Văn học nước ngoài PG Quy Luật Của Muôn Đời - Nodar Dumbatze

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi notrinos, 15/5/15.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. notrinos

    notrinos Lớp 5

    -- Về phần cha thì dễ dàng thôi, người ta đến quỳ gối trước cha và chỉ cầu xin một điều: cứu rỗi linh hồn... -- Batsana không muốn nói chuyện ấy nữa.
    -- Ông lâm vào cảnh như thế đã lâu chưa?
    -- Từ khi tôi làm cán bộ biên tập tờ báo... Nếu tôi sống được thì sau khi ra viện tôi sẽ thây kệ mọi sự đời!... Tôi đã mất bộ dạng con người, cha ạ, mà đã biến thành chủ tịch một ban từ thiện kiểu đó... Tôi đã làm mọi người chán ngấy về những điều thỉnh cầu bất tận của tôi...
    -- Làm việc thiện là điều hợp ý Chúa. -- Linh mục nói.
    -- Tôi đồng ý với cha, và suốt đời tôi cố gắng làm điều tốt cho mọi người, nhưng... Cha nghĩ sao, cái bà ấy... bà ta có đáng được thông cảm không?
    -- Một mụ điêu toa đạo đức giả! -- Cha Iôram trả lời cả quyết.
    -- Thế cha nhìn nhận như thế nào về những kẻ bịp bợm tương tự như vậy, tay cầm nến, quỳ gối cầu xin Chúa ban ân huệ?
    -- Ông Batsana kính mến ạ, chúng tôi có một ưu thế so với các ông: người cầu xin của chúng tôi trực tiếp kêu cầu với đấng tối cao để được người cứu giúp.
    -- Tôi biết, tôi biết, thưa cha! Các cha vận dụng một công thức vạn năng, bao trùm, không ràng buộc một trách nhiệm nào cả: "Đấy là ý Chúa!" hay "Ý Chúa không muốn như thế!". Một công thức thuận tiện, khỏi phải nói!... Còn chúng tôi buộc phải tuân theo những công thức phức tạp và hoàn toàn cụ thể: "Cái đó bất hợp pháp" và "Như thế là hợp pháp". Và chúng tôi phải đấu tranh, cha hiểu chứ? Đấu tranh, chứ không phải là cầu nguyện để mong diệt trừ sự vi phạm luật pháp và khẳng định pháp chế! Kẻ phạm tội thì các cha dành cho Chúa phán xử, còn chúng tôi thì trao cho cơ quan tư pháp!... Cuộc sống của các cha thật là an nhàn, cha Iôram ạ!...
    Linh mục không trả lời, kéo chăn trùm kín đầu và im bặt.
    --... Dẫu sao con người có bổn phận gieo rắc điều thiện. -- Ông ta nói sau một hồi lâu im lặng.
    -- Nhưng trong đời nhiều khi không dễ đoán được cái hạt giống ta gieo sẽ mọc lên thứ quả như thế nào...Nếu cha muốn biết, tôi sẽ kể hầu cha một chuyện trong đời tôi, tuy nó giống chuyện cổ tích nhiều hơn...
    -- Hay lắm! Rất vui lòng! -- Cha Iôram ló đầu ra khỏi chăn và sẵn sàng nghe.

    -- Có lần cô thư ký mở cửa phòng làm việc của tôi và nói:
    -- Thưa đồng chí Batsana Akakiêvitx, có một con khỉ xin được gặp đồng chí!
    "Cho vào".
    Một con khỉ nhỏ nhắn bước vào, chìa ra bàn tay ướt và lạnh (đặc điểm của tất cả những kẻ nịnh hót và lừa bịp), đặt lên bàn mấy tờ giấy viết kín đặc, rồi nó lui vào một góc và nhìn tôi với cặp mắt chứa chan hy vọng.
    Tôi xem qua mấy tờ giấy. Thì ra đó là một mớ tạp nhạp những câu hóm hỉnh, những câu châm ngôn, những câu nói bóng, đại loại là như thế, nói chung là những cái người ta thường đăng ở cột cuối các số báo chủ nhật dưới đầu đề chung: "Những câu thú vị...". Cái mớ tạp nhạp ấy cũng tạm được, xứng với một con khỉ.
    " Có lẽ theo thuyết Darwin, tới một lúc nào đó con khỉ này cũng sẽ thành người". -- Tôi nghĩ thế và cho đăng mấy câu hóm hỉnh của nó. Tôi còn nhớ một trong những câu đó như thế này: "Con người phải có nhiệt độ thực sự cao để đi tìm nhiệt kế trong các hiệu thuốc của chúng ta".
    -- Được đấy! -- Cha Iôram cười vang.
    -- Hồi ấy tôi cũng nghĩ như vậy... Rồi con khỉ lại đến. Không ai còn nhận ra nó nữa: nó ăn vận như người, thậm chí còn tươm tất hơn. Nó mang đến những câu bông đùa và châm ngôn khác nhau. Tôi đọc và căn cứ vào văn phong, tôi biết ngay tác giả của nó là con khỉ.
    "Này, -- tôi nói. -- Chú mày có phải là con khỉ mới hồi nọ đến đây phải không?"
    "Vâng, tôi chính là con khỉ đó. Tôi rất muốn trở thành người và tôi cầu xin ông giúp tôi điều đó".
    "Nhưng mi phải biết rằng con người do lao động tạo nên. Hãy chịu khó lao động đi, kiên nhẫn một chút!"
    "Tôi biết, điều đó tôi đã từng đọc trong sách. Nhưng tôi thuộc giống khỉ không đủ kiên nhẫn. Hơn nữa, đã số người đời hiện giờ đã coi tôi là người rồi mà".
    "Thôi được, tùy mi, -- Tôi đồng ý, -- ta sẽ đăng cho mi mấy câu bông đùa và châm ngôn nữa, nhưng như thế phỏng có lợi gì cho mi không? Mi sẽ vẫn cứ là khỉ như trước kia mà?"
    "Ấy, ông chớ làm tôi bị lộ!" -- Con khỉ câầu an, cảm ơn rồi ra về.
    -- Bản tính tôi vốn nhân hậu. Tôi thương con khỉ, nhất là nó bắt chước ngôn ngữ và hành động của con người rất khéo, tôi đã cho in một vài cái trong số "những tác phẩm" của nó. Tôi nghĩ rằng thôi thì cứ để cho nó được thích thú, nó có thể gây tác hại gì nào? Thế là con khỉ của chúng ta đã lên làm người...
    -- Nhưng chẳng lẽ không ai nhận thấy rằng đây vẫn là khỉ chứ không phải người ư? -- Cha Iôram ngắt lời Batsana.
    -- Cha có thể tưởng tượng được không, người ta không nhận ra! Nhận biết một người đã biến thành khỉ dễ hơn nhận ra một con khỉ đã thành người... Mới đây thôi, ở vườn bách thú của chúng ta có ba con khỉ đã trốn mất. Công an triệu tập một cuộc họp công tác, bàn cách làm thế nào bắt lại thật nhanh chóng mấy con khỉ đã trốn thoát. Cuộc họp hơi kéo dài. Thế là một công an viên đứng lên nói:
    "Đồng chí trung tá, xin nói cho gọn thôi, kẻo không mấy con khỉ trà trộn lẫn với người thì chúng ta đừng hòng phát hiện ra!"
    -- Rồi thế nào nữa? -- Cha Iôram hỏi với vẻ sốt ruột.
    -- Bắt lại được hai con, còn con thứ ba thì hiện giờ vẫn đang tìm kiếm... Thôi, tôi kể tiếp câu chuyện của tôi... Con khỉ của chúng ta đã thành người... Mấy năm sau nó lại đến tòa soạn. Lần này nó đem đến... những truyện ngắn. Tôi đọc và phát khiếp lên.
    "Con khỉ vô phúc kia, -- tôi nói. -- Mi làm cái trò bôi bác gì thế này? Mi mang cho ta cái mớ bòng bong gì vậy?!"
    "Sao lại thế? -- Nó bực tức. -- Với tư cách một nhà phê bình, tôi rất thích những truyện ngắn của tôi là đằng khác!
    "Sao, -- tôi ngạc nhiên. -- Mi đã trở thành nhà phê bình rồi ư?"
    "Vâng. -- Nó trả lời với vẻ trang nghiêm. -- Tôi là nhà phê bình, tôi có học vị, tôi giảng bài trên đài phát thanh, trên hệ thống truyền hình, trong tổ chức của hội "Kiến thức" và tại một trường đại học nữa kia"
    Tôi thương những sinh viên đã nghe con khỉ giảng bài, nhưng tôi có thể làm gì được? Tôi không phải là chủ nhiệm khoa, không phải là hiệu trưởng trường đại học để có thể tống cổ nó đi. Vả chăng, về mặt tinh thần, tôi cũng không có quyền làm việc đó, bởi chính tôi đã đưa con khỉ lên làm người!...
    -- Nhưng ít nhất ông cũng có thể báo cho mọi người biết rằng nó... rằng con vật ấy... gã giảng viên ấy là con khỉ chứ! -- Cha Iôram trách Batsana.
    -- Tôi có nói rồi đấy, cha ạ, có nói đấy, nhưng muộn mất rồi..."Chính anh là khỉ thì có!" -- người ta trả lời tôi như vậy đấy.
    -- Đáng đời ông! -- Linh mục buột miệng nói.
    -- Đúng thế! -- Batsana đồng ý.
    -- Vậy ông đã làm thế nào? -- Cha Iôram hồi hộp thực sự.
    -- Tôi làm cái việc mà tôi có thể làm được: trả lại nó những truyện ngắn.
    -- Thế nó làm gì?
    -- Nó làm um lên! Nó nói: ấy là vì tôi không phải là hội viên Hội nhà văn! Nhưng chẳng bao lâu nữa tôi sẽ là hội viên, lúc ấy rồi sẽ biết tay nhau! -- Một ý muốn thôi thúc tôi bảo với nó rằng khỉ không có chỗ trong Hội nhà văn, nhưng tôi im lặng...
    -- Tại sao ông lại im lặng, ông Batsana kính mến?! -- Cha Iôram cất cao giọng.
    -- Thưa cha Iôram, là bởi vì trước đó đã nhiều lần tôi giới thiệu và bỏ phiếu cho những con khỉ còn trong sạch hơn con này... -- Batsana ngừng bặt.
    -- Sau này ông không gặp lại nó nữa chứ? -- Đã yên tâm, cha Iôram hỏi.
    -- Thế thì còn nói làm gì! Nó đã trở thành hội viên Hội nhà văn, thậm chí còn kết bạn với tôi nữa. Mỗi khi uống mừng sức khỏe của tôi, nó tôn xưng tôi như thể tôi đích thị là bố nó... Rồi sau, khi tôi được đưa vào danh sách ứng cử đại biểu Xô viết, nó cố tình đến gặp đồng chí bí thư quận ủy và cảm ơn đồng chí ấy.
    -- Đừng làm tôi phát điên lên!
    -- Sự thể đúng như vậy! Thì ra nó đến gặp đồng chí bí thư và nói: "Nhân danh các nhà văn Gruzya, giới bạn đọc, các cán bộ trong tòa soạn của tờ báo do đồng chí Batsana Ramisvili quý mến của chúng ta phụ trách và rất nhiều bạn bè của đồng chí ấy, tôi muốn bày tỏ với đồng chí, thưa đồng chí Nikôlai Pêtrôvitx kính mến, lòng biết ơn nồng nhiệt về việc đồng chí đã dành cho đồng chí Batsana sự tin cậy cao cả như vậy. Chỉ có một người cộng sản có tính nguyên tắc, can đảm và cao quý như đồng chí mới có thể nhận định về Batsana Ramisvili chỉ căn cứ vào những phẩm chất cá nhân của đồng chí ấy, chứ không chú ý gì đến quá khứ của đồng chí ấy..."
    "Quá khứ thế nào?" -- Bí thư quận ủy ngạc nhiên, hỏi.
    "Dạ, chẳng có gì đặc biệt đâu! Thật thú vị khi thấy đồng chí không để ý gì đến những cái lặt vặt, chẳng hạn trước đây cha mẹ Ramisvili đã từng bị xử tri, bản thân đồng chí ấy thời thanh niên cũng đã ngồi tù một thời gian... đành là do sự hiểu lầm... Nhưng đồng chí hiểu đấy, lý lịch là lý lịch... Hay chẳng hạn, mới đây, trong tờ báo do Ramisvili biên tập, thay cho từ "Những người bônsêvich" lại viết là "Những người mensêvich"... Vâng, lòng nhân từ, tính nguyên tắc của đồng chí chính là ở chỗ đó!... Làm ngơ trước những sự việc tương tự, tỏ lòng tin cậy cao cả đến mức ấy đối với một người còn rất trẻ và nói chung là chưa có công lao gì lắm, dám liều lĩnh gánh lấy trách nhiệm, có thể nói như vậy, chỉ có một người lãnh đạo giàu kinh nghiệm và có tính nguyên tắc như đồng chí mới dám làm, thưa đồng chí Nikôlai Pêtrôvitx kính mến, tôi không đủ lời lẽ để nói lên lòng biết ơn đồng chí sao cho xứng đáng. Cảm ơn đồng chí, một lần nữa cảm ơn đồng chí!" -- Con khỉ đã nói với bí thư quận ủy như thế đấy... -- Batsana kết thúc câu chuyện của mình.
    -- Thế bây giờ nó ở đâu? -- Cha Iôram hỏi, vận dụng cái lưỡi đã khô rát của mình một cách khó nhọc.
    -- Tôi không rõ... Chưa biết chừng ngày mai nó sẽ đến thăm tôi cũng nên...
     
    Chỉnh sửa cuối: 1/6/15
    ------, superlazy and 4DHN like this.
  2. notrinos

    notrinos Lớp 5

    13.
    Trước khi đưa vấn đề kết nạp Batsana vào đảng ra thường vụ quận ủy, Batsana được mời lên trao đổi ở quận ủy. Batsana vào văn phòng quận ủy, chào ba người đàn ông ngồi bên chiếc bàn dài và ngồi xuống một chỗ ở đầu bàn
    -- Đồng chí Ramisvili, cuộc nói chuyện giữa chúng ta hôm nay mang tính chất thủ tục. Nó chỉ có một mục đích: đảng phải biết rõ đảng tiếp nhận người như thế nào vào hàng ngũ của mình. Cho nên, nếu đồng chí không phản đối, chúng tôi sẽ nêu ra với đồng chí một số câu hỏi. Có thể đồng chí cũng sẽ hỏi lại chúng tôi. -- Một người đàn ông nói, ông ta ngồi ở bàn, mé bên phải, trước mặt ông là hồ sơ cá nhân của Batsana.
    -- Vâng, được, cứ theo như quy định. -- Batsana đáp và cảm thấy tim đập gấp. Cuộc nói chuyện này giống kỳ thi, chỉ khác một điều là các giám khảo có thể hỏi bất cứ điều gì.
    -- Trước hết, ta hãy làm quen với nhau. Chúng tôi là những người bônsêvich già. Tên tôi là Alêcxandr, họ tôi là Iordanisvili. -- Người đàn ông mở đầu cuộc nói chuyện tự giới thiệu. -- Còn đây là các bạn tôi: Vanô Banđơzêlatzê và Đavit Managatzê.
    -- Rất hân hạnh, chào các đồng chí!
    -- Xin mời ngồi! -- Giọng Iordanisvili thấp, khàn, mặt rỗ, mũi gồ, mắt màu nâu sáng -- Tôi muốn biết điều này: tại sao cho đến giờ đồng chí không vào đảng?
    Batsana vẫn chờ đợi câu hỏi đó, ông đã có sẵn câu trả lời khuôn sáo: tôi tự thấy chưa đủ vững vàng để đảm nhiệm sứ mệnh đó, còn bây giờ, khi đã nắm vững... và vân vân. Nhưng ông trả lời khác:
    -- Cho đến giờ đảng chưa kết nạp tôi!
    -- Tại sao? -- Banđơzêlatzê hỏi, đấy là người đàn ông mặt hơi đỏ, mũi tẹt, mắt nhỏ, lanh lợi. Batsana không thể nào định rõ màu mắt ông ta.
    -- Bố mẹ tôi bị xử trí. -- Batsana nói thêm.
    -- Hiện giờ đã được minh oan, -- Iordanisvili nói và nhìn các bạn.
    -- Đồng chí vào đoàn Thanh niên cộng sản như thế nào? -- Managatzê hỏi, quay cái đầu to tướng, bù xù như đầu chó chăn cừu Kapkazơ về phía Batsana, nhìn ông bằng con mắt chăm chú, rất hiền.
    -- Tôi giấu chuyện bố mẹ tôi bị bắt...
    Những người nói chuyện với ông ngạc nhiên nhìn nhau.
    -- Ờ, nhưng... Chẳng lẽ ở trường không ai biết chuyện đó ư? -- Managatzê hỏi.
    -- Biết. Cả bí thư chi đoàn Kômxômôn cũng biết.
    -- Vậy mà đồng chí ấy làm ngơ?
    -- Vâng.
    -- Tại sao?
    -- Đồng chí ấy là bạn thân của tôi... Đấy là những năm chiến tranh gay go... Hồi ấy, nếu chỉ để phô trương thì người ta không vào đoàn...
    -- Còn những ai biết nữa?
    -- Tất cả... Trừ quận ủy.
    -- Thế mà không ai lộ ra?
    -- Vâng, không ai nói lộ ra! -- Iordanisvili trả lời thay cho Batsana và đặt hồ sơ cá nhân của ông sang một bên.
    -- Vậy đồng chí nghĩ thế nào, liệu đồng chí có được kết nạp vào đoàn không, nếu người ta biết bố mẹ đồng chí bị xử trí?
    -- Không, không kết nạp!
    Bắt đầu im lặng.
    -- Đồng chí cho biết, -- Banđơđêlatzê, -- đồng chí có còn oán hận về việc cha mẹ của đồng chí không?
    Batsana biết ông phải trả lời "không": lạ thật, đồng chí nói chuyện oán giận gì kia chứ! Nhưng ông thích nói sự thật hơn:
    -- Có chứ! -- Tay run lên, ông lấy một điếu thuốc lá trong hộp.
    -- Cho tôi một điếu! -- Managatzê đưa tay ra, ông cũng không kém phần xúc động. Batsana đưa hộp thuốc và diêm cho ông.
    -- Rồi sau thế nào?... Đã hết oán giận rồi hay là...-- Banđơđêlatzê hỏi và lấy một điếu thuốc lá trong hộp.
    -- Hết rồi... Nhưng nhiều năm sau, nó lại xuất hiện. -- Batsana châm thuốc hút.
    -- Vào hồi nào?
    -- Sau khi được phục hồi... Sau khi bố mẹ được phục hồi, lẽ ra vui mừng, tôi lại cảm thấy nỗi hận đắng cay... -- Batsana tắt điếu thuốc và lập tức châm điếu khác.-- Bởi vì trong tất cả những năm ấy, chúng tôi đã ngậm oan, chịu đựng bao nhiêu đau xót, nhục nhã, thiếu thốn...
    -- Bây giờ cha mẹ đồng chí ở đâu? -- Iordanisvili hỏi.
    -- Các người không còn nữa...
    -- Và bây giờ đồng chí mang theo tình cảm như thế vào đảng ư? -- Banđơđêlatzê hỏi.
    Batsana ngẫm nghĩ. Banđơđêlatzê nhay nhay điếu thuốc lá một cách nóng nảy. Sự im lặng kéo dài. Cuối cùng Batsana lên tiếng:
    -- Tôi biết, lịch sử đầy rẫy những điều oái oăm... Con người phạm sai lầm là chuyện thường tình, dù muốn hay không. Rồi sau đó người ta sửa chữa sai lầm của mình: có những người sửa chữa sớm hơn, có những người muôn hơn. Một số khác, khi từ giã cõi đời vẫn đinh ninh rằng mọi việc mình làm đều đúng. Các thế hệ sau sẽ phải sửa chữa những sai lầm của họ... Những người gây đau xót cho tôi đã chịu trách nhiệm đầy đủ, thực ra họ không còn ở trên đời này nữa... Bây giờ lên cầm quyền là thế hệ của tôi, những người lớp tuổi tôi. Tôi không có quyền trả thù. Trái lại, tôi có bổn phận đứng bên cạnh họ, ít ra là để không cho những sai lầm tương tự tái diễn. Nhất là tôi tin ở sự nghiệp của họ, coi đó là sự nghiệp của chính mình... Lại còn điều này nữa, và đây là cái chính: nhà văn không có quyền chủ quan! Nếu nhà văn mất ý thức khách quan thì sáng tác của anh ta không đáng giá một xu.
    Banđơđêlatzê gật đầu hài lòng. Iordanisvili nêu câu hỏi mới:
    -- Đồng chí có biết lá thư của Vladimir Ilits Lênin gửi các đảng viên cộng sản Azecbaigian, Gruzya, Armênya, Đaghetxtan và nước cộng hòa Gorxki không?
    Batsana suy nghĩ hồi lâu, rồi đáp:
    -- Kính thưa đồng chí Alêcxandr, liệu tôi có được kết nạp vào đảng không, nếu bây giờ vỡ lẽ ra rằng tôi không biết lá thư đó hay những lá thư khác của đồng chí Lênin?
    Iordanisvili bối rối, im lặng. Thế là Batsana nói tiếp:
    -- Điều đồng chí hỏi tôi chỉ là điều cá nhân đồng chí biết, hay là điều bắt buộc phải biết?
    -- Đó là điều nên biết, đồng chí Ramisvili ạ... Bức thư đó gửi cho chúng ta và bạn bè chúng ta.
    Batsana cảm thảyaatss ngượng nghịu. Ông đứng lên và định nói gì, nhưng Iordanisvili nói trước:
    -- Tạm biệt, đồng chí Ramisvili! -- và cùng đứng lên.
    Batsana giật mình. "Thế là hết!" -- một ý nghĩ đáng sợ thoáng qua trong đầu và ông cảm thấy đau nhói trong ngực. Ông ngồi xuống và hai tay ôm lấy ngực chỗ tim đập.
    -- Đồng chí làm sao thế? -- Managatzê lo lắng.
    Batsana thu hết sức lực đứng lên.
    -- Không sao, Đavit kính mến, sẽ qua thôi... Hết rồi! -- Batsana mỉm cười.
    -- Ngày mai, lúc một giờ, vấn đề của đàng chí sẽ được thảo luận ở thường vụ. Tôi cho rằng mọi việc sẽ tốt thôi... Còn bức thư ấy thì dù sao đồng chí cũng nên đọc lại, nếu có thời giờ...-- Iordanisvili khuyên.
    -- Đồng chí Alêcxandr kính mến, thư "Gửi các đồng chí cộng sản Azecbaigian, Gruzya, Armênya, Đaghetxtan, nước cộng hòa Gorxki", Lênin viết ngày mười bốn tháng tư năm một nghìn chín trăm hai mươi mốt, rồi ngày tám tháng năm năm đó, bức thư được đăng trong tờ "Sự thật Gruzya" số năm mươi nhăm...
    -- Đồng chí là con người kì quặc. Ramisvili ạ! -- Iordanisvili mỉm cười. -- Tạm biệt.
    -- Tạm biệt, hết sức cám ơn các đồng chí! -- Batsana bắt tay tất cả mọi người và ra khỏi văn phòng đảng ủy.

    Lúc một giờ, Batsana được mời vào phòng làm việc của bí thư thứ nhất quận ủy. Ông vào, cúi chào tất cả các quận ủy viên ngồi bên chiếc bàn tháo gấp và nhìn dãy ghế dựa chạy dài dọc chân tường, không biết ngồi chiếc nào và không biết trong trường hợp như thế này có nên ngồi không.
    -- Mời đồng chí ngồi! -- Ông nghe thấy một giọng nói quen thuộc.
    Batsana ngẩng đầu lên và mãi đến giờ ông mới thấy đồng chí bí thư quận ủy trẻ tuổi. Đồng chí bí thư nheo mắt phải, mỉm cười nhìn Batsana. Batsana ngồi ở giữa dãy ghế.
    -- Tôi cho rằng không cần giải thích. -- Đồng chí bí thư quận ủy đứng lên. -- Batsana Ramisvili thì tất cả chúng ta đều biết. Hôm nya đồng chí sẽ trở thành người của đại gia đình chúng ta... Tôi sẽ đưa các đồng chí xem đơn, lý lịch và lời giới thiệu...
    -- Không cần! -- Có người nào nói.
    Bí thư đặt hồ sơ cá nhân của Batsana sang một bên và nói với những người có mặt:
    -- Còn ai hỏi gì nữa không?
    -- Tôi xin hỏi một câu! -- Một ủy viên thường vụ nói.
    Batsana cảm thấy lạnh buốt trong ngực.
    -- Xin mời!
    Bắt đầu một lúc im lặng mà Batsana tưởng như cả một thế kỷ.
    -- Này, đồng chí Ramisvili, tại sao đồng chí vào đảng?
    Tất cả quay về phía Batsana. Ông đứng lên, đưa khăn lau mặt và chuẩn bị trả lời, nhưng bỗng đổi ý. Ông phải nói gì với những người giờ đây đang có quyền quyết định Batsana Ramisvili có được là đảng viên cộng sản hay không? Batsana biết, trong những trường hợp như thế này câu trả lời thông thường là: ông hoàn toàn tán thành cương lĩnh và điều lệ đảng, ông sẵn sàng luôn luôn làm tròn mọi nhiệm vụ và điều lệ đảng giao cho, ông muốn trở thành người tích cực xây dựng xã hội cộng sản...-- tất cả những điều đó ông đã thuộc lòng, nhưng nói ra lúc này ông thấy là thừa, kỳ cục. Bởi vì, để làm như thế, không nhất thiết phải là đảng viên cộng sản. Ngoài ra, trong số các ủy viên thường vụ, ông không thấy ai là người có ý làm khó dễ cho ông... Đột nhiên Batsana nói:
    -- Tôi muốn trong đảng có thật nhiều người chính trực! -- Nói đoạn, ông ngồi xuống.
    Trong phòng như có luồng gió nhẹ thoảng qua, tiếng thì thầm ngạc nhiên lan ra. Rồi không khí im lặng bào trùm, Batsana không ngẩng đầu lên. Ông nghe thấy lời đồng chí bí thư:
    -- Các đồng chí, tôi biết Batsana Ramisvili từ thuở bé và có thể nói rằng đồng chí ấy là người cộng sản đến tận xương tủy. Tôi coi đồng chí ấy là đảng viên cộng sản, tôi ủng hộ việc kết nạp đồng chí ấy. Ai tán thành kết nạp Batsana Akakiêvitx Ramisvili làm đảng viên dự bị đảng cộng sản Liên Xô thì đề nghị giơ tay lên.
    ... Đến đây xảy ra một điều hẳn là chưa từng thấy trong lịch sử một đảng: chính Batsana Ramisvili cũng giơ tay cùng với những người khác.
     
