Đôi dòng lưu niệm Mình thường đọc gì?

Thảo luận trong 'Bàn Trà' bắt đầu bởi amylee, 28/6/23.

Moderators: amylee
  1. amylee

    amylee Super Moderator Thành viên BQT

    LA ROCHEFOUCAULD ĐÃ NÓI . . .
    Đàm Trung Pháp
    Nguồn: viethocjournal

    [​IMG]
    Quận công François de La Rochefoucauld (1613-1680) thuộc dòng dõi quý tộc nước Pháp là một nhà nghị luận sắc sảo, sinh ra và qua đời tại Paris. Ông gia nhập quân đội từ hồi còn rất trẻ và đóng một vai trò quan trọng trong thời kỳ La Fronde (1648-1653). Thời điểm ấy là lúc nước Pháp đang bị rối ren trầm trọng do sự tranh chấp giữa giới quý tộc và triều đình Pháp dưới thời mới lên ngôi của vua Louis XIV – ngay trong lúc còn đang có chiến tranh với Tây ban nha. Kinh nghiệm sinh hoạt gần gũi những năm với giới quý tộc đã cho ông nhiều cơ hội nhận xét về tính tình và cách cư xử của họ. Điều này đã ảnh hưởng nhiều đến suy tư trong các tác phẩm của ông về sau, đặc biệt là trong Les Maximes xuất bản lần đầu tiên vào năm 1660.

    Với nội dung gồm hơn 500 châm ngôn ngắn gọn, tổng quát, bi quan, nghịch lý, và dí dỏm về cuộc đời, Les Maximes đã được đón nhận nồng nhiệt ngay sau khi phát hành, ở cả trong lẫn ngoài nước Pháp. La Rochefoucauld viết những câu nói “thẳng như ruột ngựa” này cốt để vạch ra cái giá trị đáng nghi ngờ của các “đức hạnh” (les vertues) của người đời – như tình yêu, tình bạn, lòng bác ái, và sự can trường.

    Dưới đây là một số “maximes” để đời của La Rochefoucauld được bút giả chuyển sang tiếng Việt, theo sau là nguyên tác bằng tiếng Pháp cho mỗi câu:

    Những đức hạnh của chúng ta phần lớn chỉ là những thói xấu đã được khéo léo hóa trang • Nos vertues ne sont le plus souvent que des vices déguisés.

    Chúng ta lười biếng nhiều trong tâm hồn hơn là trong thể xác • Nous avons plus de paresse dans l’esprit que dans le corps.

    Người ta chẳng bao giờ được quá hạnh phúc hoặc bị quá bất hạnh như người ta tự nghĩ • On n’est jamais si heureux ni si malheureux qu’on s’imagine.

    Người nào sống không dại dột thì không khôn ngoan như người ấy tưởng • Qui vit sans folie n’est pas si sage qu’il croit.

    Cái lợi mà làm mờ mắt người này, thì lại làm sáng mắt kẻ kia • L’intérêt, qui aveugle les uns, fait la lumière des autres.

    Lý trí con người lúc nào cũng là sự lừa bịp của trái tim • L’esprit est toujours la dupe du coeur.

    Lòng mến mộ sự công bình, trong đa số người ta, thường chỉ là nỗi lo sợ mình phải chịu sự bất công • L’amour de la justice n’est en la plupart des hommes que la crainte de souffrir l’injustice.

    Lòng ngờ vực của chúng ta biện minh cho mối lường gạt của người khác • Notre défiance justifie la tromperie des autres.

    Lòng giả dối là một niềm ngưỡng mộ mà thói xấu dành cho đức hạnh • L’hypocrisie est un hommage que le vice rend à la vertue.

    Tài hùng biện đích thực gồm có sự phải nói ra tất cả điều phải nói, và chỉ nói lời phải nói mà thôi • La véritable éloquence consiste à dire tout ce qu’il faut, et à ne dire que ce qu’il faut.

    Nếu chúng ta không có nhược điểm nào, thì có lẽ chúng ta sẽ không ham hở nhận ra ngay những nhược điểm của người khác • Si nous n’avions point de défauts, nous ne prendrions pas tant de plaisir à en remarquer dans les autres.

    Mọi người đều than phiền về trí nhớ, nhưng chẳng ai than phiền về phán xét của mình • Tout le monde se plaint de sa mémoire, et personne ne se plaint de son jugement.

    Những ai quá chăm chú vào những chuyện nhỏ bé thường sau này không thể làm được những chuyện lớn lao • Ceux qui s’appliquent trop aux petites choses deviennent incapables des grandes,

    Chúng ta có lẽ sẽ nhiều phen thấy xấu hổ về những hành động đẹp nhất của chúng ta nếu thiên hạ biết đến tất cả những động lực nào đã khiến chúng ta làm những hành động đó • Nous aurions souvent honte de nos plus belles actions si le monde voyait tous les motifs qui les produisent.
     
    Wanderman and nhan van like this.
  2. amylee

    amylee Super Moderator Thành viên BQT

    MỘT SỐ SỰ KIỆN LỊCH SỬ HÀN QUỐC THỜI CẬN ĐẠI
    Nguồn: chuadaohaitac
    19/09/2018

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    1. Năm 1863, Vua Cao Tông (Gojong) lên ngôi, Hưng Tuyên đại viện quân (Heungseon Daewongun) nắm quyền trong bối cảnh bên trong thì nông dân nổi dậy khắp nơi, bên ngoài thì các thế lực phương tây gây áp lực đòi mở cửa thông thương.

    Hưng Tuyên đại viện quân đã từ chối một cách dứt khoát yêu cầu thông thương vì mục đích xâm lược của các thế lực phương tây, mặt khác ông cũng cho cải cách nội chính để giữ vững vương quyền đồng thời ổn định cuộc sống cho nhân dân. Ông tuyên bố: “Ta sẽ không tha thứ cho bất cứ ai làm hại đến nhân dân Joseon (Triều Tiên), dù đó là Khổng Tử hồi sinh”.

    2. Mười năm sau, quyền lực về tay dòng họ Min. Năm 1876 Triều Tiên ký điều ước Ganghwa-do mở 3 cửa biển cho Nhật Bản, và sau đó lần lượt ký các điều ước thông thương với Mỹ, Anh và các nước phương tây khác, tích cực thực hiện chính sách mở cửa, hoà vào dòng chảy chung của lịch sử thế giới.

    Phong trào khai hoá cũng được thực hiện. Triều đình cử các quan chức trẻ sang Nhật thị sát các thiết bị công nghệ, thành tựu văn hoá và các cơ quan, bộ máy nhà nước của Nhật Bản. Sau khi về nước, họ viết du hành ký, tấu trình chuyến đi cho quốc vương. Triều đình cũng cử các lưu học sinh sang nhà Thanh học cách huấn luyện quân sự và chế tạo vũ khí hiện đại ở Thiên Tân. Để chủ động triển khai chính sách khai hoá, chính phủ lập ra Thống lý cơ vụ nha môn (Tongnigimuamun) tổ chức quân đội theo kiểu mới gọi là Biệt kỹ quân (Byeolgigun), đội quân này được huấn luyện để sử dụng vũ khí mới của Nhật Bản.

    3. Năm 1895, nhận thấy vua Cao Tông và hoàng hậu Myeongseong muốn dựa vào Nga để chống lại âm mưu xâm lược của mình, Nhật đã cho người ám sát hoàng hậu. Vua Cao Tông sau đó đã chuyển đến ở toà công sứ Nga.

    Năm 1896, Từ Tái Bật (Seo Jae-pil), chủ bút tờ Độc lập Tân văn đã thành lập Hiệp hội Độc lập. Hiệp hội độc lập đã tổ chức ra Vạn dân cộng đồng hội nhằm thảo luận các vấn đề chính trị xã hội, kiến nghị nhà vua cải cách chính trị để không bị phụ thuộc vào bên ngoài. Trước khí thế của quần chúng, vua Cao Tông đã hồi cung. Vua đổi quốc hiệu là Đại Hàn Đế Quốc và tiến hành cuộc cải cách Quang Vũ, tập trung phát triển công nghiệp và chấn hưng giáo dục để phát triển đất nước độc lập tự chủ.

    4. Năm 1905, Nhật giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh với Nga nên đã đưa ra điều ước Ất Tỵ yêu cầu Đại Hàn cho xây dựng Phủ Thống giám đặt tại Seoul và cướp quyền ngoại giao. Phủ Thống giám một mặt áp bức tự do chính trị của nhân dân Hàn mặt khác bắt đầu thực hiện thực dân hoá trên toàn bán đảo Hàn.

    5. Năm 1907, giữa lúc dân chúng nổi dậy phản đối điều ước Ất Tỵ, hoàng đế Cao Tông tuyên bố vô hiệu hoá điều ước này và công bố với thế giới, song những cố gắng ngoại giao của ông không thành công do sự thoả hiệp giữa các nước đế quốc.

    Nhật Bản đã dùng quân đội ép vua Cao Tông thoái vị và cưỡng chế Đại Hàn ký hiệp ước Hàn-Nhật mới. Theo hiệp ước này, người Nhật được bổ nhiệm vào các chức danh thứ trưởng của các bộ thuộc khối hành chính, tăng cường sự giám sát gắt gao đối với nội chính Đại Hàn.

    Theo sách Lịch sử Hàn Quốc, Ban biên soạn giáo trình Hàn Quốc học, 2005, NXB Đại học Quốc gia Seoul.
     
    utitgg and Ikaika like this.
  3. amylee

    amylee Super Moderator Thành viên BQT

    “Nếu hòa bình là một giải thưởng…”
    Thứ Năm, 09/11/2023 07:34

    Thế giới truyện ngụ ngôn dạy chúng ta rằng ngay cả những giá trị quý giá nhất cũng có thể phải trả giá đắt. Bài viết sau đây được trích từ bài phát biểu nhận Giải Hòa bình của Salman Rushdie tại Hội Thương mại Sách Đức vào ngày 22/10/2023, trong khuôn khổ Hội chợ Sách Frankfurt.

    Để bắt đầu, hãy để tôi kể bạn nghe một câu chuyện này. Ngày xửa ngày xưa có hai con chó rừng: một con là Karataka, nghĩa là “thận trọng” và con còn lại là Damanaka, nghĩa là “táo bạo”. Chúng thuộc nhị phẩm trong đoàn tùy tùng của vua sư tử Pingalaka, nhưng đầy tham vọng cũng như xảo quyệt. Một ngày nọ, vua sư tử bỗng dưng hoảng sợ bởi một tiếng động ầm ĩ trong rừng. Chó rừng biết đó chỉ là một con bò đực, không có gì đáng sợ nên chúng thuyết phục nó đến trước mặt sư tử và tuyên bố tình bạn của mình.

    Sư tử và bò đực từ đó trở thành bạn bè, và chó rừng được vua ban ơn vì sự nhạy bén, được thăng lên hàng nhất phẩm. Thật không may, sư tử và bò đực bắt đầu trò chuyện quá nhiều đến nỗi vua ta ngừng việc săn mồi, còn các con vật bắt đầu chết đói. Thế là lũ chó thuyết phục sư tử rằng bò đực đang âm mưu chống lại mình, tới phiên bò đực cũng được cho biết rằng vua sư tử đang có ý định giết mình, thế là sư tử cùng với bò đực đánh nhau, và con bò chết, muông thú có thịt để ăn. Sau đó lũ chó thậm chí còn được nhà vua đánh giá cao hơn vì đã cảnh báo ông về âm mưu này. Do đó chúng cũng nhận được vị thế cao hơn với những loài khác, tất nhiên, trừ con bò đực tội nghiệp - nhưng điều đó không thành vấn đề, bởi vì nó đã chết và đoàn tùy tùng đã có thêm một bữa ăn vô cùng tuyệt vời.

    upload_2023-11-15_6-44-13.png
    Salman Rushdie nhận giải thưởng hòa bình tại Hội chợ sách Frankfurt.

