Truyện ngắn Rồng Tiên lược truyện

Thảo luận trong 'Tự Sáng tác' bắt đầu bởi vanlinh2802, 11/12/23.

Moderators: nhanjkl
  1. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    PHẦN 7: BÀY MƯU HIẾN KẾ
    Đây nói về hai anh em Nguyên Dực và Nguyên Minh, thống lãnh 40 vạn quân, tiến về Bắc Văn Lang dẹp nội loạn nổi lên đòi tự trị làm hỗn loạn Bắc Văn Lang, cũng như chống trả lại quân xâm lược.

    Khi 40 vạn quân chủ lực Văn Lang đến Vân Châu, thời chia làm hai lực lượng. Nguyên Dực thống lãnh 20 vạn quân tiến thẳng về Ninh Châu. Còn Nguyên Minh thống lãnh 20 vạn quân tiến thẳng về Hợp Châu.

    Nói về Ninh Giao Châu, có Quan Châu Phủ Lạc Đại Vương, cùng các Quan trấn giữ Châu Thành. Ngày nào cũng có tin báo dập dồn khẩn cấp, quân Ân đã tiến đánh Kinh Giao Châu, tiêu diệt hơn một vạn quân Văn Lang ở Huyện Giao Trung, Lạc Đô Tướng bỏ mạng tại sa trường, và đã chiếm được thành Kinh Châu. Lạc Đại Vương cùng các Quan không khỏi kinh hãi, lo lắng cho số phận Ninh Châu, than rằng:

    Chỉ lo chạy chọt Quan quyền

    Ăn chơi phè phỡn đảo điên nước nhà

    Đến khi có giặc can qua

    Co đầu rụt cổ còn ra thống gì

    Lòng dân đã mất chí nguy

    Cơ đồ sự nghiệp khó mong vững bền.

    Lạc Đại Vương, cùng các Quan đến bây giờ mới thấm thía. Dân là nước, nước ô nhiễm độc hại văn hóa phương Bắc, thời cá phải chết. Dân là gốc, nhưng gốc đã mục nát, dân tình trở nên loạn lạc, thời thân cành, nhánh lá Vương Quan cũng đi đời, nhưng tất cả đều đã muộn. Chỉ còn trông chờ cứu tinh xuất hiện, thời may ra vận nước mới thoát qua cơn hiểm họa nầy.

    Lạc Đại Vương cùng các Quan chưa biết xoay trở bằng cách nào, chuẩn bị cho tình huống xấu nhất. Thời có quân vào báo:

    Bẩm Đại Vương, quân chủ lực Văn Lang đã đến.

    Lạc Đại Vương cùng các Quan mừng quá thốt lên:

    Cứu tinh đã đến rồi.

    Lạc Đại Vương hỏi:

    Quân chủ lực đến đâu rồi?

    Quân binh đáp:

    Quân chủ lực còn cách đây vài ba dặm.

    Lạc Đại Vương cùng các Quan ra khỏi thành tiếp đón quân chủ lực Văn Lang. Đi được hơn năm dặm thời thấy quân Văn Lang cờ xí rợp trời, gươm đao sáng giới, kỵ binh, xa binh, xạ binh, giáp binh, rầm rầm rộ rộ khói bụi mịt mù, khí thế hừng hực, thời lấy làm vui sướng, như người sắp chết đuối mà gặp Cứu Tinh. Đi đầu có rất nhiều Tướng lĩnh, mỗi người mỗi vẻ oai phong lẫm lẫm, có một Tướng lĩnh nổi trội hơn hết, mặt sáng như sao, vô cùng oai phong, đó là Tướng soái Nguyên Dực. Nguyên Dực thấy Lạc Đại Vương cùng các Quan đến tiếp đón mình, thời lấy làm vừa lòng.

    Lạc Đại Vương cùng các Tướng đến ra mắt thi lễ chào hỏi nói rằng:

    Hạ Quan nghinh tiếp hơi trễ xin Tướng Soái tha lỗi cho, Nguyên Dực thi lễ nói không sao không sao, miễn có ra đón là được rồi.

    Lạc Đại Vương đi đầu dẫn đường gần đến Ninh Thành thời đại quân dừng lại đóng trại gần đó, cách Ninh Thành hơn dặm. Tướng Soái Nguyên Dực cùng các Tướng, được Lạc Đại Vương tiếp đón vào thành, thiết đãi trọng hậu, đàn ca múa hát, món ngon vật lạ, chẳng thiếu thứ chi.

    Nguyên Dực thưởng thức các món ngon vật lạ khen:

    Tiếng đồn quả không sai Bắc Văn Lang thứ gì cũng có, thảo nào quân giặc thèm khác lúc nào cũng muốn chiếm lấy Bắc Văn Lang.

    Lạc Đại Vương nói:

    Lời nói của Tướng Soái quả không sai, đây chỉ là đặc sản của vùng Ninh Châu nầy, còn những nơi khác phải nói là vô cùng phong phú, nhất là vùng lân cận Kinh Đô, thời phải nói là trù phú vô cùng, không có món ngon vật lạ hiếm quý nào mà không có, kể cả chim trĩ trắng, gà chín cựa, sâm nghìn năm, chồn hương chín đuôi, còn không biết bao nhiêu là món ngon hiếm quý nữa.

    Tiệc đãi xong xuôi qua ngày hôm sau, Nguyên Dực cùng các Tướng nghe báo cáo tình hình Bắc Văn Lang, cũng như tình hình quân xâm lược. Lạc Đại Vương đọc bản báo cáo, trong bản báo cáo nói như sau:

    Bẩm Tướng Soái. Tình hình Bắc Văn Lang vô cùng nghiêm trọng, không những nghiêm trọng về nội loạn, các Bộ Lạc Bách Việt nổi lên đòi tự trị, vì thế Bắc Văn Lang chia năm xẻ bảy tranh giành quyền lực dẫn đến thôn tính lẫn nhau, xưng Vua, xưng Chúa, từng vùng tự trị theo kiểu phương Bắc, chỉ cần vài trăm, vài nghìn nóc nhà cũng xưng Vua. Có thể nói văn hóa phương Bắc đã làm hại phương Nam chúng ta, tình thế nầy khó mà cứu vãn cho được, nghe nói văn hóa Văn Lang chúng ta đã mất gốc, lại không truyền xuống dân, chỉ truyền trong Vương Quan, thừa kế cơ nghiệp ông cha, nên dân chúng ít người được biết về văn hóa Cội Nguồn, nếu dân biết thời còn tai hại hơn nữa. Vì văn hóa Cội Nguồn không có sự độc tài, độc trị, chỉ lấy Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp công bằng bình đẳng trị Quốc mà thôi, phải nói không còn phù hợp với tình hình hiện nay, mà tình hình hiện nay là sống theo chế độ độc quyền, độc tài, độc trị, ý Vua là ý Trời, không ai dám cải, cải lại thời bị tru di tam tộc. Còn phương Bắc tru di cửu tộc. Thể chế độc quyền lần lần ăn sâu vào tâm hồn, không những Vua, Quan, như chúng tôi, mà còn ngay cả những người dân, không còn cách nào khác là thuận theo số phận mà thôi. Phương Nam chúng ta dần dần đi theo chiều hướng phương Bắc, nên mới có cảnh Bách Việt Văn Lang nổi lên đòi tự trị, theo xu thế phương Bắc, còn Nam Văn Lang thời chưa xảy ra điều đó, có lẽ là chưa ảnh hưởng gì văn hóa tự trị phương Bắc, nên chưa có sự nội loạn tình hình dân chúng phương Bắc Văn Lang là như thế. Còn về tình hình cấp bách hiện nay. Trước tình thế quân Ân, quân Hồ, quân Hung Nô, chúng càn qua Bắc Văn Lang như thác đổ, với một thời gian ngắn, chúng nuốt không biết bao nhiêu là Châu, Quận, Huyện, giết chết hơn mười mấy Vua Việt nổi lên đòi tự trị.

    Nguyên Dực cắt ngang lời báo cáo nói:

    Đây cũng là điều may cho chúng ta, ngoại xâm tiêu diệt nội loạn thay cho chúng ta, chúng ta không cần ra tay, kể như chúng ta đã thành công ở bước một.

    Nguyên Dực nói:

    Ông đọc tiếp đi.

    Lạc Đại Vương với giọng rõ ràng đọc tiếp báo cáo rằng:

    Theo tin tức báo cáo. Quân Hồ, quân Ân, quân Hung Nô, chia làm ba mũi tấn công Bắc Văn Lang, quân Hồ đánh theo Tây Lộ, quân Hung Nô đánh theo Đông Lộ, quân Ân đánh theo Trung Lộ, trong ba thế lực ấy quân Ân là mạnh nhất. Tuy chia làm ba mũi nhưng chúng luôn luôn hỗ trợ cho nhau lúc cần thiết, vì thế chúng đánh chiếm các Châu Phủ một cách dễ dàng. Theo tin báo thời giặc Ân đang bao vây Kinh Đô, giặc Hung Nô đang đánh phá Xích Linh Châu. Quân Hồ đang đánh phá Kiến Châu. Quân Ân phong tỏa cắt đứt những huyết mạch các Châu Thành liên kết với Kinh Đô. Phải nói tình hình hết sức là nguy cấp nếu chúng chiếm được Kinh Đô, chiếm được Xích Linh Giao Châu, chiếm được Kinh Châu, thời coi như chúng chiếm được Bắc Văn Lang.

    Đọc xong bản báo cáo. Lạc Đại Vương nói thêm:

    Như tin dò thám được thời Kinh Châu đã thất thủ.

    Nguyên Dực, cũng như các Tướng chủ lực quân Văn Lang nghe qua bản báo cáo như thế thời không khỏi lấy làm kinh hãi. Trước sức mạnh như vũ bão của quân xâm lược.

    Đời sau thơ kể lại rằng:

    Sức mạnh quân thù thật gớm ghê

    Như cơn Hồng thủy cuộn tràn về

    Thành trì sụp đổ trong chốc lát

    Sanh Linh vùi dập thật thảm thê.

    Đang lúc bàn về quân giặc, thời có quân thám báo về báo nói nhỏ với Lạc Đại Vương. Lạc Đại Vương nghe xong rồi dặn tiếp tục theo dõi động tỉnh của quân Ân.

    Nguyên Dực hỏi:

    Có chuyện gì thế có thể đem ra bàn được không?

    Lạc Vương nói:

    Có tin báo là quân Ân tiến đánh thành Ninh Châu chúng ta, tin rất chính xác.

    Nguyên Dực hỏi:

    Quân Ân chúng sẽ đi theo đường nào tiến đánh Ninh Châu chúng ta.

    Lạc Đại Vương nói:

    Kinh Châu đến Ninh Châu hơn 100 dặm qua sông, suối, đồi, gò cũng nhiều, đường đi qua nhiều khúc quanh rậm rạp. Theo nhận xét của Đại Vương tôi với khí thế mạnh như vũ bão của giặc thời giặc không sợ gì cả, đường nào gần nhất dễ đi nhất là chúng đi. Tôi tin chắc là quân Ân đi theo đường tắc dễ đi nhất, chỉ có một đoạn đường hiểm yếu, đó là chúng phải băng qua cánh đồng lớn, rồi đến đồi Vạn Lâm, đồi nầy kéo dài hơn 10 dặm cây cối rậm rạp, đồi Vạn Lâm cách đây gần 50 dặm, nếu chúng qua khỏi đồi Vạn Lâm thời không đầy một ngày đại binh chúng sẽ kéo đến, còn kỵ binh thì chỉ cần một ngày là đến nơi.

    Nguyên Dực hỏi:

    Quân binh trong thành nầy được bao nhiêu?

    Lạc Đại Vương thưa:

    Bẩm Tướng Soái hiện giờ hơn một vạn quân, phần nhiều do quân binh các Châu Phủ khác thua trận chạy đến đây.

    Từ đầu đến cuối cuộc hợp, có một vị quan lúc nào cũng yên lặng đó là Hầu Thái Công tuy tuổi đã lớn nhưng được gọi là bậc mưu Thần bậc nhất ở Ninh Châu.

    Đến lúc nầy Hầu Thái Công mới lên tiếng:

    Chúng ta có thể tiêu diệt được giặc Ân ở đồi Vạn Lâm nầy. Chúng tiến qua đất Văn Lang, như tiến vào chỗ không người, đánh chiếm các Châu Thành một cách dễ dàng, vì thế chúng sẽ không coi quân lực Văn Lang vào đâu nữa, ung dung mà tiến qua đồi Vạn Lâm. Chúng sẽ cho quân mở đường đi trước, đó chưa phải là quân chủ lực, nếu có quân mai phục chận đánh, thời chúng tỏa ra bao vây đồi Vạn Lâm rồi tìm kế tiêu diệt chúng ta. Theo thời tiết hiện giờ thời ta không sợ hỏa công vì trời hay mưa, cây cối luôn ẩm ước, chúng ta có thể an tâm mà mai phục nơi đồi Vạn Lâm nầy, cứ để cho đội quân mở đường đi qua, chờ cho quân chủ lực loạt vào vòng vây là tấn công. Quân ta chủ động, quân giặc bị động, chỉ cần ba vạn quân lựa vào những chỗ hiểm yếu phục kích, lợi thế tấn công, cũng đánh tiêu mười vạn quân của chúng.


    PHẦN 8: KINH CHÂU THẤT THỦ
    Lại nói về quân Ân sau khi đánh bại quân Văn Lang ở Huyện Giao Trung, tiến tới bao vây Kinh Châu, kết hợp với quân Hồ, đánh chiếm Kinh Châu một cách dễ dàng, vì Kinh Châu chỉ còn có hơn năm nghìn quân, không phải là quân chủ lực, quân Ân, quân Hồ, chiếm Kinh Châu như lấy đồ trong túi, chẳng tốn bao nhiêu sức lực, quân Ân làm phép cuồng phong nổi lên, quân binh trong thành kinh hồn bạt vía, quân Ân làm phép yêu tinh quỉ dữ bay lên thành gào thét tấn công, quân binh hỗn loạn, quân Hồ leo tường nhanh như chớp, quân Ân phá cổng thành, chỉ trong chốc lát quân Ân, quân Hồ, tràn ngập vào thành. Kinh Châu thất thủ.

    Vị tướng nữ thống lĩnh chỉ huy quân Ân là Sát Sát không những võ nghệ cao cường thần thông pháp thuật ít ai sánh nổi, mà còn đa mưu túc trí, ít ai bì kịp. Sát Sát là vợ chính của Ân Mao Vương, thống lãnh hơn 10 vạn quân tinh nhuệ, quân chủ lực, nhất là đội quân kỵ binh, đội quân xạ binh, di chuyển nhanh chóng lợi hại vô cùng, chiếm được thành Kinh Châu. Sát Sát báo tin thắng trận cho Ân Mao Vương, lên kế sách tiến đánh thành Ninh Châu, Sát Sát đang cùng các Tướng lĩnh bàn bạc lên phương án tiến đánh thành Ninh Châu.

    Thời có một con yêu tinh vào báo:

    Bẩm Nương Nương. Quân chủ lực Văn Lang đã đến Ninh Châu, quân binh đông như kiến, ước lượng trên dưới 20 vạn quân.

    Tướng lĩnh quân Hồ là Hồ Nam Quân nói:

    Chúng có 20 vạn quân chủ lực, hai lực lượng chúng ta kết hợp lại cũng trên 15 vạn quân, hơn kém bấy nhiêu thời có đáng gì, chỉ cần quân binh tinh nhuệ, tuy ít nhưng cũng chẳng kém gì nhiều.

    Sát Sát trợn mắt nói:

    Chúng kéo đến là may cho ta, khỏi mất công tìm chúng thanh toán.

    Rồi ra lịnh cho Phong Yêu và Quỉ Yêu, tàn hình đến Ninh Châu xem chúng bàn những gì. Phong Yêu và Quỉ Yêu, bay lên không biến mất. Đây nói về Phong Yêu và Quỉ Yêu, được lệnh Nương Nương bay tốc hành đến Ninh Châu, ẩn mình vào thành nghe lén quân Văn Lang bàn những gì.

    Nói về nguyên Dực, cùng các quan Tướng Ninh Châu bàn luận sôi nổi, về kế sách chuyến thuật tiêu diệt quân giặc, nào hay đâu có kẻ tàn hình ẩn núp gần đó nghe lén Hầu Thái Công hiến kế. Quân Ân thế nào cũng đi qua đồi Vạn Lâm. Chúng ta cho ba vạn quân mai phục những chỗ trong yếu nơi đây, để cho quân mở đường đi qua, chờ cho quân chủ lực tiến sâu vào ổ mai phục thời ra tay. Lại cho năm vạn quân nhanh chóng đi bọc về hướng Đông Bắc qua khỏi đồi Vạn Lâm hơn 10 dặm phục kích ở xa để cho quân giặc tiến sâu vào đồi Vạn Lâm thời mới duy chuyển quân binh chận đường rút lui của chúng mà đánh, còn đại quân của ta đi bọc về hướng Tây chận đứng đường tháo chạy của chúng, rồi tiến nhanh vào thành lấy lại thành Kinh Châu. Về vận chuyển lương thực thời do quân Ninh Châu đảm nhiệm, Tướng Soái Nguyên Dực, cho đây là kế sách hay, bằng thi hành theo kế sách nầy. Hai con quỉ nghe xong liền tức tốc bay trở về Kinh Châu báo cho Sát Sát Nương Nương biết.

    Sau có thơ rằng:

    Cơ mưu bại lộ nào có hay

    Ra sức điều quân bố trận bày

    Rồng cọp vô tình sa bẫy lưới

    Vận nước còn đen khó đổi thay

    Kế sách mưu Thần đánh giặc Ân

    Nào hay bại lộ kế mưu hay

    Tự mình dẫn xác vào chỗ chết

    Trận địa vùi chôn thê thảm thay.

    Trong binh pháp hai bên đánh nhau, nếu bên nào bại lộ cơ mưu, thời coi như đã bị thua, nói gì đến chiến thắng. Quân giặc tương kế, tựu kế, mà không hay biết gì cả, đến khi thất bại thời mới hổi ôi, chưa nói đến sự nghi ngờ lẫn nhau trong các Quan Tướng, làm suy giảm sức mạnh của chiến đấu, suy giảm sức mạnh của của thống nhất, hợp lực chống quân thù.

    Nói về Sát Sát nắm bắt được thông tin bí mật của quân Văn Lang. Liền tức tốc hành động, đi trước một nước cờ điều khiển quân binh theo ý đồ của mình.

    Sát Sát bàn với Hồ Man Quân:

    Tướng quân thống lĩnh năm vạn quân Hồ, đến Huyện Ninh Điền chọn nơi hiểm yếu phục kích, chờ cho quân Văn Lang đánh bọc hậu đi tới sa vào ổ phục kích là tấn công ngay.

    Võ Vu, Tướng quân nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lãnh ba vạn quân, nhanh chóng đến đồi Vạn Lâm trước quân Văn Lang kéo đến phục kích. Khi quân Văn Lang đi sâu vào đồi Vạn Lâm, chưa kịp tản ra phục kích thời tiêu diệt ngay, làm cho chúng không kịp trở tay.

    Hổ Tiên Tướng quân nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân dẫn theo năm nghìn kỵ binh nhanh chóng vượt qua hàng chục dặm đánh bọc hậu từ sau đánh tới, cướp lấy lương thực của chúng, cũng như chận đánh quân hoảng loạn tháo chạy quân Văn Lang.

    Còn ta thời thống lãnh 8 vạn quân chận đánh quân chủ lực tại Tây Bắc Sơn Ninh Châu chận đánh quân chủ lực Văn Lang.
     
  2. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    PHẦN 9: TRIỂN KHAI LỰC LƯỢNG
    Đây nói về Nguyên Dực cùng các Tướng họp bàn kế sách chống giặc, thực hiện theo kế sách của. Hầu Thái Công, thông tin cuối cùng về quân giặc, không ngờ bị quân Ân đánh lừa thông tin, là quân Ân còn án binh bất động chưa tiến đánh Ninh Châu, nhưng thật ra quân Ân đã bí mật triển khai điều động quân binh rồi, vì sao quân Văn Lang lại không phát hiện được, vì dân chúng lúc nầy, hỗn loạn, lo tìm đường lánh nạn, tiến về Nam tránh quân xâm lược, nên quân Văn Lang khó phát hiện điều quân bí mật của quân Ân.

    Được thông tin quân Ân vẫn án binh bất động, chưa triển khai lực lượng, tiến đánh Ninh Châu, Tướng Soái Nguyên Dực trở về doanh trại, điều khiển quân binh, theo kế sách đã dự định:

    Hầu Tướng Quân nghe lịnh, có thuộc hạ, tướng quân thống lĩnh 5 vạn quân tức tốc lên đường trong đêm nay đến đồi Vạn Lâm theo sự chỉ dẫn quân Ninh Châu, trước khi trời sáng, để tránh tai mắt quân Ân phát hiện, phân bổ lực lượng những chỗ trong yếu phục kích kín đáo, để cho quân mở đường đi qua, chờ cho quân chủ lực đi sâu vào ổ phục kích rồi ra hiệu lịnh cho quân binh đồng loạt tấn công, tuân lịnh.

    Việt Luân Tướng Quân, nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân thống lãnh 5 vạn quân bọc theo hướng Đông Bắc, đi trong đêm vượt qua khỏi đồi Vạn Lâm chừng hơn 15 dặm ẩn náu, không cho địch phát hiện, khi địch đi qua khỏi thời đưa quân đến chận đường rút lui, tiêu diệt chúng, tuân lịnh.

    Bạch Tướng Quân nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân dẫn theo năm nghìn quân đi theo đoàn quân vận chuyển lương thực khi nghe có trận giao chiến thời thần tốc tiến về đồi Vạn Lâm trợ lực cho quân ta, tuân lịnh:

    Chồn cáo thi nhau cướp giang sang

    Mưu mô xảo quyệt mấy vạn ngàn

    Hung tàn bạo ác ăn uống máu

    Chúng dày, chúng xéo nát ruột gan

    Dân lành khốn khổ biết bao

    Chúng đâm chúng chém thây phơi khắp cùng

    Ngoại xâm lũ giặc bạo tàn

    Chúng vơ chúng vét xóm làng còn chi.

    Đây nói về Tướng Soái Nguyên Minh, thống lãnh 20 vạn quân chủ lực từ Vân Châu tiền về Kinh Đô, Nam Kinh Xích Quỷ, đến Huyện Nam Giao thời thấy dân chúng thi nhau chạy giặc, một cảnh tượng vô cùng thê thảm.

    Đời sau có kể lại rằng:

    Chết đói đầy đường thê thảm thay

    Cái lạnh trùm lên cắt thịt da

    Kêu gào thê thảm con tìm mẹ

    Đau buồn ức nghẹn con lạc cha.

    Trong tình cảnh nầy, Quan Tướng Văn Lang đau xót vô cùng, nhìn cảnh mẹ dắt con mặt mày bơ phờ chạy theo đoàn người tỵ nạn, không biết bao nhiêu chết đói, những cảnh tượng khốn đốn ấy không ai là không căm phẫn quân thù xâm lược.

    Vận nước suy do Nguồn Cội mất

    Nạn khắp cùng khó thoát tai ương

    Nghĩ đời càng nghĩ càng thương

    Cũng vì lạc Cội ngoại xâm hoành hành

    Gươm Trấn Quốc đâu còn biến mất

    Nghĩa đồng bào tan nát loạn li

    Truyền thống tốt đẹp quên đi

    Làm sao tránh khỏi ngoại xâm quét càn

    Lòng mê muội học đòi phương Bắc

    Giặc chuyển xây họa khắp nước non

    Mắt mưu gian kế Bắc phương

    Dã tâm xâm lược còn chi nước nhà

    Nền Văn Hiến tôn thờ gìn giữ

    Thời lo chi lũ giặc ngoại xâm

    Con đường dân chủ trống không

    Độc tài phải chịu nát tan cơ đồ

    Cây mất gốc héo cành héo ngọn

    Sông không nguồn sông cạn sông khô

    Mê lầm văn hóa ngoại ban

    Hồn linh nô lệ còn chi giống nòi

    Dân lạc Cội dân tình xơ xác

    Nạn vần xoay chết chóc điêu linh

    Chia năm xẻ bảy còn chi

    Làm mồi cho giặc nuốt thời béo no

    Mất truyền thống tan hoang nghiệp Tổ

    Đời lệ nô bể khổ chất chồng

    Mất Nguồn, mất Cội cha ông

    Nước non, non nước, chất chồng nạn tai.

    Nói về Tướng Soái Nguyên Minh cũng hiểu được phần nào tình hình Bắc Văn Lang, vì ảnh hưởng quá nhiều văn hóa, cầu cạnh, xin xăm, bói quẻ, nhập đồng, nhập bóng, đoán nầy, đoán kia, mê hoặc bởi yêu, tinh, ma, quỉ, ứng nhập vào, lung lạc, lòng mê muội của dân chúng, ứng quẻ, lời dạy bảo của thần linh, ông nầy làm Vua, bà kia làm Chúa, tin theo, làm theo, nổi lên đòi tự trị theo phương Bắc, chỉ cần vài trăm nóc nhà cũng xưng Vua, Vua nầy thôn tính Vua kia, Vua kia thôn tính Vua nọ làm rối loạn Bắc Văn Lang. Tạo ra thời cơ xâm lược những tay tham tàn bạo ác phương Bắc, hậu quả là không sao cứu vãn được. Tướng Soái, Nguyên Minh cho quân tạm dừng nghĩ, vì còn cách Kinh Đô không bao xa, cho người thám thính tình hình của giặc.

    Không bao lâu thời quân thám thính về báo:

    Quân Ân đóng dinh trại cách Kinh Đô không xa, chúng dựng lên một đài quan sát rất cao sáu bảy tần, để quan sát động tỉnh trên 20 dặm, có lẽ chúng đã thấy quân binh chúng ta đã tiến đến đây, nhưng không thấy chúng động tỉnh gì.

    Nguyên Minh dừng quân nghỉ không bao lâu thời có quân vào báo:

    Các Châu hỗ trợ quân binh tham chiến.

    Nguyên Minh mừng rỡ hỏi:

    Được bao nhiêu?

    Quân binh bẩm báo:

    Bẩm Tướng Soái, hơn năm vạn, các Châu Phủ còn hỗ trợ lương thực.

    Nguyên Minh hết sức an tâm về cuộc chiến nầy. Nguyên Minh chưa biết phải đóng quân tại đâu, thời có người vào báo:

    Có vị Đại Quan muốn gặp Tướng Soái.

    Nguyên Minh hỏi:

    Ông ta là ai?

    Bỗng có người lên tiếng hỏi tiếp:

    Có phải ông ta là Đa Kế không?

    Vị Quan binh kinh ngạc nói:

    Sao ngài biết.

    Ông ta vui mừng trả lời:

    Được người đó tới giúp thời lo gì không thắng được giặc Ân.

    Đa Kế là vị Quan thanh liêm tinh thông Binh Pháp, thích sống ẩn dật, có lẽ không thể ngồi yên khi vận nước sắp rơi vào tay quân giặc. Vị Quan biết Đa Kế đó là ai vậy, còn ai vào đó nữa, chính là Lạc Hầu Công, từ Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỹ, vào Kinh Đô Văn Lang cầu cứu viện binh.

    Nguyên Minh nghe Lạc Hầu Công khen ngợi người đó như thế liền cho mời vào. Nguyên Minh thấy Đa Kế là người dị tướng, biết ngay là người có tài hay, liền tiếp đón mời ngồi.

    Nguyên Minh hỏi:

    Nghe ngài tinh thông lục kinh lời đồn có đúng chăng?

    Đa Kế khiêm tốn nói:

    May mắn tôi có đọc qua, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Luân, ở vào thời đại đó mà biết nhiều hiểu rộng như vậy.

    Quả đúng là dị nhân. Nguyên Minh hỏi:

    Có kế sách gì chống trả lại quân Ân không?

    Đa Kế bẩm:

    Khoang nói đến chuyện đó vội, mà tìm nơi lợi thế để đóng quân, quân địch muốn đánh ta cũng khó. Theo tôi thấy Huyện An Giao, Huyện Long Giao là hai nơi đóng quân tốt nhất, một nơi gần quân Ân, một nơi xa quân Ân, ta chia hai lực lượng, hỗ trợ nhau liên kết bảo vệ nhau, không cho địch biết sức mạnh của ta, chúng ta hoạt động một mặt nổi một mặt chìm, một hành động bí mật, một hành động công khai, có như thế mới đánh thắng chúng được, hiệu quả chiến thắng quân thù, phần lớn là những kế sách bất ngờ, ai chủ động cuộc chiến người đó thắng.

    Nguyên Minh bằng nghe theo kế sách của Đa Kế, chia hai lực lượng, một nửa âm thầm đến huyện An Giao, một nửa rầm rộ đến huyện Long Giao.

    Nói về hơn 10 vạn quân rầm rộ kéo đến Huyện Long Giao, không xa doanh trại quân Ân là mấy, dựng doanh trại theo ngũ hành trận, Đông – Tây – Nam – Bắc – Trung Ương, lại cho dựng quan sát đài cao năm tần không thua kém gì quân Ân.

    Họa nào hơn bằng họa xâm lược

    Khổ nào hơn nước mất nhà tan

    Buồn nào hơn nỗi buồn nô lệ

    Cảnh ngục tù, đánh đập lầm thang.

    Đây nói về quân Ân bao vây Kinh Đô hơn ba tháng, trong không thể ra ngoài không không thể vào, cắt đứt mọi thông tin liên lạc, lương thực cạn kiệt lần, theo tình hình nầy giặc không đánh cũng tự thua, đầu hàng cũng chết, không đầu hàng cũng chết, phải nói lúc nào cũng ngồi trên đống lửa, các Tướng không còn giữ bình tỉnh được nữa.

    Lạc Cao Giang nói:

    Con cháu Tiên Rồng có chết thời chết cho vinh quang, không thể chết đói, hay chết cúi đầu trước quân giặc được, để tôi ra giết chúng một trận cho đã tay rồi chết cũng được.

    Hầu Việt Yên cũng nói:

    Tôi cũng thế để tôi ra trận quyết một trận sanh tử với chúng, có chết cũng cam.

    Trong lúc đắn đo suy nghĩ thời có quân trên thành vào báo:

    Có lẽ quân cứu viện chủ lực quân Văn Lang đã đến, cách Kinh Thành không xa, về hướng Nam, đóng trại tại Huyện Long Giao.

    Hùng Lang Công, cùng các Quan Tướng Kinh Thành, nghe tin nầy như cây chết héo lâu ngày gặp nước, như người chết đuối gặp phao, tất cả đều kéo lên Thành xem có đúng là sự thật không, quả đúng như vậy xa xa cờ xí quân Văn Lang rợp trời rợp đất. Hùng Lang Công cùng các Tướng như muốn ngặt thở trước tin vui nầy.

    Các Tướng hét lên:

    Chúng ta có quân cứu viện rồi, chuẩn bị tử chiến với quân xâm lược, vui sướng quá.

    Luồng gió hồi sanh đã đến rồi

    Lòng đầy vui sướng tận chân trời

    Văn Lang chủ lực quân đã đến

    Niềm tin chiến thắng dậy trong tôi.

    Nói về quân Ân, bao vây Kinh Đô không đánh cũng thắng, đó là điều hiển nhiên không chối cãi vào đâu được, nếu không có quân chủ lực Văn Lang đến cứu. Ân Mao Vương cùng Nương Nương là Nghịch Phong, đang lên kế sách đánh chiếm luôn nước Văn Lang, không phải là Bắc Văn Lang nữa. Với mộng xâm lược, lòng tham vô bờ biến, chúng quá hiểu rõ nước Văn Lang vô cùng rộng lớn, chỉ cần một Châu cũng bằng một nước lớn ở phương Bắc, đất đai trù phú, nông sản, thủy sản, lâm sản, không làm gì cho hết, nhất là ngành đồng, thau, sắt, thép, không có một đất nước nào bằng, chỉ cần chiếm lấy được nước Văn Lang thời coi như đã đến cực đỉnh, của sự xưng hùng xưng bá, chỉ trong vòng mấy trăm năm mà dân số tăng lên đông không kém gì phương Bắc.

    Ân Mao Vương, coi nước Văn Lang sắp thuộc về mình, thứ nhất là có quân Hồ, quân Hung Nô, thứ hai nước Văn Lang tình hình dân chúng bất mãn, lòng dân không bằng lòng cách cư xử Vương Quan đối với dân, bất hòa, dân không cùng chung chí hướng, bất ổn, dân tình luôn xáo trộn không yên, bất thường, dân chúng không lập trường, thường nghe lời xúi dục, bất trị không thể dạy dỗ theo ý của mình, dân chúng nổi lên đòi tự trị như đã thấy, bất đồng không cùng chí hướng, chia năm xẻ bảy, bất trắc, không lường trước được sự việc, có thể nói là bất lực trước tình hình của đất nước.

    Đây chính là cơ hội cho ta thôn tính nước Văn Lang, đánh bại quân chủ lực Văn Lang. Ân Mao Vương, đang hứng chí với mộng bá Vương Chúa Tể của mình, thời có quân vào báo:

    Bẩm Chúa Vương, quân thám báo đưa tin là quân chủ lực Văn Lang, từ Kinh Đô Văn Lang đã đến Huyện Nam Giao.

    Ân Mao Vương tức thời triệu tập các Tướng Lĩnh xa gần trấn thủ khắp nơi, về hội họp bàn kế sách tiêu diệt quân Văn Lang, thông tin nhanh chóng được ban ra, không bao lâu thời các tướng lĩnh đến đầy đủ.

    Mao Vương nói:

    Quân Văn Lang đã tiến đến gần sát chúng ta, chỉ còn hơn bốn mươi dặm, hãy điều động toàn lực lượng bao vây tấn công chúng.

    Hồ Ma can:

    Chưa cần đánh vội như thế, tuy biết rằng quân chủ lực Văn Lang từ xa xôi hơn một nghìn mấy trăm dặm kéo đến đây, thời quân binh đã mỏi mệt, chận đánh là ưu thế thuộc về ta. Nhưng xét lại thời chưa hợp lẽ, vì quân Văn Lang phát xuất lên đường từ lâu, hơn cả tháng, nay chúng mới tới đây, chúng di chuyển quân đi rất chậm, luôn luôn củng cố sức mạnh của quân binh, như vậy chúng đã chuẩn bị trước sự tấn công của chúng ta, hơn nữa chúng ta chưa nắm bắt được lực lượng quân Văn Lang là bao nhiêu, chúng ta chỉ cần cũng cố lực lượng đối mặc với sự tấn công của quân Văn Lang.

    Ân Vương nghe Hồ Ma nói cũng có lý liền theo kế sách của Hồ Ma. Không bao lâu thời có quân vào báo:

    Quân Văn Lang duy chuyển rất nhanh, chúng đã kéo đến Huyện Long Giao cách chúng ta chỉ hơn 10 dặm.

    Ân Mao Vương nói:

    Chúng di chuyển nhanh đến thế sao?

    Bằng ra lịnh cho các Tướng:

    Chuẩn bị cho chiến đấu, tiếp tục theo dõi xem chúng tiến đánh nơi nào trước.

    Đây nói về quân Văn Lang chia hai lực lượng một âm thầm tiến về huyện An Giao, đóng đô hạ trại bí mật, một kéo quân rầm rộ duy chuyển nhanh chóng về Huyện Long Giao, dựng trại đóng quân tại đây, bày binh bố trận đóng quân theo ngũ hành trận, xong đâu vào đấy khí thế dậy trời. Tướng Soái Nguyên Minh cùng các Tướng lên đài quan sát thấy dinh trại quân Ân đồn trú xa gần nhiều nơi, theo xa xa luân trận, chỉ cần tiến đánh một doanh trại, thời các doanh trại khác tiến đánh ngay, phải nói là lợi hại vô cùng, các Tướng lĩnh đứng trên đài quan sát, thấy một doanh trại rộng lớn gần Kinh Đô, có lẽ đây là tổng doanh trại chỉ huy, quân Ân, điều khiển quân binh. Các Tướng lĩnh Văn Lang ai nấy cũng háo hức ra trận, mở màn trận chiến.

    Nguyên Minh, hộp bàn với các Tướng nói:

    Cuộc chiến chúng ta là cuộc chiến lâu dài, khó mà thắng gấp được, vì quân Ân rất hùng mạnh, tùy thời cơ mà thắng nhanh hay chậm, đã giáp mặt với quân Ân là chúng ta đã đi vào quyết tử, đã vào trận thời một mất một còn, nhất là trận mở màn chỉ có thắng không được thua. Tướng Lĩnh nào ra trận trước đây?

    Nguyên Minh hỏi các Tướng Lĩnh ai nấy cũng đều tranh nhau ra trận, không ai chịu nhường cho ai. Đa Kế thấy các Tướng Lĩnh tranh nhau không ai chịu nhường ai, bằng nghĩ ra một kế.

    Đa Kế nói:

    Lão Thần có một đề nghị, thôi thì bốc xăm vậy, ai bốc trúng người đó đi.

    Tất cả Tướng Lĩnh đều nhất trí. Thế là cuộc bốc xăm diễn ra, trong xăm chỉ có một chữ xuất, ai bốc trúng thời người đó ra trận, gần 20 tướng lĩnh ai nấy đều bốc một xăm.

    Cự Lân bốc xăm rồi mở ra xem, mừng rỡ reo lên:

    Tôi bốc trúng rồi, tôi bốc trúng rồi.

    Tướng Soái, Nguyên Minh tức thời ra lệnh:

    Cự Lân nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân điểm 5 nghìn quân, khiêu chiến với quân Ân, tuân lịnh.

    Trước khi ra quân Đa Kế dặn:

    Thắng giặc nhờ cơ trí hơn là ở sức mạnh.

    Cự Lân như hiểu ý làm ra vẻ yếu đuối. Đa Kế nói:

    Chúng ta thắng trận đầu rồi.

    Ai nấy cũng lấy làm kinh ngạc, cho lời nói nầy, chưa đánh mà biết thắng. Nói về Cự Lân điểm 5 nghìn quân binh, rồi truyền khẩu lệnh rằng:

    Tử chiến ra trận thời coi như đã chết, lao tới quân thù mà tiêu diệt.

    Hào khí Anh Linh đất phương Nam

    Ung đúc hùng anh sắt dạ gan

    Tung hoành ngang dọc trên sóng dữ

    Bắt Cọp rượt Rồng dậy núi non.

    Đây nói về Ân Mao Vương cùng các Tướng Lĩnh ở trên đài quan sát, thấy từ doanh trại quân Văn Lang đóng theo vị trí ngũ hành, từ nơi Trung Ương một đội quân kéo ra, dẫn đầu quân binh gồm có ba Tướng, trong đó có một Tướng là đáng chú ý hơn cả.

    Hồ Ma nói:

    Vị Tướng nầy không phải tầm thường đâu.

    Các Tướng Lĩnh không chú ý đến lời nói của Hồ Ma, mà tỏ vẻ xem thường Tướng địch Văn Lang.

    Có Tướng nói:

    Văn Lang đã hết người rồi sao, chẳng thấy chút gì là oai phong cả.

    Trong Tướng giặc Ân, có một Tướng nổi tiếng là vô cùng ngạo mạn không xem ai ra gì, và cũng chưa từng gặp đối thủ bao giờ, đã từng giết chết hơn vài chục Tướng, danh vang như sấm, người đó là ai, chính là Ngụy Đan.

    Ngụy Đan thưa với Chúa Ân Vương rằng:

    Để thần ra trận giết quách Tướng giặc Văn Lang kia làm giảm uy phong của chúng.

    Ân Vương nói:

    Phải thắng không được thua.

    Ngụy Đan điểm 5 nghìn binh từ trại giặc Ân xông ra quát lớn:

    Mau xưng tên họ về chầu âm phủ.

    Cự Lân giục ngựa xông lên thét:

    Ta là Cự Lân, mau khôn hồn đầu hàng, ta cho chết toàn thây.

    Ngụy Đan hét lên như sấm:

    Con chuột nhắt khua môi múa mỏ lớn lối xem đây.

    Tức thời cây đại giáo nặng đến 80 cân múa lên vù vù thúc ngựa lao tới chém Cự Lân một giáo như trời giáng, Cự Lân không dám chống đỡ thúc ngựa né tránh, Ngụy Đan, chém hụt một đao, bằng hét lên một tiếng thúc nhựa lao tới chém liền mấy giáo như tia chớp. Trước sức mạnh kinh khiếp của địch, Cự Lân chỉ biết né tránh muốn hụt hơi.

    Ngụy Đan dừng ngựa quát:

    Ngươi chỉ có cái tài né tránh, sao gọi là anh hùng.

    Cự Lân quát:

    Lại ta sợ gì ngươi mà không chống trả.

    Nói xong liền giục ngựa lao tới chém Ngụy Đan một đao. Ngụy Đan đưa giáo lên đỡ choang đinh tai nhức óc. Ngụy Đan thấy địch thủ không có gì là mạnh, thời tỏ vẻ coi thường, xông ngựa tới tấn công tới tấp. Cự Lân ra sức chống đỡ, hai bên đánh nhau hơn sáu mươi hiệp, vẫn chưa phân thắng bại, biết rằng Ngụy Đan luôn áp đảo Cự Lân. Ngụy Đan càng đánh càng tức giận, tưởng chừng như vài hiệp là hạ gục Cự Lân được ngay, nào hay đâu đánh hơn sáu mươi hiệp mà vẫn chưa hạ gục được Cự Lân, thử hỏi không tức sao được. Ngụy Đan vô cùng tức giận, thúc ngựa lao tới chém tới tấp, Cự Lân chống đỡ không nổi sắp bại đến nơi.

    Thật là:

    Một bên giáo chớp sáng ngời

    Một bên đao pháp lạ đời cương nhu

    Cự Lân càng đánh càng thua

    Ngụy Đan càng đánh càng reo càng hò

    Hai bên chiêng trống vang trời

    Quyết cùng tiêu diệt tại thời nơi đây

    Cự Lân sắp bại đến nơi

    Ngụy Đan dồn dập giáo thời nổ vang

    Âm ầm đất chuyển trời rung

    Giáo, đao chơm chớp bịt bùng bủa vây

    Cự Lân ra sức chuyển xây

    Đường tơ kẽ tóc mạng vong tức thì

    Ngụy Đan tỏ vẻ vui mừng

    Con mồi sắp ngã tàn đời nát thây

    Nào hay trận thế chuyển xây

    Bất ngờ đảo lộn kinh thay bất ngờ.

    Trên đài cao Ân Mao Vương kinh hải khi nghe tiếng thét như sấm của Cự Lân, thấy Cự Lân đang thế bại chuyển thành thế thắng, đang thế yếu trở thành thế mạnh. Trường đao chém tới như tia chớp ầm một tiếng đinh tai nhức óc.

    Ngụy Đan cả người lẫn ngựa lảo đảo, chưa kịp lấy lại bình tỉnh, thời một tia chớp khác lại chém tới, Ngụy Đan tránh không kịp trúng một đao bỏ mạng. Quân Văn Lang thắng thế ào ào xông lên chém quân Ân tơi tả, thây phơi chật đất, kinh hồn bạt vía.

    Trên đài cao Ân Mao Vương cùng các Tướng Lĩnh sửng sốt, không thể tin vào mắt mình. Ân Vương tức tối nói:

    Có ai ra trận hạ gục tướng địch đó cho ta.

    Một Tướng nữ lên tiếng nói:

    Để thần ra trận hạ gục tên Tướng xảo quyệt đó, cho chúng biết thế nào là sức mạnh của quân ta.

    Tên nữ Tướng đó là ai mà lớn lối như vậy, còn ai nữa tên là Chiên La nổi tiếng khắp vùng Tây Vu Hồ Ân. Chiên La điểm 3 nghìn quân nhanh chóng xông ra hét lớn:

    Xem ta lấy đầu ngươi đây.

    Nói xong thời giục ngựa lao tới. Bỗng có tiếng quát lanh lảnh:

    Nữ tặc hỗn láo xem đây.

    Tức thời một nữ Tướng xông ra chận đầu Chiên La chém tới một kiếm. Chiên La múa kiếm chống đỡ choang đinh tai nhức óc. Chiên La thấy Tướng nữ xông ra chận đánh mình tuổi còn trẻ mặt như trăng rằm, môi đỏ như son, cặp mắt như hồ thu long lanh sáng ngời, tuy là thân hình mảnh khảnh, nhưng không kém phần oai phong.

    Tức giận thét:

    Nữ tặc ngươi là ai mau xưng tên rồi chịu chết.

    Tướng nữ xông ra chận đầu tiên la quát:

    Ta là Khơ Lan, đưa ngươi về chầu âm phủ.

    Khơ Lan, nhìn nữ Tướng giặc đoán tuổi cũng cở như mình, mặt hoa, da phấn, tuy có vẻ mảnh mai, nhưng không kém phần uy dũng, hai nữ Tướng gườm nhau, như nói với nhau rằng, gặp ta ngươi phải bỏ mạng.

    Khơ Lan trợn mắt quát:

    Mau xưng tên họ ta không giết kẻ vô danh.

    Chiên La lại càng dữ tợn hơn nữa trợn mắt quát:

    Ta là Chiên La, nghe cho rõ rồi đi chầu Diêm Vương.

    Nói xong Chiên La thúc ngựa lao tới ra đòn, song kiếm chém tới kình phong tuông ra ù ù. Khơ Lan ra oai nào chịu kém quát lên một tiếng, múa kiếm lên chống đỡ. Lời thơ khen rằng.

    Khơ Lan, nữ tướng anh hùng

    Lên non bắc cọp, cỡi Rồng xưa nay

    Đã từng đạp sóng cỡi mây

    Ngư kình bỏ mạng nổi danh anh hùng.

    Đường kiếm Khơ Lan, như Rồng bay Phụng múa, chém tới ầm ầm. Chiên La nào chịu kém, song kiếm trên tay như bão táp cuồng phong.

    Về sau có thơ rằng.

    Người đẹp dễ đâu phải tầm thường

    Cỡi Rồng cỡi cọp múa đao thương

    Tung hoành ngang dọc trên trận chiến

    Dễ mấy đàn ông vượt trội hơn

    Kia kìa cát bụi tung trời đất

    Mưa đao, bão kiếm dậy núi non

    Vang rền sấm nổ luôn không dứt

    Người ngựa xáp chiến kiếm loáng loang

    Chiên La càng đánh càng hay

    Khơ Lan, càng đánh càng thêm càng tài

    Cát bụi mịt mù rền vang tiếng thép

    Chiêng, trống, dậy trời, trận chiến dậy non.

    Chiên La, Khơ Lan đánh hơn trăm hiệp kẻ năm lạng, người nửa cân, không ai hơn ai. Ân Mao Vương thấy Tướng Văn Lang tài ba như vậy, không còn dám xem thường nữa, khó nắm chắc phần thắng, Ân Vương cho đánh trống thu quân.

    Quân Văn Lang thấy thế cũng đánh trống thu quân, tức thời hai bên ngưng chiến, quân Văn Lang thắng trận, đem lại khí thế cho toàn quân Văn Lang.

    Tưởng rằng đánh bại quân Nam

    Nào hay thua trận, thở than đứng ngồi

    Tướng Nam quả thật Tướng Trời

    Khó mà tiêu diệt mộng thời vỡ tan.

    Đây nói về quân Ân thua trận Ân Mao Vương vô cùng bực tức quát tháo ầm ĩ:

    Chỉ mấy thằng nhóc con mà không tiêu diệt được, thời còn nói gì chiếm lấy nước Văn Lang, tức ôi là tức.

    Thấy cha tức giận như vậy, Mao Lợi an ủi nói:

    Để mai con ra trận lấy đầu chúng dâng lên Cha hả cơn giận.

    Ân Mao Vương biết con mình tài ba hơn người, khó có ai địch lại, bằng ưng thuận gật đầu. Nói về quân Văn Lang thắng trận, rồi im bặt không thấy xuất quân, không hiểu là có chuyện gì, lên đài quan sát thấy doanh trại quân Văn Lang binh lính đi qua đi lại như đang tập luyện binh pháp, chiêng, trống, dậy trời. Đã qua bảy ngày vẫn không thấy quân Văn Lang đến khiêu chiến, cứ ở trong doanh trại đánh trống khua chiêng. Ân Mao Vương, lấy làm lạ chúng sợ gì mà không xuất quân khiêu chiến, khi Bắc Văn Lang quân ta chiếm cứ gần hết, sắp mất Bắc Văn Lang đến nơi.

    Hồ Ma nói:

    Chúng không tới khiêu chiến đánh chúng ta, thời chúng ta tới khiêu chiến đánh chúng. Đàng nào cũng phải tiêu diệt chúng, càng nhanh càng tốt, đi vào ổn định Bắc Văn Lang, rồi tiến đánh Trung Văn Lang, cuối cùng là thôn tính Nam Văn Lang.

    Ân Mao Vương cho lời nói của Hồ Ma là phải, bằng theo kế sách đó mà thi hành. Ân Mao Vương cho mời Mao Lợi tới nói rằng:

    Tướng Văn Lang khá lợi hại, con ra quân phải hết sức cẩn thận. Con nên chọn mấy danh Tướng tài giỏi theo con xung trận, dẫn quân tới doanh trại quân Văn Lang khiêu chiến.

    Mao Lợi nói:

    Con xin tuân lệnh.

    Nói về Mao Lợi được lệnh khiêu chiến với quân Văn Lang, mặt hầm hầm đầy sát khí, chọn hai Tướng tài điểm 5 nghìn quân, hùng hùng, hổ hổ kéo đến trước doanh trại quân Văn Lang khiêu chiến, chửi bới om sòm:

    Quân Văn Lang co đầu rụt cổ kia, nước Văn Lang sắp về tay ta, các ngươi chạy đâu cho thoát, mau ra quy hàng thời sống, chống lại thời gà chó cũng chẳng còn, thức thời hiểu thế mới là khôn.

    Trên đài quan sát Tướng Soái, Nguyên Minh cùng các Tướng Lĩnh, nhìn thấy quân Ân tới khiêu chiến, chửi bới om sòm, nhịn không được nữa đòi xuất quân giao chiến, ở trên khán đài cao bảy tần.

    Nguyên Minh quan sát ba Tướng Lĩnh của quân Ân, người nào người nấy uy dũng vô cùng, biết là ba Tướng tài, không dễ gì thắng được. Nguyên Minh chưa biết phải đề cử ai.

    Đa Kế hiểu nỗi băn khoăn của Chủ Soái bằng nói:

    Trong các Tướng Lĩnh ta không phải có một danh Tướng, con nhà danh gia Võ Tướng nổi tiếng nhiều đời, đời Tổ Tằng Tổ Cố, đã từng đánh bại quân Ân thời nhà Ân đó sao.

    Nguyên Minh nói:

    Có phải Lão Tướng gia nói đến hai anh em nhà Cao Vương phải không?

    Đa Kế nói:

    Phải. Cao Hải Đại Đô Tướng thống lãnh 10 vạn quân âm thầm lập doanh trại tại Huyện An Giao, còn Cao Sơn đang thống lãnh đại quân trọng yếu chủ lực ở đây. Cao Sơn ra trận nhất định thắng.

    Nguyên Minh liền cho mời Cao Sơn đến nói rằng:

    Quân Ân đã đến khiêu chiến, xét thấy khó có người thắng được chúng, nên điều Tướng quân ra trận. Cao Sơn vui vẻ nhận lệnh.

    Nguyên Minh nói:

    Tướng quân cần bao nhiêu quân binh thời điều động bấy nhiêu.

    Cao Sơn điểm 5 nghìn quân binh mở cửa doanh trại xông ra. Cao Sơn là vị Tướng khác thường, luôn ẩn cái tài chỉ hiện cái Đức, nên được lòng quân binh Tướng Sĩ, ít ai nhận ra cái tài vô tận của người nầy. Đa Kế là người tinh tế, thấy Cao Sơn lúc nào cũng khiêm cung, không cho ai biết mình là có tài, ít tham gia góp ý kiến nhưng lại hết lòng tận tụy với quân binh. Có lúc Cao Sơn than rằng:

    Nước non khó giữ được rồi

    Cội Nguồn văn hóa không còn ngửa nghiêng

    Văn Lang khó nổi bình yên

    Dân tình loạn lạc còn chi sơn hà

    Nhớ thời Quốc Tổ ông cha

    Yêu tinh, quỉ dữ, khiếp kinh hãi hùng

    Phương Nam hưng thịnh thái bình

    No cơm ấm áo nở nhành Thiên hương

    Bây giờ nước đổ non nghiêng

    Ngoại xâm dày xéo đảo điên cõi bờ

    Dân tình đói khổ ngục tù

    Thân tàn nô lệ, nghẹn ngào thở than

    Quân thù đánh đập dã man

    Lê la vạn dặm xác phơi dọc đường

    Ôi thôi lũ giặc bạo tàn

    Yêu tinh quỉ dữ quét càn hại dân

    Cội Nguồn văn hóa nơi đâu

    Sao không xuất hiện cứu dân buổi nầy

    Hiển Linh Quốc Đạo chuyển xây

    Mới mong diệt hết lũ bầy sói lang.

    Nói về Cao Sơn nhận ấn lệnh, điểm 5 nghìn quân mở cửa doanh trại xông ra hét lớn:

    Lũ quân xâm lược kia, khôn hồn thời ra khỏi đất phương Nam, thời còn mạng sống, bằng không tất cả đều vùi chôn nơi đây.

    Tướng giặc Ân phi ngựa tới quát tháo lớn lối nói:

    Chúa Vương ta muốn là Trời muốn, không ai cản được, đất Văn Lang sẽ thuộc về Chúa Vương ta. Quy thuận Chúa Vương ta thời sống, chống lại Chúa Vương ta thời chết.

    Cao Sơn không nói không rằng phi ngựa tới chém Tướng giặc một đao như trời giáng, bộ mặt dữ tợn của Tướng giặc nào chịu thua, múa giáo chống trả, choang, đinh tai nhức óc. Cao Sơn võ nghệ cao cường bay lên khỏi mình ngựa với thế Chim Điêu Bắt Rắn, từ trên không lao xuống ánh đao chớp chớp kinh hồn, Tướng giặc ra sức múa đao lên đỡ, ầm ầm kinh thiên động địa.