    Chỉnh sửa cuối: 2/6/15
    superlazy and ------ like this.
  3. notrinos

    notrinos Lớp 5

    14.
    Ở Tbilixi, tuyết rơi hai ngày không ngớt, tuyết khô và xốp. Giao thông tắc nghẽn. Các phố tràn đầy tiếng ồn ào vui vẻ, tiếng cười, tiếng kêu sợ hãi của những người trượt ngã, tiếng la ré của các cô gái sa vào trận bom tuyết, tiếng cười hô hố của các chàng trai, không khí được lọc sạch trở nên nhẹ bỗng kỳ lạ và ngon lành đặc biệt. Có thể nói là Tbilixi trắng xóa như bà chúa Tuyết đang dạo chơi trên các đường phố của mình, khoe với dân thành phố mái tóc bạc sớm.
    Đã hơn chín giờ tối. Hai tay đút túi, cổ áo măng tô dựng lên, Batsana thong thả đi trên công viên Vakê. Đầu óc không nghĩ ngợi gì, ông đi xuyên qua tấm màn tuyết thần kỳ gây cảm giác tê tê dễ chịu trên mặt. Ở góc phố Môxasvili, Batsana gần như xô phải một người phụ nữ đột nhiên từ góc phố nhô ra. Vì bất ngờ, cả hai giật mình. Trong khoảnh khắc, họ đứng áp sát vào nhau. Batsana đã kịp thấy rõ đôi mắt to long lanh của nàng. Rồi ông nhanh nhẹn nhường đường cho nàng và nói bằng giọng biết lỗi:
    -- Xin lỗi, thưa kanbatônô!
    Liền đó, nghĩ rằng người phụ nữ quá trẻ để xưng hô như thế, ông nói thêm:
    -- Xin lỗi cô!
    -- Không sao, đó là chuyện bình thường! -- Nàng đáp bằng giọng điềm tĩnh và tiếp tục đi.
    Batsana nhìn người phụ nữ đang xa dần và nghĩ: "Nếu trên đời có linh tính và sự công bằng thì nàng phải quay lại!". Và người phụ nữ đã quay lại. Batsana chậm rãi đi về phía nàng, còn nàng đi về phía ông. Giáp mặt nhau, họ dừng lại, và Batsana bỗng cảm thấy nghẹn thở, ông nói:
    -- Chào chị!
    -- Chào anh! -- Người phụ nữ đáp, đưa tay ra.
    Batsana nhanh nhẹn rút găng tay và nắm lấy tay nàng. Bàn tay nàng vừa mềm và ấm. Batsana nhìn vào mắt người phụ nữ không quen biết và hiểu rằng nàng cũng xúc động
    -- Chị đi đâu thế? -- Batsana hỏi câu vừa chợt nghĩ ra.
    -- Về nhà, -- người phụ nữ đáp và cho tay vào túi áo lông.
    -- Chị xinh quá! -- Batsana buột miệng và đỏ mặt lên.
    -- Tôi biết, -- người phụ nữ nói một cách bình tĩnh.
    -- Chắc hẳn đó là một cảm giác rất thú vị: có ý thức về sắc đẹp của mình!
    -- Biết nói thế nào được! -- người phụ nữ nhún vai.
    -- Cố nhiên là thích thú rồi! Cứ nói như tôi thôi, bao giờ tôi cũng thích thú được nhìn một phụ nữ xinh đẹp! -- Batsana bạo dạn lên.
    -- Cái đó dễ thấy! -- người phụ nữ mỉm cười.
    -- Có lẽ tôi hỏi những câu dớ dẩn chăng? -- Batsana chợt nghĩ ra.
    Người phụ nữ lắc đầu.
    -- Ông rất giống Batsana Ramisvili! -- nàng nói.
    -- Giống lắm! -- Batsana trả lời, lấy làm vui sướng, lòng tràn ngập niềm tự hào.
    -- Những người khác cũng nói với ông như thế ư?
    -- Hầu như tất cả những người quen tôi đều nói như vậy.
    -- Giống lạ lùng!
    -- Giống đến mức thậm chí trong chứng minh thư của tôi ghi là Batsana Ramisvili! -- Batsana phá lên cười.
    Người phụ nữ ném lên ông một cái nhìn hồ nghi.
    -- Này, ông bỏ mũ catket ra đi!
    Batsana bỏ chiếc mũ catket bám đầy tuyết, đập vào đầu gối rũ tuyết.
    -- Trời ơi! -- người phụ nữ kêu lên. -- Ông quả thực là Batsana Ramisvili!
    -- Tên cô là gì, thưa cô? -- Batsana bạo dạn lên.
    -- Con gái tôi tên là Maiya...
    Batsana bối rối.
    -- Chắc khoảng một tuổi nhỉ? -- Batsana cố giấu sự ngượng ngập.
    -- Mười bảy! -- Người phụ nữ nói rõ.
    -- Không có lẽ!
    -- Xin thề có Maiya!
    -- Xin cho biết tên chị
    -- Marya
    -- Chị xinh quá, Marya ạ!
    -- Ông cũng thế...
    Batsana đỏ bừng mặt.
    -- Ờ...
    -- Xin thề có Maiya! -- người phụ nữ nhắc lại.
    -- Hoặc chị không có con gái, hoặc lời thề của chị không thành thực! -- Batsana buột miệng nói bằng giọng bực tức.
    -- Không, tôi nói thực! -- người phụ nữ đáp một cách nghiêm chỉnh. Chị quay ngoắt đi và cất bước.
    -- Khoan đã! -- Batsana gọi to. Người phụ nữ dừng lại -- Tôi tiễn chị!
    -- Tôi ở cách xa đây.
    -- Ở đâu?
    -- Gần cầu Vôrôntsôp.
    -- Vâng, hơi xa. Cho phép tôi đi tiễn chị...
    -- Không, tôi muốn đi một mình! -- Người phụ nữ ngả đầu ra sau, ngửa khuôn mặt xinh đẹp đón những bông tuyết.
    -- Chị không sợ ư?
    Người phụ nữ lắc đầu và bước đi.
    Như bị bỏ bùa, Batsana đám đuối nhìn theo người phụ nữ đã đi xa. Chị bước thoải mái, dáng đi kiêu hãnh. Cả chiếc áo lông cũ kỹ, cổ áo đã sờn, cũng như đôi ủng mòn vẹt đều không thể che lấp vẻ đẹp trang trọng thể hiện ở dáng người cân đối của nàng. Batsana sực tỉnh khi người phụ nữ khuất sau góc phố.
    -- Thật là đần độn! Đáng lẽ ít nhất cũng phải hỏi nàng họ gì chứ!
    Ông vùng chạy ra đại lộ Tsaptsavatzê, nhưng không thấy người phụ nữ đâu nữa. Nàng đã biến mất, như bông tuyết tan biến trên bàn tay nóng hổi...
    Batsana trở về nhà. Sau khi đã rũ hết tuyết, ông đưa tay lục tìm dưới tấm thảm con lăn lóc cạnh cửa, lấy chìa khóa, vào phòng, và lần đầu tiên trên đời, ông cảm thấy xung quanh mình trống rỗng vô cùng, trống rỗng đến rợn người...
     
    Chỉnh sửa cuối: 3/6/15
    ichono87 and ------ like this.
  4. notrinos

    notrinos Lớp 5

    15.
    Hôm ấy Batsana tiếp hai vị khách: một người đầu óc bình thường và một người bất bình thường. Nhưng đấy là sau này mới rõ, còn thoạt đầu Batsana tháy hai người đều hoàn toàn bình thường.
    Batsana ngồi ở bàn trong phòng làm việc và sửa bài văn châm biếm viết về những mánh khóe đen tối, sự phóng đãng và chuyên chế của một tay giám đốc xí nghiệp liên hợp chế tạo các sản phẩm bằng lông thú. Bài văn châm biếm viết bằng giọng gay gắt và rất đạt. Tất nhiên bài đó phỉa là cái đinh của số báo, một loại sự kiện chấn động, vì thế chỉ có Batsana và tác giả biết điều đó. Đoạn kết của bài văn châm biếm có vẻ gần như bịa đặt...
    Trong buồng toa xe quốc tế có hai bà hành khách. Họ mau chóng làm quen với nhau, chẳng mấy chốc giữa họ đã bắt đầu một cuộc chuyện trò thường có giữa những người thuộc loại tầm thường. Khi đã chê bai tất cả những người hoàn toàn không quen, khi đã treo đèn đỏ lên cửa nhà* một nhân vật rất đáng kính trong nước cộng hòa, một trong hai bà bỗng ho sù sụ, ngạt thở. Bác sĩ trên tàu đến kịp thời đã tìm được cách làm cho bà ta tỉnh lại. Trả lời câu hỏi vì sao bỗng nhiên bà ta lại bị như thế, người đàn bà kiệt lực giơ tay trỏ chiếc áo lông của bà bạn đồng hành treo trong buồng toa và rên rỉ:

    * Ngày trước, nhà có treo đèn đỏ là nhà gái điếm (N.D)
    -- Da lông... mèo...
    -- Lông gì?
    -- Dị ứng... Tôi bị dị ứng lông mèo...
    -- Hiểu rồi... Phải đưa chiếc áo lông ra khỏi buồng toa...
    -- Nói gì kì thế, ông điên rồi chắc? -- Người có chiếc áo lông nổi nóng. -- Mèo miếc gì?! Đấy là chiếc áo lông chồn nâu! Tôi mua bốn trăm năm mươi rúp đấy!
    -- Bà mua bao nhiêu tiền mặc lòng, phải đưa chiếc áo lông đi, nạn nhân lập tức thở thoải mái, như chưa hề bị ho.
    Mọi chuyện mở đầu từ đó. Đầu sợi chỉ tình cờ bị vướng mắc trong toa xe khiến cuộn chỉ tở ra, tở ra và lăn tới xí nghiệp liên hợp chế tạo đồ dùng bằng da lông thú. Đi theo cuộn chỉ là những người không dính dáng gì với ngành vận tải đường sắt và y tế, nhưng hiểu tường tận các loại da lông thú và giá cả...
    Thế là bây giờ, tay giám đốc xí nghiệp liên hợp ấy đang đứng trước Batsana và mỉm cười bằng đôi mắt hum húp. Batsana vẫn chưa biết người này là ai, nhưng chỉ riêng bộ dạng của khách -- béo ục ịch, giống cái gốc cây cụt đẽo vạc thô kệch -- tự dưng cũng toát ra vẻ tự mãn, trâng tráo.
    -- Chào ông! -- Y nói và không đợi mời, ngồi luôn vào chiếc ghế bành trước bàn Batsana.
    Batsana gạt bài văn châm biếm sang một bên và sẵn sàng nghe, nhưng khách im lặng. Cả một phút trôi qua như thế.
    -- Tôi xin nghe! -- Cuối cùng Batsana nói.
    -- Không, tôi đang chờ nghe ý kiến của ông! -- Khách mỉm cười.
    -- Tôi không hiểu...
    -- Tôi là giám đốc xí nghiệp liên hợp chế tạo sản phẩm bằng da lông thú! -- Khách nói, đôi mắt vàng ệch loáng ướt nhìn xoáy vào Batsana.
    "Hẳn là túi mật của tay này không bình thường" -- Batsana nghĩ và nói:
    -- Họ của ông là gì?
    -- Xanđrơ Maglapêritzê. Hẳn ông phải biết họ tôi! -- Tiếng ông khách trầm đục, khàn khàn.
    -- Lần đầu tiên tôi nghe thấy! -- Batsana nói dối -- Nhưng cái đó không quan trọng. Ông đến có việc gì? Tôi không mời ông...
    -- Tôi đến về câu chuyện rùm beng xung quanh xí nghiệp của tôi... Tôi muốn khuyên ôn: không nên để tai nghe những lời bá láp của những kẻ không am hiểu và ngu ngốc... Ông muốn biết gì thì cứ trực tiếp hỏi tôi đây này! -- Maglapêritzê nói bằng giọng dạy đời.
    -- Tôi không hiểu ông nói gì... Tôi chẳng biết gì hết...-- Batsana đáp một cách lạnh lùng.
    -- Ông biết hết... Đáng tiếc... Mà đấy là nhờ các cán bộ của tôi... Được bọn ấy thì tự tôi sẽ thanh toán với chúng.
    "Thật là láo xược! Hắn dám nói năng với ta như thế!" -- Batsana nghĩ, nhưng nén được và bình tĩnh trả lời:
    -- Tôi nhắc lại, tôi không biết ông định nói về việc gì... Có lẽ ông nên nói rõ ra chăng?
    -- Vâng được! Nhưng tôi sẽ nói rõ không phải điều ông biết, mà là điều tôi biết kia!
    -- Tôi xin nghe!
    -- Số báo ngày mai của ông sẽ đăng bài văn châm biếm nhan đề "Dũng sĩ khoác da mèo"... Nói chung, tác giả bài châm biếm dớ dẩn đó cũng nên đọc "Dũng sĩ khoác da hổ" của Ruxtavêli vĩ đại. Nhân tiện xin nói, ở đây có những lời hết sức bổ ích:
    Chăm sóc bạn không bao giờ hoài phí
    Đạo đức gì nếu ta không kịp thời cứu giúp bạn ta?
    Và thêm nữa:
    Khi bông hồng về già, tàn héo
    Bông hồng non sẽ tươi nở kế chân
    -- Tôi hi vọng ông cũng biết những lời đó, -- Maglapêritzê mỉm cười nói thêm.
    -- Phải chăng ông định loại tôi khỏi cương vị công tác? -- Batsana trả lời, cũng mỉm cười.
    -- Chết nỗi, đâu dám, thưa ông Batsana kính mến! Chẳng qua tôi muốn ngừa trước cho ông: ông tin chắc rằng đồng chí ở cơ quan cấp trên vẫn lui tới cơ sở sản xuất của chúng tôi sẽ ưa thích bài văn châm biếm đăng số báo ngày mai của ông chăng?
    -- Do đâu mà ông biết được nội dung bài văn châm biếm?
    -- Tôi biết, kính thưa ông Batsana... Trong bài ấy có viết rằng tôi là tên ăn hối lộ bà bịp bợm, rằng tôi có nhân tình...Tiếp đó nó miêu tả một câu chuyện khôi hài về một bà nào đó bị dị ứng, có dính líu đến một cái áo choàng lông thú... Tóm lại, xin hãy nghĩ đến bản thân ông, thưa ông Batsana!... Cái ghế của ông đang ngồi không vững như ông tưởng đâu... Xin hãy tin kinh nghiệm của tôi.
    Batsana phẫn nộ đỏ cả mặt lên, nhưng ông cố giữ giọng thật bình tĩnh, hỏi:
    -- Vậy đồng chí khuyên tôi như thế nào, đồng chí Maglapêritzê?
    -- Trước hết cần bình tâm... Nhưng chẳng giấu gì, chính tôi cũng không yên lòng... Đúng, việc tôi đến gặp ông là sự hạ mình đối với tôi! Trong những trường hợp như thế này, thông thường tôi cho các nhân viên kế toán của tôi đến gặp các biên tập viên... Ông là người cán bộ biên tập đầu tiên mà tôi đích thân đến thưa chuyện! Xin biết cho như vậy!
    -- Hạnh phúc cho tôi được hưởng cái vinh dự đó! -- Batsana nghiêng đầu.
    -- Không nên mỉa mai, kính thưa ông Batsana. Tôi đến đây là vì kính trọng ông... Nói chung, mỉa mai là sở trường của tôi...
    -- Nếu vậy thì ông phí thời gian vô ích! -- Batsana đáp.
    -- Cần loại bỏ bài văn châm biếm! -- Maglapêritzê tuyên bố dứt khoát.
    -- Không thể được!
    -- Sẽ có người gọi điện cho ông, mà khước từ người đó thì...
    -- Cho dù chính thượng đế cũng không là gì được! Báo đã sắp chữ xong, đình lại sẽ tốn của nhà nước năm mươi ngàn rúp... Bởi vậy, ta chấm dứt cuộc nói chuyện này.
    -- Bao nhiêu? -- Maglapêritzê phá lên cười.
    -- Năm mươi ngàn rúp! -- Batsana nhấn mạnh.
    -- Tôi sẽ bù đắp khoản thiệt hại đó.
    -- Nhà nước không cần có sự bố thí của ông!
    -- Ông bạn thân mến ơi, nhà nước gồm những người như tôi và ông. Và nếu ta không nâng đỡ lẫn nhau thì nhà nước sẽ sụp đổ. Chẳng lẽ ông không hiểu điều đó sao?
    Batsana lộn tiết vì nụ cười tự mãn không rời khỏi khuôn mặt tên trâng tráo này.
    -- Nếu ông hiểu sự bịp bợm và những ngón gian lận về tiền nong là sự ủng hộ lẫn nhau thì ông lầm to, thưa ông Xanđrô! Không phải cái gì cũng mua được bằng tiền!
    Maglapêritzê đứng lên.
    -- Ông là con gà trống non dại dột, thưa ông Batsana. Ông chỉ vừa mới có tiếng gáy và nên coi chừng, kẻo mà chưa kịp nảy cựa đã mất tiếng đấy!
    -- Tôi sẽ lưu ý đến lời khuyên của ông.
    -- Còn điều này nữa. Môem nói: ngoài năm giác quan đã biết, còn có một giác quan nữa: giác quan thứ sáu, không có nó thì mọi cái khác đều không đáng giá một xu...
    -- Giác quan thứ sáu là cái gì? -- Batsana nhếch mép cười.
    -- Tiền, thưa ông Batsana, tiền! -- Maglapêritzê
    nói, vẫn với nụ cười như thế.
    -- Muốn gì thì gì, sáng mai bài văn châm biếm sẽ đăng trên báo, rồi sau đó các cơ quan thích hợp sẽ có phản ứng.
    -- Và ban biên tập sẽ chờ đợi sự trả lời?
    -- Tất nhiên!
    -- Tôi thương ông, thưa ông Batsana, rất thương ông!...
    Maglapêritzê đi về phía cửa.
    "Thằng đểu!" -- Batsana muốn quát lên, nhưng tay giám đốc xí nghiệp liên hợp nhanh hơn Batsana tưởng. Y nhanh nhẹn sập cửa lại.

    Ông khách thứ hai vào phòng làm việc của Batsana sau đó một tiếng, như rán chờ cho Batsana bình tĩnh lại: Khách rất mực lịch sự, nom hoàn toàn đáng trọng, mắt dường như tỏa ra tia sáng anh minh và hiền hậu.
    -- Chào đồng chí tổng biên tập kính mến!
    Batsana đứng lên, xiết chặt bàn tay ông khách đưa ra và mời ông ta ngồi. Khách cảm ơn, bỏ mũ, đặt mũ cùng với cặp lên chiếc bàn gấp, rồi ngồi vào chiếc ghế bành chủ mời ngồi.
    -- Xin phép tự giới thiệu: tôi là cán bộ tổng cục thống kê Galăctiôn Ghêorghiêvits Mơtvaratzê!
    -- Rất hân hạnh... Tôi phải làm gì đây?
    -- Xin lỗi đã quấy rầy ông, làm mất thời giờ quý báu của ông... Nhưng, biết sự nhạy cảm của ông, tôi đánh bạo xin ông nửa giờ thôi.
    -- Xin mời, một giờ cũng không sao!
    -- Để ông khỏ mất công về câu chuyện kì dị này, -- tôi xin nhấn mạnh, câu chuyện kì dị đối với ông, -- tôi sẽ đi thẳng vào sự việc. Tôi chỉ khẩn khoản yêu cầu ông đừng ngắt lời tôi và đừng hỏi câu gì, nếu không thật cần thiết. Tôi cũng xin ông bảo cô thư ký của ông đừng cho ai vào trong lúc chúng ta nói chuyện.
    Batsana bấm nút chuông điện, cô thư ký ngó vào:
    -- Êlêna Xerghêcpna, tôi đi vắng. Nửa giờ nữa tôi sẽ có mặt ở đây.
    Cô thư ký gật đầu và ra, đóng sập cửa lại...
    -- Tôi xin nghe! -- Batsana nói với khách và cầm bút chì.
    -- Không, không, tôi đề nghị không ghi!
    Batsana đặt bút chì xuống.
    -- Vậy thì thế này nhé: tôi là một umanôit*
    Batsana giật mình.
    -- Sao? Ông nói sao?
    -- Vâng, tôi là umanôit! --Mơtvaratzê xác nhận.
    Batsana hiểu hết. Nhưng ông hứa không ngắt lời khách, vì thế ông dằn lòng, nói:
    -- Hiểu rồi. Xin cứ nói tiếp đi!
    -- Chúng tôi là các cư dân của hành tinh Ômôx từ Tinh vân tiên nữ đến trái đất và đã gieo những mầm sống đầu tiên ở đây. Sự việc đó đã lâu đời lắm rồi, lâu đến nỗi lý trí của loài người không quan niệm được, bởi thế tôi sẽ không làm ông mệt sức bằng những phép tính cồng kềnh... Vậy là chúng tôi đã đem sự sống đến trái đất... Đấy là một thí nghiệm có tầm quan trọng phi thường đã thực hiện trong vũ trụ. Thí nghiệm thành công, trên trái đất đã xuất hiện sự sống, sự sống ấy đã cho những thành quả.

    *Humanoide nghĩa là cái giống người, có dạng người (N.D)
    -- Xin hỏi một câu! -- Batsana giơ tay lên.
    -- Nhưng phải đi vào bản chất vấn đề! -- Mơtvaratzê báo trước.
    -- Galăctiôn Ghêorghiêvits, xin cho biết bản thân ông đã đến hành tinh chúng tôi từ bao giờ và bằng cách nào?
    -- Tôi biết ông sẽ hỏi câu đó... Duyên do là nền văn minh của chúng tôi thực tế đã hủy bỏ, đã làm tiêu tan khái niệm thời gian và khoảng cách. Đối với chúng tôi, những phạm trù đó như đồng nhất với ước muốn. Ông hiểu tôi chứ? Điều đó có nghĩa là chúng tôi không cần dùng đến những con tàu vũ trụ, đĩa bay và những phương tiện kỹ thuật di chuyển khác mà vẫn có thể trong chớp nhoáng có mặt ở nơi nào chúng tôi muốn... Còn bản thân toi thì chẳng phải tôi từ nơi nào đến với ông cả. Đoàn khảo sát đem mầm sự sống đến trái đất đã lập chương trình di truyền cho sự xuất hiện tuần hoàn của chúng tôi theo đà phát triển của sự sống, nhằm mục đích điều hòa nó. Phương pháp như thế cho phép các cơ thể tự xác định những con đường hoàn thiện mình...
    -- Nhưng nếu vậy thì do đâu ông biết được rằng ông là một umanôit?
    -- Điều đó do các trung tâm khoa học của Ômôx thông báo cho chúng tôi bằng dòng điện sinh vật vào thời gian thích hợp.
    -- Thế ông nhận được thông tin như vậy hồi nào?
    -- Mới gần đây thôi, chủ nhật trước. Lúc thiếp ngủ tôi là con người, khi thức dậy tôi là umanôit.
    -- Rõ cả rồi! -- Batsana nói.
    -- Ông chẳng rõ gì cả! Hơn nữa, ông coi tôi là người điên, nhưng không để lộ ra ngoài... Cảm ơn ông về sự tế nhị đó.
    Batsana bối rối. Và umanôit nói tiếp:
    -- Mục đích chủ yếu của thí nghiệm là xác định khả năng xuất hiện nền văn minh trên các hành tinh khác.
    -- Vậy các ông đi đến kết luận như thế nào?
    -- Có khả năng xuất hiện nền văn minh!
    -- Ơn trời! -- Batsana mừng rỡ.
    -- Nhưng nền văn minh của các ông phát triển zic zăc. Nó giống như điện tâm đồ của con người. Các ông thường đau khổ, vì các ông tiến hành không biết cơ man nào là những biện pháp vô ích. Loài người thường xuyên lo lắng, dao động, và khi sự hình thành của các bạn có chiều hướng lệch lạc hiển nhiên thì bắt đầu xảy ra chiến tranh, bệnh dịch, đói kém, sự bần cùng về tinh thần và các đại họa...
    -- Tại sao các ông không uốn nắn cho chúng tôi, không chỉ cho chúng tôi con đường đúng? Lòng nhân của các ông là thế nào?
    -- Có một quy luật vũ trụ phổ quát: không can thiệp. Mỗi cơ thể sống phải tự mình đạt tới hình thức văn minh cao nhất.
    -- Như vậy không công bằng, ông Galăctiôn Ghêorghiêvits ạ! Một khi các ông đã tổ chức thí nghiệm thì các ông có bổn phận giúp đỡ, góp phần làm cho thí nghiệm phát triển đúng đường.
    -- Thì thực chất đúng là như vậy. Sự giúp đỡ của chúng tôi là ở chỗ cản trở. Ông hiểu chứ? Chúng tôi ngăn cản nhân loại đi vào con đường sai lạc. Chúng tôi tiêu diệt những hat giống phát triển sai chệch, không đúng hướng.
    -- Sự giúp đỡ đó thể hiện như thế nào? -- Batsana hỏi với vẻ hứng thú thực sự. Lúc này, nhân danh nhân loại lầm lạc, ông tranh luận thực sự vơi một umanôit chính cống.
    -- Chúng tôi đã hai lần cứu những người lạc đường: ấy là hồi sự trụy lạc và phóng đãng khiến Xôđôm và Gômov bị hủy diệt và thời kỳ đại hồng thủy tràn ngập thế gian đe dọa tiêu diệt cả loài người. Các ông giải thích những tai họa đó là do cơn giận của Chúa trời, tùy các ông thôi, còn đối với chúng tôi, gọi bữa ăn trưa là bữa ăn tối, hay gọi bữa ăn tối là bữa ăn trưa thì cũng thế thôi. -- Mơtvaratzê mỉm cười độ lượng.
    -- Sự giúp đỡ của các ông cho loài người chỉ có vậy thôi ư? Thế còn sự giúp đỡ tinh thần thì sao? Còn sự giúp đỡ về đạo lý? Tại sao các ông không muốn làm cho chúng tôi bắt đầu cảm thấy thành thực thương sót bản thân mình và các bạn mình.
    -- Sao lại thế! Ở các giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội loài người, bất kể thời đại nào, luôn xuất hiện những gen dạng umanôit, có khuynh hướng tác động đến cơ sở đạo đức của nhân loại, tất nhiên là theo nghĩa tốt... Sự can thiệp như thế, chúng tôi cho là chấp nhận được và thích đáng.
    -- Galăctiôn Ghêorghiêvits, ông có thể cho biết, ngoài ông ra, còn có những ai là umanôit nưa không? -- Batsana hỏi.
    -- Xin vui lòng! Tất nhiên tôi không nhớ hết, nhưng tôi sẽ nêu tên một số: Hôme, Xecvăngtex, Bêthôven, Ruxtavêli, Sêcxpia, Gơtê, Lêônacđô đờ Vanhxi, Bôckatsô, Acsimet, Gioocđanô Brunô, Gian Đa, Tônxtôi, Puskin, vua Parnavazơ, Đavit nhà kiến trúc, Abraam Lanhcôn, Fôncơnơ, Hêghen, Kăng, Blốc, Anhxtanh, Sacli Saplanh, Galăctiôn, Vagia, Akaki, Hya...* không thể kể hết được...

    *

    -- Xin hỏi thêm câu nữa, Galăctiôn Ghêorghiêvits. Tại sao ông đến gặp tôi chư không phải ai khác? Tại sao ông thổ lộ điều bí mật của ông với tôi?
    Gương mặt Mơtvaratzê ngời lên nụ cười tươi rói, hiền hậu và mãi đên bây giờ Batsana mới nhận thấy ánh mắt bệnh tật của anh ta.
    -- Chẳng lẽ tên họ của tôi không nói gì với ông ư? Galăctiôn tức là Galătic*! Mơtvaratzê là Mặt trăng!** Ngày mai tôi sẽ trở về hành tinh quê hương Ômôx của tôi... Tôi đã làm tròn sứ mạng của tôi trên trái đất này. Bây giờ tôi phải làm nốt một nhiệm vuk cuối cùng và xin báo để ông biết, ông Batsana Akakiêvitx thân mến, ông là một umanôit.
    Tim Batsana thắt lại và cổ họng ngứa ngáy.
    -- Vĩnh biệt người bạn và người anh em của tôi! Bây giờ ông đã được biết sứ mạng của ông trên trái đất!
    Galắctiôn ôm lấy Batsana, ghì chặt ông vào ngực mình, rồi quay đi và bước nhanh ra khỏi phòng làm việc.
    ... Batsana không nghe thấy cô thư ký vào phòng, đặt lên bàn một chồng giấy tờ. Ông đứng bên cửa sổ, mỉm cười ngơ ngẩn và nước mắt chảy ròng ròng hai bên má.

    Batsana suốt đêm không ngủ. Sáng ra, khi đến tòa soạn, việc đầu tiên là ông gọi điện về Cục thống kê.
    -- A-lô, tôi nghe đây! -- Một giọng nói trẻ trung dễ thương trong ống điện thoại.
    -- Cục thống kê phải không ạ?
    -- Vâng

    * Thiên hà
    ** Là mặt trăng (tiếng Gruzya)

    -- Xin cô cho biết: có Galăctiôn Mơtvaratzê làm việc ở đấy không?
    -- Mơtvaratzê à?... Anh chàng dở người ấy ư?... Xin lỗi, ông là ai vậy?
    -- Tôi là bạn của Galăctiôn.
    -- Đã một tuần nay Galăctiôn biến mất tích.
    Ống điện thoại nằm lặng trong tay Batsana.
    -- A-lô, a-lô...
    Batsana đặt ống nói xuống.
     