    Đây, gần đúng, là chuyện đầu tiên cũng như dài nhất trong số 5 truyện của Panchatantra - cuốn truyện ngụ ngôn xoay quanh muôn loài. Nó có tên là Về việc chia rẽ giữa những người bạn. Truyện thứ 3, Chiến tranh và hòa bình, tựa đề sau này được một cuốn sách nổi tiếng khác sử dụng, mô tả cuộc xung đột giữa bầy quạ và loài cú, trong đó sự dối lừa của một con quạ độc địa đã dẫn đến sự thất bại và tuyệt diệt của loài cú. Tôi đã sử dụng một phiên bản khác của câu chuyện này trong cuốn tiểu thuyết Thành phố chiến thắng mới nhất của mình.

    Điều bản thân tôi luôn thấy hấp dẫn về Panchatantra là nhiều câu chuyện trong đó không mang tính chất đạo đức. Chúng không rao giảng lòng tốt, đức hạnh, sự trung thực hay phải kiềm chế. Xảo quyệt, chiến lược và sự vô đạo đức thường luôn vượt qua hết mọi thách thức. Người tốt không phải lúc nào cũng thắng. (Thậm chí không phải lúc nào cũng thật rõ ràng ai là người tốt.) Vì lí do này, chúng có vẻ như đương đại một cách kì lạ, bởi vì chúng ta, những độc giả hiện đại, hiện vẫn sống trong một thế giới vô đạo đức, vô liêm sỉ và xảo quyệt, trong đó kẻ xấu khắp nơi vẫn thường chiến thắng.

    “Tất cả những câu chuyện này đến từ đâu thế?” cậu bé Haroun hỏi người cha trong cuốn tiểu thuyết Haroun và biển truyện của tôi. Ông trả lời rằng chúng đến từ những câu chuyện lớn khác, từ một đại dương của những câu chuyện mà tất cả chúng ta chèo thuyền trên đó. Đó không phải là điểm khởi nguồn duy nhất: còn có kinh nghiệm và quan điểm sống của người kể chúng, và cũng bởi cả thời đại mà họ đang sống. Nhưng hầu hết các câu chuyện đều bắt nguồn từ những câu chuyện khác, chúng gắn kết và thay đổi và do đó trở nên mới mẻ. Đây là quá trình mà tôi gọi là trí tưởng tượng.

    Tôi luôn được truyền cảm hứng từ thần thoại, truyện dân gian và truyện cổ tích, không phải vì chúng chứa đựng những điều kì diệu, như động vật biết nói hay loài cá thần kì; mà vì chúng gói gọn sự thật. Ví dụ, câu chuyện về Orpheus và Eurydice, nguồn cảm hứng quan trọng cho cuốn tiểu thuyết The Ground Beneath Her Feet (tạm dịch: Mặt đất bên dưới bàn chân cô ấy) của tôi, có thể được kể trong chưa đầy một trăm từ, nhưng nó lại chứa câu hỏi hùng hồn về mối quan hệ giữa nghệ thuật, tình yêu, và cái chết […]

    Kho tàng những câu truyện cổ thực sự rất là phong phú […] Nhưng ở Ấn Độ, trước khi tôi nghe những câu chuyện đó, tôi đã lớn lên với Panchatantra, và khi tôi thấy mình đang ở giữa văn bản mà mình tôi chấp bút, chính con chó rừng, loài quạ xảo quyệt và những thứ tương tự là điều mà tôi thường quay trở lại, để hỏi xem chúng kể câu chuyện gì. Tính cho đến nay, chúng vẫn chưa làm tôi thất vọng. Mọi điều mà tôi cần biết là lòng tốt và mặt trái của nó, về tự do và sự giam cầm, cũng như về xung đột, đều có thể tìm thấy trong những câu chuyện này. Đối với tình yêu, thì tôi phải nói, cần phải tìm ở nơi khác. Và vì vậy, hôm nay khi tôi đứng nhận giải thưởng hòa bình, tôi tự hỏi: “Thế giới truyện ngụ ngôn nói gì với chúng ta về hòa bình?”

    Kết quả không tốt cho lắm. Homer nói rằng hòa bình chỉ đến sau một thập kỉ chiến tranh, khi tất cả những người chúng ta quan tâm đều đã chết đi còn nơi thành Troy thì bị tàn phá. Thần thoại Bắc Âu cho biết hòa bình đến sau Ragnarök, Hoàng hôn của các vị thần, khi họ tiêu diệt kẻ thù của mình, nhưng cùng lúc đó, chính bản thân họ cũng bị tiêu diệt. Và Panchatantra cho chúng ta biết hòa bình - cái chết của loài cú và sự chiến thắng của loài quạ - chỉ có thể có thông qua bội phản. Tạm gác lại những huyền thoại quá khứ và nhìn lại bộ đôi “hot” nhất mùa hè năm nay. Trong khi Oppenheimer nhắc nhở chúng ta hòa bình chỉ đến sau khi 2 quả bom nguyên tử Little Boy và Fat Man được thả xuống Hiroshima và Nagasaki; thì Barbie nói rằng bình yên tĩnh tại và hạnh phúc đong đầy vốn chỉ tồn tại trong một thế giới toàn nhựa màu hồng.

    Và ở đây, chúng ta tụ họp để nói về hòa bình, trong khi chiến tranh vẫn đang hoành hành không ở xa lắm. Đó là cuộc chiến sinh ra từ sự chuyên chế, tham tàn quyền lực và muốn chinh phục của một cá nhân; bên cạnh xung đột vẫn đang lên cao ở Israel và Dải Gaza. Hòa bình, ngay bây giờ đây, giống như ảo mộng vốn được sinh ra từ chất thức thần. Đối với Ukraine, hòa bình không chỉ có nghĩa là chấm dứt chiến sự. Nó còn có nghĩa, như phải có nghĩa, là sự khôi phục lãnh thổ bị chiếm giữ và sự bảo đảm chủ quyền của nó. Hòa bình, đối với kẻ thù của Ukraine, có nghĩa là Ukraine đầu hàng. Cùng một từ đó, với hai ý nghĩa không hề tương thích. Hòa bình cho Israel và cho người Palestine thậm chí còn xa vời hơn.

    Hoà bình là điều khó mà đạt được. Tuy nhiên, chúng ta vẫn khao khát điều đó, không chỉ sự bình yên vĩ đại đến sau chiến tranh mà còn cả sự yên bình nho nhỏ trong cuộc sống riêng tư […] Dù nó khó tìm nhưng đó là thứ rất đáng theo đuổi. Cha mẹ tôi đã nghĩ như vậy khi họ đặt tên tôi là Salman, cái tên có gốc là “salamat”, nghĩa là “hòa bình”. “Salman” là “hòa bình”. Và thực tế thì tôi là một cậu bé trầm tính, ngoan ngoãn, chăm học và có bản tính hiền lành. Rắc rối bắt đầu sau đó.

    Nếu tác phẩm của tôi bị ảnh hưởng bởi truyện ngụ ngôn, thì giải thưởng hòa bình cũng có gì đó mang tính hoang đường. Tôi thích ý tưởng rằng hòa bình tự nó có thể là một giải thưởng - rằng ban giám khảo gồm những người khôn ngoan có được quyền lực lớn đến mức họ có thể trao cho riêng một ai đó […] Đó là giải thưởng mà tôi rất vui khi mà được nhận. Tôi thậm chí còn nghĩ đến việc viết một câu chuyện về nó, “Người đàn ông nhận được hòa bình như một giải thưởng”.

    Tôi tưởng tượng nó diễn ra ở một thị trấn nông thôn nhỏ - có thể là ở chợ làng. Có những cuộc thi thông thường, dành cho những chiếc bánh nướng và bánh ngọt ngon nhất, những quả dưa hấu to nhất, thi đoán trọng lượng con lợn của người nông dân chính xác nhất… chẳng hạn. Tiếp đó người bán hàng rong mặc chiếc áo cũ kĩ đến trên một chiếc xe ngựa và rồi nói rằng anh ta sẽ làm giám khảo của các cuộc thi, và trao phần thưởng mà chưa một ai từng thấy trong đời. Đó là những chiếc chai nhỏ cho những người đoạt giải khác nhau, có nhãn Sự thật, Cái đẹp, Tự do, Lòng tốt và Hòa bình.

    Dân làng tỏ ra thất vọng. Họ thích tiền mặt hơn cả. Và vào hội chợ năm sau, có những hiện tượng kì lạ xảy ra. Sau khi uống chất lỏng trong chai, người sở hữu Sự thật bắt đầu khó chịu và dần xa lánh những người hàng xóm bằng cách nói cho họ biết chính xác những gì anh ta nghĩ về họ. Người đẹp thì lại trở nên đẹp hơn, ít nhất là trong mắt mình nhưng lại xa cách theo kiểu nào đó. Hành vi phóng túng của Tự do khiến nhiều dân làng bị sốc, và kết luận rằng chai rượu của cô chắc chắn có chứa một loại chất say cực mạnh. Lòng tốt tự xưng là một vị Thánh, và tất nhiên ai cũng thấy ông không thể chịu nổi. Và Hòa Bình chỉ ngồi dưới gốc cây và mỉm cười. Vì ngôi làng đầy rẫy những rắc rối nên nụ cười này cũng rất cay đắng.

    Một năm sau đó, khi hội chợ được tổ chức lần nữa, người bán rong quay lại nhưng bị đuổi ra khỏi thị trấn. “Biến đi”, dân làng kêu lên. “Chúng tôi không muốn những giải thưởng đó. Một bông hoa hồng, một miếng pho mát, một miếng giăm bông hoặc là một dải ruy băng… Đó là những giải thưởng bình thường. Chúng tôi muốn những thứ đó.”

    Tôi có thể viết câu chuyện đó hoặc không? Ít nhất, nó có thể giúp minh họa một cách hài hước một điểm nghiêm túc, đó là những khái niệm mà chúng ta nghĩ mình có thể đồng ý là đức tính tốt nhưng lại có nhiều khả năng bị coi là xấu, tùy thuộc vào trong quan điểm của bản thân bạn và tác động của chúng trong thế giới thực. Trong cuốn tiểu thuyết Tử tước chẻ đôi của Italo Calvino, người anh hùng đã bị chia đôi bởi một viên đạn bắn thẳng vào ngực. Hai nửa đều sẽ sống sót, vết thương được một bác sĩ chuyên môn chữa trị, và sau đó hóa ra tử tước đã bị chia cắt về mặt đạo đức cũng như thể chất. Một nửa bây giờ không thể tốt được, trong khi nửa kia ngày càng xấu xa đến mức không thể tin được. Tuy nhiên, hóa ra cả hai nửa đều gây ra mức độ thiệt hại như nhau, đều đáng sợ như nhau, chỉ cho đến khi chúng được khâu lại bởi cùng vị bác sĩ đó và một lần nữa trở thành số ít về mặt thể chất nhưng là số nhiều về mặt đạo đức.

    Số phận của tôi, trong nhiều năm qua, là uống từ chính cái chai có nhãn Tự do và do đó tôi viết không chút kiềm chế những cuốn sách mà tôi chợt nảy ra trong đầu. Và bây giờ, khi tôi sắp xuất bản cuốn sách thứ 22, thì tôi phải nói rằng 21 trong số 22 lần đó đều rất đáng uống. Trong dịp còn lại, tức là lần xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 4 của tôi, tôi đã học được - nhiều người trong chúng tôi đã học được - rằng tự do có thể tạo ra phản ứng ngang bằng từ các thế lực không muốn tự do, và tôi cũng học được cách đối mặt với hậu quả của điều đó. Tôi cũng biết được rằng nhiều nhà văn và nghệ sĩ khác, khi thực hiện quyền tự do của mình, cũng phải đối mặt với các thế lực thâu tóm tự do. Tóm lại tự do có thể là một loại rượu nguy hiểm để uống. Nhưng điều đó khiến việc phòng thủ trở nên cần thiết và thiết yếu hơn. Thú thật, có nhiều lúc tôi đã thà uống lọ Hòa bình và dành cả đời ngồi dưới gốc cây với nụ cười sung sướng, hạnh phúc, nhưng đó không phải là cái lọ mà người bán rong đưa cho tôi.

