bridge.

    - Anh ta đang tìm kiếm điều gì trong đó ? Jonathan hỏi cao giọng.

    Anh nghiêng người để cùng đọc bản báo cáo khám nghiệm tử thi với Madeline. Giống như anh đã biết, người ta đã tìm thấy thi thể của Danny ở giữa một khu công nghiệp bỏ hoang, bị một viên đạn bắn vào đầu, tay chân bị cắt khúc, răng bị nhổ ra. Một sự hành hình được tổ chức bởi một băng đảng Ukraina mà trước đó vài tháng tay trùm đã phải chịu đựng cùng một hình thức như vậy. Báo cáo của bác sĩ pháp y cũng đơn giản : xác định giờ chết theo độ cứng của cơ thể, xem xét dấu vết của đạn xung quanh vết thương, phân tích các bộ phận và các mẫu thử – máu, dịch vị, ADN. Bấy nhiêu bằng chứng đủ để xác nhận danh tính của Danny Doyle.

    Giống như hàng loạt cuộc khám nghiệm tử thi của các tội phạm, những bức ảnh mang lại cảm giác buồn nôn: khuôn mặt thâm tím và biến dạng do bị tra tấn, phần ngực bị rạch đến tận bụng dưới, mạch máu hằn lên khắp cơ thể. Danny đã bị tra tấn và không được ra đi thanh thản. Nhưng điều gì làm Jim cho là « bất thường » trong những bức ảnh này ?

    Madeline phóng lớn vài chỗ.

    - Chúng còn cắt một bên tai của anh ta, Jonathan lưu ý.

    Madeline nhíu mày lại và xem xét chỗ đó. Đúng là thế : cái xác có một phần còn sót lại của tai phải bị cắt đi. Nhưng vết thương này có vẻ không mới. Mà Danny chưa bao giờ bị thương ở tai, trong khi đó thì... Jonny, anh trai sinh đôi của anh ta thì có.

    - Đây không phải là Danny mà là anh trai anh ấy ! Cô kêu lên.

    Cô giải thích câu chuyện với Jonathan : hai đứa trẻ cùng lọt lòng mẹ cách nhau năm phút, sự cạnh tranh của hai anh em, sự thô bạo và tàn nhẫn của Jonny do chứng tâm thần phân liệt và bị bắt giữ nhiều lần trước khi chìm sâu trong chứng nghiện rượu.

    Cô mở lại bản báo cáo khám nghiệm để đọc lại phần phân tích các cơ quan. Gan của tử thi bị « suy biến có thể do uống quá nhiều rượu ».

    Xơ gan.

    Danny cũng thường xuyên uống rượu, nhưng anh ấy chưa bao giờ bị nghiện.
    Làm sao cảnh sát có thể nhầm lẫn như vậy ?
    Hai anh em sinh đôi sở hữu chung một cơ chế di truyền, điều đó làm cho việc xác định bằng ADN trở nên không chính xác.
    Em chắc chứ ?
    Đã có nhiều vụ như thế rồi, đặc biệt là một vụ trộm ở Đức và một đường dây thuốc phiện ở Malaysia. Trong cả hai trường hợp, kẻ bị tình nghi có anh em sinh đôi và pháp luật buộc phải tha cho hắn vì không có khả năng phân định chính xác.
    Nhưng nếu đây là xác chết của Jonny...
    ...có nghĩa là Danny vẫn còn sống, Madeline tiếp lời một cách mụ mị.

    *
    Họ gọi thêm cà phê. Trong vòng nhiều phút, họ tiếp tục chìm trong những phán đoán cho đến khi Madeline nhận được thư của Tasha Medeiros, nhà phân tích ADN của phòng thí nghiệm Birmingham.

    Từ : Tasha Medeiros
    Đến : Madeline Greene
    Chủ đề :

    Madeline,
    Đây là kết quả phân tích mà Jim đã nhờ tôi làm một cách không chính thức.
    Tôi rất tiếc về chuyện của anh ấy.
    Mong là cái này có thể giúp được cô.
    Tasha

    Khẩn trương, cô nhấp vào tập tin đính kèm trong khi Jonathan ghé sát vai cô để cùng xem : đó là một cái bảng phức tạp với mười lăm hàng và sáu cột. Mỗi ô có rất nhiều con số. Họ mất vài giây để nhận ra rằng đó là một phép thử quan hệ cha con. Họ đi thẳng đến trang cuối nơi có ghi kết quả, và điều họ phát hiện ra làm họ nín lặng :

    Xét nghiệm phụ hệ khi không có mẫu thử của người mẹ
    Dựa vào phân tích ADN.
    Cha : Daniel Doyle
    Con : Alice DIXON

    Những điểm giống nhau được tìm thấy trong 15 loci được phân tích.
    Xác suất có quan hệ cha con được đánh giá là 99,999%.

    Trước khi chết, Jim đã có một phát hiện tuyệt vời. Sau ba năm điều tra, anh đã thành công khi chứng minh được rằng không những Danny Doyle chưa chết, mà anh ta còn là cha của Alice Dixon.

    Một khám phá mà anh ấy phải trả giá bằng sinh mạng của mình.

     
    Last edited by a moderator: 9/5/15
  15. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 31: Trên lãnh thổ của kẻ thù

    Trong bóng tối, mỗi người một số phận.

    Gao XINGJIAN
    Café Peels
    Lower East Side
    10 giờ sáng

    Choáng váng, Madeline thả phịch người xuống ghế, chợt cảm thấy một cơn buồn nôn. Đầu óc cô bắt đầu quay cuồng. Cả Alice và Danny đều chưa chết. Ngạc nhiên hơn nữa : cô bé lại chính là con gái của tay trùm thế giới ngầm. Nhưng Jim thì đã chết, còn cô, đã từng thử tự tử. Hàng chục người đã ngày đêm tiến hành cuộc điều tra này. Tại sao ? Vì ai ? Bất chợt, cô nghi ngờ mọi thứ. Trong chuyện này, ai là nạn nhân ? Ai là tội phạm ? Ngay từ lúc bắt đầu, khi cô tìm được chút ánh sáng cho những mảng tối, một bí ẩn khác lại làm cô hoang mang, dẫn cô đến một nơi ngày càng nguy hiểm hơn.

    Cô ngước mắt lên và kiếm tìm sự an ủi nơi Jonathan, nhưng anh đang dán mắt ra cửa kính, lo lắng điều mà anh nhìn thấy ngoài đó.

    – Anh nghĩ rằng chúng ta đang bị theo dõi.
    – Anh đùa à ? cô hỏi trong khi tiến lại gần cửa sổ.
    – Em thấy chiếc Ferrari màu đen đỗ hơi thấp phía dưới chứ ?
    – Trước galery của Morrison Hotel sao ?
    – Phải, anh đã thấy nó hai lần sáng nay : đầu tiên là ở TriBeCa rồi đến Little Italy. Nó không có biển số và anh không thể nhìn thấy người đang lái nó.

    Madeline nhíu mắt. Ở khoảng cách này, không thể phân biệt được dáng người đang ngồi bên trong xe.

    – Theo em, cô nói bằng một giọng quả quyết.

    Cách đây một giờ, cô còn không thể tưởng tượng được rằng người ta sẽ theo dõi họ, nhưng sau cái chết của Jim và những điều họ khám phá được, cô phải đề phòng mọi thứ.

    Họ trả tiền cho bữa sáng, đi xuống lầu và ra khỏi quán đề đi lấy xe.

    – Để em lái cho, Madeline nói.

    Cô ngồi vào vô lăng của chiếc Smart và khởi động xe.

    – Anh cho là nó sẽ theo chúng ta sao ? Có thể chính vì cuộc điều tra này mà...
    – Em hãy tự suy xét đi. Anh cá là nó sẽ đi theo đấy.

    Đúng như vậy, chiếc Ferrari rời khỏi chỗ đỗ xe và « bí mật » đi theo, cách họ khoảng hai mươi mét.

    – Anh đừng quay đầu lại, cô ra lệnh. Và thắt dây an toàn vào.