    Cao Sơn với pháp Lưu Thủy Hành Vân, lượng mình bay trở về mình ngựa, nhanh như chớp thúc ngựa lao tới đánh chiêu Ngọa Hổ Tiên Du, kình phong ầm ầm cuộn tới. Tướng giặc kinh khiếp chưa từng thấy đao pháp nào lợi hại như vậy. Ánh đao như mưa sa bão táp, hết chiêu nầy tới chiêu khác liên miên bất tận. Tướng giặc đờ muốn hụt hơi, mới có 20 hiệp tướng giặc đã ê ẩm cả tay.

    Về sau có thơ khen rằng:

    Bản sơ hào khí nhất phương Nam

    Đao pháp múa lên sấm nổ vang

    Đã từng chém chết yêu, tinh, quỉ

    Tung hoành ngang dọc cả Bắc Nam.

    Cao Sơn hét lên một tiếng như sấm nổ, đường đao chơm chớp giật lưng trời. Tướng giặc kinh hoàng khiếp vía la lớn:

    Tuyệt Thế Ma Đao.

    Dở hết sức bình sanh chống trả, đùng đùng ầm ầm, một tiếng rú thê thảm Tướng giặc bỏ mạng tại sa trường. Nói về Tướng giặc đứng gần Mao Lợi thấy Tây Đô sắp mất mạng liền phi ngựa vào cứu Tây Đô, nhưng đã muộn Tây Đô hồn du địa phủ. Tướng giặc mới lao ra cứu Tây Đô chính là Tào Hổ. Tào Hổ gầm lên như quỉ dữ, múa giáo chém tới ầm ầm kình phong tuôn ra ù ù cát bay đá chạy. Cao Sơn múa đao chống đỡ, choang, choang, đinh tai nhức óc. Tào Hổ liền dở tuyệt chiêu Kim Tiền Vượt Thác đường giáo kỳ ảo không biết đâu mà lường. Cao Sơn dùng chiêu Ô Long Cổn Địa chống trả ầm ầm long trời lở đất. Cao Sơn không bỏ lỡ dịp may đánh luôn ba chưởng, Tào Hổ múa giáo chống đỡ, đùng đùng ầm ầm dậy núi dậy non, hai bên đánh nhau trên bốn mươi hiệp.

    Cao Sơn hét lớn, thúc ngựa lao tới tay phải ra chiêu Long Hổ Xuất Du, tay trái ra chiêu Xuyên Chỉ Triệt Ma ánh đao chớp chớp, chỉ phong véo véo. Tào Hổ ra sức chống đỡ chiêu đao, liền bị trúng ngay một chỉ, muốn nhào xuống ngựa, nhanh như tia chớp Cao Sơn lao tới chém một đao, chết không kịp ngáp.

    Về sau có thơ khen rằng:

    Phương Nam nào dễ hết anh hùng

    Dời non lấp biển đất trời rung

    Đường đao chơm chớp muôn vạn dặm

    Khiếp vía kinh hồn giặc cáo chung.

    Nói về Mao Lợi thấy Tào Hổ lâm nguy liền phi ngựa ra cứu vãn, nhưng không còn kịp nữa Tào Hổ hồn lìa khỏi xác bỏ mạng sa trường.

    Mao Lợi thấy chết liền hai Tướng sôi gan hét lớn:

    Nộp mạng đây.

    Liền thúc ngựa lao tới chém như mưa trút, Cao Sơn chống đỡ muốn hụt hơi. Đúng là kỳ phùng địch thủ, kẻ năm lạng, người nửa cân, hai bên đánh nhau long trời lở đất, đao qua giáo lại ầm ầm đùng đùng dậy núi dậy non, đá chạy, cát bay, mịt mù trời đất, choang, choang, đinh tai nhức óc. Quả là trận chiến kinh thiên động địa, đánh hơn ba mươi hiệp, Mao Lợi muốn giết ngay địch thủ bằng niệm chú thổi ra một luồng âm phong. Cao Sơn kinh hãi bỏ chạy, Mao Lợi rượt theo, bỗng Cao Sơn biến mất, Mao Lợi kinh hãi, không biết Cao Sơn ở đâu thời liền trúng ngay một chỉ, té nhào xuống ngựa. Cao Sơn lao tới chém một đao chết tốt.

    Về sau có thơ khen rằng:

    Mấy đời danh Tướng tiếng hùng anh

    Tung hoành trận địa đánh giặc Ân

    Đường đao tuyệt thế xơi ba Tướng

    Rền vang danh tánh rạng trời xanh.

    Nói về Cao Sơn chém chết Mao Lợi thời nghe trên không có tiếng quát, kèm theo tia chớp đánh xuống. Cao Sơn thất kinh né tránh, đùng đùng đùng hiện ra ba cái hố lớn. Cao Sơn thấy người đánh mình là một thiếu phụ xinh đẹp, mặt đầy sát khí, người thiếu phụ ấy là ai thế, còn ai nữa vợ hai của Ân Mao Vương, mẹ của Mao Lợi.

    Nói về Nghịch Phong mẹ của Mao Lợi thấy con mình lâm nguy liền bay xuống cỡi con thiên lý mã bay tới trận địa nhưng không còn kịp nữa, Mao Lợi đã trúng một đao bỏ mạng. Nghịch Phong quyết giết chết Cao Sơn trả thù cho con không ngờ Cao Sơn tránh được. Nghịch Phong còn ở trên không hóa phép, trời đất tối mù tối mịt, yêu tinh quỉ dữ hiện ra đầy trời, xông tới chém giết quân Văn Lang.

    Cao Sơn ra sức chống lại yêu tinh quỉ dữ, trận chiến xảy ra vô cùng ác liệt, cuồng phong càng lúc càng mạnh, quân Văn Lang ngã rạp, yêu tinh chém giết tơi bời. Cao Sơn phóng ngựa thoát thân.

    Nhưng tiếng quát lanh lảnh:

    Chạy đâu cho thoát.

    Tức thời một luồng tia sáng ập đến, Cao Sơn múa đao chống đỡ, ầm ầm khủng khiếp, trước thần lực kinh hồn của nữ Tướng giặc. Cao Sơn chống trả hơn mười chiêu, thời trúng ngay một kiếm bỏ mạng.

    Giết chết Cao Sơn, Nghịch Phong thu phép tức thời trời quang mây tạnh, yêu tinh quỉ dữ biến mất, quân Văn Lang chết sạch không còn một người.

    Trên quan sát đài Nguyên Minh cùng các Tướng kinh hồn bạt vía. Đa Kế thở dài nói:

    Không ngờ giặc Ân có Tướng nữ tài ba như vậy.

    Nguyên Minh cùng các Tướng đem xác Cao Sơn về doanh trại, tẩm liệm cho người đưa về quê an táng.

    Nói về Nghịch Phong giết chết Cao Sơn, tiêu diệt năm nghìn quân Văn Lang, ôm xác con bay về trại, Ân Mao Vương tức giận râu tóc dựng đứng, ra lệnh cho các Tướng Lĩnh về hộp, quyết một trận với quân Văn Lang. Cùng lúc ấy quân Hung Nô tấn công thành Xích Linh, chúng bắt hơn ba vạn dân Văn Lang, vận chuyển dầu, cây, dây, thang, lá chắn, những dụng cụ công phá thành, ở các Châu Phủ, chúng đã chiếm đóng, vận chuyển hết đến thành Xích Linh, mở ra trận đánh công phá thành quy mô, chiếm được thành Xích Linh coi như chiếm được Đông Bắc Văn Lang.
     
  3. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    PHẦN 10: ĐẠI PHÁ QUÂN HUNG NÔ
    Đây nói về quân Xích Linh, vừa lọt vào tầm ngắm của quân xâm lược. Tức thời hai bên đường cây cối rậm rạp tên bắn ra như mưa.

    Lạc Hồng thất kinh la lớn:

    Có quân mai phục, có quân mai phục. Lui quân, lui quân, lui quân mau.

    Trong tình thế tên giặc bắn ra xối xả. Quân Xích Linh lui ra khỏi đồi Vạn Linh chết chóc thương vong rất lớn. Tàn quân lui về thành Xích Linh trong tình cảnh vô cùng thê thảm, tả tơi chết chóc hơn phân nửa.

    Mới hay cuộc sống trên đời

    Lầm than khốn khổ bởi gì ngoại xâm.

    Họa nầy chưa hết thời họa khác đã kéo đến, quân Hung Nô từ các ngã kéo đến bao vây Xích Linh Giao Châu. Nhìn quân Hung Nô bao vây trùng trùng điệp điệp.

    Lạc Hầu Vương than rằng:

    Mất đi văn hóa Cội Nguồn là mất đi tất cả, lệ thuộc nô lệ văn hóa phương Bắc, thời đại họa giáng xuống không sao tránh khỏi. Tinh thần dân chúng bị mê hoặc bởi văn hóa phi nghĩa xâm lược của ngoại lai, làm cho Bắc Văn Lang tan rã sự đoàn kết, chia năm, xẻ bảy, nổi lên đòi tự trị, theo văn hóa đấu tranh, tranh giành quyền lực, nồi da nấu thịt ở phương Bắc, thời làm sao tránh khỏi ngoại bang thôn tính.

    Nói về quân hung nô từ các ngã kéo đến đông như kiến bao vây thành Xích Linh. Sau ba ngày thời quân Hung Nô tấn công thành Xích Linh, nhờ lực lượng yêu tinh, quỉ dữ hỗ trợ. Nhờ kế sách của Lạc Kim Tiên, quân Hung Nô ý đồ tấn công đã thất bại vì yêu tinh, quỉ dữ chúng khiếp sợ uy linh Quốc Tổ. Hung Nô Vương là tay hung tàn bạo ác chúng không dễ gì chịu thua, bằng trăm phương nghìn kế, chiếm lấy cho được Xích Linh Giao Châu.

    Quân Hung Nô là quân hung tàn bạo ác, không có việc ác nào mà chúng không làm, chúng bắt dân chúng Bắc Văn Lang, cũng như tù binh Văn Lang có hơn ba vạn người, đày đọa không khác gì sống trong địa ngục. Chúng bắt dân chúng khuân vác dụng cụ, vận chuyển thang giây, vận chuyển dầu, vận chuyển cây, vận chuyển đá, vận chuyển những vật dễ cháy, từ các Châu, Quận, Huyện, chúng đã chiếm lấy được, vận chuyển cả ngày lẫn đêm, đến Xích Linh để chúng công phá thành.

    Lạc Hầu Vương cùng các Quan nhìn thấy quân Hung Nô vận chuyển dụng cụ công phá thành càng lúc càng nhiều, thời vô cùng kinh hãi. Trong lúc lo sợ thời có chim bồ câu đưa thơ từ Huyện An Giao gởi tới. Nội dung thơ như sau: Quân chủ lực đã đến An Giao, cho người đến gặp Đô Tướng, người báo Ngô Việt. Lạc Hầu Vương thấy hai chữ Ngô Việt liền tin tưởng hết sức mừng rỡ, liền cho người theo đường bí mật đến An Giao.

    Không thể ngồi yên khi quân thù xâm lược

    Không thể ngồi yên khi nước non loạn lạc

    Hãy đứng lên, nào hiệp lực chung tay cứu nước

    Giành lại quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc

    Quyền mưu sanh, quyền độc lập, quyền tự do.

    Đây nói về Đô Tướng Cao Hải, theo lịnh Tướng Soái Nguyên Minh, thống lãnh 10 vạn quân âm thầm đến Huyện An Giao, âm thầm dựng trại đóng đô ở đó, tùy cơ ứng biến triệt phá quân giặc. Cao Hải là người không những văn võ song toàn, mà cơ trí cũng hơn hẳn người, luôn luôn cho người nắm bắt thông tin, chính xác thành lập đội quân thám báo thiện nghệ, hoạt động rộng khắp. Nên hiểu rõ cánh quân Long Giao đã thắng trận, lại hiểu rõ quân Hung Nô đang ráo riết chuẩn bị tấn công Xích Linh Châu bằng gọi bố chính Ngô Việt, Huyện An Giao đến, dùng chim bồ câu đặc biệt gởi thư cho Lạc Hầu Vương.

    Cao Hải cùng các quan Tướng đang bàn kế sách đánh quân Hung Nô, thời có thám báo vào báo:

    Bẩm Đô Tướng quân, có người từ thành Xích Linh tới.

    Cao Hải nói:

    Cho mời vào.

    Cao Hải nhìn người mới đến thời nhận ra ngay, không phải là quân binh bình thường, mà là một Đại Tướng quân cơ trí hơn người, bằng thi lễ mời ngồi. Người làm nhiệm vụ quan trọng bí mật kia là ai thế, còn ai nữa nếu không phải Đinh Hoàng tướng quân thời ai đảm nhiệm trong trách nầy. Đinh Hoàng tướng quân đã từng nghe tiếng hai anh em nhà danh gia Cao Hải, Cao Sơn. Đúng là danh bất hư truyền. Cao Hải tướng người uy nghiêm, hai con mắt sáng ngời, trầm lặng khác thường, đúng là mẫu người có tài cơ trí hơn người.

    Đinh Hoàng thi lễ nói:

    Đinh Hoàng tôi được lệnh ký thác của Lạc Hầu Gia, đến đây bàn kế sách triệt phá quân Hung Nô.

    Hai bên thi lễ khách sáo xong rồi đi ngay vào vấn đề chính. Đinh Hoàng thông báo tình hình quân Hung Nô xong. Rồi nói rằng:

    Theo tình hình nhận biết của tôi, thời nội trong ngày mai chúng tấn công phá thành.

    Cao Hải hỏi:

    Tướng quân từ thành Xích Linh đến đây dọc đường có thấy quân Hung Nô mai phục không? Nếu có chúng phòng bị thế nào?

    Đinh Hoàng nói:

    Quân Hung Nô chiếm lĩnh các Châu Huyện một cách dễ dàng, sanh ra cao ngạo, xem quân binh Văn Lang không vào đâu. Nên sự đề phòng không cao độ, trên đường từ Xích Linh đến đây không thấy quân Hung Nô mai phục, quân Hung Nô rất mạnh về kỵ binh, chúng duy chuyển rất nhanh, chỉ trong vòng một giờ, chúng duy chuyển hơn mấy mươi dặm, muốn tiêu diệt hết chúng không phải dễ. Hiện giờ chúng tập trung lực lượng cao độ tấn công thành, nên không mấy chú trọng quân Văn Lang tấn công, vì chúng nghĩ quân Văn Lang chỉ là quân nhỏ lẻ, hiện đang trấn giữ các Châu thành, nên không còn cơ hội để tấn công chúng.

    Cao Hải hỏi:

    Chúng ta có thể chịu đựng được mấy ngày công phá thành của chúng.

    Đinh Hoàng nói:

    Tuy thành Xích Linh là thành trì kiên cố, có lợi thế phòng thủ cao, nhưng trước sức mạnh của quân Hung Nô, nếu khéo điều binh khiển Tướng, kết hợp toàn lực lượng dân chúng trong thành, có thể cầm cự hơn mười ngày.

    Cao Hải nói:

    Chỉ cần cầm cự ba ngày là đủ. Quân Hung Nô tính khí hung bạo, chúng tấn công ba ngày hao binh tổn Tướng, mà chưa chiếm được thành, chúng sẽ nổi điên lên tấn công luôn cả đêm, đến đêm thứ ba quân hung nô ráo riết công phá thành khi thấy Nam trại, Tây trại, Đông trại quân Hung Nô bị cháy, quân Hung Nô rối loạn, thời mở cổng thành ùa ra tiêu diệt chúng, chúng ta quyết tử với chúng một trận, còn mất thắng thua nầy.

    Hai bên bàn bạc xong đâu vào đấy, màn đêm buông xuống, Đinh Hoàng dùng thuật kinh công đi trong đêm như một bóng ma, với quân binh Hung Nô không có sự cảnh giác cao, nên Đinh Hoàng qua mặt chúng một cách dễ dàng, theo con đường bí mật trở về thành Xích Linh.

    Nước non gặp lúc nguy nan

    Vẫn còn những kẻ hiếu trung sáng ngời

    Kể gì sống chết cuộc đời

    Ngày đêm ra sức chống thời ngoại xâm.

    Đây nói về Hung Nô Vương, cùng hai người con là Hung Đa Di, Hung Quân Liệt mỗi người con thống lãnh 10 vạn quân. Hung Nô Vương thống lãnh 12 vạn quân ồ ạt xâm chiếm Đông Bắc Văn Lang, thế mạnh như chẻ tre, cuồn cuộn như nước lũ tràn tới, tràn tới đâu cuốn sạch tới đó. Những bộ lạc Bách Việt Văn Lang, ảnh hưởng văn hóa phương Bắc, chỉ cần vài trăm, vài nghìn nóc nhà cũng nổi lên xưng Vua Chúa đòi tự trị, làm rối loạn tình hình Bắc Văn Lang, chia năm xẻ bảy, sức mạnh đoàn kết toàn dân không còn nữa, như một bó đũa đã rời từng cây. Chính người dân Bắc Văn Lang đã mở ra trang sử suy tàn, mở đường cho các thế lực ngoại ban, có cơ hội xâm lược Bắc Văn Lang. Quân Hồ, quân Ân, quân Hung Nô, thấy thời cơ đã đến chúng làm gì bỏ qua cơ hội, liền kéo quân xâm lược Bắc Văn Lang, thế mạnh như cuồng phong vũ bão. Những bộ lạc, tự mình đánh mất truyền thống Anh Linh, Đại Nam Văn Lang con cháu Tiên Rồng, chạy theo văn hóa phương Bắc, học đòi theo văn hóa phương Bắc, chỉ cần vài trăm, vài nghìn nóc nhà, cũng nổi lên xưng Vua, xưng Chúa, đòi tự trị, bị quân Hung Nô quét sạch, như quét rác, không mấy khó khăn, những Vua Việt nổi lên đòi tự trị chết thê chết thảm.

    Sau có thơ rằng:

    Ôi những kẻ lầm đường lạc lối

    Lạc tâm hồn vào lối yêu ma

    Tự mình rước giặc vào tha

    Chúng đâm, chúng chém, chúng xơi sạch sành.

    Chỉ còn thành Xích Linh, khí thế con Rồng cháu Tiên, luôn vang dội dòng máu hùng anh. Quân Hung Nô hiểu rõ chỉ cần chiếm được thành Xích Linh, thời coi như chiếm lĩnh hầu hết Đông Bắc Văn Lang, còn mấy Châu thành phía Nam Xích Linh là những Châu thành nhỏ, trục lợi giao thương không như thành Xích Linh, phải nói thành Xích Linh là trung tâm giao thương các Châu thành Đông Bắc Văn Lang, dân chúng nơi Xích Linh Giao Châu giàu có vô cùng, không những về ngành thủy sản, hải sản, nông sản, lâm sản, mà ngành giao thương, đa ngành buôn bán cũng vô cùng tấp nập, miếng mồi béo bở thèm muốn của quân Hung Nô, nên chúng quyết tâm chiếm cho được Xích Linh Giao Châu. Quân Hung Nô sau khi quét sạch, những ông Vua Việt nổi lên đòi tự trị, như giết một con chó. Rồi từ Tây Bắc, Bắc, Đông Bắc, địa phận Đông Bắc Văn Lang, chúng chia làm ba mũi chính, như ba con đỉa khổng lồ quơ cái vòi hút máu, từ ba hướng lao nhanh tới thành Xích Linh, bao vây chận nghẹt ba cổng chính trong bất xuất, ngoại bất nhập, hầu cô lập, nếu không đầu hàng thời chết lần chết mòn, cuối cùng cũng phải dâng thành cho chúng. Chúng chận nghẹt ba cổng chính, Nam cổng, Bắc cổng, Tây cổng, chúng quyết chiếm cho được thành Xích Linh, nên đóng đô lập doanh trại cách ba cổng thành không xa. Tây trại do Hung Đa Di, thống lãnh chỉ huy. Nam trại do Hung Nô Vương, thống lãnh chỉ huy. Bắc trại do Hung Quân Liệt, thống lãnh chỉ huy. Chúng bắt dân chúng Văn Lang hơn ba vạn người làm nô lệ vận chuyển dụng cụ công phá thành. Sau những ngày chửng bị đầy đủ, không chần chờ gì thêm nữa chúng ra lịnh tấn công, chúng tấn công ngay trong đêm thứ ba, những kế sách bị thất bại, và chúng chuyển sang tấn công bằng ngày.

    Trời thức giấc ôi mây mù trắng xóa

    Gió lạnh về như lan tỏa vào tim

    Mây lững lờ như buồn bã mông mênh

    Một cái chết đang gần kề trước mắt

    Những linh hồn âm phủ đã gọi tên.

    Quân Hung Nô bắt đầu chuyển động, tiếng tù thúc quân vang dậy cả non sông, chúng ào ào hò hét thi nhau lao tới cung thành.

    Nghe tù trận hụ lên vang dội

    Như báo rằng chiến trận đến nơi

    Kia kìa ác quỉ hò reo

    Ào ào nhanh chóng leo lên cung thành

    Chúng thét gào rền trời rền đất

    Như đòi hồn ăn nuốt kinh Thiên

    Nối đuôi chen lấn leo lên

    Vạn nghìn con chuột khiếp kinh bạc hồn.

    Quân Hung Nô như hàng vạn con chuột ào ào leo lên tường, bên dưới có quân xạ tiễn bắn như mưa yểm trợ.

    Đây nói về Lạc Hầu Vương, cùng các Quan nóng lòng chờ đợi, bỗng từ đường hầm bí mật xuất hiện một bóng người. Lạc Hầu Vương cùng các Tướng nhận ra ngay Đinh Hoàng, ai nấy đều vui mừng hớn hở. Đinh Hoàng nhanh chóng thuật lại tất cả những gì mình đã thấy, rồi lấy ra một bức thơ, do Cao Hải gởi nói lên những cơ mật tiêu diệt quân Hung Nô.

    Nội dung thơ như sau: Tất cả quân binh trong thành, ra sức chống trả đến ngày thứ ba, theo tính khí hung hãn của quân Hung Nô, thời chúng sẽ tấn công cả ngày lẫn đêm, từ đêm thứ ba trở lên. Khi trên thành thấy ba doanh trại của quân Hung Nô bị bốc lửa, thời mở cổng thành xông ra tử chiến với chúng, thắng hay thua cũng chỉ trong một trận đánh nầy. Lạc Hầu Vương cùng các Quan bàn bạc chiến thuật phòng thủ suốt ngày cả đêm, hầu tìm ra giải pháp tốt nhất. Quân dân thành Xích Linh đồng một lòng chống trả đến cùng, chuẩn bị cho tử chiến lên đến tột đỉnh. Trên thành quân dân nhìn thấy quân Hung Nô chửng bị tấn công, đều đồng loạt cầu nguyện Anh Linh Quốc Tổ phù hộ. Nhờ thế mà tinh thần quân dân bình tĩnh lạ lùng, để cho quân Hung Nô leo lên hơn nữa thành, thời trống chiêng nổi lên quyết tử.

    Thế là lao giáo như mưa

    Lửa, dầu, đổ xuống khiếp kinh bạc hồn

    Cây, đá, ném xuống ầm ầm

    Hung Nô bỏ mạng rồi đời lớp lang

    Đất trời rung chuyển rền vang

    Hung Nô phơi xác chết thôi kể gì

    Ba ngày ra sức công thành

    Cũng không chiếm được quân thù lộn gan

    Hung Nô gào thét dậy non

    Đêm về trận chiến càng thêm kinh hoàng

    Bỗng đâu lửa dậy đùng đùng

    Vang trời ngựa hí khắp cùng thiên la

    Hung Nô doanh trại cháy tiêu

    Binh trời ập tới bao vây trong ngoài

    Hung Nô khiếp vía kinh hồn

    Quân binh rối loạn dập dồn đạp nhau

    Cổng thành đã mở toan ra

    Quân binh lũ lượt xông ra chém nhàu

    Hung Nô ngã rạp tơi bời

    Mở đường tẩu thoát hãi hùng khiếp kinh.

    Đây nói về Hung Nô Vương, Hung Đa Di, Hung Quân Liệt vì xem thường tinh thần chiến đấu quân dân thành Xích Linh. Nên chuẩn bị không chu đáo, ỷ đông chỉ cần tấn công là chiếm được thành, không ngờ quân Văn Lang phòng thủ vững chắc. Quân Hung Nô chết như rạ, tấn công liền ba ngày đi tiêu hơn ba vạn quân, mà vẫn không chiếm được thành, điên tiết dồn quân tấn công luôn cả ngày lẫn đêm. Nhờ sự hỗ trợ của yêu tinh ma quỷ chúng làm cho trời đất tối tăm mù mịt, nhưng chúng không vào được trong thành, nên không gây ra sự rối loạn trong quân binh. Đang lúc hăng say tấn công, bỗng thấy lửa đỏ dậy trời, ba doanh trại Hung Nô bị bốc cháy.

    Hung Nô Vương, Hung Đa Di, Hung Quân Liệt kinh hãi la lên:

    Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

    Bỗng nghe ngựa hí vang trời quân reo dậy đất, Hung Nô Vương hét lớn:

    Chúng ta bị quân Văn Lang chiếm lấy doanh trại, cũng như bao vây chúng ta, mau phá vòng vây lui quân.

    Cùng trong lúc ấy các cửa thành mở toan, quân binh ùa ra chém giết dữ dội. Hung Nô Vương, Hung Đa Di, Hung Quân Liệt khiếp vía, không biết địch ở nơi nào nhiều hay ít, chỉ nghe ngựa hí vang trời quân reo dậy đất, chiêng trống ầm ầm làm khiếp nhược tinh thần quân Hung Nô. Quân Hung Nô dẫm đạp lên nhau chạy toán loạn.

    Nói về Hung Đa Di dẫn bại quân phá vòng vây, ùa nhau chạy về phía Tây Bắc, thời nghe tên bắn xối xả như mưa, đội kỵ binh nhanh chóng vượt lên, thời nghe một tiếng quát long trời lở đất:

    Chạy đâu cho thoát.

    Tức thời tướng lĩnh quân Văn Lang múa đao chém tới Hung Đa Di, Hung Đa Di múa giáo chống đỡ rồi quày ngựa bỏ chạy, gặp phải quân phục kích, Hung Đa Di không còn tinh thần chiến đấu, thúc ngựa chạy thoát về hướng Bắc, quân Văn Lang không rượt đuổi vì chỉ có hơn năm trăm quân.

    Sau có thơ rằng:

    Văn lang con cháu Tiên Rồng

    Anh hùng gan dạ lẫy lừng muôn thu

    Đánh cho khiếp vía ngoại xâm

    Đánh cho hổ báo vùi chôn trận tiền

    Đánh cho quân giặc đảo điên

    Thây phơi rợp đất, xác phơi đầy đồng

    Vốn loài ăn cướp non sông

    Tàn đời lũ giặc vùi chôn tàn đời.

    Đây nói về Hung Quân Liệt kinh hồn bạt vía chưa biết chạy về hướng nào, thời nghe tiếng quát lanh lảnh:

    Chạy đâu cho thoát.

    Múa kiếm thúc ngựa lao vào chém Hung Quân Liệt, Hung Quân Liệt múa giáo chống trả.

    Bỗng có tiếng quát như sấm:

    Để thằng giặc nầy cho tôi.

    Đinh Hoàng múa thương đâm tới vèo vèo, Hung Quân Liệt ra sức chống trả, bỗng có tiếng nói quân gia chạy theo lối nầy, Hung Quân Liệt còn tinh thần đâu mà chiến đấu, đành thúc ngựa đào tẩu.

    Bỗng có tiếng quát:

    Chạy đâu cho thoát.

    Tức thời một người xuất hiện trường đao chém tới ầm ầm, Hung Quân Liệt kinh hãi:

    Tướng Văn Lang ở đâu mà đông thế.

    Ráng thúc ngựa chạy dài, quân Văn Lang tha hồ mà chém mà giết.

    Đây nói về Hung Nô Vương trong lòng chưa hết kinh hãi:

    Không hiểu quân Văn Lang ở đâu tới mà đông đến thế? Không lẽ từ trên trời rơi xuống? Từ dưới đất chui lên?

    Hung Nô Vương phá vòng vây chạy về hướng Tây. Bỗng một tiếng quát như sấm nổ:

    Ta chờ ngươi đã lâu mau nộp mạng đi.

    Tức thời thanh trường đao như sấm sét đánh tới, tướng Hung Nô Vương đưa lao lên chống đỡ ầm ầm đùng đùng, vị Tướng Văn Lang nào để cho Tướng Hung Nô kịp trở tay, thanh trường đao như tia chớp chém tới Tướng Hung Nô tránh không kịp trúng một đao ngã gục. Hung Nô Vương lấy làm kinh khiếp, liền hóa phép nổi lên một trận cuồng phong mù trời mịt đất, phá vòng vây chạy trốn thoát, người Tướng Văn Lang kia là ai làm cho Hung Nô Vương khiếp vía như vậy, người đó chính là Đô Đại Tướng Cao Hải.

    Đây nói về Đại Đô Tướng quân Cao Hải, sau khi thảo luận cùng Đinh Hoàng, những khó khăn cùng thuận lợi, những gì cần làm ngay, tất cả đều lên phương án cẩn mật cho trận tiêu diệt quân Hung Nô. Sau khi Đinh Hoàng đi rồi, Cao Hải cùng các Tướng Lĩnh với một quyết tâm cao, quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh, không hổ danh là con Rồng cháu Tiên.

    Sau có thơ khen rằng:

    Từ thuở cha ông thuở Hồng Hoang

    Anh Linh truyền xuống nước Văn Lang

    Tiên Rồng nòi giống uy Linh ấy

    Khí phách hùng anh ngút mây ngàn

    Truyền thống Anh Linh rền trời đất

    Quân thù cướp nước mộng tiêu tan

    Phương Nam rền mãi lòng bất khuất

    Trung, hiếu, trải lòng khắp nước non.

    Cao Hải nói:

    Chúng ta là con cháu Tiên Rồng, luôn luôn thừa kế những gì ông cha để lại. Bổn phận làm con cháu như chúng ta, phải hết lòng bảo vệ non sông Tổ Quốc, không để mất đi một tất đất, dù phải hy sinh tính mạng. Giặc Ân, giặc Hung Nô, giặc Hồ, chúng là loài yêu tinh, quỹ dữ, chuyên hút máu người, và luôn có dã tâm xâm lược đất chúng ta, chúng đã tràn qua, cướp của giết người, bắt dân ta làm nô lệ, ăn thịt trẻ con, hảm hiếp con gái, đàn bà, phụ nữ, vơ vét của cải, con gà con chó chúng chẳng tha, dân chúng khiếp sợ trốn chạy, bệnh tật, đói, rét, chết khắp nẻo đường, cha mất con, vợ mất chồng, mối thù xâm lược nầy chúng ta bắt chúng phải trả, chúng đã dẫm chân lên quê hương tổ quốc chúng ta, thời chúng không còn cơ hội để mà trở về, thân xác của chúng phải đổ xuống làm phân cho đất phương Nam. Chúng ta không thể đứng nhìn mà phải chiến đấu thật anh dũng. Chiến đấu quên mình, chiến đấu vì muôn dân, chiến đấu vì non sông tổ quốc. Đã ra quân thời quyết tử, các tướng nói theo đã ra quân thời quyết tử, đã ra quân thời quyết tử.

    Cao Hải ra lịnh:

    Bố Chính Ngô Việt, nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân dẫn 5 nghìn quân, tấn công vào Nam doanh trại của quân Hung Nô, đi ngay trong đêm nay, âm thầm lặng lẽ khi trời sáng thời cho quân ẩn núp thật kín đáo, cách xa doanh trại chúng chừng khoảng 20 dặm, không cho chúng phát hiện ra chúng ta, chờ đêm xuống chúng ta duy chuyển quân nhanh chóng, bất ngờ tấn công vào Nam doanh trại của chúng, tiêu diệt sạch, đốt sạch, tiến quân ra bao vây tiêu diệt quân Hung Nô, tuân lịnh.

    Phan Thanh Hải, nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân dẫn 5 nghìn quân tấn công vào Tây doanh trại quân Hung Nô, đi ngay trong đêm nay, âm thầm lặng lẽ khi trời sáng thời cho quân ẩn núp thật khéo léo kín đáo, phải đảm bảo an toàn bí mật cách xa doanh trại chừng 20 dặm chờ đêm xuống chúng ta duy chuyển quân nhanh chóng bất ngờ tấn công vào doanh trại tiêu diệt gọn đốt sạch, rồi kéo quân phục kích đường mòn chận đánh đường rút lui của chúng, tuân lịnh.

    Trương Việt Hàn, nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân dẫn theo 5 nghìn quân, bí mật đi đường vòng bọc xuống phía Đông, vượt qua địa giới thành Xích Linh, khi trời sáng thời cho quân ẩn núp kín đáo, cách xa doanh trại chừng 20 dặm không cho chúng phát hiện ra chúng ta, đêm xuống thời duy chuyển quân nhanh chóng bất ngờ tấn công vào Bắc doanh trại quân Hung Nô, tiêu diệt sạch, đốt sạch, rồi kéo quân ra phục kích những đường mòn tiêu diệt quân hỗn loạn tháo chạy của chúng, tuân lịnh.

    Ngô Việt Tiên nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân thống lãnh 2 vạn quân, từ phía tây đánh xuống phía sau lưng địch, dồn chúng vào chân tường thành Xích Linh, tha hồ mà chém giết, tuân lịnh.

    Nguyên Hạo Hạo nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân thống lãnh 2 vạn quân từ phía Đông đánh thọc lên, bao vây tiêu diệt chúng, tuân lịnh.

    Còn ta thống lãnh 3 vạn quân từ phía Nam sau lưng chúng đánh tới. Nói về các Tướng Lĩnh sau khi nhận lịnh âm thầm lặng lẽ triển khai lực lượng, di chuyển trong đêm, theo kế hoạch đã dự định, quân Hung Nô không hề hay biết gì cả, chờ đêm xuống là đồng loạt tấn công.

    Đây nói về quân Hung Nô chỉ lo tập trung lực lượng công phá thành, vì chưa nắm bắt được thông tin quân chủ lực Văn Lang đã đến, nên không có sự đề phòng, quân Văn Lang lại vô cùng bí mật di chuyển. Quân Hung Nô công phá thành ba ngày mà không chiếm được, lại hao quân tổn tướng rất nhiều, đi tiêu ba vạn, Hung Nô Vương sôi gan, hộp hai con cùng các Tướng lĩnh, bàn kế sách chiếm cho được thành Xích Linh nội trong một đêm một ngày.

    Hung Đa Di nói:

    Hãy huy động toàn lực lượng thang giây, và nhiều phương tiện công phá thành khác, dồn hết tấn công vào đêm nay, sáng mai là chiếm lấy thành Xích Linh.

    Hung Quân Liệt nói:

    Hãy triệu yêu tinh, quỉ dữ đến làm phép yểm trợ cho quân ta, làm cho mù trời mù đất chúng không thấy được quân ta, chúng ta mới ồ ạt xông lên chiếm lấy thành nhanh chóng.

    Hung Nô Vương khen:

    Con nói phải.

    Thế là trong đêm hôm đó quân Hung Nô dốc toàn lực lượng, công thành có sự yểm trợ của yêu tinh quỉ dữ. Ánh dương quang đã chìm lần trong đêm tối. Tiếng rỉ rả côn trùng, tiếng rì rào của gió, mãi rì rầm than thở liên miên, giọt sương còn chưa tượng hình thành. Thời bầu trời bỗng nhiên đen ngòm, tối mù tối mịt, đèn đuốc trên thành tắt ngúm hết thảy. Quân Hung Nô ào ào leo lên thành như nước tràn lên đê, trong đêm tối quân Xích Linh chém lớp nầy chúng ào lên lớp khác, không còn cách gì chống trả lại nổi. Trong tình thế nguy cấp cấp ấy.

    Thời thấy ba doanh trại quân Hung Nô bốc cháy ngùn ngụt, lửa đỏ rực cả bầu trời, quân reo dậy đất, cùng lúc ấy cuồng phong mây đen cũng tan biến hết, quân Hung Nô khiếp hoảng khi nghe tiếng tù rút quân bỏ chạy, bị quân Xích Linh chém, bắn, xối xả chết la liệt, nằm dày trên mặt thành. Thấy quân Hung Nô rối loạn không leo lên tường thành nữa, theo còi lịnh quân Xích Linh mở cổng thành lao ra chém quân Hung Nô như chém chuối.

    Về sau có thơ rằng:

    Tiếng quân reo dậy trời dậy đất

    Chiêng, trống rền khiếp vía Hung Nô

    Đùng đùng đao kiếm như mưa

    Ầm ầm trận địa khiếp kinh hãi hùng

    Giặc Hung Nô bịt bùng gươm giáo

    Đạp lên nhau chạy tháo, chạy chui

    Tên bay, lao, giáo, khắp nơi

    Hung Nô bỏ mạng ôi thôi khắp cùng

    Một trận chiến lẫy lừng sông núi

    Quân Hung Nô khiếp vía hồn kinh

    Tiên Rồng nào phải dễ xơi

    Tàn đời xâm lược ôi thôi tàn đời

    Cờ đại nghĩa ngời ngời chiến thắng

    Quân Hung Nô phơi xác như non

    Đáng đời lũ giặc ngoại xâm

    Đáng đời lũ giặc vùi chôn đáng đời.

    Nói về quân Hung Nô bại trận chạy sống chạy chết khi không còn thấy quân Văn Lang rượt đuổi nữa, thời mới cho quân dừng nghĩ.

    Hung Nô Vương than vắng thở dài:

    Quân Văn Lang là quân Trời, mới lợi hại như vậy.

    Điểm lại quân binh thời chết hơn phân nửa, Hung Nô Vương cứ than thở mãi. Bỗng thấy quân binh lao tới, Hung Nô Vương kinh hãi, tưởng là quân Văn Lang đuổi theo, chừng khi nhìn kỷ thời không phải, đó là tàn quân của Hung Đa Di, và quân của Hung Quân Liệt, cha con gặp nhau than thở không thôi.

    Hung Quân Liệt, nói:

    Không hiểu quân Văn Lang ở đâu ra mà đông đến thế, chạy chỗ nào cũng gặp phải quân Văn Lang.

    Thật ra quân Văn Lang chỉ có 10 vạn mà thôi, chỉ khéo chủ động, bày binh bố trận, làm cho quân địch hoang mang khiếp sợ, cứ tưởng như hàng mấy mươi vạn quân. Trong chiến tranh, kẻ nào nắm chủ động, về tâm lý, chủ động về bày binh bố trận, chủ động về trận chiến, chủ động đường tiến lui, hiểu rõ về quân địch, mà địch chẳng hiểu rõ gì về mình, chủ động trong mọi tình huống, chủ động trong mọi thời cơ. Thời coi như phần thắng đã thuộc về mình, quân Hung Nô có hơn 30 vạn quân chỉ thua một trận mà đi tiêu hơn phân nửa, giờ chỉ còn, không đầy 15 vạn quân, Hung Nô Vương mất hết ý chí xâm lược.

    Hai người con Hung Nô thấy vậy liền khuyên:

    Còn nước còn tác củng cố lại lực lượng hợp với quân Ân, tiêu diệt quân Văn Lang.

    Hung Nô Vương như có tia sáng liền cho người thám thính quân Ân thắng bại ra sao rồi hể tính.
     
  4. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    PHẦN 11: BẠI LỘ CƠ MƯU
    Đây nói về tình hình chiến sự Ninh Giao Châu, Lạc Đại Vương, Hầu Thái Công, Nguyên Dực, cùng các Tướng Lĩnh, bàn bạc đưa ra nhiều giải pháp ưu việt nhất, hiệu quả nhất, tiêu diệt quân Ân, quân Hồ.

    Nào hay trong lúc bàn bạc, có hai con yêu tinh ẩn mình nghe lén, những cơ mật binh pháp, đây là một tổn thất lớn, có thể nói ván cờ đã bại lộ, đưa đến thất bại mà không hay biết gì cả. Sát Sát nương nương là tay xảo quyệt, nắm bắt tất cả cơ mật thông tin của quân Văn Lang, nhưng làm ra như mình không hay biết, quân binh không động đậy gì cả. Nhưng thật ra Sát Sát đã triển khai quân binh hết rồi, Tướng soái Nguyên Dực, nắm bắt được thông tin cuối cùng là quân Ân chưa xuất binh.

    Nguyên Dực cùng các Tướng rời khỏi thành Ninh Châu trở về doanh trại, triển khai lực lượng, điều động quân binh, theo kế sách đã thống nhất chung, chia quân làm ba đạo quân Một đạo quân đến đồi Vạn Lâm phục kích. Một đạo quân bọc về hướng Đông vượt qua đồi Vạn Lâm, đánh bọc sau lưng chận đường rút lui của giặc. Một đạo quân chủ lực bọc về hướng Tây vượt qua khỏi đồi Vạn Lâm, chận đứng đường tháo chạy quân Ân, rồi tiến thẳng chiếm lại thành Kinh Châu, khí thế ra quân với niềm tin chiến thắng.

    Nói về Hầu Tướng Quân, theo lịnh của chủ soái Nguyên Dực, thống lãnh 5 vạn quân tức tốc lên đường trong đêm tối, đến đồi Vạn Lâm phục kích, trước khi trời sáng hầu tránh tai mắt quân Ân phát hiện. Khi đạo quân đến gần đồi Vạn Lâm, thời thấy âm khí nặng nề, sương rơi lớp lớp, cơn gió âm u như mang đầy sự chết chóc, hầu Tướng quân bỗng rùng mình như linh cảm có chuyện không may.

    Số mệnh huyền cơ Trời đã định

    Văn Lang tai nạn bởi nghiệp xưa

    Hồn giặc phiêu phiêu trong gió bụi

    Che chở giặc Ân hóa gió mưa.

    Đồi Vạn Lâm cây cối rậm rạp, sương mù dày đặc, che chắn cả tầm nhìn. Sao mai đã mọc, nhưng màn đêm vẫn còn u tối, đại quân vừa tiến vào đồi Vạn Lâm.

    Thời có tiếng nói:

    Hầu Tướng Quân sao tôi linh cảm như có điều không may, chúng ta không nên tiến sâu vào đồi Vạn Lâm, hãy cho người thám thính thử xem.

    Người vừa lên tiếng đó chính là nữ Tướng quân, Chăm Ly, Nữ Tướng tài năng quân Văn Lang. Hầu Tướng Quân, nghe Chăm Ly nói cũng phải, liền cho người đi sâu vào đồi Vạn Lâm thám thính.

    Quân thám thính xong rồi trở ra báo:

    Bẩm tướng quân ngoài sương mù dày đặc ra, thời không có động tịnh gì cả.

    Hầu Tướng Quân nghe báo cáo như thế thời hơi an tâm. Đạo quân tiến sâu vào đồi Vạn Lâm, cả một khu đồi rộng lớn như thế, mà yên tĩnh lạ lùng.

    Chăm Ly nói:

    Theo kinh nghiệm của tôi, đáng lý ra giờ nầy thời nhiều loài chim đã thức giấc, chúng ríu ra ríu rít, nhiều loài thú đã đi ăn, nhưng đồi Vạn Lâm nầy cây cối vô cùng rậm rạp thế mà im tiếng lặng hơi.

    Hầu Tướng Quân cũng thấy nghi nghi:

    Nhưng đã kéo quân vào không lẽ lui quân trở ra, có lẽ chúng ta đa nghi quá cũng nên.

    Thế là đạo quân vẫn tiếp tục tiến sâu vào đồi Vạn Lâm, đường sá quanh co rậm rạp, nhưng không có việc gì xảy ra, đồi rừng vẫn im lặng, một sự im lặng kỳ lạ vô cùng, khi đạo quân đã vào hết đồi Vạn Lâm.

    Hầu Tướng Quân mới thở phào nhẹ nhõm nói:

    Chúng ta đa nghi quá. Nào có thấy gì đâu?

    Hầu Tướng Quân ra lệnh:

    Hãy tìm nơi ẩn núp.

    Lúc bấy giờ sương chưa tan vẫn còn che chắn tầm nhìn, trên vài mươi thước thời không thấy gì cả, huống chi là rừng rậm. Bỗng nghe tiếng tù khai trận nổi lên inh ỏi. Hầu Tướng Quân kinh hồn bạt vía.

    Chăm Ly thét lớn:

    Có quân mai phục.

    Hầu Tướng Quân ra lệnh:

    Rút lui, rút lui.

    Quân binh tức thời hỗn loạn, dồn ép nhau thậm chí đạp lên nhau mà chạy, hai bên đường tên bắn ra như mưa trút, quân Văn Lang càng thêm hoảng loạn, bị trúng tên chết vô số kể.

    Hầu Tướng Quân thét lớn:

    Phá vòng vây rút lui.

    Nhưng quân Ân đã tràn ra, chém giết quân Văn Lang, biết không còn rút lui được nữa.

    Chăm Ly thét lên:

    Lấy lại bình tỉnh, xông vào quyết tử với quân thù, tiến lên, tiến lên, tử chiến tử chiến.

    Thế là quân binh bình tỉnh xông vào quyết tử với giặc Ân, trận chiến xảy ra long trời lở đất.

    Sau có thơ khen rằng:

    Tìm cái sống trong đường tơ kẽ tóc

    Chí hùng anh lớp lớp xông lên

    Dù ngã xuống nhưng linh hồn bất tử

    Hãy tiến lên nào ta hãy tiến lên.

    Quân Ân không ngờ quân Văn Lang anh dũng như vậy, anh dũng chống trả quyết liệt, lớp nầy ngã xuống lớp khác xông lên. Nữ Tướng Chăm Ly như con Phụng Hoàng tung bay trên đầu bầy sói, đường gươm như mưa sa bão táp, chém xối xả xuống quân thù, quân Ân rơi đầu lớp lớp.

    Về sau có thơ khen rằng:

    Nữ tướng tài cao được mấy người

    Đường gươm vun vút chém quân thù

    Thây người ngã gục ôi kinh khiếp

    Anh linh hào kiệt rạng muôn thu.

    Chăm Ly vừa chém quân thù vừa gào thét:

    Tướng quân phá vòng vây thoát đi, để tôi chận đứng chúng.

    Tức thời múa gươm chém tới ầm ầm, phá vòng vây cho Hầu Tướng Quân chạy thoát:

    Về sau có thơ khen rằng.

    Một mình tả đột hữu xông

    Mở đường cứu Tướng má hồng máu tuôn

    Đường gươm như ánh sao đêm

    Chớp lòa vun vút chém bay đầu thù.

    Hầu Tướng Quân rơi nước mắt, thét lên một tiếng như sấm nổ, múa đao lao vào chém giết quân Ân.

    Về sau có thơ khen rằng:

    Cái chết gần kề có sợ chi

    Chết vì trung hiếu chết uy nghi

    Đường đao trung dũng đầy khí phách

    Tung hoành gào thét chết sá chi

    Đã chết thời chết một lần

    Chết cho non nước thêm phần uy linh

    Hy sinh đến lúc hy sinh

    Trải lòng trung hiếu còn chi vui bằng.

    Tướng lĩnh quân Ân là Võ Vu, thấy Tướng nữ Văn Lang vô cùng xinh đẹp, có ý bắt sống về làm đồ chơi. Bằng sai Tiểu Hổ:

    Ngươi xông xa bắt con nhãi đó cho ta.

    Tiểu Hổ hiểu ý Chủ Tướng, bằng nói:

    Tướng quân xài ớn rồi giao cho thuộc hạ.

    Tiểu Hổ, từ nơi ẩn núp phóng ngựa lao ra, múa giáo chém tới Chăm Ly. Chăm Ly đang hăng say chém giết quân Ân, nghe tiếng hét sau lưng, lại nghe có gió giáo chém tới, liền nhanh như chớp lách người cả ngựa né tránh. Tiểu Hổ vốn là tay háo sắc, đánh những đòn chí tử nhưng không nguy hiểm, vì y muốn bắt sống Chăm Ly. Chăm Ly lúc nầy đâu còn nghĩ gì đến cái chết, mỗi đường gươm là mỗi đường thí mạng, lợi hại vô cùng, Tiểu Hổ vì quá háo sắc, Chăm Ly chém rơi đầu.

    Về sau có thơ khen rằng:

    Ghê thay nữ tướng anh hùng

    Trước bầy sói dữ tung hoành xông pha

    Đường gươm như ánh sao sa

    Quân thù bỏ mạng khiếp kinh quân thù.

    Võ Vu nhìn thấy nữ Tướng Văn Lang lợi hại như vậy, không còn mơ tưởng đến làm đồ chơi nữa, bằng ra lệnh:

    Bắn chết nữ Tướng kia cho ta.

    Tức thời hàng trăm hàng nghìn mũi tên lao tới, găm đầy mình như lông nhím, trước khi chết Chăm Ly hét lên một tiếng, đường gươm vun vút chém vào quân Ân, giết luôn một lúc mười tên nữa, vì sao Chăm Ly găm tên đầy mình mà không chết liền, là nhờ áo giáp đồng Trước cái chết đầy anh dũng của Chăm Ly.

    Về sau có thơ khen rằng:

    Trước lúc chết đầy hào hùng khí phách

    Đầy hiên ngang lòng bất khuất biết bao

    Thân ngã xuống, nhưng tâm hồn không ngã

    Mãi sáng ngời như muôn vạn vì sao

    Sao Mai đẹp mãi vì sao

    Chăm Ly, đẹp mãi muôn thu sáng ngời.

    Nói về Hầu Tướng Quân thấy Chăm Ly anh dũng hy sinh, liền quát lên một tiếng, múa trường đao chém tới tấp vào quân thù, chém quân Ân như chém chuối. Võ Vu Tướng giặc Ân kinh hãi, hét lớn:

    Bắn chết Tướng Văn Lang kia cho ta.

    Quân theo lịnh tập trung bắn Hầu Tướng Quân, Hầu Tướng Quân trúng tên đầy mình, trước khi chết trường đao vẫn chém xuống quân thù quân Ân khiếp vía kinh hoàng.

    Về sau có thơ khen rằng:

    Hầu tướng anh hùng khiếp ngoại xâm

    Sá gì cái chết nhẹ hơn lông

    Trung hoành ngang dọc xông pha chém

    Kinh hồn bạt vía lũ giặc Ân.

    Nói về quân Văn Lang như rắn mất đầu, thi nhau phá vòng vây bỏ chạy, năm vạn quân chỉ còn hơn một vạn, chạy trốn thất lạc khắp mọi nơi.

    Thắng bại xưa nay quá rõ thì

    Cơ mưu bại lộ hết đường đi

    Bị động khó mong giành chiến thắng

    Sử chép để đời có sai chi.


    PHẦN 12: BẠI TRẬN
    Cơ mưu bại lộ thật đớn đau

    Sa vào cạm bẫy chết thảm sầu

    Cơ Trời vận hóa còn đen thẩm

    Kiếp nạn truyền miên trước lẫn sau.

    Đây nói về Việt Luân Tướng Quân, thống lãnh 5 vạn quân bọc theo hướng Đông theo sự chỉ đường quân Ninh Châu, đạo quân đi đến gần sáng, khi đạo quân đi qua. Huyện Ninh Điền, bỗng có một luồng gió lạ thổi đến, làm gãy cây cờ chủ lực quân Văn Lang, ai nấy đều thất kinh, không hiểu là chuyện gì sắp xảy ra, địa phận Huyện Ninh Điền, không những dân thưa thớt, cây cối um tùm rậm rạp, khó mà phát hiện ra quân ẩn núp, lại thêm sương mù dày đặc, che chắn cả tầm nhìn, vượt qua Huyện Ninh Điền, thời coi như đã vượt qua khỏi đồi Vạn Lâm.

    Việt Luân Tướng Quân, định cho đạo quân vượt qua khỏi Huyện Ninh Điền, thời cho quân dừng nghĩ ẩn núp tại đây, mới cho người thám thính động tỉnh của quân Ân. Lúc nầy trời cũng đã hừng hừng sáng, sương mù còn dày đặc chưa tan, đạo quân đang đi qua những chỗ hiểm địa, thời cây cối hai bên đường bỗng rung động, tức thời tiếng tù khai chiến nổi lên.

    Việt Luân Tướng Quân thét lớn:

    Có quân mai phục, có quân mai phục, mau vượt qua nơi hiểm địa.

    Nhưng không còn vượt lên được nữa. Hai bên đường hiểm địa tên bắn ra như mưa, quân Văn Lang vô cùng hỗn loạn. Bỗng thấy một vị Tướng phi ngựa tới chỗ Việt Luân Tướng Quân nói:

    Quân địch đã bao vây tất cả, chúng ta đang kẹt trong các chỗ hiểm địa, chỉ còn tử chiến với chúng mà thôi.

    Việt Luân Tướng Quân lấy lại bình tĩnh ra lệnh cho toàn quân xông lên tử chiến, quân Văn Lang lấy lại bình tĩnh không còn rối loạn nữa, chiến đấu chống trả quyết liệt, xông lên tấn công quân Hồ.

    Về sau có thơ rằng:

    Thế cùng đường còn chi để mất

    Nào xông lên càng quét quân thù

    Đã vào trận kể gì sống chết

    Hãy xông lên gào thét xung phong.

    Nói về Hồ Man Quân thấy quân Văn Lang lọt vào hiểm địa vòng vây, thời coi như nắm chắc phần thắng, tha hồ mà chém giết quân Văn Lang. Hồ Man Quân khoan khoái vô cùng, Hồ Man Quân ra lệnh tấn công. Quân Văn Lang bất ngờ kinh hoàng khiếp vía, hỗn loạn bị trúng tên chết thôi là chết, không ngờ chiêng trống quân Văn Lang nổi lên, ngựa hí quân reo dậy đất, không còn rối loạn nữa, xông lên tử chiến, không còn biết sợ chết là gì nữa. Quân Hồ bất ngờ trước tinh thần anh dũng của quân Văn Lang, bị quân Văn Lang lao đến chém tơi tả.