    Chúng ta đang sống trong một thời đại mà tôi không nghĩ mình sẽ thấy trong đời, thời điểm mà tự do – và đặc biệt là tự do ngôn luận, nếu không có nó thì giới văn chương không thể tồn tại – ở khắp mọi nơi đang bị tấn công bởi những kẻ phản động, độc tài, dân túy, mị dân… Cũng trong lúc đó, các cơ sở giáo dục và thư viện phải chịu một sự thù địch và bị kiểm duyệt; tôn giáo cực đoan và những hệ tư tưởng mù quáng bắt đầu xâm nhập ngày càng nhiều vào những lĩnh vực cuộc sống…

    Đây là một điều gì đó thật sự mới mẻ và đang trở nên ngày càng phức tạp bởi chính công cụ giao tiếp của chúng ta, Internet. Trên đó các lời dối lừa đã được “phục trang” một cách khéo léo nằm cạnh sự thật, và rất khó để phân biệt được đâu là điều tốt và đâu là xấu. Phương tiện truyền thông xã hội cũng tương tự thế, nơi mà các chủ sở hữu tỷ phú chi phối tâm lý đám đông để mà kiếm lợi từ nó.

    Chúng ta phải làm gì về quyền tự do ngôn luận khi nó bị lạm dụng rộng rãi? Chúng ta vẫn sẽ nên làm, với cách thức mới, những gì chúng ta luôn cần làm: đáp lại lời xấu bằng những lời hay, chống lại những chuyện sai trái bằng chuyện đúng đắn, đáp lại sự căm ghét bằng tình yêu và tin rằng sự thật vẫn có thể thành công ngay cả trong một thời đại toàn là dối trá. Chúng ta phải bảo vệ nó một cách quyết liệt và định nghĩa nó lại một cách rộng rãi nhất có thể, vì vậy, vâng, tất nhiên chúng ta nên chấp nhận những lời nói xúc phạm mình; nếu không thì tất cả chúng ta không hề bảo vệ quyền tự do ngôn luận chút nào. Hãy để một ngàn lẻ một giọng nói nói theo một ngàn lẻ một cách khác nhau.

    Trích dẫn lời của Cavafy, “những kẻ man rợ đang đến hôm nay,” và điều tôi biết là câu trả lời cho chủ nghĩa khủng bố là nghệ thuật, câu trả lời cho chủ nghĩa man rợ là nền văn minh, và trong bất kì cuộc chiến nào thì các nghệ sĩ thuộc mọi lĩnh vực - nhà làm phim, diễn viên, các ca sĩ, và, vâng, những người thực hành nghệ thuật cổ xưa là viết - vẫn có thể cùng nhau đuổi những kẻ man rợ ra khỏi thế giới ngày càng đen tối này.

    Nguồn: vannghequandoi.com.vn
    NGÔ MINH
    dịch từ bài viết của Salman Rushdie trên The New Yorker.
     
  4. amylee

    amylee Super Moderator Thành viên BQT

    Tính đa dạng và hòa nhập trong văn học Mỹ - Trịnh Y Thư
    Bối cảnh văn học Mỹ thế kỷ XX

    Nước Mỹ thế kỷ XX cống hiến cho nhân loại sự phong phú và đa dạng của các trào lưu, chủ đề và tiếng nói trong văn học. Một số tác giả và tác phẩm kinh điển đã xuất hiện trong thời kỳ này, góp phần phát triển truyền thống văn học có từ những thế kỷ trước.

    Riêng trong lĩnh vực tiểu thuyết, văn học hiện đại, thịnh hành vào đầu thế kỷ XX ở Châu Âu với kỹ thuật “dòng ý thức” trong tiểu thuyết của James Joyce và Virginia Woolf, lan rộng sang Mỹ, tìm cách tách rời các hình thức truyền thống thế kỷ XIX để cách tân và hình thành một dòng văn học mới với phong cách độc đáo, táo bạo và mở ra những cánh cửa thú vị bất ngờ cho người đọc đi vào ngôi nhà nghệ thuật. Kỷ nguyên văn học hiện đại phương Tây bắt đầu từ hai thập kỷ đầu của thế kỷ XX và, không thể nghi ngờ, Mỹ là quốc gia có những đóng góp to tát. Các tiểu thuyết gia lớn trong thời kỳ này, ta có thể nhắc đến F. Scott Fitzgerald, Ernest Hemingway và William Faulkner.

    Đặc điểm của thời kỳ này là sự hiện hữu của cái-gọi-là “Thế hệ Thất lạc.” Họ là các nhà văn vỡ mộng vì hậu quả đổ nát kinh hoàng của Thế chiến thứ nhất, do đó các tác phẩm của họ thường phản ánh cảm giác tuyệt vọng và vỡ mộng với cuộc sống và những quan điểm hay ý thức hệ quá khứ. Ngoài Ernest Hemingway và F. Scott Fitzgerald còn có John Dos Passos, là những nhà văn tiểu biểu cho “Thế hệ thất lạc.”

    Trong khi đó, tại miền Nam nước Mỹ, vào khoảng thời gian những năm 1920-1940, dấy lên một phong trào có tên gọi là “Phục hưng miền Nam.” Trọng tâm của các nhà văn này là khám phá sự phức tạp của trải nghiệm trong cuộc sống miền Nam nước Mỹ, bao gồm các vấn đề chủng tộc, giai cấp và truyền thống. Các tác giả chính là William Faulkner, Carson McCullers và Eudora Welty.

    Rồi đến “Thế hệ Beat” nổi đình đám suốt hai thập kỷ ‘40 và ‘50. Các nhà văn “Beat” bác bỏ các chuẩn mực xã hội lỗi thời, khước từ “cái cũ” để khám phá những “cái khác”. Họ thường chịu ảnh hưởng của triết học phương Đông và nhạc Jazz. Các tác giả chính là Jack Kerouac, Allen Ginsberg và William S. Burroughs. Thời kỳ này (lan sang thập kỷ ‘60 với chiến tranh Việt Nam đang đi vào giai đoạn khốc liệt), còn có các tác giả chú trọng đến các vấn đề dân quyền, bất bình đẳng chủng tộc và bất công xã hội, như James Baldwin, Ralph Ellison và Lorraine Hansberry.

    Nửa sau thế kỷ XX chứng kiến sự ra đời của Chủ nghĩa Hậu Hiện đại. Nói chung, đặc điểm của văn học Hậu Hiện đại thường thách thức các quan niệm truyền thống về hiện thực, chấp nhận tính liên văn bản và đặt câu hỏi về văn chương tự sự cố hữu. Các tác giả tài danh gồm có: Thomas Pynchon, Don DeLillo và Kurt Vonnegut.

    Tuy thế, không phải ai cũng viết với phong cách văn học Hậu Hiện đại, thực chất, đây là thời kỳ bùng phát của nền tiểu thuyết Mỹ với rất nhiều cây bút lừng lẫy tạo ảnh hưởng lên văn học thế giới, và thật thiếu sót nếu ta không nhắc đến các tiểu thuyết gia Philip Roth, Raymond Carver, John Updike, Saul Bellow, Joyce Carol Oates, trong số rất nhiều tên tuổi khác.

    Văn học Mỹ, nhất là tiểu thuyết, trong thế kỷ XX được đặc trưng bởi sự tương tác năng động giữa các hình thức truyền thống và thể nghiệm, tiếng nói đa dạng và phản ánh những thay đổi xã hội, chính trị và văn hóa của thời đại. Nó tiếp tục được đánh giá cao vì những đóng góp cho bối cảnh văn học toàn cầu. Chính “tiếng nói đa dạng” đã làm tiền cảnh cho “tiếng nói đương đại” bao gồm nhiều tiếng nói đại diện hơn cho phụ nữ, dân tộc thiểu số và các nhà văn LGBTQ+ như Toni Morrison, Jhumpa Lahiri, Sandra Cisneros và Alice Walker. Bước sang thế kỷ XXI, điều này ngày càng rõ rệt hơn.

    Tính đa dạng và hòa nhập

    Tính đa dạng và hòa nhập trong văn học là sự thể hiện nhiều tiếng nói, quan điểm và kinh nghiệm khác nhau trong các tác phẩm viết. Đó là phản ứng trước sự kiện rất khó giải thiêng, mà ta có thể nói thẳng ra là, văn học kinh điển truyền thống thường bị thống trị bởi một nhóm tiếng nói hạn hẹp, chủ yếu là của các tác giả da trắng, dị tính (heterosexual), và thường là nam giới. Lời kêu gọi hãy cho văn học tính đa dạng nhằm chủ đích làm sao khắc phục được sự thiếu cân bằng đó bằng cách thúc đẩy sự tham gia của các nhà văn từ nhiều gốc gác khác nhau, bao gồm các chủng tộc, sắc tộc, giới tính, khuynh hướng tình dục, khả năng và bối cảnh văn hóa cũng như kinh tế-xã hội khác nhau. Nhu cầu thể hiện đa dạng liên quan đến việc mô tả nhân vật và phần tự sự phản ánh sự phong phú và phức tạp của thế giới thực.

    Phong trào “Tiếng nói riêng/ Own Voices” khuyến khích các tác giả viết về các nhân vật và trải nghiệm phù hợp với bản sắc riêng của họ. Cách tiếp cận này được xem như một cách để đảm bảo tính xác thực và tránh sự rập khuôn trong phong cách thể hiện.

    Tính giao thoa là một đặc tính quan trọng của khuynh hướng đa dạng và hòa nhập trong văn học. Tính giao thoa thừa nhận rằng các cá nhân có nhiều bản sắc giao nhau và hình thành nên trải nghiệm của họ. Văn học đề cao tính xen kẽ, thừa nhận và khám phá sự phức tạp của các nhân vật có thể thuộc nhiều nhóm trước đây bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nói chung, tiếng nói của những kẻ “thấp cổ bé miệng” được chú ý nhiều hơn.

    Những thay đổi trong ngành xuất bản cũng đóng góp đáng kể vào sự phát triển này. Ngày càng có nhiều chú ý hơn về sự thiếu đa dạng trong bản thân ngành xuất bản. Những nỗ lực đang được thực hiện để giải quyết sự chênh lệch trong giao dịch xuất bản sách, vai trò biên tập và các khía cạnh khác của quá trình xuất bản. Các sáng kiến hỗ trợ các tác giả và tác phẩm đa dạng đã xuất hiện để mang lại nhiều cơ hội hơn cho những tiếng nói ít được đại diện.

    Ngoài ra, những nỗ lực đang được thực hiện nhằm đa dạng hóa chương trình giảng dạy tại các trường trung / đại học để mở rộng chương trình học vấn khoa Văn bao gồm những tác giả thiểu số và chấp nhận cái nhìn của họ trong học đường. Điều này giúp học sinh, sinh viên nhìn thấy bản thân mình được phản ánh trong văn học mà họ nghiên cứu và giúp họ tiếp cận với một quy phạm văn học bao quát hơn.

    Các giải thưởng, như giải Pulitzer cao quý, và danh hiệu văn học ngày càng công nhận những tác phẩm góp phần tạo nên sự đa dạng và hòa nhập. Các tác giả từ các cộng đồng thiểu số ngày càng nhận được nhiều sự công nhận hơn vì những đóng góp của họ cho văn học.

    Và sau cùng, nhưng không kém quan trọng, là sự tham gia của độc giả. Độc giả ngày càng có tiếng nói hơn trong việc yêu cầu những cuốn sách đa dạng, và các mạng truyền thông xã hội đã đóng vai trò hữu ích trong việc khuếch đại những tiếng nói ấy. Các blogger, nhà phê bình và độc giả đang tích cực quảng bá văn học đa dạng và thách thức làm sao cho nó trở nên hòa nhập hơn.

    Mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm để đạt được sự đa dạng và hòa nhập hơn trong văn học. Những diễn ngôn xung quanh những vấn đề này là điều cần thiết để thúc đẩy sự thay đổi tích cực và tạo ra một bối cảnh văn học thực sự thể hiện sự đa dạng trong trải nghiệm của con người.

    Các tác phẩm tiểu thuyết mang tính đa dạng và hòa nhập

    Dưới đây là 10 cuốn sách đáng chú ý, xuất bản trong thời gian hai ba chục năm qua, có thể xem là đại diện cho xu hướng này. Sự bình chọn không phải của tôi. Tôi chỉ giản dị dựa trên những thông tin lấy từ nhãn quan của đa số trong giới phê bình cũng như đại chúng.

    “The Hate U Give/ Sự thù ghét mi cho ta” của Angie Thomas

    Cuốn tiểu thuyết này đề cập đến các vấn đề về chủng tộc và bạo lực của cảnh sát qua con mắt của một cô gái trẻ người Mỹ trở thành nhà hoạt động sau khi chứng kiến cảnh sát bắn chết bạn mình.

    Starr Carter, 16 tuổi, sống hai thế giới: khu dân cư nghèo nơi cô sinh sống và ngôi trường ở ngoại ô sang trọng mà cô theo học. Sự cân bằng khó giữ giữa hai thế giới bị phá vỡ khi Starr chứng kiến vụ bắn chết người bạn thân thời thơ ấu của cô là Khalil dưới bàn tay của một nhân viên cảnh sát. Khalil không có vũ khí.

    Ngay sau đó, cái chết của Khalil đã trở thành tiêu đề trên báo chí truyền thông toàn quốc. Một số người gọi anh ta là một tên côn đồ, thậm chí có thể là một kẻ buôn ma túy và một tên băng đảng hè phố. Một vài cảnh sát và trùm ma túy địa phương tìm cách đe dọa Starr và gia đình cô. Điều mọi người muốn biết là: cái gì thực sự đã xảy ra đêm đó? Và người duy nhất còn sống có thể trả lời được câu hỏi đó chính là Starr.

    Nhưng những gì Starr nói, hoặc không nói, có thể ảnh hưởng đến cộng đồng của cô. Nó cũng có thể gây nguy hiểm cho tính mạng cô.

    “Americanah” của Chimamanda Ngozi Adichie

    Cuốn tiểu thuyết này của Adichie khám phá trải nghiệm của một phụ nữ trẻ người Nigeria nhập cư vào Hoa Kỳ, va chạm đến các vấn đề chủng tộc, bản sắc và sự thích nghi văn hóa.

    Ifemelu và Obinze còn trẻ và yêu nhau khi họ rời Nigeria dưới chế độ quân phiệt và di cư sang phương Tây tìm đất sống. Ifemelu là cô gái xinh đẹp, tự tin. Cô đến Mỹ, nơi mặc dù thành công trong học tập nhưng lần đầu tiên cô buộc phải vật lộn với ý nghĩa của việc cô là người da đen. Còn Obinze trầm lặng, chu đáo, hy vọng được cùng cô đoàn tụ, nhưng khi nước Mỹ hậu 11/9 đóng cửa với anh, thay vì được gặp lại người yêu, anh lao vào một cuộc sống nguy hiểm, một cư dân lậu ở London.

    “There There / Đó! Đó” của Tommy Orange

    Cuốn tiểu thuyết của Tommy Orange miêu tả mạnh mẽ trải nghiệm của người Mỹ da đỏ bản địa sinh sống ở thành thị. Jacquie Red Feather tỉnh ngộ và đang cố gắng quay trở lại với gia đình mà cô đã từ bỏ. Dene Oxendene cố gắng sống lại sau cái chết của chú mình. Orvil mười bốn tuổi. Họ cùng đến tham dự một buổi lễ hội truyền thống vào một ngày định mệnh tại Big Oakland Powwow và cùng nhau thuật về hoàn cảnh khó khăn của người Mỹ da đỏ sống nơi đô thị, vật lộn với một lịch sử phức tạp và đau đớn, với di sản về cái đẹp và tâm linh, với sự hiệp thông và hy sinh, về chủ nghĩa anh hùng của dân tộc họ.
    Nhật báo New York Times gọi đó là “một cuốn sách viết với rất nhiều năng lượng sôi nổi và mang đến rất nhiều thông tin từ một góc riêng biệt của cuộc sống Mỹ đến mức nó là một sự khám phá.”

    “The Joy Luck Club / Câu lạc bộ Joy Luck” của Amy Tan

    Cuốn tiểu thuyết của Amy Tan đi sâu vào cuộc sống của các gia đình người Mỹ gốc Hoa nhập cư, khám phá những khác biệt về thế hệ và văn hóa thông qua những câu chuyện liên kết với nhau.

    Bốn người mẹ, bốn cô con gái, bốn gia đình mà lịch sử của họ thay đổi theo chiều gió tùy vào người “thuật” câu chuyện. Năm 1949, bốn phụ nữ Trung Hoa, những người mới nhập cư đến San Francisco, bắt đầu gặp nhau để ăn dim-sum, chơi mạt chược và trò chuyện. Gặp nhau trong sự mất mát, họ vui sướng tự gọi mình là Câu lạc bộ Joy Luck. Thay vì chìm vào bi kịch, họ tìm cách gặp gỡ nhau để nâng cao tinh thần và thậm chí kiếm tiền. “Tuyệt vọng là mong muốn quay lại một điều gì đó đã mất. Hoặc kéo dài những gì không thể chịu đựng nổi.” Bốn mươi năm sau những câu chuyện và lịch sử vẫn tiếp diễn.
    Với sự minh triết và nhạy cảm, Amy Tan xem xét mối liên hệ đôi khi đau đớn, thường dịu dàng và luôn sâu sắc giữa những bà mẹ và con gái của họ. Khi mỗi người phụ nữ tiết lộ bí mật của mình, cố gắng làm sáng tỏ sự thật về cuộc đời mình, những sợi dây thắt buộc càng chặt hơn. Amy Tan là người kể chuyện sắc sảo, có cách lôi cuốn người đọc chìm đắm vào những cuộc sống phức tạp và bí ẩn.

    Cuốn sách được Hollywood dựng thành một cuốn phim lớn. Nữ tài tử Kiều Chinh của Việt Nam được chọn thủ diễn vai một trong bốn bà mẹ Trung Hoa.

    [​IMG]
    Diễn viên Kiều Chinh (bên trái) trong vai một bà mẹ Trung Hoa –
    Phim The Joy Luck Club. (Ảnh: Tư liệu Kiều Chinh)
    .​

    “Speak No Evil / Không nói điều ác” của Uzodinma Iweala

    Cuốn tiểu thuyết này kể câu chuyện của một thiếu niên người Mỹ gốc Nigeria đối mặt với căn tính và giới tính của mình, giải quyết các vấn đề về chủng tộc, tôn giáo và gia đình.

    Trong cuốn tiểu thuyết, một tiết lộ được chia sẻ giữa hai thiếu niên con nhà giàu có từ những hoàn cảnh rất khác nhau đã gây ra một chuỗi sự kiện với những hậu quả tàn khốc.

    Bề ngoài, Niru có một cuộc sống đầy đủ. Được nuôi dưỡng tử tế, cậu là học sinh giỏi giang và là ngôi sao điền kinh tại một trường trung học tư thục danh tiếng. Cậu chuẩn bị nhập học trường Harvard với một triển vọng tươi sáng. Nhưng Niru có một bí mật đau đớn: Cậu là người đồng tính, một tội lỗi ghê tởm đối với cha mẹ người Nigeria bảo thủ. Không ai biết ngoại trừ Meredith, người bạn thân nhất của cậu, và cô gái dường như không phán xét cậu.

    Khi cha cậu vô tình phát hiện ra Niru là người đồng tính, hậu quả ập đến thật tàn bạo và nhanh chóng. Tuy nhiên, khi đối mặt với những rắc rối của riêng mình, Meredith nhận ra rằng cô không còn nhiều cảm xúc để giúp đỡ Niru nữa. Khi hai người bạn đấu tranh để dung hòa ước muốn của mình với những kỳ vọng từ kẻ khác, họ thấy mình đang hướng tới một tương lai bạo lực và vô nghĩa hơn những gì họ có thể tưởng tượng. Cả hai đều không thoát khỏi sự tổn thương.

    Tương tự như cuốn Americanah của Chimamanda Ngozi Adichie, Speak No Evil khám phá ý nghĩa của sự khác biệt trong một xã hội tuân thủ những gì được xem là cơ bản và sự khác biệt đó diễn ra như thế nào trong cuộc vật lộn nội tại và ngoại tại của chúng ta. Nó là một cuốn tiểu thuyết về sức mạnh của ngôn từ và sự tự nhận bản sắc, về ai có quyền lên tiếng và ai có quyền lên tiếng thay kẻ khác. Cuốn tiểu thuyết thứ hai của Uzodinma Iweala này đi sâu vào cốt lõi của con người chúng ta và khiến chúng ta đảo lộn theo nó.

    “The Book Thief / Kẻ trộm sách” của Markus Zusak

    Cuốn tiểu thuyết này thuật cuộc đời của một cô gái trẻ ở Đức dưới thời Quốc xã. Nó khám phá các chủ đề về nhân loại, tình yêu và tác động của chiến tranh.

    Là cuốn sách “best-seller” bán chạy nhất của New York Times và được thực hiện thành một bộ phim lớn, câu chuyện khó quên của Markus Zusak là về khả năng sách có thể nuôi dưỡng tâm hồn. Được “The Great American Read” thuộc kênh truyền hình PBS đề cử là một trong những tiểu thuyết được yêu thích nhất nước Mỹ.

    Khi Thần Chết có chuyện muốn kể, bạn hãy lắng nghe. Đó là năm 1939. Đức Quốc xã. Đất nước đang nín thở. Thần Chết chưa bao giờ bận rộn hơn thế và sẽ còn bận rộn hơn nữa. Liesel Meminger là một cô gái sinh sống bên ngoài Munich, cô tự kiếm sống bằng nghề ăn trộm khi gặp phải thứ mà cô không thể cưỡng lại – sách. Với sự giúp đỡ của người cha nuôi chơi đàn phong cầm, cô học cách đọc và chia sẻ những cuốn sách ăn trộm của mình với hàng xóm trong lúc nép mình dưới bom đạn, cũng như với người đàn ông Do Thái ẩn trốn dưới tầng hầm nhà cô.

    Bằng lối viết tuyệt vời, cháy bỏng với cường độ cao, tác giả từng đoạt giải thưởng Markus Zusak, tác giả cuốn I Am The Messenger / Tôi là sứ giả đã mang đến cho chúng ta một trong những câu chuyện có sức sống trường tồn nhất trong kỷ nguyên hiện đại.

    “Loại sách có thể thay đổi cuộc đời bạn.” New York Times phê bình như thế.

    “Xứng đáng được đặt trên cùng kệ sách với cuốn ‘Nhật ký Anne Frank.’” Là lời bình của báo USA Today.

    “The Kite Runner / Người thả diều” của Khaled Hosseini

    Cuốn tiểu thuyết của Hosseini lấy bối cảnh là Afghanistan và khám phá các chủ đề về tình bạn, sự phản bội và sự cứu chuộc trong bối cảnh lịch sử đầy biến động của đất nước này.

    Afghanistan, từ những ngày cuối của chế độ quân chủ đến thời hiện tại, Người thả diều là câu chuyện được kể rất hay và khó quên về tình bạn giữa hai cậu bé lớn lên ở Kabul. Lớn lên trong cùng một gia đình và có cùng một vú nuôi, Amir và Hassan lớn lên ở hai thế giới khác nhau: Amir là con trai của một nhân vật nổi tiếng và giàu có, còn Hassan, con trai người hầu của cha Amir, là người Hazara – một sắc dân thiểu số bị ngược đãi, xa lánh. Cuộc sống đan xen và số phận của hai cậu trai phản ánh bi kịch cuối cùng của thế giới xung quanh. Khi cha con Amir trốn khỏi đất nước để có cuộc sống mới ở California, Amir nghĩ rằng mình đã thoát khỏi quá khứ. Tuy nhiên, cậu không thể bỏ lại ký ức về Hassan sau lưng mình.