    Chỉnh sửa cuối: 4/6/15
    ------ thích bài này.
  5. notrinos

    notrinos Lớp 5

    16.
    Batsana Ramisvili sinh ngày mười bốn tháng bảy. Ngày đó có ghi trên tất cả các cuốn lịch của thế giới, nhưng dĩ nhiên không ghi là ngày sinh của Batsana, mà là ngày phá ngục Baxti, ngày ra đời của nước Cộng hòa Pháp.
    Lúc này Batsana mỉm cười nhìn cuốn lịch nằm trước mắt và nghĩ ngợi...
    Những người Pháp sinh ngày mười bốn tháng bảy cố nhiên kỷ niệm ngày sinh của mình một cách long trọng. Nhưng ai biết ngày sinh của Batsana? Chẳng ai cả! À, chắc chắn là ở phòng cán bộ, nơi lưu giữ hồ sơ cá nhân của ông và ở phòng chứng minh thư của công an, nơi mới đây người ta cấp chứng minh thư vô thời hạn cho ông, họ biết điều đó. Nhưng biết chưa có nghĩa là ghi nhớ... Lần cuối cùng Batsana được mừng sinh nhật là vào năm lên chín. Văctăng Enbakitzê, bạn học cùng trường tặng Batsana chiếc ô tô chữa cháy tự hành màu đỏ tuyệt diệu... Ôi, chuyện ấy xưa lắm rồi!... Từ bấy trở đi, ngày sinh của Batsana chỉ được nhắc đến có ba lần:
    "Đáng rủa sả thay ngày sinh của mày!" -- ấy là khi lần đầu tiên ông hút thuốc lá.
    "Mày sinh ra đời làm cái nợ gì kia chứ!" -- ấy là khi ông uống rượu lần đầu tiên.
    "Ai đẻ ra mày thế không biết, đồ quái vật!" -- ấy là khi ông đánh mất phiếu bánh mì.
    Nhứng lời ấy ông phải nghe vào những thời gian khác nhau, do những người khác nhau nói ra, mà ngay hồi đó cũng như sau này, không bao giờ ông oán giận họ, bởi vì ông biết rõ rằng: người ta nói như thế, trong hai trường hợp thứ nhất, là vì lo cho sức khỏe của ông, còn trong trường hợp thứ ba, là vì lo sợ cái đói không sao tránh khỏi. Lòng biết ơn vô hạn, ông nghĩ về những con người đó, chỉ có các người mới có thể nghĩ đến ngày sinh của ông và giờ đây các người không còn nữa. Để đền đáp lại lòng tốt của các người đối với ông, ông vẫn ra nghĩa trang đều đặn và đặt hoa lên mộ các người, hoa tím, hoa hồng, hoa đinh hương...
    ... Và ngày hôm nay đây... Biết bao nhiêu người ra đời ngày hôm nay sẽ được tặng hoa, bao nhiêu ngôi mộ của những người chết ngày hôm nay sẽ được đặt hoa. Biết bao nhiêu cặp mắt của trẻ sơ sinh sẽ mở ra ngày hôm nay, và biết bao nhiêu cặp mắt sẽ nhắm lại mãi mãi... Batsana hình dung thấy cái vòng đu đang quay, cái vòng đu khổng lồ như cây đời. Thấp thoáng hàng nghìn khuôn mặt -- quen và lạ, mỉm cười và buồn rầu, ngạc nhiên và hân hoan, cau có và sung sướng, tiều tụy và hạnh phúc... Những con người mệt mỏi, ngây ngất rời khỏi những thứ đồ chơi -- con tàu, ô tô, máy bay, ngựa, và những người khác lên thay chỗ họ trên vòng đu quay... Batsana có cảm giác chính ông cũng vừa rời vòng đu quay, đầu óc ông quay cuồng. Ông đứng lên, loạng choạng đến gần cửa sổ và mở toang cửa. Làn gió chiều nhè nhẹ ùa vào phòng. Rồi Batsana đến gần cửa ra vào, ngó ra hành lang. Trong tòa soạn không còn ai. Vì muốn có cách nào kỉ niệm ngày sinh của mình và không nghĩ được điều gì hay hơn, hôm nay Batsana cho các cán bộ về trước khi hết giờ làm việc, khiến họ ngạc nhiên và vui mừng.
    Ông trở lại bàn, ngồi xuống và lấy trong ngăn kéo ra tập bài đầu tiên vớ được. "Tại sao dơi ngủ thõng đầu xuống dưới?" -- nhan đề bài đó như thế.
    Có tiêng chuông điện thoại: "Người nào lại nảy ra ý nghĩ gọi điện thoại vào lúc này thế nhỉ?" -- Batsana ngạc nhiên nhấc ống nghe lên.
    -- Tôi nghe đây!
    Ống nói im lặng.
    -- Tôi nghe đây, tôi nghe đây!
    Trong ống có tiêng loạt soạt giống như hơi thở. Không đợi trả lời, Batsana đặt ống nghe và trở lại với bản thảo. Ừ nhỉ, tại sao dơi ngủ lại treo đầu xuống dưới? Batsana không đọc bản thảo, không hiểu sao ông muốn tự tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi tuồng như vô nghĩa ấy. Hẳn là vì... Thuở bé, trong các giờ thể dục, đã nhiều lần Batsana treo mình trên xà đơn, thõng đầu xuống, được giảng viên khen ngợi, nhưng chẳng cảm thấy có gì thích thú đặc biệt. Có lần, ở Kôbulêti, Batsana đã ở trong trạng thái đó đúng mười lăm phút: những người đánh cá đã lôi được thằng bé sống dở chết dở từ dưới nước lên, phải khó khăn lắm mới làm cho nó nôn ra được hết nước, và sau này cứ nhớ đến trạng thái treo ngược đầu xuống là Batsana lại cảm thấy ghê tởm. Vậy thì cái tư thế khác thường ấy có gì hấp dẫn những con dơi? Không thể hiểu được... Batsana quyết định tìm câu giải đáp trong tập bản thảo nằm trước mặt ông, nhưng ngay lúc đó cửa phòng bật mở và một phụ nữ đẹp lạ thường bước vào.
    -- Tôi đây mà! -- người phụ nữ nói.
    Batsana không tin mắt mình nữa: trước mặt ông là Marya. Batsana muốn mời nàng ngồi, nhưng lưỡi không tuân theo ông, ông muốn đứng lên nhưng đầu gối khuỵu xuống, ông muốn mỉm cười, nhưng mặt ông như hóa đá. Trong khoảnh khắc, ông trở nên điếc và câm. Người phụ nữ đứng không nhúc nhích, tái nhợt, ngực nhô cao, cổ nổi lên những vệt đỏ.
    -- Tôi đã gọi điện cho anh! -- chị nói khẽ.
    -- Tôi biết! -- Batsana sự tỉnh. -- Tôi nghe thấy hơi thở của chị.
    -- Anh không ở nhà, vì vậy tôi gọi điện về đây.
    -- Tôi có thể làm gì cho chị? -- Batsana thốt lên như cái máy.
    -- Ta đi với nhau -- người phụ nữ nói.
    -- Đi đâu? -- Batsana ngạc nhiên, hỏi.
    -- Đi đâu tùy anh!
    Batsana sững sờ.
    -- Mời chị ngồi! -- Ông thốt lên một cách khó nhọc.
    Người phụ nữ vẫn đứng. Vóc dáng cân đối, môi đỏ thắm, tóc đen, mặc áo nịt ngắn màu xanh lá mạ và váy trắng như tuyết, nom chị giống mùa xuân vào qua cửa sổ.
    -- Ta đi đi! -- người phụ nữ nhắc lại, tay đung đưa một cách nôn nóng cái túi xách tay màu lá mạ. Batsana đứng lên và mãi đến giờ mới để ý đến đôi giày màu lá mạ dưới cặp chân thanh tú của chị.
    Hai người lẳng lặng ra khỏi phòng.
    Ở ngoài phố, Batsana gọi tăc xi
    -- Đi đâu? -- người lái xe hỏi.
    -- Đi đâu cũng được! -- Batsana đáp và nhìn người phụ nữ. Nàng mỉm cười.

    Họ lên đại lộ Kômxômôn và chọn một chỗ ở hàng hiên một tiệm ăn nhỏ.
    Người nhân viên phục vụ đặt trước Batsana tờ thực đơn và bỏ đi.
    -- Gọi món gì? -- Batsana hỏi.
    -- Khoai tây rán.
    - Gì nữa?
    -- Thế thôi.
    -- Rượu vang nhé?
    -- Tùy anh.
    -- Cô-nhắc chứ?
    -- Không
    -- Thế thì "Tibaani" vậy.
    -- Vâng, được.
    Trong lúc chờ đợi người phục vụ. Batsana châm thuốc hút và mời Marya.
    -- Cám ơn, tôi không hút.
    Bắt đầu im lặng. Batsana hút thuốc, thỉnh thoảng nhìn Marya và nghĩ ngợi... Nàng đến gặp ông làm gì? Có công việc chăng? Hay nàng muốn giữ quan hệ quen biết với ông? Hay là... Ồ không, không làm gì có chuyện ấy, nàng không thể biết ngày sinh của ông!... Vậy thì cái gì thúc đẩy nàng đến gặp Batsana?... Hỏi ư? Nhưng có cái gì ngăn Batsana không hỏi câu đó. Và "cái gì" ấy không dính líu với lý do tế nhị: Batsana sợ làm tắt tia hy vọng mỏng manh leo lét trong đáy trái tim ông từ ngày gặp người phụ nữ kỳ lạ này...
    Cuối cùng người phục vụ trở lại, và Batsana thở dài nhẹ nhõm.
    -- Ở đây có món gì? -- Ông hỏi.
    -- Sữa chim! -- Người phục vụ đáp.
    -- Nếu vậy thì cho khoai rán và "Tibaani".
    Người phục vụ ỉu xìu.
    -- Thịt cừu nướng, thịt bê nướng, phi-lê tsakapuli, apkhazura, mugiugi, tatariăcmê*, nađughi**, mơtsađi*** phó mát mới làm, hồ đào... Ông chọn đi!
    -- Thế không có lưỡi họa mi à? Lưỡi rán! -- Batsana bông đùa.
    -- Không có lưỡi rán, lưỡi luộc thì có! -- Người phụ vụ cười nhăn nhở.
    -- Thế thì mang cả đến đây!
    -- Hồ đào và "Tibaani" -- Marya nói.
    Người phục vụ gật đầu tuân lời và đi.
    -- Marya, thế chồng chị có biết lúc này chị đang ở đâu không? -- Batsana buột miệng và chính mình ngạc nhiên về câu hỏi dớ dẩn đó.
    -- Tôi không hỏi anh câu tương tự, vì tôi biết anh chưa có vợ. -- Marya mỉm cười, đáp.
    -- Vậy là chị không có chồng ư? -- Không hiểu vì sao, Batsana kết luận.
    -- Hiện giờ không có chồng -- Marya nói.
    -- Tại sao? -- Batsana hỏi và hiểu rằng mình lại buột ra m,một câu ngớ ngẩn.
    Người phụ nữ im lặng.
    -- Nghĩa là tôi muốn hỏi, con gái chị có bố không? -- Batsana tìm cách giảm bớt tình trạng ngượng ngập.
    -- Có bố và có chồng! -- Marya đáp.
    Batsana lấy điều thuốc lá nữa. Người phục vụ trở lại tay không.
    -- Thưa ông, thịt nướng hết cả rồi... Gà con thì tôi không mời ông dùng: gà ấp nhân tạo... Phi-lê thì hóa ra hôm nay người ta không chở tới... "Tibaani" không có, sâm banh cũng không... Có pho mát Thụy Điển, pho mát Rôxtôp, xaêrô* và củ cải...

    * Những món ăn làm bằng thịt kiểu dân tộc của Gruzya.
    ** Món sữa.
    *** Bánh tráng bột ngô.

    Batsana ngẩn người.
    -- Thế còn sữa chim thì sao? -- Marya hỏi.
    -- Bị chua rồi! -- Người phục vụ nói đùa.
    Marya phá lên cười to đến nỗi khách trong quán ăn quay về phía nàng.
    -- Cửa hang trưởng của anh đâu? -- Batsana hỏi người phục vụ.
    -- Ông ấy hiện không có ở đây, thưa quý khách... Hễ ông ấy về, tôi sẽ đưa đến gặp ông ngay!
    "Hoặc gã nhân viên này là một thằng ngốc, hoặc họ nhận ra ta và giấu những thực phẩm mua ở chợ" -- Batsana nghĩ và nói với Marya.
    -- Ta rời khỏi đây đi. Tôi không muốn kỷ niệm cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng ta bằng củ cải và xaêrô...
    -- Chuyện ấy quan trọng đến thế ư? -- Marya đáp -- Bảo anh ta có gì cứ mang ra. Còn chúng ta sẽ tưởng tượng ta đang ở Lêningrat bị bao vây. Ta sẽ nhìn nhau... Buổi chiều hôm nay sẽ mãi mãi ghi sâu vào trí nhớ chúng ta...
    Con sâu ngờ vực lại ngọ nguậy trong ý thức Batsana. "Nàng muốn gì ở ta? Ai phái nàng tối? Nàng đến tìm ta để làm gì? Chẳng lẽ chỉ vì muốn gặp ta thôi ư?". Ông ngẩng đầu lên nhìn Marya. Marya nhìn ra chỗ nào phía sau lưng ông. Batsana dõi theo luồng mắt nàng và thấy anh chàng nhân viên phục vụ đứng trước một người đàn ông mập mạp, nghe người đó nói và ngoan ngoãn gật đầu như đồ chơi lên dây cót.
    -- Người ta đang âm mưu chống lại anh! -- Marya nói với Batsana.

    * Một thứ rượu vang
    -- Nếu họ định làm cho tôi mất chị thì sẽ không ăn thua gì hết! -- Batsana phá lên cười, cầm lấy con dao cong bằng nhôm trên bàn.
    -- Bằng con dao như thế anh không bảo vệ được tôi đâu! -- Marya mỉm cười.
    -- Tôi chỉ câng dùng răng thôi! -- Batsana đáp, đưa mắt nhìn về phía người phục vụ, nhưng cả anh ta và người nói chuyện với anh ta đều không còn đấy nữa. -- Marya, tôi không còn sức chịu đựng nữa! Hãy nói rõ đi, cái gì đưa chị đến với tôi? Chị cần gì?
    -- Thì tôi có cầu xin anh điều gì đâu? -- Marya ngạc nhiên.
    -- Chị đặt cho tôi một nhiệm vụ rất phức tạo... Hãy giải thích cho tôi điều đó hoặc giết tôi đi!
    -- Nhiệm vụ rất đơn giản. Ngày mai tôi sẽ đáp máy bay về Kutaixi. Và bao giờ cũng thế, trước khi lên máy bay, tôi muốn chia tay với một người thân thiết của tôi. Tất cả sự bí hiểm chỉ là thế.
    -- Tại sao lại thế? -- Batsana bối rối, hỏi.
    -- Vâng, đúng thế... Không hiểu sao lần nào tôi cũng có cảm giác rằng nhất định máy bay sẽ gặp chuyện gì không hay. Và tôi gặp những người thân thiết lần này là lần cuối... -- Marya cúi đầu xuống.
    -- Cả tôi cũng thuộc loại người ấy chứ? -- Batsana ngạc nhiên. Marya không nhìn Batsana, gật đầu.
    -- Vì lẽ gì tôi xứng đáng với môt phụ nữ như thế... à không, với một vinh dự như thế?
    -- Giá mà tôi biết được!...
    -- Chị có nhiều người như thế không?
    Tim Batsana đập rộn ràng chờ câu trả lời.
    -- Cho đến ngày hôm nay, chỉ có một người duy nhất: Maiya, con gái tôi. Bây giờ có thêm một người nữa -- đó là anh.
    "Hoặc tất cả những chuyện đó là ta mơ thấy trong chiên bao, hoặc người đàn bà này chính là quỷ xa tăng!" -- một ý nghĩ thoáng qua trong óc Batsana, còn Marya bỗng nhiên ngẩng đầu lên và nói bằng giọng xúc động:
    -- Tôi biết anh coi tôi là người điên hay một kẻ phiêu lưu... Tôi cam đoan với anh, tất cả những việc đó xảy ra ngoài ý chí của tôi!... Đã một năm nay tôi đấu tranh với bản thân... Nhưng không ăn thua gì! Tôi là một phụ nữ cương nghị! Tôi sẽ đứng lên và đi khỏi đây ngay bây giờ! -- Marya đứng lên.
    -- Nếu chị đi, tôi sẽ chết mất thôi! -- Batsana chạm vào những ngón tay lạnh giá của người phụ nữ, và nàng tin ở lòng thành thực của anh. Hiểu điều đó, Batsana hôn tay Marya.
    -- Cám ơn! -- Marya nói và ngồi xuống.
    Người phục vụ đến, hai tay bưng một khay đầy những món ăn cầu kỳ.
    -- Cái gì thế? Ở đâu ra? -- Batsana ngạc nhiên.
    -- Ông cửa hàng trưởng đến, trông thấy ông và lệnh cho xuất hàng -- người phục vụ giải thích.
    -- Cửa hàng trưởng của anh là ai?
    -- Ông ấy đến ngay bây giờ đấy!
    -- Sao, ông ấy biết tôi à?
    -- Biết ư? Suýt nữa thì ông ấy thải tôi! Nào tôi có lỗi gì, thưa ông, trên trán con người có ghi rõ người đó là ai và ở đâu đâu! Xin ông thứ lỗi cho! -- Người phục vụ cúi chào và chạy đi.
    Batsana tươi tỉnh hẳn lên. Ông mở nút chai sâm banh đánh bốp một tiếng và rót đầy tràn hai cốc vại.
    -- Tôi muốn thổ lộ với chị một điều bí mật, Marya ạ...
    -- Không, cốc chúc mừng đầu tiên là của tôi! -- Marya nâng cốc.
    Batsana lắng tai nghe.
    Marya chờ cho bọt trong cốc xẹp xuống, rồi nhìn xuyên qua cốc, ngắm vầng trăng lưỡi liềm vàng óng đã nhô cao trên Narikala*. Batsana theo gương nàng. Vầng trăng thoạt đầu giật mình, bắt đầu lung linh, rồi chậm chạp choán đầy cốc và tan trong chất lỏng màu hổ phách. Batsana có cảm tưởng ông cầm trong tay vầng trăng màu hổ phách mát lạnh.
    -- Hôm nay là trăng mười bốn... -- Marya khe khẽ nói.-- Mọi người đều biết đích xác lúc trăng mọc và trăng lặn, đều biết ngày trăng mới và ngày trăng tròn. Nhưng không một ai trên thế gian biết có trăng từ bao giờ, nó ra đời tự bao giờ... Tôi uống mừng sức khỏe những người mà ngày sinh của họ không ai biết đến...
    Marya chạm cốc với Batsana. Trăng trong cốc của Batsana lại rung lên, rồi tan ra, biến thành chất lỏng màu hổ phách trong suốt. Marya và Batsana cạn cốc, và khi Batsana lại nhìn lên trời thì không thấy trăng đâu nữa. Trăng đã lặn trong mây.
    -- Bây giờ ta sẽ uống trăng! -- Ông reo lên, vui sướng như trẻ thơ vì sự trùng hợp kỳ lạ ấy.
    -- Cầu trời cho anh thọ ngang vầng trăng! Chúc mừng ngày sinh của anh! -- Marya đặt cốc xuống. -- Ban nãy anh nói về một điều bí mật gì đó, tôi đã không để anh nói -- Nàng nhắc.
    Batsana bỗng muốn áp mặt vào ngực người phụ nữ kỳ lạ này mà khóc.
    -- Tôi chỉ muốn nói rằng em xinh đẹp lạ thường. Marya ạ. Có thể hôn em được chứ?
    Người phụ nữ chỉ mỉm cười đáp lại. Thế là Batsana đứng lên, cúi mình qua bàn, hôn lên đôi mắt to ẩm ướt của Marya. Liền đó nàng thấy người đàn ông mập mạp vừa rồi đã nói chuyện với người phục vụ.

    * Một pháo đài cổ ở Tbilixi
    -- Chào ông! -- người đàn ông đến gần, nói bằng giọng khàn khàn.
    -- Chào ông! -- Batsana đáp.
    -- Nếu ông cho phép, thưa ông Batsana kính mến, tôi chỉ quấy quả ông một lát thôi...
    -- Mời ông ngồi... Đây là cô bạn tôi, Marya...
    Người đàn ông nghiêng mình chào lịch thiệp, hôn lên tay Marya và ngồi xuống.
    -- Ông không nhận ra tôi ư, ông Batsana kính mến? -- người đàn ông lấy trong túi ra ba hộp "Winxtôn", đẩy một hộp về phía Marya, hộp thứ hai về phía Batsana, hộp thứ ba giữ cho mình.
    Batsana chăm chú nhìn người đàn ông, một hồi ức lờ mờ thoáng qua trong đầu ông, nhưng ông không nắm bắt được và thốt lên một cách ngượng ngập:
    -- Có chứ, tôi nhận ra, nhưng không sao nhớ được chúng ta đã gặp nhau ở đâu.
    -- Tôi là Xanđrô Maglapêritzê ở xĩ nghiệp liên hợp chế tạo các sản phẩm bằng da lông thú...
    -- À-à! -- Batsana kêu lên, -- đã bao thời gian trôi qua rồi!... Hiện giờ ông ở đâu, sống thế nào, thưa ông Xanđrô?
    -- Cám ơn, tôi vẫn sống tạm qua ngày...
    -- Nếu ông hạ cố đến đây để trách móc về chuyện cũ thì xin ông đừng làm điều đó hôm nay... Hôm nay là ngày sinh của cuộc cách mạng Pháp, đồng thời là ngày sinh của tôi! -- Batsana nói một cách vui vẻ và đưa cho Maglapêritzê một cốc đầy.
    -- Chết nỗi! Trách móc gì! Trái lại, tôi đến để cảm ơn ông, ông Batsana kính mến!... Ông bao nhiêu tuổi rồi ạ?
    -- Bốn mươi lăm!
    -- Trời! Ông sẽ còn ngần ấy năm nữa hưởng lạc thú! Và cả tình yêu nữa! -- Maglapêritzê nhìn Marya. Marya bối rối và đỏ mặt. -- Chúc mừng ông, ông Batsana kính mến! Cầu trời cho ông được hạnh phúc! Ông là người không có khả năng làm điều ác, cho dù có muốn làm ác đi nữa!
    -- Ông tưởng thế ư?
    -- Tất nhiên! Sau khi bài văn châm biếm ấy được đăng lên, tôi thành người nổi tiếng! Cả Gruzya biết tôi!.
    Batsana phá lên cười.
    -- Tôi không mong cho ai được lừng danh như thế, ngay cả kẻ thù của tôi!
    -- Xin đừng nói thế... Danh tiếng là danh tiếng... Hãy nhớ đến Hêrôxtrat... Bài văn châm biếm đăng trên báo của ông đã giúp chân lý giành phần thắng và đã lột mặt nạ cái ác.
    -- Tôi không hồ nghi gì về điều đó...
    Một linh cảm khó chịu ngầm bảo Batsana rằng Maglapêritzê đến gặp ông hoàn toàn không phải vì tình cảm biết ơn.
    -- Vâng, vâng... Do quan tâm đến bài văn châm biếm, các cơ quan điều tra xác minh rằng mụ đàn bà ấy là một ả đầu cơ và bịp bợm... Còn người được ông gửi cho bài văn châm biếm để người đó có biên pháp xử trí thì té ra lại là một người yêu nước chân chính...
    -- Bằng cách nào?
    -- Theo dự tính của ông, việc loại bỏ bài châm biếm đó khỏi số báo đã sắp chữ sẽ làm thiệt hại cho nhà nước năm mươi ngàn rúp, phải không ạ? Người đó đã giảm số thiệt hại xuống còn hai mươi nhăm ngàn...
    Batsana bối rối. Maglapêritzê cảm thấy điều đó và bình tĩnh giải thích:
    -- Ông ấy hành động rất đơn giản: không tỏ thái độ về bài đăng của ông.
    -- Ông muốn nói là ông ấy đã đút lót, tức là đã bỏ ra hai mươi nhăm ngàn rúp chứ gì?
    -- Sao lại gọi là đút lót, thưa ông Batsana kính mến? Tạ ơn một người đã chú ý đến ta, đã giúp đỡ ta là đút lót ư? Chẳng lẽ ngày nay chúng ta không còn theo bộ luật đạo đức của Ruxtavêli nữa ư? Ông hãy nhớ lại Avtanđin nói gì với quan tể tướng:
    Một người bạn không thể sống không có bạn mà trái tim không đau
    Lúc cần, người bạn sẽ tức thời tới giúp không chút e dè.
    -- Tôi thấy ông đã xây dựng chu đáo thứ triết lý bẩn thỉu của ông, có viện dẫn những văn bản gốc. -- Batsana châm chọc.
    -- Ồ, văn học cổ điển thực là vĩ đại... Ruxtavêli thì tôi đọc đi đọc lại hàng ngày, như đọc Phúc âm... Nhưng tôi cũng đọc cả các tác phẩm của ông và tìm thấy trong đó nhiều điều bổ ích cho bản thân... Người bạn gái của ông thật là một trang tuyệt sắc, thưa ông Batsana kính mến. -- Maglapêritzê đột nhiên thay đổi đề tài, -- Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy một phụ nữ không trang sức mà đẹp như thế!
    Batsana không ngờ một bước xoay chuyển như thế và không biết trả lời ra sao.
    -- Vợ ông hẳn là thừa thãi đồ trang sức? -- Marya hỏi Maglapêritzê, và để giấu sự lo lắng, nàng uống một hớp rượu vang.
    -- Quả có thế... Nhưng tôi không có ý nói đến các bà vợ... Có những người phụ nữ làm đẹp cho đời ta ở ngoài tổ ấm gia đình, có thể nói như vậy...
    Marya đỏ bừng mặt, nhưng không nói gì.
    Batsana quyết định trở lại đề tài chính của cuộc nói chuyện.
    -- Thế sau khi bài châm biếm được đăng trên báo, trong đời ông không có thay đổi gì ư?
    -- Có chứ, thưa ông Batsana kính mến! Thứ nhất, cơ sở sản xuất của tôi đã cháy sạch. Ấy là tại dây điện quá cũ... Thứ hai, quan thầy của tôi về hưu và bây giờ làm ở ngành thương nghiệp. Ông ấy kéo tôi về cùng làm. Chúng tôi đã thành lập một liên hợp các hiệu ăn... có thể nói chúng tôi đã gây dựng cơ đồ trên đống tro tàn, như dựng lại Rôm đã bị Nêrông đốt cháy, ha-ha!... -- Maglapêritzê cười hi hi nghe đến đáng ghét.
    -- Phải, bây giờ thì tôi biết chắc ông là một tên đại bợm rất nguy hiểm, thưa ông Xanđrô... Và nhất định tôi sẽ trở lại vụ việc của ông, nếu hoàn cảnh cho phép. -- Batsana nói một cách nghiêm túc.
    -- Quả là tôi không hề chờ đợi ở ông một câu trả lời như thế! Tôi tưởng rằng qua thời gian đó, ông đã trở nên biết điều, đã học được cách gáy đúng điệu... Vậy mà ông vẫn cục ta cục tác theo kiểu của ông.... Chẳng lẽ ông không biết người ta thường xử trí như thế nào với những chú gà trống gáy không đúng lúc à?
    -- Hăm dọa ư? -- Batsana giận tái người.
    -- Anh không cảm thấy ghê tởm vì phải nói chuyện với tên đê mạt này sao? -- Marya hỏi Batsana. Maglapêritzê bật dậy. Cả Marya cũng đứng lên.
    -- Cút khỏi đây! -- Batsana nói rất khẽ với Maglapêritzê.
    -- Đừng chiều theo thói đồng bóng của đàn bà, ông Batsana kính mến... Những con đĩ đã ép các chiến sĩ Maxêđoan đốt trụi thành bang Perxêpôlix tráng lệ nhất thế giới... -- Maglapêritzê nói, cặp mắt vàng vọt đầy căm hờn của y nhìn xoáy vào Marya. Đột nhiên, trong lúc Batsana đã kịp nghĩ ra cách đối phó, Marya vung tay giáng cho Maglapêritzê một cái tát cực mạnh. Tiếng tát khiến cho cả quán ăn quay về phía họ, nhưng mọi việc xảy ra nhanh đến nỗi chẳng ai nhận thấy gì cả... Ở bàn Batsana, không khí yên lặng như trong nấm mồ... Batsana bỗng cảm thấy từ phía bên kia, Maglapêritzê bắt đầu nâng mép bàn lên. Ông đè tất cả sức nặng của mình lên bàn. Maglapêritzê rán hết sức lật đổ bàn nhưng không được. Cuộc quyết đấu thầm lặng ấy kéo dài chừng một phút. Cả Batsana và Maglapêritzê đều nổi gân trán, mắt đỏ như máu...
    -- Chớ có cả gan! Batsana thì thầm, và lời nói thầm ấy đáng sợ đến nỗi cơn nóng của Maglapêritzê nguội hẳn đi. Y lấy lại vẻ mặt như trước, mắt tươi cười. Y rời xa bàn và nói với Marya :
    -- Cảm ơn bà, thưa phu nhân! Suốt đời tôi sẽ không quên cái vinh dự bà đã ban cho tôi!
    Mặt tráng bệch như phấn, Marya lặng thinh.
    -- Đi khỏi nơi đây, Maglapêritzê! -- Batsana nói, ngạc nhiên về sự bình tĩnh của mình.
    Maglapêritzê quay ngoắt đi và tháo lui.
    Batsana và Marya đứng im một lát, bàng hoàng về sự việc đã xảy ra, rồi họ ngồi xuống bên bàn. Sự im lặng kéo dài hồi lâu. Người đầu tiên phá tan sự im lặng là Batsana.
    -- Marya, cho xem vé máy bay của em nào!
    Marya mở túi, tay run run bắt đầu lục tìm trong túi, cuối cùng tìm thấy tấm vé, nàng lấy ra và đưa cho Batsana.
    Không nhìn tấm vé, Batsana xé vụn ra, ném những mảnh giấy vụn vào cái gạt tàn và châm lửa đốt.
    -- Đừng bỏ anh ở lại, Marya! -- Ông nói khẽ, khi những mảnh vé trong gạt tàn đã cháy hết, Marya đáp lại bằng cái gật đầu khó nhận thấy. Batsana rót rượu đầy hai cốc và gọi người phục vụ.
    -- Thanh toán đi!
    -- Đã trả tiền hết rồi!
    -- Ai trả?
    -- Cửa hàng trưởng của chúng tôi!
    Batsana phá lên cười.
    -- Ngày chiếm ngục Baxti đối với ta là thế đấy!... Chúc mừng em, Marya! -- Họ chạm cốc. Rồi Marya đứng lên, tới bên Batsana và hôn lên má ông. Sau đó nàng trở về chỗ của mình, ngồi xuống, úp mặt vào hai bàn tay và bật khóc nức nở.
    Nhà thờ Savnabađa* cao ngất trên núi quả thật giống một người chăn cừu mặc áo burka đen, giơ một tay che nắng và đang trông những đàn cừu ăn cỏ trên bờ các con sông Mơtkvari, Anghêti, Masavêra, Khrami**. Các thành phố Ruxtavi, Boonixi, Macnêuli nằm trải ra dưới chân núi nom giống như con chó khổng lồ đang canh giữ cừu, mõm chúng nhả ra khói và hơi nóng.
    Nhà thờ Savnabađa đẹp lạ thường vào cuối thu, chìm trong sương khói mỏng manh, mái vòm chống đỡ bầu trời. Một ngày chủ nhật. Trên con đường cái hẹp, một chiếc ô tô chạy rì rì. Nó lắc lư như say rượu, đến mỗi chỗ ngoặt lại dừng, lùi lại phía sau, lấy đà và lao mạnh lên, vượt đoạn dốc tiếp theo.
    Đến khúc ngoặt cuối cùng trước nhà thờ, xe lại dừng.
    Batsana mở tốc độ số một, ấn bộ li hợp. Sỏi cát bắn tung tóe dưới bánh sau ô tô. Batsana nhấn bàn đạp tăng tốc. Bánh xe quay như điên. Có mùi cao su cháy khét.
    -- Ta xuống thôi. -- Marya nói.
    -- Cứ ngồi yên. Xe trượt bánh là bởi tải nhẹ quá. -- Batsana giải thích.
    Ông chờ cho xe lùi lại, rồi xả tốc và thêm ga. Xe băng về phái trước.
    -- Thế là đến rồi đấy!
    Batsana cho xe đậu dưới gốc cây.