    Hồ Man Quân kinh hoảng trước dũng khí anh hùng của quân Văn Lang, bằng thúc quân giao đấu. Quân Hồ đã lợi thế mà còn chủ động trận địa, nên dù quân Văn Lang anh dũng mấy cũng khó mà chuyển xây tình thế được. Trận địa kéo dài cho tới giữa trưa, quân Hồ đi tiêu ba vạn, quân Văn Lang không còn một mạng.

    Hồ Man Quân tuy thắng trận nhưng vẫn còn khiếp vía, nhìn lên trời than thở:

    Quân Văn Lang là quân Thần quân Thánh, thảo nào hai trăm năm về trước quân Ân đã thất bại, không còn gì nghi ngờ nữa.

    Hồ Man Quân, như muốn tiêu tan mộng xâm lược Văn Lang. Hồ Man Quân thắng trận những bao nỗi ê chề, đứt tiêu hơn ba vạn quân, thắng mà chẳng khác gì thua, thắng mà khiếp sợ trước quân Thần, quân Thánh, sự anh dũng không một người chạy trốn, không một người đầu hàng, chiến đấu tới hơi thở cuối cùng. Hồ Man Quân đây là lần đầu tiên nhìn thấy tinh thần chiến đấu, tinh thần quyết tử, cho Tổ Quốc quyết sinh của quân binh Văn Lang, đáng nể phục, đáng khiếp sợ. Hồ Man Quân nghĩ không hiểu những gì sẽ xảy ra đối với Địa Linh Sinh Nhân Kiệt nầy.

    Đây nói về Bạch Tướng Quân dẫn theo 5 nghìn quân theo bảo vệ đội quân vận chuyển lương thực, hể nghe tin có trận giao chiến ở đồi Vạn Lâm, thời kéo quân tới yểm trợ. Đội quân vận chuyển lương thực đi chậm, sương mù xuống ước cả áo, tiếng gà rừng gáy như báo hiệu trời sắp hừng sáng. Một nỗi buồn như len lỏi vào linh hồn quân binh, không hiểu nổi buồn vì quê hương Tổ Quốc đang bị ngoại xâm dày xéo thảm thê, hay là nỗi buồn vì nhớ nhà khi nghe tiếng gà gáy, gọi cả đàn thức dậy, vui vầy bên nhau một ngày mới. Bạch Tướng Quân đang đi linh cảm như đang có trận giao tranh, ở tận xa xa không lẽ đồi Vạn Lâm đã vào chiến trận, sao không đúng như dự định theo kế sách đã bàn, liền sanh nghi cho quân vận chuyển lương thực dừng lại, liền cho người thúc ngựa nhanh chóng đến đồi Vạn Lâm nắm bắt tình hình.

    Không bao lâu người đó trở lại nói:

    Đồi Vạn Lâm đánh nhau rồi.

    Bạch Tướng Quân linh cảm như là có chuyện không may, liền cho quân tản ra phục kích, chỉ còn một số ít binh lính đang dừng nghĩ bảo vệ đoàn xe lương thực. Bỗng nghe từ phía sau lưng, tiếng vó ngựa dồn dập mỗi lúc một rõ, Bạch Tướng Quân đoán chắc đó là tiếng vó ngựa của giặc từ sau đánh bọc tới cướp lấy tất cả lương thực.

    Bạch Tướng Quân ra hiệu lệnh:

    Khi nào địch lọt vào lưới mai phục thời mới tấn công.

    Nói về Hổ Tiên Tướng giặc Ân dẫn theo 5 nghìn quân, nhanh chóng lên đường đánh bọc hậu cướp lấy lương thực vận chuyển quân Văn Lang. Hổ Tiên nắm bắt được thông tin tình báo là đoàn quân vận chuyển lương thực quân Văn Lang đã đến Huyện Gia Lâm.

    Hổ Tiên nói:

    Như vậy đoàn vận chuyển lương thực đã vượt qua chúng ta rồi, chúng ta từ phía sau bất ngờ đánh tới.

    Do sương mù che chắn tầm nhìn, quân Ân chỉ thấy trước mắt là đoàn quân vận chuyển lương thực đang dừng nghĩ, chớ không thấy được số người, cứ nghĩ đây chính là cơ hội cho chúng bất ngờ tấn công, nếu đoàn quân vận chuyển lương thực có phát hiện thời cho đó là quân Văn Lang mà thôi. Hổ Tiên thúc năm nghìn quân lao vào chém giết, nhưng đến khi phát hiện là không có bao nhiêu người, chỉ toàn là xe lương thực, thời thất kinh. Bỗng thấy pháo lệnh tử chiến, quân Ân chưa kịp trở tay, thời tên giáo lao, bắn phóng ra như mưa, chiêng trống nổi lên rền trời rền đất, quân Ân bất ngờ trúng tên chết lớp lớp, quân Ân rối loạn chạy loạn xạ, bị quân Văn Lang hạ gục dễ dàng, quân Văn Lang thắng thế xông lên gươm, đao, giáo, mác ào ào chém tới như mưa, ngựa người quân Ân dẫm đạp lên nhau phá vòng vây mà chạy.

    Hổ Tiên khiếp quá tìm đường tẩu thoát. Bỗng nghe một tiếng quát như sấm:

    Chạy đâu cho thoát xem đây.

    Hổ Tiên nghe tiếng gió đao chém tới, tức thời múa trường giáo lên chống đỡ, choang đinh tai nhức óc, Hổ Tiên cả người lẫn ngựa muốn ngã quỵ, không hiểu người nào mà thần dũng đến thế. Hổ Tiên thấy người chém mình là một dũng tướng to lớn, mặt vuông, mắt sáng, mình mặt giáp đồng, đầu đội kim khôi, oai phong lẫm liệt, thảo nào mà chẳng có sức mạnh kinh người, người chém Hổ Tiên một đao như trời giáng đó chính là Bạch Tướng Quân. Hổ Tiên biết đánh không lại phóng ngựa chạy tẩu thoát. Nhưng chạy đâu cho thoát hàng loạt mũi tên bắn trúng đầy mình, nhào xuống ngựa mà chết, quân Ân như rắn mất đầu, quân Văn Lang tha hồ mà đâm mà chém.

    Về sau có thơ khen rằng:

    Một trận chiến đầy mưu mô khôn khéo

    Thời lo gì không chiếm được thương phong

    Đường chiến thắng phải dựa trên mưu trí

    Đạp quân thù như đạp cỏ dưới chân.

    Mặt trời lúc nầy đã lên cao, nhưng che khuất bởi thời tiết âm u cái lạnh đã làm cho con người mau đói. Bạch Tướng Quân không còn nghĩ gì đến sự ăn uống nữa, tức tốc điều động năm nghìn quân, tức tốc đến đồi Vạn Lâm, thời lúc nầy trận chiến đã dừng hẳn, thấy xa xa trước mắt quân binh Văn Lang đang chạy thục mạng, mạnh ai nấy chạy không đoàn, không toán gì cả, thời đã biết quân Văn Lang đã thất trận. Bạch Tướng Quân cho bắn pháo hiệu là đã có quân cứu viện đến nơi, quân Văn Lang đang thất lạc chạy trốn thấy pháo cứu viện, liền cùng nhau chạy đến, người nào người nấy thở muốn hụt hơi, lăn đùng ra ngồi dậy hết nổi.

    Nói về quân Ân tuy thắng trận, nhưng cũng đi tiêu hơn một vạn quân, nên không đuổi theo quân Văn Lang bỏ chạy, mà chỉ ra khỏi đồi Vạn Lâm chờ lệnh, những tốp quân binh Văn Lang chạy trốn sợ sự truy đuổi quân Ân, bỗng thấy hiệu lịnh cứu viện quân Văn Lang tất cả đều kéo tới hết, tính đi tính lại chỉ còn hơn một vạn quân, đi tiêu bốn vạn quân.

    Bạch Tướng Quân liền hiểu rõ tất cả quân ta đã lọt hết vào ổ mai phục của chúng, nên mới thất trận thê thảm như thế nầy, các Tướng đều chết sạch, chỉ còn quân binh không. Bạch Tướng Quân cho người thám thính cánh quân bọc hướng Đông của Việt Luân Tướng Quân.

    Không bao lâu thời quân thám báo kinh hãi về báo:

    Bẩm Tướng Quân, quân ta đã chết sạch không còn một mạng tại Huyện Ninh Điền hết rồi.

    Bạch Tướng Quân kinh hoàng nghĩ: Quân Ân lợi hại đến thế sao? Biết không thể nào đánh lại quân Ân, nên đành rút quân trở về Ninh Giao Châu, củng cố lại lực lượng.
     
  5. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    PHẦN 13: ĐẠI CHIẾN QUÂN ÂN (1)
    Đây nói về chủ soái Nguyên Dực, thống lãnh hơn 10 vạn quân bọc theo hướng Tây đồi Vạn Lâm, chận đánh đường rút lui quân Ân, rồi thẳng xuống Đông Bắc, chiếm lại thành Kinh Châu. Đại quân bọc Tây cách đồi Vạn Lâm hơn 15 dặm thời nghe như có trận chiến, những người có nội công thâm hậu mới có cảm giác nghe được.

    Nguyên Dực lấy làm lạ tự hỏi: Không lẽ đồi Vạn Lâm đã xảy ra trận chiến. Nguyên Dực nghĩ không thể như thế được, nếu có trận chiến xảy ra phải đến chiều mai, quân Ân mới đến được đồi Vạn Lâm, không thể sớm như vậy được, lại nữa trời đã hừng sáng. Đại quân cũng sắp qua khỏi địa phận Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, đến Huyện Nam Tây Sơn Kinh Châu, trong lòng Nguyên Dực cứ mãi không yên, liền cho quân dừng nghĩ, cho hai toán quân đi thám thính, một là thám thính địa phận Huyện Tây Sơn Kinh Châu, hai là thám thính Đồi Vạn Lâm xem chuyện gì đã xảy ra.

    Chủ soái Nguyên Dực hỏi:

    Các tướng có nghe thấy gì không?

    Có người nói:

    Không nghe thấy gì cả.

    Có người nói:

    Hình như có trận chiến xảy ra.

    Hai toán quân thám báo đi chưa được bao lâu thời liền quây trở lại cấp báo:

    Bẩm chủ soái đồi Vạn Lâm đã xảy ra trận chiến, không biết thua thắng thế nào.

    Toán quân thứ hai báo:

    Bẩm chủ soái quân Ân cờ xí rợp trời đã vượt qua Huyện Tây Sơn tiến đánh chúng ta.

    Chủ Soái Nguyên Dực ra lệnh:

    Hãy bày binh bố trận.

    Hiệu lịnh cờ trận phất lên, tức tốc đại quân duy chuyển chiếng trống nổi lên đại quân nhanh chóng lập thành ngũ hành trận, trung ương trận liền dựng lên một cái đài cao bảy thước, chủ soái Nguyên Dực trực tiếp chỉ huy. Đài vừa dựng xong thời quân Ân cũng vừa kéo đến, cờ xí rợp trời, dẫn đầu là một Tướng nữ trung niên vô cùng xinh đẹp.

    Nguyên Dực hỏi:

    Biết nữ Tướng đó là ai không?

    Tức thời có người đáp:

    Nhìn lá cờ lớn có hai chữ Sát Sát, thời cũng biết nữ Tướng trung niên xinh đẹp kia là vợ lớn của Ân Mao Vương, Ân Mao Vương có hai người vợ vô cùng lợi hại, khắc tiếng nước Man Du, đó là Sát Sát Ân Nương Nương, và Nghịch Phong Ân Nương Nương.

    Người hiểu rõ về nữ Tướng giặc Ân đó là ai vậy, không ai khác hơn là Hầu Thái Công.

    Đây nói về Sát Sát nữ Tướng giặc Ân, rầm rầm rộ rộ kéo quân tới, thấy quân Văn Lang đông như kiến, đã bày binh bố trận xong xui, sát khí trùng trùng.

    Sát Sát hỏi:

    Đây có phải là ngũ hành trận nổi tiếng mấy nghìn năm của quân Văn Lang không? Đã từng đánh bại nhiều quân xâm lược có phải không?

    Có một vị Đạo Sĩ mặt xanh râu dài nói:

    Bẩm Nương Nương quả đúng đây là trận ngũ hành, không dễ gì phá được, quân binh chuyển biến khó lường.

    Sát Sát nói:

    Không phá cũng phải phá, ngươi thử ước lượng phá trận ngũ hành nầy cần bao nhiêu quân.

    Đạo Sĩ thưa:

    Bẩm Nương Nương phải trên 15 vạn quân, ba vạn quân đánh một cửa, 12 vạn quân đánh bốn cửa, còn ba vạn quân thời đánh vào nơi trọng yếu của ngũ hành trận.

    Sát Sát nghĩ mình có hơn 8 vạn quân thời khó mà đánh, liền cho người đến đồi Vạn Lâm, điều động quân binh Võ Vu bổ sung cho đủ quân số chịu trách nhiệm đánh Đông ngũ hành trận. Lại cho người tới Huyện Ninh Điền, điều động quân Hồ đánh vào cánh Nam ngũ hành trận.

    Sát Sát ra lệnh:

    Hồ Phiên nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân thống lĩnh ba vạn quân, chịu trách nhiệm đánh cánh Tây ngũ hành trận, thuộc hạ tuân lịnh. Tào Côn thống lãnh 3 vạn quân chịu trách nhiệm đánh Bắc ngũ hành trận.

    Nói về Võ Vu tuy thắng trận ở đồi Vạn Lâm nhưng cũng đi tiêu hơn một vạn quân, vẫn còn đang khiếp vía trước tinh thần chiến đấu anh dũng của quân Văn Lang, còn hai vạn quân rút ra khỏi đồi Vạn Lâm chờ lịnh. Tính tới tính lui chỉ còn một vạn rưởi quân là còn chiến đấu được, còn hơn năm nghìn quân bị thương tơi tả không dùng được, thời thở dài quân Văn Lang quả là quân Thần, quân Thánh, trong lúc đang thở dài, thời có chỉ lệnh đưa đến, mau tức tốc đến Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, bổ sung quân cho đủ ba vạn chịu trách nhiệm đánh cửa Đông ngũ hành trận quân Văn Lang.

    Nói về Hồ Man Quân tuy thắng trận nhưng cũng đi tiêu mất hai vạn quân, Hồ Man Quân khi thống lãnh quân binh tràn qua đất Văn Lang, đánh đâu thắng đó một cách dễ dàng, giết hơn mấy Vua Việt, chiếm lấy Châu, Huyện, một cách dễ dàng, sanh ra kiêu ngạo, không coi quân Văn Lang vào đâu. Không ngờ đụng phải quân chủ lực Văn Lang, một loại quân anh dũng kiên cường, chiến đấu không khác gì loài mãnh hổ. Tử chiến không bỏ chạy chiến đấu quyết liệt, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Tuy lọt vào vòng vây hiểm địa nhưng anh dũng đánh bật lại bất ngờ quân Hồ kinh khiếp, bỏ mạng hơn hai vạn quân. Quả là quân Thần, quân Thánh.

    Hồ Man Quân được lệnh điều động quân đến Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, chịu trách nhiệm đánh thẳng vào cánh Nam ngũ hành quân Văn Lang, Hồ Man Quân tức thời điều động quân binh lên đường ngay, không bao lâu thời tới Huyện Bắc Sơn, đứng xa xa nhìn thấy Nam trận ngũ hành sát khí trùng trùng, thời nghĩ thầm, phương Nam có trận pháp ngũ hành lợi hại vô cùng, biến hóa khó lường, muốn phá trận ngũ đâu phải dễ không kéo thời bỏ mạng như chơi.

    Bằng viết mật thư gởi cho Hồ Nghi Vương. Đại ý mật thư nói rằng: Quân Ân liên kết với quân Hồ ta, đã chiếm lấy thành Kinh Châu, đánh bại 5 vạn quân chủ lực Văn Lang ở đồi Vạn Lâm, quét sạch 5 vạn quân chủ lực Văn Lang ở tại Huyện Ninh Điền, giờ lại tiến đánh phá đại quân chủ lực Văn Lang tại Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, thời coi như chiếm lĩnh toàn bộ Bắc Văn Lang. Chúng ta nhân cơ hội phá trận nầy, chiếm luôn thành Ninh Châu, trước quân Ân.

    Nói về Hồ Nghi Vương lòng đầy tham vọng, hầu muốn nuốt nhanh chóng Tây Bắc Văn Lang, chỉ cần nuốt được Kiến Châu, thời coi như đã nuốt trọn Tây Văn Lang, nhưng chưa tìm ra cách chiếm lấy thành Kiến Châu, vì thành Kiến châu kiên cố, lại có cha con Châu Phủ Châu An, tài giỏi nhất là Châu Tiên. Có pháp thuật thần thông cao cường, lại thêm quân binh quyết lòng chống trả. Nên không dễ gì chiếm thành trong ngày một ngày hai được. Hồ Nghi Vương cũng không dại gì công phá thành, khi chưa nắm được phần thắng. Chỉ cần bao vây thành Kiến Châu, thời thành Kiến Châu sớm muộn gì cũng vào tay mình. Đang lúc cho người tom góp ngọc ngà châu báu đã vơ vét từ các Quận Huyện, Châu Phủ, mười mấy xe, lúa gạo, trâu bò, dê lợn, gà vịt, nhiều vô số kể, nhất là trẻ con thời không gì bằng, chúng nấu hầm mà tẩm bổ, quân Hồ, quân hung Nô, uống máu ăn thịt người là chuyện bình thường. Trong lúc hai con mắt hau háu nhìn vàng bạc châu báu ớn thời sang qua nhìn những cô gái tơ có vẻ khoang khoái lắm, gái tơ chính là sở thích của yêu Hồ, tính đưa tay chụp một cô nõn nà, thời có người vào báo:

    Bẩm Chúa Vương, có người đưa thư đến.

    Hồ Nghi Vương cho đòi người đưa thư vào, đó là một quân thám báo thân cận của Hồ Man Quân. Hồ Nghi Vương đọc xong ra chiều suy nghĩ, rồi kêu Hồ Mị Hoa đến nói:

    Con thống lãnh 2 vạn quân tới trợ giúp cho chú con Hồ Man Quân, tiêu diệt quân chủ lực Văn Lang đang đóng ở Huyện Bắc Sơn Ninh Châu. Hồ Man Quân là em của Hồ Nghi Vương, phá trận ngũ hành quân Văn Lang xong, nhanh chóng chiếm lấy thành Ninh Châu.

    Hồ Mị Hoa liền thống lãnh 5 vạn quân nhanh chóng đến Huyện Bắc Sơn, theo mật thư của Hồ Man Quân.


    PHẦN 14: ĐẠI CHIẾN QUÂN ÂN (2)
    Đây nói về chủ soái Nguyên Dực, ở trên đài quan sát thấy quân Ân đang chuyển động quân binh, từ bốn hướng kéo đến bốn cửa trùng trùng điệp điệp. Có lẽ chuẩn bị phá trận. Tức thời phân bổ các Tướng thống lĩnh quân binh trấn giữ ngũ hành trận, chuẩn bị cho trận chiến quyết tử cao độ nhất.

    Chủ Soái Nguyên Dực ra lệnh:

    In Đô Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó nữ Tướng là La Ha, Tiên Ngung. Thống lãnh hai vạn quân, chia làm chia làm năm đạo quân. Bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh. Trấn thủ tại trung ương hành kim, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.

    Lô Gô Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng là Phô Rô, Cam Bô, thống lãnh hai vạn quân, chia làm năm đạo quân, bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ tại trung ương hành mộc, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.

    Lê Anh Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng quân là Đoàn Minh, Hoàng Thi, thống lĩnh hai vạn quân, chia làm năm đạo quân, bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ Trung ương hành thủy, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.

    Dương Điền Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng quân là La Đôn, Kinh Hạ, thống lĩnh hai vạn quân, chia làm năm đạo quân, bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ Trung ương hành hỏa, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.

    Lý Hiển Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng quân là Trịnh Đức, Mai Phi, thống lĩnh hai vạn quân, chia là năm đạo quân, bộ binh, kỵ binh, xa binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ Trung ương hành thổ, chuyển hóa bổ sung, hỗ trợ, những đạo quân, kim – mộc – thủy – hỏa, khi yếu hơn thế lực của địch, theo hiệu lịnh của trung ương tổng đài, tuân lịnh.

    Từ thế trận ngũ hành, chuyển sang biến hóa thế trận ngũ hành, tức thời sát khí trùng trùng, mây đen ngùn ngụt, cuồng phong chuyển động, kỳ ảo lạ kỳ.

    Đây nói về Sát Sát thống lĩnh quân Ân ở trên đài quan sát thấy ngũ hành trận trong phút chốc biến hóa kỳ ảo như vậy, cũng phải kinh hãi. Liền hỏi Đạo Sĩ mặt xanh râu dài:

    Đạo Sĩ có biết phá trận ngũ hành nầy không?

    Đạo Sĩ mặt xanh râu dài chính là thanh sư, không những có pháp thuật mà còn biết nhiều hiểu rộng. Thanh Sư nói:

    Thưa Nương Nương, trận ngũ hành lợi hại là do năm ngọn cờ chính điều khiển chỉ huy, tùy theo trình độ của người chi huy mà lợi hại, nên khó mà đoán được.

    Sát Sát nói:

    Ta đã quan sát thấy mỗi chi ngũ hành ước lượng chỉ có hai vạn quân. Còn ta có tới ba vạn quân, số lượng hơn chúng quá lớn ta ra lịnh đồng tấn công một lượt, chỉ cần phá vỡ một chi ngũ hành, thời nhất định trận ngũ hành trận sẽ bị phá vỡ ngay.

    Sát Sát lấy làm đắc ý cho cách phá trận của mình, liền ra lịnh đồng loạt tấn công.

    Đây nói về Trung tâm hành kim, tín hiệu pháo lịnh đã bắn lên báo hiệu quân Ân bắt đầu tấn công. Tức thời Trung ương hành kim trên đài quan sát năm màu cờ bắc đầu chuyển động.

    Nói về Hồ Phiên, thống lãnh ba vạn quân, thấy quân binh Văn Lang thưa thớt, chẳng có gì là lợi hại cả, ta chỉ cần năm nghìn kỵ binh, năm nghìn xạ binh, năm nghìn bộ binh là đánh thủng vào Trung ương ngay. Liền sai Tướng Ung Beo chỉ huy năm nghìn bộ binh ào ào xông vào trận. Khí thế tràn vào như nước lũ, bộ binh xông đến đâu thời quân Văn Lang dạt ra đến đó, tiến sâu vào hơn dặm, hò hét dậy trời. Tướng giặc Hồ Phiên cười ngất, ta cứ nghĩ ngũ hành trận lợi hại lắm, chẳng qua cũng thế thôi. Bỗng nghe chiêng trống nổi lên dạy trời, quân reo dậy đất, mây đen cuồn cuộn, phủ tới, năm nghìn quân Ân không thấy đâu nữa, chỉ nghe đao kiếm đinh tai nhức óc.

    Hồ Phiên ra lịnh tức thời năm nghìn quân xạ tiễn do Hốt Ma điều khiển ào ào xông trận, quân binh lao vào như thác đổ, tìm quân địch tấn công, nhưng không thấy chi cả như lạc vào chốn hoang vu. Hốt Ma kinh hãi, đây là đâu sao kỳ lạ thế nầy, trong lúc hoang mang thời bỗng nghe chiêng trống dậy trời, thời thấy đội quân thiết giáp trong mây đen xuất hiện cắt đôi năm nghìn quân xạ tiễn. Hốt Ma kinh hãi chưa biết phải làm sao thời thấy xuất hiện hai Tướng cỡi ngựa thiết kỵ giáp lao nhanh tới chém Hốt Ma. Hốt Ma vì quá hoang mang sợ hãi hơn nữa một Tướng khó địch lại hai Tướng, trúng liền hai đao đứt làm hai đoạn, quân Ân như rắn không đầu, chỉ trong vòng chốc lát không còn một mạng.

    Hồ Phiên thấy tình thế không xong, liền ra lệnh kỵ binh xung trận. Phiêu Liêu, điều khiển năm nghìn kỵ binh nhanh chóng lao vào nhập cuộc, không ngờ bị xa quân những chiếc xe đầy chông sắt lao tới tấn công, làm cho đội kỵ binh hỗn loạn, xạ binh quân Văn Lang bắn tên ra như mưa, đội kỵ binh quân Ân chết thôi là chết, thi nhau chạy thục mạng, thoát ra khỏi trận ngũ hành, chết hơn phân nửa. Hồ Phiên tái mặt than trời khóc đất, không dám đưa quân vào trận nữa, coi như đi tiêu hơn một vạn quân. Hồ Phiên bây giờ mới biết lời đồn quả không sai, nước Văn Lang có ngũ hành trận vô cùng lợi hại.

    Nói về In Đô, Tiên Ngung, La Ha. Trấn thủ Tây ngũ hành, In Đô Tướng quân ở trên đài quan sát ở Trung ương hành kim, chỉ huy năm đội quân ngũ kỳ, năm màu, trắng, xanh, đen, đỏ, vàng. Tiên Ngung thống lĩnh hai đạo quân cờ trắng, cờ xanh. La Ha, thống lĩnh hai đạo quân cờ đen, cờ đỏ, ở trên đài quan sát. In Đô Tướng quân nhìn thấy quân Ân triển khai ba đạo quân, đạo bộ binh, đạo xạ binh, đạo kỵ binh, mỗi đạo ước lượng năm nghìn người. In Đô nhìn thấy đội quân bộ binh tấn công trước, liền phất cờ vàng, ra hiệu. Tiên Ngung, La Ha, thấy cờ hiệu trên quan sát đài, liền tức tốc thu quân ẩn mình trong mây trận.

    Đạo quân bộ binh do Ung Beo thống lĩnh điều khiển, ào ào như nước lũ tiến vào trận, không gặp trở ngại nào cả thấy toàn là mây đen cuồn cuộn, Đạo quân cứ tiến sâu vào vùng đất hoang vu. Ung Beo vô cùng kinh hãi, liền ra lệnh cho Đạo quân lui trở ra. Khi ấy trên quan sát đài, đội kỳ cờ trắng, cờ xanh, xuất hiện theo thế bao vây. Tức thời La Ha nhanh chóng phất cờ ra lịnh hai Đạo quân, nhanh chóng lao ra bao vây, quân Ân vô cùng kinh hãi ra sức chống trả, cùng lúc ấy trên đài quan sát In Đô tự tay phất cờ vàng, tức thời hai nghìn binh thiết giáp, từ Trung ương hành kim nhanh chóng ào ào lao ra chém giết quân Ân như chém chuối loáng cái là chết sạch. Cờ trắng, cờ xanh, trên đài quan sát biến mất, thay vào đó là cờ đỏ, giáp binh, hành hỏa bao vây, cờ vàng thiết giáp kỵ binh hành thổ tấn công.

    Nói về Hốt Ma nghe trận chiến rền trời rền đất nhưng không thấy vì mây đen cuồn cuộn che chắn tầm nhìn, liền điều động năm nghìn quân xạ tiễn xông vào hiệp lực tấn công. Đội quân xạ tiên tiến sâu vào không thấy Đạo quân bộ binh đâu cả, vô cùng kinh hãi chưa biết phải tiến vào đâu, thời nghe chiêng trống dậy trời. Đội quân áo giáp ào ào hiện ra bao vây, lao tới chém Đạo quân xạ tiễn quân Ân tới tấp. Hốt Ma kinh hãi ra lệnh lập trận xạ tiễn chống trả lại, nhưng không còn kịp nữa, Đạo quân thiết giáp từ sau đánh tới vó ngựa rền trời, lao vào chém quân Ân như chém chuối, chỉ trong chốc lát quân Ân chết sạch, Hốt Ma bỏ mạng sa trường.

    Nói về Phiêu Liêu, Tướng giặc được lịnh tức thời điều động năm nghìn kỵ binh, tức tốc lao vào trận, xáp chiến, kỵ binh quân Ân như cuồng phong ào ào bay vào trận. Khi ấy trên đài quan sát cờ đen xa quân Đạo quân xe đầy chông sắt, xích sắt, theo thế cắt đôi quân địch, cùng lúc, cờ trắng, cờ xanh, cờ đỏ, cờ đen, đồng loạt xuất hiện tấn công. Nói về Phiêu Liêu, thống lãnh kỵ binh xông vào trận, thời không thấy Đạo quân bộ binh, Đạo quân xạ binh đâu nữa, mà chỉ thấy quân Văn Lang trùng trùng điệp điệp ẩn hiện trong mây đen, di chuyển ẩn hiện một cách kỳ lạ, chưa biết tấn công vào đâu, thời nghe xe cộ duy chuyển đùng đùng, lao ra cắt đôi kỵ binh quân Ân, tức thời bốn phương tám hướng đồng loạt tấn công. Đạo quân kỵ binh Ân chống trả không nổi, bỏ mạng vô số kể. Phiêu Liêu kinh hãi cùng kỵ binh sống sót lao ra khỏi trận, kinh hồn bạt vía.

    Về sau có thơ rằng:

    Tưởng rằng phá trận dễ như không

    Nào hay bỏ mạng lấp vùi chôn

    Ngũ hành trận pháp ôi huyền bí

    Biến ảo vô cùng giặc khiếp kinh

    Hơn vạn giặc Ân trong nháy mắt

    Vùi chôn thân xác chẳng còn tên

    Kinh hồn bạt vía quân ăn cướp

    Bỏ mạng tàn đời lũ yêu tinh

    Nghe chiến trận gươm đao gào thét

    Cõi trời Nam đau xót muôn dân

    Hỡi giặc Ân nầy hỡi giặc Ân

    Cớ sao mi lại chiếm xâm cõi bờ

    Giờ đến lúc từ già đến trẻ

    Hãy đứng lên chống trả quân thù

    Đã chung dòng máu đồng bào

    Tay gươm tay giáo quyết nào tử sanh.


    PHẦN 15: TỬ CHIẾN
    Nói về Lô Gô, Phô Rô, Cam Bô. điều khiển hai vạn quân binh, trấn giữ hành mộc, nơi Trung ương hành mộc. Phô Rô, thống lĩnh hao Đạo quân, cờ trắng, cờ xanh, Cam Bô, thống lĩnh hai Đạo quân, cờ đen, cờ đỏ, trên đài quan sát, Lô Gô thấy từ xa từ nơi đại quân Ân ba Đạo quân cùng một lúc xuất phát, Đạo quân bộ binh, Đạo quân xạ binh, đạo quân kỵ binh, mỗi Đạo quân năm nghìn quân, đồng loạt tấn công Đông ngũ hành, với khí thế như cuồng phong vũ bão, quân Ân ào ào lao vào trận.

    Ỷ mình cậy thế quân đông

    Ào ào lao tới phá tan ngũ hành

    Ba đạo quân cuồn cuộn xông vào

    Gươm, đao, giáo, mác, sáng ngời khiếp kinh.

    Lô Gô nhìn thấy quân giặc tấn công một lúc ba Đạo quân như vậy, liền phất cờ cho bốn Đạo quân ẩn sâu vào trận, phất cờ phong trận lên hư không, tức thời từ nơi đài cao Trung ương ngũ hành mây đen, mây trắng cuồn cuộn bay ra phủ kín bốn Đạo quân Văn Lang.

    Đây nói Võ Vu, đã từng nghe tiếng ngũ hành trận vô cùng lợi hại, nếu không đưa quân đánh tốc chiến, tốc thắng, liên kết ba Đạo quân với nhau, thời khó mà phá được, liền ra lệnh cho ba Đạo quân cùng một lúc tiến vào, Lỗ Đại Đạo quân kỵ binh, Tấn Beo đạo quân xạ binh, Ngụy Hàn Đạo quân bộ binh. Ba Đạo quân ào ào xông vào trận, thời như lạc vào vùng đất mênh mông mây đen, mây trắng, cuồn cuộn, không thấy một bóng người, quân Ân vô cùng sợ hãi không biết quân địch ở phương nào mà tấn công, ba Đạo quân Ân bỗng thấy một Đạo quân xuất hiện, tấn công chúng, chúng liền hiệp lực lao tới tấn công, hai bên giao tranh giữ dội, quân Văn Lang chống trả không lại liền bỏ chạy, quân Ân liền đuổi theo, bỗng quân Văn Lang biến mất. Quân Ân vô cùng kinh hãi, chưa kịp biết phải làm sao, thời nghe chiêng trống dậy trời, tên bắn ra như mưa.

    Lỗ Đại, Tấn Beo, Ngụy Hàn, la lớn, rút lui, rút lui, chúng ta đã lọt vào ổ phục kích, quân Ân rối loạn, quân Văn Lang dốc toàn lực lượng phản công, chớp nhoáng, sấm sét, từ bốn phương tám hướng đánh tới tấp, quân Ân đạp lên nhau mà chạy. Lỗ Đại, Tấn Beo, Ngụy Hàn, ra sức thoát ra khỏi trận nhưng không biết cửa ra ở đâu, bằng phóng ngựa hầu tìm đường tẩu thoát, Lỗ Đại bỗng nghe một tiếng quát to như sấm, ta chờ ngươi ở đây đã lâu, nộp mạng đây, tức thời từ trong mây trắng một người xuất hiện, oai phong lẫm liệt, múa trường thương người ngựa lao tới đâm Lỗ Đại một nhác. Lỗ Đại múa giáo chống đỡ, hai bên đánh nhau mấy hiệp, Lỗ Đại quày ngựa bỏ chạy. Tướng Văn Lang quát, chạy đâu cho thoát, tức thời bắn một phát, Lỗ Đại trúng tên độc nhào xuống ngựa bỏ mạng, người bắn chết Lỗ Đại chính là Phô Rô.

    Nói về Tấn Beo không ngờ ngũ hành trận lợi hại như vậy, vào trận thời được nhưng ra thời không biết đường, đang phi ngựa tìm đường tẩu thoát, thời thấy đội quân thiết giáp chận đường, liền quày ngựa chạy ngược trở lại, nào ngờ hai bên tên bắn ra như mưa, Tấn Beo trúng tên khắp mình bỏ mạng.

    Nói về Ngụy Hàn, đằng sau kỵ binh rượt đuổi, trước mắt là xạ binh bao vây, Ngụy Hàn không còn đường nào khác là thúc ngựa lao vào xạ binh, không ngờ thoát ra khỏi trận, quân Ân ào ào xông tới chận đứng quân Văn Lang không cho truy sát Ngụy Hàn. Ngụy Hàn trúng tên khắp mình nhưng chưa chết hẳn, nói với Võ Vu rằng, quân ta chết hết rồi. Ngụy Hàn nói xong thời tắc thở, hồn chầu âm phủ. Võ Vu kinh hãi, không dám đưa quân vào phá trận nữa.

    Nói về Lô Gô ở trên đài quan sát, thấy quân Ân đã lọt hết vào trận, tức thời phất cờ trận dụ quân Ân sa vào bẫy lưới phục kích, quân Ân không hiểu sự biến ảo của ngũ hành, rượt đuổi quân Văn Lang, thế là quân Ân bị tấn công tới tấp, dẫn đến rối loạn. Lô Gô liền phất cờ hiệu vàng, tức thời đội quân thiết giáp từ Trung ương hành mộc kéo ra chận đứng cửa ra, quân Ân kinh khiếp rối loạn tháo chạy trở ra, liền bị Đạo quân thiết giáp Văn Lang đánh bật trở vào, không biết nơi nào là đường trở ra nữa, chạy toán loạn bị quân Văn Lang hốt sạch không còn một mạng.

    Về sau có thơ rằng:

    Ngũ hành trận pháp của Ông Cha

    Đã từng vùi dập giặc can qua

    Lẫy lừng trận pháp rền sông núi

    Khiếp vía hồn kinh lũ yêu ma.

    Đây nói về Hồ Man Quân, cùng Hồ Mị Hoa, thấy ngũ hành trận sát khí trùng trùng, nhất là nơi trung tâm ngũ hành trận mây đen, mây trắng, cuồn cuộn, như có một quyền lực vô tận, làm cho ngũ hành trận biến hóa khó lường.

    Hồ Mị Hoa bằng nói với Hồ Man Quân rằng:

    Khi con học Đạo với thầy con, thầy con có nói nước Văn Lang có ngũ hành trận vô cùng lợi hại. Nhưng lợi hại hơn nữa là còn tùy thuộc vào cơ trí của người điều khiển, không nên xem thường, phải hết sức bình tỉnh mới phá được, chỉ cần phá được một phương ngũ hành, thời bốn phương ngũ hành kia tức thời yếu đi, nhờ đó quân ta mới phá tan ngũ hành nhanh chóng.

    Hồ Cổn Quân nói:

    Để con tiên phong phá trận cho, bằng điểm một vạn binh mã, bộ binh, kỵ binh, xạ binh.

    Hồ Mị Hoa nói:

    Cháu thống lĩnh hai vạn quân theo sau yểm trợ.

    Hồ Man Quân lấy làm yên lòng vì hiểu rõ tài phép của Hồ Mị Hoa.

    Nói về Dương Điền, La Đôn, Kinh Hạ, thống lĩnh quân binh trấn giữ phương Nam hành hỏa. Trên đài quan sát, Dương Điền thấy quân Hồ đông như kiến, từ đại quân tách ra một đạo quân ước lượng một vạn quân, bộ binh, xạ binh, kỵ binh, nhanh chóng xông vào trận. Tức thời trên đài quan sát xuất cờ trắng, cờ xanh hiệu lịnh tấn công, chậm đứng thế mạnh ồ ạt tấn công quân địch. Thế là gươm đao giáo mác, quân reo ngựa hí dậy trời, hai bên xáp chiến long trời lở đất.

    Thế là trận chiến long trời

    Ngựa người lao tới ầm ầm kinh thiên

    Giáo gươm dậy núi dậy non

    Chiêng rền, trống dội bụi bay mịt mù

    Quân Ân ỷ mạnh tràn vào

    Sóng người cuồn cuộn khác nào thác tuôn

    Trên đài cờ phất rút lui

    Văn Lang quân tướng thi nhau ẩn mình

    Quân Hồ rượt đuổi ầm ầm

    Nào hay chẳng thấy quân thù nơi đâu

    Quân Hồ kinh hãi, hãi kinh

    Lạc vào ổ phục quân binh dậy trời.

    Đây nói về quân Văn Lang, chiến đấu quyết liệt với quân Ân giả đò thua bỏ chạy, quân Ân rượt đuổi theo ầm ầm, chỉ trong vòng chớp mắt quân Văn Lang biến mất, mây đen mây trắng cuồn cuộn bao phủ. Quân Hồ lạc mất phương hướng không biết quân địch ở chỗ nào, đang hoang mang kinh hãi. Thời nghe chiêng trống dậy trời quân reo dậy đất, tên từ bốn phương tám hướng bắn như mưa. Quân Hồ trúng tên chết la liệt, hỗn loạn đạp lên nhau mà chạy, chạy chỗ nào cũng bị quân Văn Lang nhưng đội quân ma quỷ, bám theo chém giết ầm ầm.

    Nói về Hồ Cổn, thấy quân Văn Lang chống trả không lại bỏ chạy, liền thúc quân lao theo chém giết hò hét dậy trời. Bỗng thấy mây đen, mây trắng, cuồn cuộn kéo tới tức thời quân Văn Lang biến mất. Hồ Cổn kinh hãi không biết địch ở nơi nào, lại lạc mất phương hướng không biết đâu là Đông Tây Nam Bắc, liền ra lịnh thối lui, nhưng không còn kịp nữa, bốn phương tám hướng chiêng trống dậy trời quân reo dậy đất tên bắn ra như mưa, chết thôi là chết.

    Hồ Cổn tìm đường tẩu thoát nhưng nơi nào cũng toàn là quân Văn Lang tên bắn xối xả. Hồ Cổn cùng tốp kỵ binh phá vòng vây thoát ra, chạy một hơi nhưng không thấy lối ra đâu cả kinh hoàng khiếp vía, bỗng nghe tiếng quát chạy đâu cho thoát tức thời kỵ binh thiết giáp xuất hiện bao vây. Kỵ binh quân Hồ liều mình chống trả, nhưng chống trả làm sao nổi bỏ mạng lớp lớp. Hồ Cổn liều mình phá vòng vây bỏ chạy thục mạng, không biết là mình chạy đến nơi nào. Bỗng nghe tiếng quát chạy đâu cho thoát, tức thời ba người xuất hiện chận đầu. Hồ Cổn càng thêm khiếp vía, người ở bên phải nói để thuộc hạ đưa tên nầy về chầu âm phủ. Tức thời múa đao thúc ngựa lao tới chém Hồ Cổn một đao như trời giáng. Hồ Cổn múa giáo chống đỡ, choang đinh tai nhức óc. Hồ Cổn mạnh vô cùng, không dễ gì một đao mà hạ gục được. Người bên trái thấy thế nói, tên Tướng giặc nầy quả là lợi hại để thuộc hạ lao ra hợp sức hạ gục cho rồi. Tức thời múa đao thúc ngựa lao ra chém tới tấp vào Hồ Cổn. Hồn Cổn võ nghệ cao cường khó mà hạ gục được. Vị Tướng Văn Lang thấy thế liền phi ngựa lao vào xáp chiến Hồ Cổn đánh không lại ba người đành bỏ mạng.

    Nói về Hồ Mị Hoa, chỉ huy hai vạn quân theo sau yểm trợ, vừa lao vào trận chiến thời không còn nhìn ra phương hướng nữa, mây đen, mây trắng, cuồn cuộn. Bỗng thấy quân binh hỗn loạn, Hồ Mị Hoa thét lớn tất cả đều không được hỗn loạn. Hồ Mị Hoa giật cả mình, khi thấy đạo quân thiết giáp không biết từ đâu kéo ra cắt đôi đạo quân của mình, làm cho đạo quân rối loạn. Hồ Mị Hoa thúc quân quay ngược trở lại chống trả. Không ngờ từ phía sau quân Hồ, quân Văn Lang như cuồng phong vũ bão từ phía sau đánh tới. Trước mặt quân địch, sau lưng quân địch, đánh như mưa trút, quân Hồ tá hỏa, thi nhau ngã gục.

    Nói về quân Hồ bị cắt đôi không còn tiếp ứng với nhau được nữa, bị đạo quân thiết giáp đánh bật lui ra khỏi trận địa, còn một nửa trong trận địa hỗn loạn, bị quân Văn Lang chém giết tơi bời. Hồ Mị Hoa không biết đâu là đường ra mây đen, mây trắng cuồn cuộn che chắn hết cả tầm nhìn, chiêng trống dậy trời, quân reo dậy đất chỗ nào cũng có quân Văn Lang. Hồ Mị Hoa giờ đây mới biết ngũ hành trận pháp vô cùng lợi hại, phải phá tan mây đen, mây trắng, mới thấy được phương hướng thoát ra, liền hóa phép. Không ngờ càng hóa phép thời mây đen, mây trắng, cuồn cuộn phủ tới càng nhiều. Hồ Mị Hoa khiếp quá hóa ra trận cuồng phong thúc con Thiên Lý Mã vượt qua đầu quân binh lao ra khỏi trận.

    Đây nói về Hồ Man Quân, trong lòng hồi hộp không biết có phá được trận ngũ hành không, lúc nào cũng nghe đao kiếm dậy trời, bỗng thấy một bóng ngựa từ trong trận bay ra, thời nhận ra ngay là Hồ Mị Hoa.

    Hồ Man Quân thúc ngựa lao tới hỏi:

    Quân ta thế nào?

    Hồ Mị Hoa chưa hết kinh hãi nói:

    E chết hết trong trận rồi.

    Hồ Man Quân nghe Hồ Mị Hoa nói thế, điến cả người không biết Hồ Côn chết sống ra làm sao.

    Đây nói về Dương Điền ở trên đài quan sát thấy quân Hồ xông vào trận đông như kiến, nào là bộ binh, nào là xạ binh, nào là kỵ binh, sức mạnh dời non lấp biển, khí thế hừng hực. Dương Điền tức thời ra hiệu lịnh phất cờ trắng, cờ xanh theo thế xáp chiến. La Bôn liền điều khiển đạo quân bộ binh, xạ binh, cùng đội quân kỵ binh lao ra chận đánh quân hồ, dậy trời dậy đất, xáp trận một hồi quân hồ mạnh quá. Quân Văn Lang được lệnh rút lui. Quân Hồ thừa thắng xông lên ào ào rượt đuổi quân Văn Lang như cuồn phong vũ bão. Quân Văn Lang được lệnh tẻ ra làm hai theo thế bao vây ẩn mình trong mây trận. Quân Hồ thấy quân Văn Lang biến mất trong mây trắng, mây đen, vô cùng kinh hãi.

    Trên quan sát đài, cờ hiệu lịnh trắng, đen, xanh, đỏ, bốn phương tám hướng tấn công. Tức thời La Đôn, Kinh Hạ, điều khiển bốn đạo quân, chia ra làm hai, thành tám đạo quân đồng loạt tấn công, từ bốn phương tám hướng, tên bắn ra như mưa, quân Hồ rối loạn chạy chỗ nào cũng bị quân Văn Lang như thiên la địa võng phủ đánh.

    Trên quan sát đài, Dương Điền thấy quân Ân lớp trước lớp sau xông vào trận càng lúc càng đông như kiến, liền phất cờ vàng hiệu lịnh, theo thế cắt đôi quân địch, chận đứng không cho quân giặc rút lui, chận đứng không cho quân giặc xông vào trận. Tức thời đạo quân chủ lực thiết giáp từ trung ương hành hỏa do tướng Đổ Trung Pha, nhanh chóng bọc hậu cắt đứt quân Hồ trong không cho ra, ngoài không tiến vào được, đội quân thiết giáp chủ lực, là đội quân phá sức mạnh của địch, quân Hồ lùi ra không được, tiến vào không xong bị quân Văn Lang xơi sạch.

    Sau có thơ rằng:

    Hơn nhau chỉ một nước cờ

    Chuyển xây thế trận diệt loài ngoại xâm

    Hơn nhau chủ động điều quân

    Làm cho quân giặc hết mong sống còn

    Ngũ hành khiếp vía quân thù

    Xác phơi như núi hãi hùng ngoại xâm.
     
  6. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    PHẦN 16: QUYẾT TỬ
    Đây nói về Lê Anh, Đoàn Minh, Hoàng Phi, được lịnh trấn giữ hành thủy. Lê Anh trên đài quan sát, thấy quân Ân trùng trùng lớp lớp rồi tách ra làm ba đạo quân, do Sát Sát chỉ huy, sai Tào Côn, làm tướng tiên phong phá trận. Tào Côn phất cờ đạo quân bộ binh ào ào xông vào trận, xáp chiến với quân Văn Lang, rồi có hiệu lịnh lui quân.

    Đạo quận xạ tiễn lao vào bắn quân Văn Lang xối xả, quân Văn Lang giã thưa bỏ chạy, quân Ân không đuổi theo mà lui quân ra sau, nhường cho quân kỵ binh lao vào nhanh như gió tấn công quân Văn Lang xối xả, rồi lui ra cứ như thế quân Ân tiến sâu vào trận địa, từng bước từng bước phá tan ngũ hành trận, quân Văn Lang không còn cách nào hơn là xông ra tử chiến, thế là trận đánh xáp lá cà, nhờ mây trận che chắn nên quân Văn Lang ít thiệt hại hơn, trận chiến cứ thế xảy ra cả hàng giờ, bất phân thắng bại.

    Nói về Sát Sát thấy quân Ân chưa làm gì được quân Văn Lang, liền điều động năm nghìn quân chủ lực, tiến vào trận. Tức thời gặp phải đạo quân áo giáp xạ tiễn chận đánh, đội quân chủ lực quân Ân đánh trả quyết liệt, hai bên tử nạn, thương vong vô số. Sát Sát vô cùng tức giận làm phép chỉ kiếm, tức thời giông tố nổi lên ầm ầm đánh vào quân Văn Lang, tức thời mây đen, mây trắng cuồn cuộn chống trả. Sát Sát vô cùng kinh hãi, niệm chú hóa phép yêu tinh quỷ dữ hiện ra, tức thời mây trắng, mây đen hóa ra sấm sét yêu tinh quỷ dữ khiếp vía tan biến hết.

    Nói về đạo quân tinh nhuệ quân Ân quả nhiên lợi hại đánh bật đạo quân áo giáp. Mây trắng mây đen, bị áp lực thần thông Sát Sát làm cho giảm sút uy lực, vì thế quân Văn Lang cũng giảm sút đi sự biến hóa, quân Ân vì thế mà tấn công dữ dội, lớp nầy ngã xuống lớp khác xông lên, quân Văn Lang ít quân hơn chỉ nhờ vào trận pháp ngũ hành biến hóa theo tiêu diệt kẻ thù.

    Sát Sát hết làm phép nầy tới làm phép kia, quyết phá tan mây đen mây trắng, đang trong lúc làm phép thời nổi lên tiếng quát như sấm: Yêu nữ kia nạp mạng đi. Tức thời một đạo quân thiết giáp đội quân tinh nhuệ nhất của đạo quân Văn Lang, từ trung ương ngũ hành, ào ào phi ra tấn công vào đội quân tinh nhuệ thiết kỵ binh quân Ân. Thiết kỵ binh quân Ân ra sức chống trả, nhưng không nổi sắp bị tiêu diệt đến nơi. Sát Sát kinh khiếp thúc quân phá vòng vây đánh bật đạo quân áo giáp lao ra khỏi trận, thấy Tào Côn mình đầy máu bị thương khá nặng, thoát ra khỏi trận trước mình. Sát Sát nhìn lên trời thở dài thế là đi tiêu gần hai vạn quân.

    Nói về quân Văn Lang tuy thắng trận nhưng cũng thiệt hại gần hai vạn quân, chỉ còn hơn tám vạn quân, định thừa thắng xông ra tiêu diệt quân Ân, nhưng thấy quân Ân còn đông quá, khó mà đánh cho lại, bằng cố thủ trong trận ngũ hành. Quân Ân cũng không dám tấn công nữa, chỉ bao vây bốn cửa một lúc một thêm chặt.


    PHẦN 17: ĐẠI PHÁ QUÂN VĂN LANG
    Đây nói về cùng lúc trận chiến cánh Tây quân Ân do Sát Sát chỉ huy, thời cánh Đông Ân Mao Vương, cùng vợ hai là Nghịch Phong sau khi thắng trận giết chết Cao Sơn một tướng kỳ tài của quân Văn Lang, thời lấy làm hả dạ, vì đã trả thù được cho con là Mao Lợi cùng Tây Đô, Tào Hổ, sau đó thời lên kế hoạch đánh phá trận ngũ hành tiêu diệt quân Văn Lang.

    Trong lúc đang bàn thời có quân vào báo:

    Có Hung Đa Di, Hung Quân Liệt đến.

    Ân Mao Vương cho mời vào. Hung Đa Di, Hung Quân Liệt sau khi diện kiến Ân Mao Vương thời kể lại tất cả bị quân Văn Lang đánh bất ngờ, thua đau thua đớn, thiệt hại hơn một nửa số quân.

    Ân Mao Vương, Nghịch Phong nghe qua lấy làm kinh hãi nói:

    Quân Văn Lang hùng mạnh đến thế sao?

    Hung Đa Di nói:

    Chúng thần cho người dọ thám thời mới biết quân Văn Lang chỉ có 10 vạn quân mà thôi.

    Ân Mao Vương nghe xong lấy làm kinh ngạc:

    Chỉ có 10 vạn quân mà đánh tiêu 30 vạn quân, mà toàn là những quân chiến mã thiện chiến, tung hoành trên thảo nguyên, từ phương Bắc đến phương Nam.

    Chuyện nầy nếu không phải là hai Tướng quân con của Hung Nô Vương nói thời khó mà tin được. Hung Đa Di, Hung Quân Liệt nói:

    Nếu không chủ quan xem thường quân Văn Lang, thời quân Văn Lang sẽ không bao giờ đánh bại một cách dễ dàng như thế được, dù cho đó là lực lượng tương đương với nhau.

    Ân Mao Vương nói:

    Thua keo nầy gầy lại keo khác, mau về nói với Hung Nô Vương mau đến đây bàn kế tiêu diệt quân Văn Lang.

    Hung Đa Di tức tốc lên đường, không bao lâu thời Hung Nô Vương đến, hai bên chào hỏi với nhau. Ân Mao Vương liền vào đề:

    Một trận chiến nầy nếu chúng ta thắng, thời không chỉ chúng ta nuốt Bắc Văn Lang, mà Trung Văn Lang, cho đến cả Nam Văn Lang, tha hồ mà hưởng sung sướng, tha hồ mà làm bá chủ, phương Bắc cũng phải khiếp sợ chúng ta.

    Hung Nô Vương hỏi:

    Kế sách đó bằng cách nào?

    Ân Mao Vương nói:

    Tấn công phá ngũ hành trận, tiêu diệt đại quân chủ lực Văn Lang, một trận pháp vô cùng lợi hại của nước Văn Lang, nếu phá được thời quân Văn Lang không còn dựa vào đâu để đối địch lại chúng ta. Nếu Hung Nô Chúa Vương chịu đánh phá một cánh Đông ngũ hành, thời Ân Mao Vương ta sẽ hiến kế.

    Hung Nô Vương nói:

    Cứ đưa ra kế sách, Chúa Vương tôi quyết thực hiện theo.

    Ân Mao Vương nói:

    Chúa Vương chỉ cần năm vạn quân chịu trách nhiệm tấn công vào cánh Đông hành mộc ngũ hành trận, còn bao nhiêu quân thời phục kích, không được phục kích nơi đồi Mục Linh, vì phục kích nơi đồi Mục Linh, quân Văn Lang phát hiện bao vây đánh hỏa công ngay, vì lúc nầy trời có nắng, lại có gió to. Quân Văn Lang sẽ đi bọc qua đồi Mục Linh trong đêm đến Kinh Đô đánh cướp trại chúng ta. Khi nghe chúng ta dồn hết lực lượng công phá trận ngũ hành, thời chúng bí mật bất ngờ đốt phá doanh trại, phá hủy lương thực chúng ta, làm cho chúng ta hoang mang tinh thần đi đến hồn loạn, tức thời chúng đánh từ sau đánh tới, ở trong đánh ra, chỉ cần tiêu diệt được một cánh quân chúng ta, thời chúng tức tốc kéo quân bao vây từ sau cánh Đông đánh tới, trong đánh ra, sau đánh tới tiêu diệt mất hai cánh quân chỉ còn nước là bỏ chạy mà thôi, chúng thừa thắng hiệp lực với các cánh quân Châu Phủ, truy sát bại binh chúng ta, thời giấc mộng xâm chiếm Văn Lang coi như chấm hết, không khéo nhân cơ hội đó quân binh nhà Chu kéo đến chiếm mất ba nước chúng ta, thế là chúng ta tàn đời.