    Người thả diều là một cuốn tiểu thuyết về tình bạn và sự phản bội cũng như về cái giá của lòng trung thành. Nó nói về mối quan hệ giữa cha-con, cũng như quyền lực của cha đối với con – tình yêu thương, sự hy sinh và sự dối trá. Được viết trên bối cảnh lịch sử chưa từng được thuật bao giờ trong tiểu thuyết trước đây, cuốn sách mô tả nền văn hóa phong phú và vẻ đẹp của một vùng đất đang trong quá trình bị tàn phá. Nhưng qua sự tàn phá, Khaled Hosseini mang đến hy vọng được cứu chuộc.

    “Little Fires Everywhere / Những ngọn lửa nhỏ ở mọi nơi” của Celeste Ng

    Cuốn tiểu thuyết của Celeste Ng (Ngô trong tiếng Việt) khám phá sự phức tạp của chủng tộc, giai cấp và đặc quyền trong bối cảnh một cộng đồng ở ngoại ô thuộc bang Ohio. Shaker Heights là một vùng ngoại ô yên tĩnh, tiến bộ của thành phố Cleveland, nơi mọi thứ đều có kế hoạch quy định, từ cách bố trí những con đường quanh co, màu sắc của những ngôi nhà cho đến cuộc sống thành công mà cư dân nơi đây hướng tới. Và không ai thể hiện tinh thần này hơn Elena Richardson, người có nguyên tắc chỉ đạo là tuân thủ luật lệ.

    Thế rồi một hôm Mia Warren – một nghệ sĩ có quá khứ bí ẩn, một bà mẹ đơn thân – cùng với cô con gái tuổi teen của mình, Pearl, đến thuê một căn nhà từ gia đình Richardson. Chẳng bao lâu Mia và Pearl trở thành cái gì khác hơn là người thuê nhà. Cả bốn người con của Richardson đều bị thu hút bởi cặp mẹ con nghệ sĩ. Nhưng Mia mang trong mình một quá khứ bí ẩn và sự coi thường hiện trạng đời sống của cô có nguy cơ đảo lộn cộng đồng nơi trật tự được gìn giữ thật cẩn thận.

    Khi người bạn cũ của gia đình Richardson nhận một em bé người Mỹ gốc Hoa làm con nuôi, một cuộc chiến giành quyền nuôi con nổ ra khiến thị trấn bị chia cắt một cách trầm trọng. Mia và Elena ở vào hai phe đối lập. Nghi ngờ Mia và động cơ của cô, Elena quyết tâm khám phá những bí mật trong quá khứ của Mia. Nhưng với nỗi ám ảnh của mình, Elena đã phải trả những cái giá bất ngờ và tàn khốc.

    “Purple Hibiscus / Hoa dâm bụt tím” của Chimamanda Ngozi Adichie

    Một tác phẩm khác của Adichie, cuốn tiểu thuyết này kể về câu chuyện trưởng thành của một cô gái trẻ ở Nigeria thời hậu thuộc địa, đề cập đến các chủ đề về gia đình, tôn giáo và tình trạng bất ổn chính trị.

    Chimamanda Ngozi Adichie là nhà văn đoạt giải O Henry năm 2003. Trong cuốn Purple Hibiscus bà thuật lại câu chuyện về một cô gái trẻ người Nigeria đi tìm tự do. Mặc dù cha cô rất được tôn trọng trong cộng đồng, nhưng Kambili, 15 tuổi, biết rõ khía cạnh nghiêm khắc và ngược đãi đáng sợ của người mình gọi là cha này. Về nhiều mặt, cô và gia đình có một cuộc sống đặc quyền, nhưng Kambili và anh trai cô, Jaja, thường bị trừng phạt vì không đáp ứng được kỳ vọng của người cha. Sau khi đến thăm dì và các anh chị em họ, Kambili mơ ước được trở thành thành viên của một gia đình yêu thương. Nhưng một cuộc đảo chính quân sự mang lại căng thẳng mới cho Nigeria và ngôi nhà của cô, Kambili tự hỏi liệu ước mơ của cô có bao giờ thành hiện thực.

    Ngôn ngữ đầy chất thơ và ấn tượng của Adichie mở ra một vùng đất và một gia đình đầy xung đột nhưng phải đấu tranh để sinh tồn.

    “The Sympathizer / Cảm tình viên” của Việt Thanh Nguyễn

    Cuốn tiểu thuyết đoạt giải Pulitzer này viết về trải nghiệm của một điệp viên cộng sản Việt Nam nằm vùng tại Mỹ. Nó mang đến một góc nhìn độc đáo về chiến tranh Việt Nam. Khi cuốn sách ra mắt đại chúng, và được tiếp đón một cách nồng nhiệt khắp nơi, tôi đã có một bài “điểm sách” bằng tiếng Việt nhằm giới thiệu đến độc giả Việt Nam trong cũng như ngoài nước. Xin trích đoạn:

    “Năm 2016, cuốn The Sympathizer đi vào lịch sử với giải thưởng Pulitzer bộ môn văn học, giải thưởng cao quý nhất của Hoa Kỳ, trao tặng hằng năm cho những tác giả xuất sắc nhất thuộc các ngành văn chương, báo chí. Trước đó cuốn sách đã được văn giới Bắc Mỹ không tiếc lời ca ngợi như một tác phẩm tiểu thuyết sâu sắc, có chiều kích lịch sử và chính trị cao rộng; là tiếng nói mới đầy khích động trong văn học Mỹ; là cuốn tiểu thuyết bắt người ta phải đánh giá lại chẳng những chiến tranh Việt Nam mà cả cặp phạm trù chính trị-văn hóa; là một tác phẩm văn học đúng nghĩa nhất bởi nó ‘mở rộng ý thức con người ra khỏi giới hạn của thân xác và những cảnh huống cá nhân.’”

    Nhà văn Mỹ, ông Robert Olen Butler, một nhà văn viết nhiều về Việt Nam, cũng đoạt giải Pulitzer với cuốn A Good Scent from a Strange Mountain / Bửu Sơn Kỳ Hương, nói về Việt Thanh Nguyễn như sau:

    “Việt Thanh Nguyễn chẳng những đã đem lại tiếng nói hiếm hoi và trung thực cho khối tác phẩm văn học Mỹ viết về chiến tranh Việt Nam, với cuốn sách, anh còn vượt qua những đường biên lịch sử, chính trị, quốc gia, và nói lên được chủ đề muôn thuở trong văn học: cuộc kiếm tìm bản ngã và bản nguyên ở tầm mức phổ quát. The Sympathizer là một tác phẩm đầu tay sáng chói của một nhà văn có chiều sâu và tài năng.”

    Cuốn sách đang được kênh truyền hình HBO thực hiện một bộ phim nhiều tập, nữ tài tử Kiều Chinh thủ diễn vai bà mẹ trong truyện.

    Những cuốn sách liệt kê bên trên đại diện cho nhiều thể loại và chủ đề khác nhau, mang đến cho người đọc cơ hội khám phá những giọng điệu và tự sự đa dạng. Điều đáng chú ý là bối cảnh văn học đa dạng không ngừng phát triển và nhiều tiếng nói mới và thú vị tiếp tục đóng góp cho xu hướng quan trọng này. Cộng đồng người Việt hải ngoại hãnh diện có một Việt Thanh Nguyễn trong danh sách những tiểu thuyết gia Mỹ đương đại hàng đầu góp phần không nhỏ cho tính đa dạng và hòa nhập trong văn học. Chắc chắn đó là nguồn cảm hứng cho nhiều cây bút trẻ có tiềm năng và mơ ước.

    Trịnh Y Thư
     
    Wanderman thích bài này.
  5. Wanderman

    Wanderman Lớp 4

    Mình cực thích cuốn "Trên đường" của Jack Kerouac
     
  6. amylee

    amylee Super Moderator Thành viên BQT

    Đã có bản tiếng Việt? Để mình thêm vào list sẽ đọc và tìm hiểu hihi.
     
    Wanderman thích bài này.
  7. Wanderman

    Wanderman Lớp 4

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     
    amylee thích bài này.
  8. Wanderman

    Wanderman Lớp 4

    Post thêm bài đi @amylee ơi! Nhớ để link blog nhé.
     
    amylee thích bài này.
  9. amylee

    amylee Super Moderator Thành viên BQT

    Một số nguyên tắc và thực trạng hoạt động dạy học văn học nước ngoài ở trường THPT
    ThS. Nguyễn Thị Tuyết

    Lịch sử dân tộc và nhân loại đã chứng minh, thời kỳ nào, dân tộc nào quan tâm đến văn hóa, đến khoa xã hội và nhân văn, thì thời kỳ đó thịnh trị, phát triển; ngược lại thì suy thoái là chung cục không thể tránh khỏi.

    Sự phát triển theo xu hướng xã hội tiêu thụ đã khiến con người quay lưng với văn chương và khoa xã hội nhân văn nói chung. Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học văn đã trở thành điểm nóng, là vấn đề đáng quan ngại của toàn xã hội. Ở đây, chúng tôi chỉ xin trình bày một số nguyên tắc và một số kiến nghị giải pháp về hoạt động dạy học phân môn Văn học nước ngoài (VHNN) ở trường Trung học phổ thông (THPT).

    Một số nguyên tắc và thực trạng hoạt động dạy học VHNN


    – Dạy học VHNN qua bản dịch nhưng phải đảm bảo tinh thần, giá trị nguyên tác

    Văn bản văn học là trung tâm của mọi hoạt động tiếp nhận. Vì vậy, muốn dạy học tốt thì phải trực tiếp tiếp xúc với văn bản. Tuy nhiên, dạy học VHNN vô cùng bất cập khi không thể phân tích trực tiếp từ nguyên bản (vì rào cản ngôn ngữ), đặc biệt là phân tích thơ mà qua bản dịch là việc làm quá sức, nên chúng tôi không muốn nội dung chương trình quá nhiều thơ (cho dù đó là thơ chữ Hán có phiên âm).


    Hướng đến tinh thần nguyên tác thì bản thân giáo viên (GV) và HS phải tìm đọc đầy đủ về tác phẩm và những vấn đề liên quan đến tác phẩm, tác giả. Điều này cần một sự đam mê và nỗ lực của thầy lẫn trò, bên cạnh đó là yếu tố thời gian.

    Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động dạy học VHNN thường chỉ dạy qua bản dịch và trích đoạn trong sách giáo khoa (SGK), vì GV và HS thiếu tài liệu, thiếu thời gian, thậm chí rất nhiều HS hiếm khi đọc đoạn trích trước khi lên lớp. Vì vậy, hoạt động dạy học VHNN ở trường THPT phần lớn rất nhàm chán và thường là hoạt động “áp đặt” kiến thức của GV.

    Dạy học VHNN đảm bảo đặc trưng văn hóa vùng miền, hướng tới tính dân tộc và tính nhân loại

    Đặc trưng VHNN không chỉ là sự khác biệt về ngôn ngữ mà còn là một khoảng cách rộng lớn về thời gian và không gian. Đó là khoảng cách văn hóa. Người Việt không phải ai cũng hiểu được văn hóa bản xứ, huống gì văn hóa nước ngoài là cả một sự thách đố đối với bất cứ ai. Mỗi tác phẩm văn học đều được sáng tạo trên một cơ tầng văn hóa, và chịu sự tác động của những quy luật tự nhiên và xã hội cho nên tác phẩm văn học vừa mang tính dân tộc, vừa mang tính nhân loại.

    Muốn khai thác được đặc trưng văn hóa thì phải đặt tác phẩm đúng hoàn cảnh mà tác phẩm đó ra đời. Tức là phải tìm hiểu về đặc điểm thời đại, hoàn cảnh sáng tác, tập tục xã hội, tâm lý, quan niệm đạo đức thẩm mỹ của dân tộc,… để từ đó phân tích văn bản một cách hợp lý hơn.