    * Savnabađa là tên núi: tiếng Gruzya (Savi) là đen, "nabađi" là áo burka.
    ** Tên các con sông.
    *** Tên các thành phố gần Tbilixi.

    Marya ra khỏi xe, cởi giầy, chân không chạy trên cỏ mấy bước, rồi dừng lại giữa sân, giang hai tay ra, và nhón đầu ngón chân, xoay tròn như cô bé con, reo lên:
    -- A-u, chúng ta gần thượng đế biết bao!
    Rồi nàng ngồi xuống phía trước nhà thờ, gục đầu vào giữa hai đầu gối và đờ ra, như rơi vào trạng thái xuất thần của người hành hương.
    Batsana lấy thực phẩm trong ngăn hành lý, bầy biện lên chiếc bàn kê dưới gốc cây, rồi tới gần Marya, ngồi xuống đất cạnh nàng, ôm lấy vai nàng, vừa nói vừa cười:
    -- Marya, em cầu nguyện điều gì đi!
    Marya quỳ gối, chắp hai tay giơ lên cao, nhắm mắt và cất tiếng thì thầm:
    Chàng là hy vọng của những hy vọng của em.
    Là ánh sáng của trái tim, là sự bình yên của tâm hồn.
    Chàng là ánh hào quang tinh tú cảu em.
    Chàng là tia nắng vàng.
    Chàng là nguồn bất tử.
    Thiên thần cánh trắng của em.
    Một điều duy nhất em cầu xin thượng đế:
    Được ở bên chàng, mãi mãi bên chàng.
    Marya ngừng lời.
    Batsana thuộc lòng những câu thơ ấy, nhưng chưa lần nào ông ngẫm nghĩ về nội dung của nó, sao mà nó giống lời cầu nguyện đến thế. Lúc này tâm hồn ông tràn ngập cảm giác hiền hòa, một cái gì ấm áp tràn lan khắp cơ thể.
    Ông kéo Marya áp vào mình và hỏi:
    -- Đấy là lời cầu nguyện hay ước mong?
    -- Chẳng phải hai cái đó cũng là một thôi ư?
    Mặt trời thân thương,
    Đừng ẩn mình sau núi!
    Bạn thấy đấy, ở đây một thiếu nữ đang cóng rét.
    Hãy lấy thân mình sưởi ấm cho nàng!
    Mau mau ôm lấy con bồ câu xinh xắn,
    Nói với nàng một lời về tình yêu.
    Người đẹp không thể chờ đợi,
    Nàng sẽ đi tìm một trang anh tài khác!
    Dường như thiên nhiên lắng nghe lời Marya: vầng mặt trời khổng lồ từ sau núi nhô lên, ôm lấy nhà thờ trong những cánh tay nóng rực và trong nháy mắt, như uống sữa, nó uống hết sương mù lan tỏa trên các sườn núi.
    Marya nép sát vào ngực Batsana cất tiếng nói, và lời nàng nghe như lời cầu nguyện.
    -- Đưng bỏ rơi em, Batsana! Đừng bỏ em, anh là hy vọng duy nhất của đời em!... Tại sao trước đây anh không ở bên em? Nếu có anh, hẳn anh sẽ giúp em tránh được bao nhiêu tai họa!... Từ ngày em thấy anh lần đầu, em đã từ bỏ hết thảy!... Ngoài anh ra, đối với em không còn gì tồn tại nữa! Anh là thượng đế của em, em cầu van anh: đừng bao giờ ruồng bỏ em, đừng trả em về quá khứ! Em không muốn thế! Em mệt mỏi rồi!... Em đang tới gần anh... Đấy - đấy, em sẽ chạm vào anh... Em với anh... Đừng ruồng bỏ em!... -- Marya bật khóc.
    Tim lặng đi, Batsana nghe lời tự thú say đắm của người phụ nữ thổn thức và cố dỗ dành nàng.
    -- Em làm sao thế, Marya?... Sao em lại nghĩ rằng anh sẽ bỏ rơi em?... THôi, nín đi!... Đừng khóc, em thân thương của anh!... Anh sẽ mãi mãi ở bên em!...
    Khi Marya đã nguôi hẳn, Batsana thận trọng dìu nàng nằm xuống cỏ, rồi đứng lên, đi về phía nhà thờ. Ông cũng bàng hoàng xúc động không kém gì Marya.
    Trong nhà thờ mát lạnh và tranh tối tranh sáng. Batsana nhìn quanh.
    Tường lở lói vì hơi ẩm... Xung quanh không một bức tranh thánh, không một bức bích họa... Tấm bình phong tranh thánh tả tơi... Trong góc, một chiếc bàn gỗ nhỏ khập khiễng, trải tấm vải màu lá mạ sờn rách, trên có cái giá nến dúm dó và bức tranh Đức Mẹ do bàn tay một người kỳ quặc nào đó vẽ...Trong giá nến có ba cây nến cháy gần hết... Trên bàn có một bó những cây nến nhỏ con và cạnh đó là một tờ giấy bạc ba rúp nhàu nát...
     
    Chỉnh sửa cuối: 5/6/15
  6. notrinos

    notrinos Lớp 5

    -- Ê-ây! -- Batsana gào.
    -- Ê-ê-ê-ây! -- Tiếng vang dội lại.
    Những con bồ câu đang gù ở chỗ nào trong các khóm tường dưới mái vòm bay vụt lên và theo nhau bay ra những khuôn cửa sổ hẹp... Batsana bắt đầu đi vòng quanh nhà thờ. Bức tường phía đông có chỗ cao bằng tầm người, ám khói nến! Đôi chỗ hiện lên những bản danh sách dài những người tham quan, xếp theo vần chữ cái, có ghi cả địa chỉ và ngày đến thăm nhà thờ. Trên khoảng tường chỗ bàn thờ, dưới bức tranh bích họa duy nhất vẽ hình đấng cứu thế, đã mờ phai gần hết, Batsana đọc thấy mấy câu thơ thảm hại, trong đó nhà thơ vô danh tự học thách thức đấng tối cao:
    Tôi không tin vào đấng vĩ đại
    Sáo rỗng và không có diện mạo
    "Một đoàn viên Kômxômôn vô thần" -- dưới bài thơ ngắn là chữ ký.
    Dưới một chút, có bài trả lời bằng chữ vạch trên tường:
    Nếu ngươi không tin Chúa và ngươi và tự mãn tự túc đến như thế.
    Ngươi lần mò đến đây làm chi, hỡi gã Kômxômôn trẻ tuổi?
    Ta có thừa công việc phải lo, con đường ta đi dài dằng dặc và đầy chông gai.
    Hãy để ta yên, gã vô thần tự tin kia!
    Dưới ký: "Jêsu Kirixitô"
    Batsana phá lên cười ha hả: trong cuộc đua tài vắng mặt đó, người vô thần rành rành là thua vị cha của thượng giới.
    Ở nhà thờ ra, Batsana không thấy Marya.
    -- Marya, em ở đâu đấy?
    Không có trả lời. "Sao ta lại bỏ nàng lại một mình?" -- Batsana nghĩ và cắm đầu chạy xung quanh nhà thờ.
    Marya ngồi bên chiếc bàn đã bày biện món ăn, dưới gốc cây và ôn tồn nói chuyện với một ông già nào không rõ.
    -- Em biến đi đâu vậy? Anh đã phát hoảng!... Chào cụ! -- Batsana quay về phía ông già.
    -- Cầu trời ban sức khỏe cho ông! -- Ông già bỏ chiếc mũ tusin*
    -- Ta ăn sáng chứ? -- Batsana hỏi Marya.
    -- Chứ còn gì nữa! Em đói ngấu rồi! -- Marya đồng ý. -- Bác đây sẽ ăn cùng với chúng ta.
    -- Sao lại không nhỉ! Tôi cũng có mấy món mang theo! -- Ông già cởi dây buộc bị, lấy ra cái bánh mì nhà làm, pho mát guđa, thịt luộc, tỏi ngâm giấm, nửa chai vôtka. Batsana lấy trong xe ra chai rượu vang.
    -- Các con ta ơi, trước hết ta hãy làm mỗi người một chén vốtka! -- Ông già lấy trong bị ra chiếc sừng nhỏ xíu, thổi vào đó, rót đầy vôtka và đưa cho Batsana.
    -- Nào, hãy nếm thử và hãy nói một đôi lời!
    -- Ta uống vì niềm vui của chúng ta và vì nỗi đau xót của các kẻ thù!
    Batsana uống cạn, im lặng một lúc, rồi thốt lên một cách khoái trá.
    -- Vôtka quả lòa tuyệt diệu! -- Và ông đưa tay lấy tỏi
    Ông già mừng rỡ, tự rót rượu cho mình.
    -- Ở đâu có niềm vui, ở đấy có đau xót. Ta uống vì cả niềm vui lẫn nỗi đau xót, cầu chúc bình yên và mạnh khỏe! Vì cuộc sống! -- Ông cụ dốc cạn cái sừng rượu và đưa tay vuốt bộ mặt không cạo, rồi rót cho Marya.

    * Loại mũ mềm, tròn nhỏ, bằng dạ.
    -- Còn bây giờ thì nói đi, con gái ta! Chúa đã tạo ra con xinh đẹp thế, lời lẽ của con hẳn là phải đẹp!
    Marya cầm lấy cái sừng.
    -- Bác bao nhiêu tuổi, thưa bác?
    -- À, -- ông già khoát tay. -- ngoài bảy mươi!
    -- Cầu trời ban cho bác ngần ấy năm sống nữa!
    -- Hơi nhiều, nhưng dù sao cũng cám ơn con! Ta yêu cuộc sống, chẳng giấu giếm làm gì! Ta còn muốn sống nữa!
    Batsana mỉm cười.
    -- Tên bác là gì, thưa bác? -- Ông hỏi.
    -- Tên ta là Ghêorghi, họ là Tumalisvili.
    -- Bác ở đâu ta?
    -- Ở cái xã kia kìa.
    -- Bác đến đây làm gì ạ?
    -- Chăn gia súc. -- Ông già giơ tay trỏ sườn núi đối diện, nới có hai con bò cái và ba con cừu cái đang ăn cỏ.
    -- Gia súc của bác à?
    -- Của ta.
    -- Thu nhập khá chứ ạ?
    -- Thu nhập quái gì! Chúng nuôi bản thân chúng còn không xong nữa là!
    -- Thế thì bác nuôi làm gì?
    -- Thế đấy, một ngụm sữa, một nắm len, và đôi khi may được miếng thịt... Ước gì có số con nhiều gấp đôi. Chứ như hiện nay thì ra quái gì? Vẻn vẹn chỉ đủ bữa ăn cho một con chó sói...
    -- Thế bác vẫn giao sản phẩm cho nhà nước chứ?
    -- Có, có giao...
    -- Bác giao cái gì?
    -- Thì cũng một ngụm sữa, một cụm len, một miếng thịt...
    -- Nếu bác có số con nhiều gấp đôi thì sao?
    -- Thì còn phải hỏi gì nữa, hả con! Có nhiều gấp đôi thì sẽ giao nộp gấp đôi… Chứ ta giấu đi đâu? Giao nộp cho nhà nước hay đem ra chợ…
    -- Vậy ra bác không làm việc trong nông trang ư, bác Ghêorghi?
    -- Làm chi được, hả con, tuổi tác như ta thế này!... Các con ta thì đương nhiên là có làm. Chúng nó caonf bảo ta không được chăn gia súc nữa kia. Bố làm ê mặt chúng con, chúng nó bảo thế. Bố nên ngồi nhà dưỡng già thì hơn. Còn thịt và sữa hộp cho nhà nước thì chúng con có thể mua ở cửa hàng. Nghe thấy chưa ? Mua ở cửa hàng ! Thế thứ thịt bán tại cửa hàng ấy thì ở đâu ra ? Điều ấy chúng không nghĩ tới, bọn chó đẻ.
    -- Bác Ghêorghi, thế nhà thờ này không có chủ à ? – Marya bỗng hỏi.
    -- Không, ở đây có một…bà lão nhà quê. Tên bà ta là Marya… Bà ta vẽ bức tranh thánh ở trên bàn trong nhà thờ ấy… Bà lão ốm, tội nghiệp, dù mỗi tuần bà ấy chỉ đến đây một lần cũng đáng khen lắm rồi…
    -- Thế ai thắp nến vậy ? – Batsana hỏi.
    -- Ta thắp, chứ còn ai vào đấy ?
    -- Thế tiền trên bàn ở đâu ra ?
    -- Ở đâu ra là thế nào ? Ta đặt tiền lên đấy. Để mua nến…
    -- Bác có tin Chúa không, bác Ghêorghi ? – Marya hỏi.
    Ghêorghi suy nghĩ. Rồi cụ đưa mắt nhìn ngôi nhà thờ từ trên xuống dưới, gãi đầu, rồi lại nhìn nhà thờ.
    -- Biết nói thế nào được… Thực tình thì ta cũng chẳng tin lắm… Nhưng ở đây, suốt ngày chỉ có một mình, xung quanh không một bóng người, tựa dưng đâm ra nghĩ đến Chúa…
    -- Thế cụ nghĩ gì về Chúa ?
    Ghêorghi lại nhìn nhà thờ lần nữa.
    -- Ta nghĩ gì ư ?... Ta nghĩ rằng khi người ta phá hủy thánh điện của người khác thì thay vào đó, phải dựng những nhà thờ của mình, to đẹp hơn trước. Như cái nhà thờ này chẳng hạn… Nó là của ai, ai xây cất, không biết. Đến ngày têlêtôba*, người bống phương đổ về đây : cả người Acmênya, cả người Tatar, cả người Hy Lạp, cả người Nga… Người Gruzya thì ta không nói… Họ đến cầu nguyện… Nhưng ta cho rằng cầu nguyện giữa đồng quang còn hơn là cầu nguyện trong cái nhà thờ như thế này… Ở đấy Chúa nghe thấy ta rõ hơn… Đứng trong cái nhà hoang tàn này, đừng nói gì Chúa, ngay đến con người cũng phát tởm… Ta nói vậy là ý làm sao ? Là ngôi nhà thờ này bị bỏ hoang, không ai trông nom chăm sóc, vậy thì người ta đã dựng nên cái gì thay cho nó ?
    -- Tôi không hiểu bác, bác Ghêorghi ạ…
    -- Có gì mà phải hiểu ? Con ạ, trước kia người đi nhà thờ phải leo lên cao, cúi đầu qua cửa tường vây mà vào, phải bỏ mũ trước nhà thờ và vào trong thì nhất định phải đặt cây nến… Mà việc gì ta phải giảng giải cho các con nhỉ, các con là những người thông thái, các con biết rõ hơn ta…
    Thì như thế này chẳng hạn, Xô viết xã của chúng ta hiện đặt trong ngôi nhà cũ nát thuê của người ta, thiên hạ vào đấy chẳng những không bỏ mũ, mà còn chửi mắng và nhổ bọt… Theo ta, trong cả xã không được có nhà nào cao hơn và đẹp hơn trụ sở Xô viêt xã… Thế các con tưởng trước kia người ta không dựng nổi nhà mình cao hơn nhà thờ ư ? Thừa sức, nhưng không dám ! Không có quyền như thế !... Còn bây giờ, nhà ông chủ tịch nông trang của ta ở ngay trước trụ sở Xô viết xã, chả khác gì núi Kazơbêc so với quả đồi con kia kìa ! Cái nhà xe của cậu lái xe Mitka cũng to gấp ba câu lạc bộ của chúng ta !... Người ta có đến cầu nguyện ở cái trụ sở Xô viết xã như thế không ? Không hề !... Vậy ra chúng ta là những kẻ hành khất chăng ? Không ! Ơn trời, xã ta là một xã giàu có, vững vàng ! Lúa mì dồi dào, có cả rượu vang, cả rau ! Con người khác lợn ở chỗ nào ? Ở chỗ con người ăn cái ở trên cây, còn lơn ăn cái ở dưới gốc cây, trên mặt đất ! Ta nói vậy là ý làm sao ? Là mọi việc đều phải kịp thời có bàn tay người làm chủ : để chậm thì quả trên cây rơi xuống gốc, thế là con lợn sẽ được hưởng !... Ta bảo tay chủ tịch Xô viết xã : « Anh là người làm chủ, là chính quyền Xô viết kia mà. Thế thì cất nhắc chân tay đi, đồ chó đẻ, hãy dựng một tòa nhà ra nhà, sao cho người ta vui thích khi vào Xô viết xã ! » -- « Không có tiền và limit** thì tôi dựng nhà thế quái nào được ? » -- hắn nói « Lại còn cái quái quỷ gì thế nữa, limit là cái của nợ gì ! » -- « Đấy là gạch » -- hắn nói. Nghe thấy chưa ? Hắn không có gạch ! Thế lấy đâu ra gạch để làm nhà xe cho Mitka hay để làm cung điện cho ông chủ tịch ?... Được, hắn không có gạch, nhưng hắn có thể cạo mặt hay để râu theo kiểu Cơ đốc được không ? Hắn có thể ăn vận tươm tất được không ? Mà đó là để cho người ta tôn trọng hắn thôi ? Hắn làm được, thằng chó đẻ, nhưng hắn cóc cần gì hết ! Trong xã con của ta đây còn có uy tín hơn ông chủ tịch ! Tại sao ? Ấy là vì nó bao giờ cũng được tắ rửa sạch sẽ và cho những tám lít sữa ! Thế đấy, Hay ta nghĩ không đúng ? Các con nói ta xem ! – Ông già dứt lời và rót rượu vang vào các cốc.
    -- Tất cả những điều bác nghĩ đều đúng, bác Ghêorghi ạ. – Batsana trả lời, -- nhưng bác hãy nói thật nhé, đã có lần nào bác đem điều đó ra nói ở cuộc họp chưa ?
    -- Có một lần…
    -- Hồi nào ?
    -- Năm nay con bao nhiêu tuổi ?

    * Ngày tế của nhà thờ
    ** Limit, nhập từ tiếng Pháp limite, nghĩa là định mức, tiêu chuẩn cung cấp (N.D).

    -- Ngoài bốn mươi.
    -- Còn ta hồi ấy ba mươi, và suýt nữa ta sa vào… con biết là vào đâu rồi đấy…
    -- Bây giờ thời buổi khác rồi, bác Ghêorghi ạ !
    -- Thế thì để những người khác nói… Ta hết thời rồi.
    -- Thế mà bác bảo là bác còn muốn sống nữa.
    -- Ôi, thanh niên các người mau miệng gớm ! Khốn nỗi đụng đến công việc thì các người lại không gấp lên cho… Mà này, có lẽ con là người của huyện ủy, phải không con ?
    Batsana phá lên cười.
    -- Không, bác Ghêorghi ạ, con là nhà văn, cán bộ biên tập một tờ báo.
    -- Cán bộ biên tập à ? Thế thì viết lên báo của con về tất cả những chuyện ấy đi !
    -- Con sẽ viết chứ sao !
    -- Không chắc…
    -- Tại sao ? Con sẽ viết thế này này : đây là những suy nghĩ của cụ Ghêorghi Tusmalisvili.
    -- Con muốn trút tất cả cho ta à – Ông già chột dạ.
    -- Ồ không ! Con sẽ viết rằng con tán thành một phần ý kiến của bác.
    -- Chỉ một phần thôi ư ?
    -- Vầng.
    -- Nghĩa là con không hoàn toàn đồng ý với ta ?
    -- Không.
    -- Thế có được tới một nửa không ?
    -- Một nửa thì có lẽ !
    -- Thế thì viết một nửa thôi !
    -- Nhất định !
    -- Được, để rồi xem – Cụ Ghêorghi thốt lên bằng giọng ngờ vực và nói với Marya :
    -- Anh ấy có viết không ?
    -- Anh ấy sẽ viết ! – Marya cười vang.
    -- Thế các con đối với nhau là thế nào ? – Cụ Ghêorghi bỗng hỏi.
    Marya không ngờ tới câu hỏi đó, nàng bối rối, nhún vai và nhìn Batsana như dò ý.
    -- Bác Ghêorghi ạ, chúng con rất yêu nhau và đến đây làm lễ cưới. Nhưng ở đây không có linh mục, thế thì ai làm lễ thành hôn cho chúng con ? – Batsana vừa cười vừa đáp.
    -- Các con cần gì linh mục ? Nếu các con yêu nhau thì ta đây cũng có thể làm lễ thành hôn cho các con. – Cụ Ghêorghi vừa nói vừa đứng lên. – Nào, cả hai hãy đứng lên ! Tên con là gì ?
    -- Batsana.
    -- Tên con thì ta biết rồi : Marya.
    Ghêorghi giơ hai tay lên trời, tay phải cụ cầm cốc rượu vang.
    -- Các con ta ơi, Marya và Batsana ! Sương buổi sáng sẽ là thế giới hương thơm của các con, vầng thái dương cao cả sẽ là vòng hoa của các con, ngôi nhà thờ cổ này và mặt đất thân thương sẽ là người làm chứng cho tình yêu của các con. Ta, Ghêorghi Tusmalisvili, ta ban phước cho các con, như Đấng Tối cao ban phước cho Nôê và các con của người. Hãy sinh con đẻ cái ! Mong rằng con cái của các con sẽ làm rạng danh đất nước ta ! Mong rằng tình yêu sẽ là người bạn đường vĩnh viễn của cuộc đời các con ! Hãy chung thủy với nhau, hãy nâng đỡ nhau trong những lúc khó khăn và lo âu ! Amen !... Và đừng quên mời ta đến dự tiệc cưới !
    Ghêorghi nốc cạn cốc rượu, đưa tay áo lau mồ hôi, đến gần Marya và Batsana, lần lượt hôn cả hai người thật kêu.
    -- Cám ơn bác Ghêorghi ! – Batsana cảm ơn ông già, Marya đứng cúi đầu, im lặng.
    -- Con của hai con sẽ xinh đẹp lắm ! Hãy sinh đẻ nhiều con vào ! – Ghêorfhi cầm cái bị lên.
    -- Bác đi ư, bác Ghêorghi ? – Batsana hỏi với giọng luyến tiếc.
    -- Phải đi thôi, không thì gia súc lẻn vào vườn nông trang, người gác sẽ ăn thịt ta mất !... Từ biệt các con ! Lần sau có đến đây nhớ tìm ta nhé, ta ở quanh đâu đây thôi…
    -- Tạm biệt bác Ghêorghi ! Cầu trời ban sức khỏe cho bất cứ ai ở trong cái sa mạc này, dù đàn ông hay đàn bà, miễn là người đó đồng tình và ủng hộ bác ! – Batsana và Ghêorghi xiết chặt tay nhau và ông già ra đi. Đi được mấy bước, ông bỗng quay lại và lớn tiếng nói, giọng bực bội :
    -- Này Marya, con giận ta phải không ? Ta làm phép cưới cho con không đúng lễ ư ?
    Marya vùng chạy tới chỗ cụ Ghêorghi, ôm lấy cụ và hôn tới tấp lên khuôn mặt lởm chởm râu ria của cụ. Rồi cũng nhanh như thế, nàng quay lại và chạy về phía nhà thờ.
    Batsana đưa mắt nhìn theo cụ Ghêorghi đã ra xa, rồi đi theo Marya.
    Marya quỳ bên chiếc bàn con. Trước ảnh Đức Mẹ có ba cây nến cháy sáng.
    Batsana lắng nghe hồi lâu tiếng thì thầm của người phụ nữ. Ông không nghe thấy lời, nhưng hiểu rằng Marya cầu nguyện. Rồi ông nhẹ nhàng đặt cạnh tờ ba rúp nhàu nát số tiền mười rúp và rón rén ra khỏi nhà thờ.
     