    Hung Nô Vương nghe xong vô cùng kinh hãi. Ân Mao Vương lại nói tiếp:

    Để thắng được trận nầy, phải hết sức bí mật, cho năm vạn quân phục kích, theo đường bọc của quân Văn Lang, bọc qua đồi Vạn Linh, đến Kinh Đô, phục kích cách xa đồi Vạn Linh hơn bảy dặm, chờ cho quân Văn Lang qua khỏi đồi Vạn Linh, chúng không còn cảnh giác cao độ. Khi quân Văn Lang sa vào ổ phục kích chúng ta, thời đồng loạt ra lịnh tấn công, quân Văn Lang không phải là quân hỗn tạp tầm thường chúng cố chống trả lui trở lại nhưng không trở lại thành Xích Linh, vì quân Văn Lang sợ chúng ta phục kích chận đường rút lui của chúng mà tiêu diệt, mà chạy về Huyện An Giao chúng ta chờ đợi chúng đến mà tiêu diệt.

    Hung Nô Vương nghe xong cho là diệu kế, tức tốc bí mật triển khai lực lượng, quân Văn Lang tuy có đội thám thính giỏi, nhưng cũng không phát hiện được gì, vì quân Hung Nô đánh lừa, thua chạy đóng trại bên kia sông, thật ra đó chỉ là doanh trại giả, mục đích đánh lừa quân thám thính Văn Lang mà thôi, cứ nghĩ quân Hung Nô thua trận cố thủ bên kia sông chưa hành động gì cả, ngày nào cũng quân reo ngựa hí, như đang tập trận.

    Đây nói về Ân Mao Vương lập đàn cầu sư phụ. Nói về Hồ Nhất Tinh, Hồ Nhị Yêu, Hồ Tam Quỉ đang ngồi tu thiền luyện khí, bỗng nghe hương trầm thoảng qua lấy làm lạ liền bấm tay độn quẻ, thời biết Ân Mao Vương đang cầu liền tức tốc đằng vân bay đến. Nghịch Phong xem thường trận ngũ hành nên không cầu sự phụ giáng lâm.

    Lại nói về Nguyên Minh cùng các Tướng Lĩnh vô cùng thương tiết Cao Sơn vị Tướng tài ba của quân Văn Lang, và cũng vô cùng kinh hãi thần thông pháp thuật của tướng nữ giặc Ân, quân Ân đã nhiều lần đến khiêu chiến, nhưng quân Văn Lang chỉ cố thủ trong doanh trại ngũ hành, ngày đêm tập luyện củng cố trận pháp, từ nơi trận pháp ngũ hành xuất hiện mây đen, mây trắng, càng nhiều, lại có những tia hào quang phát lên từ trung tâm ngũ hành, cũng như bốn trung tâm, Kim – Mộc – Thủy – Hỏa.

    Nguyên Minh, Nguyên Dực là hai anh em sanh đôi, cháu nhiều đời của quan Lạc Tướng Nguyên Đô, ở Bộ Ninh Hải, Châu Đông Hải, Huyện Đông Châu, khi còn nhỏ hai anh em đang chơi, bỗng một trận gió cuốn đi đâu mất, sau 10 năm trở lại, từ đó nổi tiếng là có tài hay phép lạ, võ nghệ cao cường. Nguyên Dực và Nguyên Minh được một Đạo Tiên râu tóc bạc phơ đưa ra biển đảo dạy cho võ nghệ cùng trận ngũ hành.

    Khi Nguyên Dực, Nguyên Minh học thành tài, thời vị Đạo Tiên ấy nói:

    Ta là Cao Tổ thời dựng nước, vì có nhân duyên với hai con nên ta xuống trần, truyền dạy võ nghệ cùng trận ngũ hành sau nầy đánh giặc Ân cứu nước.

    Nói xong Cao Tổ đưa cho Nguyên Dực, Nguyên Minh, mỗi người một lá cờ Thần, gọi là cờ trận, truyền dạy những pháp chú, xong đâu vào đấy, vị Đạo Tiên nói:

    Hai con hãy nhắm mắt lại để ta đưa hai con trở lại quê nhà.

    Nguyên Dực, Nguyên Minh, nghe theo lời dạy nhắm mắt lại chỉ nghe gió thổi ù ù bên tai, chừng không còn nghe gió thổi nữa, liền mở mắt ra thời ở trước sân nhà rồi. Cả nhà thấy Nguyên Minh, Nguyên Dực trở về, vui mừng khôn xiết, nhất là mẹ của Nguyên Dực, Nguyên Minh, nhìn thấy con khôn lớn, bà không cầm được giọt nước mắt, vì thương nhớ con bà già đi trước tuổi, sự đoàn tụ ấy không bao lâu thời mẹ mất, từ đó Nguyên Dực, Nguyên Minh văn ôn võ luyện chờ ngày lên đường giúp nước.

    Nguyên Minh ngồi trầm tư nhìn lá cờ thần mà nhớ lại chuyện xưa, tất cả đều hiện ra trước mắt như mới hôm qua, Nguyên Minh nghĩ: Non sông Tổ Quốc, và biển đảo, nó Thiêng Liêng làm sao.

    Nguyên Minh đang trầm tư hồi tưởng chuyện xưa, thời có quân vào báo:

    Bẩm Chủ Soái, quân Ân đã triển khai lực lượng đánh chúng ta.

    Nguyên Minh tức thời triệu tập các quan Tướng, lên đài quan sát xem tình hình quân giặc, thấy liên hoàn doanh trại giặc Ân đang huy động toàn lực lượng chuẩn bị công phá doanh trại ngũ hành quân Văn Lang.

    Đa Kế nói:

    Bẩm Chủ Soái, hãy viết ngay mật thư gởi cho Cao Hải Đô Thống Tướng Quân, đang ở thành Xích Linh, sau khi triệt phá quân Hung Nô, với kế sách đánh bọc hậu đốt phá doanh trại, cũng như lương thực của giặc Ân. Khi quân Ân đã dốc toàn lực lượng tấn công chúng ta.

    Và đúng như vậy chỉ mấy ngày sau thời quân Ân triển khai lực lượng bao vây doanh trại quân Văn Lang từ bốn hướng.

    Nói về Ân Mao Vương lập đài cầu ba sư phụ, không bao lâu thời Hồ Nhất Tinh, Hồ Nhị Yêu, Hồ Tam Quỉ, đến. Ân Mao Vương, Nghịch Phong tiếp đón lạy tạ, xong đâu vào đấy.

    Ân Mao Vương mời ba sư phụ ngồi ghế cao, rồi thưa rằng:

    Con cầu ba sư phụ đến đây giúp con phá trận ngũ hành, chỉ cần phá tan trận ngũ hành nầy thời con nhất định chiếm lấy được nước Văn Lang.

    Hồ Nhất Tinh nói:

    Trận ngũ hành phương Nam không giống như trận ngũ hành phương Bắc. Trận ngũ hành phương Nam vô cùng lợi hại, nhất là lá cờ trận ngũ hành. Ta có đi ngang qua cánh Tây, thấy Sát Sát thất bại khi phá trận ngũ hành, và đang huy động toàn lực lượng, hợp lực cùng quân Hồ, quyết phá trận cho bằng được. Sát Sát đang lập đàn cầu sư phụ đến giúp đỡ.

    Hồ Nhị Yêu nói:

    Trận ngũ hành ở phương Nam, không những lợi hại ở lá cờ trận, mà còn lợi hại biến hóa binh pháp ở người điều khiển trận địa.

    Hồ Tam Quỉ nói:

    Như vậy muốn phá trận ngũ hành, thời phải theo hai phương án: Phương án thứ nhất là phá tan pháp trận Uy Linh của cờ trận. Phương án thứ hai là phá tan binh trận, có như vậy mới thành công được.

    Hồ Nhất Tinh nói:

    Ta chịu trách nhiệm đánh phá Trung Ương. Hành thổ đài chính nơi có lá cờ trận, cắm trên cao tần năm của đài quan sát, nơi cờ trận phát ra uy lực vô cùng tạo ra mây đen, mây trắng.

    Hồ Nhị Yêu nói:

    Ta chịu trách nhiệm đánh vào cờ trận trung tâm hành kim, phá tan sức mạnh của kim lệnh, tạo ra ảo giác, của hành trận.

    Hồ Tam Quỉ nói:

    Ta chịu trách nhiệm đánh vào cờ trận trung tâm hành mộc, phá tan sức mạnh ảo giác của trận khí.

    Hồ Nhất Tinh nói:

    Ân Mao Vương, chịu trách nhiệm đánh vào cờ trận trung tâm hành hỏa, phá tan sức mạnh ảo giác của trận khí.

    Hồ Nhất Tinh nói xong liền thổi lên khúc tiêu kỳ lạ, tức thời có một con chồn to lớn có cánh bay đến. Hồ Nhất Tinh nói:

    Con cỡi con Hồ Tiên nầy bay vào trung tâm hành hỏa phá trận.

    Hồ Nhất Tinh nói:

    Nghịch Phong, chịu trách nhiệm, cỡi con Thần Mã bay lên không đánh vào cờ trận, trung tâm hành thủy, phá tan sức mạnh ảo giác của trận khí. Cờ trận đã có người phá, còn binh trận phải chọn Tướng tài giỏi điều binh khiển tướng công phá.

    Ân Mao Vương, phân bổ lực lượng tấn công phá trận ngũ hành như sau:

    Hồ Ma nghe lịnh, có thuộc hạ. Lão Tướng quân thống lĩnh năm vạn quân, đánh vào cửa Tây kim trận, tuân lịnh.

    Chiên La nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng nữ thống lĩnh năm vạn quân, đánh vào cửa Bắc thủy trận.

    Hổ Tinh nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh năm vạn quân, đánh vào cửa Nam hỏa trận, tuân lịnh.

    Beo Tinh nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh năm vạn quân, bảo vệ liên hoàn doanh trại, nhất là bảo vệ lương thực, đề phòng bất ngờ xảy ra, tuân lịnh, không bổ lực lượng đâu vào đấy.

    Ân Mao Vương nói:

    Chờ quân Hung Nô đến là triển khai quân tấn công.

    Không bao lâu thời có người vào báo:

    Quân Hung Nô đã đến.

    Thế là quân Ân, triển khai lực lượng phá trận, bốn đạo quân như bốn con mãng xà, từ trong doanh trại bò ra lượn mình lao tới doanh trại quân Văn Lang, ai nhìn thấy cũng phải kinh hồn bạt vía.

    Đây nói về Nguyên Minh cùng các Tướng trên đài quan sát nhìn thấy quân Ân như bốn con mãng xà từ liên hoàn doanh trại lao ra, cuồn cuộn bò tới bao vây doanh trại ngũ hành, quân binh đông như kiến. Nguyên Minh nhìn lên trời khấn rằng: Đây là trận sanh tử sống còn của nước Văn Lang.

    Trả nợ nước non lúc nầy đây

    Dù có hy sinh cũng vui vầy

    Hiếu trung một dạ lòng quyết tử

    Xả thân vì nước sướng vui thay

    Dòng máu anh hùng nòi Hồng Lạc

    Trải gan phơi mật chí tung bay

    Đền ơn xã tắc, dù ngã gục

    Tử chiến quân thù, chí hăng say.

    Nguyên Minh nói cùng các Tướng Lĩnh:

    Quân xâm lược tự nó dẫn xác đến, chúng nó sẽ bỏ mạng tại nơi đây, đền tội với đồng bào dân tộc ta. Chúng kéo đến nhiều chừng nào tốt chừng nấy, đây là cơ hội cho chúng ta quét sạch chúng. Các Tướng quân nghe lệnh, tất cả hãy vào vị trí chiến đấu, một còn một mất với quân thù.

    Nói về cánh Tây trận ngũ hành. Cự Lân, tổng chỉ huy, ở trên quan sát đài, điều hành cờ trận, cùng ba phó Tướng chỉ huy ở dưới đất là Xuân Thành, Kim Trọng, điều khiển bốn đạo quân, Kim – Mộc – Thủy – Hỏa. Khơ Linh điều khiển đạo quân hành thổ Trung Ương. Cánh Đông ngũ hành. Huyền Trung, tổng chỉ huy, ở trên đài quan sát điều hành cờ trận, cùng ba phó Tướng chỉ huy ở dưới đất là Hoàng Châu, Trịnh Chu, điều khiển bốn đạo quân, Kim – Mộc – Thủy – Hỏa. Ngô Dụng, điều khiển đạo quân Trung Ương hành thổ. Cánh Nam ngũ hành. Trần Bá, tổng chỉ huy ở trên đài quan sát điều hành cờ trận, cùng ba phó Tướng là Tôn Nghị, Dương Phàm, điều khiển bốn đạo quân, Kim – Mộc – Thủy – Hỏa. Khơ Lan, điều khiển đạo quân Trung Ương hành thổ. Cánh Bắc ngũ hành. Phan Lợi, tổng chỉ huy ở trên đài quan sát, điều hành cờ trận, cùng ba phó Tướng ở dưới đất là Đổ Can, Ngô Đại, điều khiển bốn đạo quân, Kim – Mộc – Thủy – Hỏa. Quốc Trung, điều khiển đạo quân Trung Ương hành thổ.

    Cùng lúc ấy. Nguyên Minh phất cờ trận Trung Ương niệm chú, tức thời mây đen, mây trắng, cuồn cuộn hiện ra che phủ ngũ hành trận, Nguyên Minh lại phất cờ trận niệm chú tức thời Kim Thần, Mộc Thần, Thủy Thần, Hỏa Thần, Thổ Thần, xuất hiện trấn giữ các cờ trận Trung Ương ngũ hành. Tức thời ngũ hành trận uy lực vô biên, sát khí ngùn ngụt.

    Nói về Hồ Ma thống lĩnh năm vạn quân Ân, rầm rầm rộ rộ như con mãn xà lượn mình về hướng Tây lao nhanh tới cánh Tây trận ngũ hành bao vây trùng trùng điệp điệp. Hồ Ma chia ra làm ba đạo quân, bộ binh, xạ binh, kỵ binh, đồng loạt tấn công, quân reo dậy đất ngựa hí vang trời. Tràng vào ngũ hành kim trận, bỗng thấy trên đài quan sát cờ trận phất theo thế quân binh ẩn sâu trong trận pháp, khí trận tỏa ra sương mù. Quân Ân tiến vào như tiến vào chỗ không người, bộ binh do tướng Mục Yêu, chỉ huy bộ binh quân Ân tiến vào như chỗ không người, thấy nơi đâu cũng toàn là sương mù, thời vô cùng kinh hãi. Cùng lúc ấy đạo quân xạ binh quân Ân cũng rơi vào tình cảnh như thế, tướng Phi La kinh hải. Đạo quân kỵ binh do tướng Hồ Phỉ chỉ huy cũng không khá gì hơn, không thấy chi cả, chỉ toàn là sương mù, trong lúc còn đang hoang mang. Thời mây đen, mây trắng, cuồn cuộn kéo tới, che chắn hết tầm nhìn quân binh khó mà nhìn thấy được nhau. Quân Ân đang hoang mang thời nghe chiêng trống dậy trời quân reo dậy đất tên bắn ra như mưa, lao giáo phóng ra như mưa trút, quân Ân rối loạn binh mã, rối loạn đội hình tấn công lẫn nhau chết thôi là chết. Mây đen, mây trắng, sương mù phủ kín, quân Ân không biết đâu là đâu đạp càn lên nhau vì không nhận rõ đâu là kẻ thù, đâu là ta. Mục Yêu kinh hãi lao tới gào thét bình tỉnh không được giết lầm quân ta. Mục Yêu nghe tiếng quát như sấm, từ trong đám mây lao ra một dũng Tướng múa trường thương đâm Mục Yêu nhanh như tia chớp, Mục Yêu múa giáo chống trả, hai hổ đánh nhau dậy trời, người vừa lao ra đánh Mục Yêu không ai khác hơn chính là Xuân Thành.

    Xuân Thành võ nghệ cao cường, trường thương như mưa sa bão táp, Mục Yêu chống trả muốn hụt hơi. Trong khi ấy quân Văn Lang như ma quỷ ẩn hiện khắp nơi tấn công tới tấp, quân Ân càng lúc càng rối loạn, quân Văn Lang xông lên chém quân Ân như chém chuối.

    Sau có thơ rằng:

    Kinh thay chiến trận ầm ầm

    Tên bay dậy đất, giáo rền dậy non

    Gươm, đao, chơm chớp loáng loang

    Ầm ầm trận địa kinh thiên rợn người

    Ào ào người ngựa ào ào

    Đùng đùng dồn dập ôi nào khiếp kinh

    Đầu người rụng xuống như sung

    Thây người chồng chất núi non kể gì

    Một bên con cháu Tiên Rồng

    Một bên xâm lược bạo tàn ác ôn

    Ôi thôi đao kiếm rền vang

    Chờ xem trận chiến thắng thua phen nầy.

    Cùng lúc ấy Phi La đang ra sức dồn quân chống trả lại quân Văn Lang, từ mây trận bắn xối xả ra, bất thình lình đội quân áo giáp Văn Lang từ phía sau đạo quân xạ tiễn quân Ân, đánh bọc tới, đạo quân xạ tiễn quân Ân vô cùng rối loạn, tuôn vào mây trận, bị quân Văn Lang xơi sạch, tình thế vô cùng nguy cấp, nếu quân Ân không có giải pháp chống trả hữu hiệu.

    Cùng lúc ấy, đạo quân kỵ binh Ân, đang ra sức chống trả lại, đạo quân ma quỷ lúc ẩn lúc hiện quân Văn Lang. Tướng Hồ Phỉ giặc Ân ra sức thúc kỵ binh chống trả, Hồ Phỉ đang hò hét muốn hụt hơi. Bỗng thấy một đạo quân thiết giáp kỵ binh từ mây trận lao ra chém kỵ binh quân Ân như chém chuối. Hồ Phỉ kinh hãi lao vào xáp chiến, thời nghe một tiếng quát trong trẻo Khơ Linh thúc ngựa xông vào song kiếm chém tới như mưa. Hồ Phỉ múa giáo chống trả, Khơ Linh võ nghệ cao cường, thế võ kỳ bí, song kiếm biến hóa, Hồ Phỉ chống đỡ muốn hụt hơi, quày ngựa bỏ chạy.

    Về sau có thơ rằng:

    Phương Nam nữ Tướng anh hùng

    Đường gươm chơm chớp lẫy lừng biết bao

    Đánh cho Tướng giặc lao đao

    Kinh hồn bạt vía tả tơi kinh hồn.

    Cùng lúc ấy cánh Đông trận ngũ hành, Hung Nô Vương dồn quân xông vào trận như nước lở. Trên đài quan sát. Huyền Trung, thấy quân Hung Nô tràng vô hành trận như nước lở, liền phất cờ hiệu, dụ địch. Tức thời Hoàng Châu, điều khiển đạo quân kỵ binh ào ào xông ra chận đánh. Quân Hung Nô mạnh như vũ bão, không thế lực nào ngăn trở nổi, quân Văn Lang đánh không lại thi nhau bỏ chạy, quân Hung Nô rượt theo truy sát, một hồi lâu. Quân Văn Lang lao vào sương mù rồi biến đi đâu mất.

    Đạo quân thứ hai do Trịnh Chu chỉ huy từ trong sương mù xuất hiện, tấn công quân Hung Nô. Quân Hung Nô ỷ đông lại hừng hực khí thế áp đảo quân Văn Lang, xông tới đánh quân Văn Lang như sấm sét, quân Văn Lang chống trả không nổi thi nhau bỏ chạy. Quân Hung nô thừa thắng xông lên rượt đuổi truy sát quân Văn Lang, bỗng trên không nổ lốp bốp sương mù phủ tới không còn thấy chi cả. Hung Nô Vương, trực tiếp chỉ huy ba đạo quân tiến vào một lúc, với sức mạnh dời non lấp bể, quân Văn Lang không ngăn cản nổi. Hung Nô Vương là tay vô cùng hung bạo lại ỷ có pháp thuật, cùng kỵ bịnh tiến vào phá trận, rượt đuổi truy sát quân Văn Lang. Hung Nô Vương cùng ba đạo quân, kỵ binh, bộ binh, xạ binh, tiến nhanh sâu vào trận thời không thấy quân Văn Lang đâu cả, chỉ toàn là sương mù. Hung Nô Vương lấy làm kinh hãi định lui quân trở ra. Thời mây trận cuồn cuộn phủ tới, che chắn hết tầm nhìn người trước mặt nhìn không rõ, Hung Nô Vương càng thêm kinh hãi, niệm chú hóa phép đánh vào mây trận, thời mây trận càng mạnh thêm, khí lực dồn tới một cách kỳ lạ. Hung Nô Vương ra lệnh: Rút lui, rút lui. Nhưng đâu còn kịp nữa, quân Văn Lang từ bốn phương tám hướng ẩn theo mây trận đánh tới, chiêng trống dậy trời, quân reo dậy đất, tên, lao, bắn, phóng ra như mưa bão. Quân Hung Nô tài phóng lao, bắn tên, cỡi ngựa, thời không ai bằng, nhưng không nhìn thấy địch thủ đâu cả, chỉ bắn phóng bừa vào mây trận, hiệu quả không cao. Quân Văn Lang nhờ vào mây trận chiếm ưu thế, quân Hung Nô bị động không làm chủ được trận địa. Càng đánh quân Hung Nô càng thiệt hại lớn, Hung Nô Vương lúc nầy không còn phân biệt đâu là Đông Tây Nam Bắc, Hung Nô Vương hò hét tìm đường trở ra nhưng không tìm thấy đường ra đâu nữa. Trước mặt là đạo quân thiết giáp quân Văn Lang chiến đấu dữ dội. Hung Nô Vương chỉ còn con đường, tìm con đường sống trong con đường chết mà thôi.

    Nói về Ngô Dụng thấy trên đài quan sát, phất cờ trận Trung Ương theo thế chận đứng đường rút lui quân địch, tức thời điều khiển một vạn quân, trong đó có đạo quân thiết giáp, chận đứng đường ra, không cho quân Hung Nô rút lui.

    Về sau có thơ rằng:

    Hung Nô kinh hãi rụng rời

    Lạc vào mây trận cuộc đời còn chi

    Ngựa người dẫm đạp lên nhau

    Đầu rơi máu đổ ôi thôi kinh hoàng

    Chiêng rền trống dội vang trời

    Gươm đao, giáo mác ầm ầm bủa vây

    Hung Nô chờ chết tan thây

    Còn xem tạo hóa mắn may thế nào.
     
  7. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    PHẦN 18: TỬ CHIẾN
    Cùng lúc ấy nơi cánh Nam hành hỏa ngũ hành, Trần Bá ở trên đài quan sát, thấy quân Ân trùng trùng lớp lớp, chia ra làm ba đạo quân, do Tướng Hổ Tinh tổng chỉ huy. Hổ Tinh phất cờ bộ binh, chỉ kiếm, tức thời đạo quân bộ bịnh do Sa Lị cầm đầu ào ào xông vào trận.

    Nói về Tôn Nghị Tướng Văn Lang nhìn thấy trên đài quan sát thấy cờ phất chận đứng đánh quân địch tại cửa trận, tức thời điều động bộ binh xáp chiến, gươm đao giáo mác đinh tai nhức óc.

    Về sau có thơ rằng:

    Chiến trận vang rền giáo, đao, gươm

    Quân Ân cuồn cuộn tiến xông lên

    Văn Lang binh lính đầy dũng khí

    Thét gào lao tới quyết tử sinh

    Con đường trung hiếu luôn phía trước

    Tiêu diệt quân thù lũ ngoại xâm

    Một mất một còn vì non nước

    Hào khí Anh Linh chí Cha Ông.

    Hổ Tinh thấy sức chiến đấu quân Văn Lang như vũ bão, tức thời phất cờ đạo quân xạ tiễn xông lên, bắn vào đạo quân Văn Lang như mưa, quân Văn Lang chống cự không lại bỏ chạy, quân Ân thắng thế ào ào rượt đuổi, bỗng nghe chiêng trống nổi lên ầm ầm, đội quân áo giáp Văn Lang xuất hiện, chận đánh đạo quân xạ binh quân Ân, sức mạnh như dời sông lấp biển. Đạo quân xạ binh quân Ân tiến lên không nổi.

    Hổ Tinh thấy thế hét lên một tiếng, điều động kỵ binh xung trận, khí thế như cuồng phong vũ bão, đội quân áo giáp đánh không lại. Dương Phàm ra lệnh rút lui. Ba đạo quân Ân thừa thắng xông lên, rượt đuổi quân Văn Lang, bất thình lình sương mù xuất hiện. Quân Ân không còn thấy quân Văn Lang đâu nữa, hoang mang kinh hãi. Quân Văn Lang tức thời phản công như sấm sét.

    Về sau có thơ rằng:

    Văn Lang nào phải nuốt dễ xơi

    Gặp phải Tiên Rồng chết như chơi

    Giặc Ân một lũ điên cuồng ngớ

    Bỏ mạng sa trường xác thây phơi.

    Nói về Tướng chỉ huy xạ binh quân Ân là Hạ Phu kinh khiếp trước trận pháp ngũ hành, thấy mây trắng, mây đen che phủ bảo bọc quân Văn Lang, vì thế quân Văn Lang không khác gì đạo quân ma quỷ, không thấy đầu, không thấy đuôi, quân Văn Lang thời thấy rõ quân Ân, quân Ân vô cùng bất lợi, càng đánh càng thất bại. Hạ Phu thúc quân xông vào mây trận. Hạ Phu xông lên hò hét, không ngờ quân Văn Lang vô cùng lợi hại, hạ gục quân Ân như hạ gục đàn chó dại. Hạ Phu phi ngựa bỏ chạy. Bỗng một tiếng quát nổi lên như sấm: Chạy đâu cho thoát. Tức thời tướng Văn Lang xuất hiện, thanh đại đao trên tay chém tới nhanh như tia chớp. Hạ Phu múa giáo chống trả, choang đinh tai nhức óc, Hạ Phu kinh hoảng: Đao pháp gì mà mạnh thế? Định phóng ngựa tẩu thoát, nhưng không còn kịp nữa một tia chớp nổi lên thế Hạ Phu trúng một đao chết tốt, người giết chết hạ phu chính là Tôn Nghị.

    Nói về Sa Lị đang bị bao vây trong làn tên mũi giáo, ra sức chống trả. Dương Phàm dương cung bắn một phát trúng ngay vào cổ, Sa Lị té nhào xuống ngựa chết tốt. Quân Ân như rắn mất đầu hỗn loạn vô cùng, Hổ Tinh kinh hãi thúc quân phá vòng vây tìm lối ra, nhưng bị đạo quân thiết giáp đánh bật trở vào, người chỉ huy đạo quân thiết giáp Văn Lang chính là Khơ Lan. Khơ Lan tả xông hữu đột, điều khiển quân binh, đội quân thiết giáp vô cùng linh hoạt, quân Ân lớp lớp bị hạ gục.

    Nói về cánh Bắc hành thủy, quân Ân cũng đang sa vào thảm cảnh sắp bị hủy diệt. Chiên La đang bị bao vây trong làn tên mũi giáo, sắp mất mạng đến nơi, nói chung quân Ân thua to nếu không phá được cờ trận.

    Đây nói về Hồ Nhất Tinh, Hồ Nhị Yêu, Hồ Tam Quỉ, Ân Mao Vương, Nghịch Phong. Đồng loạt bay lên không xem xét trận ngũ hành, thấy mây đen, mây trắng, cuồn cuộn che phủ trận ngũ hành không thấy gì cả, khí lực ngũ hành tuôn lên cuồn cuộn, sát khí ngùn ngụt, đã hơn một giờ mà chưa có cách phá trận. Ân Mao Vương lấy làm lo, vì quân Ân đã xông vào trận địa, chiến trận nổ ra rền trời rền đất, không còn chần chờ được nữa, Ân Mao Vương cỡi con Hồ Tiên bay xuống đánh phá cờ trận trung tâm hành hỏa.

    Ân Mao Vương vừa lao vào mây trắng, tức thời một đạo kim quang từ cờ đỏ trung tâm hành hỏa tỏa lên tấn công. Hồ Tiên liền thổi hắc quang chống trả, Ân Mao Vương rút bảo kiếm từ trên không chém xuống, bỗng thấy một vị thần xuất hiện, bay lên chống trả, chính là Hỏa Thần, hai bên đánh với nhau vô cùng ác liệt. Ân Mao Vương, nhờ học được ba thầy nên pháp thuật vô biên. Hỏa Thần yếu thế hơn nhưng nhờ thần lực cờ trận, nên Mao Ân Vương khó mà giành lấy phần thắng. Ân Mao Vương quyết hạ gục Hỏa Thần kiếm báu trên tay vung lên chém xuống lia lịa, kiếm khí tuôn ra chém tới ầm ầm. Hỏa Thần vung gậy phép lên chống trả, gậy qua kiếm lại ầm ầm đùng đùng dậy trời dậy đất, đánh nhau cả trăm hiệp bất phân thắng bại.

    Cùng lúc ấy Nghịch Phong cỡi con Huyết Hãn thần mã bay vào mây trận, vung kiếm chém xuống lá cờ đen trung tâm hành thủy, tức thời một đạo hào quang từ lá cờ đen tỏa lên chống trả ầm ầm long trời lở đất. Nghịch Phong niệm chú hóa phép chỉ tay một cái, tức thời một đạo khí phong bay tới lá cờ đen. Bỗng một vị thần xuất hiện đó là Thủy Thần, múa gậy chống đỡ.

    Nghịch Phong nổi giận quát:

    Ngươi là ai mà dám đối địch với ta?

    Thủy Thần quát:

    Nhái ranh hỗn láo, xem gậy lão Thần đây.

    Tức thời chỉ gậy vào Nghịch Phong hô biến, tức thời cây gậy liền hóa ra một đạo kim quang đánh tới. Nghịch Phong chỉ kiếm niệm chú hóa ra một đạo kim quang chống trả, hai bên đấu phép với nhau liên miên bất tận. Nghịch Phong quyết hạ cho bằng được đối thủ, phi ngựa lao tới chém vào Thủy Thần. Thủy Thần múa gậy chống trả, đánh với nhau cả trăm hiệp bất phân thắng bại.

    Lại nói về Hồ Nhị Yêu bay thẳng vào trung tâm kim trận, đánh một chưởng xuống lá cờ trắng, tức thời lá cờ trắng tỏa lên một đạo hào quang chống trả. Hồ Nhị Yêu nhanh như chớp đánh liền ba chưởng xuống lá cờ trắng, bất thình lình một vị Thần xuất hiện phất ba đạo kình phong chống trả, đùng ầm ầm long trời lở đất.

    Hồ Nhị Yêu quát:

    Kim Thần muốn sống thời biến ngay đi.

    Kim Thần quát:

    Không lo tu luyện còn giúp cho đồ đệ xâm lược quả là ngươi đã tới số.

    Hồ Nhị Yêu tức quá múa phất Trần đánh tới tấp vào Kim Thần, Kim Thần nào chịu kém, múa gậy Thần đánh tới tấp vào Hồ Nhị Yêu, hai bên đánh nhau rền trời rền đất. Gậy qua, Trầm lại hơn trăm hiệp bất phân thắng bại, ai nhìn thấy cũng phải kinh hồn bạt vía.

    Cùng lúc ấy nói về Hồ Tam Quỉ, đánh với Mộc Thần. Cả trăm hiệp bất phân thắng bại, Mộc Thần múa gậy kình phong tuôn ra ầm ầm, Hồ Tam Quỉ múa đôi bàn tay sắt vuốt nhọn chống trả. Hồ Tam Quỉ nhanh như chớp chụp xuống lá cờ xanh bỗng một đạo hào quang tỏa lên, Tam quỉ trúng tia hào quang đau buốt lấy làm kinh hãi. Không còn dám coi thường lá cờ trận, Tam Quỉ bị Mộc Thần tấn công, rất khó phá được cờ trận, hai bên đánh nhau chưởng phong ầm ầm, chỉ phong véo véo, bất phân thắng bại.

    Lại nói về Hồ Nhất Tinh, bay vào trung tâm ngũ hành trận, lao nhanh xuống lá cờ vàng, đang phát ra uy lực vô biên, đánh xuống một đạo hắc quang, tức thời lá cờ vàng tỏa lên một đạo hào quang chống trả, ầm ầm long trời lở đất. Hồ Nhất Tinh múa phất trần đánh xuống lá cờ trận, lá cờ trận tỏa hào quang chống trả, Hồ Nhất Tinh không làm gì được. Hồ Nhất Tinh bằng ném một vật lên hư không niệm chú, tức thời vật đó liền hóa ra một thanh xà kiếm, tỏa hào quang từ trên không lao xuống hầu phá hủy lá cờ trận. Bỗng Thổ Thần xuất hiện, ném gậy Thần chống đỡ, choang một tiếng đinh tai nhức óc. Hồ Nhất Tinh thâu phép lại, bay xuống đánh với Thổ Thần, bất thình lình lao tới chụp lấy lá cờ. Thời nghe một tiếng quát long trời lở đất, trường đao vung lên như tia chớp chém tới Hồ Nhất Tinh. Hồ Nhất Tinh múa phất trần chống trả ầm ầm, kinh thiên động địa.

    Hồ Nhất Tinh quát:

    Nguyên Minh ngày tận số của ngươi tới rồi.

    Thổ Thần quát:

    Loài yêu tinh hỗn láo.

    Thổ Thần múa gậy đánh tới như vũ bão, Nguyên Minh vì không biết bay chỉ biết đứng nhìn Thổ Thần cùng Nhất Tinh hỗn chiến.

    Trên không trận chiến ầm ầm

    Dưới đất binh hùng xáp chiến kinh thiên

    Ầm ầm đất chuyển trời rung

    Đùng đùng gươm giáo khiếp kinh ầm ầm

    Mặt trời sắp lặn non Tây

    Quân reo ngựa hí bủa vây không ngừng

    Kìa gươm giáo vang trời không dứt

    Chiêng, trống rền hò hét liên miên

    Đất trời như muốn ngã nghiêng

    Cát bay đá chạy khiếp kinh mịt mù.

    Hồ Nhất Tinh, đang đánh với Thổ Thần, bỗng rùng mình hóa phép, yêu tinh xuất hiện đầy trời, lao vào đánh với Thổ Thần, xáp chiến với Nguyên Minh. Nguyên Minh múa đao kinh phong tuôn ra ầm ầm chống trả với bầy yêu tinh. Bỗng nghe ầm ầm long trời lở đất, lá cờ trận đã bị Hồ Nhất Tinh chém rách, tức thời sương mù, mây đen, mây trắng biến mất, ngũ thần cũng biến theo. Nguyên Minh vô cùng kinh hãi, lúc nầy chỉ còn ngũ hành trận không còn cờ trận.

    Nói về Ân Mao Vương nhìn xuống ngũ hành trận thấy quân Ân chết lớp lớp chồng chất lên nhau, thời thét lên lao xuống múa đao chém Trần Bá không cho Trần Bá điều khiển quân kỳ nữa, Trần Bá múa đao chống trả, hai bên đánh nhau vô cùng dữ dội. Còn Hồ Tiên liền thổi ra một luồng khí độc Trần Bá xây xẩm mặt mày, Ân Mao Vương lao tới chém một đao bỏ mạng.

    Về sau có thơ rằng:

    Ôi cái chết đi vào bất tử

    Vì non sông Tổ Quốc hy sinh

    Ôi cái chết tràn đầy uy dũng

    Xác mất rồi nhưng hồn mãi Uy Linh.

    Nói về Nghịch Phong đang đánh với Thủy Thần thời nghe tiếng nổ ầm ầm, sương mù, mây đen, mây trắng, biến mất, Thủy Thần cũng tan biến tự bao giờ. Nhìn xuống ngũ hành trận, thấy quân Ân chết lớp lớp chồng chất lên nhau thời vô cùng kinh hãi, tuy mây trận biến mất nhưng ngũ hành trận vẫn còn, nơi Trung Ương Hành Thủy Phan Lợi, phất cờ điều khiển quân binh đánh quân Ân tới tấp. Nghịch Phong phi ngựa tới chém Phan Lợi, Phan Lợi múa đao chống trả, hai bên đánh nhau ầm ầm, đường đao Phan Lợi vô cùng lợi hại, Nghịch Phong khó mà làm gì được, bằng hóa phép cuồng phong nổi lên lên ầm ầm, yêu tinh ma quỷ hiện ra xông tới đánh Phan Lợi. Phan Lợi múa đao chống trả quyết liệt, hào khí ngùn ngụt yêu tinh không làm gì nổi Phan Lợi. Nghịch Phong bằng lấy một thanh kiếm nhỏ trong túi ra ném lên không niệm chú, tức thời một tia chớp lao xuống Phan Lợi không tránh kịp đành bỏ mạng, Nghịch Phong phi ngựa xuống đất đánh quân Văn Lang cứu quân Ân. Phan Lợi tuy chết nhưng hồn vẫn Hiển Linh hóa ra sương mù che chở quân Văn Lang.

    Về sau có thơ rằng:

    Thân ngã xuống nhưng hồn nào có chết

    Vẫn anh linh trong kiếp sống linh thiên

    Hóa mây mù luôn che chở quân binh

    Xác tuy mất nhưng linh hồn bất tử

    Chết là hết, nhưng nào đâu có phải

    Vân Anh Linh trong cuộc sống hiển linh

    Kìa mây mù luôn che chở quân binh.

    Lại nói về Hồ Nhị Yêu, không hạ gục được Kim Thần, vô cùng tức giận những không làm gì được, bỗng nghe tiếng nổ ầm ầm, cờ trận cùng Kim Thần biến mất. Hồ Nhị Yêu thấy Cự Lân phất cờ chỉ huy, liền lao xuống đánh một chưởng, bỗng thấy một người hiện ra đẩy Cự Lân bay sang một bên, ầm một tiếng muốn sụp cả quan sát đài, Cự Lân nhìn rõ người cứu mình chính là Trần Bá. Lúc nầy trời đã sẩm tối, Cự Lân phi thân xuống đất lẩn vào quân binh Văn Lang, Hồ Nhị Yêu không nhìn thấy Cự Lân đâu nữa bằng hóa phép đánh xuống quân Văn Lang. Bỗng thấy một con Rồng hiện ra, Hồ Nhị Yêu kinh hoảng tàn hình trốn mất.

    Cùng lúc ấy Hồ Tam Quỹ định ra tay giết chết Huyền Trung, bỗng thấy con Kỳ Lân xuất hiện, Hồ Tam Quỉ kinh hoảng trốn mất.

    Nói về Nguyên Minh nhìn thấy cờ trận rách nát thời kinh hồn bạt vía, mây trận không còn biết khó mà chống đỡ nổi quân Ân. Hồ Nhất Tinh, thâu phép bay tới thổi ra một luồng yêu khí định giết chết Nguyên Minh, bỗng thấy một con Rồng hiện ra thổi một luồng hồng quang. Hồ Nhất Tinh kinh hoảng trốn mất.

    Nguyên Minh thoát chết chưa biết phải làm sao thời có người lên tiếng nói:

    Chủ soái mau trốn đi.

    Người lên tiếng đó chính là Đa Kế. Lạc Hầu Công nói:

    Mau dồn quân chạy về sông Tây Giang.

    Tức thời pháo lệnh đỏ bắn lên, khẩu lệnh truyền ra dồn quân về cánh Nam, trời lúc nầy đã tối, ánh trăng soi đường, trận chiến còn vang dội, nhưng lúc nầy đã nghiêng về phía quân Ân, nhờ có Ân Mao Vương, Nghịch Phong, Hung Nô Vương thần thông quảng đại, quân Văn Lang bị đánh thê thảm.

    Được lệnh rút lui quân Văn Lang ào ào chạy về phía Nam, đánh bật Hổ Tinh, chạy về hướng Lũng Trung Châu, bại binh chạy suốt cả đêm, tới sáng thời tới Vân Châu, bại binh dừng nghĩ, người nào người nấy bò la bò lết đi hết nổi. Nguyên Minh cho người kiểm lại quân binh thời chỉ còn hơn bốn vạn, đi tiêu mất sáu vạn quân.

    Nhìn lên trời than thở:

    Không ngờ quân Ân nhiều nhân vật tài năng như vậy, ngũ hành cờ trận mà cũng phá được.

    Quân binh nghĩ không được bao lâu thời nghe tiếng ngựa hí từ xa vọng lại. Nguyên Minh cùng các Tướng kinh hãi: Quân Ân đã đuổi theo đến nơi rồi sao?

    Nguyên Minh nhìn lên trời nói:

    Thôi thì quyết tử tại nơi đây vậy.

    Liền cho bắn pháo lịnh tử chiến.


    PHẦN 19: BẠI TRẬN
    Đây nói về Cao Hải, hiệp lực với quân Xích Linh đại phá đánh bại 30 vạn quân Hung Nô. Lạc Hầu Công, mời Cao Hải cùng các quan Tướng vào thành thiết đải, ăn mừng thắng trận. Cao Hải ở lại thành Xích Linh chưa được mấy ngày trong lúc đang bàn Quốc Sự thời có quân vào báo. Đô Tướng Quân có thư.

    Cao Hải nhận thư đọc xong thời nước mắt ràn rụa. Ai nấy cũng đều kinh hải tự hỏi: Chuyện gì thế? Trải qua một hồi lâu dằn cơn xúc động.

    Cao Hải nói:

    Cao Sơn chết rồi.

    Cao Hải liền đưa thơ cho các Quan Tướng xem. Lạc Kim Tiên xem xong nói:

    Quân Ân dồn hết lực lượng phá doanh trại ngũ hành trận, đây là cơ hội cho chúng ta, cướp phá lương thực chúng, rồi từ phía sau đánh bọc tới, tiêu diệt chúng, chỉ cần một trận nầy chiến thắng thời quân Ân sẽ khiếp kinh hồn vía.

    Lạc Hồng Hầu nói:

    Muốn tới Kinh Đô nhanh thời phải đi qua đồi Mục Linh. Đồi Mục Linh hiện giờ quân Ân đang phục kích ở đó, chỉ còn có cách là đi đường vòng, bọc qua đồi Mục Linh, rồi bất ngờ xông vào cướp doanh trại của chúng.

    Lạc Hầu Vương nói:

    Quân Xích Linh cùng tham gia trận chiến Đô Tướng Quân cứ ra lịnh.

    Cao Hải nói:

    Thành Xích Linh không thể bỏ trống, phải có quân binh trấn thủ.

    Trong lúc còn đang bàn tán, thời có quân thám báo vào báo:

    Quân Ân giao chiến với quân ta hơn nửa ngày rồi.

    Thời gian quá gấp Cao Hải từ biệt Lạc Hầu Công cùng các quan tướng thành Xích Linh, triển khai lực lượng, phân bổ như sau:

    Phan Thanh Hải, nghe lịnh Có thuộc hạ, Ngô Việt nghe lịnh. Có thuộc hạ. Hai Tướng Quân một trưởng, một phó, thống lĩnh một vạn quân mở đường đi trước, còn đại quân đi sau, tuân lệnh.

    Đi đường vòng hơi xa mặt trời chưa lặn quân binh đã lên đường rồi. Nói về Phan Thanh Hải, Ngô Việt, mỗi người thống lãnh một vạn quân đi trước, đạo quân Thanh Hải tiên phong đi trước, đạo quân Bố Chánh Ngô Việt tiếp theo sau bọc đường vòng qua khỏi đồi Mục Linh hơn 10 dặm ánh trăng vằn vặt, nếu đôi mắt sáng thời nhìn thấy tận xa xa, khi đạo quân, Thanh Hải, Ngô Việt qua khỏi đồi Mục Linh thời không còn lo sợ phục kích nữa.

    Nói về Hung Quân Liệt theo kế sách của Ân Mao Vương, chia làm hai đạo quân, phục kích đi đường vòng của quân Văn Lang nằm im chờ đợi. Hung Quân Liệt thấy quân Văn Lang xuất hiện thời khen Ân Mao Vương liệu tính như thần. Thấy Quân Văn Lang đã nằm gọn trong ổ phục kích, nhưng Hung Quân Liệt không tấn công, để cho đạo quân Thanh Hải đi qua lọt vào vòng vây thứ hai, khi đạo quân Ngô Việt lọt vào ổ phục kích.

    Hung Quân Liệt nói:

    Đây mới chính là đạo quân chủ lực.

    Chờ cho đạo quân Ngô Việt lọt vào vòng vây, thời Hung Quân Liệt thổi tù tấn công, thế là tên bắn ra như mưa, quân Văn Lang bị đánh bất ngờ kinh hãi rối loạn, không rõ quân địch để mà chống trả.

    Nói về Phan Thanh Hải thúc quân di chuyển nhanh về Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỹ, thời nghe phía sau đạo quân trận chiến đã nổ ra ầm trời ầm đất, không lẽ đã bị phục kích, liền cho quân dừng lại không tiến nữa. Tiến tới không được lùi lại không xong, chưa biết phải làm gì thời nghe quân reo dậy đất quân Hung Nô ào ào lao ra tấn công, tên bắn như mưa, quân Văn Lang bị tấn công bất ngờ hốt hoảng rối loạn, quân Hung Nô chủ động trận địa đánh tới tấp, quân Văn Lang chết như rạ. Phan Thanh Hải thét lớn bình tỉnh chiến đấu, tức thời quân Văn Lang lấy lại bình tĩnh chiến đấu quyết liệt, xông lên xáp lá cà với quân Hung Nô.

    Về sau có thơ rằng:

    Một bên là lính Văn Lang

    Một bên là giặc bạo tàn ngoại xâm

    Quân giặc cuồn cuộn xông lên

    Chủ trì trận địa giáo gươm ầm ầm

    Văn Lang bị động hoàn toàn

    Thây nằm la liệt khắp cùng xiết bao

    Tinh thần quyết tử dâng cao

    Chỉ còn hơi thở cũng nào xông lên

    Hung Nô cũng phải khiếp kinh

    Văn Lang quyết tử dâng lên cuộn cuồn

    Hung Nô thiệt hại cũng nhiều

    Mới hay con cháu Tiên Rồng Uy Linh

    Dù cho đất lở trời nghiêng

    Tinh thần quyết tử hùng anh lạ đời

    Kinh thay dòng máu Lạc Hồng

    Tử sanh, sanh tử, lông hồng nhẹ tênh

    Hy sinh vì nước vì dân

    Linh hồn nhẹ bỗng chín tầng Trời Cha

    Vì non vì nước vì nhà

    Tử sanh, sanh tử, sá gì như không.

    Quân Hung Nô thấy Phan Thanh Hải, múa đao chém quân Hung Nô như chém chuối, tức thời quân Hung Nô tập trung bắn tới Phan Thanh Hải. Phan Thanh Hải trúng tên khắp cả mình đành phải bỏ mạng. Quân Văn Lang tuy rắn mấy đầu nhưng không bao giờ bỏ chạy, người nầy ngã xuống người khác xông lên, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, quân Hung Nô khiếp vía kinh hoàng, trước khí phách hào hùng quân Văn Lang.

    Nói về Ngô Việt biết mình đã lọt vào ổ phục kích của quân giặc, từ nơi ẩn núp quân Hung Nô bắn tên ra như mưa, quân Văn Lang vô cùng hỗn loạn. Ngô Việt thét lớn bình tỉnh chiến đấu, tử chiến tử chiến, tức thời quân Văn Lang hò reo dậy trời dậy đất, lao vào quân Hung Nô như vũ bão, tiếng gào thét tiến lên tiến lên, thế là trận đánh xáp lá cà, gươm đao giáo mác dậy trời dậy đất.

    Về sau có thơ rằng:

    Ầm ầm trận đánh kinh thiên

    Đao gầm, kiếm thét, liên miên ầm ầm

    Tên lao rợp đất rợp trời

    Thân người ngã gục xác người như non

    Chiến trường nổi gió nổi dông

    Quân binh ào tới giáo gầm kiếm tuôn

    Rền trời hai tiếng xung phong

    Giáo gươm xối xả ôi thôi bịt bùng

    Đùng đùng vang dội đùng đùng

    Văn Lang quyết tử, mất còn tại đây.

    Nói về Hung Quân Liệt thấy quân Văn Lang chiến đấu anh dũng như thế cũng phải khiếp hoảng. Quân Văn Lang gan đồng dạ sắt chăng, coi cái chết như không, không lẽ đây là tinh thần Quốc Đạo Văn Lang, được kể qua truyền thuyết, Hung Quân Liệt càng khiếp hãi.

    Nói về Bố Chính Ngô Việt, thương tích đầy mình, cố thúc ngựa phá vòng vây lao ra khỏi trận địa chạy về phía đại quân Văn Lang đang đi phía sau.

    Đây nói về Cao Hải nghe chiến trận nổ ra phía trước liền biết là hai đạo quân tiên phong đã sa vào ổ phục kích của quân giặc, liền cho đại quân dừng lại, với tinh thần chuẩn bị chiến đấu cao, khi có quân địch tấn công.

    Cao Hải phi ngựa lên phía trước xem xét tình hình, thời thấy Ngô Việt mình đầy máu me cỡi ngựa lao tới nói:

    Tướng quân mau cho quân rút lui, quân giặc phục kích khắp nơi.

    Nói xong Ngô Việt tắc thở. Cao Hải đau xót vô cùng, biết là quân Ân đã lường trước tất cả, đón được ý đồ của chúng ta, phục kích chận đánh khắp nơi, nên không dám rút quân về thành Xích Linh, sợ quân giặc phục kích đánh bọc hậu. Nên nhanh chóng rút quân về Huyện An Giao, quân đi đến gần sáng, tưởng là đã thoát ra khỏi sự phục kích của quân giặc, đại quân vừa mới chạm chân đến Huyện An Giao, thời nghe tiếng tù nổi lên, hai bên đường tên bắn ra như mưa. Quân Văn Lang bất ngờ hốt hoảng. Cao Hải thúc quân tiến tới, chống trả nhanh chóng thoát ra khỏi ổ phục kích của giặc. Quân giặc, ào ào rượt đuổi theo, quân Văn Lang không chạy về Huyện An Giao, mà chạy về Vân Châu.

    Nguyên Hạo Hạo chạy trước mở đường khi đến Vân Châu thấy có quân phía trước, thời vô cùng kinh hãi, quày ngựa trở lại báo với Cao Hải:

    Bẩm Đô Tướng Quân, phía trước có quân mai phục.

    Cao Hải giật mình kinh sợ, thở dài nói:

    Quân giặc tài đến thế sao? Ý Trời đã thế, chúng ta đành bỏ mạng tại Vân Châu vậy.

    Cao Hải cho quân dừng nghỉ dưỡng sức, rồi quyết một trận sanh tử với giặc. Đến khi nhìn thấy pháo lệnh tử chiến, biết đây là pháo lệnh của quân Văn Lang, Cao Hải mừng rỡ vô cùng, cho bắn pháo lệnh đáp trả, để nhận ra nhau.

    Nguyên Minh thấy pháo lệnh nói:

    Đó là quân ta, quân của Đô Tướng Quân Cao Hải.

    Nguyên Minh biết Cao Hải cũng đã thất bại, nên mới chạy đến đây. Không bao lâu Cao Hải dẩn tàn quân chạy đến, Nguyên Minh, Cao Hải ôm nhau mà rơi nước mắt, hơn hai mươi vạn quân giờ chỉ còn không đầy mười vạn, một tổn thất nặng nề, Nguyên Minh cũng cố lại lực lượng, xin viện binh từ Kinh Đô Văn Lang, chờ cơ hội đánh trả, chận đứng không cho quân Ân tiến vào Trung Văn Lang, Nguyên Minh chưa có tin tức gì về Nguyên Dực.
     
  8. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    PHẦN 20: PHÁ TRẬN
    Đây nói về Nguyên Dực, cùng quân binh nhờ trận ngũ hành giặc Ân chưa làm gì được, lại còn đánh cho quân giặc tả tơi chết vô số kể, định tiến quân ào ra tiêu diệt quân Ân, nhưng thấy quân Ân còn đông như kiến, không thể nào đánh bại được.

    Lại nói về Sát Sát, ỷ mình quân đông lại có pháp thuật, có thể phá trận ngũ hành dễ dàng, không ngờ không phá được lại đi tiêu hơn bốn vạn quân giờ mới biết sợ hãi, lập đàn cầu sư phụ. Không bao lâu thời một Đạo Cô xuất hiện, tên là Hồ Bạch Hoa.

    Sát Sát lễ lạy rồi nói rằng:

    Con đang gặp phải khó khăn, lời đồn quả không sai phương Nam có trận ngũ hành vô cùng lợi hại, không dễ gì phá được.

    Hồ Bạch Hoa nói:

    Ta biết vậy nên đến đây giúp con, phương Bắc nhà Chu cũng có ngũ hành trận, nhưng không lợi hại như ngũ hành trận phương Nam. Vì ngũ hành trận phương Nam, kèm theo ngũ kỳ trận uy lực vô biên, muốn phá được ngũ hành trận, phải phá ngũ kỳ trận trước, nếu không có công tu luyện hàng nghìn nghìn năm thời không bao giờ phá được.

    Bằng thắp hương lâm râm niệm chú, không bao lâu thời có hai Đạo Cô, một Đạo Tiên xuất hiện. Hồ Bạch Hoa giới thiệu hai Đạo Cô. Hồ Bạch Hoa chỉ Đạo Cô mặc áo xanh nói:

    Đây là Thanh Xà Đạo Cô, còn đây là Tý Bạch Đạo Cô, còn đây là Bạch Hầu Đại Tiên.

    Sát Sát theo lời giới thiệu mà lạy tạ. Sát Sát mời các sư phụ vào ghế ngồi. Hồ Bạch Hoa nói:

    Phá ngũ kỳ trận đều nhờ hết vào Đại Tiên.