    Chiếc xe tăng tốc trên đường Bowery đến Cooper Square. Đột ngột, Madeline thắng lại và bẻ vô lăng sang trái, đưa chiếc xe vào hẳn phía giữa đường.

    – Em liều quá đấy ! Jonathan hét lên trong khi níu chặt lấy nắm cửa.

    Xe của họ đang ở phía kia của con đường, đối ngược với chiếc Ferrari.

    – Đóng cửa lại và mở mắt ra !

    Giờ đây hai chiếc xe đang đi ngược chiều nhau. Ngay khi chúng chạm nhau, Jonathan có nửa giây để nhìn người đang cầm lái.

    Đó là một người phụ nữ tóc vàng, rất đẹp, với một vết sẹo hình ngôi sao đi từ chân mày cắt dọc gò má đến tận mép môi...

    *
    – Thế nào ?
    – Anh biết bà ta ! Anh la lên. Anh chắc chắn đó là người phụ nữ tại ngôi nhà mà anh đã chở Alice về hai năm trước ở Cap-d'Antibes !
    – Là người tự nhận là mẹ của cô bé sao ?
    – Phải !

    Madeline nhìn vào kính chiếu hậu. Chiếc Ferrari đi về hướng tây theo Astor Place. Đương nhiên, chiếc Smart cũng rẽ sang đường Houston Street.

    – Nếu bà ta quay trở lại theo Broadway, chúng ta có thể đuổi theo, phải không ?
    – Đúng vậy.

    Họ ra dấu tay với nhau và nhìn ngấu nghiến chiếc xe của đối phương. Vài giây sau, chiếc GTO xuất hiện trên con đường băng ngang qua thành phố.

    Chiếc xe mui trần rẽ sang đường Spring Street. Theo bản năng, Madeline tăng tốc và hòa vào dòng lưu thông. Đáng lẽ cô phải nhận ra điều này trước, bởi vì chiếc Ferrari đã tăng tốc quá nhanh và để lại sau lưng chiếc xe nhỏ đang đuổi theo.

    - Khỉ thật, ta mất dấu nó rồi !

    Đó là điều không thể tránh khỏi : làm sao một chiếc Smart có thể đấu lại với động cơ V12 280 ngựa ? Nhưng cần thêm những thứ khác để làm Madeline nản chí. Không muốn trở nên bị động, cô đã vượt đèn đỏ ngay ngã tư Lafayette.

    - Cẩn thận ! Jonathan hét lên.

    Một người bán hot dogs dạo đang chuẩn bị bước sang đường. Madeline bấm còi hết tốc lực để xin rẽ sang trái. Người bán hàng giật nảy mình và luống cuống lùi lại trong khi chiếc Smart chẳng mấy chốc đâm sầm vào bên hông chiếc xe đẩy làm nó ngã lăn ra đất, xúc xích, sốt cà chua, mù tạt, hành tây và dưa cải văng tung tóe khắp nơi.

    Chiếc xe đâm vào vỉa hè, nhưng Madeline đã kiểm soát được nó và điều khiển bộ tăng tốc để đưa nó trở lại tốc độ bình thường trên đường Delancey Street.

    *
    Trong lúc đó, ở Coney Island…

    Nằm sóng xoài trên mặt đất như một con thú đầy sợ hãi, Alice quay đầu lại để tìm kiếm con chuột, nhưng dường như nó đã ra đi cùng với Youri.

    Một cơn nóng hừng hực chảy bừng bừng trong máu cô. Mồ hôi tràn ngập cơ thể cô, làm ướt đẫm cả tóc và mặt và tạo nên những cơn run lập cập chạy dọc cả cơ thể. Những cơn đau thắt dữ dội đang lan rộng trong bụng cô. Dường như đôi chân và mắt cá của cô đã bị sưng tấy lên.

    Sau khi « quay phim » xong, gã người Nga đã bỏ đi, để lại cô với cái đường ống bẩn thỉu. Mặc những lời nài nỉ của cô, hắn cũng không cho cô đủ nước để uống, hắn chỉ vui thú với việc đổ cả chai nước lên mặt cô. Bị nghiền nát bởi sự mệt mỏi, Alice cố gắng hết sức để kéo lại khuy áo Eclair của chiếc áo khoác bằng răng của mình.

    Dù chỉ với một cử động thật nhỏ thôi cũng khiến cô cảm thấy buồn nôn và chóng mặt. Lần này, cơn buồn nôn đã dâng lên tận cổ họng và cô nôn ra một đám màu vàng mật. Cô ngồi dựa vào tường, khó nhọc lấy lại hơi thở. Trống ngực cô đập thình thịch, nhịp tim cô đang đập nhanh một cách bất thường. Cô đã như thế này bao lâu rồi ? Bây giờ cô không còn có thể kiềm nén chúng được nữa : những cơn đau đầu bủa vây lấy cô và cái thanh sắt đang đè nén vùng bụng của cô chính là dấu hiệu của sự tăng huyết áp có thể gây ra suy thận.

    Cô nhìn về phía WC cách chỗ cô khoảng hai mét. Từ nhiều giờ trước, cô đã muốn đi toalét, nhưng cô không tài nào nhấc người lên nổi. Từ bỏ hết cả nhân phẩm, cô cảm thấy thoải mái hơn trong bộ đồ này. Đó gần như không còn là một sự sỉ nhục nữa. Cô dường như đắm mình trong chất nôn mửa và nước tiểu, nhưng ít nhất cũng đã tống khứ được chúng ra khỏi cơ thể.

    Thời gian nghỉ ngơi kéo dài được một lúc, ngay sau đó một tiếng rít khó chịu vang lên ù ù bên tai cô. Tầm nhìn của cô bị mờ và cô cảm giác như có vài điểm sáng đang nhấp nháp trong khắp căn phòng. Cô bị ngạt thở, không còn kiểm soát được, cô rơi vào cơn mê sảng. Cô đấu tranh để không bị ngất đi, nhưng nhanh chóng bị rơi vào tình trạng nửa hôn mê đầy mụ mị.

    *
    Lower East Side

    - Nó đây rồi ! Jonathan la lên trong khi chỉ vào chiếc Ferrari đang chạy trên cầu Williamsburg Bridge.

    Chiếc cầu treo bắc ngay East River để nối Lower East Side và Brooklyn. Được bao quanh bởi hàng rào và dây cáp thép, nó kéo dài hơn hai cây số và thu hút hàng trăm chiếc xe hơi trên cả bốn nhịp của mình.

    - Lưu thông quá dày đặc. Nó buộc phải đi chậm lại, Madeline đoán.

    Đúng như vậy, chiếc GTO đã bị mắc kẹt trong luồng xe đang lưu thông. Madeline đã lấy lại được sự tự tin. Như đang đùa với lửa, cô lựa chọn rủi ro bằng cách luồn lách với tốc độ cao qua những chiếc xe khác, rút ngắn khoảng cách của họ với chiếc Spyder.

    - Chậm lại đi! Chúng ta sẽ bị nghiền nát mất!

    Sau khi ra khỏi cây cầu, chiếc xe chuyển hướng để tiến ra làn đường đầu tiên.

    - Ta đi đâu đây? Cô hỏi, do không quen thuộc với đường phố của New York.
    - Williamsburg.

    Họ đến đại lộ Belford Avenue, tâm điểm của khu phố. Những tòa nhà bằng gạch cũ xen kẽ với những công trình xây dựng hiện đại. Vẫn đang tiếp tục được xây dựng, nơi này mang nét tương phản với phần “được tái thiết” của Manhantan. Những cửa hàng tiện lợi, những quán cà phê nhỏ, những cửa hàng thực phẩm hữu cơ và các hiệu sách cũ: mọi thứ đều sống động như đang tạo nên một trào lưu.

    Chiếc Ferrari bị chậm lại bởi không khí của ngôi làng đang ngự trị trên cả con đường. Những người bán hàng tràn ngập vỉa hè, các ca sĩ nghiệp dư điều khiển con phố ca hát và một người làm xiếc đang biểu diễn tiết mục của mình.