    Chỉnh sửa cuối: 6/6/15
    tducchau thích bài này.
  7. notrinos

    notrinos Lớp 5

    17.
    Khi Batsana vào buồng toa xe, ở đó đã có hai hành khách đang mê mải chuyện trò với nhau. Một trong hai người rõ ràng là người vùng quê, người kia là người thành thị. Batsana chào hỏi họ, quẳng cái túi vào ngăn hành lý, ngồi xuống và chúi mũi vào tờ báo.
    Người nhà quê nói to:
    -- Không, thưa ông Rôlanđơ, chúng tôi không thích người cầm súng và người mẹ khóc lóc! Chúng tôi cần một hình tượng gì sao cho con người dẫu tim bằng đá đi nữa cũng phải khóc khi nhìn tượng đài.
    -- Nếu vậy thì hãy đi tìm Lêônacđô đa Vanhxi hay Mikêlănggiêlô, thưa ông Khuta! – Người trẻ tuổi đáp.
    -- Người dựng tượng đài “Những anh hùng còn đang lớn lên” ở Macnêuli hoàn toàn không phải là Mikêlănggiêlô! Vậy mà tượng đài ấy như thế nào, hả? Khi tôi nhìn thấy hai đứa trẻ trần truồng với thanh gươm khổng lồ trong tay, xin hãy tin tôi, tôi giàn giụa nước mắt! Hãy làm cho chúng tôi một cái gì tương tự như thế, và anh sẽ trở thành Lêônacđô đa Vanhxi của chúng tôi!
    -- Tôi không biết... Ông đã xem bản phác thảo của tôi, và hình như ông cũng thích bản phác thảo đó, phải không? -- Người trẻ tuổi nói với giọng bực bội.
    -- Phải, tôi đã tán thành bản phác thảo đó trong Hội đồng nghệ thuật, bởi vì cho đến khi ấy, anh vẫn hứa sửa lại nó. Không thế thì chúng tôi đã chẳng trả tiền cho anh... Nói lời phải giứ lấy lời!... Còn súng và nước mắt thì chúng tôi không cần!...
    -- Những quả chuông trên đám cây khô héo, cái đó không cần! Vậy thì xét cho cùng, các ông cần cái gì kia chứ? -- Rôlanđơ giơ hai tay lên. -- Làm thế nào tôi có thể triển khai đề tài chiến tranh giữ nước và các chiến sĩ tử trân được?!
    -- Trong thời kì chiến tranh, anh bao nhiêu tuổi? -- Khuta hỏi.
    -- Chẳng có tuổi nào cả! Hồi ấy chưa có tôi trên đời. -- Rôlanđơ đáp.
    -- Vậy anh miêu tả điều đó đi!
    -- Cái gì? -- Rôlanđơ không hiểu.
    -- Miêu tả chính cái điều ấy: nói chúng anh không biết thế nào là chiến tranh!
    -- Thế là thế nào?
    -- Còn thế nào nữa!... Mới đây, thằng bé Khuta cháu tôi tìm thấy ở đâu không rõ chiếc mũ cát chiến trận của tôi và bậy vào đấy... anh hiểu không... tóm lại là nó đi tiểu vào đấy, thằng chó đẻ! Thoạt đầu tôi kéo tai nó, rồi tôi đâm ra xấu hổ... Hãy tin tôi, suốt đêm tôi không ngủ!...
    -- Này ông ạ, trên đời không có những tượng đài như thế... Nói chung, đã có bao giờ một người làm tượng đến gặp ông và dạy cho ông trồng ngô không?!
    -- Chưa từng có trường hợp nào như thế, nhưng nếu có nhà làm tượng hiểu rõ việc trồng ngô thì tại sao lại không học tập người đó nhỉ?... Thế ý kiến ông thế nào, thưa ông? -- Khuta bỗng nói với Batsana.
    Batsana đặt tờ báo xuống.
    -- Xin lỗi, tôi không biết các ông nói chuyện gì. -- Batsana nói dối. Ông hiểu rằng hai bên tranh cãi không bên nào chịu từ bỏ lập trường của mình, vì thế ông quyết định không xen vào.
    -- Số là... -- Rôlanđơ lên tiếng. -- Tôi được họ đặt làm... tức là nông trang đặt làm... Nông trang xã Xakixiao... Còn ông Khuta Sêlya kính mến đây là chủ tịch nông trang... Tôi phải sáng tác một đài kỉ niệm về đề tái chiến tranh giữ nước vĩ đại... Bây giờ, khi công việc đã bắt đầu và tiền đã tiêu hết, họ lại đòi một phương án mới! Vậy làm thế nào? Bằng cách nào mới được chứ? Với số tiền họ cấp thì không thể sáng tác cái gì khá hơn được! Họ cứ cấp tiền đi, tôi sẽ xây cho họ tháp Effen! Xét cho cùng tất cả đều trông vào đồng tiền! Vì tiền, Lêônacđô đa Vanhxi đã làm việc với Xêza Coriya, kẻ bẩn thỉu nhất thế gian, kẻ mà ngay cả mẹ và em gái mình hắn cũng...
    -- Thôi! Không được nói một lời nào nữa! -- Khuta đập tay xuống chiếc bàn con.
    -- Sao thế? -- Ngạc nhiên, Rôlanđơ hỏi.
    -- Không được nói những lời như thế! -- Sêlya đáp, giọng đã bình tĩnh hơn.
    -- Những lời như thế nào?
    -- Như thế!... Bàn về chiến tranh giữ nước thì dù chỉ nghĩ đến những điều bẩn thỉu và đê hèn cũng không được nữa kia, chứ đừng nói tới chuyện phát biểu thành lời!
    -- Nào tôi có nói điều gì như thê đâu? -- Rôlanđơ đỏ mặt.
    -- Tôi không thể nhắc lại những lời đó và tôi khuyên cậu chớ nên nhắc lại! -- Khuta rút một điếu thuốc lá và châm lửa hút.
    -- Xin thứ lỗi! -- Rôlanđơ đứng lên và ra khỏi buồng toa xe.
    -- Thưa đồng chí Khuta: -- Batsana nói với ông chủ tịch -- Quả là anh ta chẳng làm thế nào được, nếu như tiền đài thọ cho đài kỉ niệm quá ít.
    -- Xin cho biết tính danh, thưa ông?
    -- Batsana Ramisvili.
    -- Vậy thì, kính thưa ông Batsana, thế nào là không đủ tiền? Chúng tôi không đòi hỏi anh ta làm một công trình khổng lồ... Chúng tôi muốn có một đài kỉ niệm dù là nhỏ thôi, nhưng có ý nghĩa... Nhỏ, nhưng thật có giá trị...
    -- Nếu anh ta không làm được thì sao? Hãy đặt một người khác! -- Batsana khuyên.
    -- Có thể thế được ư? Tôi sẽ nói thế nào với nhân dân? Tiền thì đã chi hết rồi?... Bây giờ tôi đưa anh ta về xã, mặc anh ta tùy cơ định liệu! Tôi sẽ bắt anh ta làm đúng ý muốn của chúng tôi! Mà không, tôi sẽ lôi anh ta ra khu trồng chè và anh ta sẽ ngoan ngoãn làm việc cho nông trang cho đến bao giờ trừ hết số tiền anh ta đã lĩnh! Hừm, tôi đã tưng gặp những tay loại đó! Mà xin nói là tôi có thể trị được cả con trai Taraxi Đaraxêlya nữa kia, cái thằng cứng đầu cứng cổ không chê được!... -- Khuta Sêlya mỉm cười với câu nói của mình và mời Batsana một điều thuốc lá. Batsana lấy một điếu nhưng không hút.
    -- Thế ông muốn một tượng đài như thế nào? -- Ông hỏi.
    -- Một tượng đài sao cho người ta đi qua đấy sẽ không hỏi đây là cái gì, mà chỉ dừng lại và suy nghĩ. Chúng tôi muốn có một tượng đài như thế đấy!
    -- Quả là một nhiệm vụ khó khăn! -- Batsana mỉm cười.
    -- Tôi không cãi điều đó. Ông có thất việc gì là dễ dàng không? Mới đây chúng tôi xây dựng một trại chăn nuôi! Tôi mời một họa sĩ, yêu cầu anh ta trang trí khu nhà. Ông có biết anh ta vẽ toàn là bò, lợn, dê và lợn con! "Cái gì thế này?" -- tôi hỏi anh ta. "Lần đầu tiên tôi gặp một ông chủ tịch nông trang không nhận ra đại diện các giống gia súc của mình!" -- anh ta trả lời. "Đồ chó đẻ, -- tôi nói -- trong trại còn thiếu súc vật hay sao mà anh còn bôi bác lên tường những con vật đó?"! -- "Thế thì vẽ cái gì?" -- anh ta hỏi. "Trước hết anh hãy xóa những gì anh vẽ đã, -- tôi nói, -- rồi sau chúng tôi sẽ quyết định nên làm thế nào!"
    -- Thế sau đó thì sao?
    -- Chẳng sao cả. Tôi ra lệnh cho anh ta vẽ trẻ em, những cô bé và cậu bé trần truồng, tay cầm cốc. Một đồng cỏ xanh tươi. Hoa. Thật nhiều hoa đủ màu rực rỡ. Trên đồng cỏ có một con bò cái. Trẻ em cầm cốc đòi bò cho chúng sữa. Có thế thôi.
    -- Thế con bò nói sao? -- Batsana vừa cười vừa hỏi.
    -- Hãy đem cỏ đến cho ta, ta sẽ đem sữa, con bò nói như thế! -- Khuta cũng cười, trả lời. -- Kết quả là được bức vẽ tuyệt vời! Ông biết không, đôi khi tôi đến chỉ cốt để ngắm bức vẽ đó. Cái thằng cha ấy nó biết vẽ đấy, đồ chó đẻ! Việc gì phải viện đến Lêônacđô đa Vanhxi!... Anh cứ vẽ theo ý anh, nhưng vẽ cái chúng tôi muốn! Tôi nói đúng không, thưa ông Batsana?
    -- Chắc là đúng... Nhưng ông nên đồng ý răng họa sĩ có thể có những lý do riêng... Nghệ thuật là một việc phức tạp...
    -- Thì chính là nói về cái đó, về nghệ thuật... Nếu không thì vẽ con bò cái cỗ nhiên là việc dễ nhất trần đời! Cái đó tôi đã học được từ lớp hai, do Antôn Gugunav dạy. Chúng tôi có một ông thày dạy vẽ như thế... Chính ông ấy đã vẽ những con bò hệt như thật, đến nỗi tự dưng cứ muốn vắt sữa chúng... Còn tay này... Rôlanđơ... Anh ta cứ khăng khăng đòi... người cầm súng! Nếu tôi muốn người cầm súng, tôi sẽ đặt một người đàn ông bằng xương bằng thịt và trao vào tay anh ta khẩu súng thực! Trong xã thiếu gì kẻ vô công rồi nghề! -- Khuta phả khói thuốc, Batsana cũng châm thuốc hút.
    Có lẽ Rôlanđơ đã chán đứng ở hành lang, hoặc cơn bực tức đã qua đi, anh vào buồng toa xe và lẳng lặng ngồi chỗ của mình.
    -- Sao thế, con, phật ý à? Thì ta có nói gì tàn tệ với anh đâu? -- Khuta đưa bàn tay chai sạn xoa đầu Rôlanđơ và tiếp tục nói với Batsana. -- Thanh niên của chúng ta thích sống nhờ vào mọi cái có sẵn! Con trai tôi, sau khi học xong phổ thông, nó lấy một người đàn bà hai con! Ngay cả trong việc đó, nó cũng không muốn tự mình lao động!... Ông có mấy con, thưa ông Batsana?
    -- Tôi chưa có vợ.
    -- Ồ -- ồ, điều đó không thể tha thứ được, thưa ông Batsana!
    -- Thế còn ông?
    -- Có mỗi một mống, chính là thằng mà tôi vừa nói đến. Nhưng tôi không có lỗi. Vợ tôi mất sớm, tội nghiệp bà ấy. Ở mặt trận về, tôi không gặp bà ấy nữa... Còn thằng ấy, thằng con tôi... Nó là một gã trai không đến nỗi tồi, nhưng trong vấn đề này, nó không tán thành ý kiến tôi. Tôi bảo nó: "Hai đứa này là con mày, mà lại không phải đích thị là con của mày, hãy làm lấy ít nhất một đứa con của mình! Súc vật nó cũng khá hơn mày! Xem đấy, con dê cái nhà ta đẻ sinh ba kia kìa!" -- Nó trả lời: "Nhưng dê ít phải lo toan: nó chỉ ăn cỏ, còn áo quần hoàn toàn không cần đến, con nó đẻ ra đã có sẵn cả ủng và áo da. Còn con, làm thế nào con lo liệu nổi áo quần giầy dép cho lũ trẻ, khi mà một chiếc quần bò, bọn đầu cơ bán không dưới hai trăm rúp!"
    -- Nói đúng đấy! -- Rôlanđơ xen vào câu chuyện.
    -- Thế bản thân anh có mấy con, hỡi người bòa chữa kia! -- Khuta quay về phía anh ta.
    -- Thưa ông Khuta, tôi ba mươi tuổi, có ba con, vợ tôi sắp sinh đứa thứ tư! -- Rôlanđơ đáp, vẻ hí hửng và quay về phía cửa sổ.
    -- Cừ lắm! -- Khuta cỗ tay. -- Cái đó thì tôi hiểu! Người bố anh hùng! Tôi có làm anh mếch lòng đôi chút, xin thứ lỗi!
    -- Có gì đâu... -- Rôlanđơ phảy tay.
    -- Thứ lỗi cho ta, con ạ, xin thứ lỗi! -- Khuta nhắc lại.
    -- Ồ, ông thật là... -- Rôlanđơ bối rối, và để thay đổi câu chuyện, anh hỏi Batsana: -- Ông đi đâu, thưa ông Batsana?
    -- Về Xukhimi, đi công tác.
    -- Ông thật may mắn... Ông sẽ được tắm biển...
    Batsana mỉm cười gật đầu.
    -- Thế còn công việc của chúng ta thì thế nào, Rôlanđơ thân mến? -- Khuta khởi sự.
    -- Công việc gì kia? -- Anh chàng vờ làm vẻ ngac nhiên.
    -- Tượng đài ấy mà.
    -- Tôi đã giải quyết xong rồi, xong rồi, thưa ông Khuta! Có điều, giải quyết theo ý tôi, chứ không phải theo ý ông! -- Roolanđơ nói bằng giọng giận dữ và lại quay về phía cửa sổ.
    -- Nghĩa là thế nào kia? -- Khuta chột dạ.
    -- Thế này nhé! Một người lính ở tư thế đứng! Đội mũ cát và tay cầm súng! Một thiếu phụ trẻ, đã làm mẹ, áp sát vào anh ta! Thiếu phụ đi chân đất! Xung quanh nàng là bốn đứa trẻ trần truồng, sợ hãi! Thế đấy! -- Mặt đỏ tía tai, Rôlanđơ đặt lên bàn hai nắm tay xiết chặt, như chuẩn bị đánh nhau.
    -- Thì trước đây tôi gì với anh nào?! -- Khuta mừng rỡ, bật dậy và hôn vào trán Rôlanđơ. -- Tôi đã nói rồi mà, thưa ông Batsana! Thanh niên của chúng ta lười suy nghĩ! Họ muốn sống bằng mọi cái có sẵn! Chỉ cần động não một chút là họ có thể lật núi lấp biển! Ông thấy rõ rồi chứ?

    Đang đi công tác, Batsana nhân được khẩn cấp triêu về vì tình hình của tòa soạn.
    Cán bộ chỉ đạo của Ủy ban trung ương đảng gọi điện về khách sạn
    -- Tôi truyền đạt lại chỉ thị của đồng chí bí thư! Mười giờ sáng mai, đồng chí phải đến gặp đồng chí bí thư!
    -- Về vấn đề gì? -- Batsana hỏi, nhưng trong ống điện thoại đã nổi lên những tiếng tu tu liên tục.
    Cuộc trao đổi với đồng chí bí thư Trung ương đảng ngắn ngủi thôi. Thực ra, thậm chí không phải là trao đổi: đồng chí bí thư nói, Batsana nghe. Vả chăng, Batsana cũng chẳng biết nói gì. Thậm chí ông không thể hình dung được một tình hình tề hại hơn; giữa thanh thiên bạch nhật, tại tòa soạn, một cán bộ của ông bị bắt quả tang ăn hối lộ!
    Lúc hai giờ chiều, Batsana triệu tập cuộc họp đảng khẩn cấp. Ngoài các ủy viên biên tập và các cán bộ tòa soạn, tại cuộc họp có mặt một cán bộ chỉ đạo của Ủy ban trung ương và một cán bộ Nội vụ điều tra về việc này.
    Bí thư đảng ủy khai mạc cuộc họp:
    -- Trước khi bắt đầu thảo luận vấn đề, tôi muốn yêu cầu đồng chí Sanva Hêlaia thuật lại cho chúng ta nghe vụ hối lộ xảy ra trong hoàn cảnh nào.Hêlaia hắng giọng, sửa lại chiếc cà vạt đen và lên tiếng:
    -- Hai tháng trước, phòng chúng tôi nhận được tin báo là Sôta Tsulatzê, cán bộ tòa soạn của đồng chí, tống tiền công dân Kalôian, vì có một lá thư gửi về tòa soạn tố giác Kalôian.
    -- Đồng chí Hêlaia, tin đó đồng chí nhận được từ hai tháng trước, vậy mà mãi bây giờ đồng chí mới cho tôi biết ư? -- Sửng sốt, Batsana kêu lên.
    Hêlaia ngập ngừng một chút, rồi trả lời:
    -- Thưa đồng chí Batsana, chúng tôi kiểm tra xem tin nhận được có xác thực không, vì thế chúng tôi quyết định chưa cho đồng chí biết, để khỏi làm đồng chí lo ngại quá sớm, mà có thể vô cớ gây lo lắng cho cả tập thể và người bị tình nghi.
    -- Còn bây giờ "người bị tình nghi" đó ngồi tù và cả toàn soạn bị nhục. Đồng chí cho rằng như thế tốt hơn ư? -- Batsana hỏi.
    -- À thì... quả là như thế... Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Tsulatzê bị bắt quả tang...
    -- Đồng chí quan tâm đến cái gì hơn, đồng chí Hêlaia, ngăn chặn việc ăn hối lộ hay bắt kẻ phạm tội? -- Batsana cố gắng lắm mới giữ được bình tĩnh.
    -- Thưa đồng chí Tổng biên tập, tôi rất kính trọng đồng chí, nhưng tôi không hiểu tại sao đồng chí lại bảo vệ người cán bộ của mình đã phạm tội ăn của đút? -- Hêlaia trả lời.
    -- Thế tôi không bảo vệ anh ấy thì ai bảo vệ? -- Batsana ngạc nhiên.
    -- Cần bảo vệ những người vô tội!
    -- Dù Tsulatzê có tội thế nào đi nữa thì hành động của đồng chí vẫn không đúng!
    -- Thưa các đồng chí, theo tôi hiểu, các đồng chí mời tôi đến để thông báo. Nếu các đồng chí định khai trừ tôi ra khỏi đảng thay cho Tsulatzê thì xin cứ nói thẳng ra! -- Hêlaia giận dỗi.
    -- Xin lỗi, tôi hơi nóng nảy...
    Hêlaia mở cặp bìa và lấy ra một tờ giấy:
    -- Đây là lá thư nặc danh gửi về toàn soạn, tên người nhận là đồng chí, Batsana Akakiêvits.
    -- Nó đến tay đồng chí bằng cách nào?
    -- Tìm thấy ở anh chàng Tsulatzê bị bắt giữ. Sau khi nhận được tiền hối lộ, y phải hủy lá thư trước mặt Kalôian.
    -- Xin cho xem!
    Batsana chìa tay ra.
    -- Xin mời! -- Hêlaia trao lá thư.
    -- Xin đọc lên cho mọi người cùng nghe! -- Một trong những ủy viên ban biên tập đề nghị.
    Liếc nhìn tờ giấy, Batsana nhận ra ngay bức thư nặc danh và quyết định của chính mình. Lá thư ngắn ngủi, viết bằng kiều chữ in lớn. Xúc động đến cực độ, Batsana cảm thấy không thể đọc hết bức thư. Ông chuyển cho bí thư đảng ủy:
    -- Đồng chí đọc đi!
    "Ông tổng biên tập quý mến! -- Lá thư viết. -- Ở phố Urơnêli đang xảy ra những việc đen tối. Người cư trú tại nhà No-571, Gaiôzô Kônxtanôvits Kalôian (cửa hàng trưởng) và nhân tình của anh ta, cũng ở ngay tại đấy, Kxênya Gavrilôvna Vactagava (thủ quỹ cũng của cửa hàng đó), nhằm mục đích giết người có phương pháp, bằng cách đưa vào thức ăn những chất độc khác nhau với liều lượng khác nhau vào những lúc khác nhau, họ đầu độc vợ Kalôian là Lili Ghêraximôvan Amacatitzê, và hiện nay vợ Kalôin đang nằm bệnh viện do bị đầu độc. Kính thưa ông tổng biên tập! Những tên khủng bố phóng đãng còn dày xéo đất nước ta đến bao giờ nữa? Sự việc mờ ám này còn bị bao phủ bởi bóng tối đến bao giờ nữa? Tôi yêu cầu can thiệp gấp và mong rằng ngòi bút sắc bén của ông sẽ tố cáo những kẻ giết người đồi bại ấy! Kính thư -- Người có lòng nhân đạo".
    -- Trên lá thư có ghi quyết định của Tổng biên tập không? -- Vẫn thành viên đó của ban biên tập hỏi.
    Bí thư đảng đọc:
    "Đồng chí S.Tsulatzê. Tôi yêu cầu chuyển lá thư này sang Bộ nội vụ. B.Ramisvili".
    Bầu không khí chợt trở nên yên lặng. Batsana cầm lấy lá thư trong tay đồng chí bí thư và trả lại cho Hêlaia.
    -- Tsulatzê không gửi bức thư sang Bộ Nội vụ. Chính y đến nhà Kalônian và cho biết Kalônian biết nội dung bức thư. Đương nhiên Kalônian phủ nhận hết. Vactagava cũng phủ nhận tất cả các sự việc nêu ra trong bức thư nặc danh. Nhưng Tsulatzê nói với họ rằng tòa soạn có nhiệm vụ phanh phui việc này, rồi ra về, Kalônian muốn tránh những chuyện rắc rối, đã đề nghị số tiền năm trăm rúp với điều kiện Tsulatzê hủy lá thư đó, Tsualatzê không thuận. Thế là Kalônian hứa đưa thêm bằng ngần ấy nữa, Tsulatzê đòi hai nghìn rúp. Khoản tiền đó rõ ràng vượt quá khả năng của Kalôin, thế là hắn gưỉ đơn lên cho chúng tôi, nói rằng một cán bộ phòng văn học của tờ báo là Tsulatzê, vì muốn tống tiền, đã de dọa hắn và một nữ nhân viên của hắn... Một nhóm công tác đã được thành lập, Kalônian được trao hai ngàn rúp để đưa cho Tsulatzê. Số tiền đúng như gã đòi... Đồng thời chúng tôi tổ chức theo dõi Tsulatzê.

    Heelaia lấy trong cặp bìa ra một tờ giấy và nói tiếp:
    -- Ngày mười bảy tháng chín, lúc ba giờ chiều, ở cổng số hai của ngôi nhà cửa hàng bách hóa “Dũng sĩ”, có cuộc gặp gỡ giữa Kalôian và Tsulatzê. Theo lời trình của Kalôian, Tsulatzê không nhận tiền, lấy cớ tuồng như Tổng biên tập bắt nghiên cứu sự việc và đăng tài liệu trên báo.
    -- Xin lỗi đồng chí Sanya, thế đồng chí cí biết rằng lời trình của Kalôian không đúng sự thực không? – Thư ký tòa soạn hỏi.
    -- Không, lúc đó chúng tôi không có trong tay lá thư nặc danh có ghi quyết định của Tổng biên tập.
    -- Vậy ra trong suốt thời gian theo dõi vụ này, chính Tổng biên tập cũng bị nghi ngờ sao?
    -- Không, không một phút nào cả. Thì Tsulatzê đã nói rằng chính Tổng biên tập một mực yêu cầu điều tra sự việc.
    -- Theo đồng chí thì Tsulatzê cần giở thủ đoạn như thế để làm gì?
    -- Để đòi giá cao hơn!
    Thư ký tòa soạn ngừng lời. Heelaia nói tiếp:
    -- Sau mười ngày, chúng tôi lặp lại thí nghiệm. Cuộc gặp mặt được ấn định ở khu vực Hồ Run, trong một ngôi nhà của viện bảo tàng nhân chủng học, ngay giữa trời. Tsulatzê lại không nhận tiền, vẫn viện lý do như trước… tuy y có hứa với Kalôian rằng sẽ cố thuyết phục Tổng biên tập gửi lá thư sang Bộ Nội vụ. Sau đó Kalôian phải tự lo liệu lấy… Ngày hai mươi bảy tháng mười, biết Tổng biên tập đi công tác và Tsulatzê sẽ hành động mạnh dạn hơn, chúng tôi tiến hành thêm một thí nghiệm nữa. Lần này, sự mong đợi của chúng tôi thành sự thực. Mười giờ sáng, trong trụ sở tòa soạn, Tsulatzê lấy tiền của Kalôian.
    -- Điều đó được chứng minh rồi chứ? – Cán bộ chỉ đạo của Trung ương đảng hỏi.
    -- Đã được chứng minh. Đã tịch thu tiền ở Tsulatzê. Y đã thú nhận. Nhưng hôm qua, y thay đổi lời khai và nói rằng đấy là tiền y vay. – Heelaia đóng cặp lại.
    Batsana ngồi bên bàn, sửng sốt bàng hoàng, lặng ngắt.
    -- Thưa đồng chí Savna, -- cuối cùng ông lên tiếng. – Đồng chí nói rằng hai lần Tsulatzê từ chối không nhận tiền và đến lúc gặp Kalaian lần thứ ba mới lấy. Xin giải thích cho tôi biết, tại sao cần lặp lại thí nghiệm đó ba lần? Phải chăng không thể thừa nhận rằng anh ta đã tỉnh ngộ, nhận ra sai lầm của mình và từ bỏ ý định tội lỗi? Đồng chí không nghĩ tới điều ấy ư?
    -- Đồng chí không biết đặc điểm công tác chúng tôi và cố gắng giải thích sự việc bằng những lý do cao quý. Nhưng điều đó không như đồng chí tưởng… Nếu như Tsulatzê ngay từ đầu không mặc cả với Kalôian thì có lẽ chúng tôi cũng tin ở sự đứng đắn của anh ta. Rõ ràng anh ta kéo rê sự việc nhằm mục đích nâng giá!
    -- Nhưng Kalôian đã đem đến cho anh ta đúng số tiền quy định kia mà? Tại sao anh ta từ chối?
    Heelaia ngọ nguậy trên ghế.
    -- Tôi vẫn cho rằng Tsulatzê muốn đòi giá cao hơn.
    Vì thế chúng tôi thử anh ta ba lần.
    -- Tôi không biết cái mà các đồng chí gọi là thử thách nó là cái gì. Theo tôi đó là sự cám dỗ.
    -- Mục đích của chúng ta là diệt trừ sự phạm tội – Heelaia tuyên bố cả quyết.
    -- Tôi cho rằng mục đích của chúng ta là phát giác, chứ không phải là cám dỗ! – Batsana trả lời. – Nếu kịp thời cho tôi biết mọi chuyện, tôi sẽ đưa Tsulatzê ra khỏi cương vị công tác và sẽ ngăn chặn được sự phạm tội.
    -- Thưa đồng chí Batsana, chúng tôi không có thời giờ và khả năng vỗ về và mơn trớn những kẻ ăn của đút!
    -- Thê Kalôian thì sao?
    -- Vụ Kalôian do một nhóm khác nghiên cứu… Và đồng chí hẳn biết cái gì chờ đợi hắn nếu những sự việc nêu ra trong bức thư nặc danh được xác nhận.
    -- Cám ơn đồng chí cho biết tình hình, thưa đồng chí Savna! – Batsana đứng lên, nói. Heelaia từ biệt mọi người và nhanh chóng rời khỏi phòng làm việc.
    -- Các đồng chí có ý kiến gì không? – Bí thư đảng ủy nói với những người có mặt.
    -- Đồng chí cho phép? – Phó tổng biên tập giơ tay!
    -- Xin mời!
    Phó tổng biên tập đứng lên, lật giở những tờ giấy đặt trước mặt. Rõ ràng ông ta đã chuẩn bị trước để phát biểu, tuy thế ông ta vẫn xúc động.
    -- Ở đây có mặt đại diện của Ủy ban Trung ương Đảng, điều đó khiến tôi, với tư cách đảng viên cộng sản, phải triệt để thành thật – Cố nhiên hôm nay chúng ta sẽ khai trừ Tsulatzê khỏi hàng ngũ Đảng, nhưng điều đó đáng lẽ phải xảy ra sớm hơn nhiều, nếu như anh ta không có một người che chở và bênh vực mạnh mẽ là tổng biên tập của chúng ta… Tsulatzê bôi nhọ danh hiệu thiêng liêng của nhà báo Xô viết! Hôm nay cả tòa soạn chúng ta bị mất mặt trước dư luận xã hội! Vì thế tôi nhắc lại: toàn bộ trách nhiệm về sự việc đã xảy ra quy cả vào đồng chí Ramisvili. Chính đồng chí Ramisvili đưa bạn mình là Tsulatzê về tòa soạn, tuy anh ta không có công lao gì cả, đồng chí ấy đã bao che anh ta cho đến ngày cuối cùng, và ngay cả hôm nay, nếu các đồng chí để ý thì thấy đồng chí ấy vẫn cố bào chữa cho anh ta… Xét cho cùng thì anh chàng Tsulatzê ấy là cái gì? Một người bạn tồi, -- tuy tôi không bao giờ ở trong số bạn bè của anh ta, -- một người con tồi, một người anh em tồi, một người bố tồi, một nhà văn bất tài, và cái chính là kẻ ăn hối lộ!... Tsulatzê là như thế đấy! – Tôi bao giờ cũng chống lại việc đưa anh ta vào tòa soạn, và nếu tôi là tổng biên tập thì anh ta hẳn đã không đến với chúng ta… Trước đây tôi đã tuyên bố cả ở Ủy ban trung ương, cả ở Bộ Nội vụ rằng Tsulatzê là tên ăn hối lộ. Vì thế tôi không có trách nhiệm gì hết và yêu cầu quy toàn bộ trách nhiệm đó về đồng chí Ramisvili.
    Phó tổng biên tập lấy trong túi ra chiếc khăn tay trắng như tuyết, lau trán và cằm đẫm mồ hôi, rồi thận trọng xốc cái quần là phẳng lì lên và ngồi xuống.
    Trong lúc phó tổng biên tập nói, Batsana hình dung như thấy trước mắt những năm thời sinh viên của ông. Batsana nhớ lại ba người chơi thân với nhau như thế nào – ông, người phó của ông hiện nay, và Tsulatzê, ba người đã từng lên biểu diễn trên sân khấu sinh viên, đã tụ họp nhau trong câu lạc bộ trường đại học, đã chia nhau mẩu cuối cùng trong nhà ăn sinh viên mang tên là “tiệm ăn khoa học”, đã đi tham quan Utzô và Siômgơvimê*, cả ba đã cùng mê một cô gái… Batsana nhớ lại tất cả những điều đó và tự dưng ông muốn khóc, khóc lên cho tất cả những ai còn nhớ thời thanh xuân của ba người đều nghe thấy tiêng khóc của ông.
    -- Còn ai muốn phát biểu nữa? – Bí thư đảng ủy hỏi.