    Bạch Hầu Đại Tiên nói:

    Bạch Muội, chịu trách nhiệm đánh vào Tây kỳ, phá cho được cờ trắng. Thanh Xà Đạo Cô, đánh vào đông kỳ, phá cho được cờ xanh. Tý Bạch Đạo Cô, đánh vào Nam kỳ, phá cho cho được cờ đỏ. Sát Sát, đánh vào Bắc kỳ, phá cho được cờ đen, chỉ cần phá được một trong năm kỳ, thời bốn kỳ kia tự biến mất.

    Sát Sát là người nóng lòng phá trận, bằng cỡi thiên lý mã bay lên không lao xuống trung tâm Bắc kỳ trận, rút kiếm chém xuống lá cờ đen, không ngờ lá cờ đen tỏa hào quang chống trả ầm ầm, kinh thiên động địa. Sát Sát bị mây đen, mây trắng cuồn cuộn bao vây che chắn tầm nhìn khó mà đánh trúng lá cờ đen. Sát Sát tức quá cỡi ngựa thần lao xuống, vung kiếm báu chém xuống ầm ầm, bỗng Thủy Thần xuất hiện múa gậy thần chống trả, hai bên đánh nhau rền trời rền đất. Sát Sát hóa phép liên miên, nhưng bị thần lực ngũ kỳ hóa giải cả. Sát Sát thất kinh. Sát Sát võ nghệ cao cường áp đảo Thủy Thần, bất thình lình Sát Sát lao xuống chém Hắc Kỳ một nhác như tia chớp, thời có tiếng quát xem nầy, một lằn ánh sáng chớp lên chống đỡ, choang một tiếng đinh tai nhức óc. Người ra đòn chống đỡ đường kiếm của Sát Sát là ai thế, còn ai vào đó nữa chính là Lê Anh.

    Nói về Lê Anh ở trên đài quan sát, thấy Sát Sát cỡi ngựa từ trên không lao xuống chém vào Hắc Kỳ thời vô cùng kinh hãi, múa đao chống đỡ, choang một tiếng đinh tai nhức óc. Thủy Thần cũng múa gậy đánh tới. Sát Sát múa kiếm chống trả, Sát Sát đảo ngựa bất ngờ đánh xuống một chưởng, tức thời Hắc Kỳ tỏa hào quang chống trả ầm một tiếng long trời lở đất. Sát Sát quyết tâm phá cho được Hắc Kỳ, đã trôi qua mấy giờ nhưng vẫn chưa làm gì được.

    Cùng lúc ấy Hồ Bạch Hoa múa phất trầm tới tấp đánh xuống Bạch Kỳ, Kim Thần xuất hiện múa gậy chống trả, nhờ có thần lực Bạch Kỳ hổ trợ Kim Thần, nên Bạch Hoa chưa thể hạ gục được Kim Thần, hai bên đánh nhau rền trời rền đất. Hồ Bạch Hoa hóa phép liên miên nhưng chưa phá nổi uy lực Ngũ Kỳ. Hồ Bạch Hoa phất tay một đạo chỉ quang đánh xuống Bạch Kỳ, Bạch Kỳ tỏa hào quang chống trả ầm đinh tai nhức óc. Kim Thần múa gậy xông tới, đánh Bạch Hoa, Bạch Hoa múa phất trần chống trả, hai bên đánh nhau dậy trời dậy đất, bất phân thắng bại. Hồ Bạch Hoa bất ngờ ném lên một vật, hóa thành con chồn có cánh bay nhanh chụp xuống cờ trận, tức thời một tia chớp nổi lên chém tới con chồn có cánh. Ầm một tiếng, con chồn nát tan, ai mà có đường đao nhanh đến thế, còn ai nữa chính là In Đô.

    In Đô theo dõi trận chiến giữa Kim Thần và Bạch Hoa, nhất là chú ý Bạch Hoa, thấy Bạch Hoa ném ra một vật, hóa thành con chồn lao xuống cướp lấy cờ trận, tức thời In Đô múa đao chém tới, con chồn trúng một đao tan xác. Bạch Hoa thấy mất bảo bối vô cùng tức giận thét lên inh ỏi. Phất trầm trên tay phất lên lia lịa, những trận cuồng phong tuôn ra tưởng chừng như đất trời muốn sập đến nơi. Kim Thần múa gậy kình lực tuôn ra chống trả quyết liệt, ầm ầm đùng đùng liên miên bất tận.

    Cùng lúc ấy Tý Bạch Đạo Cô, ra sức đánh với Hỏa Thần. Hỏa Thần cũng không chịu kém, hai bên đánh nhau, mù trời mịt đất. Tý Bạch múa phất trần đánh Hỏa Thần tới tấp, bất ngờ biến mất, là cờ đỏ bỗng tỏa hào quang ầm ầm đùng đùng. Tý Bạch Đạo Cô chưa có cách nào phá được cờ trận, lại bị Hỏa Thần tấn công tới tấp. Tý Bạch Đạo Cô liền hiện nguyên hình một con chuột bạch to lớn, thổi ra một luồng bạch quang, xuống cờ trận tức thời hàng loạt tiếng nổ nổi lên rung chuyển đất trời, đài quan sát như muốn sập, nhưng cờ trận vẫn còn không hề hấn gì. Hỏa Thần ném gậy lên không niệm chú, cây gậy Thần tỏa hào quang đánh xuống, con chuột bạch tức thời biến mất, lao xuống quan sát đài chụp lấy lá cờ trận. Dương Điền luôn theo dõi trận chiến giữa Hỏa Thần với Tý Bạch Đạo Cô, thấy Tý Bạch Đạo Cô hiện nguyên hình là con chuột bạch to lớn, thổi ra luồng bạch quang, xuống lá cờ trận, Dương Điền sít chút nữa thời bỏ mạng, thấy con chuột bạch biến mất liền sinh nghi liền chém tới một đao, đến chỗ lá cờ chỉ nghe nổ ầm một tiếng, hình như trúng phải một cái gì, con chuột bạch đỡ được đường đao của Dương Điền, liền hiện lại nguyên hình là Tý Bạch Đạo Cô. Tý Bạch Đạo Cô định phóng ra một lưỡi kim đao nhỏ xíu giết chết Dương Điền. Hỏa Thần liền lao tới gậy Thần trên tay vùn vụt đánh tới tấp vào Tý Bạch Đạo Cô, Tý Bạch Đạo Cô càng đánh càng kinh hãi không ngờ ngũ hành cờ trận lại lợi hại như vậy.

    Đây nói về, Thanh Xà Đạo Cô là một con trăn tu luyện mấy nghìn năm, thần thông pháp thuật cao cường, đánh mới Mộc Thần, Mộc Thần nhờ ứng hiệp theo cờ trận nên Thanh Xà Đạo Cô chưa làm gì được. Thanh Xà Đạo Cô liền hóa ra một trận cuồng phong hầu quét sạch mây trận, đánh tan che chắn tầm nhìn, không ngờ mây trận lại cuồn cuộn tuôn ra dữ dội hơn nữa. Thanh Xà chỉ tay một cái, tức thời xuất hiện một tia sáng đánh xuống lá cờ xanh, lá cờ xanh liền tỏa hào quang chống trả, ầm ầm đùng đùng. Mộc Thần múa gậy giông tố nổi lên ầm ầm đánh tới Thanh Xà Đạo Cô, hai bên đánh nhau càng về sau càng dữ dội. Thanh Xà vừa đánh với Mộc Thần bất thình lình thổi ra một con trăn có cánh, bay xuống cắn nát là cờ Thần, nào hay bị chém trúng một đạo biến mất. Thanh Xà Đạo Cô đau đớn như trúng phải một đao, tức giận gầm lên hiện nguyên hình là một con trăn to lớn dài mấy chục thước, mồm con trăn phun ra lửa dữ, hầu đốt cháy sạch quan sát đài.

    Nói về Lô Gô, chém trúng con trăn nhỏ do Thanh Xà Đạo Cô thổi ra, Thanh Xà Đạo Cô tức giận hiện nguyên hình là một con trăn to lớn dài mấy chục thước, miệng khè ra lửa, đuôi quật lên dông bão ầm ầm làm khiếp kinh quân binh. Hỏa Thần ném gậy lên không niệm chú, gậy Thần tỏa ra hào quang sấm nổ nổi lên sấm sét đánh xuống. Con trăn to lớn biến mất, những tiếng nổ ầm ầm liên miên bất tận. Lô Gô bị kình lực giao tranh giữa cờ trận Hỏa Thần, Thanh Xà Đạo Cô hất rớt xuống quan sát đài. Lô Gô kinh hãi, cuộc chiến Hỏa Thần, Thanh Xà Đạo Cô càng trở nên quyết liệt. Lô Gô bị trúng kình lực ê ẩm cả mình, nếu không có áo giáp thời coi như toi mạng rồi.

    Nói về Bạch Hầu Đại Tiên, chiến đấu với Thổ Thần long trời lở đất chưa có cách gì phá được cờ trận, bỗng thấy Thần lực cờ trận yếu xuống, thời biết đây là cơ hội may ra phá được, liền hóa phép tức thời yêu tinh quỉ dữ đầy trời xông vào đánh với Thổ Thần, lao xuống trung tâm quan sát đài đánh với Nguyên Dực.

    Nói về chủ soái Nguyên Dực ở trên đài quan sát theo dõi trận chiến giữa Thổ Thần với Bạch Hầu Đại Tiên, bỗng thấy yêu tinh quỉ dữ xuất hiện đầy trời, lao xuống đài quan sát tấn công mình, Nguyên Dực vốn võ nghệ cao cường lại có pháp thuật thần thông nên chống trả lại yêu tinh quỉ dữ, cuộc chiến xảy ra kinh thiên động địa. Bỗng nghe một tiếng nổ long trời lở đất, cờ trận đã bị phá lá cờ vàng đã bị rách nát, sương mù, mây đen, mây trắng, ngũ thần biến tan hết thảy. Nguyên Dực kinh hoàng khiếp vía, ngũ hành cờ trận mất đi thời sức mạnh huyền bí của quân Văn Lang không còn nữa, chỉ còn nhờ vào cái tài điều binh khiển Tướng mà thôi.

    Đây nói về Sát Sát thấy cờ trận tan biến không còn vô cùng mừng rỡ nhìn thấy rõ quân Văn Lang, chỉ cần tiêu diệt năm vị Tướng trên quan sát đài thời coi như ngũ hành trận bị phá vỡ. Sát Sát liền cỡi ngựa lao xuống đài quan sát chém Lê Anh múa đao chống trả, đường gươm Sát Sát nhanh khôn tả, lại ẩn tàn một kình lực vô biên. Lê Anh múa đao như mưa sa bão táp chém tới ầm ầm, con thiên lý mã bay lên không Sát Sát niệm chú tức thời một trận cuồng phong nổi lên cuộn xuống Lê Anh. Lê Anh không còn đứng vững được nữa, Sát Sát lao xuống chém một gươm bỏ mạng. Thế là cánh Bắc ngũ hành trận bị phá vỡ, Sát Sát bay tới chỗ quân Ân ra lệnh tấn công. Thế là Tào Bá, con của Tào Côn ra lệnh ba đạo quân binh ào ào xông vào Bắc trận, quân Văn Lang chỉ còn ra sức chống trả. Sát Sát hóa phép cuồng phong cuốn tới quân Văn Lang tối tăm mù mịt nghiêng ngả quân binh, quân Ân lao tới chém như mưa, quân Văn Lang thi nhau ngã gục.

    Nói về Thanh Xà Đạo Cô thấy ngũ hành cờ trận đã bị phá, nhưng còn ngũ hành trận pháp cũng vô cùng lợi hại, nên bay xuống giết chết Lô Gô phá vỡ trận pháp. Thanh Xà Đạo Cô thổi ra một luồng hắc khí Lô Gô xây xẩm mặt mày. Thanh Xà Đạo Cô lao tới đánh một chưởng kết liễu mạng sống Lô Gô. Bỗng một con Phụng Hoàng xuất hiện, hào quang rực rỡ, Thanh Xà Đạo Cô khiếp vía tàn hình trốn mất. Lô Gô thoát chết, nhưng không còn đứng dậy nổi, quân binh thấy thế đưa Lô Gô xuống đài chữa trị.

    Nói về Võ Vu thấy ngũ hành cờ trận đã bị phá liền xua quân ào ào lao vào trận địa tấn công quân Văn Lang, quân Văn Lang chống trả quyết liệt, hai bên đánh với nhau rền trời rền đất.

    Thế là trận đánh kinh thiên

    Đao gầm kiếm thét liên miên ầm ầm

    Ngựa người lao tới rầm rầm

    Cuộn cuồn lớp lớp đạp càn lên nhau

    Kiếm đao xối xả như mưa

    Thây người ngã gục nào thua lở đồi

    Hai bên đánh xáp lá cà

    Chiến trường gào thét ôi là kinh thiên

    Đất trời như muốn ngã nghiêng

    Cuồng đao, bão kiếm, mưa tên bịt bùng

    Núi non rung chuyển đùng đùng

    Rồng Tiên, cọp, sói, tranh hùng dậy non.

    Đây nói về Hồ Bạch Hoa, thấy ngũ hành cờ trận đã bị phá, nhưng ngũ hành binh pháp vẫn vô cùng lợi hại, không dễ gì quân Ân chiếm lấy ưu thế, liền bay xuống hạ gục In Đô. In Đô múa đao chống trả, Hồ Bạch Hoa thấy In Đô võ nghệ cao cường, khó mà hạ gục nhanh chóng được, bằng thổi ra một luồng hơi độc, In Đô xây xẩm mặt mày. Hồ Bạch Hoa bay tới kết thúc sanh mạng của In Đô. Sanh mạng In Đô chết sống trong đường tơ kẽ tóc, bỗng một con Rồng xuất hiện, múa vuốt chụp Bạch Hoa. Hồ Bạch Hoa khiếp vía tàn hình trốn mất. In Đô vì trúng độc mắt mở không ra nằm yên bất tỉnh, quân binh khiêng xuống lo chạy chữa.

    Cùng lúc ấy Tý Bạch Đạo Cô, đang chiến đấu với Dương Điền. Dương Điền võ nghệ cao cường, Tý Bạch Đạo Cô chưa thể hạ gục được ngay, bằng thổi ra một luồng yêu thuật, bỗng thấy một con chim điêu xuất hiện, hào quang sáng chóa. Tý Bạch Đạo Cô kinh hãi hóa ra một trận cuồng phong trốn mất. Dương Điền, thấy quân Hồ tràn vô như nước lở phất cờ chỉ huy đánh trả. Quân Hồ bị hỏa trận quân binh Văn Lang vô cùng lợi hại. Đánh quân Hồ tơi tả. Hồ Mị Hoa phi ngựa tới hét lớn, niệm chú chỉ kiếm, tức thời cuồng phong nổi dậy ầm ầm, ập tới quân Văn Lang, quân Văn Lang ngã rạp, quân Hồ ập tới chém xối xả, quân Văn Lang chết thôi là chết.

    Về sau có thơ rằng:

    Dù cho nát thịt tan xương

    Cũng không lùi bước tiến lên diệt thù

    Kìa lũ giặc ào ào tràn tới

    Hỡi xông lên tử chiến hùng anh

    Liệt oanh anh dũng liệt oanh

    Đánh cho quân giặc tan tành khói mây

    Thân ngã xuống hồn bay trận chiến

    Đánh quân thù tan biến tiêu ma

    Văn Lang non nước sơn hà

    Dễ gì cướp được yêu tà ngoại xâm.

    Nói về Bạch Hầu Đại Tiên, phá tan ngũ hành cờ trận, nhưng ngũ hành binh pháp cũng vô cùng lợi hại, bằng bay xuống tiêu diệt Nguyên Dực. Nguyên Dực võ nghệ cao cường lại có pháp thuật, không dễ gì vài ba mươi hiệp, hạ gục được. Bạch Hầu Đại Tiên liền hóa phép, yêu tinh quỉ dữ bao vây bốn phía tấn công Nguyên Dực. Nguyên Dực múa gươm chống trả, đường gươm như mưa sa bão táp, yêu tinh tuy đông nhưng không làm gì được. Bạch Hầu Đại Tiên nổi giận, liền nhả ra một viên ngọc ném lên không hô biến, tức thời những tia hào quang chiếu xuống Nguyên Dực trúng phải những tia hào quang liền xây xẩm mặt mày, ngã gục xuống sàn, yêu tinh quỉ dữ lao tới xé xác. Bỗng Hoàng Long xuất hiện, nuốt mất viên ngọc tu luyện hơn mấy nghìn năm mới thành của Bạch Hầu Đại Tiên. Bạch Hầu Đại Tiên kinh hồn bạt vía, tàn hình trốn mất. Nguyên Dực thoát chết, nhìn thấy cánh Bắc, cánh Nam, đã bị quân Ân, quân Hồ phá vỡ.

    Chưa biết phải làm sao thời có tiếng nói lớn:

    Chủ soái mau ra lệnh cho quân binh phá vòng vây cánh Đông, chạy về Ninh Châu, cố thủ.

    Người lên tiếng đó chính là Hầu Thái Công. Nguyên Dực tức thời truyền lệnh cho quân binh phá vòng vây cánh Đông. Võ Vu chống trả không nổi đành bỏ chạy, quân Văn Lang ào ào tuôn ra chạy về Ninh Châu, quân Ân rượt theo một đoạn, không rượt theo nữa, vì lúc nầy trời đã tối. Nguyên Dực dẫn tàn binh về gần tới Ninh Châu, thời thấy Lạc Đại Vương, Bạch Tướng Quân dẫn quân ứng cứu.

    Hầu Thái Công hỏi:

    Sao biết quân ta thua mà ứng cứu.

    Lạc Đại Vương cùng Bạch Tướng Quân nói:

    Chúng tôi luôn luôn cho quân thám báo theo dõi tình hình cập nhật liên tục trận chiến, nghe nói mây trận đã bị phá vỡ, thời biết quân ta không thể nào chống cự lại được, liền dẫn quân đến ứng cứu.

    Khi quân binh về hết thành Ninh Châu, cửa thành liền đóng lại phòng thủ nghiêm ngặt. Lúc nầy Nguyên Dực cho người điểm lại binh lính, thời đi tiêu năm vạn chỉ còn năm vạn, thời chỉ biết thở dài. Bằng hỏi qua tình hình, đồi Vạn Lâm, cũng như đạo quân của Việt Luân Tướng Quân. Bạch Tướng Quân, rơi nước mắt kể lại tất cả những gì quân thám báo đã báo. Rồi nói rằng:

    Chiến dịch ra quân chúng ta đã bị bại lộ, là do hai con quỉ nghe lén thông tin, sau nầy mới phát hiện được. Là vì chúng tiếp tục nghe lén, khi phát hiện ra chúng thì chúng biến mất. Quân Ân vì thế mà đi trước ta một nước cờ, là do bại lộ thông tin, khi chúng ta bàn kế sách. Chúng đưa quân phục kích đồi Vạn Lâm trước ta, và tiêu diệt quân ta. Hầu Tướng Quân, cũng như Chăm Ly bỏ mạng, năm vạn quân chỉ còn hơn một vạn. Không những thế quân Ân phục kích ở địa phận Ninh Điền khi quân ta đi qua đường quanh co hiểm trở, chúng liền tấn công Việt Luân Tướng Quân bỏ mạng năm vạn quân chết sạch không còn một người.

    Nguyên Dực nghe xong thời than thở không thôi. Hầu Thái Công nói:

    Việc binh thắng bại là lẽ bình thường, quân Ân lắm nhiều yêu tinh quỉ dữ, trợ giúp khó mà đánh lại chúng. Chủ soái nói rõ tình hình quân giặc xin viện binh củng cố lại lực lượng, quyết một còn một mất với chúng.

    Nguyên Dực nghe theo viết thơ dâng lên Vua Hùng cầu thêm viện binh.

    Vận nước suy vong nạn dập dồn

    Quân binh tướng sĩ lấp vùi chôn

    Hết thịnh tới suy thường là thế

    Huyền cơ tạo hóa luật nhân sinh

    Kiếp nạn Văn Lang Nguồn Cội mất

    Gieo mầm chinh chiến khổ đao binh

    Nước non lắm cảnh nhiều tai kiếp

    Chờ mong Quốc Tổ cứu sanh Linh.


    PHẦN 21: KỲ TÍCH XUẤT HIỆN
    Ở các thời kỳ Hùng Vương. Anh Linh Quốc Tổ Long Đế Sùng Lãm, người khai sinh ra nước Xích Quỷ thời đại Kinh Dương Vương. Long Đế Sùng Lãm chính là Thiên Long Vương đầu thai, khi mãn kiếp trần gian trở về Trời. Thường hiển Linh hiện về trên khắp đất nước Văn Lang, nhất là thời hậu Hùng Vương. Giúp cho dân Văn Lang luôn trúng mùa, no cơm ấm áo. Anh Linh Quốc Tổ Thiên Long Vương, Sùng Lãm, thường hiện về, với hình dáng người mây, người mây to lớn, dấu chân Anh Linh Thiên Long Vương Quốc Tổ to lớn, đi đến đâu là in dấu chân xuống đó. Không những ở trên đất mà ngay cả trên đá, dấu chân Quốc Tổ Thiên Long Vương Sùng Lãm, không chỉ có trên đất nước Văn Lang, Trung – Nam – Bắc Văn Lang, mà cùng khắp địa cầu, cả Đông lẫn Tây, tạo ra những cơn mưa trái mùa làm cho hoa màu, ngô, lúa, tốt tơi đem lại sự no cơm ấm áo cho toàn nhân loại.

    Thiên Long Vương, ở trên Thiên Cung lâm phàm đầu thai xuống thế, khai sinh ra nước Xích Quỷ, mở ra thời đại Kinh Dương Vương. Truyền xuống chín đời, tới đời thứ mười, thời chuyển sang giai đoạn thời đại Hùng Vương, nước Xích Quỷ được mở rộng trở thành nước Văn Lang, 2959 trước Công Nguyên. Anh Linh Quốc Tổ, thời đại Kinh Dương Vương, thường hiện về để lại dấu chân khắp nơi, với hình thể người mây khổng lồ to lớn, để lại dấu chân cũng to lớn.

    Người Nam Văn Lang gọi là dấu chân ông Đổng, người Bắc Văn Lang gọi là dấu chân ông Khổng Lồ. Anh Linh Quốc Tổ hiện về không chỉ là hình người, mà chuyển hình người thành hình đám mây che phủ cả một vùng rộng lớn, sau đó thời mưa như trút, những cơn mưa trái mùa, làm cho ao hồ, suối sông, sung mạch trở lại, người dân được trúng mùa lớn. Lúc thời chuyển thân thành hình xoắn ốc, tạo ra những cơn bão lốc, cuốn đi tất cả những ai ăn lộc Trời mà không biết kính trọng Trời, những kẻ bất kính đối với đấng sanh thành Tạo Hóa.

    Chuyện lạ ấy cứ xuất hiện mãi, ăn sâu vào tâm thức của mỗi người dân. Có những lần dân thấy Anh Linh Quốc Tổ hiện về, tạo ra cảnh mưa to gió lớn trái mùa, chỉ trong vòng có một ngày mà khai ra nhiều dòng chảy, thành sông thành lạch, đem phù sa về bồi đắp cho làng quê, dân chúng lại trúng mùa lớn, càng thêm no cơm ấm áo. Người dân Nam Văn Lang đã quen gọi sự Anh Linh Quốc Tổ là Ông Đổng.

    Có lần dân thấy Ông Đổng tuy là người mây, nhưng lại có hai con mắt sáng chóa. Bàn tay Ông Đổng hễ chạm xuống núi, là núi đó không còn, chỉ trong vòng một đêm ngọn núi biến mất, vì Ông Đổng trút nước xuống làm trôi đi hết, Ông đem đất ấy lấp xuống chỗ sâu, tạo ra những cánh đồng bát ngát, dân chúng vì thế mà có nhiều ruộng để canh tác. Nơi nào xem nhẹ quyền Tạo Hóa, xem thường Thiên Ý của Trời, thời Ông Đổng sẽ lấy đi tất cả, mùa màng thất bát, đồng khô cỏ cháy, vì không có những cơn mưa trái mùa, đói khổ vô cùng.

    Có lần dân chúng thấy Ông Đổng, có lần tạo ra những cơn mưa trái mùa khai ra dòng chảy, vun đất thành đồi, tạo ra sấm sét đánh tan những cơn dịch bịnh, hơi thở Ông Đổng phun ra mây đen cuồn cuộn, làm dịu đi cơn nóng oi bức. Ông Đổng khổng lồ thường xuất hiện trong những ngày đầu hè, giữa hè, cuối hè, đem lại nguồn nước Trời, cho cây cối, hoa màu, ngô, lúa, tốt tươi.

    Anh Linh Quốc Tổ xuất hiện để lại dấu chân khắp nơi, nhưng nhiều nhất là ở làng Gióng, nổi tiếng là quê hương xứ sở vườn cà, cà ở làng Gióng coi như là đặc sản được đưa đi giao dịch trao đổi khắp nơi. Và cũng từ làng Gióng nầy, xảy ra một kỳ tích được coi như là một huyền thoại chuyện lạ nhất trên đời truyền tụng mãi cho đến ngày nay.

    Bắt đầu từ câu chuyện vườn cà.

    Xóm dừa nhìn bãi dâu xanh

    Gió thu ru nhẹ lá cành làng quê

    Cánh cò bay lả bay la

    Bay qua bến nước bờ tre ruộng đồng

    Trâu nhìn đò chạy trên sông

    Mục đồng chăm chú nhìn trông cánh diều

    Khói lam tìm ánh nắng chiều

    Đàn chim nhẹ cánh tìm về núi non

    Bao la trời nhớ đất thương

    Non xanh nước biết vấn vương đất trời

    Ánh trăng vằn vặt đêm về

    À ơi tiếng hát ngọt lành mẹ ru

    Ánh đèn soi dáng người thân

    Sạm da vì bởi gió sương tháng ngày

    Hồ thu nhớ ánh trăng đầy

    Nhớ hừng đông dậy, nhớ gà báo tin

    Gâu gâu chó hỏi người đi

    Vườn cà làng Gióng có ai giữ gìn

    Người rằng có một người hiền

    Tên là Phù Thị xấu người đẹp tâm

    Mười năm ở với Đức ông

    Công, dung, ngôn, hạnh, khéo khôn ai bì

    Đức ông cảm thấy hài lòng

    Xem như con cái chẳng hề so đo

    Vườn cà chăm sóc sớm hôm

    Lòng vàng tỏa sáng còn hơn ngọc ngà

    Tiếng hiền cứ mãi bay xa

    Đến tai Thượng Đế, Trời Cha, Chúa Trời

    Huyền cơ chuyển biến tất thời

    Thiên Long Sùng Lãm xuống trần đầu thai

    Vườn cà để lại dấu chân

    Trong đêm mưa gió bão giông đùng đùng

    Bình minh rực rỡ chân trời

    Gió thu hôn nhẹ vườn cà xanh xanh

    Phù Thị nhẹ gót nhanh nhanh

    Vườn cà một lược nên hư thế nào

    Chợt nhìn kinh ngạc làm sao

    Dấu chân to lớn nao nao lòng người

    Phù Thị ướm thử chân vào

    Tự nhiên thấy cả thân người chuyển rung

    Tâm hồn kinh hãi hoang mang

    Trong người khác lạ càng thêm hãi hùng

    Từ đây Phù Thị âm thầm

    Dấu đi tất cả những gì xảy ra

    Ngày qua tháng lại ngày qua

    Bụng càng to lớn dấu đi được nào

    Tránh sao được tiếng xì xào

    Không chồng mà chửa phạm vào làng qui

    Cuộc đời họa phúc éo le

    Mấy ai tránh khỏi xưa nay thường hằng

    Sau đây câu chuyện của người

    Sử Kinh để lại cho đời xem coi

    Sự đời là tấm gương soi

    Cho bao thế hệ đời sau răn mình.

    Ở vào thời hạ Hùng Vương, đời Hùng Vương thứ 6 Hùng Huy Vương, 961 đến 893 trước Công Nguyên, ở bộ Vũ Ninh, Huyện Tiên Du, nơi làng Gióng. Có hai vợ chồng giàu có, là nhờ những vườn cà do ông bà Tổ Tiên để lại, nổi tiếng là đối nhân xử thế, ăn ở phúc Đức, nên dân làng thường gọi hai ông bà là Đức ông, Đức bà.

    Đức ông, Đức bà chỉ nuôi một người làm vườn, tên là Phù Thị, quê ở làng Phù. Cũng giống như Đức ông Đức bà, hiền lành nức tiếng, nhưng phải người hơi xấu, không được dễ coi, nên không có người dạm hỏi, tuổi thanh xuân vì thế mà trôi qua, tuổi trung niên như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã hơn bốn mươi tuổi, hơn hai mươi năm ở với Đức ông Đức bà Phù Thị lúc nào cũng xem Đức ông Đức bà như Cha Mẹ của mình, Đức ông Đức bà cũng vậy vì không có con, nên coi Phù Thị như con. Thời gian không chờ đợi ai cứ mãi trôi qua, hết ngày nầy đến ngày khác, hết năm nọ đến năm kia, Phù Thị sống cuộc sống bình yên, như mặt nước hồ thu không gợn sóng.

    Chữ ngờ ai biết được đâu

    Chỉ trong nháy mắt bể dâu cuộc đời

    Hồ thu nổi sóng ngậm ngùi

    Phải chăng số phận con người Trời ban.

    Ở làng Gióng trải qua một đêm mưa gió, sấm chớp hải hùng, hoa màu bị hư hại. Khác hơn mọi khi Phù Thị hôm nay dậy rất sớm, vì lo sợ vườn cà bị mưa to gió lớn làm hư hại. Trời vừa hừng sáng Phù Thị đã ra vườn cà, thời vô cùng ngạc nhiên vì vườn cà vẫn xanh tốt, như không có chuyện gì xảy ra, trong khi các vườn cà nhà kế bên xơ xác. Phù Thị nghĩ có lẽ Đức ông Đức bà ăn ở hiền lành nên có Thần Linh che chở bảo hộ, nên vườn cà không bị hư hại như thế nầy, Phù Thị đang đi xem xét các luống cà, bỗng phát hiện một dấu chân to lớn. Bà Phù Thị lấy chân mình ướm thử vào, để xem thua kém bao nhiêu, không ngờ vừa ướm chân vào thời thấy toàn thân rung động, chạy khắp người bà Phù Thị vô cùng kinh hãi, không dám kể lại chuyện kỳ lạ nầy với Đức ông Đức bà.

    Không ngờ sự ướm chân thử đó, bà Phù Thị dần dần mang thai, cái bụng càng ngày càng lớn.

    Đức ông Đức bà kêu Phù Thị hỏi:

    Cha nó là ai? Quê quán nơi đâu?

    Phù Thị cứ mãi làm thinh không nói ra sự thật. Đức ông Đức bà giận lắm quát mắng:

    Ta không ngờ ngươi là con đàn bà cứng đầu không biết lễ giáo như thế, làm những chuyện tày trời, mà không biết xấu hổ gì cả.

    Phù Thị biết rưng rưng nước mắt nói:

    Ông bà tha tội cho con, chuyện nầy con đâu có muốn, nhưng số con như thế con đành phải chịu.

    Bây giờ đã ra người tội lỗi

    Mặt cho đời nước chảy hoa trôi

    Hóa công sao khéo trêu ngươi

    Một mình một cảnh như người lạ xa

    Phước trong họa chuyển xây ngao ngán

    Nhằm thân nghèo xấu xí mà xây

    Nhân duyên số phận láy lay

    Chờ xem tạo hóa chuyển xây cuộc đời.

    Trong khi ấy dân làng cứ mãi xầm xì, bàn tán lan rộng ra khắp các vùng, tai tiếng của Đức ông Đức bà không nhỏ. Nhất là Đức ông là người mang tiếng hơn hết: Nào là Đức ông lấy con ở, cũng phải thôi phải có người nối dòng, nối dõi chứ, ăn ở hiền lành mà tuyệt nòi tuyệt giống sao được. Nhất là Đức bà vì không chịu được sự đàm tiếu nầy, bằng yêu cầu làng xét xử. Ngày xét xử bà Phù Thị, không những người trong làng Gióng, mà nhiều người dân trong các làng lân cận cũng kéo đến xem. Lạc Điền là vị Quan làng nghiêm khắc đã từng xử không biết bao nhiêu vụ, nhưng đều trôi chảy êm xuôi, để được làm rõ vấn đề.

    Vị Quan làng hỏi:

    Nầy bà Phù Thị, Cha của đứa bé trong bụng là ai? Tại sao không chịu ra mặt nhận trách nhiệm của mình. Bà cứ nói thật đi ai là Cha của đứa bé trong bụng.

    Bà Phù Thị không sợ hãi gì cả, trả lời thẳng thắng:

    Đứa bé trong bụng là con của Ông Đổng.

    Những người đến nghe đều giật cả mình, ông Quan làng há mồm trợn mắt, Đức ông Đức bà như muốn bật ngửa.

    Ông Quan lấy lại bình tỉnh hỏi:

    Bà Thị bà nói sao, đứa bé trong bụng bà là con Ông Đổng. Bà không sợ Ông Đổng bẻ cổ bà sao?

    Và ai cũng nghĩ bà Thị đã hóa điên, xúc phạm đến Thần Linh. Quan làng hỏi:

    Ông Đổng ăn ở với bà thế nào?

    Bà Phù Thị dõng dạc nói:

    Không ăn ở thế nào cả, tôi chỉ ướm chân tôi vào chân của Ông thế là tôi đã mang thai.

    Nghe bà Thị trả lời như thế ai nấy đều cười ồ lên, có người nói mỉa mai rằng:

    Mai tôi tới những chỗ có dấu chân ông Đổng ướm vào để sinh con.

    Và ai cũng cho bà Thị là người làm bậy xấu hổ quá hóa điên, Đức ông coi như không dính liếu gì đến vụ nầy, nên không tham gia ý kiến tùy Quan làng xét xử.

    Lạc Điền, Quan làng tức giận nói:

    Bà nói toàn là những chuyện vô căn cứ, lừa dối mọi người, với cái tội không chồng mà chửa làm xấu mặt cả làng.

    Cùng lúc xét xử ấy cũng không ít người mắn nhiếc bà, có người mắng nhiếc thậm tệ. Bà Phù Thị chỉ biết rơi nước mắt, chấp nhận số phận, mà Đấng Tạo Hóa đã an bày. Chỉ trong chốc lát bà già đi thấy rõ, có người thương xót cho số phận của người con gái không may mắn xinh đẹp như người ta, giờ lại thêm tai họa giáng xuống.

    Hồng trần trong cõi người ta

    Mấy ai thoát khỏi nạn tai cuộc đời

    Thương người cũng chính thương mình

    Hại người Trời hại thường tình xưa nay.

    Dân làng Gióng cứ nghĩ bà Phù Thị vụng trộm ăn ngủ với người ta không chịu khai nhận tội một mình. Để lắng dịu sự mắn nhiếc của dân làng.

    Quan làng xử như sau: Theo hương ước của làng, thời tội nầy đáng xử tử, nhưng nể Đức ông Đức bà, chỉ trục xuất bà Phù Thị ra khỏi làng.

    Bà Phù Thị biết không còn ở với dân làng được nữa, một mình lủi thủi đi về nơi rừng núi cách làng Gióng khá xa.

    Lủi thủi xa làng đến núi non

    Chân đầy nặng trĩu bụng mang con

    Chim kêu vượn hú lòng trống vắng

    Thảo mãng hoang vu dạ sắc son.

    Bà đến gần mé rừng ngồi dưới một gốc cây, bà nhìn những chiếc là vàng, rời khỏi cành trở về với đất, một nỗi niềm cay đắng, biết tỏ cùng ai.

    Lá vàng nầy hỡi lá vàng rơi

    Lá theo cánh gió về nơi Cội Nguồn

    Còn ta lạc bước phong sương

    Rừng xanh che chở náo nương tháng ngày.

    Bà Phù Thị mệt lã ngủ thiếp đi lúc nào không hay, đến khi thức dậy thời thấy chim muôn vạn thú đến ở xung quanh bà, chúng đem đến nhiều trái cây hoa quả, bà đã đói mấy ngày, nên bốc lấy ăn ngấu nghiến. Đêm về các nàng Tiên hiện đến dựng cái chòi tranh để cho bà ở, hơn cả tháng dân làng không biết, dân làng không thấy bà xuất hiện, hàng đêm nghe tiếng hổ gầm voi hú, dân làng đồn rằng bà bị cọp ăn thịt rồi, có người cũng lấy làm thương xót cho số phận con người, ngày lại ngày qua bà sống bình yên trong túp lều tranh.

    Thế là cuộc sống tạm yên

    Non xanh nước biếc cũng yêu Thị bà

    Rừng xanh sai quả sai hoa

    Để bà sanh sống vượt qua cơ hàn

    Sống đời cô độc một mình

    Sớm chiều làm bạn thú cầm mua vui

    Xuống đồng bắt ốc mò cua

    Đem ra làng đổi kiếm ăn qua ngày.

    Bà Phù Thị ngoài ăn hoa quả, bà còn xuống đồng, xuống mương bắt ốc mò cua sanh sống còn đem ra làng đổi lấy gạo, nuôi thân. Dân chúng thấy bà xuất hiện vô cùng kinh ngạc bà không bị cọp ăn thịt sao, không thể tin được, ở một mình trong rừng hơn cả tháng mà vẫn bình yên đây mới là chuyện lạ. Ban đầu dân còn ấn tượng không tốt với bà, có những ngày không đổi được gạo đành đem cua ốc về nấu ăn. Nhưng vì cuộc sống nuôi thân nuôi con, bà luôn luôn nhẫn nhịn, nhẫn nhục, nhẫn nại, chịu khó dần dần dân chúng không còn ghét bà nữa, ngược trở lại thương bà, từ đó bà mò cua bắt ốc đổi lấy gạo rất thuận lợi. Bà yêu chim thú như yêu bản thân mình, nên chim thú thường đến với bà, và giúp đỡ bà, trong những ngày mưa gió, cũng như những ngày bà không bắt ốc mò cua.

    Lòng chân thật động lòng chim thú

    Làm bạn đời khuya sớm có nhau

    Màn trời chiếu đất náo nương

    Hổ, voi, chim chóc đến chung một nhà

    Chim ca hát, hổ gầm voi hú

    Làm trò vui giải trí giải sầu

    Làm cho người mẹ vui vầy

    Quên đi nỗi khổ tháng ngày cô đơn.

    Dân làng thấy bà Phù Thị ở nơi hoang vu rừng núi, chim kêu vượn hú, tối về hổ voi gầm rú suốt đêm, mà bà Phù Thị vẫn bình yên, không hề hấn gì cho là có Thần Linh che chở, nên không coi Phù Thị là người xấu nữa. Có những lần bà Phù Thị xuống đồng mò cua bắt ốc, nhưng không được bao nhiêu.

    Bà liền khấn vái rằng: Nếu Trời thương hại mẹ con tôi, thời cho tôi bắt thật nhiều cua ốc, thế là bà mò đến đâu thời có cua có ốc đến đó.

    Nên lúc nào cũng bắt được nhiều cua ốc, đổi được nhiều gạo dự trữ nuôi thân, trong lúc những ngày mưa gió. Dân làng thấy bụng bà đã lớn, biết cũng sắp đến ngày sanh nở, có người thương còn cho thêm gạo. Có một hôm bọn trẻ con thấy bà Phù Thị một mình trở lại rừng xanh, bằng hát rằng.

    Lanh quanh đường đến rừng xanh

    Có người phụ nữ bước chân nặng nề

    Vai mang gạo bụng thè lè

    Chịu thương chịu khó ai bì được đâu.

    Sau có người hỏi:

    Ai dạy cho mà hát như vậy?

    Bọn trẻ trả lời:

    Có một Ông Già xuất hiện dạy hát như thế.

    Bỗng một hôm bà Phù Thị, nghe trong mình khác lạ, bằng tính đi tính lại, mang thai đã tròn mười hai tháng. Thường thường mang bầu chín tháng mười ngày là sinh, có những lần bà Phù Thị nghĩ: Thánh đầu thai nên mới khác thường như vậy. Bà thường nghe có người mang thai đến ba năm mới sanh, và bà vẫn cứ chờ đợi ngày khai hoa nở nhị, và rồi ngày đó cũng đến. Bà thấy trong mình chuyển dạ, lòng bỗng lo lắng ở nơi hoang vu rừng núi thời biết nhờ ai giúp đỡ, bà thở dài thôi thì mặt cho số phận vậy.

    Nghe trong dạ từng cơn đau thắt

    Như báo rằng con sắp chào đời

    Niềm vui quên hết đau thời

    Chỉ mong con trẻ rạng ngời bình yên

    Kìa rừng đã lặng yêm đêm phủ

    Sương đã về ru ngủ tịnh yên

    Cô đơn trong lúc đẻ sinh

    Chỉ nghe gió thổi rung rinh căn lều

    Đèn không có mịt mù tăm tối

    Sao chị hằng chậm thế chưa lên

    Ruột càng quặn thắt liên miên

    Bỗng nghe hương tỏa lan thơm khắp cùng

    Nghe trong dạ nhẹ nhàng nhẹ bổng

    Nhiều nàng Tiên bồng ẵm hài nhi

    Mệt nhoài bà đã thiếp đi

    Chừng nghe chim hót mới hay sáng trời

    Nhìn con trẻ lòng đầy sung sướng

    Con của ta là Gióng, Gióng ơi

    Bình minh rực rỡ chân trời

    Bao la rừng núi tràn đầy ấm êm.

    Nói về bà Phù Thị thấy trong mình chuyển dạ, thời đã biết mình sắp sinh, nhưng ở nơi hoang vu rừng núi nầy, biết nhờ cậy ai, trời đã lặng, đèn không có, chỉ còn biết trông chờ ánh trăng lên, bà bỗng thấy một con Rồng xuất hiện rồi biến mất, sau đó thời sanh con, hương thơm lan tỏa khắp nơi. Bà thấy Tiên nữ xuất hiện, bồng ẵm hài nhi nhưng vì mệt quá bà đã thiếp đi và không còn biết gì nữa, chừng nghe tiếng chim hót líu lo giật mình tỉnh giấc, thời mới hay trời đã sáng, ánh bình minh đã tràn về khắp núi non, một ngày mới, một ngày đẹp nhất của đời bà, các nàng Tiên cũng biến đi đâu mất, chỉ còn nghe mùi hương thơm lan tỏa khắp nơi.
     
  9. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    PHẦN 22: THÁNH CHÚA RA ĐỜI
    Niềm vui lớn nhất của bà Phù Thị là nhìn thấy người con mà mình mang trong bụng bấy lâu, cậu bé dễ thương khôi ngô tuấn đến lạ lùng, lòng dâng trào một niềm vui vô hạn.

    Lòng vui sướng nhìn con bé bỏng

    Mắt sáng ngời như tỏa hào quang

    Khôi ngô tuấn tú dễ thương

    Trời cho non nước Văn Lang kỳ tài

    Bà ôm Gióng vào lòng trìu mến

    Tình thương con lai láng trào dâng

    Cảm ơn trời đất non sông

    Cho bà một đấng hùng anh sau nầy.

    Nói về Bà Phù Thị cứ mãi ôm Gióng vào lòng, mà quên đi cả đói khác, từ đó bà Phù Thị không đi bắt ốc mò cua nữa, chỉ ở lều chăm sóc con thơ, nhờ tích trữ được khá gạo qua những ngày gian khổ bắt ốc mò cua, chim thú thi nhau đêm thật nhiều hoa quả đến, để bà ăn có sữa nuôi con. Suốt cả năm liền bà chỉ lẩn quẩn túp lều tranh, dân làng không thấy bà đi bắt ốc mò cua, cũng như xuống làng đổi cua ốc lấy gạo, thời nghĩ bà đã bị cọp ăn rồi, sói nuốt rồi, cũng không ít người rơi giọt lệ, vì cảm thương số phận đầy gian truân, xót xa đến thế.

    Một hôm có người nói:

    Nầy anh ba anh tư, nầy chị bốn chị bảy chúng ta là những người yêu thương bà Thị nhất, nhưng không dám bao che giúp đỡ vì sợ quy ước của làng, nay bà chết hay còn sống chưa rõ, sao chúng ta không đến đó một chuyến cho biết.

    Có người nói:

    Nơi bà ở có nhiều thú dữ lắm, chỉ có thợ săn mới dám đến đó mà thôi.

    Người kia trả lời:

    Chú tư, chú ba không thợ săn là gì.

    Thế là họ âm thầm tìm đến khu rừng bà Thị đang ở, nơi bà Thị ở là nơi cỏ dại hoang vu rừng núi cây cối rậm rạp, không bao lâu thời họ cũng tới khu rừng xa xa nhìn thấy túp lều tranh. Lòng họ bỗng nổi lên bao nỗi niềm thương cảm, cho con người bất hạnh, nỗi hiu quạnh cô đơn, một mình nơi rừng núi, sống nơi hoang vu không một bóng người, không hiểu bà còn sống hay đã chết. Và họ quá bất ngờ chợt nghe một giọng hát ru con từ xa vọng lại, có người nói hình như là tiếng bà Thị.

    À ơi con ngủ đi con

    Cho con mau lớn trông nom rừng già

    Con lên non núi cỡi voi

    Xuống đồng cỡi hạc bay qua ruộng đồng

    Trở thành những bậc anh hùng

    Cứu dân cứu nước giống nòi Rồng Tiên.

    Có người nói:

    Bà sanh rồi, bà đang ru con thì phải.

    Và họ đi lần đến túp lều tranh. Nghe tiếng người nói, bà liền im tiếng hát, và cũng nhận ra tiếng nói của những người tìm đến đây. Những người rất thương yêu bà, và thường hay cho gạo bà, vừa bước vào túp lều tranh họ vui mừng reo lên kìa em bé. Thì ra bà sanh con nên không đi mò cua bắt ốc xuống làng đổi gạo. Họ thi nhau xem mặt em bé, người nào người nấy đều kinh ngạc, vì em bé quá khôi ngô tuấn tú, nhất là cặp mắt sáng long lanh.

    Chị tư liền nói:

    Con Trời có khác, tôi mà có được đứa con như vầy thời khổ mấy tôi cũng chịu.

    Chị bảy nói:

    Kìa cặp mắt em bé giống cặp mắt Ông Đổng.

    Chú tư, chú ba nói:

    Tôi tin lời nói của chị Thị khi chị nói trước dân làng, quả đúng là con Ông Đổng.

    Chị bảy nói:

    Ông Đổng đầu thai chớ con Ông Đổng gì.

    Kẻ nói qua người nói lại người nào cũng có cái lý của mình, nên không ai chịu cho mình là đoán sai. Nhìn em bé quá kháu khỉnh không ai muốn xa rời, chừng nghe tiếng hổ gầm thời ai nấy đều kinh hãi, họ liền từ giả Mẹ con Phù Thị trở về làng. Cũng từ đây tiếng đồn lan xa, bà Phù Thị sanh ra Ông Đổng con, khôi ngôi tuấn tú lạ đời, một đồn mười, mười đồn trăm, trăm đồn nghìn. Thế là khắp nơi dân làng bị đánh thức sự tò mò, nhất là những người không gây ác cảm đối với bà, họ rủ nhau kéo tới một ngày một đông, họ đem cho Phù Thị đủ thứ, bà khỏi phải xuống đồng mò cua bắt ốc đổi lấy gạo nữa.

    Nói về Đức ông Đức bà, nghe bà con làng xã bàn tán ca ngợi, Phù Thị có phúc sanh ra bé trai vô cùng kháu khỉnh, tôi chưa chưa từng thấy người nào khôi ngô tuấn tú như thế, hai con mắt sáng như sao, quả đúng là một nhân tài sau nầy, quả đúng là con Ông Đổng, hay Ông Đổng đầu thai cũng vậy, tôi mà có được người con như thế thời sung sướng biết bao. Đức ông Đức bà vô cùng ăn năng qua lối cư xử không mấy sáng suốt của mình, cũng bởi gì không chịu nổi sự tai tiếng mà bỏ đi một cơ hội, hiếm có Trời cho. Nhất là Đức ông cứ tiếc nuối mãi, nước đổ khó mà hốt lại, tuổi đã già lại sanh ra nhiều phiền não buồn rầu ăn năng không bao lâu sanh bịnh qua đời. Đức ông qua đời không bao lâu, nỗi cô đơn một mình Đức bà cũng theo ông lìa trần thế, dân làng ai cũng thương Ông Bà, nhưng cũng đáng tiếc cho Ông Bà, tiếng lành, tiếng kính Ông Bà không còn như trước nữa, thay vào đó là tiếng ác, tiếng dại.

    Rừng công Đức trăm năm chăm bón

    Chỉ một mồi lửa nóng đốt tiêu

    Tiếng lành đồn khắp bao nhiêu

    Biến thành tiếng ác đổi thay vận đời.

    Nói về bà Phù Thị, nghe tin Đức ông Đức bà qua đời ôm mặt khóc lóc, dù gì đi nữa Đức ông Đức bà không coi bà là người ở, mà chỉ coi như con, ơn Đức ấy không sao đền đáp đáp được, bà Phù Thị cầu nguyện cho Đức ông Đức bà sớm siêu sanh về Trời. Túp liều không vắng lặng vì có nhiều người đến thăm, nhưng lòng bà đau đớn, vì nỗi thương nhớ Đức ông Đức bà, cũng đúng thôi, vì bà Phù Thị sống với Đức ông Đức bà trên 20 năm, tình nghĩa ấy không dễ gì phai mờ được, nhìn bà khóc như vậy.

    Những người đến thăm nói:

    Đức ông Đức bà đối xử với bà không được tốt, thương khóc mà làm gì, kìa em bé nhìn bà kìa. Tên em bé là gì?

    Ai nấy chờ nghe câu trả lời của bà. Bà Phù Thị trả lời:

    Tôi đặt tên cho con là Phù Đổng, vì quê tôi ở làng Phù, quê con ở làng Đổng.

    Dân làng đến thăm viếng nghe bà Phù Thị đặt tên cho con hay làm sao, ai nấy cũng khen. Có người nói:

    Chị kết hợp bộ ba đặt tên cho con hay quá.

    Có người nói:

    Tôi phải thầm phục cho chị Phù, chị kết hợp làng Phù của chị, làng Đổng của con chị, cọng với tên Đổng Cha khổng lồ, ôi cái tên vừa đẹp vừa Linh Thiêng, Phù Đổng nghe hay quá.

    Có người nói:

    Tên Phù Đổng Linh Thiêng quá, vì động đến Ông Đổng Long Đế Khổng Lồ Cha, không ai dám gọi đâu, chi bằng xóm cà là xóm Gióng, thôi đặc cho em một tên phụ là Gióng.

    Ai nấy cũng cho là quá phải, từ đó tên bé Gióng lan truyền khắp nơi. Gióng vẫn lớn bình thường như bao em bé khác, nhưng điều khác lạ ở đây là đã gần ba năm mà Gióng không cười không nói, ngoài ăn uống ra gióng không muốn chơi đùa với ai cả. Những người đến thăm viếng thiếu kiên nhẫn, cho đây là điềm chẳng tốt đẹp gì, niềm tin đối với bé Gióng ngày càng càng giảm sút, tiếng đồn lan ra dần dần cũng ít người đến. Bà Phù Thị không lấy đó làm buồn, sự đời là thế, nghe Ông Đổng con thời ai cũng đến, vì con Trời con Thánh, chừng khi nhìn không phải thời ai ai cũng dần dần bỏ đi.

    Có quyền có lực có uy

    Nghìn non vạn núi người ta cũng tìm

    Sa cơ khốn khổ cùng đường

    Ở trong đô thị ai mà thấy chi.

    Buổi chiều thu tuy rừng núi chưa chìm trong vắng lặng, nhưng lòng bà Phù Thị đã chìm trong nỗi buồn, cảnh nơi đây vốn là u tịch, lại thêm cuộc đời đơn chiếc.

    Lòng buồn cảnh có vui đâu

    Cảnh buồn người lại âu sầu cô đơn.

    Đúng thôi ngay cánh chim kia, khi chiều tắt đã vội vã trở về, thế mà còn ta, ta về đâu nhĩ, thân nghèo lại bị người ta ruồng bỏ, xa lánh.


    PHẦN 23: TRỞ LẠI QUÊ LÀNG
    Bà Thị nhìn con rồi nói thầm: Hãy đến một nơi khác đi con, nơi mà hai mẹ con mình không ai biết đến, vì không muốn làm phiền đến ai nữa.

    Bà bồng con đến sống dưới bóng cây cổ thụ, cách nơi ở chỗ bà khá xa, trên một cái gò nổi giữa đầm. Nơi đây có nhiều hoa quả, dưới đầm thật nhiều cua ốc, bà no đủ qua ngày.

    Các Nàng Tiên lại xuất hiện, tắm rửa cho Gióng, và thường nói với Bà:

    GIÓNG là Thiên Long Vương xuống trần đầu thai, sau nầy lớn lên đánh giặc Ân cứu nước.

    Hơn ba năm GIÓNG cứ nằm yên hết chõng tre giờ đến chỏng đá, bà Thị nhìn con mà trong lòng vô cùng thương cảm, lâm râm khấn rằng.

    Con là Long Đế giá lâm

    Cớ sao con mãi nín câm thế nầy

    Bây giờ non nước nầy đây

    Giặc Ân xâm lấn ôi nầy khổ dân

    Con ôi hãy nói cười lên

    Con mau chóng lớn mà đi diệt thù.

    Lời cầu khấn Mẹ Gióng vừa xong, Thời GIÓNG mở to đôi mắt, tỏa ra hai đạo hào quang, cất tiếng kêu Mẹ đầu tiên vang lên như sấm, làm chấn động đến núi rừng, làng bản.

    Đến lúc đó GIÓNG mới rời khỏi chõng đá nói với bà Thị rằng:

    Hãy trở về làng sống với dân chúng.