    Hiện tại, Madeline và Jonathan chỉ còn cách chiếc Spyder gần mười mét. Bị theo đuôi bởi chiếc Smart, nó buộc phải rẽ trái trước khi tiến vào công viên McCarren. Trong khi tiến ra gần bờ sông, họ băng qua khu vực kho bãi, nhà chứa và đất bỏ hoang. Những bức tường được bao phủ bởi tranh graffiti, chúng như đang nhắc nhở New York về những năm Basquiat.

    - Nó bị kẹt rồi! Jonathan kêu lên trong khi họ đang đi vào một con hẻm. Đó là một ngõ cụt. Không có đường nào khác ngoại trừ lao xuống sông!

    Chiếc Ferrari ngừng lại trước một đại lý bán xe hơi cũ. Tòa nhà nhìn ra bờ sông, mang lại một tầm nhìn khó tưởng tượng về những tòa nhà chọc trời ở Manhattan. Chiếc GTO lăn bánh chậm rãi trên bến tàu rồi, với một cú bẻ lái đột ngột, nó vội vã tiến vào trong nhà kho bởi một cánh cửa lớn bằng thép.

    Madeline dừng xe lại cách cổng vào của ga ra mang tên MACONDO MOTOR CLUB khoảng hai mươi mét.

    - Giờ sao nào?
    - Chúng ta phải biết được gì đó, Jonathan nói. Chúng ta không phải là những kẻ đuổi bắt: chính bà ta mới phải. Em có nghĩ rằng ta phải…?

    Anh không có cơ hội để kết thúc câu nói của mình. Một tiếng rít khiến họ quay trở lại. Màng lưới tản nhiệt của một chiếc xe kéo đụng vào họ, tóm lấy chiếc Smart và ném thẳng nó vào cái cửa đang mở rộng của gara. Cú sốc ném họ về phía trước. Madeline đã không thắt dây an toàn nhưng cánh tay của Jonathan đã đưa ra kịp thời để ngăn cho đầu cô không bị đập vào vô lăng. Chiếc xe kéo họ đi hàng chục mét cho đến khi họ hoàn toàn thâm nhập vào trong nhà chứa và những cánh cửa đóng sập lại phía sau họ.

    Nhà kho trải rộng trên hơn hai trăm mét vuông. Có khoảng năm mươi chiếc xe được đỗ thành hàng trong đó. Jonathan nhận ra chiếc Peugeot 403 nhưng, rõ ràng còn có nhiều chiếc đặc biệt hơn: Ford Gran Torino, Chevrolet Camaro, Plymouth Barracuda…

    - Em không sao chứ? Anh hỏi trong khi nhìn Madeline.

    Họ giúp nhau để ra khỏi chiếc Smart mà giờ đây trông giống như một bức tượng của nhà điêu khắc César hơn là một chiếc xe còn chạy được. Trước mặt họ, người phụ nữ với vết sẹo đang đứng cạnh chiếc Ferrari và chĩa vũ khí về phía họ:

    - Cảnh sát Blythe Blake của Cục cảnh sát Hoa Kỳ đây! Cô ta hét lên trong khi họ đang đứng dậy. Mau đưa hai tay lên đầu!

    Cục Cảnh sát Hoa Kỳ? Cục Cảnh sát Liên bang Tư pháp…
    Jonathan và Madeline nhìn nhau với vẻ ngạc nhiên tột độ. Người phụ nữ này là một cảnh sát!
    Sau đó họ quay đầu lại về phía chiếc xe kéo, nơi mà một người đàn ông vừa nhảy xuống.
    Với bộ quân phục, Danny Doyle tiến về phía họ.

    - Hi Maddie! Em có biết rằng em luôn là người đẹp nhất trong những nàng bán hoa của Paris không…

     
    Last edited by a moderator: 9/5/15
  16. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 32: Sự thật về Danny Doyle


    Những cái gai mà tôi nhặt được chính là từ cái cây mà tôi đã gieo trồng.

    Lord BYRON
    Cảng East River

    - Anh đúng là một tên đểu cáng! Làm sao anh có thể làm em tin rằng Alice đã chết chứ?
    - Maddie, bình tĩnh nào…
    - Em sẽ không bao giờ tha thứ cho anh về điều đó, Daniel!
    - Hãy cho anh cơ hội để bào chữa.

    Madeline và Danny đi dọc theo những bến cảng của Williamsburg. Gần mặt nước, rõ ràng nhiệt độ của nước lạnh hơn, và Madeline siết chặt áo khoác của mình lại. Cách mười mét phía trước và phía sau họ, hai “vệ sĩ” như đang bảo vệ họ theo từng bước chân.

    - Những người này là ai?
    - Những nhân viên FBI làm việc cho Cục Cảnh sát Hoa Kỳ.

    Căng thẳng hết mức, vẫn còn chịu ảnh hưởng từ tai nạn và tất cả những bí mật được tiết lộ từ sáng đến giờ, Madeline nói với giọng thách thức tay cựu đầu sỏ :

    - Nói cho em biết Alice đang ở đâu, NGAY BÂY GIỜ!
    - Anh sẽ giải thích tất cả cho em, nhưng hãy ngừng la hét đi, OK?

    Danny rút từ trong túi ra một điếu xì gà đã được đốt và nhóm nó lại bằng một chiếc bật lửa.

    - Tất cả bắt đầu từ cách đây ba năm rưỡi, anh nói trong khi ngồi xuống một trong những băng ghế dọc bờ sông. Đó là một tháng trước cái chết của mẹ anh. Bà đã kết thúc cuộc đời tại bệnh viện Christie, do căn bệnh ung thư đã đến giai đoạn cuối. Anh biết rằng bà đang sống những tuần lễ cuối cùng và anh đã đến gặp bà mỗi ngày.

    Danny để cho những hồi ức đau buồn trở lại ngay trước mắt. Anh đã gầy đi. Tóc anh dài hơn và ôm lấy khuôn mặt in hằn những vết nhăn. Madeline bình tĩnh lại và ngồi xuống cạnh anh. Anh thở ra một hơi xì gà trước khi tiếp tục:

    - Mỗi buổi tối, anh rời bệnh viện với vẻ ngày một tiều tụy. Anh tập thói quen nhấn chìm nỗi sợ hãi của mình trong Soul Café, một quán rượu trên Oxford Road cách bệnh viện khoảng một trăm mét. Đó là nơi anh nhìn thấy Alice lần đầu tiên. Cô bé phụ giúp việc xếp ly và bộ dao nĩa. Vào lúc đó, cô bé còn chưa đến mười bốn tuổi, ngay cả khi người ta gán cho cô tuổi mười lăm hay mười sáu. Rõ ràng cô bé chưa đủ tuổi để làm việc, nhưng không một ai thật sự quan tâm đến điều đó.

    - Anh đã chú ý cô bé ngay từ đầu sao?
    - Phải, anh bị thu hút bởi cách xử sự của cô bé: mỗi lúc nghỉ giải lao, cô bé đều ngồi xuống bàn để đọc sách hoặc làm bài tập. Và rồi, cô bé nhìn anh một cách kì lạ, như thể cô bé quen anh vậy…
    - Anh có nói chuyện với cô bé chứ?
    - Thời gian đầu, cô bé vui thích với việc quan sát anh, rồi, một buổi tối, cô bé bất thình lình đến bắt chuyện với anh một cách can đảm. Cô bé nói cô đã biết anh là ai. Rồi cô bé hỏi anh có nhớ mẹ cô không, Erin Dixon…
    - Em chưa hề biết rằng anh có qua lại với người phụ nữ đó.
    - Thậm chí anh cũng không nhớ. Mặt khác, mất vài giây để anh mường tượng ra khuôn mặt gắn với cái tên ấy. Thật vậy, anh đã ngủ với Erin Dixon hai hay ba lần, khoảng mười lăm năm trước. Đó là một người phụ nữ dễ dàng để có được mà không phải cần đến thủ thuật gì. Cô ta khá dễ thương trước khi bị nghiện, ngay cả khi chưa bao giờ cô ta tỏ ra thông minh…
    - Đó là những gì anh nói với con gái cô ta à?
    - Dĩ nhiên là không. Anh đã rất bối rồi, nhưng cô bé đã ở đây : cô bé nói rằng cô đã hỏi mẹ, đã tự điều tra và theo cô…anh chính là cha của cô.
    - Và anh đã tin điều đó ?
    - Thậm chí ngay cả trước khi cô bé nói với anh. Đó là một điều hiển nhiên.
    - Tại sao ? Anh thấy cô bé giống mình sao ?
    - Không, anh thấy cô bé giống em.