    *. Những tu viện cổ ở ngoại vi Tbilixi
    Tôi xin hỏi đồng chí Ghivi một câu. – Một cán bộ phòng văn học nói.
    -- Hỏi gì? – Phó tổng biên tập ngạc nhiên.
    -- Đồng chí vừa nói rằng đồng chí biết Tsulatzê là kẻ ăn hối lộ. Đồng chí biết điều đó bao nhiêu năm rồi?
    -- Năm – sáu năm! – Phó tổng biên tập nói, không chút do dự.
    -- Thế thì tại sao năm ngoái đồng chí giới thiệu anh ta vào Đảng?
    Phó tổng biên tập liếm cặp môi bỗng nhiên khô hẳn đi và nói:
    -- Câu hỏi không đi vào thực chất… Thứ nhất, tôi không thể nhớ được tôi giới thiệu ai khi nào, thứ hai, việc giới thiệu vào đảng hay đi nước ngoài thường là thủ tục hình thức…
    -- Ghivi Đaviđôvits, đồng chí nói đùa hay nói thật đấy? – Ngạc nhiên, cán bộ chỉ đạo của Ủy ban Trung ương hỏi.
    -- Sao kia chứ, đồng chí có nhớ hết những người đồng chí đã giới thiệu vào đảng không? – phó tổng biên tập hỏi vặn lại.
    -- Dĩ nhiên! Không thể nào khác được! – Cán bộ chỉ đạo giơ hai tay lên.
    -- Tôi có một câu hỏi. – Bí thư đảng ủy nói. – Giả sử đồng chí không nhớ đồng chí giới thiệu Tsulatzê hồi nào thì cũng được đi. Nhưng tại sao cách đây một tháng, đồng chí cùng đi công tác với anh ta, mặc dù đã biết anh ta là kẻ ăn hối lộ và tên ăn cướp?
    -- Tôi không thể khước từ việc do Tổng biên tập giao phó!
    -- Tổng biên tập liên can gì đến đây? Hồi đó đồng chí ấy nghỉ phép. Chính đồng chí ký giấy công tác cả cho mình, cả cho Tsulatzê!
    -- Vâng, tôi đi với anh ta để anh ta không có cơ hội lạm quyền được! – Phó tổng biên tập chống chế.
    Cán bộ văn học phá lên cười. Bí thư đảng ủy gõ bút chì.
    -- Còn ai hỏi gì nữa không? – Một Ủy viên biên tập có ý kiến: -- Đồng chí Ghivi Đaviđôvits, đồng chí bảo rằng trước đây đồng chí đã báo cho Ủy ban Trung ương và Bộ Nội vụ biết về tư cách không xứng đáng của Tsulatzê. Đồng chí có thể giải thích cho chúng tôi rõ tại sao các cấp đó không có biện pháp gì khi nhận được tin báo của đồng chí!
    -- Đấy là hồi còn những người lãnh đạo cũ… Nhiều người trong số đó không còn ở cương vị trước đây của họ, số khác nói chung không còn sống…
    -- Thế tại sao đồng chí không báo cho ban lãnh đạo mới?
    -- Câu hỏi đó nhằm mục đích gì? – phó tổng biên tập hỏi lại với giọng thách thức.
    -- Thế này này, đồng chí thân mến ạ: nếu cấp lãnh đạo đã được đồng chí báo cáo đầy đủ mà vẫn không có biện pháp gì thì điều đó có thể giảm nhẹ lỗi của chúng ta trong chừng mực nào đó. Có thế thôi! -- Ủy viên biên tập đáp.
    -- Tôi không cảm thấy mình có trách nhiệm gì hết và chẳng cần sự khoan dung nào cả! -- phó tổng biên tập, nói đốp chát một cách lạnh lùng.
    Cuộc thảo luận tiếp tục. Mọi người đồng thanh bày tỏ sự hối tiếc sâu sắc về việc đã xảy ra và nhất trí đề nghị khai trừ Tsulatzê ra khỏi Đảng.

    Đến lượt Batsana phát biểu. Ông đứng lên và nói rất bình tĩnh, nhưng giọng rè rè.
    -- Các bạn thân mến của tôi, hầu hết những điều đã nói ở đây đều đúng sự thực. Sôta Tsulatzê là bạn thời thanh niên của tôi... Chúng tôi cùng học đại học, cùng dạo chơi ở Vêkê và Vare... Anh ấy bao giờ cũng là một đồng chí rất tốt, là người bố yêu các con mình, là người con trai tốt của bố mẹ mình... Tôi mời anh ấy về tòa soạn không phải vì tình bạn, mà vì trí tuệ sắc sảo và tài năng làm báo lỗi lạc của anh ấy... Nhưng rõ ràng là tôi chưa đủ kinh nghiệm cũng như khả năng và uy tín để ảnh hưởng đến anh ấy, để theo dõi những hành động và tư cách của anh ấy... Nói thực, việc xảy ra với Tsulatzê, tôi coi là trạng thái bất bình thường về tâm thần... Tôi không có ý lẩn tránh trách nhiệm. Tôi đồng ý với đồng chí phó của tôi: toàn bộ trách nhiệm phải quy cả vào tôi, tôi sẵn sáng nhận lấy...
    Batsana ngồi xuống và xin nước.
    ... Cơn đau nhói lên ở vai bên phải. Rồi nó trườn xuống ngực và mắc ở chỗ nào dưới vú bên trái. Rồi dường như có bàn tay chai sạn của ai thọc vào ngực và bắt đầu bóp kiệt trái tim, như vắt nước chùm nho. Nó bóp chậm chạp, cần mẫn: một -- hai, hai -- ba, ba -- bốn... Cuối cùng, khi trái tim đã bị vắt kiệt không còn một giọt máu, vẫn bàn tay ấy thản nhiên vứt nó đi...
     
    Chỉnh sửa cuối: 7/6/15
  8. notrinos

    notrinos Lớp 5

    18.
    Ngày hôm ấy có một người đến thăm cha Iôram. Cuộc trao đổi của họ ngắn ngủi, mù mở và đáng sợ.
    -- Thưa cha, -- Khách nói, sau những lời chào hỏi đầu tiên, -- những người bạn của cha đã cưu mang cha trong đêm ấy sẽ rất vui mừng nếu cha quên đi tên của họ!
    Khách ngồi quay lưng về phía Batsana, vì vậy ông không thể thấy vẻ mặt của họ. Nhưng căn cứ vào vẻ mặt cha Iôram, Batsana hiểu rằng kẻ đến đây là một kẻ phạm tội.
    -- Quên cả cây thánh giá? -- Cha Iôram hỏi.
    -- Cả địa chỉ nữa!
    -- Nhưng địa chỉ thì xe "Cấp cứu" biết rồi, -- Mặt tái nhợt, linh mục nói.
    -- Xe "Cấp cứu" lượm được cha trên đường, nó được gọi tới qua điện thoại tự động.
    -- Vậy ra mọi việc đã được tính trước cả rồi ư?
    -- Đúng thế.
    -- Còn cây thánh giá? -- Cha Iôram nhắc lại.
    -- Tôi không biết đấy là nói về cây thánh giá nào...
    -- Anh biết!
    -- Tôi chỉ biết những điều tôi đang nói với cha!
    -- Anh cho rằng thế giới lợp bằng rơm ư? -- Linh mục mỉm cười chua chát.
    -- Bằng ngói Macxây, thưa cha! -- Khách chữa lại.
    -- Anh bỏ ra bao nhiêu tiền mua cây thánh giá của tên khốn kiếp nọ? -- Giọng cha Iôram run lên.
    -- Xin nói thẳng: những lời cha nói về cây thánh giá, tôi chẳng hiểu gì cả. Nếu đó là một trong những triệu chứng bệnh thì tôi không thể giúp được gì cho cha. Nếu cha cần một cây thánh giá, hay ngược lại, muốn bán cây thánh giá thì cứ nói thẳng, tôi sẽ giúp cha. Đừng ngại, chúng tôi không bao giờ kì kèo về tiền nong...
    -- Chúng tôi là những ai? -- Cha Iôram hỏi.
    -- Chúng tôi! -- Khách trả lời gọn lỏn.
    -- Thế anh là ai?
    -- Người trung gian...
    -- Tôi không muốn nói chuyện với anh!
    -- Tôi cũng vậy...
    -- Nếu thế thì tạm biệt...
    -- Tôi thấy việc chúng ta gặp lại nhau không có lợi gì, vì thế xin vĩnh biệt cha... -- Khách đứng lên.
    -- Anh dọa tôi ư? -- Cha Iôram hỏi, nhưng giọng nói cho thấy cha đã hoảng.
    -- Không, chúng tôi báo trước!
    Batsana nãy giờ vẫn lẳng lặng nghe cuộc đối thoại kì dị ấy mà ông chẳng hiểu gì, nhưng mấy lời cuối cùng của người lạ mặt khiến ông mất kiên nhẫn.
    -- Anh bạn trẻ, xin hãy đến gần đây! -- Ông yêu cầu. Batsana không thú gì việc chuyện trò với tên trâng tráo đó, nhưng ông rất muốn nhớ mặt hắn. Gã lạ mặt chậm chạp quay về phía Batsana và hỏi bằng giọng vờ ra vẻ lễ độ, trong đó lộ rõ ý mỉa mai không che giấu được.
    -- Ông hỏi tôi ạ?
    Batsana giật mình. Tên này không có mặt! Dường như mọi cái đều ở đúng chỗ của nó: mắt, tai, mũi, môi, cằm... Tuy vậy, người này không có mặt, những đường nét của y không biểu lộ điều gì, không một tình cảm, không một diễn biến của tâm hồn, tư tưởng, Batsana hiểu rằng không thể nhớ mặt một người như thế, những kẻ như thế tự chúng tìm ra tất cả những người chúng cần, những người chúng quan tâm. Hiểu được điều đó, Batsana nheo mắt và cố gợi lại trong trí nhớ hình ảnh người khách khác thường đó, nhưng uổng công, hình dáng kẻ lạ mặt tan biến như một ảo ảnh.
    Khi Batsana lại mở mắt, kẻ đó không còn ở trong phòng bệnh nữa.
    -- Ai đấy? -- Batsana hỏi vị linh mục đang ngớ người ra. -- Lần đầu tiên tôi thấy một người có khuôn mặt trơ trơ như vậy!
    -- Đấy không phải là người. Đấy là quỷ xa-tăng...

    Con nhồi máu cơ tim khiến cha Iôram phải vào bệnh viện lần này là đợt thứ hai. Và xin bạn đọc đáng kính đừng tưởng rằng cha bề trên của nhà thờ Ortatsala bị đau nặng như thế trong lúc đọc "Chuyện mười ngày"* bất hủ hay đoạn miêu tả yến tiệc trong cung điện của Bantađa, do nhà tiên tri Đanien lưu lại cho hậu thế**.
    Cha Iôram là nạn nhân của một việc hoàn toàn bất ngờ đối với cha.
    Năm một ngàn chín trăm bảy mươi, ở Pari công tước Xaurmăc Amirêgibili người Gruzya sống lưu vong từ trần, thọ chín mươi tuổi. Trong di chúc, công tước yêu cầu đưa hài cốt của mình về Gruzya để làm lễ cầu siêu trong nhà thờ Ba Ngôi Ortatsala, còn cây thánh giá bằng vàng nạm ngọc bích mà ông ta không hề rời xa cho đến lúc tạ thế thì ông hiến dâng lên ảnh Đức Mẹ cũng của nhà thờ đó.
    Chắt của Amirêgibi -- Kêtêvan Anđrôđikasvili -- Mirôliupxkaia đã làm đúng theo di chúc của người bị đau khổ vì nhớ quê hương. Hài cốt ông già được mai táng ở nghĩa trnag Kuki, còn cây thánh giá kèm theo bản di chúc và chú dẫn thích đáng thì trao cho cha Iôram.
    Trong phần chú dẫn, ngoài đoạn miêu tả cây thánh giá và chỉ rõ giá trị của nó, còn có phần cho biết cây thánh giá này nguyên là của em gái Văctang Gorgaxau *** -- quận chúa Guranđuctơ -- và Gorgaxan, năm mười sáu tuổi, sau khi đã đánh tan quân alan và khada và giải thoát được em gái khỏi chốn giam cầm, đã chính tay đeo cây thánh giá lên cổ em.

    * Đocameron, tập truyện đặc sắc của nhà văn Ý Bôccaxiô, ra đời năm 1352 (N.D)
    ** Bantada, vua cuối cùng của Babilôn. Sách của Đanien kể câu chuyện trong một bữa tiệc linh đình, hoàng đế truyền lệnh mang đến những chiếc bình thiêng của Nabasôđônêxo, trước đấy đã lấy được ở nhà thờ Giêrayzalem. Liền đó thấy hiện lên một bàn tay viết những chữ bí ẩn. Ngay đêm hôm ấy, Xiruyt đã làm cho sông Ơphrat đổi dòng, rồi đột nhập vào Babilôn và giết Bantađa (N.D)
    *** Vua Gruzya, người sáng lập thành phố Tbilixi (mất năm 502).

    Khó mà nói được những điều cho biết đó thực đến mức nào và bằng cách nào cây thánh giá ấy đã trở thành gia bảo của dòng họ Amirêgibi, nhưng nó là vật hết sức quý, nhất là đối với nhà thờ Ortatsala lâu nay vẫn sống lay lắt, và cha Iôram tiếp nhận món quà ấy như một ân huệ vô cùng lớn lao của thượng đế.
    Từ đó, hàng năm, vào ngày Đức bà Marya, cha Iôram kính cẩn lấy trong tủ sắt ra cây thánh giá đặt trên chiếc gối xa tanh trắng như tuyết và đặt trước ảnh Đức Mẹ.
    Giáo dân áp những cặp môi run run vì cảm động vào cái vật kỳ diệu đang từ chiều xa sâu thẳm của thế kỷ thứ năm nhìn họ bằng những cặp mắt xanh lá mạ tuyệt đẹp, còn cha Iôram và trợ tế Aven Argiêvanitzê cũng không kém cảm động, chú ý theo dõi các giáo dân để sự ngây ngất quá đáng vì tình cảm tôn giáo không xui khiến người nào trong bọn họ cầm nhầm cái di vật thiêng liêng mà các giám định viên Pháp về đồ cổ lịch sử đã đánh giá hai trăm năm mươi ngàn đô-la.
    Tình hình đó tiếp diễn đến năm một ngàn chín trăm bảy mươi ba.
    Rồi một năm trước đó, sang tuần thứ hai sau ngày lễ Marya, khi cha Iôram ngồi trong trai phòng của mình, mắt ứa lệ vì cảm động, đọc lại đến lần thứ một trăm câu chuyện Iôxip tuyệt mĩ và các anh em của Người thì cửa trai phòng bật mở, và trợ tế Argiêvanitzê xuất hiện một cách đột ngột và khó hiểu, vui vẻ chào cha bề trên của mình:
    -- Chào ông bạn Iôramisie!* -- Rồi y nấc lên một tiếng rất to.
    Tiếp đó, y vỗ vai vị linh mục đang ngớ ra và y bắt đầu cởi áo mũ, thoạt tiên y bỏ cái mũ chùm trên đầu, ném xuống sàn đá, rồi cởi chiếc áo tế và cũng ném xuống đấy, rồi y dứt dứt cây thánh giá bằng bạc to tướng đeo trước ngực, ném vào mặt cha Iôram và cười hô hố như quỷ Mêfixtôfen.

    * Tên gọi thân mật, xuồng xã của Iôram (N.D).
    -- Xéo đi, quỷ xa tăng! -- Cha Iôram hoảng sợ, chỉ có thể lầm bầm như vậy và nhổ bọt.
    -- Sẽ đi ngay thôi! -- Argiêvanizê hứa và trong lúc linh mục làm dấu thánh bằng cánh tay bỗng trở nên nặng chịch, y bắt đầu thóa mạ cả thế giới cơ đốc:
    -- Trời chu đất diệt tất cả các ngươi, cha cố, cả cha ngươi, cả con gái ngươi, cả thánh thần của ngươi, cả cái nhà thờ mục nát của ngươi! Ta nhổ toẹt vào các ngươi và vào cái linh hồn hôi thối của ta nữa! Này hãy ngửi mùi linh hồn ta cho mà chết nghẹn! -- Viên trợ tế hít một hơi thật sâu, rồi thở hơi trong phổi ra, tiếng thở kèm theo tiếng rít và tiếng khò khè! Trai phòng ngập mùi Khinkala và mùi vôtka lộn mửa. -- Hãy lấy tất cả linh hồn ta đi, để rồi xem ngươi sẽ dùng được nó vào việc gì! -- Y nhổ bọt vào cái mũ áo tế, dùng chân khoèo và hất tung những thứ đó lên. -- Còn cây thánh giá nặng một put này thì ngươi hãy đeo vào cổ ngươi và nhảy xuống sông Kuru, may ra ngươi có thể đếm được dưới đáy sông có bao nhiêu cá đấy!
    -- Nghĩ lại đi, tên ngu ngốc kia! Đừng chọc giân Chúa! Đấng tối cao sẽ nghe thấy những lời báng bổ của nhà ngươi, ngài sẽ lấy mất lưỡi của ngươi, khốn cái thân đời ngươi! -- Cha Iôram thử làm cho viên trợ tế nổi khùng nguôi dịu đi.
    -- Hai mươi năm ròng ông ta không nghe thấy tiếng ta mà bây giờ lại nghe thấy ư? Chúa của ngươi điếc, cha đạo ạ, ông ta điếc! Ông ta ngồi ở đâu đó trên các tầng mây, và làm bộ làm tịch! Tốt hơn hết là ông ta nên xuống đây và đến bệnh viện Hêtsinasvili, may ra người ta có thể chữa khỏi bệnh cho ông già!... Còn ngươi, cha đạo ạ, ta khuyên ngươi một điều hay: hãy vứt bỏ bộ áo lễ của ngươi đi và nghĩ đến xác thịt! Nó quan trọng hơn linh hồn ngươi!... Còn ta, ta rời bỏ các ngươi đây! Ta chẳng nợ nần gì ai ở đây cả! Các ngươi muốn linh hồn ta ư? Thì đây, hãy hưởng thụ đi! -- Argiêvanitzê lại phì phì thở ra. -- Còn xác thịt ta thì ta đem đi! Xin chào! Arivêđersi!
    Viên trợ tế vẫy tay một cái với linh mục, gửi cho ông cái hôn gió, rồi thè cái lưỡi phồng rộp lên vì ớt và rượu vôtka, lần lượt chế giễu tất cả các ảnh thánh, thọc hai tay vào túi và vừa hát một bài vui nhộn vừa rời khỏi trai phòng của cha Iôram.
    Người ta tìm thấy cha Iôram nằm bất tỉnh trong trai phòng của mình. Nhưng lần ấy vẫn chưa phải là nhồi máu cơ tim. Trái tim vững vàng của cha đã trụ được trước cơn chấn động.
    Cơn nhồi máu cơ tim xảy đến với cha một năm sau, trước ngày lễ Mẹ Marya, khi cha mở tủ sắt, hai tay nâng chiếc gối xa tanh lên, và thấy trên đó không phải là cây thánh giá, mà là một củ cải mập mạp. Cha Iôram chỉ kịp nghĩ rằng để khiến người ta tin và tôn kính mình, lẽ ra Đức Mẹ Marya có thể thực hiện một phép màu nhân từ hơn, liền đó cha đổ vật xuống như cái cây bị chặt gốc. Đấy là cơn nhồi máu tim thực sự.

    Liền sau khi cha Iôram bị nhồi máu cơ tim lần thứ nhất, đương nhiên Argiêvanitzê bị bắt. Nhưng sự việc không ra đến tòa. Vụ này bị đình lại ngay lần đối chất đầu tiên giữa khổ chủ và người bị tình nghi. Một tuần sau khi cha Iôram ra viện, nhân viên điều tra đưa Argiêvanitzê tới nhà cha. Sau khi đã bảo người công an đi cùng ra khỏi buồng, cán bộ điều tra để viên trợ tế cũ ngồi cạnh giường linh mục, còn ông ta ngồi bên bàn và bắt đầu lập biên bản.
    -- Ông Kanđêlaki, ông có hỏi gì người bị tình nghi là Argiêvanitzê không? -- Ông ta hỏi câu đầu tiên.
    Cằm cha Iôram run run và mắt cha ứa lệ.
    -- Này, thú nhận đi, hỡi linh hồn ma quỷ, ngươi là dòng dõi quỷ xa tăng, ngươi bán cây thánh giá thiêng liêng cho ai? -- Ông nói với Argiêvanitzê.
    -- Thưa ông cán bộ điều tra, những lời vừa được nói ra bằng ngôn ngữ nhà thờ của chúng tôi mà nói theo ngôn ngữ của các ông thì nghe còn tệ hơn câu chửi tục tĩu nhất! Vì vậy, tôi yêu cầu coi cách cư xử của ông này... tên phá hoại tư tưởng cộng sản này, như một hành động càn quấy! -- Argiêvanitzê nói bằng giọng của người bị xúc phạm đến những tình cảm tốt đẹp nhất.
    Nhân viên điều tra bỏ ngoài tai đòi hỏi của Argiêvanitzê và đến lượt mình, ông ta hỏi y:
    -- Này, bác Argiêvanitzê, có ai làm chứng cho bác là vụ đánh cắp cây thánh giá không can gì đến bác không?
    -- Có chúa làm chứng! -- Viên trợ tế trước kia giơ hai tay lên trời thốt lên.
    -- Chớ có cả gan, cấm ngươi nói cái tiếng thiêng liêng đó! -- Linh mục chồm dậy trong giường.
    -- Argiêvanitzê, đừng giả ngây giả ngô! -- Cán bộ điều tra quát viên trợ tế trước kia. -- Chúng tôi không thể mời Chúa ra làm chứng, hãy nêu tên một người nòa trong số những người đang sống!
    -- Thế thì đây: linh mục Iôram Kanđêlaki!
    -- Ta-a ấy à-à? -- Cha Iôram suýt đổ vật xuống giường.
    -- Chính thế! -- Argiêvanitzê xác nhận.
    Sự trâng tráo của viên trợ tế trước kia khiến cha Iôram không nói nổi nữa. Còn viên trợ tế nói tiếp:
    -- Thưa ông cán bộ điều tra, xin ông hỏi tên vu khống này xem khoảng thời gian giữa lúc tôi rời bỏ nhà thờ và lúc mất cây thánh giá này là bao lâu?
    Cán bộ điều tra hỏi linh mục:
    -- Ông phát hiện ra việc mất cắp vào bao giờ?
    -- Khoảng một năm sau... Thì tôi chỉ lấy cây thánh giá ra khỏi tủ sắt vào ngày lễ Đức Mẹ thôi mà... Nhưng điều đó không có ý nghĩa gì! Y có thể đánh cắp cây thánh giá từ trước đó nữa kia!
    -- Bây giờ xin ông hãy hỏi: lão để chìa khóa tủ sắt ở đâu?
    Cán bộ điều tra nhắc lại câu hỏi.
    -- Ở đây này! -- Cha Iôram sờ vào sợi dây chuyền đeo ở cổ.
    Cán bộ điều tra ghi: "Chìa khóa tủ sắt luôn luôn đeo ở cổ khổ chủ". Và đặt câu hỏi khác:
    -- Ông phát hiện ra tủ sắt trong tình trạng như thế nào? Nghĩa là tủ đóng hay bị phá?
    -- Đóng...
    -- Và chính tay ông mở tủ chứ?
    -- Chính tay tôi...
    -- Ông có bao giờ cho Argiêvanitzê mượn khóa không?
    -- Không bao giờ. -- Cha Iôram trả lời và hiểu rằng thế là mọi việc chấm dứt.
    -- Hãy nghĩ cho kỹ những điều cha nói, cha ạ... Có lẽ cha không được khỏe chăng? Nếu vậy ta hãy hoãn cuộc trao đổi giữa chúng ta. -- Cán bộ điều tra bắt đầu thương linh mục.
    -- Không đời nào! -- Argiêvanitzê chồm lên.
    -- Cha hãy cho biết, -- Cán bộ điều tra tiếp tục làm việc -- có lúc nào cha rời chìa khóa ra không?
    Cha Iôram chỉ lắc đầu: ngay cả lúc tắm, ông cũng không tháo khỏi cổ sợi dây chuyền đeo chìa khóa.
    -- Liệu có kẻ nào có thể đánh cắp chìa khóa của cha để in khuôn không?
    Cha Iôram không cho rằng khả năng đó bị loại trừ. Nhưng ông không tin chắc, vì thế ông thấy không trả lời là hơn. Lần cuối cùng, ông thử kêu gọi lương tâm của Argiêvanitzê:
    -- Thú nhận đi, tên bán Chúa, nếu như ngươi còn một giọt danh dự: ngươi bán cây thánh giá cho ai và lấy bao nhiêu tiền?!
    -- Tên bán Chúa đang nói với tôi đấy! -- Viên trợ tế trước kia quặc lại.
    -- Tiền đâu mà ngươi dựng nhà ở Gônđani? Mái nhà thờ vỡ hai viên ngói mà ta còn không thay nổi, vậy nhà ngươi...
    -- Nhà là của bố vợ ta. Còn về nhà thờ thì ta lấy làm lạ rằng nó vẫn còn nguyên vẹn, tuy nó ở trong tay tên kẻ cướp như ngươi!
    Linh mục tím mặt lại. Cán bộ điều tra nạt Argiêvanitzê:
    -- Thêm một câu đối đáp như thế nữa là ta... -- Ông ta không nghĩ ra được là còn có thể làm gì nữa với một người bị bắt vì tình nghi là ăn cắp, vì thế ông ta chỉ ngọ nguậy một ngón tay ra ý cảnh cáo.
    -- Nhưng chính ông đã kiểm tra giấy tờ về ngôi nhà đó kia mà? -- Argiêvanitzê hỏi. Cán bộ điều tra gật đầu. Thế thì ông hăm dọa tôi làm gì? Đáng lẽ bảo vệ người ngay thì ông lại bênh kẻ thờ cúng ư?!
    Cán bộ điều tra bối rối.
    -- Thế còn ô tô? -- Cha Iôram chen lời.
    -- Ông Kanđêlaki! -- Cán bộ điều tra nói với linh mục. -- Cuộc điều tra đã nghiên cứu mọi vấn đề liên quan đến vụ này... Vì vậy, ông hãy đi vào bản chất sự việc
    -- Câu hỏi về ô tô mà không liên can đến sự việc ư? -- Linh mục nuồn nản.
    -- Điều tra là điều tra về việc mất cắp cây thánh giá, còn ô tô không dính líu gì đến đây, nhất là nó lại thuộc quyền sở hữu của anh vợ ông Argiêvanitzê.
    -- Tôi không còn gì để hỏi nữa! -- Cha Iôram thờ dài và dốc ngược lọ valiđôn.
    -- Còn ông có hỏi gì không? -- Cán bộ điều tra hỏi Argiêvanitzê.
    -- Hỏi ư? -- Argiêvanitzê đứng lên. -- Tôi, người đã tự nguyện đoạn tuyệt với tôn giáo và là ủy viên đoàn chủ tịch Hội vô thần, cso chân dung treo trên bảng danh dự ở trụ sở Hội, tôi kiên quyết và chính thức đòi: thứ nhất, lập tức qui trách nhiệm nghiêm khắc cho tên ngu dân này về tội vu khống thâm độc và trừng phạt y một cách đích đáng. Thứ hai, tôi là nạn nhân của sự lộng quyền và vu khống, phải trả lại tự do cho tôi ngay lập tức. Thứ ba, tên tội phạm Kanđêlaki phải bồi thường thiệt hại cho tôi vì công việc của tôi bị đình trệ! Xin hết! -- Argiêvanitzê lau bọt mép sùi trên đôi môi và ngồi xuống.
    -- Quy trách nhiệm gì cho ai là do tòa quyết định, tôi không hỏi ông điều ấy! Hãy hỏi ông Kanđêlaki đây này, nếu ông có điều muốn hỏi!
    -- Xin vâng! -- Argiêvanitzê lại đứng lên. -- Tôi hỏi tên phản đạo Cơ đốc và ngu dốt này: y giấu đi đâu món tài sản của nhân dân Gruzya, di vật có một không hai, cây thánh giá của quận chúa Guranđuctơ?!
    Cán bộ điều tra nhìn linh mục bằng cái nhìn dò hỏi. Bỗng nhiên trong trí nhớ của cha Iôram hiện lên một cảnh tượng từ thời trẻ tuổi xa xăm...
    ... Ông đi toa xe điện số mười đến sân vận động. Đến chợ Đêzectia, có kẻ nào móc túi ông, Iôram chộp lấy tay tên kẻ cắp, nhưng chưa kịp thốt lên lấy một lời thì tên kẻ cắp giáng cho ông cái tát vang giòn và gào to:
    -- Anh không biết xấu hổ sao, anh bạn trẻ?! Nom anh có vẻ là một thanh niên có văn hóa, cao quý, hẳn là con nhà tử tế! Vậy mà lại móc túi tôi?! Nhuc nhã!...
    Cả toa đổ xô tới chỗ Iôram, trách móc và dọa nạt. Ông không còn cách nào khác, đành nhảy xuống xe lúc xe đang chạy.
    Nhớ đến chuyện ấy, cha Iôram cảm thấy hai má nóng bừng và mắt ông ứa lệ.
    -- Cha có nói gì không, thưa cha? -- Cán bộ điều tra hỏi.
    Cha Iôram trườn xuống giường và chân không giày, chỉ mặc đồ lót, khập khiễng đi sang phòng khác. Ở đây, cha lấy trên tường con dao găm lớn của tổ tiên để lại, làm dấu chữ thập, rút dao khỏi bao, hai tay nâng cao con dao trên đầu, và như người điên xộc vào căn phòng nơi người cán bộ điều tra và Argiêvanitzê ngồi.
    -- Mi chết đi, quỷ xa tăng! -- Linh mục thét và ra sức đâm dao xuống đầu Argiêvanitzê. Viên trợ tế trước kia đã kịp ngả người né tránh, còn con dao găm rít lên xé không khí, xẻ đôi lưng chiếc ghế dựa.
    Cha Iôram ném con dao găm đi.
    -- Các người ra khỏi đây đi! -- Cha nói bằng giọng âm âm ghê rợn, ngã xuống sàn và òa khóc nức nở.
    ... Cán bộ điều tra hiểu rằng không thể nào tiếp tục hỏi cung và lập biên bản được nữa. Ông ta hoặc phải lập tức rời khỏi đây, hoặc là trong căn phòng là liệt ánh thánh này có thể xảy ra đổ máu. Người cán bộ điều tra hiểu điều đó, vì thế cùng với kẻ bị tình nghi, ông ta vội vã rời khỏi căn nhà của cha bề trên nhà thờ Ba ngôi Ortatsala bị mất cắp...