    Nói về bà Phù Thị khấn vái xong liền thấy Gióng mở to hai con mắt hai đạo hào quang tỏa ra sáng ngời, bà lấy làm kinh dị, chừng nghe Gióng gọi Mẹ làm chấn động cả núi non làng bản, bà vô cùng mừng rỡ reo lên, con đã nói cười được rồi con của ta bà ôm Gióng vào lòng. Gióng để cho Mẹ lắng dịu qua cơn xúc động, liền nói hãy trở về với dân làng đi Mẹ, dân làng đang trông đợi, kiếp nạn đã hết. Đây nói về Huyện Tiên Du trúng mùa một cách kỳ lạ, nhất là hai làng, làng Phù, và làng Gióng, cũng như xốm cà, lúa thời trổ hai bông trĩu hạt, ngô khoai xanh tốt trúng mùa lạ kỳ, nhất là vườn cà dân làng trúng mùa chưa từng thấy, dân chúng Huyện Tiên Du đang thu hoạch trúng mùa lấy làm vui sướng vô cùng, cho là điềm lành Trời đãi. Ông Đổng đã ban cho dân chúng trúng mùa, họ liền nhớ đến Ông Đổng con, không hai mẹ con bà Thị hiện bây giờ đang ở nơi đâu. Bỗng dân chúng thấy trên bầu trời, nhiều đàn chim bay khắp Huyện Tiên Du hát rằng.

    Thánh Gióng về làng, Thánh Gióng về làng

    Kìa hai mẹ con, không bao lâu sẽ đến

    Hãy mau tiếp đón

    Thánh Gióng về làng

    Hãy mau tiếp đón

    Thánh Gióng về làng.

    Đàn chim cứ bay trên bầu trời ca hát như thế, dân chúng nghe theo kéo đến Làng Gióng đông như ngày hội, rồi ra khỏi làng đi đón hai mẹ con Gióng. Dân chúng vừa kéo nhau ra khỏi làng, thời thấy voi, hổ, sư tử, đại bàng, chim điêu đưa Mẹ con Gióng về làng, dân chúng thấy voi, cọp, sư tử, chim điêu, có người sợ đến ngất xỉu.

    Gióng nói với dân chúng:

    Không có gì phải sợ.

    Tiếng nói như sấm chấn động cả núi non làng bản. Đàn voi, đàn hổ, đàn sư tử, đàn chim điêu, không tiễn Mẹ con Gióng về làng nữa, mà quay trở lại về rừng, dân chúng giờ đây tuyệt đối tin Gióng chính là Ông Đổng đầu thai, bằng thi nhau mà lạy và gọi bé Gióng là Thánh Gióng.

    Trời thương Bách Việt sơn hà

    Từ trong thảo mãng sanh ra Kỳ Tài.

    Dân làng khắp nơi tiếp đón Mẹ con Gióng vô cùng rầm rộ, để chuộc tội ngày xưa lầm lỗi xử oan cho bà Thị. Ông Quan trưởng làng Lạc Điền, dẫn cả nhà đến tạ tội và xin nguyện cùng dân làm nhà cho bà Thị ở. Mẹ con Phù Thị được dân làng khắp nơi sùng kính kẻ góp công người góp của chỉ trong vòng một ngày thời có một ngôi nhà khang trang sạch đẹp, dân làng nấu cơm dân lên cho Mẹ con Gióng ăn.

    Gióng nói:

    Ta sắp đi đánh giặc Ân, dân làng hãy cho ta ăn thật no, ta mới đủ sức đánh giặc Ân được.

    Dân làng nói:

    Thánh cứ ăn thật no.

    Nhưng lạ thay Gióng ăn cơm với cà hết nồi nầy sang nồi khác mà vẫn không thấy no. Dân làng kinh hãi ăn như thế nầy thời cơm gạo lấy đâu ra ăn cho đủ, dân làng thấy Gióng mau lớn một cách kỳ lạ, chỉ trong vòng ba ngày mà đã cao lớn như đứa trẻ mười tuổi, chuyện kỳ lạ nầy đồn ầm lên khắp Huyện Tiên Du, dân chúng thi nhau gánh cơm gánh gạo, gánh cà đến nấu cho Gióng ăn. Nhất làng Phù, quê bà Phù Thị, cùng làng Đổng thi nhau dâng cơm dâng cà cho Đổng ăn. Chỉ trong vòng có mấy ngày mà tiếng đồn lan đến Kinh Thành.

    Xóm Gióng bừng lên Đấng Kỳ Tài

    Danh rền vang động đến bên tai

    Vua Hùng sai sứ xem hư thiệt

    Văn Lang kỳ tích rạng trời mây.


    PHẦN 24: TRIỀU ĐÌNH
    Trời cho Bách Việt Việt Sơn Hà

    Lạc Hồng nòi giống sanh ra Kỳ Tài.

    Nói về Hùng Vương thứ 6, Hùng Huy Vương, (Pháp Hải Lang) 961 đến 893, trước Công Nguyên. Gặp thời binh đao máu lửa nổi lên khắp Bắc Văn Lang, phần thì giặc nội loạn, nhiều bách tộc Bắc Văn Lang nổi lên đòi tự trị, tự xưng Vua, xưng Chúa, nổi lên chiếm lĩnh từng vùng, làm đau đầu cho triều đình. Nhất là Hùng Huy Vương, ăn không ngon ngủ không yên, ra sức dẹp yên nội loạn nhưng không được, trở thành cảnh nồi da nấu thịt, Bách Việt Bắc Văn Lang tàn sát lẫn nhau, Đây là cảnh đầu tiên xảy ra trên đất nước Bắc Văn Lang, nguyên nhân là bởi hấp thụ nền văn hóa phương Bắc, đi theo chiều hướng của phương Bắc, nổi lên đòi tự trị chia ra nhiều nước nhỏ, không ai chịu dưới quyền ai, dẫn đến thôn tính lẫn nhau, trở thành cảnh Bách Việt nồi da nấu thịt, dân chúng đồ thán khốn khổ vô cùng, cảnh chết chóc xảy ra hằng ngày, lọt vào âm mưu của nhiều thế lực phương Bắc, chờ cho Bắc Văn Lang suy yếu là chúng đưa quân xâm lược. Và điều đó cũng đã đến.

    Hùng Huy Vương, đã lấy làm đau đầu cho tình cảnh nội loạn Bắc Văn Lang chưa giải quyết xong, thời quân Ân, quân Hồ, quân Hung Nô, đã tràn qua xâm lược. Với thế mạnh của ngoại xâm tràn qua Bắc Văn Lang như nước lở, tiêu diệt sạch những ông Vua Việt mới nổi lên đòi tự trị, đây là điều đáng mừng cho nước Văn Lang, nhất là Hùng Huy Vương. Nhưng quân xâm lược không chỉ chiếm lấy Bắc Văn Lang, mà muốn nuốt trọn nước Văn Lang, một thứ giặc vô cùng đáng sợ, lại hết sức tàn bạo, chúng đi đến đâu thời dân Văn Lang trở thành nô lệ thảm khốc đến đó, chúng vơ vét sạch chẳng chừa một thứ gì, cảnh sợ hãi làm cho dân Văn Lang ăn ngủ không yên.

    Nước non binh lửa dậy khắp nơi

    Dân chúng khổ sai hận ngập trời

    Móng vuốt sói lang loài ác quỷ

    Xốm làng thê thảm chúng nuốt xơi.

    Hùng Huy Vương, đưa quân chống trả nhưng đều thất bại, hết Tướng tài, bằng ra cáo thị cầu hiền tài khắp đất nước ai có tài thời ra cứu nước, sẽ được phong Quan Chức lớn, không ít người ra cứu nước nhưng tất cả đều đi vào thất bại. Tin thất trận dồn dập báo về Triều Đình, làm Hùng Huy Vương càng thêm lo lắng, lập đàn cầu Trời, cầu Tổ ngày đêm không dứt.

    Thỉnh thoảng nàng mây tự ngẩn ngơ

    Quê hương binh lửa tự bao giờ

    Khắp nơi tràn ngập mùi chết chóc

    Xốm làng vắng ngắt cảnh xác xơ

    Hồn nghe rét buốt luồn trong gió

    Quê gầy, làng úa, xốm héo khô

    Nước non tan tóc quân giặc xéo

    Tràn ngập hung tin nát cơ đồ.

    Ngày nào cũng vậy Triều Thần đi dự họp đầy đủ, Quan Văn Quan Võ đủ mặt, lúc nào cũng bàn kế sách chống giặc Ân, có lẽ các Quan Văn Võ cũng đã hết mưu kế, nên mấy ngày nay không ai đưa ra kế sách gì mới.

    Hùng Huy Vương lấy làm buồn phiền, nhưng rồi cũng phải hỏi:

    Các Quan Văn Võ có kế sách gì mới không?

    Các Quan chỉ biết im hơi lặng tiếng. Khi ấy có một vị Quan Lạc Thư chuyên coi về sổ sách, bước ra tâu rằng:

    Bẩm Quốc Vương, Bệ Hạ. Thần nghe ở Huyện Tiên Du có một cậu em tên là GIÓNG, nói sẽ đi dẹp giặc Ân, theo Thần nghĩ Quốc Vương Bệ Hạ nên cho mời em bé ấy đến ban cho ấn lệnh đi chống giặc Ân.

    Triều Thần nghe Quan Lạc Thư tấu trình như vậy thời cười ô lên. Hùng Huy Vương hỏi:

    Các khanh cười chuyện gì?

    Các Quan trả lời:

    Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Quan Lạc Thư nghĩ giặc Ân toàn là trẻ con chắc, nên mới đề cử chuyện lạ đời như vậy. Tài giỏi như Nguyên Dực, Nguyên Minh, như Cao Sơn, Cao Hải đành phải thất trận, xin thêm 20 vạn quân nữa may ra mới chống trả lại ngăn bước tiến quân Ân. huống chi chỉ là một trẻ con, lời đồn nầy chỉ là khích lệ tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm mà thôi, xin Bệ Hạ minh xét.

    Hùng Huy Vương nghe các Quan tâu cũng có lý, ý định cho qua không bàn tới nữa. Bỗng có một vị Quan Lạc Hầu lên tiếng:

    Bẩm Quốc Vương, Bệ Hạ. Theo Hạ Thần nghĩ lời Quan Lạc Thư cũng có lý, lúc này là lúc cần người tài ra giúp nước, dù người đó là ai, bà già, trẻ con, người dân bình thường mà nổi tiếng như vậy, thời cũng nên xem xét, thực hư. Hạ Thần sẽ đảm nhiệm việc nầy tới làng Đổng xóm Gióng để xem hư thực ra làm sao.

    Thế là Vua Hùng giao nhiệm vụ cho Quan Lạc Hầu Thượng Thư. Đây nói về Quan Lạc Hầu Thượng Thư, đến Huyện Tiên Tu nghe dân chúng đồn ầm khắp nơi, Gióng là người Trời có khác ăn hoài mà chẳng thấy no chỉ trong vòng ba ngày Gióng cao lớn một cách kỳ lạ. Quan Lạc Hầu Thượng Thư đi gần đến làng Gióng thời thấy dân chúng kẻ khiêng gạo người khiêng cà, tới xóm Gióng tấp nập. Quan địa phương Lạc Điền, nghe có Quan Thượng Thư từ Triều Đình đến, liền tiếp đón tử tế, hành lễ xong.

    Quan Lạc Điền hỏi:

    Bẩm Quan trên Quan trên đến làng, xóm nghèo khổ nầy chẳng hay có chuyện gì?

    Quan Lạc Hầu Thượng Thư nói:

    Ở đây có chuyện Thánh Gióng thật sao?

    Bẩm Quan lớn:

    Quả là đúng như vậy, Thánh Gióng chính là Ông Đổng Khổng Lồ đầu thai, Ông ăn dữ lắm có lẽ Ông ăn hết sạch lúa gạo dân chúng mất.

    Quan Thượng Thư càng nghe càng kinh khiếp, sau đó Quan làng Lạc Điền, dẫn Quan Lạc Hầu Thượng Thư đến gặp Gióng, khi ấy Gióng không phải là trẻ con, mà là một thiếu niên. Quan Thượng Thư vừa đến chứng kiến thấy Gióng vừa ăn hết mấy chảo cơm, thời quả lời đồn không sai. Gióng nghe Quan làng giới thiệu vị Quan mới đến là Quan Lạc Hầu Thượng Thư, vị Quan lớn thuộc hàng bậc nhất bậc nhì trong Triều, ai nấy nghe xong cũng đều kinh hãi, Gióng như không nghe lời giới thiệu đó, chỉ thi lễ mời vị Quan Thượng Thư ngồi, vị Quan Thượng Thư không dám khi dễ đáp lễ rồi cùng ngồi. Vị Quan nóng lòng không chờ đợi lâu lên tiếng hỏi, hỏi tới đâu Gióng trả lời thông suốt đến đó, vị Quan đến giờ nầy mới thật sự kinh hãi, liền vái lạy Gióng, cầu xin Gióng hãy cứu lấy nước non.

    Thánh Gióng nói:

    Ta lâm phàm xuống trần là để cứu nước cứu non trả lại sự bình yên cho dân chúng, nhưng ta có những yêu cầu Triều Đình phải chu cấp cho thật đầy đủ.

    Quan Thượng Thư nói:

    Thánh yêu cầu gì, Thần về sẽ tâu lên Quốc Vương.

    Gióng nói:

    Cấp cho ta thật nhiều lương thực, nuôi đủ mười vạn quân trong một tháng, vận chuyển đến đây mười tấn thép, mười tấn sắt, một nghìn thợ rèn giỏi, năm nghìn lượng vàng, một nghìn con ngựa chiến, nghìn cung tên tốt, hàng vạn mũi tên. Nhớ là sắt, thép, vàng, không thiếu một cân, thợ rèn không thiếu một người, ngựa phải đủ không thiếu một con, cung, tên, nhất nhất đều đúng như vậy, phải đúng là trong vòng nửa tháng tất cả đều có đủ không thiếu một món nào, thời ta sẽ đánh tan giặc Ân, trong vòng nửa tháng.

    Vị Quan Thượng Thư nghe Gióng nói tới đâu lấy làm kinh hãi đến đó, liền từ biệt Gióng cấp tốc về Kinh Đô trình tấu lên Vua Hùng.

    Sau có thơ rằng:

    Quan về Quan nói với Vua

    Xuất kho mười tấn thép nguyên ta dùng

    Chọn cho nghìn vị thợ rèn

    Đưa thêm mười tấn sắt, đồng, cho mau

    Kim loại sạch đã luyện tôi

    Đưa thêm nửa tấn vàng nguyên ta dùng

    Cấp cho lương thực thật nhiều

    Để ta no bụng tiến hành diệt Ân

    Ngựa nghìn con, vạn vạn cung tên

    Để cho chiến sĩ xông lên diệt thù

    Hãy về tâu với Triều Đình

    Không nên để thiếu dù là nửa cân

    Trong vòng một tháng không hơn

    Thời ta đánh bại quân Ân tơi bời

    Giặc Ân khiếp vía kinh hồn

    Hết mong xâm lấn cõi bờ Văn Lang

    Nước non trở lại bình an

    Thái bình thịnh vượng giàu sang yên lành

    Mau mau không được trễ chầy

    Trong vòng nửa tháng phải thời có ngay.

    Nói về Lạc Hầu Quan Thượng Thư lấy làm vui mừng vì chứng bao chuyện lạ của Gióng, bằng nhanh chóng trở về sáng ngày cho kịp buổi Chầu Vua. Hôm nay là ngày đẹp trời không còn u ám như ngày hôm qua, ánh bình minh rực rỡ như báo hiệu nước non sắp yên bình trở lại, các Quan đi chầu rất sớm.

    Trên bệ Rồng Hùng Huy Vương nói:

    Trẫm thấy hôm nay khỏe khoắn lạ kỳ có lẽ là điềm lành xuất hiện chăng.

    Các Quan cũng đồng thanh nói:

    Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ chúng Thần cũng cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng, không hiểu là có điềm lành gì.

    Hùng Huy Vương kiểm lại các Quan thời chỉ thiếu Quan Lạc Hầu Thượng Thư vì còn bận công tác đi đến làng Gióng chưa về. Hùng Huy Vương nói:

    Không hiểu ở làng Gióng hư thật thế nào, Trẫm nóng lòng quá.

    Hùng Huy Vương vừa dứt lời thời thấy Quan Lạc Hầu Thượng Thư bước vào. Hùng Huy Vương lấy làm mừng nói rằng:

    Quan Thượng Thư quả thật Linh Thiên, vừa nhắc đến thời có ngay.

    Các Quan vô cùng hồi hộp chờ lời xác minh của Quan Thượng Thư về đứa trẻ nơi làng Đổng xóm Gióng, với vẻ điềm nhiên của Quan Lạc Hầu Thượng Thư làm cho các Quan càng thêm sốt ruột.

    Hùng Huy Vương nói:

    Quan Thượng Thư sao bữa nay ông tấu trình chậm thế.

    Đến lúc nầy Quan Thượng Thư mới tấu trình rằng:

    Muôn Tâu Quốc Vương Bệ Hạ, quả xốm Gióng đã xuất hiện Thánh Gióng.

    Cả Triều Đình ai nấy cũng đều ồ lên: Có Thánh Gióng xuất hiện thật sao?

    Quan Thượng Thư nói:

    Nhưng sự yêu cầu Thánh Gióng không phải là nhỏ.

    Hùng Huy Vương nói:

    Thánh Gióng cần bao nhiêu vạn quân, bốn mươi vạn hay năm mươi vạn.

    Muôn Tâu Quốc Vương Bệ Hạ:

    Thánh Gióng không yêu cầu thứ đó.

    Nghe lời nói của Quan Thượng Thư, không chỉ các Quan Văn Võ, mà ngay cả Hùng Huy Vương cũng bất ngờ phải nói là vô cùng kinh ngạc.

    Hùng Huy Vương ngơ ngác:

    Thánh Gióng yêu cầu thứ gì? Quá mức của triều đình ta chăng?

    Quan Thượng Thư nói:

    Có thể nói là quá mức, nếu không quyết tâm thời khó mà thực hiện được.

    Hùng Huy Vương nóng ruột nói:

    Khanh cứ nói đại ra triều đình ta có đáp ứng được không.

    Đến lúc nầy Quan Lạc Hầu Thượng Thư mới đi vào vấn đề chính, kể lại tất cả những gì tai nghe mắt thấy, ai nấy cũng lấy làm kinh dị cho sự xuất hiện một Đấng Trời sanh Thánh Đế nầy, cứu lấy vận mệnh nước Văn Lang.

    Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ, Thánh Gióng yêu cầu:

    Cấp đủ lương thực nuôi một vạn quân trong vòng một tháng. Một nghìn con ngựa chiến, một nghìn chiếc cung loại tốt, năm vạn mũi tên, nửa tấn vàng.

    Nói đến đây Quan Thượng Thư dừng lại. Hùng Huy Vương nghe xong thời cười nói:

    Những thứ yêu cầu đấy đối với nước Văn Lang ta thời chỉ là hạt cát, yêu cầu như thế thời có gì là khó đâu.

    Muôn tâu Quốc Vương:

    Nếu chúng ta không quyết tâm thời khó mà được sự yêu cầu đó chỉ trong vòng nửa tháng.

    Hùng Huy Vương hỏi:

    Sự yêu cầu đó là gì? Ông hãy nói mau cho ta nghe.

    Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ:

    Thánh Gióng yêu cầu Bệ Hạ xuất mười tấn thép, bảy tấn sắt, ba tấn đồng, với một nghìn thợ rèn giỏi, cấp tốc đến làng Đổng, chỉ trong vòng nửa tháng phải có, không được chậm trễ, thép, sắt, đồng, vàng, không được thiếu một cân.

    Hùng Huy Vương nghe sự yêu cầu nầy liền ngớ người ra, vì vận nước như dầu sôi lửa bỏng, phải thực hiện cho bằng được, bằng cho mời quan giữ kho thép đến hỏi:

    Còn được bao nhiêu?

    Kho thép là kho báu vật Quốc Gia, dùng để chế tạo ra các vũ khí sắc bén, không có thép nước nào sánh lại được thép nước Văn Lang.

    Quan giữ kho tâu:

    Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ, trong kho chỉ còn tám tấm.

    Hùng Huy Vương liền tức tốc cho thu hồi thép khắp đất nước, chọn một nghìn thợ rèn giỏi cùng khắp đất nước, tất cả đều chuyển đến làng Đổng, trong vòng mười ngày, nếu chậm trễ chém đầu. Thế là các quan mỗi người một việc, ra sức ngày đêm không nghĩ và tất cả đều hoàn thành sau mười ngày.
     
  10. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    PHẦN 25: THAO LUYỆN BINH MÃ
    Lúc bấy giờ làng Gióng người ta như hội kẻ tới người lui tấp nập, GIÓNG giờ đây tuy mặt còn non trẻ, nhưng cao lớn như người thanh niên vạm vỡ oai phong lẫm liệt, ra sức chỉ huy một nghìn thợ rèn chế tạo rèn đúc áo giáp thép, mão thép, áo giáp ngựa thép, roi thép, áo giáp sắc, áo giáp đồng, áo giáp ngựa sắt, áo giáp ngựa đồng.

    Nói về nghìn thợ rèn ngày đêm tốc lực, rèn đúc mài dũa chế tạo ra bộ áo giáp người, giáp ngựa, như vảy con tê tê, tiếng búa đập chan chát, dậy làng dậy xóm dậy núi dậy non, tiếng mài dũa rào rào nghe mà kinh mà khiếp.

    Tiếng rèn đúc âm vang mấy cõi

    Tiếng rào rào mài dũa kinh thiên

    Ầm ầm dội đến quân Ân

    Làm cho khiếp vía hồn kinh hãi hùng.

    Đây nói về khắp Bộ Vũ Ninh, cũng như các Bộ các Châu, các Quận, các Huyện xa gần lân cận Bộ Vũ Ninh, nghe tin Thánh Gióng xuất hiện chuẩn bị xuất quân đi đánh giặc Ân, thời khắp nơi, nhân tài kéo đến lũ lượt xin gia nhập đội quân của Gióng. Nói về ở Hội Xá Gia Ninh, có nhiều đoàn trẻ chăn trâu chân bò, chúng thường chơi nhau lập trận, rước cờ bông lau, đánh trống da ếch số đông lên đến cả trăm, gõ thanh tre, chơi tập trận.

    Nhìn bọn trẻ chơi nhau tập trận

    Trống dập dồn quân tiến quân lui

    Gõ thanh tre bao vây quân dịch

    Tiếng xung phong rền núi dậy non

    Cỡi trâu cát bụi tung bay

    Cỡi bò tay phất cờ lau vù vù

    Reo hò trống dậy trống dồn

    Thanh tre rôm rả vang lừng đồng quê.

    Tiếng la hét của bọn trẻ dậy non dậy núi, quân Ân thua rồi, quân Ân thua rồi. Cùng lúc ấy nhiều đoàn trẻ chăn trâu chăn bò, xa gần Hội Xá kéo đến số đông lên đến cả trăm, chúng hội nhau gia nhập đoàn quân của Gióng. Thế là hơn mấy trăm trẻ chăn trâu chăn bò kéo đến làng Gióng xin gia nhập đội quân của Gióng. Gióng chấp nhận, và cho luyện tập binh mã, mỗi lần GIÓNG phất cờ điều khiển trận pháp, tức thời đàng trẻ chăn trâu, chăn bò lớn lên một cấp, từ thiếu niên vụt lớn thành thanh niên tráng sĩ, thịt bắp vai u sức mạnh vô địch. Gióng lúc nầy tuy mặt vẫn còn trẻ con, đã biến thành một tráng sĩ, mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Gióng cho người khiêng giáp người giáp ngựa, gươm đao giáo mác đến, trang bị cho đội quân chăn trâu, chăn bò, đã biến thành đội quân dũng sĩ. Đội quân dũng sĩ, trang bị ngựa mặt giáp sắt, giáp đồng, người mặt giáp sắt, giáp đồng, với thanh đại đao trong tay sáng ngời, các dũng sĩ đồng lên ngựa diễn trận, dân chúng xem coi kinh hoàng khiếp vía, ánh đao tuôn ra lạnh cả người, dân chúng la lên ngựa sắt, người sắt, khiếp quá, khiếp quá, đoàn quân ngựa sắt lao tới lao lui nhanh như cuồng phong vũ bảo. Dân chúng hò reo đội quân bách chiến bách thắng, đội quân bách chiến bách thắng.

    Nói về làng Môi, làng Mòi, những trai tráng khỏe mạnh cũng xin gia nhập đội quân Gióng, trong đó có ba anh em nhà Ba Chạ, có sức khỏe lạ đời, một tay cầm lấy ba trăm cân như cầm lấy một hòn đá nhỏ.

    Nói về một số người thường câu cá trên các dòng sông nghe tin GIÓNG chuẩn bị xuất quân đánh giặc Ân, liền kéo đến xin gia nhập quân binh của Gióng. Những người thợ săn khắp nơi xa gần cũng thế, kéo đến xin gia nhập quân binh của Gióng.

    Đây nói về làng Y Na, có một người đàn bà ăn ở phúc Đức, ba đời đều chữa bệnh cho dân, khắp nơi xa gần ai cũng mến phục, người đàn ấy tên là Cao Thị.

    Một hôm có một cái cầu vồng năm sắc hiện ra trên bầu trời, và nhắm thẳng người đàn bà sa xuống, bà Cao Thị liền thấy trong mình khác lạ. Từ đó bà mang thai, đến ngày sanh nở bà sanh ra một bọc, sanh ra năm người con trai. Năm anh em khi đến 12 tuổi, bà Cao Thị qua đời, nhưng nhờ gia tộc bà Cao Thị cũng khá giả nên năm người con không lấy gì làm khổ nhọc, năm anh em cùng trong một bọc mau lớn lạ đời nầy tài năng vô cùng, một người tên Kim, một người tên Mộc, một người tên Thủy, một người tên Hỏa, một người tên Thổ.

    Hùng Huy Vương ra cáo cầu hiền khắp đất nước, năm anh em xé bản cầu hiền, tức thời Quan dán bản cáo thị báo cho Vua Hùng biết. Hùng Huy Vương cho người đến khảo sát tài năng, thấy năm anh em trong một bọc sanh ra, quả là tài năng vô cùng võ nghệ cao cường thần thông quảng đại, bằng dâng tấu sớ lên Vua Hùng, phong cho Quan tước, cũng như theo sự yêu cầu của năm anh em, nhà Cao Thị, là gia nhập vào đội quân của Gióng. Các bô lão trong làng Y Na lại tiến cử 35 người con trai khỏe mạnh tài giỏi nhất làng theo năm anh em Ngũ Tài. Cả làng mổ trâu, mổ bò, mổ dê, mổ lợn, gà vịt tế lễ trời đất, khao thưởng năm anh em Ngũ Tài, cùng 35 người con trai khỏe mạnh, lên đường đánh giặc Ân sát nhập với quân Gióng nơi làng Đổng.


    PHẦN 26: HỘI TỤ TINH HOA
    Khi Gióng trở về làng Đổng tuyên bố đánh giặc Ân, những người tin Gióng theo Gióng đầu tiên, là ba vị Kỳ nhân tên là ông Trấn, ông Trâu, ông Bạch Sam ở núi Tiên, theo sự yêu cầu của Gióng, một nghìn thợ rèn dốc sức ngày đêm không nghĩ hơn nửa tháng thì hoàn thành đến lúc nầy GIÓNG mình cao hơn trượng cao lớn như người Khổng Lồ. Gióng hú lên một tiếng làm chấn động núi non rừng thẳm, thời từ xa xôi có tiếng ngựa hí đáp lại, trên không trung liền xuất hiện một con ngựa Thần bay tới, to lớn gấp mười lần con ngựa thường, to lớn hơn một con voi to, ngựa đáp chân xuống đất làm rung rinh nhà cửa, dân làng kinh hãi khiếp sợ. Hỡi dân làng giờ xuất trận cũng gần đến dân làng hãy cho quân binh ăn thật no. Riêng nấu cho ta đầy bảy nong cơm, cà muối ba nong.

    Sau có thơ rằng.

    Bảy nong cơm, ba nong cà

    Uống một hơi nước cạn đà khúc sông.

    Nói về các thợ rèn chỉ rèn đúc lắp ráp theo lời chỉ bảo của Gióng, chớ không động đậy gì nổi những đồ của Gióng dùng, chỉ cần roi thép của Gióng cũng nặng hơn hai tấn dài to vót như một cây tre, mấy chục thước, không có quân binh nào khiêng cho nổi. Gióng bước đến nhiều mảnh áo giáp ngựa, mỗi mảnh giáp nặng gần cả tấn, thế mà Gióng xách lên nhẹ như không, như xách con gà con, ai nhìn thấy cũng phải kinh hồn bạt vía. Gióng ráp xong các mảnh giáp lên mình ngựa xong, biến con ngựa Thần thành con ngựa thép sắt, tức thời hơi thép lành lạnh tuôn ra đến khiếp người. Gióng mặt giáp xong liền biến thành con người thép sắt khổng lồ, Gióng bước tới cây roi thép dài to vót như cây tre, cuối người xuống cầm lên một cách nhẹ nhàng, như cầm một cây roi tre chăn bò, với một sức mạnh chưa từng thấy bao giờ, Gióng múa roi một cái tức thời cuồng phong nổi dậy ầm ầm, cát bay đá chạy, dân chúng nhìn thấy sức mạnh Thần Kỳ của Gióng, có người sợ muốn xỉu, dân chúng nhìn Gióng cỡi lên con ngựa thép, ánh thép sáng ngời ngời tay cầm roi thép, phóng lên yên ngựa tức thời đất đai liền sụt lún xuống, con ngựa dẫm chân làm rung rinh nhà cửa, dân chúng có người sợ đến muốn chết ngất, vì quá khiếp. Gióng vỗ vào lưng ngựa, tức thời con ngựa phun ra lửa sấm sét nổi lên. Gióng phi ngựa một vòng, ngựa phi tới đâu, thời thành ao tới đó, kình phong tuông ra ầm ầm làm cho cây cối ngã đổ ai nấy đều kinh hồn bạt vía. Gióng phi ngựa trở về chỗ cũ, bọn trẻ thấy ngựa Gióng vẫn còn chỗ trống hở, liền lấy bông lau dắc vào cho kín. Gióng chưa xuất quân hình như chờ đợi ai đó, khi ấy dân làng nghe tiếng hổ gầm, voi hú, dậy trời như chờ Gióng xuất trận là lao theo. Bỗng dân làng thấy mấy người nông dân làm ruộng, mấy người nông dân trồng tre, đến gia nhập đạo quân, Gióng nói tất cả đều đến đầy đủ rồi, chuẩn bị xuất quân Gióng liền vỗ vào hông ngựa con ngựa hí lên rung trời chuyển đất, mồm phun lửa rực đỏ cả bầu trời.

    Gióng chỉ roi về hướng Bắc thét lớn:

    Tiến quân.

    Tức thì đoàn quân hỗn hợp, cuồn cuộn lao về hướng Bắc. Dân chúng thấy quân Gióng đi nhanh như cơn bão vượt qua núi, không cần đường mòn, vượt qua sông không cần thuyền bè. Sau có thơ rằng:

    Quân Gióng là quân nhà Trời

    Vượt qua sông núi lạ đời như không

    Quân binh cuồn cuộn bão dông

    Tiến về phương Bắc quyết tâm diệt thù.


    PHẦN 27: DIỆT THÙ
    Lại nói về Nguyên Minh, bị quân Ân phá trận ngũ hành đánh bại, quân binh chết vô số kể, kéo tàn quân chạy về Vân Châu, tránh sự truy sát của quân Ân. Cánh quân Cao Hải bị quân Hung Nô đánh bại cũng chạy về Vân Châu, Nguyên Minh, Cao Hải gặp nhau trong tình thế vô cùng bi đát, bại trận thê thảm, than thở mãi không thôi, nhưng sau đó lấy lại khí thế cũng cố lại lực lượng, cố thủ Vân Châu quyết một còn một mất với chúng, Nguyên Minh viết thư báo cáo tình hình quân địch khó mà chống cự cho lại trình lên Hùng Huy Vương, xin viện binh, chờ cơ hội đánh trả, cũng như ngăn bước tiến quân Ân không cho tiếng vào Trung Văn Lang.

    Nội dung thư như sau:

    Quân giặc nhiều vô số

    Tướng giặc lại tài cao

    Quân binh như ma quỷ

    Khó thắng biết là bao

    Quân binh đang cố thủ

    Địa phận tỉnh Vân Châu

    Viện binh như cứu hỏa

    Mới ngăn nổi giặc Ân

    Tiến vào Trung Văn Lang

    Xin Quốc Vương minh xét.

    Nguyên Minh, cùng Cao Hải, đang bàn kế sách ngăn chặn quân Ân tiến vào Trung Văn Lang, và cho người liên lạc với Nguyên Dực.

    Thời có quân binh vào báo:

    Bẩm chủ soái quân Thánh Gióng sắp đến Vân Châu rồi.

    Nguyên Minh nói:

    Mau đến như thế sao?

    Cao Hải nói:

    Nghe nói quân Gióng là quân nhà Trời, không phải là quân Triều Đình, ta mau gia nhập vào đội quân của Gióng, tiến đánh quân Ân.

    Anh em cùng ra trận

    Hiếu trung nổi tiếng nhà

    Quyết một phen tử chiến

    Vì dân chết cũng là

    Diệt thù quân cướp nước

    Quyết tử tiến xông pha

    Rồng Tiên niềm bất khuất

    Nối gót chí ông cha

    Cứu nước cứu non kể chi là

    Tình riêng gói lại chí xông pha

    Một mất một còn quân cướp nước

    Trải lòng trung hiếu diệt yêu ma.

    Nguyên Minh, Cao Hải thống lãnh gần mười vạn quân đón quân Gióng đến gia nhập. Nguyên Minh, Cao Hải nghe tiếng quân binh duy chuyển ầm ầm, nghe cuồng phong ù ù thời lấy làm kinh hãi, loáng một cái quân Gióng đã tới nơi. Nguyên Minh, Cao Hải vô cùng kinh hãi, vì thấy một đạo quân người sắt, ngựa sắt, đạo quân thiết giáp đi sau, hơi thép tuôn ra lạnh cả người.

    Nguyên Minh, Cao Hải, tới lễ lạy Thánh Gióng, gia nhập gần mười vạn quân vào quân Gióng tiến đánh giặc Hồ ở Kiến Giao Châu. GIÓNG vỗ vào lưng ngựa chỉ roi về hướng Kiến Giao Châu tức thời ngựa Thần hí lên rung trời chuyển đất, đoàn quân Gióng lao đi như cơn bão lốc. Nguyên Minh, Cao Hải chỉ còn biết thúc năm nghìn kỵ binh lao theo đoàn quân của gióng mà thôi, còn tất cả thời lẽo đẽo theo sau, đoàn quân loáng một cái là mất hút.

    Đây nói về Hồ Nghi Vương quyết lấy thành Kiến Châu cho bằng được chiếm trọn Tây Bắc Văn Lang, với hơn 20 vạn quân, Hồ Nghi Vương chỉ cần khôn khéo là chiếm được ngay, nhưng Châu Tiên con của Quan Trung chính Châu Ân quá lợi hại, lại có một vị Tướng vô cùng tài đó là Cao Khang nên Hồ Nghi Vương chưa thể chiếm thành ngay được, và rồi Hồ Nghi Vương cũng tìm ra kế để phá thành.

    Trận chiến bắt đầu mở màng, Hồ Nghi Vương dùng độn tẩm dầu bắn vào thành, rồi bắn lửa vào đốt cháy, hỏa công đánh trước, bộ binh leo tường đánh sau, xạ binh bắn yểm trợ, còn một đạo quân khác mượn thế liên hoàn ròng rọc công phá cửa thành, Thành Kiến Châu chỉ còn chờ chết. Tiến reo hò quân Hồ dậy trời dậy đất.

    Hồ Nghi Quân kêu gọi đầu hàng lần cuối:

    Đầu hàng thời còn mạng sống, chống lại thời chết không còn một mạng.

    Châu Tiên quát:

    Con quỉ Hồ Ly kia, con cháu Tiên Rồng thà chết quyết không chịu đầu hàng.

    Hồ Nghi Vương trợn mắt quát:

    Hãy sang bằng Kiến Châu cho ta.

    Tức thời tiếng tù thổi lên rền trời rền đất, quân Hồ chuẩn bị tấn công. Thời bỗng nghe đất trời rung chuyển, quân Hồ bỗng thấy người sắt, ngựa sắt bỗng xuất hiện lao tới đánh xối xả, tới tấp vào quân Hồ. Quân Hồ bị đánh trúng văng đi tứ phía cả người cả ngựa nát như tương. Hồ Nghi Vương kinh hồn bạt vía thấy ngựa sắt Khổng Lồ lao tới phun lửa đốt quân Ân cháy đen, người sắt Khổng Lồ mỗi lần múa roi thép sắt lên là mỗi lần quân Hồ toi mạng cả trăm lớp nát như tương lớp bay như rác. Hổ, Voi, Sư Tử, lao tới xé xác, cảnh tượng xảy ra khiếp vía kinh hồn. Hồ Nghi Vương khiếp quá, ra lệnh cho quân binh bắn tên xối xả vào ngựa sắt, người sắt, nhưng nào có ăn thua gì, ngựa sắt người sắt cứ lao tới, đánh quân Hồ ngã rạp lớp lớp đạp nhàu quân Hồ nát như tương. Hồ Nghi Vương hãi hùng hóa phép bay lên không chạy trốn, nhưng nào có kịp Thánh Gióng chỉ roi lên không một cái, một tia hào quang bắn lên Hồ Nghi Vương liền tan xương nát thịt, 20 vạn quân Hồ chỉ trong chốc lát, tiêu tan thây nằm la liệt.

    Sau có thơ rằng:

    Nghe động đất đùng đùng ập tới

    Nghe cuồng phong bão tố đến nơi

    Ầm ầm vó ngựa khiếp kinh

    Ầm ầm roi sắt rung rinh đất trời

    Quân hỗn hợp Thánh Thần xuất thế

    Càn quét nhanh khủng khiếp kinh hồn

    Quân Hồ bị đánh tơi bời

    Lớp thời nát thịt, lớp thời cháy đen

    Lớp thời bị cọp nuốt ăn

    Kinh hồn bạt vía hết phương sống còn.

    Lại nói về, Quan Trung Chính, Châu An, Châu Tiên, Cao Khang, quyết tử chiến với quân Hồ cho đến phút cuối, bỗng nhìn thấy xa xa ở phương Nam xuất hiện một đạo quân, không biết là quân địch hay quân ta, chỉ loáng một cái đoàn quân tốc hành đã đến nơi.

    Châu Tiên la lớn:

    Quân người sắt.

    Cao Khang, Châu An thấy đoàn quân người sắt lao vào 20 vạn quân Hồ như vào chỗ không người, giống như hàng nghìn cái chổi sằm quét rác, quân Hồ bị quét bay lên tứ tung, trông thấy mà kinh hồn bạt vía, nhất là người sắt Khổng Lồ, ngựa sắt Khổng Lồ, tên, lao, giáo, kiếm, lao tới như mưa, nhưng người ngựa Khổng Lồ không hề hấn gì cả, ngựa phun lửa dữ đốt quân Hồ cháy đen cháy thui, cứ mỗi lần người sắt Khổng Lồ vung roi là cả trăm người tan xác.

    Châu Tiên, đứng trên thành la lớn:

    Thánh Gióng Thánh Gióng, kìa cờ đề Thánh Gióng, quân nhà Trời đã xuất hiện.

    Quân Trời kinh khiếp làm sao

    Tướng Trời xuống thế cứu dân sống còn

    Cứu non cứu nước trường tồn

    Đánh tan yêu quỹ hết còn xâm lăng

    Kinh hồn bạt vía từ đây

    Văn Lang có chủ giặc bây đừng hòng

    Xâm lăng không có ngày về

    Thây phơi chật đất ê hề thây phơi

    Quân Hồ bị đánh tả tơi

    Làm phân cho đất ôi thôi còn gì

    Đây là bài học nhớ đời

    Cho quân xâm lược nhớ thời nhớ ghi.

    Châu Tiên nhìn thấy cờ chủ soái Nguyên Minh nói:

    Cha nhìn có quân chủ lực Văn Lang nữa kìa.

    Thánh Gióng nói tiếng vang như sấm:

    Mau mở cổng thành đem quân truy sát quân Hồ.

    Nói xong Thánh Gióng chỉ roi về Ninh Châu tiến, thế là đoàn quân Gióng như cơn bão nổi lên ầm ầm lao đi, loáng cái mất dạng, Châu An nhìn theo khiếp vía: Quân Trời có khác.
     
  11. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    PHẦN 28: TIÊU DIỆT QUÂN ÂN
    Đây nói về Nguyên Dực thua trận kéo tàn quân chạy về thành Ninh Châu, cố thủ, quân Ân kéo đến bao vây, nhưng không tấn công liền, chờ cho quân binh trong thành Ninh Châu kiệt sức vì đói mới ra tấn công.

    Than ôi non nước nạn luôn luôn

    Cũng bởi chúng dân lạc Cội Nguồn

    Âu bởi số Trời nên đành thế

    Đông tàn xuân đến nạn qua truông

    Còn lòng trung hiếu còn non nước

    Đựng dậy hồn thiên, dậy anh linh

    Chờ cơ, chờ vận, chờ trời sáng

    Rồng Tiên phất phới, rạng anh minh

    Độc lập tự do tung đôi cánh

    Yên bình hạnh phúc trải xuân Thiên.

    Đây nói về Nguyên Dực, bị Sát Sát quân Ân đánh bại rút tàn quân chạy về thành Ninh Châu, đóng cổng cố thủ trong thành, không bao lâu thời quân Ân kéo đến bao vây, có trên 25 vạn quân. Nguyên Dực, Dương Điền, Hầu Thái Công, Lạc Đại Vương, Bạch Tướng Quân, cùng nhiều Tướng Lĩnh khác nữa ở trên thành nhìn thấy quân Ân đông như vậy khó mà đánh cho lại. Hơn nữa Sát Sát thần thông pháp thuật vô biên, thành Ninh Châu quân binh chỉ hơn sáu vạn, nhưng nếu bị bao vây hơn nửa tháng sẽ dẫn đến chết đói, quân Ân không đánh cũng thua. Quân Ân bao vây hơn mười ngày rồi, chỉ cần thêm năm ngày nữa sẽ dẫn đến quân binh kiệt sức vì đói. Nguyên Dực, Hầu Thái Công, Lạc Đại Vương lấy làm lo lắng vô cùng.

    Bạch Tướng Quân nói:

    Trước sau gì cũng chết, thay gì lúc còn đang no, đang đêm mở cổng thành ra quyết chiến với chúng một trận chết cũng vui sướng.

    Dương Điền nói:

    Bạch Tướng Quân nói phải lắm, chết đói sao cho bằng đánh với một trận chết no cũng vui.

    Nguyên Dực nghe cũng có lý nói:

    Thôi thì tận trung Báo Quốc vậy.

    Được lệnh mở cổng thành tấn công quân Ân, các Tướng bàn bạc sôi nổi và thống nhất:

    Một giờ đêm nay là mở thành tấn công vào quân Ân tận trung Báo Quốc, coi như chúng ta ăn bữa cơm cuối cùng.

    Bằng cho mổ bò mổ lợn, gà vịt khao đải quân binh, bữa ăn cuối cùng từ giã trần gian.

    Một trận chiến lẫy lừng sông núi

    Khí hùng anh có chết cũng vui

    Tiên Rồng nòi giống uy linh

    Sợ gì quân giặc tiến lên diệt thù

    Nhìn dân chúng giặc dày giặc xéo

    Cảnh ngựa trâu giặc chém giặc đâm

    Làm cho máu chảy non sông

    Quê hương binh lửa núi non hận thù

    Hãy tiến lên chiến sĩ đồng bào

    Đánh cho tan tác quân thù tác tan.

    Nhìn trời về chiều ánh nắng đã ốm vàng hồng, không bao lâu nữa mặt Trời sẽ lặng về non Tây, các Tướng Lĩnh thấy tâm hồn khoan khoái nhẹ nhổm không còn nặng nề như mấy bữa trước đây.

    Bỗng Bạch Tướng Quân la lên:

    Xem kìa! Xem kìa! Chuyện gì thế? Quân Ân kéo binh đến nữa chăng?

    Khói bụi mịt mù ở tận xa xa, loáng một cái đoàn quân đã lao tới gần quân Ân, tiếp theo đó là một trận chiến kinh hồn, quân Ân bị đánh bay lên như hốt đá mà ném bay lên tứ hướng nhà Trời, quân Ân kinh hoàng khiếp thi nhau chạy toán loạn.

    Ngựa sắt dồn chân chuyển đất trời

    Đạp nhầu quân giặc nát tả tơi

    Ầm ầm roi sắt rền sông núi

    Muôn vạn giặc Ân mạng tơi bời

    Kinh hồn bạt vía quân cướp nước

    Thịt xương tung tóe xác pháo rơi

    Cuồng phong gào thét roi vun vút

    Quét sạch xâm lăng giặc đi đời.

    Các Tướng trên thành la lớn:

    Người sắt, ngựa sắt, kìa người Khổng Lồ, tay múa roi lớp lớp quân Ân tan xương nát thịt bỏ mạng, ngựa sắt phun lửa đỏ rực bầu trời.

    Lạc Đại Vương la lớn:

    Cờ Thánh Gióng, quân binh nhà Trời.

    Nguyên Dực cũng la lớn:

    Kìa quân binh chủ lực Văn Lang cờ chủ soái Nguyên Minh phất phới.

    Nguyên Dực như đứng tim nhìn sức mạnh của quân Gióng đánh quân Ân như đánh loài chuột. Đây nói về Sát Sát, đang hừng hực khí thế chiến thắng, thời nghe tiếng ầm ầm từ xa vọng lại, loáng một cái nghe quân Ân gào thét sợ hãi chạy toán loạn.

    Sát Sát la lớn:

    Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

    Nói về Hồ Man Quân, Hồ Mị Hoa, nhìn thấy người sắt từ hướng Tây lao tới xơi sạch quân Hồ. Hồ Mị Hoa hóa phép giông tố nổi lên ầm ầm đánh vào quân người sắt. Không ngờ quân người sắt chẳng hề hấn gì, lao nhanh tới chém sạch quân Hồ. Hồ Mị Hoa sợ quá cỡi ngựa Thần phi lên không trốn chạy, nhưng không còn kịp nữa năm con ngựa sắt bay lên không bao vây, đồng loạt tấn công cả con ngựa Thần cùng Hồ Mị Hoa bị chém đứt ra nhiều mảnh. Quân Ân, quân Hồ nhìn thấy cảnh ấy chỉ còn biết dẫm đạp lên nhau bỏ chạy. Năm con ngựa sắt bay lên không giết chết Hồ Mị Hoa chính là năm anh em Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ.

    Cùng lúc ấy Sát Sát thấy người sắt Khổng Lồ đánh quân Ân lớp lớp tơi tả, liền niệm chú phóng kiếm Thần lao tới giết chết người sắt Khổng Lồ. Gióng không hề sợ hãi chút nào kiếm Thần lao tới Gióng đưa roi đánh vào kiếm Thần một cái tức thời một tiếng nổ long trời, kiếm Thần nát ra từng mảnh vụn.

    Sát Sát sợ quá la lớn:

    Bắn chết người sắt Khổng Lồ đó cho ta.

    Thế là hàng nghìn mũi tên bắn vào người sắt Khổng Lồ, nhưng nào có ăn thua gì. Gióng lao đến đâu quân Ân lớp lớp bỏ mạng đến đó. Sát Sát hóa phép liên miên, nào yêu tinh quỷ dữ hiện ra, cũng không làm gì được Gióng, bị Gióng múa roi đánh yêu tinh quỉ dữ khiếp hồn. Sát Sát hóa cuồng phong ầm ầm cũng không làm gì được Gióng. Sát Sát sợ quá phi ngựa lên không trốn chạy, không ngờ con ngựa sắt Khổng Lồ bay theo. Gióng đánh cho một roi cả người lẫn ngựa nát như tương.

    Nguyên Dực cùng các Tướng Lĩnh trên thành Ninh Châu há hốc mồm mà nhìn, cứ tưởng như là một giấc chiêm bao. Chừng nghe nói:

    Hãy mở cổng thành truy sát quân Ân chạy trốn, và cho người đem đồ ăn thức uống dâng lên cho đoàn quân của Gióng.

    Người lên tiếng đó chính là Nguyên Minh em của Nguyên Dực. Nguyên Dực như tỉnh giấc mơ liền mở cổng thành cho quân đuổi theo truy sát quân Ân đang chạy trốn tứ hướng, 25 vạn quân Ân giờ đây chỉ là những đống thịt, những cái xác không hồn, la liệt chồng chất lên nhau, cuộc chiến kết thúc thần tốc như thế, không ai dám nghĩ tới, nói gì tận mắt chứng kiến.


    PHẦN 29: QUÉT SẠCH QUÂN ÂN
    Sử đời chép lại để coi

    Xâm lược rốt cuộc chẳng qua lũ hề

    Trò cười muôn ức vạn đời

    Ra gì một lũ ngông cuồng xâm lăng.

    Nói về quân Gióng sau khi quét sạch 25 vạn quân Ân, thời được Nguyên Dực, Dương Điền, Hầu Thái Công, Lạc Đại Vương, Bạch Tướng Quân, đón rước tất cả vào thành vì trời đã tối, các Quan Tướng đều đến lạy Gióng. Lạc Đại Vương cho người dâng lên đồ ăn thức uống cho đoàn quân của Gióng, không ngờ đoàn quân của Gióng ăn mạnh quá, nốt sạch khẩu phần của hơn sáu vạn quân, chuẩn bị cho bữa cơm tối, bữa cơm cuối cùng cho trận chiến một giờ đêm. Nhất là Gióng ăn liền bảy nong cơm, ba nong cà muối, làm khiếp đảm những người chứng kiến. Quân Gióng ăn no nê rồi đánh một giấc ngủ.

    Ông mặt trời đã thức dậy, ngày cuối cùng tiêu diệt giặc Ân. Tất cả quân binh thành Ninh Châu suốt đêm không ngủ vì chuẩn bị đồ ăn thứ uống cho đoàn quân của Gióng ăn sáng trước khi lên đường đánh giặc. Quân dân thành Ninh Châu lại phải chứng kiến quân Gióng ăn uống khủng khiếp, nhất là Gióng nuốt sạch mười nong cơm, năm nong cà.

    Nguyên Dực giờ đây đã gia nhập vào đoàn quân của Gióng những kỵ binh giỏi nhất đi theo Gióng quét sạch quân thù xâm lược, còn tất cả binh lính đều ở lại thành Ninh Châu. Quân Gióng ăn uống no nê, chờ lệnh Gióng xuất phát. Gióng cầm roi leo lên lưng ngựa, roi Gióng vót nhọn dài mấy mươi thước to dài như cây tre lồng ngà, nặng hơn hai tấn. Gióng chỉ roi về hướng Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ hét lớn tiến quân, tức thời con ngựa Gióng hí lên vang động đất trời, mồm phun ra lửa dữ, dậm chân ầm ầm lao đi, quân Gióng lao theo ầm ầm như cơn bão, loáng cái đã mất dạng, quân binh Ninh Châu nhìn theo khiếp vía.

    Đây nói về quân Ân, quân Hung Nô, ngày đêm ráo riết, đánh chiếm các Châu Quận Huyện hầu như gần nuốt sạch Bắc Văn Lang. Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ sắp mất đến nơi quân Ân bao vây lớp lớp trùng trùng. Hùng Lang Công, Lạc Tướng Cao Giang, Hầu Tướng Việt Yên, biết thế nào quân Ân cũng chiếm được Kinh Đô nhưng thà chết không chịu đầu hàng cố thủ tử chiến. Nhất là Hùng Lang Công vô cùng căm giận Giặc Ân, xâm lược cướp nước, còn giết chết hai người con là Hùng Tướng và Hùng Điền, nên ra lệnh cố thủ thành dù sắp chết đói đến nơi, dân chúng cũng như quân binh đã lai rai chết đói, quân Ân hiểu rõ thời cơ đã chín mùi chỉ cần ra tay là chiếm được được Kinh Đô và ngày giờ đã quyết định là tấn công vào Kinh Đô khi lúc mặt trời lên với hơn ba mươi vạn quân Ân bao vây Kinh Đô đông như kiến, đao kiếm ngùn ngụt, ngựa hí vang trời, quân reo dậy đất.

    Hùng Lang Công, Lạc Tướng Cao Giang, Hầu Tướng Việt Yên ở trên cung thành nhìn quê hương non nước như nhìn lần cuối, tay nắm chặt thanh đao như nói thầm rằng hãy quyết tử với chúng.

    Nước Văn Lang lửa thù soi giếng hận

    Lũ quân thù, lũ tán tận lương tâm

    Lũ ngoại xâm, nầy hỡi lũ ngoại xâm

    Mi gieo rét, bao ngục tù chết chóc

    Giờ quyết tử, ta sẵn sàng chiến đấu

    Nguyện theo về, với thế giới Cha Ông

    Thân xác nầy, trả lại với non sông

    Giờ quyết tử, quyết chiến quyết xông.

    Nói về Hùng Lang Công, Lạc Tướng Cao Giang, Hầu Tướng Việt Yên nhìn mặt trời lần cuối trước khi vĩnh biệt cõi trần. Tiếng còi khai trận trên đài quan sát Ân Mao Vương phất cờ lệnh tấn công, tức thời nghìn nghìn thang dây lao tới bắt lên thành, có đội quân xạ tiễn yểm trợ bắn lên thành như mưa.