    Madeline tránh né câu nói đó :

    - Đừng có đùa giỡn, Daniel !
    - Đừng có nói khác đi! Ngay chính em cũng cho rằng mình có một mối liên hệ với cô bé đó! Tại sao em luôn kiên trì trong vô thức tiếp tục theo đuổi vụ án nếu em không nhìn ra chính mình trong cô bé đó?
    - Bởi vì đó là công việc của em.

    Nhưng Doyle vẫn khăng khăng:

    - Đứa trẻ này đáng ra nên là con gái của chúng ta! Cô bé thông minh, lanh lợi, tự lập, khác với tất cả những người xung quanh anh. Cô bé đối mặt với mọi thứ, đối diện với cuộc sống với lòng can đảm. Với anh, đó như một món quà của chúa trời.
    - Và, hai người đã có thói quen gặp lại nhau?
    - Phải, gần như là mỗi ngày, mà không để cho bất cứ ai biết. Đó chính là bí mật của bọn anh. Anh tìm hiểu nhiều hơn về cô bé và cũng không giấu những hoạt động của mình. Cô bé tạo cho anh một lý do để thức dậy mỗi sáng. Lần đầu tiên trong đời, anh thấy cuộc sống mình có ý nghĩa.
    - Anh có cho cô bé tiền không?
    - Anh có giúp đỡ một ít, nhưng không muốn tạo ra những nghi ngờ. Anh đã quyết định sẽ trả tiền học phí cho cô bé tại một trường đại học tốt. Anh đã từng nghĩ đến việc sẽ thừa nhận cô bé một cách hợp pháp, nhưng khi anh nhận thấy có những kẻ muốn lột da anh, điều đó sẽ gây nguy hiểm cho cô bé. Và rồi, có một vấn đề về sức khỏe cô bé làm anh lo lắng…
    - Về tim của cô bé phải không, Madeline đoán.

    Đôi mắt anh hướng thẳng ra dòng nước xanh biếc của East River, Danny gật đầu với vẻ buồn bã:

    - Anh đã nhìn thấy cô bé không thở được khi đang gắng sức. Cô bé không bao giờ than phiền, nhưng rất hay bị mệt và đã hai lần bị khó thở trước mặt anh. Anh đưa cô bé đến Primary Care Trust. Bác sĩ đã chẩn đoán một cơn đau tim, nhưng không có gì quá bất thường. Để hoàn toàn yên tâm, anh hỏi bác sĩ đang theo dõi bệnh của mẹ anh để làm những cuộc kiểm tra khác. Họ đã đưa ra kết luận về bệnh cơ tim giãn: tim của Alice hoạt động chậm hơn bình thường. Căn bệnh đã ở giai đoạn cuối và cô bé có thể chết bất cứ lúc nào.
    - Các bác sĩ đã đồng ý điều trị cho cô bé với cái tên giả sao?
    - Mỗi người đều được trả một khoảng thích đáng, Madeline à.
    - Và sau đó?
    - Những tháng đầu, Alice có phản ứng tốt với thuốc.

    Gió nổi lên. Từng chút một, Madeline kết nối các sự kiện lại với nhau, nhưng vẫn còn rất nhiều câu hỏi chưa có lời đáp.

    - Alice có biết tất cả những gì anh đã làm không?
    - Có, anh chưa bao giờ lừa dối cô bé.
    - Và điều đó không là vấn đề với cô bé sao?
    - Ta hãy cho rằng cô bé đủ thông minh để không mang một tầm nhìn hạn hẹp về mọi thứ.

    Madeline xem lời nói này như một sự sỉ nhục đối với mình, nhưng cô không muốn nói ra.

    - Chưa bao giờ anh nghĩ mình sẽ hoàn lương sao?
    - Dĩ nhiên là có chứ! Nhưng em nghĩ sao ? Sẽ dễ dàng chắc ? Rằng chỉ cần búng một ngón tay ? Anh đã ở trong một ngõ cụt : sau lưng là cảnh sát, những băng đảng đối thủ nhăm nhe làm thịt anh và ngay cả những kẻ chỉ chực chờ cơ hội để phản bội anh.
    - Alice biết tất cả điều đó chứ ?
    - Hơn cả những gì anh tưởng tượng bởi chính cô bé mang lại giải pháp cho anh.
    - Điều đó nghĩa là sao ?
    - Một đêm, anh nhìn thấy cô bé đến với một tập hồ sơ dày mà cô bé đã tổng hợp được từ hàng chục bài báo trên Internet. Những văn bản pháp lý, những trường hợp : công việc như của một luật sư. Cô bé cho rằng mình đã tìm được một công thức kì diệu cho phép cả hai chúng tôi bắt đầu lại cuộc sống mới.
    - Vậy công thức kì diệu đó là gì ?
    - WITSEC : Chương trình đảm bảo an toàn cho nhân chứng của Mỹ.

     
    Last edited by a moderator: 9/5/15
  17. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 33: Nhân chứng

    Tổng kiểm sát trưởng Hoa Kỳ có thể thực thi những biện pháp bảo vệ nhân chứng trong một vụ án liên quan đến hoạt động tội phạm có tổ chức, nếu họ cho rằng nhân chứng có thể trở thành nạn nhân của bạo lực hay những hành động đe dọa.

    Điều khoản 3521 chương 18 bộ luật Hoa Kỳ
    Lạnh cóng vì ngồi quá lâu trên băng ghế, Madeline và Danny lại tiếp tục đi bộ dọc theo bến cảng. Mặc kệ cái lạnh, hai bên bờ East River vẫn đông đúc tấp nập. Một nhóm vài người đàn ông lớn tuổi, mang theo lưới, xô nhựa và cần câu, thể hiện sự vui mừng khi tìm ra một chỗ đầy cá ngay đối diện đường chân trời Manhattan và liên tiếp câu được một loạt các loại cá bơn. Họ nói tiếng Ba Lan, tiếng Nga, tiếng Tây Ban Nha… Nơi mà mọi người đến từ nhiều quốc gia, nhiều chủng tộc và văn hóa khác nhau.