    Lần nhồi máu tim thứ hai mà kết quả là cha Iôram hiện giờ nằm cạnh Batsana, xảy ra cách đây không lâu hai tháng trước, trong nhà một cán bộ nhiều người biết tiếng, cha được mời đến đọc kinh cầu siêu cho bố vợ của chủ nhà vừa qua đời, tất nhiên là vào ban đêm, đến lén lút.
    Cha Iôram thậm chí chưa kịp đến tận quan tài thì đột quỵ khi vừa bước qua ngưỡng cửa: cha thấy trên ngực bà chủ, giữa cổ áo xẻ rộng... cây thánh giá của Guranđúctơ -- em gái vua Văctang Gorgavan!
    ... Tỉnh lại trong xe "cấp cứu" thay cho cây thập tự ao ước, cha thấy một chữ thập đỏ cực to trên cái hòm y tế màu trắng, rồi sau đó, suốt dọc đường đến bệnh viện, thay cho mùi trầm quen thuộc thân thiết, cha cảm thấy mùi nước ammôniăc lộn mửa và mùi long não.
    Cha Iôram đã thấm bài học kinh nghiệm cay đắng của trận nhồi máu tim lần đầu, lần này không thốt lên lời nào về nguyên nhân bệnh. Ông khước từ pháp lý, quyết định phó mặc số phận cho đấng tối cao. Ông tin rằng sớm muộn kẻ phạm tội sẽ bị Chúa trừng phạt.
    Chỉ có một điều giày vò cha Iôram: tại sao Chúa lại chọn đích là cha, chứ không ai khác, để thử thách? Tại sao chính cha, chứ không ai khác, phải chịu những giày vò đau khổ như thế?
    Cha Iôram không tìm được câu trả lời cho những câu hỏi giày vò cha...

    Batsana ngạc nhiên chăm chú quan sát cha Iôram sau chuyến viếng thăm của người khách kỳ quặc ấy, cha thay đổi đến không nhận ra được, cha gần như không chuyện trò gì nữa. Đấy là chứng thờ ơ, ưu uất hay sợ hãi, chẳng những Batsana, mà ngay chính cha Iôram cũng không rõ. Nhưng dĩ nhiên, một phép màu độc đáo đã diễn ra: linh mục quên hẳn cả địa chỉ ngôi nhà nọ, cả họ của chủ nhà. Ông quên hẳn, như thể người khách không có diện mạo đã dùng dao khoét đi một góc trong trí nhớ của ông, mọi lưu giữ những ký ức về cái đêm khủng khiếp nọ.
    Câu chuyện thật về lai lịch bệnh của mình, cha Iôram thổ lộ với Batsana một tuần trước khi ra viện. Nhưng mặc dù Batsana đã dùng hết mọi cách, cố nài nỉ, thuyết phục cha Iôram nói tên người đàn bà có cây thánh giá, ông vẫn không lay chuyển được cha Iôram: cha dứt khoát không chịu trả lời...

    Dịch cúm hoành hành ở Tbilixi. Trong bệnh viên đã tuyên bố hai mươi ngày cách ly. Theo chỉ thị của giáo sư, không được cho ngay cả những người họ hàng thân thuộc vào thăm bệnh nhân, chứ đừng nói gì đến những người tình cờ ghé thăm. Ở các hành lang, nhân viên bệnh viện đeo khẩu trang đi lại như những bóng ma. Mỗi ngày giáo sư thân hành đến các phòng bệnh ba lần. Bệnh viện giống như một pháo đài bị bao vây mà ngay cả một con chim cũng không bay lọt vào được. Cho nên Batsana ngạc nhiên vô hạn khi một buổi sáng, cửa phòng bệnh bật mở và trên ngưỡng cửa hiện ra người bạn thời thơ ấu của ông với nụ cười rộng đến mang tai: Văctang Ambôkatzê.
    -- Vahô! -- Batsana nhổm dậy trên giường.
    -- Chào ông chủ tịch của những thằng ngố, Batsana thân mến!
    Ambôkatzê đặt lên cái bàn chung một gói lớn, tới gần giường Batsana, giang hai tay hộ pháp ôm lấy ông, rồi thận trọng đặt ông nằm xuống gối và ra lệnh dứt khoát:
    -- Nằm không được động đậy! Giáo sư bảo cậu không được cử động! Chào ông! -- Anh ta quay về phía Iôram.
    -- Chúc ông khỏe mạnh! -- Linh mục đáp lại.
    -- Cậu làm cách nào lọt được vào đây? -- Batsana không tin mắt mình.
    -- Tưởng gì! Thiên hạ người ta còn lọt được vào các nhà băng và lấy tiền đem ra nữa là! Lọt vào phòng bệnh gặp cậu thì có gì ghê gớm! -- Ambôkatzê nhếch mép cười.
    -- Cậu ở đâu ra vậy? -- Batsana tiếp tục căn vặn bạn.
    Ambôkatzê đưa mắt về phía cha Iôram:
    -- À, xin giới thiệu, -- Batsana sực nhớ ra, -- đây là người bạn cũ của tôi, Văctang Ambôkatzê, còn đây là người bạn cùng phòng bệnh với tôi, cha bề trên của nhà thờ Ba Ngôi Ortatsala, cha Iôram Kanđêli.
    -- Ô-hô, vậy ra cả các cha đạo cũng bị nhồi máu tim à? Đích thân Chúa trời che chở cho các vị kia mà? -- Ambôkatzê cười toác miệng và siết chặt tay cha Iôram.
    -- Nào, ngồi xuống, kẻ chuyện đi! Trận gió nào đã cuốn cậu đến đây thế? Làm sao cậu lại nhớ đến mình?
    Ambôkatzê đặt chiếc ghế ở đầu giường Batsana, nhìn ông một lát, lắc đầu rồi đáp:
    -- Đại loại là thế này... Mình đến gặp anh em. Chúng nó bảo: "Batsô định đi xa..."
    -- Cái gì? -- Batsana không hiểu.
    -- Định chết, chúng nó bảo. "Chết là thế nào?" -- mình hỏi. "Là thế này, --chúng nó trả lời, -- bị nhồi máu toàn bộ, khoanh tay trước ngực và sắp chết!" -- "Không có lý! -- mình nói. -- Thằng xỏ lá thế, nó nói láo toét hết, nó giả vờ đấy! Nó không dám chết mà không từ biệt mình đâu!" Thế là mình đến cậu. Mankhax đi cùng với mình, nhưng không được vào, hiện đang đứng ngoài đường.
    -- Làm thế nào mà cậu được người ta cho vào?
    -- Mình đến thẳng chỗ giáo sư "Kính thưa giáo sư, -- mình nói, -- xin cho tôi đến gặp Ramisvili, mười lăm năm nay tôi không gặp anh ấy!" -- "Thế ông là ai?" -- giáo sư hỏi... "Chẳng là ai cả, -- tôi nói... chỉ là một con người thôi!" -- "Nếu chỉ là một cọn người thôi thì đến với ông ấy đi, tôi cho phép!". Cừ lắm! Cả đời mình chưa từng gặp vị giáo sư nòa tốt như thế!
    -- Nói dối! Cậu còn nói nhăng nói cuội gì với giáo sư nữa?
    -- Nói gì, nói gì! Mình bảo rằng mình là đứa côi cút bất hạnh...
    -- Cậu là thằng bíp bợm! -- Batsana phá lên cười.
    -- Đồng ý... Này, nói đi, sức khỏe cậu thế nào? Tim ra sao?
    -- Dường như nó đã trèo được lên...
    -- Vậy là chúng ta cùng leo lên được rồi... Này, giáo sư cho mình có ba phút thôi... Thuốc đây này... -- Ambôkatzê lấy cái gói trên bàn.
    -- Khoan, còn thuốc men làm quái gì!... -- Batsana ngắt lời -- Mình cho thêm cậu ba phút thuộc phần của mình. Kể đi, lâu nay cậu ở đâu, làm gì, đến đây có lâu không, định làm gì? Có cần mình giúp gì không?
    -- Mình chẳng cần gì cả, ngoài sức khỏe và hạnh phúc của cậu!... Trên đời không có người nào có thẻ giúp Văctang Ambôkatzê...
    -- Thôi được, cứ ngồi đây một lát, cho mình nhìn cậu nào!...
    -- Cứ nhìn đi, bạn thân mến, nhưng nếu giáo sư đến thì cậu sẽ thanh minh với giáo sư nhé! -- Ambôkatzê giao hẹn trước.
    -- Được! -- Batsana đồng ý.
    -- Vậy thì... Việc ấy cậu vẫn nhớ chứ?... -- Ambôkatzê lại liếc nhìn cha Iôram.
    -- Cứ nói đi, nói đi, cha đây là người thân ấy mà! -- Batsana mỉm cười.
    -- Ừ... Vậy là cậu vẫn nhớ sự việc xảy ra hồi mình đào đường hầm ở núi Lôtkinxkaia*...
    Batsana gật đầu.
    -- Đấy là nơi nào vậy? -- Cha Iôram hỏi bằng giọng ngạc nhiên. Cha sinh trưởng ở Tbilixi, nhưng chưa bao giờ nghe nói đến đường hầm như thế.
    -- Từ nhà thờ của cha không nhìn thấy được, thưa cha! -- Ambôkatzê giải thích và nói tiếp: -- Công việc ấy đem lại phần thưởng từ sáu đến mười hai ngàn. Bởi vì bọn mình có hai người -- mình và Bagiatgiơgan, mỗi đứa được sáu ngàn kèm theo giấy đi đường về Arkhanghenxk... Mình ở đấy bốn năm. Cậu biết đấy, mình không thể sống không có công việc gì: Mình đã đốn một nửa rừng Taiga, góp phần to lớn cho công việc gia công gỗ! Rồi mình tham gia chạy maratông. Có mười người chạy. Từ Arkhanghenxk đến tận Karaganda...
    -- Chạy bộ à? -- Cha Iôram ngạc nhiên.
    -- Khi thì chạy bộ, khi thì đi xe lửa...
    -- Dù sao các ông cũng giỏi lắm! -- Linh mục khen.
    -- Chúng tôi trở về bằng các toa xe Xtôlưpin. Chỉ có ba người đến đích. Về thành tích này mỗi người được thưởng hai ngàn. Sáu và hai là tám... Rồi mình chuyển về Matxcơva. Ở đấy, mình được coi là một chuyên gia xuất sắc về đường hầm, các bạn mời mình làm một việc lớn. Mình đào một đường hầm đặc sắc, nhưng xong đến nơi thì nó đổ sụp... Ba người chết. Riêng mình còn sống, vì thế tất cả phần thưởng -- bảy ngàn -- mình được hưởng. Và giấy đi đường về Xverđlôpka... Bảy và tám trước đó là mười lăm. Đúng không?

    * Một vùng ở Tbilixi
    -- Đúng! -- Batsana đồng ý.
    -- Bây giờ mình ở Tbilixi. Đến được ba ngày rồi. Hiện giờ mình chưa có việc làm nhưng nghe nói ở đây khối việc cho mình làm... Còn mình nghĩ thế này: Có nên về hưu không? Thây kệ mọi sự đời, cần nghỉ ngơi... Thế nào? Mình mệt mỏi, người anh em ạ, mệt mỏi rồi... -- Ambôkatzê thở dài nặng nề.
    -- Cậu nghĩ ra điều đó không còn gì hay hơn được nữa! -- Batsana mừng rỡ. -- Phải rồi, về hưu đi! Quyết định đi! Mình sẽ làm tất cả những gì cậu muốn! Có phải xuống mồ mình cũng cam lòng, miễn là cậu quyết đi! Mình van cậu đấy! Cậu không có nhà ở ư? Ở nhà mình! Vahô, bạn thân mến, hãy hứa là bạn sẽ về hưu! -- Tiếng Batsana run lên.
    -- Ơ kìa ông Batsana Akakiêvits, ông ấy về hưu là thế nào! Người khỏe hơn cả con bò giống thế kia kìa! -- Cha Iôram kêu lên.
    -- Nghề của tôi quá gian nan, cha ạ! -- Ambôkatzê mỉm cười cay đắng. -- Ba mươi trong số bốn mươi nhăm năm của đời tôi, tôi ở trong nhà kín hay ngầm dưới đất...
    -- Đã đành, -- Linh mục đồng ý, -- xây dựng đường hầm là việc vất vả, nhưng cao quý!
    -- Hẳn cha không ưng, chứ không thì tôi sẵn lòng đổi nghề với cha! -- Ambôkatzê nhếch mép cười.
    -- Vahô, cậu nói điều đó lần thứ hai rồi! -- Batsana nhắc nhở.
    -- Bây giờ thì thế là hết! Mình mệt mỏi rồi! Mình muốn, như Ietim Gurgi đã nói, chết ở Tbilixi thân thương! Cậu nhớ chứ.
    Tbilixi thành phố thân thương
    Đứa con hư vẫn như xưa gắn bó cùng Người
    -- Cẩn thận đấy, Văctang, lời nói là lời nói!
    -- Đúng, Batsô, lời nói là lời nói! -- Ambôkatzê đứng lên -- Thuốc đây! -- Anh ta giở cái gói và trút xuống giường một đống thuốc tiêm, thuốc viên và thuốc bột. -- Đây là atêrôit đây là intênxait, đây là panangin, đây là korđarôn, penitrat, perxartin đây là eranđin, punxnorma, xuxtăc, còn đây là thuốc cho người điên: valium!
    -- Vahô, cậu hóa rồ rồi! Ở đâu ra những thuốc như thế này? -- Batsana ngạc nhiên há hôc mồm.
    -- Nghe thấy không, thưa cha? Suốt đời cứ như thế! Người ta chỉ làm có mỗi một việc là hỏi tôi các câu ngớ ngẩn ấy: ở đâu ra, ở đâu ra! Có ma quỷ biết được ở đâu ra! Nhận lấy, có thế thôi!
    -- Phải, nhưng đây là những thuốc đắt tiền... Rất đắt! -- Batsana trầm ngâm thốt lên và bắt đầu trân trọng xem từng thứ thuốc bột và ống thuốc tiêm, như thể trước mắt ông là một kho báu.
    -- Chuyện đó mặc cho kẻ nào trả tiền thuốc nghĩ đến, cậu bận tâm làm quái gì? Ambôkatzê đùa, đánh trống lảng. -- Cha cũng bị nhồi máu tim ư? -- Anh ta hỏi linh mục.
    -- Nhồi máu và tất cả các bệnh khác trên đời! -- Cha Iôram thở dài.
    -- Nếu vậy, một khi hai người cùng ở một phòng bệnh và cùng ăn với nhau thì kính thưa cha, một nửa tài sản này là của cha. Luật lệ là luật lệ!... Thôi, tôi đi đây, thời gian của tôi hết rồi! Còn bệnh cúm của cậu thì mình cóc sợ! Ambôkatzê ôm Batsana và ghì chặt vào ngực mình -- Từ biệt cha! -- Anh ta nói với cha Iôram và đi nhanh ra cửa. Đến cửa, anh ta quay lại và chăm chú nhìn Batsana bằng đôi mắt đẹp tuyệt trần và buồn rầu.
    -- Này, Batsô, đừng có ý định chết đấy nhé!
    Ambôkatzê phá lên cười và đóng sập cửa lại.
    -- Người tín đồ cơ đốc cao quý ấy làm nghề gì vậy, thưa ông Batsana? Tôi thậm chí chưa kịp cảm ơn ông ta! -- Cha Iôram hỏi.
    -- Ăn cắp, thưa cha! Kẻ cắp chuyên nghiệp! -- Batsana đáp và nuốt nước mắt ứa lên.
     
    Chỉnh sửa cuối: 9/6/15
    superlazy and tducchau like this.
  9. Cải

    Cải Cử nhân

    19.
    Batsana cho ô tô dừng lại bên vệ đường.

    Các ngọn đồi và đồng ruộng Xamađơlô(1) ngập dưới lớp tuyết dày. Xung quanh không một bóng người. Trong một xã ở đằng xa, khói bốc cao trên các ngôi nhà, bồng bềnh như những đám mây trắng lướt lên bầu trời xanh trong, ghép thành hình dạng rắc rối. Những cây cối trơ trụi rải rác đây đó trên cánh đồng, nom như những người tình héo hắt vì đau buồn, không sao gặp được nhau, giang tay với gọi nhau.

    Batsana ra khỏi xe, bắt đầu xem xét lốp xe. Marya bỏ áo lông, cũng ra ngoài, và không nói gì, bắt đầu chạy trên cánh đồng phủ tuyết.

    - Em đi đâu đấy?! - Batsana thét gọi.

    Marya không đáp. Nàng chạy, chân thụt trong tuyết ngập đến đầu gối. Chân đi đôi ủng cao màu đỏ, vai choàng chiếc khăn san rộng, sặc sỡ, bản thân nàng giống như một bông hoa khổng lồ. Batsana sung sướng và tự hào nhìn bông hoa sống ấy đang len lỏi trên tuyết, bởi vì ông biết bông hoa ấy là của đàn ông, chỉ của ông thôi, không thuộc về ai hết.

    Marya bỗng cúi xuống, hai tay vốc tuyết rắc lên đầu.

    - Batsana, lại đây! - Nàng gọi.

    Batsana cởi chiếc áo ngắn bằng da lông, ném vào xe và đi theo vết Marya. Đột nhiên ông muốn chạy, vùng vẫy trong tuyết. Đến gần Marya, ông đỡ lấy nàng, bế bồng lên, quay tròn, rồi cả hai cùng ngã nhào, vùi mình trong tuyết. Mặt nóng bừng bừng, tai và mắt bị tuyết lấp đầy, họ lăn lộn trong tuyết một lúc lâu, thở hồng hộc và cười. Cuối cùng, mệt lử, họ nằm vật ngửa ra và im lặng. Marya nằm dang rộng hai tay. Mái tóc đen nhánh của nàng xõa tung trên tuyết, bộ ngực phanh trần phập phồng nhô cao. Lúc này, nàng giống như con dama bị săn đuổi ngã trên tuyết.

    Batsana mê thích nhìn khuôn mặt kiều diễm của Marya, rồi không cầm lòng được, ông đưa hai tay ghì chặt lấy đôi tai lạnh giá, nhỏ như vỏ sò của nàng và áo mặt vào đôi môi nóng hổi. Bây giờ họ cùng chung một hơi thở, cùng chung một cuộc đời. Họ nằm một lúc lâu, không động đậy, lắng nghe tiếng đập rộn vang của hai trái tim điên dại.

    - Đứng dậy! - Marya bỗng đẩy Batsana ra và nói. Batsana đứng lên.
    - Quay đi.

    Batsana tuân lời. Khi ông quay về phía Marya, ông không tin ở mắt mình nữa: Marya khỏa thân đứng trước ông như ảo ảnh của một thiên thần hoàn mỹ đẹp huyền diệu.

    Batsana nheo mắt, rồi lại mở mắt ra, Marya nằm trong tuyết, tựa như ngủ. Ông quỳ gối, luồn hai tay xuống dưới vai nàng, hôn vào ngực nàng và thì thầm:

    - Em làm gì thế, em ngốc nghếch ơi, cảm lạnh mất đấy...
    - Hai năm nay em đợi cái ngày này... Bây giờ mặt trời của em ở bên em... Anh nói chuyện cảm lạnh gì kia chứ? - và Marya ôm lấy Batsana...

    ... Rồi mặt trời hạ xuống trái đất, đi qua cánh đồng Xamađơlô phủ tuyết, đắp tấm chăn trắng ấm áp lên hai con người dòng dõi Ađam, nằm ghé xuống phía đầu giường họ và ru họ, cho đến khi giấc ngủ ngon lành tuyệt trần làm mi mắt họ nhắm nghiền lại, khi đó mặt trời lại trở về vùng trời trong suốt sáng như gương.

    ... Batsana chồm dậy, hốt hoảng nhìn xung quanh cánh đồng phủ tuyết lấp lánh ánh nắng. Chỉ có họ với nhau: Marya, Batsana và mặt trời.

    Batsana đâm bổ tới xe ô tô, lấy tấm áo da lông, chạy trở lại với Marya, bọc nàng trong tấm áo lông và bế nàng ra xe.

    Lát sau, họ đã xuống dốc trên con đường vằng vẻ, đi về Tbilixi. Batsana nhớ đến những câu thơ Marya đã đọc trong sân nhà thờ Savnabađa.

    Mặt trời thân thương,
    Đứng ẩn mình sau núi!
    Bạn thấy đấy, ở đây một thiếu nữ đang cóng rét,
    Hãy lấy thân mình sưởi ấm cho nàng!
    Mau mau ôm lấy con bồ câu xinh xắn,
    Nói với nàng một lời về tình yêu.
    Người đẹp không thể chờ đợi,
    Nàng sẽ đi tìm một tranh anh tài khác!

    Marya ngồi ở ghế sau và khóc. Nhưng đấy không phải là tiếng khóc của người phụ nữ tủi cực, bị lăng nhục. Đấy là một cái gì hoàn toàn khác: sự vĩnh biệt một cái gì lạ lẫm, bí ẩn và không thể hiểu được đối với Batsana. Bằng trực giác, ông đoán ra điều đó, vì vậy ông cố không an ủi Marya đang khóc.

    Một cậu bé và một cô bé, sắc đeo vai, từ trường nội trú Kogioocxki trở về, đứng ngây ra tại chỗ, sửng sốt vì cảnh tượng lạ thường.

    - Xem kìa, Nachya! - Chú bé kêu lên, chỉ tay. Trên cánh đồng Xamađơlô, tuyết rực lên ngọn lửa màu thanh thiên trong suốt.

    *
    **

    Batsana tìm thấy một lá thư gài vào tay nắm cửa. Linh tinh biên tập viên bảo ông rằng đấy là thư nặc danh. Ông bỏ lá thư vào túi, mở cửa, vào phòng, ngồi vào bàn và sau đó mới mở phong bì.

    Đúng là thư nặc danh, thêm nữa lại được minh họa bằng những ảnh khiêu dâm.

    Hàng trăm lá thư nặc danh đã qua tay Batsana. Nhưng về sự trâng tráo và hèn hạ, lá thư hiện ông đang đọc vượt hẳn tất cả những gì ông đã từng gặp trong những lá thư tương tự.

    "Kính gửi ông Batsana Akakiêvits!

    Chúc mừng ông vì ngọn đèn đỏ đã xuất hiện trên cửa nhà ông. Một ả dâm đãng nổi tiếng, sư mẫu của tất cả các con đĩ ở Tbilixi, đã vớ được ông, thế là nó lại tìm được thêm một con bò sữa có sừng nữa (hỡi ôi, không thể gọi ông là con bò đực được!). Liệu có gì đáng ngạc nhiên khi ả đàn bà đó - một bó bệnh hoa liễu - hiến cho ông một cách hậu hũ như thể tình yêu của ả?! Đối với ả, tình yêu là thứ thức ăn chăn nuôi hỗn hợp mà ở các trại gia súc người ta cho bò cái ăn để lấy được nhiều sữa hơn. "Sữa" ấy rồi sẽ cạn, kính thưa ông Batsana, và khi ấy sẽ muộn mất nếu muốn loại bỏ ngọn đèn đỏ hiện đang trang hoàng nhà ông và dưới ánh sáng của nó, hiện ông đang đọc lá thư này, thư nặc danh, nhưng được viết ra do lòng thương chân thành đối với ông. Hãy giữ gìn uy tín của mình!..."

    Batsana đặt lá thư sang một bên, lau mồ hôi lạnh vã ra trên trán. Lúc đọc lá thư, trong tai ông âm vang một tiếng nói quen thuộc, rất quen thuộc. Dường như bức thư do phụ nữ viết, nhưng Batsana cảm thấy như có một bàn tay đàn ông mạnh mẽ đóng vào ý thức ông, như đóng đinh, từng lời của bức thông điệp man rợ này. Đóng sâu và chắc đến nỗi có lẽ Batsana không bao giờ có thể thoát khỏi chúng. Những tiếng nói!... Ông đã nghe thấy tiếng nói ở đâu, khi nào? Trời ơi, mong sao nói ra được!... Vẫn không sao nhớ ra, Batsana bắt đầu xem kỹ những tấm ảnh chụp... Khó lòng tưởng tượng nổi những tấm ảnh đáng ghê tởm và trơ trẽn hơn! Đồng thời... nghi ngờ "tính nguyên bản" của các bức ảnh nghĩa là thừa nhận thiên tài của sự giả mạo... Mắt Batsana tối sầm lại, có tiếng gõ hai bên thái dương. Khi ông tưởng như ánh sáng sắp tắt hẳn thì trong bóng tối dày đặc bỗng lóe lên một tia hy vọng. Trên một bức ảnh, ông thấy... Marya trần truồng. Và chính bức ảnh đó là sự giải cứu đối với Batsana và là bằng chứng hiển nhiên bóc trần sự giả mạo: Batsana không nhận ra thân thể Marya. Người phụ nữ có khuôn mặt của Marya trên ảnh không phải là Marya!

    Batsana ném những tấm ảnh xuống bàn... Ông nhớ lại Marya quỳ trước tượng Đức mẹ, rồi trước cái nhìn trong tưởng tượng của ông hiện lên cánh đồng. Xamađơlô phủ tuyết trắng tinh khôi, và Batsana bỗng căm thù cả thế gian... Lòng trống rỗng và mệt lữ, ông đưa tay với ống điện thoại để gọi điện cho một người nào trong số bạn bè, chuyện trò cho vơi nỗi đau. Nhưng ông không thể nhớ ra một số điện thoại nào, thậm chí không thể nhớ ra là nói chung ông có lấy một người bạn nào không... Batsana đặt ống nói xuống.

    *
    **

    Một tuần sau khi nhận được bức thư nặc danh, Batsanavà Marya ngồi trong căn phòng nhỏ xíu của hiệu ăn Xôlanluc. Trên bàn có hai chai rượu vang, một chảo khoai rán và một bình hồ đào đã bóc vỏ - món ăn Marya ưa thích.

    Batsana im lặng, Marya tự nhận là người chủ trì bữa tiệc, nàng nói luôn miệng - về thơ ca, lịch sử, nghệ thuật, về cá heo, về tinh tú, về đĩa bay, về tình yêu, về sự bất tử, về sự đầu thai của linh hồn Batsana uống rượu.