    Cùng lúc ấy từ phía Tây một cơn bão lốc cuồn cuộn ập tới, tiếng vó ngựa ầm ầm vang rền trời đất, thoáng chốc đội quân người sắt xuất hiện lao vào hơn 30 vạn quân Ân xơi ráo riết, quân Ân bị đánh văng bay lên trời như giấy, kẻ bể đầu, người nát như tương, với chiếc roi sắt dài mấy mươi thước. Gióng vung lên vù vù quân Ân bỏ mạng lớp lớp. Nghịch Phong kinh hoàng khiếp vía cỡi ngựa bay lên không phóng đao Thần tới người sắt Khổng Lồ chỉ nghe nổ ầm ầm đao Thần nát vụn. Nghịch Phong niệm chú hóa phép yêu tinh quỉ dữ hiện ra lao vào người sắt, ngựa Thần phun lửa đốt sạch, bỗng ngựa sắt bay lên không roi sắt đánh tới Nghịch Phong. Nghịch Phong múa kiếm lên đỡ, nào ngờ một tiếng bộp dữ dội, Nghịch Phong cả người lẫn ngựa nát như tương. Ân Mao Vương nhìn thấy kinh hồn bạt vía, Ân Mao Vương chưa kịp chạy trốn thời Gióng bay đến đánh một roi quan sát đài cao bảy tần chỉ nghe ầm một tiếng kinh thiên động địa quan sát đài nát vụn. Ân Mao Vương nát như tương. Roi sắt cũng gãy làm ba khúc. Gióng dắt khúc roi còn lại vào lưng, phi ngựa tới bờ tre nhổ lấy tre đánh vào quân Ân tơi tả chết la chết liệt, cây tre nầy hư nát, Gióng lại nhổ cây tre khác cứ thế hết cây tre nầy đến cây tre khác. Quân Ân không còn sống sót để mà trở về quê hương, xác quân Ân la liệt thành gò thành đống. Không ai là không khủng khiếp cho trận chiến diệt quân Ân thần tốc nầy.

    Về sau có thơ rằng:

    Rầm rầm dậy đất dậy trời

    Cuồng phong bão táp ầm ầm kinh thiên

    Ngựa Gióng phun lửa liên miên

    Roi Gióng cuồn cuộn đảo điên đất trời

    Quân Ân lớp lớp tơi bời

    Cháy đen, nát thịt, bể đầu, tan thây

    Đùng đùng ngựa dẫm quân Ân

    Chôn vùi tan xác còn chi cuộc đời

    Quân Ân hồn vía rụng rời

    Xác văng tứ phía rụng đầu sứt chân

    Ào ào muôn trận cuồng phong

    Đường roi bão táp cuốn phen quân thù

    Đường roi cuồn cuộn ù ù

    Ầm ầm nện xuống nát nhừ quân Ân

    Quân Ân khiếp vía hồn kinh

    Ném gươm ném giáo chui mình trốn chui

    Lũ chuột trốn chạy khắp nơi

    Chạy đâu cho thoát ôi thôi còn gì

    Đáng đời lũ giặc đáng đời

    Ngông cuồng xâm lược để rồi mạng toi.

    Hùng Lang Công, Lạc Tướng Cao Giang, Hầu Tướng Việt Yên cùng quân binh trên thành ngơ ngác, quên cả chiến đấu chừng thấy quân Ân từ trên thang dây nhảy xuống đất lớp chết lớp gãy tay gãy cẳng, thời mới giật mình, thời quân Gióng đã biến mất lao về hướng Đông thẳng đến thành Xích Linh.

    Hùng Lang Công nói:

    Thánh Gióng người thiếu niên Khổng Lồ, Quốc Tổ Thiên Long Vương Sùng Lãm, đã hiện về cứu nước Xích Quỷ khỏi rơi vào tay giặc.

    Ai đời đánh giặc lạ đời

    Dùng tre thay giáo tuyệt vời khó tin

    Bờ tre khắp chốn khắp nơi

    Để cho Thánh Gióng nhổ lên diệt thù

    Tre thành roi Thánh nhà Trời

    Đánh cho quân giặc rụng rời khiếp kinh

    Tre thành gươm giáo uy linh

    Đánh cho quân giặc hãi kinh khiếp hồn

    Tre là biểu tượng anh hùng

    Giặc mà nhìn thấy hãi hùng hoảng kinh.

    (Quốc Tổ Thiên Long Vương Sùng Lãm, là Quốc Tổ khai sanh ra nước Xích Quỷ, thời đại Kinh Dương Vương).
     
  12. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    PHẦN 30: QUÉT SẠCH HUNG NÔ
    Đây nói về thành Xích Linh quân Hung Nô chưa làm gì nổi chỉ ở thế bao vây mà thôi, chờ cho quân Xích Linh đói chết tự đầu hàng, quân Hung Nô sau những lần bại trận chỉ còn không đầy 10 vạn, nay đã hồi phục trở lại lên đến 15 vạn, với tình cảnh nầy quân Hung Nô như con hổ rình mồi. Chờ cho con mồi đói lả, lao tới ăn thịt không cần tốn công mệt sức. Hung Nô Vương cùng hai con là Hung Quân Liệt, Hung Đa Di lấy làm đắc ý vì con mồi đã ở trong tầm tay. Ba cha con Hung Nô, đang hảm hiếp những cô gái đẹp Bắc Văn Lang chúng hảm hiếp hết cô nầy đến cô khác, rồi chúng quăng ra cho binh lính hảm hiếp. Nhìn thấy cảnh ấy không ai là không sôi gan, cho quân tàn bạo cướp nước. Chúng đang hả hê hảm hiếp những cô gái trẻ. Bỗng nghe cuồng phong kéo tới ầm ầm, quân Hung Nô giật mình khiếp sợ, không hiểu là có chuyện gì.

    Đây nói về Lạc Kim Tiên, trong lúc chợp mắt thời thấy Sư Phụ hiện về nói:

    Khi mặt trời lên sẽ có Thánh Gióng xuất hiện, đánh tan quân Hung Nô, giải thoát kiếp nạn cho Bắc Văn Lang.

    Lạc Kim Tiên giật mình tỉnh giấc không thấy Sư Phụ đâu cả, khi ấy trời cũng sắp hừng sáng. Lạc Kim Tiên liền nói với cha là Lạc Hầu Vương cũng như anh trai là Lạc Hồng Hầu những gì Sư Phụ đã hiện về nói cho biết là quân Hung Nô sắp bị đánh tan, khi Thánh Gióng xuất hiện, lúc mặt trời lên. Tin nầy được lan truyền nhanh chóng khắp trong thành Xích Linh, binh lính cũng như dân chúng kéo lên tường thành chờ đợi Kỳ Tích xuất hiện.

    Mặt trời đã lên cao, nhưng sao chưa thấy Kỳ Tích xuất hiện, niềm tin đã bắt đầu lung lay. Bỗng Lạc Kim Tiên la lớn:

    Khói bụi từ hướng Tây đã xuất hiện.

    Lạc Hầu Vương la lớn:

    Tới rồi.

    Đoàn quân Gióng đã xuất hiện, quân dân trên thành thấy Gióng cầm cây tre múa vù vù đánh vào quân Hung Nô như cơn bão lốc quân Hung Nô bị đánh văng tứ tung lên không như giấy, quân Gióng xơi quân Hung Nô như mèo xơi bầy chuột, chúng bị đánh văng đi tứ tung, bể đầu, gãy chân, gãy tay, người thì nát như tương, người thì bẹp lép, chết la chết liệt thành gò thành đống. Kim Tiên thấy Thánh Gióng như người Khổng Lồ nhưng mặt còn trẻ con, nhổ lấy tre đánh giặc không khỏi phì cười, đúng là trò trẻ con có một không hai trên trần thế.

    Chỉ trong phút chốc quân Hung chết sạch, Hung Nô Vương cùng hai con bỏ mạng. Gióng đánh tan quân xâm lược Gióng liền phi ngựa về hướng Nam mất hút, đoàn quân của Gióng cũng mất hút theo. Nguyên Dực, Nguyên Minh bỏ lại quân binh Tướng Lĩnh theo chân Gióng chỉ còn lại quân Triều Đình, và những quân binh theo Gióng ra trận.

    Anh tài hào kiệt anh hùng

    Cứu dân cứu nước diệt nầy ngoại xâm

    Giữ gìn độc lập non sông

    Để cho non nước bình yên thái bình

    Gương lành để lại cho đời

    Uy danh muôn kiếp sáng ngời anh linh

    Hiếu trung sách sử chép ghi

    Công lao cứu nước sáng soi đời đời

    Lời còn nhớ mãi anh hào cứu dân.

    Lạc Hầu Vương, Lạc Hồng Hầu, Lạc Kim Tiên, Đinh Hoàng, Nguyên Thông nhận ra Cao Hải. Nhất là Lạc Kim Tiên vừa nhìn thấy Cao Hải thời lòng vui mừng không sao kể xiết, như vừa nuốt phải một lạng sâm vào bụng ra lệnh cho người mở cổng thành phi ngựa ra gặp Cao Hải.

    Nhìn thấy xuân về sau gió đông

    Nghìn hoa đua nở đợi bướm ong

    Xao xuyến tình duyên lòng con gái

    Bến đợi sông chờ, khách qua sông

    Đôi môi vừa hé hôn làn gió

    Cháy bổng hồn xuân ấm tình nồng

    Đa cảm phải đành ôm nỗi nhớ

    Bóng dáng người tình mãi đợi trông

    Lòng em như vạn mùa xuân

    Trời thu trong vắt, biển đông dậy tình

    Em nghe ngọt lịm tâm hồn

    Đa tình đầy ắp biển trời nhớ thương.

    Cao Hải gặp lại Kim Tiên cũng không kìm nỗi lòng xúc động, tưởng như là sẽ không còn gặp lại nhau nữa, Cao Hải giới thiệu một số Tướng Lĩnh cho Lạc Kim Tiên. Lạc Kim Tiên thi lễ chào hỏi xong thời cũng vừa lúc. Lạc Hầu Vương, Lạc Hồng Hầu, Đinh Hoàng, Nguyên Thông vừa tới thi lễ đón rước các Tướng Lĩnh vào thành, thiết đãi ăn mừng chiến thắng cũng như bàn luôn việc Quốc Sự, chính đốn lại trật tự an ninh Bắc Văn Lang, ra lệnh cho quân binh truy nả quân giặc còn đang chạy trốn, cũng như ra cáo thị cho dân chúng, phải tuân theo pháp lệnh của nhà nước Văn Lang, nếu ai không tuân theo sẽ bị xử trảm.

    Các Quan Tướng đang bàn việc Quốc Sự thời có quân vào báo:

    Có thư của Hùng Lang Công nơi Kinh Đô Xích Quỷ gởi tới.

    Nội dung thư như sau: Các Quan, các Tướng, các bộ, các Châu, các Quận, các Huyện, cũng như các Quan Tướng Triều Đình về Kinh Đô hợp gấp, bàn nhiều việc trọng đại.

    Theo công văn Bệ Hạ Hùng Huy Vương. Người viết thư Hùng Lang Công. Thế là các Quan Tướng tức tốc lên đường đến Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ để dự họp.

    Đây nói về Nam Ninh Xích Quỷ, Kinh Đô Bắc Văn Lang các Quan Tướng ra vào tấp nập, nhanh chóng đi vào cuộc họp chấn chỉnh lại Bắc Văn Lang đã trải qua một thời gian dài đi vào hỗn loạn, nhiều Bộ Lạc nổi lên đòi tự trị khắp nơi. Xưng Vua xưng Chúa, theo trào lưu phương Bắc, Nhà Thương, Nhà Chu. Với chính sách khoan hồng của triều chính Văn Lang, Hùng Huy Vương ân xá tất cả những tội lỗi của những Bộ tộc trong Bách Việt Văn Lang, có sự lầm đường lạc hướng, nổi lên đòi tự trị, gây ra bao cảnh chết chóc, nồi da nấu thịt, làm cho đất nước suy vong. Nếu bộ tộc nào có ý phản loạn, học đòi theo phương Bắc nổi lên xưng Vua, xưng Chúa thời giết chết không tha. Nhờ chính sách khoan hồng ân xá, không làm tổn hại những Bộ Tộc gây ra tội lỗi trước đây, mà còn có chính sách nâng đỡ, nên được lòng dân, nước Văn Lang vì thế bình yên thêm mấy trăm năm nữa, thái bình an lạc. (Điều đáng tiết ở đây, nước Văn Lang thời bấy giờ văn hóa Cội Nguồn không còn nên không lấy gì để dạy dân, mà chỉ dạy dân theo thể chế phong kiến, theo xu thế phương Bắc, hết họa nầy nối liền theo họa khác, do phương Bắc thao túng làm hại).


    PHẦN 31: PHƯƠNG BẮC
    Đây nói về phương Bắc, thời Chu Mục Vương, nhà Chu. Tạo Thụ, được Mục Vương yêu mến, Vua tôi thường đi tuần thú cảnh Tây, tìm vui chuyện lạ. Ở vào thời ấy đã xuất hiện nhiều nước nhỏ nổi lên chống lại Mục Vương, không chịu quy phục Mục Vương, trong số các nước nhỏ nổi lên chống trả lại Mục Vương, có Vua Từ Yển, Từ Yển giao tranh quyết liệt với Chu Mục Vương, cuối cùng Chu Mục Vương đánh bại, diệt Vua Từ Yển, chiếm lấy đất đai phong cho Tạo Thụ. Tạo Thụ ở thời Mục Vương thế lực rất lớn, nên Tạo Thụ nói gì Mục Vương cũng nghe. Tạo Thụ là con cháu của Ác Lai, Ác Lai thờ Vua Trụ. Con cháu Vua Trụ chính là Ân Mao Vương, vì thế Tạo Thụ luôn luôn tìm cách giúp đở Ân Mao Vương, Ân Mao Vương phần lớn nhờ thế lực của Tạo Thụ, dựng nên cơ nghiệp Man Vu vô cùng hùng mạnh, lại kết hợp với quân Hồ, quân Hung Nô, nên càng hùng mạnh thêm nữa.

    Chu Mục Vương lấy làm lo lắng, hỏi Tạo Thụ:

    Tình hình phương Bắc nhà Chu ta, các nước đã nổi lên tranh giành quyền bá thôn tính lẫn nhau, có nước chống lại cả ta, liệu Ân Mao Vương có chống trả lại ta không?

    Tạo Thụ nói:

    Việc đó để Hạ Thần. Thiên Tử Bệ Hạ khỏi lo.

    Chu Mục Vương qua đời, Di Vương nhà Chu lên thay thế cũng giống như Chu Mục Vương, vô cùng lo sợ thế lực Ân Mao Vương, vì lúc bấy giờ thế lực Tam Vương hùng mạnh vô cùng. Chừng Chu Di Vương nghe Ân Mao Vương, cùng Hồ Nghi Vương, Hung Nô Vương bộ ba nầy xâm lược đánh chiếm Bắc Văn Lang. Chu Mục Vương lấy làm mừng, vì Ân Mao Vương không chống trả lại nhà Chu, mà đánh chiếm Bắc Văn Lang.

    Di Vương nói:

    Đúng Tổ Tông nào sanh con cháu nấy. Vua trụ Ân Thọ Vương quyết tâm chiếm cho được nước Văn Lang, không ngờ nước Văn Lang đánh bại thê thảm là vì nghe nói hồi đó nước Văn Lang có bảy Bảo Kiếm Trấn Quốc sau khi đánh thắng Ân Trụ Vương phương Bắc chúng ta, thời bảy thanh Kiếm Trấn Quốc đó cũng không còn. Sức mạnh của nước Văn Lang hiện nay đang đà suy yếu, bao đời Đế Vương phương Bắc cũng muốn chiếm lấy nước Văn Lang thống nhất Nam Bắc phương Đông, trở thành vĩ nhân đệ nhất thiên hạ. Nước Văn Lang là một đất nước giàu có đất đai trù phú, nội chỉ cần nền văn minh lúa nước, cũng đã đệ nhất địa cầu rồi, huống chi là nền văn minh sắt, thép, đồng, thau, nhất là nền văn minh luyện thép thời không có một đất nước nào bằng. Nếu quả thật Ân Mao Vương chỉ cần chiếm lấy được Bắc Văn Lang, chia phương Đông thiên hạ làm ba. Bắc Triều, Nam Triều và Trung Nguyên. Nhưng điều nầy không phải dễ vì nước Văn Lang tiềm ẩn những điều không thể lường trước được.

    Tạo Thụ, Triệu Thụ cùng Chu Di Vương đang bàn sôi nổi về Ân Mao Vương sắp chiếm được Bắc Văn Lang, thời có Quan nhất phẩm tên là Triệu Lục, vẻ mặt có vẻ kinh hãi báo cáo với Chu Di Vương rằng:

    Quân Ân, quân Hồ, quân Hung Nô đã bị quân Văn Lang đánh bại xóa sổ.

    Tạo Thụ, Triệu Thụ cũng như Di Vương nghe xong vô cùng kinh hãi:

    Nước Văn Lang mạnh như thế sao? Người nào mà tài năng như thế?

    Triệu Lục nói:

    Thánh Gióng, đoàn quân người sắt.

    Triệu Lục liền kể lại tất cả: Nào là Thánh Gióng cỡi ngựa sắt, chỉ cần múa roi một cái là cả hàng nghìn quân binh tan xương nát thịt. Thánh Gióng đánh gãy roi sắt, Gióng liền phi ngựa đến bụi tre nhổ cả gốc lẫn rễ lên đánh quân Ân chết la chết liệt. Gióng đánh gãy cây tre nầy lại nhổ cây tre khác.

    Quân Ân lớp lớp đi đời

    Xác phơi chật đất máu thành vũng ao

    Đứa thời gãy nát tứ chi

    Đứa thời sứt mũi tan thây bể đầu

    Đứa thời bẹp lép nát nhừ

    Ôi thôi khủng khiếp hãi hùng ôi thôi.

    Những người theo Gióng đánh giặc nghe đâu như là binh Tướng nhà Trời, chưa đầy ba ngày toàn bộ quân Ân, quân Hồ, quân Hung Nô coi như đã bị xóa sổ. Thông tin chính xác nầy là do ba nước biên giới với Bắc Văn Lang đó là: Tề, Ngô, Sở kể lại trong nỗi kinh hoàng.

    Chu Di Vương cùng các Quan Tướng nghe Thánh Gióng xuất hiện quét sạch giặc xâm lăng chỉ trong vòng có ba ngày thời kinh hồn bạt vía, không còn dám nghĩ đến mông xâm lăng nước Văn Lang nữa. Cũng từ đây phương Bắc nhà Chu cũng dần dần đi vào đại loạn, nhất là sau thời Di Vương, đến Lệ Vương.

    Chu Lệ Vương là vị Vua hôn quân mê muội bạo ngược vô cùng làm cho triều chính nội loạn bè chia bè rẽ phái thôn tính lẫn nhau. Chu Lệ Vương bằng chạy trốn sang nước khác, đến ở đất Trệ. Triều Đình nhà Chu không Vua các Quan Đại Thần trong Triều chung nhau làm chính sự, hiệu là Cộng Hòa tạm thời điều hành đất nước nhà Chu.

    Từ đây chiến tranh triền miên thôn tính lẫn nhau xảy ra lần lần khắp phương Bắc, dân phương Bắc chạy loạn chạy giặc di cư qua Bắc Văn Lang càng về sau càng lúc càng nhiều, dẫn đến mối họa mất Bắc Văn Lang, biến Bắc Văn Lang thành Trung Nguyên, sau nầy trở thành Trung Quốc.

    Bắc Văn Lang chính là Trung Nguyên, Trung Quốc vì thế Việt Nam và Trung Nguyên Trung Quốc là một dải đất liền, trở thành hai nước láng giềng, cùng một điều kiện địa lý. Cho nên người Việt Nam Văn Lang và người Hoa Trung Quốc Bắc Văn Lang đã có quan hệ lịch sử rất lâu đời từ thời đại Kinh Dương Vương chuyển sang thời đại Hùng Vương. Bắc Văn Lang trở thành Trung Nguyên rồi chuyển sang Trung Quốc đều nằm trong chủng tộc lớn Bách Việt. Nói chung nước Văn Lang có Bách Việt. Vì thế ở Trung Nguyên Trung Quốc vào thời đại Hùng Vương đã đánh dấu đặt tên nhiều con sông, như sông Dương, nói về thời đại Kinh Dương Vương sông Âu, sông Lạc. Âu Cơ, Lạc Long Quân nói về thời đại Hùng Vương. Nước Văn Lang chia ra làm ba miền, Nam Văn Lang chính là nước Việt Nam ngày nay. Trung Văn Lang, Bắc Văn Lang chính là Trung Nguyên Trung Quốc hiện nay. Hầu hết miền Giang Nam Lãnh Nam Trung Quốc, từ sông Dương Tử Trường Giang trở vào vì thế người Việt và người Trung Hoa không những cùng một điều kiện về địa lý, mà còn về chủng tộc họ tộc cũng rất giống nhau, trên một nguyên lý cơ bản là cùng chung Bách Việt Văn Lang có niên đại lịch sử hơn 10 nghìn năm, từ thời Kinh Dương Vương, phát nguồn từ thời đại Viêm Đế Thần Nông.

    Văn Lang khó nuốt biết dường bao

    Quân Gióng vùng lên quét sạch nào

    Tham tàn bạo ác quân ăn cướp

    Thây phơi chật đất thảm biết bao.

    Giặc Hồ, giặc Hung Nô, giặc Ân vô cùng tàn bạo, phần lớn Tướng Lĩnh của quân giặc, phần nhiều là yêu tinh quỉ dữ đầu thai. Nhất là họ hàng của Hồ tinh, họ hàng của Mộc tinh, họ hàng của Ngư tinh đã bị quân Âu Việt, Lạc Việt, theo Quốc Tổ Vua Hùng mở mang bờ cõi vào đất Lãnh Nam, con cái, cháu chắt, chút chút, họ hàng Hồ tinh, Ngư tinh, Mộc tinh đông vô số lên đến hơn mười mấy vạn, đã bị quân Âu Việt, Lạc Việt quét sạch hồn chúng đầu thai về phương Bắc, có cơ hội là chúng đánh chiếm Văn Lang, tàn sát dân Văn Lang, chúng bắt đàn bà con gái, hảm hiếp hoang dâm vô độ, chúng ăn thịt cả trẻ con, uống máu những chàng trai trẻ, chúng bắt dân trồng cây ngược cây chết thì chúng giết, chúng bắt đàn ông con trai làm đủ mọi chuyện nô lệ, nhịn đói nhịn khát, chúng đánh đập hành hạ sống không được, chết cũng không xong, những tội ác của giặc Ân phải nói là khủng khiếp, không có loại tội ác nào mà chúng không làm.

    Chúng bắt dân cắm trồng cây ngược

    Cây chết thời, chúng lột lấy da

    Nấu dầu, đâm, chém, chẳng tha

    Chúng chà chúng đạp tan thây nát nhừ

    Chúng hảm hiếp đàn bà con gái

    Chơi đủ trò đến chết chẳng tha

    Trái ý thời chúng lột da

    Quăng cho rắn nuốt rắn xơi kinh hồn

    Ôi lũ giặc bạo tàn khát máu

    Hành hạ dân đủ thứ dã man

    Gieo bao tang tóc đau thương

    Cơ Trời chuyển hóa Thánh Vương ra đời

    Long Vương Thánh Chúa xuống trần

    Đoàn quân Thánh Gióng diệt loài xâm lăng

    Binh Trời trở lại cõi trên

    Văn Lang nhớ mãi công ơn binh Trời.

    Đây nói về đoàn quân Thánh Gióng sau khi quét sạch ngoại xâm, phi ngược hướng về hướng Nam rồi lần lần biến đi đâu mất. Nói về Gióng sau khi đánh tan quân Hồ, quân Ân, quân Hung Nô, Gióng phi ngựa về hướng Nam ngựa đi nhanh như cơn bão vượt qua núi, bay qua sông. Gióng không về thăm Mẹ, phi ngựa thẳng đến bồ đề, dừng ngựa lại uống nước bên bờ sông Hồng, dấu chân ngựa Gióng lại in khắp nơi. Gióng vượt qua sông Hồng đến thẳng làng Xác Cáo bên bờ Hồ Tây.

    Gióng chỉ xuống Hồ Xác Cáo nói:

    Hỡi các loài Hồ tinh, các ngươi tuy bỏ xác nơi đây, nhưng linh hồn các ngươi đã đầu thai phương Bắc, kết cấu với vô số linh hồn Ngư tinh, Mộc tinh, cùng vô số các loài Yêu tinh khác nữa, khắp địa cầu, các ngươi đã làm hại dân tộc Văn Lang không biết bao lần. Nếu biết khôn hồn thời lo tu tâm dưỡng tánh hướng thiện, thời mong được có ngày về Trời, không nên xâm lược làm hại đất nước Văn Lang nữa. Bằng không Thiên Ấn – Thiên Bút ra đời tiêu diệt linh hồn của các ngươi, thần thức anh linh các ngươi sẽ biến mất, các ngươi sẽ không còn có cơ hội để được làm người, cũng không còn có cơ hội để làm loài cầm thú nữa.

    Nói xong Gióng giở cơm nắm ra ăn nghỉ chân một chút rồi phi ngựa về Sóc Sơn, bỏ lại một đoạn roi sắt thép ở đây, ngựa Gióng phi đến đâu thời thành ao thành vũng đến đó, đến chân Sóc Sơn, Gióng ghìm cương ngựa lại, ngựa Gióng hí lên vang động đất trời, dẫm chân lia lịa đi tới đi lui xoay tròn bốn phía, trở thành những ao vũng dày chi chít. Gióng nhìn non xanh nước biếc lần cuối rồi phi ngựa thẳng lên đỉnh núi cao.

    Khi ấy có một người dân ở làng Mõ đang cày ruộng gần núi Sóc Sơn thấy Gióng dừng ngựa trước khi phi ngựa lên núi, người dân làm ruộng ấy định chạy tới lạy Gióng, nhưng ngựa Gióng đã phóng vút lên núi, người làm ruộng chỉ biết đứng nhìn, trên đỉnh núi mây mù che phủ.

    Người làm ruộng còn đang phân vân, thời một người cao lớn hiện ra trước mặt mách bảo:

    Ta là Thần Núi Sóc Sơn, anh cứ trèo lên đỉnh núi, Thánh Gióng đã về Trời, áo giáp ngựa, giáp người ở dưới gốc cây Trầm Hương to lớn, còn mão thời treo lên nhánh Trầm Hương, hãy lấy gỗ Hương kia mà tạc tượng Thánh Gióng.

    Vu Điền người tạc tượng Gióng, cũng được thờ ngôi phụ bên cạnh Thánh Gióng trong đền thờ Sóc Sơn.


    PHẦN 32: HỒI KẾT
    PHONG QUAN TIẾN CHỨC

    Đông đã qua rồi xuân lại đến

    Phụng về múa hát, Hạt chơi mây

    Thôn quê thành thị, qua thời khốn

    Thái bình đầm ấm, cánh cò bay

    Độc lập Âu ca niềm hạnh phúc

    Non xanh nước biếc sắc hương đầy

    Kiếp vận xoay vần cơ tạo hóa

    Hết suy tới thịnh vốn xưa nay.

    Hùng Huy Vương lâm triều, bá Quan văn võ vào chầu đủ mặt, ai nấy nét mặt đầy hân hoan rạng rỡ.

    Quan Lạc Hầu Thượng Thư tâu rằng:

    Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Đoàn quân Thánh Gióng sau khi đánh tan quân giặc thời không trở về làng nữa mà tất cả lần lượt biến mất bay về Trời.

    Cả Triều Đình nghe Quan Lạc Hầu Thượng Thư tâu như thế ai nấy cũng đều sửng sốt:

    Có chuyện như thế sao?

    Quan Lạc Hầu Thượng Thư cũng đang trải qua cơn xúc động ngừng giây lát rồi đọc tiếp:

    Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Như ba anh em nhà Ba Chạ, ở Làng Môi, Làng Mòi. Đàn trẻ chăn trâu ở Hội Xá. Hai người câu cá trên Sông Hồng. Những người thợ săn. Anh em sinh đôi làm ruộng. Những người trồng tre phi theo Gióng rồi lần lượt biến mất. Nhiều người trông thấy đàn trẻ chăn trâu ở Hội Xá, cũng như các vùng lân cận ở Hội Xá sau khi đánh tan giặc Ân phi ngựa về núi Trâu rồi tất cả đều biến đi đâu mất. Năm anh em cùng sanh ra trong một bọc ngũ tài Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ phi ngựa về núi ngũ hành biến mất. 35 người trai tráng khỏe mạnh Làng Y Na không theo năm anh em Ngũ Hành hiện đang thống lãnh quân binh trấn giữ biên giới Bắc Văn Lang. Ông Trấn, Ông Trâu, Ông Bạch Sam, phi ngựa lên núi Tiên Du biến mất. Đàn Hổ, đàn Voi, đàn Sư Tử, đàn Chim Ưng, cũng biến mất theo. Hai anh em Chủ Soái, Nguyên Dực Nguyên Minh sau khi đánh tan quân giặc ngoại xâm phi ngựa theo Gióng đến Ngô Hạ, núi Độc biến mất. Còn Gióng phi ngựa lên núi Sóc Sơn về trời.

    Cả Triều Đình nghe Quan Lạc Hầu Thượng Thư tấu trình những kỳ tích đánh tan giặc Ân, giặc Hồ, giặc Hung Nô chỉ trong vòng có ba ngày tiêu diệt hơn 90 vạn quân đã là kinh hồn bạt vía, lại nghe đoàn quân của Gióng lần lượt biến mất bay về Trời, chuyện lạ đời từ trước đến nay chưa từng có.

    Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ:

    Mẹ Gióng quê ở Làng Phù, tên là Thị, tên thường gọi là bà Phù Thị. Phù Thị mang thai Gióng ở Làng Đổng, khi bà Phù Thị sanh ra Gióng, bà đặt tên cho Gióng là Phù Đổng, có nghĩa là liên kết hai làng, Làng Phù và Làng Đổng, những gì liên quan về Gióng, Thần cùng các Quan cộng sự làm việc cật lực thu thập thông tin Thần đã báo cáo lên Bệ Hạ, xin Bệ Hạ phán xét phong Quan tiến Chức cho những người có công đối với non sông Tổ Quốc.

    Hùng Huy Vương nói:

    Quân Gióng là quân nhà Trời đầu thai mượn xác trần, cứu non sông Tổ Quốc Văn Lang, xong nhiệm vụ tất cả đều đồng loạt về Trời, bỏ lại xác trần một cách bí mật, không ai có thể biết được.

    Đến lúc bấy giờ Hùng Lang Công ở Kinh Đô hợp phố Giao Chỉ Bắc Văn Lang từ chỗ ngồi đứng dậy, bước ra dâng tấu sớ những người có công đánh đuổi ngoại xâm vì nước vì dâng lên Hùng Huy Vương, xin lãnh ý chỉ Quốc Vương phong Quan tiến Chức, cho những người còn sống cũng như những người đã chết, cũng như ổn định lại Bắc Văn Lang trải qua một thời gian dài bất ổn. Hùng Huy Vương nhận tất cả tấu sớ rồi bãi Triều, rạng ngày hôm sau Hùng Huy Vương lâm Triều. Bá Quan Văn Võ đủ mặt tung hô vạn tuế.

    Hùng Huy Vương truyền chỉ. Quan Lạc Hầu Thượng Thư đọc chiếu chỉ phong ấn sắc lần lượt như sau:

    – Trước truy phong Gióng, với công lao to lớn đánh tan quân giặc ngoại xâm, cứu dân cứu nước. Sắc phong Thánh Gióng, Phù Đổng Thiên Vương, và cho lập đền thờ ở quê nhà hai làng, làng Phù và làng Đổng cúng tế hàng năm.

    – Sắc phong Phù Thị mẹ của Gióng, Thánh Mẫu, được phụng dưỡng ngang hàng với bậc Quốc Mẫu Nương Nương, khi qua đời được lập đền thờ ở cạnh đền thờ của Gióng.

    – Truy phong năm anh em ngũ tài, có công đánh tan quân xâm lược cứu dân cứu nước. Sắc phong ngũ Thánh, Kim Thánh, Mộc Thánh, Thủy Thánh, Hỏa Thánh, Thổ Thánh, lập đền thờ nơi làng Y Na, hàng năm cúng tế.

    – Truy phong đàn trẻ chăn trâu, ở Hội Xá, cũng như đàn trẻ chăn trâu các vùng lân cận Hội Xá, có công cứu dân cứu nước đánh tan quân xâm lược rồi phi về núi Trâu biến mất, sắc phong Thiên Binh quân Trời, lập dinh thờ khắp nơi cúng Tế hàng năm.

    – Truy phong ba anh em nhà Ba Chạ, có công theo Gióng đánh tan quân xâm lược cứu dân cứu nước. Sắc phong Tam Quan Trung Thần, được lập đình miếu cúng tế hàng năm.

    – Truy phong hai người câu cá trên sông Hồng, có công theo Gióng đánh tan quân xâm lược, cứu dân cứu nước. Sắc phong Nhị Ngư Trung Thần, được xây đình miếu trên sông tế lễ hàng năm.

    – Truy phong những người thợ săn, có công theo Gióng đánh tan quân xâm lược. Sắc phong Sơn Linh Trung Thần, được xây đình, miếu, cúng tế hàng năm.

    – Truy phong những người làm ruộng, những người trồng tre, có công theo Gióng đánh tan quân xâm lược, cứu dân cứu nước. Sắc phong Nông Linh Trung Thần, lập đình, miếu, thờ phụng khắp nơi, cúng tế hàng năm.

    – Truy phong đàn hổ, đàn voi, đàn sư tử, đàn chim ưng, có công theo Gióng đánh tan quân xâm lược, cứu dân cứu nước. Sắc phong, Hổ Thần, Voi Thần, Sư Tử Thần, Chim Ưng Thần, được lập miếu thờ khắp nơi cúng tế hàng năm.

    – Truy phong hai anh em chủ soái Nguyên Dực, Nguyên Minh, có công theo Gióng đánh tan quân xâm lược, cứu dân cứu nước. Sắc phong Nhị Linh Trung Thánh, được lập đền thờ tại Ngô Hạ núi Độc, thờ cúng hàng năm.

    Đọc xong chiếu chỉ sắc phong những người theo Gióng về Trời xong, trở về chỗ ngồi, thời kế tiếp Hùng Lang Công đọc chiếu chỉ phong ấn sắc thứ hai. Hùng Lang Công đọc chỉ ấn sắc rằng:

    Những người có công đánh tan quân xâm lược, cũng như có công chống trả lại quân thù, cứu dân cứu nước, người sống cũng như người chết, được tăng phẩm vị lên ba cấp, phong cho đất đai trăm mẫu, hưởng bổng lộc theo luật định của Triều Đình, những Châu Phủ, Quận Huyện, chưa có người bổ nhiệm chủ quản, theo chiếu chỉ phong chức sắc bổ nhiệm về nơi đó mà nhận chức, Quan Phủ, nhận chức Bố Chính.

    – Truy phong Cao Hải, có công theo Gióng đánh tan quân thù cứu dân cứu nước, phong lên hàng Vương, Cao Đại Vương. Sắc phong chủ quản Bộ Châu Diên, bảy Châu, bảy mươi Quận Huyện.

    – Truy phong các Tướng Lĩnh, cố thủ cung thành, cũng như các Tướng Lĩnh theo Gióng đánh tan quân xâm lược, được phong lên ba cấp. Sắc phong: Hàng Tướng bổ nhiệm về các Châu, Tử Dương Châu, Bắc Giang Châu, Lạc Giang Châu, Dương Giao Châu, Kinh Giao Châu, Tây Giang Châu, Tây Tây Châu, Hạ Tây Châu, Giao Giao Châu, Quý Linh Giao Châu, Thất Khê Châu, Đình Hải Châu, Cái Hải Châu, Phúc Hải Châu, Đông Giao Châu, Hạ Hải Châu, Liễu Giao Châu, Lạc Trung Châu, Hạt Linh Châu, Quế Điền Châu, Hợp Linh Châu, v.v... còn nhiều các Châu khác nữa có hơn 30 Châu 200 mấy chục Quận Huyện. Hàng phó Tướng bổ nhiệm về các Quận Huyện, hàng trưởng đội, phó đội bổ nhiệm về các làng Xã.

    Hai tháng sau Cao Hải thành hôn với Lạc Kim Tiên, hôn lễ vô cùng long trọng, sanh con đẻ cái đầy đàn. Nước Văn Lang thái bình độc lập, hưng thịnh hơn 300 năm thời có biến loạn trở lại. Muốn biết sự biến loạn đó ra làm sao? Nước Văn Lang sẽ như thế nào? Mời các bạn xem tiếp Văn Lang chiến sự ở các giai đoạn khác, ở vào giai đoạn cuối thời các Vua Hùng thời sẽ rõ.


    TRANG SỬ

    Văn Lang chiến sự khép lại kết thúc

    Xóm dừa nhìn bãi dâu xanh

    Gió thu ru nhẹ lá cành làng quê

    Cánh cò bay lả bay la

    Bay qua xốm nước bờ tre ruộng đồng

    Trâu nhìn đò chạy trên sông

    Mục đồng chăm chú nhìn trông cánh diều

    Khói lam tìm ánh nắng chiều

    Đàn chim nhẹ cánh tìm về núi non

    Bao la trời nhớ đất thương

    Non xanh nước biết vấn vương đất trời

    Ánh trăng vằng vặc đêm về

    À ơi tiếng hát ngọt lành mẹ ru

    Ánh đèn soi dáng người thân

    Sạm đen vì bởi gió sương tháng ngày

    Đêm về nhớ ánh trăng đầy

    Nhớ hừng đông dậy nhớ gà báo tin

    Gâu gâu chó hỏi người đi

    Vườn cà làng Đổng có ai giữ gìn

    Người rằng ! Có một người hiền

    Tên là Phù Thị một mình không con

    Lâu rồi ở với Đức ông

    Vườn cà chăm sóc sớm hôm kể gì

    Nết na tứ Đức ai bì

    Người tuy xấu xí lòng đầy ngọc châu

    Lòng vàng cứ mãi bay xa

    Đến tai Thượng Đế Trời Cha Chúa Trời

    Huyền cơ chuyển biến đến người

    Long Vương Sùng Lãm xuống trần đầu thai

    Vườn cà để lại dấu chân

    Phù Thị dẫm phải tượng lần bào thai

    Huyền cơ chuyển vận éo le

    Phúc họa, họa phúc có ai nghĩ lường

    Sau đây là chuyện của người

    Sử Kinh để lại cho người xem coi

    Sử Kinh là tấm gương soi

    Cho bao thế hệ đời sau răng mình.


    LỊCH SỬ VỀ PHÙ ĐỔNG
    ĐẾN ĐÂY LÀKẾT THÚC


    CHỦ BÚT: NGUYỄN ĐỨC THÔNG
     
  13. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    QUỐC BẢO
    CHÂN KINH


    VĂN LANG CHIẾN SỰ

    III

    THIÊN ẤN THIÊN BÚT

    GÒ HỘI

    ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI


    2013

    Nguyễn Đức Thông


    LỜI MỞ ĐẦU
    Nói về Quốc Tổ Hùng Vương. Cùng Bách Việt khai dựng lập lên nước Văn Lang hùng mạnh rộng lớn. Giết chết ba con Yêu Tinh Quỉ dữ. Mộc Tinh, Ngư Tinh, Hồ Tinh, cùng vô số Tướng Lĩnh Yêu Tinh. Cũng như con cái, cháu, chắt, chút, chít, của ba con Chúa Tể Yêu Tinh lên đến hàng vạn vạn.

    Vì thế con cháu Văn Lang là mối thù truyền kiếp của chúng có cơ hội là chúng hãm hại. Không bằng cách nầy cũng bằng cách khác. Nhất là ở các giai đoạn thời kỳ cuối các thời Hạ Hùng Vương. Thời kỳ mạt pháp Văn Hóa Cội Nguồn không còn. Nền Quốc Đạo biến mất, các quyền cơ bản con người cũng mất theo. Nước Văn Lang rơi vào cảnh tối tăm, dân chúng lạc vào tà ma ác đạo.

    Nguy hiểm nhất là Linh Hồn ba con chúa tinh ác Quỷ cũng như con cái cháu chắt của chúng đầu thai làm người không những ở Phương Bắc Nhà Chu, mà còn đầu thai ở Bắc Văn Lang, có cơ hội là chuyển xây tình thế hãm hại con cháu Tiên Rồng nhân loại Đồng Bào nói chung, con cháu Văn Lang nói riêng. Gây ra bao thảm cảnh tang thương chết chóc chiến tranh loạn lạc cùng khắp. Nhất là cảnh chiến tranh tương tàn nồi da nấu thịt ở dân tộc Văn Lang. Chúng không để yên cho Bách Việt Văn Lang hưởng thái bình an lạc nhất là những cuộc nổi lên nội chiến kinh hồn. Dân tộc Văn Lang con cháu Tiên Rồng, con dân Quốc Tổ Vua Hùng phải chịu cảnh Đồng Bào nồi da nấu thịt. Ác Quỉ giành lấy chính quyền biến dân tộc Văn Lang thành dân tộc nô lệ dưới sự dày xéo nanh vuốt của chúng.

    Sức mạnh của Loài Ác Quỉ là chúng đầu thai làm người Phương Bắc chuyển xây tình thế xua quân xâm lược Phương Nam. Làm cho đất nước Văn Lang đầu rơi máu đổ. Chiến Tranh đói nghèo lạc hậu khốn khổ vô cùng. Nhất là sự lừa dối cũng như sự độc tài độc trị tàn bạo cai trị thảm khốc của chúng.

    Có khi chúng sanh ra trên đất nước Văn Lang. Rồi tạo lên cảnh nồi da nấu thịt. Như Cha Con Doãn Thường chẳng hạn nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang, biến Bắc Văn Lang trở thành Trung Thổ Trung nguyên. Nước Văn Lang Bắc Nam chinh chiến. Dân tộc Bách Việt Văn Lang con cháu Tiên Rồng con dâng Vua Hùng tàn sát lẫn nhau. Gây ra cảnh Đồng Bào tương tàn. Cha con anh em, dòng họ chém giết lẫn nhau nhà tan cửa nát.

    Chúng đầu độc Văn Hóa ảo tưởng, nhất là Văn Hóa mê tín dị đoan, chúng nhập đồng nhập xác nói ra những điều xàm bậy làm mê muội con người. Lũ ác Quỉ lạm dụng ngôn từ trau chuốt bóng bẩy đầu độc dân chúng nhất là văn hóa Thần Quyền tôn thờ Thần Thú, Cầm Thú, Thần Vật làm cho dân chúng quên Cội quên Nguồn. Quên đi truyền thống Nguồn Cội anh linh Tiên Rồng Dân Tộc. Làm cho xã hội luôn đi vào hỗn loạn xuống cấp đạo đức chỉ biết tranh hơn, tranh thua hận thù tham lam tàn bạo. Chậm phát triển dẫn đến đói nghèo lạc hậu.

    Chiến tranh triền miên dân chúng luôn rơi vào cảnh khốn khổ nhiều mặt tinh thần lẫn vật chất, nhất là về mặt độc tài độc trị hết sức tàn bạo. Với phép thuật thần thông đa ngôn xảo ngữ của các loài Yêu tinh Quỉ dữ đầu thai chuyển kiếp làm người chúng gây ra không biết bao nhiêu thảm cảnh chiến tranh nồi da nấu thịt. Như Cha Con Doãn Thường chẳng hạn, đã đánh lừa được lòng ham muốn của con người. Đánh lừa được Bách Việt Bắc Văn Lang. Nhất là những giai cấp khốn khổ chạy giặc từ Phương Bắc di cư sang Bắc Văn Lang. Bọn ác Quỉ Cha Con Doãn Thường đêm trăm nghìn cái lợi dụ dỗ dân chúng. Lợi thì như núi non biển cả nhưng không còn cái răng để mà ăn. Vì mất tất cả không những về vật chất mà còn lẫn cả tinh thần, thậm chí những quyền cơ bản con người như quyền sanh sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc không còn. Chỉ biết than trời khóc đất.

    Những loài ác Quỉ sanh ra làm người lợi dụng lòng tin nơi chúng dân. Chúng hiện thân ra như một đấng con Trời lên ngôi Thiên Tử. Chúng muốn dân chết là chết, cho dân sống là sống không ai dám cải chỉ biết răm rắp nghe theo tin theo. Nhưng chúng không hiểu một điều, đã là Thiên Tử con Trời thời không tàn sát sanh linh nhất là con người. Luôn đem lại sự công bằng bình đẳng cho con người bảo vệ những quyền thiêng liêng con người mà Tạo Hóa đã ban cho. Những quyền bất khả xâm phạm.

    Thiên Tử Con Trời thời sống theo Thiên ý Cha Trời Thiên luật Vũ Trụ không tạo ra cái cảnh nồi da nấu thịt, mà luôn đem lại hòa bình thịnh vượng cho muôn dân. Thiên Tử Con Trời không có cảnh đi xâm lược mà luôn luôn tôn trọng chủ quyền độc lập của nhau hòa hiếu lẫn nhau. Thiên Tử Con Trời cũng có sự cạnh tranh nhưng sự cạnh tranh công bằng bình đẳng thi đua tiến hóa vương lên đỉnh cao của thời đại theo khuôn khổ Hiến Pháp Luật Pháp, Đạo Pháp chân chính cho phép. Không phải cạnh tranh hủy diệt lẫn nhau, thôn tính lẫn nhau. Thiên Tử Con Trời không có cảnh độc tài độc trị độc bá thiên hạ tranh giành thiên hạ, biến thiên hạ vào cảnh nô lệ, cướp đất đai thuộc địa gây ra cảnh chiến tranh đầu rơi máu đổ.

    Những kẻ đầy lòng dã tâm tham vọng mưu đồ xưng vương xưng bá không phải Thiên Tử con Trời, mà chỉ là Yêu Tinh Quỉ dữ đầu thai. Bành trướng tham tàn ác bá độc tài đọc trị chém giết đồng loại đây chỉ là những kẻ ngụy Thiên Tử tự xưng là con Trời hầu lừa bịp dân chúng.

    Thật ra những Thiên Tử tự xưng giả hiệu nầy chỉ là những kẻ thắng xưng là Vua thua cho là Giặc Xem đi xét lại Giặc với vua cũng chỉ là một thứ chẳng khác gì nhau. Những Thiên Tử tự xưng giả hiệu con Trời đầy rẫy trong thời đại Phong Kiến. Nhất là thời đại Phong kiến Thần Giáo. Phong Kiến Địa Chủ, Phong Kiến Vua, Chúa. Nhờ vào phép thuật tu luyện hàng nghìn năm trở thành đa ngôn xảo ngữ lừa dối con người dẫn con người vào con đường tối tăm không biết đâu là phải trái Thiện ác.

    Như Cha Con Doãn Thường chẳng hạn sử dụng từ ngữ bóng bẩy lời nào cũng có lợi cho dân. Để đánh lừa được lòng ham muốn con người. Biến giả thành chân. Che đậy lớp vỏ bọc bên ngoài. Che đậy sự tham lam tàn bạo nanh vuốt của loài ác Quỉ. Chúng gây ra cho con cháu Tiên Rồng Bách Việt Dân Tộc Văn Lang bao cảnh chiến tranh nồi da nấu thịt, hết nô lệ nầy đến nô lệ khác, hết thời kỳ khốn khổ nầy đến thời kỳ khốn khổ khác làm tiêu tan đất nước Văn Lang Từ thời gần cuối Nhà Chu. Kéo dài cho đến ngày nay hơn hai nghìn năm mấy trăm năm.

    Sự lạm sát của những loài Ác Quỉ giết hại con người quá lớn. Làm kinh động đến các Tầng Trời. Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa. Vì thương nhân loại Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đầu thai xuống trần. Diệt trừ Yêu Tinh Quỉ dữ trừ hậu họa cho con người. Nhưng diệt được ác quỉ nầy thời liền mọc ra ác Quỉ khác. Thái bình thịnh trị không được bao lâu thời chiến tranh loạn lạc trở lại. Làm khốn khổ con cháu Tiên Rồng. Dân Tộc Văn Lang hết nghìn năm nầy đến nghìn năm khác.

    Nhất là các thời kỳ cuối thời Hạ Hùng Vương. Từ thời thứ 13 Hùng Việt Vương: Tuân Lang: 569 đến 506 trước công nguyên. Trở xuống đến thời Hùng Duệ Vương: Huệ Lang thứ 18 cuối thời Hạ Hùng Vương 306. Rồi đến thời Âu Lạc 258 trước công nguyên. Khốn khổ kéo dài cho đến tận ngày nay.

    Trong các cuộc chiến tranh xâm lược bành trướng quân thù. Thời chiến tranh xâm lược Văn Hóa là độc hại nhất Nguy hiểm nhất. Nhất là thứ Văn Hóa làm cho con người mất đi tự chủ. Mất đi truyền thống anh linh dân tộc Lạc Cội Lạc Nguồn. Làm cho dân tộc rã rời đoàn kết. Đạo đức xuống cấp đánh mất lương tâm con người. Làm cho con người không phân biệt được đâu là đúng sai nữa. Thậm chí anh em tàn sát nhau mà vẫn cho là đúng, mà còn cho đó là vinh. Cái vinh đáng sợ làm sao một nhát đao chém xuống anh em vui mừng chiến thắng. Sự sai lầm nào cũng phải có ngày tỉnh ngộ chấm dứt, sự khô cằn nào cũng phải có ngày đâm chồi nẩy lộc. Dân tộc Việt Nam khốn khổ bao nhiêu thời vui sướng lại bấy nhiêu.

    Văn Hóa Cội Nguồn xuất hiện thời Chân – Giả, Trắng – Đen, Chính Nghĩa – Phi Nghĩa sáng tỏ. Mặt Trời Văn Hóa Chánh Đẳng Chánh Giác ra đời thời nhân loại mới đi vào ổn định bình yên kéo dài rất lâu có thể nói thế giới nhân loại đi vào cảnh thiên đàng cực lạc trần gian nói chung Việt Nam nói riêng trong một niềm vui thái bình thịnh trị an lạc. Trên mảnh đất Địa Long Vũ Trụ hình chữ S tức là nước Việt Nam Con Cháu Rồng Tiên sẽ nở hoa Chánh Đẳng Chánh Giác. Tiến tới Chủ nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ đại đồng Long Hoa hội tụ. Rồng Tiên Tỏa Sáng ra đời. Quốc Tổ Vua Hùng. Dân tộc Việt Nam. Nước Việt Nam chóa ngời rạng danh khắp cùng thế giới.

    Việt Nam chữ S đất phù sa

    Nằm giữa Âm – Dương Cốt Long Hoa

    Thánh Địa anh linh từ muôn thuở

    Bừng lên rực rỡ khắp hà sa

    Văn Hóa Rồng tiên Đường Chính Nghĩa

    Cội Nguồn tỏ rạng Cội Ông Cha

    Bổn phận thế thiên hành phụng sự

    Thái bình an lạc khắp Âu Ca.

    * * *

    Sống trên Địa Cốt Long Hoa

    Phải là Thiên Sứ cho nhà Rồng Tiên

    Trời ban Đất Việt Linh Thiêng

    Tiên Rồng nòi giống uy quyền từ đây.

    * * *

    Ở cuối thời đại Kinh Dương Vương. Hùng Vương Quốc Tổ ra đời từ Văn Hóa Phong Kiến Thần Giáo. Chuyển sang giai đoạn Văn Hóa Cội Nguồn Thánh Giáo. Trong triều nội Vua không làm theo ý các Triều Thần. MÀ CHỈ LÀM THEO HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP điều hành đất nước. Có nghĩa là xóa bỏ đi Độc Tài Độc Trị không làm theo ý kiến cá nhân, cũng như nghe Triều Thần mà chỉ làm theo HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP. Nền QUỐC ĐẠO bí mật của Triều Đại Văn Lang. Nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Không truyền xuống dân, mà chỉ truyền xuống Vương Quan lấy đó để trị dân, dạy dân. Ở vào thời đó chữ viết còn quá thô sơ lạc hậu. Nên không thể lưu chép thành Kinh Văn được. Nên dẫn đến tam sao thất bổn HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP, dần dần biến mất. Nước Văn Lang mất đi nền Văn Hiến Quốc Đạo Văn Lang liền trở về thời Phong Kiến Thần Giáo. Như thời đại Kinh Dương Vương chẳng khác gì Phong Kiến Thần Giáo, cũng như Phong Kiến Vua, Chúa ở Phương Bắc kéo dài hơn 10 nghìn năm trong các thời kỳ Phong Kiến.

    Nói tóm lại: Phong Kiến Thần Giáo độc tài độc trị. Phong Kiến Vua Chúa độc tài độc trị là những lập luận giáo điều của mỗi cá nhân các Triều Thần mà Vua thường nghe theo và làm theo. Còn Văn Hóa Cội Nguồn là Văn Hóa Thánh Giáo không dựa trên ý tưởng riêng mỗi người để tâu lên vua. Mà là nền HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP. THIÊN LUẬT TẠO HÓA không ai có quyền tự đặc ra hoặc hủy diệt đi. THIÊN LUẬT TỰ NHIÊN VŨ TRỤ chính là nền Quốc Đạo dân tộc Văn Lang. Mà các Vua Hùng lấy đó thay nhau làm nền tảng cho sự trị quốc. Đã là Thiên Tử con Trời thời phải thuận theo Thiên Luật vũ Trụ, Thiên Ý Cha Trời sống theo Văn Hóa Cội Nguồn, luôn bảo vệ quyền con người quyền thiêng liêng Tạo Hóa đã ban cho. Sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp công bằng bình đẳng ai cũng như ai. Không có cảnh độc tài độc trị tốm thâu quyền lực lạm sát vô tội.

    * * *


    PHẦN 1
    Sau thời Phù Đổng Thiên Vương hơn ba trăm năm mươi năm thời Cha Con Doãn Thường, nổi lên làm một cuộc chính trị tài tình nuốt trọn toàn bộ Bắc Văn Lang. Bắc Văn Lang chính là nước Xích Quỷ ở thời Kinh Dương Vương. Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang Chia cắt đất nước Văn Lang ra làm hai.

    Bắc Văn Lang Cha Con Doãn Thường cai quản thống trị. Chỉ còn lại Trung – Nam Văn Lang Hùng Việt Vương. Tuân Lang, đời thứ 13 Hạ Hùng Vương cai quản thống trị 569 đến 506 trước công nguyên. Mở ra thời đại đen tối cho con cháu Tiên Rồng. Đất nước Văn Lang đi vào cảnh Bách Việt nồi da nấu thịt. Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang xưng là Việt Vương.