    - Ban đầu, Danny giải thích, anh nói với Alice rằng ý tưởng của con bé về “Chương trình đảm bảo an toàn cho nhân chứng” đó thật ngây thơ và viển vông. Anh không có gì để đánh đổi, không có lợi thế nào để bắt đầu cuộc chơi. Nhưng con bé khẳng định: “Con chắc chắn rằng ba sẽ dùng đến tất cả những gì đã xuất hiện trong cuộc đời ba.” Chính suy nghĩ đó đã vạch ra con đường cho con bé. Ở Mỹ, lúc đó là thời điểm cách vài tháng trước cuộc tranh cử tổng thống và việc chống lại thuốc phiện là một trong những chủ đề nằm trong chiến dịch của các ứng viên. Mọi ứng viên đều nói về Mexicô, nơi mà chiến tranh giữa những phe phái đã gây ra hàng chục ngàn trường hợp tử vong. Người Mỹ lo lắng về an ninh ngày càng bất ổn ở gần biên giới. Thắng lợi của Obama đánh dấu một bước ngoặt khi ông thừa nhận trách nhiệm của quốc gia trong việc buôn lậu thuốc phiện với vai trò là nước tiêu thụ chính. Ngay cả trước khi nhậm chức, ông đã gặp người bạn đồng nhiệm Mexicô của mình và cả hai nước đã tái khẳng định sẽ tiến hành một cuộc đấu tranh không khoan nhượng đối với tệ nạn buôn lậu thuốc phiện. Đó là một chủ đề nóng trong nhiệm kì của ông: Washington không hề mong muốn giao thiệp với một đất nước đầy những con nghiện.
    - Vậy điều đó có liên quan gì đến anh? Madeline hỏi. Việc rửa tiền à?
    - Cách đây mười lăm năm, trong những năm anh học ở California, anh đã gặp Jezebel Cortes ở trường đại học UCLA.
    - Con gái của tay trùm băng đảng đó à? Tên cô ta được đăng trên khắp các mặt báo do vụ kiện.
    - Bọn anh vẫn còn giữ liên lạc. Điểm chung của cả hai chính là “tên tuổi” khét tiếng của gia đình. Con cháu của tội phạm có thể hiểu được nhau.
    - Hơn thế nữa là hai người đều kế thừa sự nghiệp của cả hai người cha đáng kính ấy…
    - Jezebel không trực tiếp làm bẩn tay mình. Đó là một người có tài sắp xếp đáng nể. Một người phụ nữ kín đáo và thông minh đã ngụy trang hàng triệu đôla kiếm được từ thuốc phiện bởi các hoạt động hợp pháp.
    - Anh có cách nói chuyện khiến người ta kinh ngạc thật đấy…
    - Qua nhiều năm, cùng với quy mô ngày càng mở rộng của việc chống lại tệ nạn này, những tay rửa tiền gặp khó khăn nhiều hơn với các ngân hàng và các nước có nhiều ưu đãi về thuế vụ. Jezebel buộc phải thông qua các hoạt động và các đường trung gian khác.
    - Vì thế cô ta mới liên lạc với anh…
    - Phải, trong vòng năm năm, anh đã đầu tư tài khoản của cô ta vào bất động sản và nhà hàng khách sạn. Anh biết rằng cảnh sát Mỹ luôn tìm kiếm sơ hở của cô ta, nhưng bọn anh đã rất thận trọng. Khi Alice đề cập đến Chương trình bảo vệ nhân chứng, anh đã hỏi luật sư của mình cách liên lạc với văn phòng điều tra IRS (một trong những cơ quan của Bộ Tài chính chịu trách nhiệm thu thuế và thực thi pháp luật thuế).
    - Anh đã đề nghị với họ một cuộc trao đổi?
    - Sự vô tội cho anh cùng với một lý lịch khác cho cả anh và Alice để đổi lấy chứng cứ buộc tội Jezebel Cortes. Họ muốn ngăn chặn cô ta trên toàn nước Mỹ để tịch thu toàn bộ tài sản: các tài khoản ngân hàng, khoảng một trăm căn hộ, các khu phức hợp khách sạn, những văn phòng trao đổi và cơ quan bất động sản trên toàn California.
    - Thế là họ đồng ý một cách dễ dàng?
    - Không, nhưng Quốc hội đang chuẩn bị bỏ phiếu về một trợ giúp lớn trị giá một tỷ đô la cho Mexico. FBI cần một cuộc bắt giữ ấn tượng để gây ồn ào dư luận. Sự việc đã được đưa đến Bộ trưởng Tư pháp và cuối cùng đi đến thỏa thuận với MI6.
    - Các dịch vụ bí mật từ Anh quốc?
    - Chính họ đã đưa Alice đi dưới hình thức bắt cóc. Theo thỏa thuận thì anh sẽ gặp lại con bé sau.

    Madeline đột nhiên cảm thấy hoàn toàn bất lực: trong nhiều tháng, cô đã cố gắng giải quyết một cuộc điều tra mà Cục tình báo luôn tìm cách dừng lại. Tất cả đều đã sáng tỏ: những chiếc camera theo dõi bị hỏng, việc thiếu các bằng chứng, nhân chứng nhiều mâu thuẫn và không đáng tin cậy. Dù cô có điều tra đến mười năm, cô cũng không thể tiến thêm một bước nào. Hoặc giống như Jim, “tự tử” trong văn phòng của mình…

    Một cơn thịnh nộ bất thình lình xâm chiếm lấy Madeline. Cô cố gắng trong vô vọng để kiềm chế cơn giận của mình:

    - Tại sao anh làm vậy với em, Danny? Tại sao anh làm em tin rằng anh đang tìm kiếm con bé, tại sao lại gửi trái tim đó đến cho em?
    - Lúc vừa đến Manhattan, Alice đã bị dị ứng với thuốc. Cơn suy tim làm con bé yếu đi nhiều. Anh đã rất lo lắng: con bé chỉ có một mình, ngày càng thường xuyên bị mệt, dễ bị cúm và viêm phế quản. Anh đã gây áp lực lên FBI: sẽ không có nhân chứng gì hết nếu con gái tôi chết. Họ đã xoay sở để đưa con bé vào danh sách ưu tiên và ca phẫu thuật được thực hiện rất nhanh trong một bệnh viện ở New York. Đó không hề là khoảng thời gian dễ dàng với con bé…
    - Nhưng tại sao lại gửi trái tim đó cho em? Madeline nhấn mạnh.
    - Không phải anh là người gửi, mà chính là những người bảo vệ bọn anh. Bởi vì em đã trở thành một vật cản, Madeline, anh thú thật bằng cái giọng khô khốc do thuốc lá. Em xới tung cả đất trời để tìm kiếm Alice. Rồi cuối cùng em sẽ tìm được mối liên hệ với anh. MI6 lo sợ điều đó. Chính họ đã có ý định về trái tim. Để kết thúc hồ sơ.
    - Thế Bishop đóng vai trò gì trong việc này?
    - Bishop là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Họ biết rằng ngày này hay ngày khác sẽ có kẻ bị kết tội cho vụ án của Alice. Chỉ là nó đến nhanh hơn dự kiến thôi. Sau đó, như đã thỏa thuận, vài tháng sau “sự mất tích” của con bé, anh đã dàn dựng cái chết của chính mình và đến gặp con bé ở New York.
    - Anh đã giết chết em trai mình!
    - Không, Jonny đã tự giết chính mình. Em biết nó mà: đó là một tên nghiện, tâm thần và là một kẻ sát nhân. Anh đã phải chọn lựa và Alice chính là ưu tiên của anh. Bất cứ ai đụng vào đều phải trả giá.
    - Đừng đọc bài diễn văn đó nữa, em biết quá rõ rồi! Thế còn Jonathan? Làm sao anh ấy lại rơi vào chuyện này?
    - Trong kì nghỉ Noel sau đó, Alice và anh đã đến Côte d’Azur du lịch vài ngày. Sau ca phẫu thuật, Alice không thể ngừng gõ tên thật của mình lên các công cụ tìm kiếm để tìm hiểu những gì diễn ra sau vụ “bắt cóc”. Con bé đã tìm thấy những bài báo về em, về việc em đã thử tự tử. Con bé muốn cho em biết sự thật, nhưng Blythe Blake, người chỉ huy việc bảo vệ bọn anh, đã từ chối. Khi đến Pháp, con bé đã bỏ nhà đi để tìm gặp em ở Paris, nhưng khi đã đến thủ đô, con bé quyết định không gặp nữa để không đưa cả hai cha con vào nguy hiểm, và chính lúc đó con bé đã gặp Jonathan Lempereur.

    Trái tim của Madeline như thắt lại. Alice không chỉ biết đến sự tồn tại của cô, mà cô bé còn tìm cách liên lạc với cô.

    - Từ lúc đó, FBI và cảnh sát đã đưa tên hai người vào danh sách và sẽ có một báo động tự động khi hai người đến lãnh thổ nước Mỹ. Chiều hôm qua, người ta đã thông báo cho Blythe Blake về sự có mặt của cả hai người tại New York. Đó không thể là sự tình cờ. Anh đã nhờ họ làm một kế hoạch để đưa em đến đây.
    - Để làm em im lặng?
    - Không Madeline, để em giúp anh.
    - Giúp anh làm gì?
    - Tìm lại Alice.