    Nếu đồng ý với Marya thì ông gật đầu, không đồng ý ông cũng không tranh cãi. Ông lẳng lặng nhìn đôi mắt to, ngời sáng ánh lửa tình yêu của Marya và uống rượu. Marya không phải không nhận thấy vè đăm chiêu của Batsana, nhưng nàng không hỏi gì, chỉ thỉnh thoảng ngừng lời, hỏi:

    - Anh vẫn nghe em đấy chứ, anh yêu quý?

    Batsana gật đầu và Marya nói tiếp. Trong lúc đó, Batsana theo đuổi ý nghĩ riêng: không phải nghĩ về dĩ vãng hay ương lai của Marya, không phải về lòng thành thực và chung thủy của nàng, về sắc đẹp và trí thông minh của nàng. Một ý nghĩ duy nhất choán hết tâm trí giày vò ông, làm ông khiếp sợ: có đưa cho Marya xem bức thư nặc danh hay không, bức thư hiện nằm ở túi áo trong của ông và gây bỏng rát như miếng sắt nung đỏ.

    1. Địa điểm ngoại vi Tbilixi.

    Typing...
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/6/15
    notrinos, superlazy and tducchau like this.
  10. notrinos

    notrinos Lớp 5

    Marya rót rượu vang đầy cốc và bỗng hỏi:
    -- Tại sao anh không hỏi về dĩ vãng của em?
    Batsana giật mình
    -- Em bảo gì kia? -- Ông hỏi lại để có thời giờ tìm câu trả lời.
    -- Em hỏi: chẳng lẽ anh không quan tâm đến dĩ vãng của em ư? Chúng ta yêu nhau ba năm nay rồi, vậy mà không lần nào anh hỏi em sống thế nào trước khi đến với anh...
    -- Anh không quan tâm, cho nên anh không hỏi, -- Batsana đáp, đưa mắt nhìn đi nơi khác.
    -- Không đúng... Anh rất quan tâm đến chuyện đó, quan tâm lắm lắm, nhưng anh không hỏi! Tại sao? Anh chờ em tự ý kể hết với anh chứ gì? Phải thế không?
    Batsana cúi đầu.
    -- Anh sợ, anh thân yêu. Và sợ là đúng... Chính em cũng sợ... -- Marya nhắp một ngụm rượu vang, thấm ướt cặp môi đã khô hẳn đi vì xúc động. -- Em còn sợ nhiều hơn anh. Không phải em sợ mất anh, mà sợ nhớ lại dĩ vãng.
    -- Marya, ta đừng làm cho buổi chiều nay mất vui... -- Batsana năn nỉ.
    -- Đằng nào thì cũng mất vui rồi... Ngay từ sáng kia... Nói đi, anh thân yêu, có chuyện gì xảy ra? Em nhìn thấy và cảm thấy hết...
    -- Chẳng có gì đâu, thề có em chứng giám!
    -- Anh thề thốt đến là dễ dàng! -- Marya mỉm cười. Nàng nâng cốc, nhìn qua cốc rượu vang đưa ra trước ánh sáng, rồi nói khẽ: -- Ta uống mừng người nào chết trước trong hai chúng ta!
    -- Marya, anh xin em, đừng biến buổi chiều nay thành lễ cầu hồn... Ban nãy em vui lắm kia mà, có chuyện gì xảy đến với em vậy?
    -- Uống đi!
    Batsana uống. Marya lại rót.
    -- Bây giờ hãy nghe em nói. Trong đời em, em đã chết năm lần và sống lại cũng đã ngần ấy lần. Lần đầu em chết trong sợ hãi và sống lại trong cô đơn... Lần thứ hai em chết trong cô đơn và sống lại trong tình trạng giả tảng... Lần thứ ba, em chết trong sự giả tảng và sống lại trong trạng thái vô tư lự... Lần thứ tư em chết trong tình trạng vô tư lự và sống lại trong căm hờn... Lần thứ năm em chết trong căm hờn và sống lại trong tình yêu... Bây giờ em sống bằng mối tình lớn lao trùm lấp hết thảy và em biết rằng em sẽ chết trong tình yêu. Đấy sẽ là lần chết cuối cùng của em... Sau lần chết này, không bao giờ em còn sống lại nữa... Em sẽ biến mất, hòa tan trong tình yêu vĩnh cửu... Vì thế, em chẳng tính gì đến chuyện bao giờ em sẽ chết... Em không sợ chết... Em uống mừng lần chết thứ sáu, lần chết cuối cùng của em!
    Marya uống cạn chén rượu và nhìn vào mắt Batsana.
    Batsana nhìn người phụ nữ tuyệt diệu ấy và không biết trả lời nàng thế nào. Bắt đầu một tình trạng im lặng ngượng ngịu kéo dài. Batsana có cảm giác căn phòng chia làm hai phần: Marya ở một phần, còn ông ở phần khác. Bên phía Marya tràn đầy không khí, sức ấm, sự sống và tình yêu, còn ông ở trong chỗ trống rỗng ghê rợn, đáng kinh hoàng, trong khoảng chân không. Để khỏi chết ngạt, ông đứng nhanh dậy, đi vòng qua bàn, đến ngồi cạnh Marya, ôm lấy nàng và ngả đầu vào ngực nàng, như dựa đầu vào cái cây đời mãi mãi xanh tươi... Marya hôn tóc Batsana và nói bằng giọng hết sức bình tĩnh:
    -- Nói cho em biết đi, có chuyện gì làm anh khổ tâm?
    Batsana lấy ở trong túi ra chiếc phong bì có lá thư nặc danh và những bức ảnh khiêu dâm, tay run run đặt trước Marya. Nàng nhìn chiếc phong bì một lúc lâu, rồi mở ra. Thoạt tiên Marya chăm chú xem những tấm ảnh, rồi đọc thư.
    Batsana nhìn không dứt vào mặt nàng, song không nhận thấy một mảy may diễn biến nào. Nhưng, đọc xong lá thư, Marya ngước đôi mắt to lên nhìn Batsana và ông hiểu mình đã phạm một sai lầm tai hại như thế nào. Trong mắt Marya, thay cho sự phẫn nộ, ghê tởm hay căm thù, ông chỉ thấy sự thương hại sâu xa đối với hai kẻ hèn mọn: kẻ viết bức thư nặc danh và chính Batsana.
    Marya đứng lên.
    -- Sự cô đơn đẩy người phụ nữ vào con đường lầm lạc. Đàn ông cũng thế. Vì vậy hãy gắng đừng bao giờ để mình bị cô đơn.

    Một giờ, hai giờ, rồi sang giờ thứ ba, Batsana ngồi trong hiệu ăn, nhưng Marya vẫn không trở lại. Lòng tự hào của người phụ nữ phi thường này vượt qua mọi sự mong đợi của Batsana.
    -- Cái bà... ê - ê... bà cùng đi với ông đã ra về lâu rồi... -- Người phục vụ bàn ăn lúng ta lúng túng, cuối cùng đánh bạo nói với ông.
    -- Vâng, vâng, tôi biết. -- Sửng sốt, Batsana đáp.
    -- Xin ông thứ lỗi... nhưng hiệu ăn đã đến giờ đóng cửa... Nếu ông...
    -- À vâng, tất nhiên, xin lỗi... Tôi phải trả bao nhiêu?
    Batsana trả tiền, không nhìn bản thanh toán. Người phục vụ lui ra.
    Batsana xé vụn bức thư và những tấm ảnh, ném vào cái gạt tàn và đánh bật lửa. Thoạt tiên những mảnh giấy ảnh bốc cháy, Batsana chăm chú quan sát một lúc những hình người phồng rộp lên, tan ra và biến thành tro. Cái gạt tàn khiến ông liên tưởng đến một địa ngục nhỏ xíu. Khi ngọn lửa bao trùm cả lá thư nặc danh. Batsana lại nghe thấy cái tiếng nói quen thuộc. Ông lặng người đi. Lá thư nói bằng tiếng của Xanđrô Maglapêritzê.

    20.
    Cha Iôram được ra viện vào thứ hai, nhưng ông dứt khoát không chịu ra trước thứ ba.
    Đêm ấy đã in sâu vào trí nhớ Batsana suốt đời.
    Gần nửa đêm, cha Iôram nằm trên giường trở dậy và rón rén đến gần giường Batsana. Batsana giả vờ ngủ.
    -- Batsana Akakiêvits -- Linh mục thì thầm gọi.
    Batsana không động đậy. Tin chắc Batsana ngủ, linh mục quỳ xuống.
    -- Lạy Chúa vĩ đại! -- Cha Iôram thốt lên và làm dấu thánh! -- Đấng cứu thế của chúng con! Thưa thánh mẫu đồng trinh Marya ! Nằm trước mặt Chúa và Mẹ là kẻ nô lệ của Chúa, Batsana Ramisvili, vậy mà chính ông ta không biết rằng ông ta là con của Chúa, là linh hồn của Chúa và lòng từ tâm của Chúa... Xin đừng giận ông ta khi ông ta làm những việc của Chúa nhân danh những người khác. Xin đừng giận, vì ông ta không biết rằng vị thượng đế mà ông ta tin, đã nảy sinh trong lòng Chúa và theo ý Chúa... Lạy Chúa quyền pháp vô biên, xin Chúa phù hộ và che chở cho ông ta và cho ông ta sống lâu hơn một chút trước khi đến trước Chúa, bởi vì ông ta càng sống lâu trên thế gian này thì sẽ càng gieo được nhiều hạt giống của điều thiện và lòng nhân từ trong thế giới do Chúa tạo lập nên. Đối với Chúa thì có khác gì đâu, cho dù nhân danh ai mà hòa bình, công lý, sự chính trực và điều thiện được xác lập trên trái đất này? Mà nếu do số mệnh xui khiến, tên của Chúa phải bị chối bỏ thì công tích của Chúa sẽ lưu lại đời đời, như thế cũng được... Hới Thánh linh Ba Ngôi, sao đấng thiêng liêng lại gieo mầm sự sống và thổi linh hồn bất tử vào con người? Nào đâu có phải vì háo danh, vì tên tuổi và vinh quang của Chúa! Lẽ nào Chúa phủ nhận sự đổi mới linh hồn và lý trí của dòng dõi Ađam?...
    Đức Chúa mà ông ta phụng thờ thật vĩ đại và uy quyền, bời vì không thể tin vào sự nghiệp mình hiến thân phục vụ mà không phải là do ý Chúa... Ông ta, Batsana Ramisvili, đang nằm đây trước mặt Chúa, và con, hạt bụi từ chân Chúa, hạt cát của lòng bao dung vô bờ bến của Chúa!... Nếu ông ta phải chết do ý Chúa thì xin hãy thu lấy thể xác và linh hồn con thay thế cho ông ta, bởi vì con không đủ khả năng đè bẹp vị Chúa khác trong ông ta và cảm hóa ông ta tin ở Chúa của con!...
    Cha Iôram đứng lên, làm dấu cho Batsana ba lần, rồi tháo cây thánh giá nhỏ đeo ở cổ, thận trọng luồn xuống dưới gối của Batsana, rồi đi nằm...
    Batsana mãi không ngủ được... Khi ông thức giấc thì cha Iôram không còn trong phòng bệnh nữa. Cha đã đi lúc tảng sáng...

    Một tuần sau, Batsana rời khỏi bệnh viện. Cuộc chia tay với các nhân viên y tế thật cảm động. Bác sỹ phụ trách phòng bệnh và chị y sĩ Giênya thậm chí còn khóc, dường như họ lấy làm tiếc khi thấy một người đã bình phục, rời khỏi bệnh viện.
    Trước hôm đó, Giênya đã tạt vào phòng bệnh của Batsana. Chị cắm vào lọ ba bông cẩm chướng trắng và ngồi xuống ghế. Batsana tưởng Giênya đến từ biệt, ông mỉm cười chờ đợi. Nhưng Giênya im lặng.
    -- Bắt đầu đi, Giênya!
    Giênya ngập ngừng.
    -- Ờ, thế thì tôi bắt đầu trước vậy!
    Batsana đứng lên, tới gần chị y sĩ và hôn tay chị.
    -- Giênya thân mến, đang lý tôi phải đem hoa tặng chị, nhưng tôi mong chị y sĩ nhân hậu tha thứ cho sự bất nhã này của người bệnh thô lậu và vô ơn.
    -- Batsana Akakiêvits, -- Giênya ngắt lời Batsana, -- trong thời gian ông ốm, ngày nào cũng có một phụ nữ đến đây... Một phụ nữ rất xinh đẹp... hỏi thăm sức khỏe ông... Đúng thế...
    Batsana nghẹn thở.
    -- Người phụ nữ nào, Giênya? -- Ông hỏi, tuy đã biết rõ hết.
    -- Chị ấy năn nỉ tôi đừng nói với ông...
    -- Tên chị ấy là gì?
    -- Tôi không biết... Ngày nào chị ấy cũng đến và cứ khóc hoài... Ông không đoán ra chị ấy là ai à?
    -- Tôi đoán ra rồi, Giênya ạ...
    -- Chị ấy yêu ông lắm... Chị ấy để lại lá thư, nhờ tôi chuyển đến ông ngày ông ra viện... Thư đây...
    Batsana cầm lấy lá thư, cố nén xúc động, bắt đầu xem từng bông cẩm chướng trong lọ.
    -- Chị ấy yêu ông lắm, ông Batsana Akakiêvits ạ!
    -- Cảm ơn chị, Giênya!
    -- Chị ấy rất tốt, rất xinh, ông Batsana Akakiêvits ạ!
    Đôi mắt tô lông mày màu đen của Giênya ứa lệ.
    -- Chính chị là một phụ nữ rất tốt và rất xinh, chị Giênya ạ! -- Batsana hôn tay chị y sĩ lần nữa.
    Giênya vội đứng dậy và ra khỏi phòng bệnh.
    Batsana nằm xuống giường và tay run run mở phong bì.
    "Anh yêu quý của em!
    Bây giờ, khi Chúa đã nghe thấy lời cầu nguyện của em và ban cho em cuộc đời anh, em muốn -- không phải để mong được thông cảm và tha thứ -- khóc với anh cho vợi nỗi đau của em, nỗi đau mà em cho rằng cả kho tai họa và bất hạnh của nhân loại cũng không chứa chất nổi, vậy mà chỉ một tờ giấy này lại chứa đựng hết...
    Hai mươi năm trước, không có đứa trẻ nào thông minh và xinh đẹp hơn em... và phải chịu một sự giáo dục tệ hại hơn em... Cha mẹ em đã tiêu phí bạc triệu để làm cho em trở thành bất hạnh... Chưa bao giờ em thừa nhận sự bảo trợ của ai, chưa bao giờ em cần những "người đưa tiễn", dù là ở trường hay ở đường phố. Rồi có một lần, em lên xe ô tô của "những người đưa tiễn" -- họ cứ vật nài em lên, thê là... đời em đi đứt và tên em không còn ra gì nữa... Em kể chuyện đó lần đầu tiên, trước Chúa và anh... Em bị đóng đinh câu rút trên cây thập tự trong rừng Tsipgômbo, và cho đến giờ, tuổi trẻ của em vẫn bị treo ở đó, trước cây thập tự cháy xém...
    Sau đó, em vẫn sống, vui cười và khiêu vũ... Em đã sống đến ngày nay. Và bỗng nhiên em dừng lại. Em nhớ đến Chúa và làm dấu thánh. Giờ đây, em quỳ trước mặt anh và van xin anh. Hãy tiếp nhận lễ vật của em, hãy tiếp nhận tâm hồn em, một tâm hồn đã qua những cực hình địa ngục và suốt trong những năm ấy luôn luôn hướng về anh... Em cầu chúc cho cái địa ngục ấy, vì con đường đó hóa ra lại dẫn đến anh...".
    Giá lúc đó bác sĩ lấy điện tâm đồ của Batsana thì ông còn phải nằm viện lâu.
    Batsana uống hai viên xêđuxen và cầu xin trái tim mình hồi tĩnh lại. Rồi ông lại bị bao trùm trong một đám mây hồng và ngủ thiếp đi. Đây là lần đầu tiên trong suốt thời gian lâm bệnh, ông ngủ không mộng mị.
    Buổi sáng, sau khi từ biệt mọi người, Batsana xuống tầng dưới gặp giáo sư. Giáo sư ngồi ở chiếc bàn viết đồ sộ và chăm chú xem xét cái gì bằng kính lúp. Thoạt tiên Batsana không hiểu giáo sư đang mải làm gì, nhưng khi hiểu ra, ông lạnh cả người đi: trên bàn trước mặt giáo sư là một mô hình nhiều màu và hình dạng khác nhau... mô hình tim nhân tạo. Batsana váng vất trong người, đến nỗi ông vội ngồi xuống chiếc ghế cạnh cửa. Giáo sư ngẩng đầu lên, ngạc nhiên nhìn Batsana. Nhận ra Batsana, ông gạt những trái tim bằng chất dẻo sang một bên đứng lên và tới gặp Batsana.
    -- Hết sức vui mừng được gặp đồng chí Batsana Akakiêvits, nhất là đồng chí lại quá bộ, như người ta thường nói, hạ cố đến thăm tôi!
    Hai người siết chặt tay nhau...
    -- Đồng chí làm sao thế? -- Giáo sư chột dạ. -- Tay đồng chí lạnh băng!
    Batsana không thể rời mắt khỏi những mô hình nằm trên bàn. Giáo sư hiểu hết, vội đến gần bàn, rút ngăn kéo ra và bằng một cái gạt tay, dồn tất cả mô hình xuống đấy.
    -- Cho tôi valêrianka, nếu có thể được... -- Batsana thốt lên một cách khó nhọc.
    Giáo sư lấy trong chiếc tủ con ra một lọ valêrianka, nhỏ vào cốc mấy giọt, cho thêm nước và đưa cái cốc cho Batsana.
    -- Không có gì đáng sợ, sẽ qua ngay thôi.
    Batsana dần dần yên tâm.
    -- Cái gì thế, thưa giáo sư? -- Rút cuộc ông hỏi.
    -- Có gì đặc biệt đâu... Đồng chí cảm thấy trong người thế nào?
    -- Cám ơn, qua rồi...
    -- Tốt lắm. Xin mời đồng chí sang ngồi chiếc ghế bành này... Ta sẽ nói những chuyện dễ chịu.
    Giáo sư để Batsana ngồi trong chiếc ghế bành lút sâu.
    Im lặng một lát, Batsana lại hỏi:
    -- Thế thưa giáo sư, cái đó là có thực ư? Tim nhân tạo ấy mà?
    -- Hãy cứ cho là có thực... Đã bốn năm nay, một con bê sống bằng tim nhân tạo... Và đó là điều đáng cho đồng chí vui mừng, chứ không phải là buồn rầu... Số là việc cấy tim sống chưa đem lại kết quả mong muốn. Bệnh của đồng chí là bệnh của mạch máu đúng hơn là của chính trái tim, thành thử sau một thời gian nhất định, bất cứ trái tim lành mạnh nào đem cấy cũng có thể bị nhồi máu và suy động mạch vành... Hiện thời tim nhân tạo là con đường chắc chắn nhất. Điều đó chính Krixchian Becna cũng thừa nhận... Thôi, lúc khác ta hãy nói chuyện ấy! -- Giáo sư phảy tay. -- Thú thực tôi tưởng đồng chí đã ra viện và không từ biệt tôi, tôi đã giận đấy... -- Ông vừa cười vừa vỗ vào đùi Batsana.
    Bởi thế tôi mới qua thăm giáo sư. Trước hết, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự quan tâm săn sóc của giáo sư. Sau nữa, xin giáo sư thứ lỗi vì giáo sư đã phải qua những đêm không ngủ, túc trực bên giường tôi. Cuối cùng, tôi muốn ngợi ca nghề nghiệp và đôi tay vàng ngọc của giáo sư!... -- Batsana rất muốn ôm hôn thắm thiết con người tuyệt vời này, trên gương mặt hơi thô, nghiêm nghị của ông, đôi mắt mệt mỏi ánh lên vẻ đôn hậu và thông minh.
    -- Chẳng việc gì phải cảm ơn tôi, còn tôi cảm ơn đồng chí về những lời khen ngợi đó!
    -- Tôi không biết lấy gì đền ơn giáo sư... Những gì giáo sư đã làm cho tôi thì không sao đền đáp được... Vì vậy, chỉ xin giáo sư cho tôi được quyền yêu quý giáo sư như một người anh của tôi, như một người thân thiết...
    -- Cám ơn! Giáo sư cảm động và ngượng ngập vì những lời Batsana nói. -- Cám ơn! -- Giáo sư nhắc lại và vô tình rút ngăn kéo bàn viết ra, nhưng nhớ tới phản ứng của Batsana, ông đóng ngay lại.
    Batsana phá lên cười.
    -- Thấy chưa, đồng chí đã quen rồi đấy! -- Giáo sư thốt lên và cũng cả cười.
    -- Thì còn biết làm thế nào nữa? -- Batsana giang hai tay ra.
    -- Đồng chí sẽ không cần dùng đến tim nhân tạo, nếu đồngc hí nhất nhất làm đúng mọi chỉ dẫn của tôi! -- Giáo sư nói và đặt đôi tay hộ pháp lên bàn.
    -- Xin tuân lời! -- Batsana đáp một cách ngoan ngoãn.
    -- Thuốc lá, bỏ! Rượu vang và vôtka, chừa! Món ăn có mỡ, kiêng! Thức đêm, phải tránh! Đàn bà, kiêng!
    -- Thế thì còn gọi là sống thế nào được? -- Batsana buồn xịu, hỏi.
    -- Nhồi máu cơ tim trừ đi những kiêng kị kể trên, đó là đời sống! -- Giáo sư nói dằn từng tiếng, nêu rõ cái công thức hết sức đơn giản về cách sống của Batsana từ nay trở đi.
    -- Như thế đến bao giờ? -- Batsana hỏi bằng giọng của người chết đuối vớ được cọng rơm.
    -- Hai năm đầu, bắt buộc phải theo. Hai năm sau thì nên theo, hai năm sau nữa thì tùy ý... Tôi không dọa đồng chí đâu, Batsana Akakiêvits ạ, nhưng đồng chí nên hiểu rằng đồng chí bị nhồi máu cơ tim trong phạm vi rộng, không thể đùa với nó được... Chăm sóc tim một cách thích đáng nó sẽ hoàn toàn hồi phục hồi và sẽ còn phục vụ đồng chí lâu bền như từ trước đến nay. Nhưng cần gìn giữ nâng niu nó... Trái tim thích được nâng niu...
    -- Tôi hiểu, thưa giáo sư... Còn bây giờ xin từ biệt... -- Batsana đứng lên.
    -- Từ biệt, Batsana Akakiêvits! Hãy quên hẳn bệnh viện chúng tôi đi, và cầu trời cho đồng chí không bao giờ phải nhờ cậy đến tôi nữa! Tất nhiên hiểu theo nghĩa là nhờ đến bác sĩ! -- Giáo sư nói thêm.
    -- Từ biệt giáo sư ra về, tôi hết sức hài lòng... Thưa giáo sư Nôđa Grigôriêvits, đối với tôi hai tháng ấy có giá trị bằng cả cuộc đời tôi!
    -- Tôi không hiểu đồng chí...
    -- Con người cần ốm nặng ít nhất là một lần trong đời. Như vậy người đó sẽ có dịp phân tích và đánh giá lại một cách tỉnh táo và bình tĩnh toàn bộ quãng đời đã qua. Hiểu theo nghĩa ấy, bệnh viện đã đem lại cho tôi một sự giúp đỡ vô giá.
    -- Theo tôi, con đường đời của đồng chí không cần phân tích lại và đánh giá lại.
    -- Đồng chí tưởng như thế ư? -- Batsana mỉm cười.
    -- Ít nhất là theo con mắt người ngoài thì cũng có vẻ là như vậy.
    -- Hai tháng trong bệnh viện của giáo sư là thời gian tôi có được những khám phá kì lạ!
    -- Đồng chí khám phá được cái gì kì lạ đến thế kia?
    -- Một quy luật của muôn đời.
    -- Hừ...ừm... Nếu vậy thì quy luật đó phải có dạng một công thức nào đó, phải thế không?
    -- Tất nhiên rồi!
    -- Có thể đồng chí sẽ cho tôi biết công thức ấy chứ? Tôi cam đoan với đồng chí rằng tôi không có ý định chiếm đoạt nó hay nhận mình là đồng tác giả! -- Giáo sư nói đùa.
    -- Thư giáo sư Nôđa Grigôriêvits, thực chất của quy luật ấy là thế này... Tâm hồn con người nặng gấp trăm lần thể xác... Nó nặng đến nỗi một người không mang nổi... Bởi thế người đời chúng ta, chừng nào còn sống, phải ra sức giúp đỡ nhau, cố làm cho tâm hồn trở nên bất tử, tôi giúp người khác, người ấy lại giúp người khác nữa, cứ thế đến vô cùng... Sao cho cái chết của một người không đẩy ta vào tình cảnh cô đơn trong cuộc sống...
    Giáo sư ngạc nhiên lắng nghe Batsana nói những lời như thế.
    -- Nhưng cái quy luật đồng chí khám phá ra thực là phức tạp. Batsana Akakiêvits ạ. -- Giáo sư nói sau một lúc im lặng kéo dài.
    -- Phức tạp thật! -- Batsana đồng ý.
    -- Thế đồng chí hy vọng thực hiện được nó trong đời sống này chứ?
    -- Nếu không thì nói chúng không đáng sống, thêm nữa, về phần tôi có lẽ bây giờ tôi đã là cái xác chết rồi.
    Batsana chìa tay ra cho giáo sư, giáo sư tới gần ông, và lúc đó Batsana không nén được, đã ôm ghì giáo sư vào ngực mình.
    -- Đúng... -- Giáo sư thốt lên bằng giọng cảm động. -- Tim nhân tạo không thích hợp với đồng chí... Mang trái tim nhân tạo đồng chí sẽ không sống được... Đồng chí là con người kì dị!
    Khi Batsana cảm thấy đôi tay lực sĩ của giáo sư âu yếm vỗ lên hai vai mình, ông hiểu rằng quy luật của muôn đời đã phát huy hiệu lực...

    Batsana cho chiếc ô tô đến đón ông ra về.
    Ông tạt ngang qua đường xe điện ở phố Klara Tsetkin, ra phố 25 tháng hai, và theo phố này xuống đại lộ Plêkhanôp.
    Trong hai tháng nằm bệnh viện, Batsana không quen với tiếng ồn thành phố nữa, bây giờ ông hơi chóng mặt và đầu gối run run. Ông đi rất thong thả và thận trọng. Còn Tbilixi vẫn sống cuộc sống bình thường của mình: ồn ào, la hét, xáo động, rên rỉ, cười, gầm rú.
    Trên đại lộ Plêkhanôp, hai dòng người chảy theo hai hướng như những dòng sông. Người trôi trong hai dòng chảy ấy như những khúc gỗ thả. Họ xô vào nhau, ngăn cản nhau, nói gì không rõ, tranh cãi, huơ tay múa chân, lại tản đi và hòa vào dòng chảy cuồn cuộn.
    Batsana vượt ngang qua đại lộ ở chỗ sang đường và chính ông lọt vào dòng người đó. Ông cố vượt lên trước, không để cho mình bị dừng lại. Từ đại lộ, ông rẽ sang phố Margianivili và ở đây, một nhánh mới của dòng người khổng lồ cuốn ông đi. Batsana cảm thấy nhịp đập của trái tim đã mất thói quen với nhịp điệu thành phố đang dần dần thích ứng với nhịp điệu đó, cũng như bản thân ông dần dần nhập vào mạch sống chung của thành phố. Rút cuộc, tim ông đã tìm lại được nhịp điệu đã mất và trôi trong dòng chảy cũng như mọi người -- trôi đi một cách thận trọng, nhưng vững vàng mà mạnh dạn.
    Ông dừng bên cây cột áp phích của nhà hát mang tên Bargianisvili. Ngày mai nhà hát mở đầu mùa diễn bằng buổi biểu diễn lần đầu vở kịch của bạn ông: "Các thánh dưới địa ngục". Có cái gì chảy tan ra trong ngực ông và một hơi ấm dễ chịu lan tràn khắp toàn thân ông. "Các thánh dưới địa ngục !" Ông thầm nhắc lại và mỉm cười.
    Đến cầu, Batsana cảm thấy mệt mỏi, không phải cái mệt đau ốm đáng lo ngại, mà là cái mệt nhẹ nhõm, dễ chịu. Ông vẫy một chiếc tắc xi và lên ngồi ghế sau phía bên phải.
    -- Đi đâu? -- Người lái xe hỏi, đồng thời bật đồng hồ đo.
    -- Đến Marya, -- Batsana trả lời.
    -- Đến ai?! -- Người lái xe ngạc nhiên quay lại.
    -- Đến Marya!...



    Hết
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/6/15
    amorphous, superlazy, 4DHN and 2 others like this.
  11. notrinos

    notrinos Lớp 5

    Cải thích bài này.
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này