    Trên thực tế hoạt động dạy học, một phần không nhỏ HS rất yếu kém về phương diện này, dẫn đến nhầm lẫn, suy diễn một cách ngây ngô, hiểu sai nội dung tư tưởng tác phẩm. GV cũng không có và không giành nhiều thời gian cho mục này nên hiệu quả tiếp nhận, chiếm lĩnh tác phẩm là thấp.

    – Dạy học VHNN theo đúng đặc trưng thể loại

    Đây là nguyên tắc chung khi chúng ta tìm hiểu bất kỳ tác phẩm văn học nào. Dạy học VHNN càng phải đáng lưu ý. Bởi đặc trưng thi pháp theo thể loại là khác nhau. Cùng là thơ, nhưng thơ Đường thì thường phân tích theo cấu trúc đề, thực, luận, kết (thơ Thất ngôn bát cú) hoặc khai, thừa, chuyển, hợp (thơ Thất ngôn tứ tuyệt), theo niêm luật, cấu tứ, bút pháp khác hẳn với đặc trưng thơ Hai-cư là mỹ cảm sabi (tịch liêu), wabi (đơn sơ), aware (bi ai), karumi (thanh thoát), yugen (u huyền),… Bên cạnh những điểm chung là những hình ảnh, bút pháp giàu sức gợi.

    Dạy học theo đặc trưng thể loại sẽ giúp HS chiếm lĩnh tác phẩm một cách dễ dàng và khoa học hơn, đồng thời hình thành ở các em kiến thức cơ bản về đặc điểm thể loại trong những bước đầu của hoạt động nghiên cứu và sáng tạo nghệ thuật.

    Nguyên tắc này trong hoạt động dạy học đã được GV quan tâm ở thể loại thơ Đường, tuy nhiên với văn xuôi và kịch, đặc biệt là kịch thì dường như còn rất xa lạ với HS, vì hai nguyên nhân cơ bản sau: thứ nhất, các em chưa được tiếp xúc nhiều với kịch; thứ hai, kịch gắn liền với hoạt động diễn xuất trên sân khấu, học văn bản kịch đơn thuần thì rất khó thể hiện hết đặc trưng của thể loại.

    – Dạy học VHNN theo tinh thần tích hợp với các phân môn khác

    Các phân môn khác trong môn văn như: văn học Việt Nam, Tiếng Việt, Làm văn, Văn học sử,… và các bộ môn khác như lịch sử, địa lý,…

    Dạy học VHNN không chỉ là học những kiến thức về VHNN mà nhằm củng cố thêm kiến thức về Văn học Việt Nam và tìm ra những nét gần gũi, ảnh hưởng đến Văn học Việt Nam, để các em thấy được sự phong phú đa dạng của các nền văn hóa và nét riêng của văn hóa nước ta. Ví như, khi dạy về anh hùng ca của Homer thì liên hệ đến thiên sử thi Ramayana của Ấn Độ và Sử thi Đăm Săn của Việt Nam để thấy được những đặc điểm chung của tinh thần thời đại và sự khác biệt văn hóa Đông Tây. Tích hợp với các bộ môn khác nhằm giúp các em có được kiến thức nền tảng vững chắc, đầy đủ và hệ thống hơn.

    Thực tế dạy học thì GV và HS chưa tìm ra nhiều mối liên hệ lẫn nhau giữa VHNN và các phân môn khác. Nguyên nhân là do GV chưa chú ý nhiều hoặc chưa thấy được sự thống nhất trong hệ thống kiến thức. Thứ nữa, là nội dung chương trình cũng không thể hiện nhiều mảng kiến thức cần được tích hợp.

    Từ sự phân tích một số nguyên tắc và thực trạng hoạt động dạy học trên, chúng tôi đề ra một số giải pháp như sau.

    Kiến nghị một số giải pháp: Đổi mới quan điểm và hoạt động dạy học


    Bên cạnh đổi mới mục tiêu dạy học là đổi mới quan điểm dạy học. Hoạt động dạy học phải lấy HS làm trung tâm, HS là chủ thể cảm thụ trong quá trình tìm hiểu tác phẩm, dạy những cái mà HS cần nhằm phát triển năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, hình thành kỹ năng gắn với nội dung thực tiễn.

    Trên cơ sở đổi mới quan điểm dạy học và nội dung chương trình, hoạt động dạy học cần phải khắc phục những tồn tại đã phân tích ở trên, bằng cách đảm bảo tối đa 4 nguyên tắc dạy học cơ bản như trên. Để đạt được điều đó, chúng ta cần:

    Thứ nhất, cần xem trong khâu đọc văn bản, và đọc bằng nhiều phương pháp khác nhau như đọc diễn cảm, đọc sáng tạo,… Bởi “đọc văn rèn luyện năng lực tri giác và tái tạo âm thanh, năng lực nhận thức ý nghĩa thống nhất của cú pháp và ngữ điệu. (…) hình thành kỹ năng truyền đạt hình tượng nghệ thuật…”[1].

    Xem trọng khâu đọc văn bản cũng là cách tốt nhất giảm thiểu tối đa việc đọc những “thế bản” (sách thiết kế giáo án, sách tham khảo, sách giáo viên,…) như cách nói của Gs Trần Đình Sử, đó là con đường “trở về với văn bản văn học”[2], đồng thời tạo cơ hội để học sinh trực tiếp cảm thụ tác phẩm tốt nhất bằng tất cả vốn sống, bằng sự rung động của trái tim và khối óc của mình, điều này rất phù hợp với quan điểm mỹ học tiếp nhận. Từ đó, có thể hình thành nhiều cách tiếp cận tác phẩm khác nhau, khám phá giá trị sâu sắc của tác phẩm trên cơ sở khoa học và đồng sáng tạo.

    Trên thực tế dạy học, đối với những tác phẩm văn xuôi có dung lượng hơi dài là GV không giành thời gian đọc (vì không có thời gian), nhưng chúng ta có thể đọc một đoạn đặc sắc nhất (trên lớp), và yêu cầu nghiêm khắc HS phải đọc trước văn bản, bằng cách kiểm tra hoạt động đọc ở nhà của HS bằng một hệ thống câu hỏi liên quan đến tác phẩm, để dần hình thành, phát triển ở các em thói quen tự học.

    Ngoài ra, GV có thể yêu cầu HS tóm tắt tác phẩm bằng sơ đồ đối với tác phẩm văn xuôi và chuyển thể văn bản sân khấu đối với tác phẩm kịch.

    Thứ hai, trong hoạt động dạy học trực tiếp sử dụng kết hợp nhiều phương pháp như đối thoại, nêu vấn đề, phát vấn, gợi mở, làm việc nhóm, dạy học tích hợp,… bên cạnh kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp nhằm tăng hiệu quả dạy học.

    GV là người tổ chức thiết kế, điều hành giờ học. HS chủ động tích cực trong hoạt động chiếm lĩnh tác phẩm, mạnh dạn trình bày và nhận xét ý kiến của nhóm, của bản thân, vừa đảm bảo tinh thần dân chủ, vừa giáo dục ý thức tôn trọng người khác.

    Đối với những điển tích, điển cổ, chỉ dẫn văn bản,… cần được hiểu đúng đắn gắn liền với đặc điểm văn hóa, lịch sử,… nhằm chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa ngôn ngữ với đời sống, để hiểu sâu tác phẩm hơn.

    Dạy học gắn với từng đơn vị kiến thức kỹ năng và đặc trưng thể loại nhằm hình thành ở các em cách tiếp cận tác phẩm, kiểu tư duy, hơn là nội dung kiến thức của tác phẩm.

    Thứ ba, là thay đổi cách ra đề thi, kiểm tra, đánh giá.

    Mục tiêu, nội dung, phương pháp và kiểm tra đánh giá có mối quan hệ thống nhất, biện chứng, vì vậy đổi mới cách kiểm tra đánh giá là điều tất yếu.

    Trước hết, cần thấy môn VHNN thường ít xuất hiện trong nội dung kiểm tra, thi cử. Thường VHNN chỉ xuất hiện trong đề thi tốt nghiệp THPT (20% trọng điểm đề thi), nội dung thường là những nét chính về cuộc đời sự nghiệp của tác giả, ý nghĩa nhan đề tác phẩm,… nghĩa là nội dung cần phải học thuộc. Vì vậy, cần đổi mới cách kiểm tra đánh giá theo hướng thay đổi nội dung và đa dạng hóa hình thức để có thể áp dụng vào nhiều kỳ thi, kiểm tra, đánh giá. Kiểm tra có thể tiến hành thường xuyên trong từng bài học, chứ không quá coi trọng những kỳ thì cuối kỳ, cuối năm, cuối cấp.

    Hướng đề thi “mở” đã được áp dụng trong những đề thi tuyển sinh gần đây[3], nhưng đó phần lớn là những câu làm văn nghị luận xã hội, còn VHNN chưa thấy xuất hiện. Hướng đề thi “mở” tránh được cách học chay, học tủ, học vẹt mà phù hợp với cách học chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh, đồng thời hạn chế được những tiêu cực trong thi cử (quay cóp, xem tài liệu). Và dạng đề “mở” là cách tốt nhất để phân hóa học sinh, để lựa chọn và bồi dưỡng những em có thiên khiếu văn chương thực thụ.

    Đa dạng hóa hình thức ra đề như trắc nghiệm khách quan (đối với những đơn vị kiến thức, kỹ năng mang tính nền tảng, lý luận) và đề tự luận (với kiến thức, kỹ năng, thái độ mang tính chất cảm thụ, chuyên sâu)…

    Thế giới hội nhập và Liên văn bản là hiện thực, là bản chất của văn học và đời sống ngày nay. Dạy học VHNN không chỉ mở ra trước mắt chúng ta những tầng tri thức văn hóa mới mẻ mà còn là cách để học sinh hiểu hơn văn hóa Việt Nam nhằm giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc với tinh thần “hòa nhi bất đồng, đồng nhi dị”, và hướng đến những giá trị nhân sinh, nhân bản tốt đẹp của Con Người.

    TÀI LIỆU THAM KHẢO

    [1]. Phan Trọng Luận (Chủ biên, 2003), Phương pháp dạy học văn, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.93

    [2]. Đặng Lưu, Phương pháp dạy học môn Ngữ văn.

    [3] Bùi Minh Tuấn, Nên khuyến khích dạng đề mở đối với môn ngữ văn.

    Nguồn: tapchinhavan.vn
     
    machine, Nhẫn nại and sucsongmoi like this.
  10. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 7

    Nguyễn Đình Thi trên sóng thời gian

    Trên Báo Văn Nghệ ra ngày 19/8/1994, Nguyễn Đình Thi có cho in một bài tuỳ bút ngắn tựa đề “Trên sóng thời gian”, trình bày những suy tư trầm tĩnh của mình nhân ngoảnh lại nửa thế kỷ tham gia cách mạng với những bước thăng trầm. Ông ngộ ra một chân lý giản dị mà sâu xa: “Những năm tháng ấy đã làm cho tôi tin mãi là con người, khi có một lẽ phải lớn để sống, thì có thể phát huy những tiềm năng hầu như vô tận bên trong mình, và làm được những việc tưởng chừng không thể làm nổi”.