    *
    Được bố trí trông như một căn gác xép, căn hộ nằm phía trên nhà để xe và hướng ra cảng. Dán mặt vào cửa kính, điệp viên Blythe Blake không rời mắt khỏi Danny và Madeline. Cô trả lời ngắn gọn những câu hỏi của Jonathan và hoàn toàn tập trung vào nhiệm vụ của mình: trông chừng và bảo vệ nhân chứng. Anh chàng người Pháp chăm chú quan sát người phụ nữ kì lạ với một vẻ đẹp duyên dáng và quý tộc này. Cô có mái tóc vàng và vẻ thanh lịch lạnh lùng như kiểu các nữ anh hùng Hitchcock. Lưng ong, tregging đen, ủng cao đính cườm và áo khoác da cổ tròn. Những chiếc kẹp tăm nhỏ giúp cho mái tóc được búi lại một cách sang trọng. Nhìn vào cô ta, ai cũng phải bị quyến rũ bởi những đường nét tinh tế của khuôn mặt cũng như ánh nhìn đặc biệt thu hút.

    Ngay cả vết sẹo trên gương mặt cô cũng thật quyến rũ. Không những không làm biến dạng, ngược lại vết sẹo còn mang lại cho cô một vẻ thu hút “chết người” có thể kích thích rất nhiều người đàn ông.

    - Chắc người ta hay hỏi cô…, anh bắt đầu.

    Vẫn dán mắt về phía Danny, cô trả lời Jonathan bằng một giọng lạnh lùng:

    - Trong một vụ nổ ở Irak ở “tam giác chết”. Cách đó ba milimét, và tôi đã bị mất một con mắt…
    - Từ khi nào vậy?
    - Tám năm trước. Tôi đã đi tình nguyện. Nếu được làm lại, tôi vẫn chọn công việc đó.
    - Cô ở trong quân đội lâu chứ?
    - Tôi là viên chức của nhà nước: hồ sơ của tôi không được tiết lộ.

    Nhưng do anh cứ tiếp tục nhấn mạnh, cô đành trả lời:

    - Tôi rời khỏi đội hải quân sau khi bị thương. Tôi đã ở Quantico (căn cứ của Mỹ bao gồm học viện đào tạo và huấn luyện FBI) hai năm rồi sau đó tôi làm vài nhiệm vụ hậu cần ở DEA trước khi được gia nhập nhóm lãnh đạo.
    - Những nhiệm vụ đó ở đâu?
    - Nghe này, anh bạn, tôi mới là người đặt câu hỏi, OK?
    - Đây là cách mà cô trả lời lại trong những buổi tiệc khi có ai đó tiếp cận cô à?

    Cô bực dọc:

    - Chúng ta không ở trong tiệc tùng và để cho anh biết thì anh hoàn toàn không phải mẫu người của tôi.
    - Vậy mẫu người của cô là gì? Những gã như Doyle?
    - Sao anh lại hỏi vậy? Anh lo lắng về cô bạn gái của mình sao?
    - Thế còn cô? Những tay giết người làm cô hứng thú à?
    - Phải, còn hơn là những ông bố của gia đình, cô khiêu khích. Nhưng nếu anh muốn biết, việc của tôi là trông chừng Doyle, chứ không phải là ngủ với anh ta.

    Tai nghe áp sát vào tai, cô hét lên vài chỉ dẫn để ra lệnh cho hai người canh gác siết chặt phạm vi bảo vệ.

    - Cô có nghĩ rằng Danny sẽ là mục tiêu của người Mexico không?
    - Điều đó không phải là không thể, nhưng tôi không nghĩ nó sẽ xảy ra.
    - Tại sao?
    - Bởi vì, theo một cách nào đó, anh ta đã là nhân chứng.

    Lần này thì Jonathan đã thua:

    - Cách đây năm phút, cô nói rằng việc thẩm vấn anh ta đã được xác nhận vào tuần sau!

    Blythe giải thích rõ hơn:

    - Bởi vì luật pháp cho phép trong tình huống này, Danny đã thu sẵn lời khai trước cả khi diễn ra vụ kiện. Một đoạn băng làm chứng, với sự có mặt của thẩm phán và luật sư, có thể bao vây Jezebel Cortes.

    Jonathan bắt đầu hiểu ra:

    - Vậy thì, ngay cả khi Danny có bị giết hôm nay…
    - …đoạn băng đó vẫn đủ để kết tội vụ buôn lậu, Blythe xác nhận. Hi vọng duy nhất của băng nhóm đó là Danny sẽ thay đổi lời khai trước tòa.
    - Nhưng tại sao anh ta lại làm điều này?
    - Bởi vì điều này, cô trả lời.

    Bằng một cái điều khiển từ xa, cô mở màn hình lớn trên tường và bật một đoạn video.

     
    Last edited by a moderator: 9/5/15
  18. bluechips

    bluechips Mầm non

    Chương 34: The Girl in the Dark (Cô gái trong bóng tối)


    Lý trí kiếm tìm và trái tim tìm thấy.

    George SAND
    Đoạn phim chưa đến ba mươi giây. Nó chứa hình ảnh về một gương mặt bị hủy hoại của một bé gái. Hoảng sợ, trông hoàn toàn kiệt sức, hai mắt tối sầm, Alice nhìn chằm chằm vào máy quay. Thứ ánh sáng nhợt nhạt xung quanh làm người ta nghĩ cô bé đang ở trong một tầng hầm hay ngục tối. Giọng cô bé run run, xen kẽ những tiếng khóc nức nở. Trong tiếng nấc, cô bé vẫn tìm được nơi để gửi thông điệp của bọn bắt cóc đến cha mình:

    Save me, Dad! Change your testimony, please! And we’ll be together again. Right, Dad?
    (Cứu con với, ba ơi! Hãy thay đổi lời khai của ba đi, con xin ba đấy! Rồi chúng ta sẽ lại được ở bên nhau. Được không ba?)

    Thế rồi máy quay xa dần, cho thấy dáng vẻ yếu ớt của Alice nằm dài trên đường ống.

    - Đoạn phim được gửi cho chúng tôi vào sáng nay thông qua một người vận chuyển, Blythe Blake giải thích trong khi bấm nút dừng.

    Danny thu nắm đấm lại. Bất lực và ngập tràn cảm giác tội lỗi, anh ta hoàn toàn bi quan:

    - Đã mười hai tiếng kể từ khi con bé bị bắt cóc. Nếu ta không thể nhanh chóng tìm thấy con bé, chúng sẽ giết nó cho dù tôi có làm gì. Và nếu thiếu những thứ thuốc này, con bé sẽ có nguy cơ bị suy thận.

    Blythe ngồi vào chiếc bàn sắt trên đó có ba chiếc máy tính xách tay.

    - Chúng tôi đã thử nhưng không thành công trong việc định vị điện thoại của Alice, cô nói rõ hơn khi chuyển đoạn phim ra một trong số những ổ cứng.

    Cô xem đi xem lại nhiều lần đoạn phim, tách âm thanh nền và làm nhiều bản chụp màn hình, soi vào từng chi tiết nhỏ nhất.

    Quan tâm đến những việc kĩ thuật như vậy, Madeline đến gần những chiếc máy tính. Blythe chỉ cho cô chi tiết về quá trình:

    - Có ngày giờ ở góc dưới màn hình. Nếu mở tiếng to hơn, ta có thể nghe thấy những âm thanh mà bình thường không nghe được: tiếng động cơ máy bay, tiếng rì rầm của xe cộ qua lại… có thể mang lại hướng đi cho chúng ta.
    - Thế còn máy quay phim? Jonathan hỏi.
    - Hình ảnh có chất lượng khá tốt cho dù thiếu ánh sáng. Chắc là một dòng gần đây, Blythe phân tích.

    Bằng vài động tác, Blythe mở một phần mềm có khả năng nhận dạng nhãn hiệu và mẫu mã.

    - Đó là một chiếc Canon có bộ nhớ trong, vừa mới được đưa ra thị trường cách đây chưa đến một năm. Tôi sẽ nhờ Cơ quan đưa ra danh sách bán hàng gần nhất tại cửa hàng hoặc trên mạng, nhưng điều này cần có thời gian.

    Cô phóng to một chi tiết khác trên màn hình lớn.

    - Cái mà tôi quan tâm chính là cái đường ống! Cô nói trong khi chỉ vào hình ảnh phóng to của cái đường ống mà Alice đang nằm dài trên đó. Nó cũ kỹ và nặng nề. Mới nhìn, tôi nghĩ rằng nó đã được gần một thế kỷ, nhưng tôi sẽ liên lạc với các chuyên gia có khả năng đưa ra nhận xét chính xác hơn. Với một chút may mắn, trong khi tập hợp hết các dữ liệu, có thể chúng ta sẽ định vị được nơi đó.

    Rồi cô quay người về phía nhân viên đã nhận được cái USB chứa đoạn phim.

    - Anh có lời khai của người vận chuyển đó không, Chris?

    Từ điện thoại, anh chàng mặc đồ đen (Man in Black) chuyển một văn bản sang màn hình máy tính.

    - Anh ta làm việc cho Bike Messenger, một hãng chuyển phát gần Wall Street, nhưng bây giờ anh ta đang làm nghề tự do. Anh ta đã nhận chuyển cái gói đó ở chỗ giao giữa Dutch và John Street. Người gửi tự đi đến: cao, người vùng Cáp-ca, lực lưỡng, khoảng bốn mươi tuổi… Hắn ta trả bằng tiền mặt và không để lại tên.
    - Chúng ta có bảng phát họa chân dung hắn ta không?
    - Euh… Terence đang hỏi người vận chuyển.
    - Nào, nói cô ta nhanh lên nào! Tôi muốn ta có thể truyền đi dấu hiện nhận biết hắn ta trong vòng mười phút nữa. Từ bây giờ, mỗi giây đều quý giá!

    *
    Nửa tiếng sau

    Cái tên Matchbox có lẽ được đặt do phạm vi nhỏ hẹp của không gian này. Chỉ có Chúa mới biết chủ quán đã sắp xếp thế nào để có thể bố trí khoảng hai mươi chỗ ngồi trong một căn phòng nhỏ nhắn ấm cúng hướng ra sân vườn.

    Ngồi trước một chiếc bánh vòng kẹp cá hồi, Jonathan vừa mới kể cho Madeline nghe về cuộc gặp gỡ với Francesca.

    - Em nghĩ sao?

    Anh đã kể cho cô nghe bằng tất cả sự thành thật của mình, anh kể tường tận hoàn cảnh đã buộc Francesca phải giết Llyod Warner và thủ tiêu xác hắn ta trước khi ngụy tạo một chứng cứ ngoại phạm với sự tiếp tay của George. Một kì tích khiến cô không bị kết tội tử hình, nhưng đã bắt cô phải trả giá bằng cuộc hôn nhân của chính mình.

    - Em nghĩ rằng với cái chết của một tên như vậy, Trái đất sẽ bớt đi một tên bẩn thỉu, Madeline trả lời.

    Một gã như Danny Doyle…

    - Em thấy rằng vợ anh thật sự có máu lạnh và trí thông minh đáng gờm đấy, cô thêm vào.

    Cô nuốt trọn lát bánh mì trét phô mai dê cuối cùng và nhấp một ngụm rượu vang.

    - Và em nghĩ rằng anh sẽ phải tìm lại cô ấy.

    Jonathan như người vừa bị rơi từ trên mây xuống. Trong một giây, Madeline đã làm cho câu chuyện của họ bỗng chốc tan biến.

    - Thế còn… chúng ta?

    Cô nhìn sâu vào mắt anh.

    - Đừng tự lừa dối mình nữa: mối quan hệ của chúng ta rất mong manh. Đâu là tương lai cho cả hai? Chúng ta sống cách xa nhau mười ngàn cây số, cả em và anh đều không giàu có gì. Sẽ đến một lúc nào đó anh cảm thấy hối hận vì đã không quay về với vợ và con trai mình.

    Jonathan cố gắng giữ bình tĩnh.

    - Em chẳng hiểu gì hết! Chúng ta sẽ không chia tay nhau vì cái giả thiết ngớ ngẩn đó được…
    - Anh chẳng còn gì để làm ở đây nữa. Alice Dixon chẳng là gì đối với anh. Đây không phải là cuộc chiến của anh.
    - Con bé là một phần trong cuộc sống của anh, cũng như em thôi !

    Lần này anh đã cao giọng. Nhà hàng nhỏ bé đến độ tất cả mọi ánh nhìn đều đồng loạt hướng về phía anh. Anh chán ghét cái không gian nơi mà bàn ghế san sát nhau thế này, chẳng thể có được một chút riêng tư tự do gì cả.

    - Nghe này, Jonathan, câu chuyện này bắt đầu bằng máu và cũng sẽ kết thúc bằng máu. Sẽ không có một sự kiện nào hạnh phúc đâu và anh thì không được chuẩn bị để đối mặt với sự tàn khốc này. Còn em, em là cảnh sát, Blythe làm việc cho FBI, Danny là một kẻ sát nhân, nhưng anh thì…
    - Còn anh, anh chỉ là một ông chủ nhà hàng hiền lành, phải không ?
    - Anh, anh có một gia đình…
    - Anh đã nghĩ rằng em có thể sẽ là một phần trong đó, anh vừa nói vừa đứng lên.

    Anh đặt hai tờ giấy bạc lên bàn trước khi rời khỏi quán rượu.

    Đây là lần đầu tiên Madeline cảm thấy thật sự yêu một người đàn ông. Tuy nhiên, cô không tìm cách níu giữ anh ấy.

    - Anh hãy bảo trọng, cô thì thầm.

    Nhưng anh ấy đã ra đi.

    Băng đảng Mexico đã ra lệnh bắt cóc Alice chắc chắn đã sẵn sàng cho mọi tình huống. Bị chạm đến tự ái, Jonathan đã không hiểu được rằng chính vì yêu anh mà Madeline từ chối cùng anh vượt qua biển tăm tối này.

    *
    Bến tàu điện ngầm Bedford Avenue chỉ là một khối nhà hỗn độn. Jonathan hòa mình vào dòng người đổ về ga và trở về Greenwich.

    Tại nhà của Claire, anh ngồi bất động hai mươi phút dưới vòi sen, kiệt sức bởi sự chênh lệch múi giờ và thiếu ngủ, tâm trí rối bời vì hàng loạt cảm xúc và tình cảm hỗn loạn.

    Mười lăm giờ. Anh gọi về San Francisco và nói chuyện hồi lâu với con trai mình. Charly không thể hiểu nổi tại sao ba lại không ở cùng mình vào đêm trước Giáng Sinh. Tuy nhiên Marcus đã chứng tỏ khả năng của mình và thay thế anh trong vai trò một người cha mà trước giờ Jonathan chưa bao giờ thật sự làm tròn trách nhiệm.

    Cuộc trò chuyện với con trai càng làm anh như lún sâu hơn vào nỗi buồn. Để thoát khỏi sự cô đơn, anh thay quần áo và đi uống cà phê trong quán bar đầu tiên mà anh tìm thấy trên đường MacDougal Street. Anh hi vọng rằng caffeine có thể giúp đầu óc anh sáng tỏ hơn. Trong khoảnh khắc, những hình ảnh của một gia đình được tái hợp xuất hiện trong tâm trí anh theo một viễn cảnh yên bình. Anh hồi tưởng lại từng giây phút hạnh phúc với người vợ cũ của mình và Charly. Lời thú nhận của Francesca đã giải thoát cho nỗi đau khổ đã dày vò anh suốt hai năm trời, đã nhấn anh chìm vào màn sương mù và làm anh mất đi tất cả niềm tin cũng như chỗ dựa.

    Hiện tại, anh có cơ hội để tìm lại “cuộc sống trước kia”. Đó chẳng phải vẫn là điều anh hằng mong muốn sao? Trong vòng hai tiếng, anh có thể lên máy bay đến California, đón Charly và trở về New York để trải qua kì nghỉ bên Francesca.

    Viễn cảnh đó thật là tươi sáng. Anh nhớ đến câu nói của một trong số các đồng nghiệp của mình: “Một cái cây không có rễ cũng chỉ là một khúc gỗ mà thôi.” Anh cần một nền tảng vững chắc để không bị bước hụt chân. Tuy nhiên, hình ảnh của Francesca dần mờ nhạt phía sau Madeline. Cô ấy hoàn toàn đúng: câu chuyện của họ chỉ được dệt nên bởi gió. Tuy nhiên…

    Tuy nhiên, anh không thể nghe theo lời của lí trí. Madeline đã phá nát trái tim anh và thấm vào đó chất độc của sự nhớ nhung rồi.