    Nghĩ tiếng Việt thật thú vị. Một người khác có thể đã dùng chữ “lý tưởng”, nghe oai hơn, mà chưa chắc đã thấm bằng. Nguyễn Đình Thi dùng “lẽ phải”, rất nôm mà hàm súc, chân thực. Trong “lẽ phải” đâu chỉ có “chân lý”, “triết lý” không thôi, còn bao gồm cả “đạo lý”, lại cả “pháp lý” nữa. Gồm chứa đủ cả như vậy, nên lẽ phải lớn dễ thu phục được nhân tâm. Người trí thức thường dễ tâm phục khẩu phục trước những lẽ phải như thế. Có nó là có tín lý, tín niệm, có được con đường sáng mà vững bước trong đời, nhờ đó mà phát huy được những năng lực kì diệu. Sau này, Nguyễn Đình Thi cũng đã đúc kết: “Không sợ thiếu niềm tin / Sợ không nhận ra lẽ phải để tin”.
    Thật may mắn cho ai, có được lẽ phải lớn để yên tâm chung thuỷ suốt đời, dù vẫn biết rằng, ngay cả những lẽ phải lớn cũng không hoàn toàn bất di bất dịch. Chẳng biết Nguyễn Đình Thi có thuộc số may mắn ấy không. Nhưng, về căn bản, ông vẫn là một trí thức yêu nước, một nghệ sĩ cách mạng với những tâm niệm về lẽ phải lớn của cuộc đời. Điều đáng nói là: ông vừa hồ hởi bước theo vừa lặng thầm chiêm nghiệm. Hơn tám mươi năm thăng giáng với đời, già nửa thế kỉ cầm bút, bao tâm niệm khôn nguôi kia đã hoá thân vào những sáng tạo đa dạng mà phần tinh hoa của nó hẳn sẽ còn trên sóng thời gian.

    *

    Nguyễn Đình Thi thuộc típ trí thức nhập cuộc, dấn thân vào thời thế. Con đường nhập mình vào thời đại lớn của ông vừa do cảnh ngộ riêng, vừa nhờ vận hội, vừa bởi sự thôi thúc kiếm tìm một lẽ phải lớn để sống. Trải qua một tuổi thơ buồn cùng gia đình long đong, trôi dạt trên bước đường sinh nhai, hết ở Lào lại về Hà Nội, xuống Hải Phòng, vào Chợ Lớn… tuy liên tục bất ổn, xáo trộn như vậy, nhưng niềm ham mê với sách vở học hành trong ông không hề đứt đoạn giảm sút. Giã từ tuổi thơ lận đận, Nguyễn Đình Thi đến với tuổi thanh niên sôi nổi, không ít gian khổ, cay đắng nhưng cũng đầy vinh quang. Kể từ 1941, ông về lại Hà Nội học tập và tích cực tham gia đấu tranh trong phong trào học sinh sinh viên. Việc ông lao vào tìm hiểu và viết những tiểu luận triết học về Aristôt, Đêcactơ, Kăngtơ, Nitxơ đến Đacuyn, Anhxtanh… không chỉ vì muốn xây dựng căn bản tư tưởng cho một thanh niên tân học, mà còn là những bước mầy mò tìm kiếm cái lẽ phải lớn cho một trí thức tương lai. Rồi ông tham gia hoạt động bí mật trong Mặt trận Việt Minh, cùng thành lập hội Văn hoá cứu quốc. Cứ thế, người trí thức trẻ ấy nhập vào mạch sống lớn của dân tộc. Từ 1942 đến 1944, ông đã hai lần bị giặc Pháp bắt giam, nhưng những tai ương chỉ càng khiến ông gắn chặt hơn với Cách mạng. Có lẽ chính trong những ngày này, vừa lăn lộn trong trường tranh đấu vừa được tiếp xúc với sách báo Macxit, ông mới thấy một cách sâu sắc rằng lẽ phải lớn của người trí thức là phải gắn bó vận mệnh của mình với cuộc Cách mạng này. Vừa hoạt động, ông vừa bắt đầu sáng tác nghệ thuật phục vụ Cách mạng. Sang năm 1945, ông được cử đi dự Quốc dân Đại hội Tân Trào, được bầu vào Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam, rồi tham gia cướp chính quyền. Sau Tổng khởi nghĩa, ông được cử làm Tổng thư ký Hội Văn hoá cứu quốc, làm uỷ viên Uỷ ban dự thảo Hiến pháp, Uỷ ban thường trực Quốc hội. Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, ông lại tích cực tham gia tổ chức hoạt động Văn hoá kháng chiến. Cứ thế, qua hai cuộc chiến tranh, vào ngày thống nhất đất nước và bước sang thời kì đổi mới, người trí thức nghệ sĩ này vừa luôn nắm giữ nhiều cương vị lãnh đạo chủ chốt của nền văn nghệ cách mạng, vừa không quên sáng tác trên nhiều lĩnh vực. Đến tận tuổi tám mươi, ông vẫn giữ chức Chủ tịch Uỷ ban toàn quốc liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, không ngừng điều hành công tác. Cả khi phải vào viện điều trị căn bệnh ung thư giai đoạn cuối, cũng chính là lúc ông đang tham gia cuộc họp Uỷ ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Những cống hiến nhiều mặt, những thành đạt, những giải thưởng lớn được trao tặng, trong đó có giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu (1996) đã là minh chứng hùng hồn cho lựa chọn tỉnh táo của một trí thức theo Cách mạng trong thời đại này.

    *​
    Không chỉ quyết định đến việc lựa chọn mẫu người trí thức thời đại, lẽ phải lớn kia còn khiến Nguyễn Đình Thi đến với một mẫu nghệ sĩ thích hợp nữa: nghệ sĩ - chiến sĩ. Mặc dù trước tác từ ngày tiền khởi nghĩa, nhưng Nguyễn Đình Thi không thuộc lứa tiền chiến. Không có hào quang, cũng không có những bận lòng của lứa nghệ sĩ cũ đi theo Cách mạng. Không phải trăn trở “lột xác”, cũng không phải vật lộn “nhận đường” như những cây bút nặng căn với quá khứ Lãng mạn và Hiện thực của mình. Trái lại, người trí thức trẻ đã nhanh chóng nhập cuộc này còn nhanh nhạy giúp các đồng nghiệp nhận đường nữa. Cách mạng đã cho ông lẽ phải lớn ngay từ bước đầu, thì cũng ngay từ bước đầu, ông đã viết bằng và viết cho lẽ phải lớn ấy. Nghĩa là ông đã phụng sự cách mạng bằng tâm huyết sáng tạo của mình. Với những ca khúc “Diệt phát xít” như một tráng ca và “Người Hà Nội” như một giao hưởng thu nhỏ, khởi đầu cho nghiệp văn nghệ, người ta đã thấy đề tài lớn của Nguyễn Đình Thi là Đất nước và Cách mạng, mà âm hưởng chủ đạo là chính khí ca và anh hùng ca. Vào cuộc kháng chiến, trong cương vị một người lính kiêm nhà văn, ông lăn lộn với thực tế chiến trường vừa cầm bút vừa cầm súng. Cây bút trong tay ông cũng thực sự thành cây súng xung kích trên mặt trận văn hoá. Sáng tác của ông về căn bản là những trang hoặc phản ánh kịp thời chiến sự nóng bỏng như tập kí “Thu Đông năm nay”, truyện ngắn “Bên bờ sông Lô” (viết trong cuộc chống Pháp, nhưng in thành sách sau hoà bình), tiểu thuyết “Xung kích” (1951), “Vào lửa” (1966), “Mặt trận trên cao” (1967), hoặc tái hiện lại những ngả đường tìm về cách mạng, hình thành cơn bão lịch sử trong bức tranh hoành tráng như “Vỡ bờ” (2 tập - 1962 và1970). Mà ở đâu cũng là ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam. Cũng như thế, thơ Nguyễn Đình Thi căn bản là sự suy tư về đất nước và người lính. Không phải ngẫu nhiên mà hình tượng tổng quát, bao trùm mọi trang thơ của ông là một cuộc trường chinh đầy lửa máu của cách mạng với “những đêm dài hành quân nung nấu”, những “đoàn quân vẫn đi vội vã - Bụi Trường Sơn nhoà trời lửa”. Cũng không hề ngẫu nhiên mà nổi lên trong trường tranh đấu đó là hình tượng người chiến sĩ: “Ôm đất nước những người áo vải - Đã đứng lên thành những anh hùng”. Và ở trang nào cũng là hình tượng một đất nước Việt Nam “vất vả đau thương tươi thắm vô ngần”, một “Nước Việt Nam từ máu lửa - rũ bùn đứng dậy sáng loà”. Vì thế, trước hết nghệ thuật Nguyễn Đình Thi đã góp phần cổ vũ tinh thần chiến đấu cho những người cầm súng.
    *​
    Nhưng đó mới là một nửa của cái lẽ phải lớn kia. Trong ông còn có những suy tư không đơn giản về lẽ đời. Con người ta thường là một khối toàn vẹn trong đó chứa đựng các đối cực không ngừng tương tranh với nhau. Vừa tin vào những lẽ phải lớn vừa không nguôi trăn trở hoàn thiện lẽ phải lớn ấy cho mình chính là một cặp đối cực như thế. Bởi trong cuộc sống bộn bề muôn mối này, có phải đâu mọi chuyện đều thuần nhất, dễ thống nhất. Có nhiều giằng co, giằng xé đôi khi biến tâm tư thành một bãi chiến trường. Ví như, trong cuộc trường chinh kia vị thế của cá nhân như thế nào? Giữa tình cảm nhỏ và tình cảm lớn làm sao có được sự hài hòa? Giữa khát vọng và bổn phận có phải lúc nào cũng có tiếng nói chung?… Trong tình thế không hoá giải được xung đột, con người ta thường tìm cách hòa giải. Nguyễn Đình Thi đã hoà giải bằng tinh thần tự nguyện. Nghĩa là chấp nhận hi sinh cái riêng cho cái chung, hi sinh khát vọng cho bổn phận, tìm mối tương liên trong chia lìa xa cách, tự tìm lấy tái sinh trong mất mát âm thầm: “Bao nhiêu năm - Mỗi chúng ta phải không em - Như hạt thóc trong nắm tay Cách mạng - Tung lên giữa mùa gió lớn”. Dù mất mát tổn thất thế nào vẫn phải sống, vẫn âm ỉ nảy mầm: “Những hạt thóc rơi - Trên đất bùn hay sỏi đá - Trên than bụi đầm máu - trên nước mắt mồ hôi - Chết đi vẫn nuôi màu cho đất - Sống thì từng giờ âm ỉ - Hạt thóc vẫn nảy mầm”. Không gặp nhau trong đoàn tụ thì đành tin nhau trong xa cách: “Trăng soi khuôn mặt nghìn yêu dấu - Ngày mai hai đứa đã hai nơi - Hai đầu đất nước trong giông bão - Cùng chung chiến đấu hai phương trời”, cũng tựa như cách “hai đứa đoàn tụ / hai đầu chiến trường” của Chính Hữu vậy. Nảy sinh từ cuộc trường chinh kia thì cũng suốt đời gắn với những bước trường chinh đó: “Ngọn lửa trong đêm không bao giờ tắt / Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời”. Nhìn vào lòng mình, nếu hiện lằn ranh tình yêu lớn / nhỏ thì tự tìm một gạch nối: “Anh yêu em như anh yêu đất nước / Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần”. Thậm chí, sự hoà giải nhiều khi thật ngộ nghĩnh: “Anh ôm em và ôm cả cây súng trường bên vai em”. Lẽ phải lớn lúc này là tự nguyện hy sinh. Hy sinh đầy trăn trở chứ không phải nông nổi thiêu thân. Vì thế trong sáng tác Nguyễn Đình Thi, bên cạnh một con người hồ hởi kiên trì, luôn có một con người chiêm nghiệm không nguôi về những lẽ đời. Nhiều lúc không dễ nói lên, nhưng vẫn phải thốt lên. Ai đã đọc đã xem vở “Rừng trúc”, hẳn không thể quên những xung đột giữa Trần Thủ Độ và Lý Chiêu Hoàng. Một đằng là đại diện cho quyền lợi của vương triều mình mà sẵn sàng dày xéo lên tất cả, một đằng là cái tâm nguyện nhân bản muôn thuở của con người. Khiến cho lẽ phải của vương triều và lẽ phải của con người tranh chấp ứa máu. Bằng những lời đầy bi phẫn, Chiêu Hoàng đã nói với Thủ Độ như khắc một chân lý lớn, một đạo lý lớn: “Việc nước là lớn nhất, nhưng việc giữa người với người cũng không phải là nhỏ hơn”. Càng về sau những chiêm nghiệm của Nguyễn Đình Thi về lẽ phải lớn không còn bó hẹp trong cái nhất thời, mà muốn mở rộng ra với lẽ phải lớn của muôn đời. Hàng loạt vở kịch “Con nai đen” (1961), “Nguyễn Trãi ở Đông Quan” (1979), “Tiếng sóng” (1980), “Người đàn bà hoá đá” (1980), “Cái bóng trên tường” (1982), “Trương Chi” (1983), “Hòn cuội” (1986)… đều là những trăn trở khác nhau về những lẽ phải muôn đời của tình người. Trong những bài thơ cuối đời, chiêm nghiệm khôn nguôi đã giúp nhà nghệ sĩ nhận chân ra nhiều lẽ phải sáng giá: “Sự sống luôn tự mở đường qua tất cả”, “Đã mấy mươi năm trong bão lửa / Tình quê hương đưa dắt con người”, “Cái không mất thường ở trong nước mắt”, “Tình yêu dắt đời người trong sóng gió / Đau thương lặng gieo hạt giống nhân từ”, “Còn lại niềm thương đau im lặng / Và tình yêu đi mãi cùng ta”… Có thể nói, với những suy tư như thế, người trí thức ở Nguyễn Đình Thi đã cố điều chỉnh, bổ sung cho cái lẽ phải ban đầu mình tưởng đã là lớn nhất và hằng nhất nhất tâm niệm. Gắng làm cho nó nhân bản hơn, chân thực hơn và cũng tầm vóc hơn.*Trăn trở với lẽ phải lớn của cuộc đời, Nguyễn Đình Thi cũng dùng nó để soi tỏ chính mình. Dưới ánh sáng muôn đời của cái lẽ phải lớn mà cuối đời ông thật sự nghiệm ra và gắng hoàn thiện ấy, người nghệ sĩ này đã xét duyệt mình nghiêm khắc, sòng phẳng biết bao. Có lúc lời thơ mà như những lời trăng trối: “Trên tay cốc nhỏ không đầy / Uống chúc bạn bè ở lại / Anh chắt đời anh chắt mãi / Chút ngọt bùi chút đắng cay / Người tôi còn nhiều bùn tanh / Mặt tôi nhuốm màu xanh đỏ / Tay tôi vướng nhiều đồ bỏ / Nhiều dây nhợ tự buộc mình / Thôi xin tha cho mọi lỗi lầm / Quên những dối lừa khoác lác / Tôi biết tôi đã nhiều lần ác / Và ngu dại còn nhiều hơn”. Với những ăn năn chân thành ấy, người trí thức sống trong đời kia đã cố vượt lên chính mình, cố hoàn thiện mình theo lẽ phải lớn của cuộc đời. Mong sao những lời ăn năn đó có thể hoá giải cho một cõi lòng tự lúc nào đã thành bãi chiến trường của bao vật lộn giằng co. Và những ký thác như trút lòng ra thế, sau này ông thường gửi gắm vào thơ. Có lẽ thơ là cái tiếng thì thầm tin cậy nhất đối với những trăn trở trong tâm linh cá thể.