    Một cách máy móc, anh rút trong túi ra một cây bút và bằng một nguồn cảm hứng đến bất ngờ, anh bắt đầu hí hoáy viết lên mảnh giấy. Sau ba phút, anh nhận ra rằng mình vừa mới tạo nên một món tráng miệng dựa trên hình ảnh của cô gái trẻ người Anh ấy: bánh millefeuille (ngàn lớp) với kem hương hoa hồng và hoa violet, cùng với lớp vỏ mỏng phủ caramel và hương cam dịu nhẹ vùng Tunisie. Đó là điều bất ngờ đầu tiên. Hai năm qua, anh hoàn toàn bị mất cảm hứng sáng tạo và không hề cho ra đời bất cứ món ăn mới nào. Ngày hôm nay, cái khóa đó đã được mở và tình yêu lại mang đến cảm hứng cho anh một lần nữa.

    Khung cảnh này làm anh trở nên thanh thản hơn và mang lại cho anh niềm tin về tương lai. Tại sao anh lại không mở thêm một nhà hàng ở New York cùng với một trường dạy nấu ăn nho nhỏ? Cuối cùng thì cũng có một dự án có khả năng phát triển.

    Jonathan đã có được những bài học từ sai lầm của mình và anh sẽ không bao giờ phạm phải chúng một lần nữa. Chấm dứt những hội chợ phù hoa, cuộc chạy đua đến những ngôi sao, cuộc tìm kiếm sự nổi tiếng qua các phương tiện truyền thông. Anh đã có trong đầu ý tưởng về một nơi phục vụ cho ẩm thực thuần túy và đầy tham vọng, nhưng không phải cùng với một kiểu trang trí sang trọng. Chấm dứt những chiếc ly bằng thủy tinh sáng loáng và những chiếc đĩa bằng sứ được thiết kế bởi các nhà thiết kế thời trang. Anh sẽ không bao giờ dán tên mình lên những sản phẩm đóng hộp hay những món ăn sẵn đông lạnh kinh tởm được bán trong siêu thị nữa. Từ nay, anh sẽ làm công việc của mình như một nghệ nhân, với mục tiêu duy nhất là cho và nhận niềm vui.

    Anh rời khỏi quán cà phê và mang theo vài tia hi vọng. Nhưng anh biết rằng tương lai đó chỉ có thể đến khi Alice Dixon còn sống. Anh sẽ ở đâu ngày hôm nay nếu lúc đó anh không vô tình gặp cô bé? Dưới ba tấc đất, chắc chắn rồi. Anh nợ cô bé sự sống: đó là món nợ lớn nhất mà anh phải trả. Một món nợ máu mà anh xác định mình phải tôn vinh.

    *
    Mười tám giờ. Những hình ảnh về sự giam cầm của Alice xâm chiếm lấy tâm trí anh. Tất cả đều hỗn loạn. Anh cố gắng nhớ lại những lời sau cùng của cô bé, nhưng anh không làm được. Anh quay ngược lại đường số 20. Màn đêm dần buông xuống. Mặc kệ cái giá rét đang quất vào mặt mình, anh tiếp tục tản bộ trên đường, suy nghĩ về số phận không thể tin được của Alice. Về cuộc sống mà cô bé đã sống như một cuộc chiến. Về sự mạnh mẽ đã giúp cô bé vượt lên hoàn cảnh và làm chủ sự tồn tại của mình. Từ khi còn rất nhỏ, cô bé đã phải chiến đấu một mình, không gia đình, không bè bạn, lúc nào cũng lựa chọn con đường khó khăn nhất: con đường chống lại sự ngu dốt, tránh khỏi sự níu kéo của những kẻ đần độn và u mê. Con đường vốn dĩ rất khó khăn để theo đuổi ngay cả khi người ta đã trưởng thành, huống chi khi người ta chỉ mới mười ba tuổi…

    Anh đã đến phía tây Chelsea. Lúc này, trời đã tối và vài bông tuyết bàng bạc lất phất bị gió cuốn bay trên những cột đèn đường. Cái lạnh buộc anh phải đẩy cửa vào Life & Death, một quán bar nổi tiếng về cocktail. Âm nhạc vang lên khắp bốn góc phòng. Jonathan không ưa thích lắm những chỗ này, nhưng những điệu nhảy và các cuộc trò chuyện xung quanh đây làm anh bớt cảm giác cô đơn. Về phần âm nhạc, nó tạo ra một thứ bong bóng, một cách nghịch lý, giúp anh sắp xếp lại các ý tưởng trong đầu, giúp anh chìm đắm vào suy nghĩ của mình. Alice… Anh phải tập trung vào Alice…

    Trực giác của anh mách bảo rằng cuộc điều tra của Blythe Blake và Madeline sẽ chẳng mang lại kết quả gì. Về phần mình, anh không có bất cứ một phương tiện điều tra nào. Anh chỉ có những tế bào thần kinh và sự phán đoán của chính mình. Rượu như đang đốt cháy dạ dày của anh, nhưng nó lại làm anh thêm nhạy cảm. Anh gọi thêm một ly nữa để duy trì xúc cảm của mình. Là một người sáng tạo, anh luôn đặt cược vào trí thông minh cảm xúc. Từng chút một, những rào cản trong kí ức của anh dần dần bị lu mờ và nội dung của đoạn phim trở lại trong đầu anh: ánh nhìn rực sáng và nồng nhiệt của cô bé, trạng thái tê liệt, xung quanh bẩn thỉu, còng tay quanh cổ tay cô bé, giọng nói đứt quãng và câu nói:

    “Save me, Dad! Change your testimony, please! And we’ll be together again. Right, Dad?”
    Anh cố gắng làm mình trở nên trống rỗng, đặt mình vào hoàn cảnh của Alice. Nỗi sợ hãi trong đôi mắt cô bé không phải là giả dối, nhưng anh cũng có thế thấy được một sự mãnh liệt trong đôi mắt ấy… Dù đang sợ hãi, sự thông minh và nhạy bén của cô bé vẫn luôn hiện diện. Giống như là cô bé không chỉ tìm cách để khơi gợi lòng trắc ẩn, nhưng cũng là… để gửi đi một thông điệp…

    Không, điều đó là không thể. Có thể chúng đã đưa cô bé một mảnh giấy để đọc, hoặc ít nhất là những chỉ dẫn nhất định. Làm thế nào để ứng biến nên một điều gì đó chỉ với vài từ như vậy?

    Anh lấy miếng đế lót dưới ly cocktail của mình và viết bốn câu ra:

    Save me, Dad!
    Change your testimony, please!
    And we’ll be together again.
    Right, Dad?

    Rồi, sao nữa? Theo như Danny, cô bé hoàn toàn nhận thức được những nguy hiểm của mình. Cô bé biết rằng kẻ bắt cóc mình rất có thể được ra lệnh bởi băng đảng người Mexico. Vì thế, chắc không phải là về lí lịch của tên bắt cóc, mà có thể cô bé đang tìm cách thôn báo thêm những thông tin về nơi mình đang bị giam giữ. Ngoại trừ…

    Một tia sáng lóe lên trong đầu anh. Anh chụp lấy cây bút và tô đậm chữ cái đầu tiên của mỗi câu:

    Save me, Dad!
    Change your testimony, please!
    And we’ll be together again.
    Right, Dad?

    Theo thứ tự, những chữ in hoa tạo thành một từ có bốn chữ cái: SCAR

    “Vết sẹo” trong tiếng Anh…

    (CÒN NỮA)

     
    Last edited by a moderator: 9/5/15
    Doflamingo thích bài này.
  19. Doflamingo

    Doflamingo Mầm non

    Hóng file Pdf của bác để tải về đọc dần quá cute_smiley23
     
  20. muatatnang

    muatatnang Lớp 5

    Cuốn này nếu không lầm là cuốn Cuộc gọi từ thiên thần hình như cũng có ebook lâu rồi đấy.
     
    Doflamingo thích bài này.

Chia sẻ trang này