    Có thể ai đó sẽ nghĩ, một trí thức như ông sao không thể hoàn thiện một lẽ phải lớn cho mình sớm hơn? Nhưng đòi hỏi thế nào được, kể cả những trí thức tỉnh táo nhất không phải lúc nào cũng ngộ ra, và không phải cứ ngộ ra là làm ngay được. Cái gì không làm được đành thì thầm cùng thơ.

    *​

    Nguyễn Đình Thi thuộc kiểu nghệ sĩ đa tài. Trong nghệ thuật, đây là một hiện tượng khá phổ biến. Nhưng tiếc rằng nó chưa được nhìn nhận đúng mức như một loại hình có quy luật nội tại. Thông thường, có hai quy luật chính chi phối những hiện tượng ấy là: thứ nhất, vừa phân tán vừa tập trung - hoạt động sáng tạo của họ mở ra khá nhiều lĩnh vực, nhưng lại thường nổi trội nhất ở một lĩnh vực nào đó; thứ hai, vừa phân liệt lại vừa liên thông - các lĩnh vực ấy có sự độc lập riêng nhưng giữa chúng vẫn có một mối dây liên hệ nào đó. Điều này làm nên tính đa dạng mà thống nhất của hiện tượng. Thế Lữ vừa viết văn, viết kịch, diễn kịch, làm thơ nhưng trội nhất vẫn là thơ. Hoàng Cầm viết truyện, viết kịch, nhưng thơ vẫn là mũi nhọn nhất. Quang Dũng viết văn, viết kịch, viết nhạc, vẽ tranh, nhưng kết tinh nhất là thơ. Văn Cao và Trịnh Công Sơn vừa viết nhạc vừa làm thơ vừa vẽ, nhưng phần vang dội nhất của họ vẫn là nhạc. Lưu Quang Vũ viết kịch, làm thơ, vẽ, nhưng nổi đình đám nhất vẫn là kịch… Nguyễn Đình Thi cũng thế. Ông viết nhạc, viết văn xuôi (cả ký và truyện, cả ngắn lẫn dài), viết tiểu luận (cả triết học lẫn văn học), viết kịch… nhưng trội nhất vẫn là thơ. Và thơ đã xâm nhập vào các thể khác của ông. Người ta thấy cả nhạc, văn xuôi, kịch của ông đều đẫm chất trữ tình, chất thơ. Bài tiểu luận “Mấy suy nghĩ về thơ “(1948) đã báo trước một quan niệm thơ, một cá tính thơ, một hướng cách tân bứt phá so với thơ đương thời. Như một nghệ sĩ chân chính, Nguyễn Đình Thi cho rằng: “Một thời đại mới của nghệ thuật thường bao giờ cũng tạo ra một hình thức mới”. Cách mạng tháng Tám đã khép lại một thời đại, và giờ đây đang mở ra một thời đại mới cho nghệ thuật. Đây chính là lúc những nhà nghệ thuật chân chính cần tìm kiếm cho thời đại mình một hình thức mới tương ứng. Và thế là chủ trương “thơ không vần”, “thơ như nói”, “thơ không kể lể tình cảm”, “thơ bỏ nhạc bên ngoài tìm vào nhạc bên trong”, “thơ khơi dậy cái nhịp điệu tâm hồn”… đã ra đời. Chùm thơ đầu tay thử nghiệm theo tinh thần này gồm “Đường núi”, “Sáng mát trong như sáng năm xưa”, “Không nói vừa chào đời” đã gặp phải sự phản ứng gay gắt của đời sống đương thời. Chồi non bị dội nước đá. Nhưng chồi khoẻ ấy vẫn không từ bỏ cái lẽ phải lớn của thơ. Nên tuy có lúc không công bố nhưng ông vẫn kiên trì thử nghiệm và điều chỉnh. Gắng kết hợp cách tân với truyền thống. Và cứ theo năm tháng, các tập thơ Nguyễn Đình Thi vẫn ra đời, tuy không thật đều đặn : “Người chiến sĩ” (1956), “Bài thơ Hắc hải” (1958), “Dòng sông trong xanh” (1974), “Tia nắng” (1985), “Sóng reo” (2000). Về mặt sắc thái cảm xúc, thơ trữ tình của ông có sự hoà hợp giữa chất tráng ca và chất triết lý. Bên cạnh những trang nóng bỏng:

    “Súng nổ rung trời giận dữ
    Người lên như nước vỡ bờ
    Nước Việt Nam từ máu lửa
    Rũ bùn đứng dậy sáng loà”…,

    là những trang trầm tĩnh, giấu trong lòng bao triết lý sâu nặng:

    “Dòng sông vẫn rì rào đang trôi đi
    Ngọn cỏ mang sự sống qua cõi chết
    Trong đêm xa xưa mờ tỏ ngôi sao
    Bông hoa nở cho hương thơm bay toả
    Tình yêu dắt đời người trong sóng gió
    Đau thương lặng gieo hạt giống nhân từ”,
    “Cái đẹp làm cho mọi vật không cùng”...

    Trong phần thành công nhất, thơ Nguyễn Đình Thi đã tạo ra một điệu mới như tiếng sóng reo trong lặng lẽ, tấu lên một thứ nhạc mới - trong lặng mà rung ngân:

    “Sáng mát trong như sáng năm xưa
    Gió thổi mùa thu hương cốm mới
    ...Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em”
    “Nắng soi ngõ vắng
    Thềm cũ lối ra đi
    Lá rụng đầy”
    “Ôi những vạt ruộng vàng
    Chiều nay rung rinh lúa ngả
    Dải áo chàm bay múa
    Tiếng hát ai lênh đênh…”.

    Tiếc rằng, trước sự phản ứng gay gắt, Nguyễn Đình Thi cũng đã phải hoà giải một cách tự nguyện là: lại gia tăng vần cho thơ. Nhiều khi “thơ có vần” đã đồng hoá “thơ không vần”. Giá ông cứ dám là mình, cứ dám đi cho thật hết cái lẽ phải của thơ theo quan niệm của mình, thì rất có thể ông đã có vai trò như Xuân Diệu với phong trào Thơ Mới. Hoà giải đôi khi là thoả hiệp là nhượng bộ, làm mất một cơ hội tạo diện mạo cho mình, tạo diện mạo hoàn toàn mới cho thơ. Vừa muốn là mình, vừa không dám là mình, gẫm bi kịch ấy đâu chỉ diễn ra trong mỗi việc cách tân thơ, cũng đâu chỉ với riêng ông. Nó khó thế, nó cũng buồn thế!

    *​

    Nguyễn Đình Thi không có những đỉnh vượt trội, cũng không có một kết tinh lớn quy tụ tất cả những năng lực phong phú của mình thành một ngọn tháp bề thế. Nhưng bù lại, ông đã có những đóng góp trải ra nhiều lĩnh vực. Có lẽ ông không thuộc kiểu nghệ sĩ dồn tất cả năng lực nội tại vào một điểm sáng tạo duy nhất. Cũng có không ít người tiếc cho ông về điều đó. Nhiều người kỹ tính cứ thích chẻ hoe ra để so bì. Nhạc thì không sánh được Văn Cao. Thơ không sánh được Tố Hữu. Văn không sánh được Nam Cao. Kịch không sánh được Nguyễn Huy Tưởng… Nói thế e rằng đòi hỏi quá. Thời Lêôna đơ Vanhxi đã qua lâu rồi. Mà bảo vì tham quá, “tay vướng nhiều đồ bỏ” quá, “nhiều dây nhợ tự buộc mình” quá, khiến nội lực bị dàn mỏng, tán chứ không tụ, cũng không hẳn. Thôi thì, vâng thôi thì, đó âu cũng là một cái tạng. Trời cho thế, trời cũng xui thế. Ông thuộc kiểu nghệ sĩ mà tài năng cứ phải dàn trải trên diện rộng. Chỗ đứng của ông được xác định bằng sự đa dạng đa diện vậy. Trong nền Văn học Việt Nam hiện đại, kiểu nghệ sĩ đa tài khá phổ biến, nhưng để có được những đóng góp đều tay như Nguyễn Đình Thi, xem ra, cũng không có nhiều.

    Đến nay, có thể thấy trong gia tài văn học của ông, Thơ và Kịch tỏ ra có sức vóc hơn cả. Nhất là Thơ ca. Cùng với những thành tựu sáng tác, tinh thần cách tân thơ của Nguyễn Đình Thi vẫn luôn là một tâm nguyện đáng trân trọng, dù vẫn còn dang dở. Hy vọng rằng tâm nguyện cách tân ấy sẽ vẫn đi cùng những thế hệ sau trên sóng thời gian[*].
    Văn chỉ, 2003

    [*] Bài đăng lần đầu trên tạp chí Văn Nghệ Quân Đội số 573, 5/2003. Tác giả có chỉnh sửa.
    (Đa mang một cõi lòng không yên định - Chu Văn Sơn)​
     
    machine and amylee like this.
Moderators: amylee

Chia sẻ trang này