    Vì dân tộc Văn Lang là dân tộc Bách Việt, muốn hợp lòng dân thời Cha Con Doãn Thường phải xưng Việt Vương, Vua Việt, thời dân chúng bách Việt mới theo về che chở bảo vệ. Có thể nói Cha Con Doãn Thường rất thông minh lại có mưu đồ lớn nuốt trọn nước Văn Lang lật đổ thời đại Hùng Vương, thay thế thời đại Việt Vương. Vì thế Hùng Việt Vương, Tuân Lang đời thứ 13 Hạ Hùng Vương khốn đốn trước sự khôn ngoan của Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang. Mà không cách gì lấy lại Bắc Văn Lang được.

    Cha Con Doãn Thường có nguồn gốc Ông Cha từ Phương Bắc di cư đến đất Cối Kê Bắc Văn Lang sanh sống trải qua 30 đời. Đến đời Doãn Thường thời dòng họ Vũ nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang xưng Việt Vương, không phải dòng dõi Vua Hùng. Bắc Văn Lang chính là nước Xích Quỷ chín đời Kinh Dương Vương nối tiếp nhau trị quốc một đất nước giàu có không những giàu có về vàng bạc ngọc ngà châu báu, mà giàu có về lương thực nhất là văn minh lúa nước. Cũng vì sự giàu có nầy mà luôn gặp phải mối họa về xâm lược của các thế lực ngoại xâm. Cũng như những tay lòng đầy dã tâm tham lam nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang nước Xích Quỷ làm của riêng cho mình như Cha Con Doãn Thường biến Bắc Văn Lang thành một thuộc địa Việt Trung Nguyên, sau nầy Việt Trung Nguyên chuyển đổi thành Trung Quốc.

    Vì Sao Bắc Văn Lang trở thành Việt Trung Nguyên?

    Là vì cha con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang xưng Vương ở giữa. Nam có Hùng Vương. Bắc có Chu Vương. Giữa có Việt Vương. Kể từ khi Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm toàn bộ Bắc Văn Lang, thời danh từ thuộc địa Việt Trung Nguyên mới ra đời. Từ đó Bắc Văn Lang dần dần biến mất thay thế danh từ Trung Nguyên. Bắc Văn Lang không còn nữa. Chỉ nghe đến danh từ Trung Nguyên mà thôi.

    Bắc Văn Lang vốn là nước Xích Quỷ giàu có trù phú vô cùng dân số lại đông lên nhanh chóng không có nơi nào sánh kịp. Là do dân Phương Bắc di cư đến ở vào các thời kỳ Nhà Hạ, Nhà Thương, Nhà Ân, Nhà Chu. Phương Bắc không ổn định như Phương Nam Văn Lang chiến tranh loạn lạc truyền miên. Dân chúng lánh nạn chiến tranh di cư đến Bắc Văn Lang sanh sống đông vô số đây chính là cơ hội thuận lợi cho Cha Con Doãn Thường có nguồn gốc Phương Bắc nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang.

    Hùng Việt Vương, Tuân Lang, rất khó tiêu diệt được vì Cha Con Doãn Thường quá khôn khéo biết dùng hình ảnh Quốc Tổ Hùng Vương làm bức bình phong che chắn cho sự dã tâm nổi lên chiếm lấy Bắc Lang xưng Việt Vương. Cha Con Doãn Thường trở thành dân tộc Văn Lang Bách Việt, trải qua nhiều đời. Nên Hùng Việt Vương, Tuân Lang không thể liệt Cha Con Doãn Thường là giặc ngoại xâm được. Mà chỉ coi Cha Con Doãn Thường là quân phản loạn.

    Trong khi phần lớn dân Bắc Văn Lang đồng tình ủng hộ cuộc nổi dậy cha Con Doãn Thường. Vì cho Cha Con Doãn Thường là dòng giỏi các Vua Hùng tái sanh chấn hưng lại nước Văn Lang xóa bỏ độc tài độc trị cũng như tham quan ô loại đem lại sự công bằng bình đẳng cho muôn dân, như thời Quốc Tổ dựng nước. Nên Hùng Việt Vương, Tuân Lang khó mà đánh bại được.

    Chỉ còn một cách là Nam Bắc phân tranh mà thôi cũng từ đây dân tộc Bách Việt Văn Lang nội chiến đầu rơi máu đổ nồi da nấu thịt Nam – Bắc phân tranh vô cùng khốc liệt. Loài ác quỉ chưa vì thế mà dừng tay tiếp tục hảm hại dân tộc Văn Lang con cháu Tiên Rồng hơn hai nghìn năm.

    Ở vào thời điểm nầy Phương Nam Hùng Vương. Phương Bắc Nhà Chu. Không khác gì nhau. Duy trì chủ nghĩa Phong Kiến Thần Giáo. Có nghĩa Vua nghe theo Triều Thần. Làm Theo Triều Thần. Cũng cố sự Độc Tài Độc Trị. Cha Con Doãn Thường khôn ngoan hiểu rõ sự thống khổ của dân dưới thể chế Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị của chủ nghĩa Phong Kiến Thần Giáo đã trải qua hàng nghìn nghìn năm.

    Cha Con Doãn Thường nghiên cứu rất kỷ về thời đại Hùng Vương dựa trên cơ sở nào mà kéo dài sự độc lập lâu như vậy. Và đã phát hiện sự kéo dài sự Độc Lập đó. Không phải dựa trên cơ sở Phong Kiến Thần giáo nghe theo triều Thần, lấy cơ sở Triều Thần trị quốc. Mà là có một nền HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP rõ ràng. Vua, Quan, Dân đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp đó. Tức là nền Quốc Đạo Dân Tộc ai cũng như ai Bình Đẳng, Xã Hội Công Bằng Dân Chủ Văn Minh. Một nhà nước lấy Dân làm Gốc, Dân Chủ: Dân có quyền, khác với thể chế Phong Kiến Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Thể chế của sự xin cho. Mà là Nhà nước của Dân do Dân và vì Dân. Như thời Quốc Tổ Vua Hùng dựng lên Nhà Nước Văn Lang.

    Nhưng Cha Con Doãn Thường lại không hiểu một điều Quốc Tổ Vua Hùng khai dựng lên Nước Văn Lang rộng lớn hùng mạnh. Không phải dựa trên chiến tranh gươm đao giáo mác. Tàn sát lẫn nhau mạnh được yếu thua. Thắng là Vua, thua là Giặc xem đi xét lại giặc với Vua cũng chỉ là một thứ. Mà là dựng nước Văn Lang rộng lớn hùng mạnh dựa trên Quyền Con Người Công Bằng Bình Đẳng Văn Hóa Cội Nguồn trở thành nền Quốc Đạo dân tộc thịnh trị 2701 năm. Văn Hóa Mặt Trời Chánh Đẳng Chánh Giác. Văn Hóa Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng. Văn Hóa Công Bằng, Bình Đẳng, Tự Do Dân quyền văn minh. Vua TỐI CAO của Nước Văn Lang không phải là người khai lên Nước Văn Lang, mà chính là nền HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP. Nền quốc Đạo Dân Tộc VUA, QUAN, DÂN đều tôn thờ. Đây là điều bí mật kéo dài Độc Lập của Nước Văn Lang. Cha Con Doãn Thường không thể nào với tới nổi. Những bí mật cao siêu như vậy. Cứ Nghĩ Vua là trên hết, mà không hiểu có một thứ trên cả Vua. Đó là Thiên Luật Vũ Trụ. Cũng Chính là Thiên Ý Cha Trời, cũng chính là Lương Tâm con người, hiện thân HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP mà Quốc Tổ Vua Hùng dùng nó để khai dựng lập lên Nước Văn Lang.

    Quốc Tổ Vua Hùng khai dựng lên nước Văn Lang không phải bằng vũ lực thắng là Vua thua cho là giặc. Mà bằng con đường Văn Hóa Cội nguồn cũng chính là nền Hiến Pháp nền Quốc Đạo dân tộc. Văn Hóa Chánh Đẳng Chánh Giác tối cao Vũ Trụ. Văn Hóa mặt trời trí tuệ soi sáng cho Bách Việt Văn Lang. Mất văn Hóa Cội Nguồn thời dân tộc Văn Lang cũng theo đó mà tan rã. Bóng u minh trùm xuống chiến tranh loạn lạc triền miên. Yêu Tinh Quỉ dữ đầu thai làm người chuyển xây tình thế tàn hại con người nói chung dân tộc văn Lang con cháu Tiên Rồng lạc vào con đường ác đạo hầu hết sa đọa xuống các tầng Địa Phủ. Và cho đến khi nào dân tộc Việt Nam sắp đi vào đại họa diệt vong mất nước thời anh linh Quốc Tổ Vua Hùng sẽ xuất hiện cứu nguy dân tộc Việt Nam tiêu diệt ba con chúa quỉ không cho chúng ngự trị hình chữ S Địa Long Vũ Trụ tức là nước Việt Nam ngày nay.

    * * *


    PHẦN 2
    Ông Bà Cha Con Doãn Thường khởi nguồn từ dòng dõi Vua Vũ. Con thứ hai của Vua Thiếu Khang đời Nhà Hạ. Phương Bắc. Đến đời Vua Kiệt Nhà Hạ. Vua Kiệt đắm say tửu sắc, lại bất trí, không biết dùng người tài. Nghe lời dua mị của nịnh thần. Chinh phạt các nước. Vua Vũ bị Vua Kiệt Nhà Hạ tri sát. Vua Vũ dẫn gia quyến vợ con, người thân cũng như các quan tướng có trên cả trăm người trốn vào Phương Nam giả làm dân thường đến Bắc Văn Lang Sanh Sống rải rác nhiều nhất là ở đất Cối Kê.

    Vua Vũ đến ở Bắc Văn Lang đất Cối Kê, mang theo vàng bạc châu báu nhiều vô số kể. Nên Vua Vũ mua rất nhiều ruộng đất trở nên giàu có không khác gì những người giàu có nhất Bắc Văn Lang. Không những thế Vua Vũ còn giúp đỡ những các quan tướng đi theo mình ở rải rác khắp đất Bắc Văn Lang cũng trở nên giàu có. Nhờ sự giàu có chỉ nội trong đời Vua Vũ đã nhập tịch dòng họ con cháu thành dân Bắc Văn Lang chính thống. Theo số đông dân Lạc Việt – Âu Việt, Vua Vũ truyền bá những người đi theo mình, cắt tóc, xăm mình, trở thành dân Âu, dân Việt. Nhưng không sống theo phong tục tập quán của người Âu Việt, Lạc Việt. Mà di trì lối sống dung hòa Bách Việt lối sống hòa hợp lôi kéo có sự mưu đồ của riêng mình. Lối sống bí mật hình lên nghiệp Vương trong tương lai về sau trong các thời Con Cháu.

    Trong thời điểm ấy ở Phương Bắc Thành Thang thời nhà Hạ là người nhân đức trung hậu. Nên các nhân tài theo về rất đông. Còn Vua Kiệt thời hoang dâm vô độ, độc ác vô cùng phải nói là mất hết nhân tính con người. Tàn Sát các nước, giết hại trung thần. Bị Thành Thang đánh đổ lập lên Nhà Thương. Vu Vũ không muốn trở về đất Bắc vì thấy Bắc Văn Lang đất Giao Chỉ trù phú giàu có vô cùng có thể làm nên nghiệp bá bằng nuôi mộng cho đời sau.

    Sao gọi là nuôi mộng cho đời sau?

    Có nghĩa là di trì dòng tộc theo Văn Hóa trung hòa hơi nghiêng về phương Bắc. Hàng năm đều tổ chức hội đồng hương, luôn giúp đỡ người Phương Bắc di cư đến Bắc Văn Lang để ở. Có nghĩa là nuôi lớn cái gốc tự trị củng cố thế lực Xã Hội, cho đến khi hội tụ đủ thời cơ thời thời nổi dậy Xưng Vương.

    Vua Vũ cùng những quan tướng trung thần đi theo Vua Vũ đến nơi đất mới Bắc Văn Lang người nào người nấy trở nên giàu có. Không kém gì người giàu có ở bản địa dân chính gốc Bắc Văn Lang. Đến thời thứ 20 con cháu Vua Vũ có người đã làm đến Quan Trị Huyện. Đến đời thứ 30 thời con cháu Vua Vũ phần lớn là Quan Tri Huyện, có người làm đến Quan Tri Phủ. Các Con Cháu các Quan Tướng theo Vua Vũ phần nhiều là có địa vị Xã hội ở khắp đất Bắc Văn Lang và chỉ còn hội đủ thời cơ thời nổi lên xưng Vương Xưng Bá.

    Đến thời thứ 31 thời con cháu của Vua Vũ là Doãn Thường, làm đến chức Tri Phủ Lạc Giang Giao Châu. Sông Lạc.

    Thấy tình thế Bắc Văn Lang mất gốc Văn Hóa Cội Nguồn, Nền Quốc Đạo không còn. Nhà nước Văn Lang trở thành nhà nước Phong Kiến Thần Giáo. Nhà nước của sự Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị, Quan chức nhà nước Văn Lang phần lớn là quan lạc Cội Lạc Nguồn chỉ biết củng cố quyền lực không chăm lo mấy đến dân trở thành tham quan nổi lên khắp nước. Nhất là Bắc Văn Lang, tham Quan không những đắm say tửu sắc. Chỉ biết vàng bạc châu báu của cải vật chất. Không những thế trở thành mê tín dị đoan chạy theo Văn Hóa Phương Bắc. Chỉ biết Quyền Lực, Tham ô hối lộ, dẫn đến làm hại dân hại nước. Nhất là Thể Chế Phong Kiến Thần Giáo Độc Tài Độc Trị càng ngày càng hà khắc của các vương quan tha hóa. Bách Việt Bắc Văn Lang dân chúng chán ghét Vương Quan nhà nước Văn Lang vô cùng. Không trông mong gì nhà nước Văn Lang chỉ biết nghe theo dua nịnh mơ ước có sự thay đổi, chỉ cần có một tia lửa thương dân nổi lên, thời dân ủng hộ ngay, đây chính là cơ hội cho Con Cháu Vua Vũ. Doãn Thường nổi lên xưng Vương.

    Bắc Văn Lang ở vào thời kỳ nầy như quả mít chín muồi của sự bùng nổ chiến tranh. Chỉ cần một tia lửa đấu tranh nổi lên đêm lại quyền lợi cho dân tức thời bùng cháy chiến tranh ngay, không cách gì dập tắt được. Nhất là Văn Hóa Cội Nguồn đã mất, Non sông Tổ Quốc Văn Lang bao trùm màng u minh. Sự đoàn kết của dân tộc không còn. Một dân tộc mất đi nguồn gốc truyền thống anh linh, đương nhiên dân tộc Văn Lang phải héo cành rũ ngọn. Cội Nguồn dòng nước truyền thống không còn đương nhiên là lòng dân đã cạn, không còn nghĩ gì đến non sông tổ quốc nữa. Mạnh ai nấy đi theo chí hướng riêng. Tất cả phần đông đều rơi vào con đường ác đạo. Có thể nói là phản bội lại non sông Tổ Quốc.

    Anh hùng lạc đạo không biết đâu là đúng sai nữa, cảnh nồi da nấu thịt diễn ra. Giết hại nhau để rồi lên quan lên tướng. Lấy sự chém giết nhau cho đó là vinh quang vinh dự Thiên Đàng mất lối Địa Ngục rộng mở. Thời kỳ như vậy gọi là thời kỳ mạt pháp. Chiến Tranh loạn lạc truyền miên. Hận thù chồng chất oán trả oán, thù trả thù chém giết lẫn nhau không biết bao giờ chấm dứt. Một dân tộc mất Cội mất Nguồn khó mà tiến hóa để vươn lên. Con Đường Đại Lộ Công Bằng Bình Đẳng Dân Chủ Văn Minh không còn, thay vào đó là con đường Phong Kiến Thần Giáo bảo thủ Độc Tài Độc Trị. Làm cho cuộc sống không tiến hóa được, dẫn đến đói nghèo lạc hậu.

    Người dân như sống trong một nhà tù lớn. Khát vọng tự do. Cha con Doãn Thường hiểu rõ điều nầy tạo lên bánh vẽ công bằng tự do, tất cả quyền lợi đêm về cho dân tuy rằng chỉ là những lời lừa phỉnh không thật. Nhưng hiệu quả vô cùng dân chúng tin theo nghe theo làm theo. Cha Con Doãn Thường dựa vào phần lớn dân chúng ủng hộ đồng tình góp công góp sức làm lên một cuộc cách mạng long trời lở đất. Chiếm lấy Bắc Văn Lang phản bội lại thời đại cuối các Vua Hùng.

    Theo như những gì Quốc Tổ dạy: Sự Sống của một dân tộc Văn Minh là sự sống có gốc của dân tộc đó. Sự sống mất gốc dân tộc là sự sống chết, nguy cơ trùng trùng. Nô lệ là chuyện không sao tránh khỏi dẫn đến mất luôn đất nước là chuyện không sớm thì chiều.

    Dân tộc Văn Lang cũng bởi vì mất đi Văn Hóa Cội Nguồn dẫn đến không biết bao nhiêu là tai hại một đất nước Văn Lang rộng lớn nếu mất đi nền Quốc Đạo dân tộc thời khó mà đoàn kết được Bách Việt. Dẫn đến mất đi Bắc Văn Lang. Rồi đến Trung Văn Lang. Chỉ còn lại Nam Văn Lang. Nếu còn tiếp tục không khôi phục lại Văn Hóa cội Nguồn. Truyền thống dựng nước Ông Cha có hơn năm nghìn năm văn hiến thời Nam Văn Lang hình chữ S nước Việt Nam cũng không thể nào giữ nổi bị giặc phương Bắc nuốt trọn.

    Cha con Doãn Thường mọc ra nổi dậy chiếm lấy Bắc Văn Lang cải đổi thành Việt Trung Nguyên. Đến thời Việt Vương Câu Tiễn dưng hai tay cho người Phương Bắc. Ở vào thời Chu Nguyên Vương nhà Chu. Chu Nguyên Vương phong cho Câu Tiễn làm bá chủ ở Phương Đông. Câu Tiễn cúi đầu vâng mệnh.

    Gương còn đó sờ sờ trước mắt

    Quên Cội Nguồn khó thoát tai ương

    Hỡi Việt Nam con cháu Rồng Tiên

    Gương lịch sử đừng quên luôn nhớ

    Về Cội Nguồn dựng xây truyền thống

    Đâm lộc cành kết quả sai hoa

    Theo con đường Truyền Thống Ông Cha

    Khôi phục lại hào hùng dân tộc

    Khôi phục lại văn minh Độc Lập

    Nền Quốc Đạo như vầng Nhật Nguyệt

    Mãi sáng soi con cháu Việt Nam.

    Văn hóa Phong Kiến Thần Giáo Độc quyền, Độc Tài, Độc Trị không phải bây giờ mới có. Mà đã ra đời hơn 10 nghìn năm trước công nguyên tồn tại mãi ở Phương Bắc. Văn hóa của sự bành trướng tranh hùng tranh bá, chém giết lẫn nhau. Thôn tính lẫn nhau. Vô cùng tàn khốc. Nếu ai thông suốt về sử ở Phương Bắc thời đều cảm nhận được điều nầy, sự bành trướng tranh hùng tranh bá thôn tính lẫn nhau. Ăn nuốt lẫn nhau chém giết lẫn nhau thủ đoạn tàn độc, thứ Văn Hóa nầy lan tràn đến đâu thời chiến tranh tàn khốc đến đó. Sự đem lại kết quả cho Văn Hóa nầy là hận thù. Thủ đoạn, tàn độc. Nếu bị nhiễm nặng có thể nói không còn lương tri mất đi nhân tính con người.

    Không như Văn Hóa Cội Nguồn văn Hóa Chính Nghĩa làm cho nhân loại con người Hiển Thánh, Thánh Thiện. Văn Hóa Cội Nguồn là Văn Hóa trí tuệ. Văn Hóa của sự đoàn kết, hòa bình, thịnh vượng. Có thể nói Văn Hóa Cội Nguồn Chính Nghĩa là Văn Hóa mùa xuân trăm hoa đua nở. Văn Hóa mở ra cánh cửa Thiên Đàng cực lạc.

    Văn Hóa Phong kiến Thần Giáo Độc Tài Độc trị tồn tại mạnh ở Phương Bắc gieo rét tranh hùng tranh bá thứ Văn Hóa Mùa Đông tàn phá văn minh tinh thần làm cho con người càng trở nên ác độc. Độc tâm độc tánh hiểm ác vô cùng. Nói đến Văn Hóa Phong kiến Thần Giáo là nói đến cái độc nói chung là không gì không độc. Hiểm độc, ác độc, tàn độc, tuy có nhiều Thánh nhân ra đời.

    Như Khổng Tử làm giảm bớt đi cái độc của Phong Kiến Thần Giáo, Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Đưa con người đến Thánh Thiện nhưng xem ra như hạt Muối bỏ xuống ao hồ. Không mấy kết quả. Mà còn trở thành một thứ vũ khí để cho các nhà Độc Tài độc Trị Phương Bắc lợi dụng làm chính trị. Đầu độc làm hại các nước thuộc địa trong đó có Việt Nam. Rơi vào cảnh nô lệ.

    Quốc Tổ Hùng Vương khai dựng lên nhà nước Văn Lang nhà nước của dân do dân và vì Dân nhà nước tam quyền phân lập không có sự độc tài độc trị nhà nước của Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo pháp. Nhà nước Pháp quyền. Nhà nước của sự công bằng bình đẳng. Sự kéo dài độc lập thời đại Hùng vương 2701 năm Thượng Hùng Vương 23 đời. Hạ Hùng Vương 18 đời tổng cộng thời đại Hùng Vương có 41 đời.

    Văn Hóa Cội Nguồn không những là Văn Hóa sáng soi Đạo đức con người, Đạo đức xã hội. Mà còn là kim chỉ nam cho sự phát triển xã hội văn hóa Cội Nguồn hiển linh trở lại sáng soi dân tộc Việt Nam, có thể nói dân tộc Việt đã đến thời kỳ chuyển sang giai đoạn thời đại Thánh Đức.

    Văn Lang chính sử sách còn ghi

    Bách việt anh linh có lạ gì

    Đài linh vó ngựa Nam – Trung – Bắc

    Cội Nguồn Văn hóa một đề thi

    Văn Lang Bách việt

    Tàn sát lẫn nhau

    Nguyên cớ vì đâu?

    Cội Nguồn biến mất

    Đi vào nội chiến

    Trăm khổ nghìn sầu

    Những ai quên mất Cội Nguồn

    Lạc vào ác đạo hết đường hồi quy

    Thiên đàng đã mất lối đi

    Muôn đời sa đọa âm ty nghìn trùng.

    * * *
     
  14. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    PHẦN 3

    Ở vào thời Phong Kiến Thần Giáo thời Nhà Chu. Chu Vũ Vương. Chu Thành Vương. Chu Mục Vương. Chu Di Vương. Đến thời Chu Lệ Vương thời nội triều Phong Kiến Thần Giáo con cháu Nhà Chu tranh giành quyền lực. Anh Em chém giết lẫn nhau, triều chính hỗn loạn.

    Chu Lệ Vương chạy trốn sang đất Trệ. Các Quần Thần Phong Kiến Thần Giáo Nhà Chu trong cảnh triều ca không Vương. Bằng hợp nhau thi hành chính sự Cộng Hòa điều hành đất nước Phương Bắc Nhà Chu đi đến hỗn loạn. Các Trấn Chư Hầu nổi lên tranh bá lẫn nhau. Thôn tính lẫn nhau chiến tranh loạn lạc. Phong Kiến Thần Giáo Quần Thần Nhà Chu, lập Chu Tuyên Vương chỉnh đốn lại Nhà Chu.

    Khi ấy ở nước Tề. Tề Lệ Công được lập. Lệ Công vô cùng bạo ngược. Nghe lời xàm tấu nịnh hót tham quan ô loại. Nội chính thời giết Trung Thần. Ngoại chính thời chinh phạt các nước làm cho Phương Bắc chiến tranh thôn tính lẫn nhau ăn nuốt lẫn nhau dữ dội. Mạnh được yếu thua thắng là Vua. Thua là giặc. Xem đi xét lại giặc với Vua cũng chẳng khác gì nhau. Ai có nhiều nhân tài biết đội lớp nhân nghĩa. Mưu mô xảo quyệt hơn thời thắng. Xưng Vua, Xưng Chúa. Xưng Bá.

    Không như phương Nam nước Văn Lang dân chúng sống theo Thánh Đức Thánh Giáo. Sống Theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp nền Quốc Đạo dân tộc thái bình an lạc. Kéo dài hơn mấy nghìn năm.

    Đều đáng chú ý ở đây: Thánh Đức, Thánh Giáo khác với Phong Kiến Thần Giáo Là ở chỗ Thánh Đức Thánh Giáo. Vua, Quan, Dân, đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Nền Quốc Đạo dân tộc. Còn Phong Kiến Thần Giáo là Triều Thần bao hàm cả Trung Thần, Nịnh Thần tâu lên Vua. Vua nghe theo đó mà hành sự. Mới có cảnh Nịnh Thần hãm hại Trung Thần. Trung Thần can gián Vua Làm Bậy liền bị xử tử. Còn Thánh Đức Thánh Giáo không phải như thế. Tất cả Vua, Quan, Dân đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Bằng Bình Đẳng Văn Minh. Chỉ bỏ tù hoặc xử tử những người có tội vi phạm luật pháp. Dù cho đó là Vương, Quan. Những người vi phạm Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp thời bị xử theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công đạo của nhà nước Vương, Quan, Dân phạm tội đều bị xét xử Công bằng Bình Đẳng trước Pháp Luật như nhau.

    Phương Bắc Nhà Chu theo chủ nghĩa Phong Kiến Thần Giáo độc tài độc trị, khác Phương Nam Thánh Đức Thánh Giáo thời Hùng Vương đa nguyên đa sắc tộc Bách Việt Tộc Văn Lang công bằng bình đẳng dân chủ tự do. Vì thế Phương Bắc không thể nào sánh kịp chiến tranh loạn lạc. Các nước thôn tính lẫn nhau tranh giành dân chúng. Tranh Giành đất đai quyền lực, làm cho dân chúng khốn đốn, thảm cảnh đói rét chết chóc xảy ra khắp nơi không ít dân chúng trốn chạy di cư vào Nam tức là Bắc Văn Lang. Có lúc chỉ trong vòng có mấy ngày lên đến cả vạn người. Bắc Văn Lang vì thế dân số tăng lên nhanh chóng không sao đếm xuể. Thậm Chí các Châu Quận, Huyện, không còn kiểm soát được nữa. Đành để cho dân chúng Phương Bắc tràn qua di cư sống vô gia cư khắp trên Bắc Văn Lang.

    Nước Tề đến thời Tề Hoàng Công Phong Kiến Thần Giáo vô cùng hưng thịnh. Phương Bắc tranh bá khốc liệt hơn nữa. Tề Hoàng Công nhờ có các bậc Triều Thần tài giỏi không những thu phục các nước mà còn biết trọng dụng nhân tài. Mộng bành trướng xưng hùng xưng bá lúc nào cũng trỗi dậy mạnh mẽ Tề Hoàng Công nhờ có Thấp Bằng, Cao Hề, Bão Thúc Nha cùng Quảng Trọng bày kế hay, mưu lược giỏi đánh nước Kỷ, nước Lỗ, nước Đàm. Cứu nước Yên, đánh nước Vệ, nước Thái, Nước Sở, Nước Trần. Nước Tấn.

    Tề Hoàng Công phía Nam chinh phạt Nam đến đất Thiệu Lăng, tây Nam đến Hùng Sơn. Ở phía Bắc đánh Sơn Nhung, Ly Chi, Cô Trúc. Phía Tây đánh Đại Hạ đến núi Thái Hàng, núi Ty Nhĩ hơn cả trăm nước không ai dám chống lại Tề Hoàng Công.

    Cuộc chiến chinh phạt nước nầy, thu phục nước kia. Xóa sổ nước nọ, cứu nước nầy, giúp nước kia. Có thể nói lúc bấy giờ Phương Bắc là bãi chiến trường. Dân chúng Phương Bắc càng bị chiến tranh bao nhiêu, thời càng di cư vào Nam Bắc Văn Lang càng nhiều bấy nhiêu. Không những dân chúng mà còn có cả những Vua, những Tướng đang bị truy sát.

    Cùng thời ấy đến thời Triệu Xuyên nước Tấn giết Vua của mình là Di Cao. Tấn Linh Công, Triệu Thuẫn cũng có phần. Triệu Thuẫn có công lập Tấn Thành Công lên thay thế. Nên Tấn Thành Công bỏ qua còn phong cho con cháu Họ Triệu làm quan lớn. Đến thời Tấn Cảnh Công, Đồ Ngạn Giả lật ngược tình thế kể tội Triệu Xuyên. Triệu Thuẫn mưu sát Di Cao, Tấn Linh Công ở tại Đào Viên. Dòng Họ Triệu bị tru di cửu tộc. Quan Binh truy sát con cháu Triệu Xuyên, Triệu Thuẫn chết không biết bao nhiêu mà kể. Số còn sống thời trốn chạy khắp nơi có người trốn sang nước Tống. Một số trốn vào Nam. Tức là Bắc Văn Lang sanh sống.

    Trải Qua nhiều đời được sự giúp đỡ con cháu của Vua Vũ. Dòng họ Triệu trở nên hưng thịnh giàu sang trở thành quyền thế trong đó có Triệu Tế Gia. Khi Cha Con Doãn Thường Con Cháu Vua Vũ ra đời như một anh hùng nổi dậy đứng lên chiếm lấy Bắc Văn Lang, cải đổi thành nước Việt Trung Nguyên thời con cháu Họ Triệu làm đến Tướng Soái thống lãnh đại quân Trung Nguyên chống trả lại quân Văn Lang.

    Thời hậu Hùng Vương, từ thời thứ 13 hậu Hùng Vương trở xuống đất nước Văn Lang trở thành nội chiến chia cắt Bắc Nam. Bắc Văn Lang đã bị Cha Con Doãn Thường nổi dậy chiếm lấy lập lên đất nước Việt Trung Nguyên.

    Với tình thế lúc bấy giờ nước Văn Lang Văn Hóa Cội Nguồn mai một thất truyền biến mất. Nền quốc đạo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp chân chính không còn. Thay vào đó là niền Phong Kiến Thần Giáo do triều Thần đề xướng giúp Vua. Theo thể chế Độc quyền độc tài độc trị không còn Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp nữa Mà nghe theo Triều Thần. Vua anh minh sáng suốt thời còn khá còn Vua hôn quân vô đạo lại nghe Nịnh Thần. Thời tai hại nước nhà không sao xiết kể.

    Có thể nói ở vào giai đoạn từ thời Hùng Việt Vương trở xuống không khác gì nền Văn Hóa Phong Kiến Thần Giáo Phương Bắc Độc Tài, Độc Trị. Dưới thể chế Độc Tài, Độc Trị Phong Kiến Thần Giáo xin cho nầy. Càng làm cho đất nước Văn Lang suy tàn. Tham quan mọc ra như nấm. Chỉ biết vơ vét của dân làm giàu, mua quan bán chức không kẻ gì đến non sông Tổ Quốc. Lòng dân càng ngày càng oán hận.

    Văn Hóa Phong Kiến Thần Giáo là Văn Hóa độc hại, Văn Hóa của sự tranh bá tranh hùng mạnh được yếu thua, thắng là vua thua là giặc Văn Hóa Phong Kiến Thần Giáo làm cho đất nước Văn Lang suy yếu dẫn đến chiến tranh loạn lạc không khác gì Phương Bắc. Sự độc hại của Phong Kiến Thần Giáo là mê tín dị đoan, cầu cạnh Thần Linh. Xin Xăm bói quẻ. Lôi kéo lòng người đi theo con đường Tà Giáo. Thổi bùng lòng tham tranh danh đoạt lợi bất chấp mọi thủ đoạn thôn tính tiêu diệt lẫn nhau.

    Phong Kiến Thần Giáo khác với Phong Kiến Thánh Giáo là xa con đường Chính nghĩa Công Bằng Bình Đẳng. Không có Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công đạo Chánh Nghĩa chân chính xã hội. Mà chỉ theo thể chế độc tài độc trị. Nước Văn Lang không còn nền Quốc Đạo dân tộc. Có nghĩa là Văn Hóa Cội Nguồn biến mất Tự Do Dân Quyền Văn Minh thời dựng nước không còn.

    Thay vào đó là nhà nước Phong Kiến Thần Giáo Độc Tài Độc Trị. (Chủ nghĩa Phong Kiến Thần Giáo là chủ nghĩa cạnh tranh hủy diệt khốc liệt. Mạnh được Yếu thua. Thắng là Vua thua là Giặc. Xem đi xét lại Giặc với Vua cũng chỉ là một thứ). Theo quy luật tự nhiên của Tạo Hóa. Nơi nào có áp bức thời nơi đó có đấu tranh. Nơi nào chạy theo Thần Quyền thời nơi đó lòng dân hỗn loạn Cha Con Doãn Thường đã hiểu rõ tình thế xã hội thời bấy giờ cơ hội thuận lợi nổi dậy chiếm lấy lòng dân. Chiếm lấy Bắc Văn Lang. Đất Nước Văn Lang liền rơi vào cảnh chiến tranh nội chiến tàn khốc.

    Đồng Bào Bách Việt Văn Lang con cháu Tiên Rồng rơi vào cảnh nồi da nấu thịt tàn sát lẫn nhau. Văn Hóa Cội Nguồn nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp chính nghĩa Quốc Tổ Hùng Vương dùng nó dựng nước, giữ nước, trị quốc kéo dài độc lập 2701 năm là vầng Thái Dương của non sông Tổ Quốc. Soi sáng cho dân tộc Văn Lang Thái Bình thịnh vượng An Lạc yên vui. Đánh mất Văn Hóa Cội Nguồn nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp dân tộc là đánh mất tất cả. Dân Tộc Văn Lang rơi vào cảnh tối tăm.

    Non Sông Tổ Quốc mất gốc. Bách Việt Văn Lang lạc Cội lạc Nguồn Dân tộc Văn Lang liền tan rã sự đoàn kết chia bè rẽ phái nổi dậy xưng bá xưng hùng chém giết lẫn nhau. Không khác gì Phương Bắc chiến tranh hỗn loạn dân chúng không lúc nào yên. Một dân tộc mà nguồn gốc dựng nước, giữ nước mù mờ. Không rõ ràng, sự thừa kế không có thời rơi vào con đường ác Đạo hỗn loạn tối tăm ngay.

    Bằng chứng cụ thể nền Văn Hiến Văn Hóa dựng nước không còn. Nước Văn Lang liền đi vào suy yếu. Dân Chúng Bắc Văn Lang nổi loạn. Cha Con Doãn Thường nổi dậy chiếm lấy bắc Văn Lang. Đất nước Văn Lang liền bị chia cắt. Bách Việt Văn Lang rơi vào nội chiến. Kết quả của sự nội chiến là đưa dân tộc Văn Lang đến con đường nô lệ ngoại ban. Mất lần đất đai chiến tranh triền miên khốn khổ mấy nghìn năm.

    Cây mất gốc héo cành rũ ngọn

    Nước mất nguồn nước cạn nước khô

    Sử kinh chép lại sáng soi

    Mất Nguồn lạc Cội nát tan cơ đồ

    Chiến tranh lạc hậu khốn cùng

    Lệ nô, nô lệ hết còn tự do.

    * * *


    PHẦN 4
    Ở vào thời gần cuối thời Hùng Việt Vương: Tuân Lang. Đời thứ 13 Hạ Hùng Vương 569 đến 506 trước công nguyên uy lực Vua Hùng suy yếu là do Văn Hóa Cội Nguồn đã biến mất Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp chân chính không còn cũng ra đi.

    Nền Văn Minh Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng. Quyền con người lấy dân làm gốc không còn. Dần dần thay vào đó là nền Phong Kiến Thần Giáo Độc Tài Độc trị. Theo thể chế xin cho. Bóng đêm bao phủ trùm xuống nước Văn Lang tham quan mọc ra như nấm. Mua quan, bán chức xảy ra thường xuyên.

    Nhất là Bắc Văn Lang sự mua quan bán tước lại càng lộ liễu mua quan bán tước công khai. Lại thêm tình hình lúc bấy giờ bất ổn vì nạn di cư dân chúng Phương Bắc lánh nạn chạy giặc vào Bắc Văn Lang mỗi ngày mỗi đông. Đến nổi không còn kiểm soát được nữa.

    Khi ấy ở Đất Cối Kê, Lạc Giang Châu, nơi con sông Lạc, sông Kinh. Có một gia đình rất đông con cháu, giàu có nhất Lạc Giang Châu có tới trăm thương đoàn buôn bán giao dịch hầu khắp Trung – Bắc Văn Lang. Vị giàu có đó tên là Việt Tế Gia.

    Ông là người tôn thờ Văn Hóa Phương Bắc Phong Kiến Thần Giáo. Tôn thờ thuật Xin Xăm, Bói Quẻ, Nhập Đồng, Nhập Bóng. Mê Tín dị đoan tôn thờ các loài Thần Thú. Việt tế Gia là dòng dõi Vua Vũ từ Phương Bắc thời Nhà Hạ di cư đến Đất Cối Kê để ở.

    Việt Tế Gia duy trì được gia phả dòng họ trên ba mươi đời. Nên hàng năm đến ngày giỗ tổ Vua Vũ. Không những các chi nhánh dòng họ, mà còn nhiều dòng họ khác liên quan đến Ông Tổ Vua Vũ cũng đã đông đến lên hàng nghìn nghìn người. Ngoài Dòng Họ Vũ ra còn có Dòng Họ Triệu con cháu Triệu Tế Bá Gia đông vô cùng. Không ít con cháu các chi nhánh Dòng Họ Triệu làm đến Bố Chánh Đại Nhân Quan Huyện. Rải rác khắp Bắc Văn Lang.

    Thế lực Việt Tế Gia Họ Vũ ở vào thời điểm nầy phải nói là không ai dám đụng đến. Vì đại đa số con cái cháu chắt đang nắm chính quyền Từ Châu Bộ, đến Huyện, Xã. Không những thế mà còn Ông Trùm kinh tế Thương Gia khắp Bắc – Trung Văn Lang. Nên mọi sự biến động xảy ra trên nước Văn Lang đều hiểu rõ như trong lòng bàn tay. Nhất là Bắc Văn Lang.

    Việt Tế Gia có rất nhiều bà Vợ. Nhưng Hồ Mị Nương là khôn lanh hơn cả trẻ đẹp hơn mấy bà vợ kia. Nên Việt Tế Gia nâng niu chiều chuộng hết mực. Hồ Mị Nương không thích ăn thịt mà thích ăn các loài cá lạ.

    Một hôm Hồ Mị Nương nghe nói dân chài bắt được con Thuồng Luồng Đất. Xẻ thịt đem ra chợ bán. Nghe nói ăn thịt được Thuồng Luồng Đất hên lắm lại trị được bá bệnh nhất là bệnh khó có con. Liền cho người mua về thật nhiều phơ khô để dành mà ăn.

    Một hôm Hồ Mị Nương nằm mộng thấy một con quái thú Thuồng Luồng bốn chân đầu Sói mình Sấu đuôi Rồng đến chụp Mị Nương. Mị Nương sợ quá ré lên trong lúc canh đêm, làm kinh động cả nhà. Việt Tế Gia hỏi Mị Nương kể lại giấc chiêm bao ấy. Việt Tế Gia lấy làm kinh sợ vì Hồ Mị Nương thấy con quái thú trong giấc chiêm bao chính là Con Quái Thú Thuồng Luồng Phòng Phong mà dòng họ Vũ đã thờ trong cổ miếu có hơn 30 đời.

    Không bao lâu Hồ Mị Nương mang thai rồi sanh ra một cậu con trai kháu khỉnh. Trong lúc sanh ra cậu bé trời đất nổi cơn thịnh nộ bất thường mưa gió nổi lên ầm ầm cây cối ngã đổ chết chóc không biết bao nhiêu người. Với điềm lạ ấy nên Việt Tế Gia đặt tên cho con là Doãn Thường.

    Doãn Thường lớn lên không thích xu thế giàu, mà thích làm Chính Trị. Điều nầy làm Việt Tế Gia đặt nhiều hy vọng vào Doãn Thường. Doãn Thường rất thông minh học một biết mười học đâu nhớ đó, ăn nói khôn khéo, có tài hùng biện nên rất được nhiều người nghe. Lại thêm có sức mạnh không ai bằng. Doãn Thường không đi theo còn đường làm giàu của Việt Tế Gia. Mà chỉ đi theo con đường Chính Trị. Thu thập võ nghiệp giao du học hỏi khắp nơi nhờ nhân duyên lớn Doãn Thường gặp được một đại Ma Đầu học được Ma Đao tuyệt học Đao Pháp.

    Doãn Thường trở thành sát Thủ đệ nhất sát Đao không ai sánh được. Tuy Doãn Thường không đi theo con đường làm giàu của Việt Tế Gia. Nhưng tất cả mưu lược thủ đoạn trong kinh doanh thời Doãn Thường hơn hẳn Việt Tế Gia rất xa. Nên Việt Tế Gia rất hài lòng về việc nầy.

    Doãn Thường thường nói với Việt Tế Gia:

    Không có kinh danh nào hơn là kinh doanh buôn quan bán tước. Không có cái lợi nào hơn là cái lợi gồm thâu thiên hạ làm thống lĩnh.

    Việt Tế Gia nghe Doãn Thường nói thế thời sửng sốt nói:

    Con muốn làm vua.

    Doãn Thường nói:

    Làm Vua, làm Chúa, làm Bá thời có gì hay. Chỉ có xưng Vương mới là thượng sách.

    Việt Tế Gia nghe Doãn Thường nói thế thời tái cả mặt không phải vì sợ. Mà vì nghe Doãn Thường có tư tưởng lớn quá. Ở vào thời điểm hiện tại chỉ có hai chúa Vương. Đó là Nam có Chúa Tể Hùng Vương. Bắc có Chúa Tể Chu Vương muốn trở thành một vị Chúa tể Chúa Vương nữa thời còn khó hơn lên trời.

    Có một hôm Việt Tế Gia nói:

    Doãn Thường theo con tình hình hiện tại con nghĩ Phương Nam có Chúa Tể Hùng Vương mạnh, hay Phương Bắc Chúa Tể Chu Vương mạnh.

    Doãn Thường nghe cha hỏi liền trả lời:

    Thế Lực Hùng Vương kéo dài hơn mấy nghìn năm, nay đã đến thời kỳ suy yếu. Nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp đã thất truyền. Tham quan mọc lên như nấm làm cho dân than oán khắp nơi. Tự đánh mất lòng dân đồng nghĩa là báo hiệu đi vào sụp đổ. Hơn nữa văn hóa Cội Nguồn không còn Đạo Đức suy đồi dẫn đến mê tín dị đoan không khác gì Phương Bắc. Khó mà đoàn kết được sức mạnh toàn dân tộc. Còn Phương Bắc Nhà Chu thời còn tệ hại hơn nữa. Chúa Vương nhà chu nền Phong Kiến Thần Giáo đã đến hồi cực thịnh. Vua Quan tửu sắc dâm loạn ăn chơi trác tán, chỉ biết quyền lực. Độc Tài Độc Trị tham lam tàn bạo nghe theo dua nịnh nay ngã theo nước nầy, mai ngã theo nước kia. Tề mạnh thời ngã theo Tề. Tấn mạnh thời ngã theo Tấn. Sở Mạnh thời ngã theo Sở. Làm cho Phương Bắc các nước xâu xé lẫn nhau. Chiến tranh triền miên dân chúng khốn khổ vô cùng. Tạo ra dòng người di cư vào Nam như nước lũ. Đây chính là cơ hội cho dòng dõi Vua Vũ Ta đầy đủ yếu tố phản loạn lại nhà nước Văn Lang tạo lên nghiệp Vương. Tình thế Bắc Văn Lang bây giờ vô cùng hỗn độn không thể kiểm soát tình hình được nữa. Cướp bóc nổi lên khắp nơi Vương, Quan thời chỉ biết bê tha trong tửu sắc. Kẻ thì quá giàu người thời quá nghèo. Tuy chỉ là Bắc Văn Lang nhưng dân số đông vô cùng. Hai Phần là dân bản gốc, một phần là dân di cư từ Phương Bắc vào. Tuy hai phần dân bản gốc Văn Lang nhưng dân chúng phần đông cũng đã chán chê triều đại Hùng Vương không đem lại lợi ích gì cho dân. Làm Vua mà chỉ nghe theo Nịnh Thần. Trung Thần luôn bị hãm hại, nhân tài vì thế mà không muốn ra giúp nước. Nhất là Bắc Văn Lang chỉ thấy bọn tham quan sách nhiễu vơ vét của dân làm giàu cho bản thân. Không kể gì đến truyền thống anh linh dân tộc. Đi ngược lại lời dạy của Quốc Tổ Vua Hùng. Vì không còn Quốc Đạo nhà nước Văn lang. Sự mất gốc nầy dẫn đến tôn thờ Phong Kiến Thần Giáo không khác gì Văn Hóa Phương Bắc. Đây chính là cơ hội cho chúng ta làm nên nghiệp lớn. Chúng ta chỉ cần khôn khéo dựng Quốc Tổ Hùng Vương dậy. Trước thời làm bình phong che chắn cho chúng ta. Sau là dân chúng theo về, không nghi ngờ gì chúng ta cả chúng ta cứ nói là tôn thờ Quốc Tổ Vua Hùng, thời toàn thể dân chúng Bắc Văn Lang sẽ đi theo chúng ta. Nhưng thật ra chúng ta đi theo một hướng khác. Biến Bắc Văn Lang thành đất nước Trung Nguyên. Xưng Vương ở giữa.

    Việt Tế Gia nghe Doãn Thường đưa ra đường hướng khôn khéo như vậy thời khen rằng:

    Con quả là có mưu trí hơn người.

    Nhưng lại hỏi:

    Làm thế nào mà thành nghiệp Vương nhanh chóng được?

    Doãn Thường đáp:

    Thưa Cha. Đối với những người có chí lớn. Tất nhiên chẳng có gì là khó, chỉ là hiểu rõ Thiên Thời. Hiểu rõ Địa Lợi. Và biết cách lấy lòng dân, dung hòa hết thảy các tầng lớp Xã Hội. Lôi kéo các đại Môn Phái Võ Gia. Thu phục lợi dụng Tà Ma Ác Đạo. Mua Quan, bán tước. Đưa con cháu tiến sâu vào ngôi vị Chính Quyền nắm bắt mọi thông tin hằng ngày. Có tài tháo vát trăm mưu nghìn kế, chuyển xây tình thế có lợi lần về Mình, bất lợi lần về Địch. Suy đoán hành động đúng lúc. Biết làm cho người ta Mê Hoặc. Biết làm cho người ta Khiếp Sợ. Công Danh Lợi Lộc là thiên đàng của sự ham muốn. Vì mấy ai không ham danh, ham lợi. Tự Do là Thiên Đàng mơ ước của các tầng lớp khốn khổ. Nhất là những giai cấp đang bị đàn áp, bóc lột, sách nhiễu, những tù nhân tội lỗi những kẻ vô gia cư. Vì vậy chỉ cần có danh từ tự do là những giai cấp thống khổ ấy liều chết mà đi theo rồi. Dù đó chỉ là Bánh Vẽ. Dù biết rằng đó chỉ là bánh vẻ Tự Do nhưng cũng hiệu quả không sao tưởng tượng được. Cọng thêm lời ru Công Bằng, Bình Đẳng. Thời dân chúng khốn khổ như uống phải mật ngọt, ai là không mơ ước ai mà không đi theo. Nhưng thật ra chỉ có nền Quốc Đạo Văn Hóa Cội Nguồn mới thật sự có nền Dân Chủ Tự Do, Công Bình Bình đẳng mà thôi, nhưng đã bị thất truyền không còn dấu vết nữa. Nhưng chúng ta chỉ cần chỉ cần có bánh vẽ lấy dân làm gốc cọng với khẩu hiệu Công Bằng Tự Do thời chúng ta đã thành công cướp lấy Bắc Văn Lang xưng Vương rồi hầu hết các tầng lớp dân chúng ủng hộ đi theo chúng ta. Tuy biết đó chỉ là lời nói suông ngôn từ nhưng cũng có hiệu quả như thường dấy lên một phong trào tự trị không có một thế lực nào đánh bại nổi. Vì dễ cở nào không ai theo cũng chịu, nhưng việc khó đến đâu mà có dân chúng theo về thời dời núi lấp sông cũng dễ như trở bàn tay. Vì sao dựng dậy Quốc Tổ cũng như khẩu hiệu Công Bằng Bình Đẳng Tự Do lại hiệu quả như thế? Vì muốn chiếm lấy Bắc Văn Lang không thể không lợi dụng Quốc Tổ, vì chỉ có lợi dụng Quốc mới lôi kéo dân chúng đi theo mình phản lại nhà nước Văn Lang. Với khẩu hiệu Công Bằng, Bình Đẳng chính là thiên đàng mơ ước sự sống của tất cả tầng lớp dân chúng. Nhất là dân chúng đang sống trong khốn cảnh độc tài độc trị của chủ nghĩa phong kiến Thần Giáo. Thử hỏi mấy ai trên thế gian nầy không ưa thích Tự Do Công Bằng Bình Đẳng. Nhưng Có vị Vương nào, vị Chúa nào đêm lại Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng đâu. Chỉ trừ Quốc Tổ Vua Hùng mà thôi. Mà chỉ thấy Độc Tài, Độc Trị muốn dân chết là chết, muốn dân sống là sống. Mạnh được yếu thua được là Vua thua là Giặc. Xem đi xét lại Vua với Giặc, Giặc với Vua nào có khác gì. Dân chúng mãi mãi không bao giờ có Tự Do. Không bao giờ có Công Bằng Bình Đẳng thật sự. Chỉ khi nào Quốc Tổ Hùng Vương sống dậy thời may ra mới có Tự Do Công Bằng Bình Đẳng thật sự. Nhưng điều đó sẽ không bao giờ có vì chết rồi có ai sống lại được đâu. Chúng ta chỉ cần dựng dậy Quốc Tổ Vua Hùng có bánh vẽ Tự Do. Bánh vẽ Công Bằng Bình Đẳng thời được Thiên Hạ chiếm lấy Bắc Văn Lang dễ dàng. Nhưng giữ được Thiên Hạ thời khó vô cùng. Quốc Tổ Vua Hùng về trời đã mang theo bí mật về Nhân Quyền Dân Chủ, Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng. Nghe nói Vua Hùng chưa phải là tối cao của nước Văn Lang. Mà tối cao của Nước Văn Lang chính là Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo pháp nền Quốc Đạo Dân Tộc. Nền Quốc Đạo Dân Tộc chính là Văn Hóa Cội Nguồn, chủ Nghĩa Đại Đồng. Quốc Tổ Vua Hùng dùng Văn Hóa Cội Nguồn dựng nước Văn Lang. Không dùng đến bạo lực mạnh được yếu thua, thắng là Vua thua cho là Giặc. Nhưng Văn Hóa Cội Nguồn chủ nghĩa Đại Đồng Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Nhân Quyền đã thất truyền không còn dấu vết gì nữa. Quốc Tổ Vua Hùng gồm thâu Bách Tộc dựng lên Bách Việt Văn Lang theo phương pháp Bất Chiến Tự Nhiên Thành. Có nghĩa Quốc Tổ Vua Hùng hàng phục Thiên Hạ khai dựng lên nước Văn Lang không phải bằng con đường bạo lực. Mạnh được yếu thua thắng là Vua thua là giặc. Mà bằng con đường Văn Hóa Cội Nguồn đêm lại thật sự Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng cho Xã Hội. Nên mới kéo dài Độc Lập lâu như thế. Nhưng phương pháp dựng nước ấy đã thất truyền rồi không còn dấu viết gì nữa. Cha Con chúng ta tuy không có Văn Hóa Cội Nguồn nhưng nổi dậy chiếm lấy bắc Văn Lang không khó. Chỉ cần tạo lên Hiến pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp giả hiệu. Công Bằng, Bình Đẳng, Dân Chủ, Tự Do giả hiệu, thời coi như nghiệp Vương đã thành không ai có thể hiểu được sự cao thâm huyền diệu lừa dối nầy. Mà cứ tưởng Cha Con Ta tôn thờ Quốc Tổ, đêm lại sự Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng cho người dân Bách Việt văn Lang. Bách Việt Văn Lang sẽ đi theo chúng ta chống lại nhà nước Văn Lang. Sự lừa dối tinh vi nầy khó mà nhìn thấy. Nếu phát hiện nhìn thấy thời coi như mọi chuyện đã rồi.

    Với mưu đồ bất chính Cha Con Doãn Thường lúc nào cũng nói làm theo di chí Quốc Tổ Vua Hùng. Nhưng thật ra đó chỉ là lớp vỏ bọc bên ngoài che đậy dã tâm mưu mô xảo quyệt của mình. Chân giả, giả chân không ai phân biệt nổi một mối họa của nước Văn Lang đã bùng lên, làm cho dân Văn Lang trở thành nồi da nấu thịt, Bách Việt Văn Lang Đồng Bào tàn sát lẫn nhau.

    Cha Con Doãn Thường chỉ cần thực thi kế sách. Chiếm lĩnh Bắc Văn Lang một cách dễ dàng không đổ bao nhiêu giọt máu. Với Bánh Vẽ Dân Chủ Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng, những Thần chú khẩu hiệu khôn khéo. Không có gì quý hơn Tự Do. Quý hơn Công Bằng Bình Đẳng, Quyền con người được bảo vệ. Quyền được sống, Quyền Tự Do Quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhà nước của Dân do dân vì dân. Dân chúng Bách Việt nghe mùi mẩn lao vào như những con thiêu thân.

    Cha con Doãn Thường còn phù phép những danh từ nghe thật sướng tai, làm cho Bách Việt Bắc Văn Lang chết mê chết mệt. Tất cả là Do Dân. Tất cả là vì Dân. Tất cả là của Dân. Vương, Quan chỉ là công bộc phục vụ cho Dân. Dân là Chủ. Dân có quyền quyết định tất cả. Vì Dân là cái gốc của Nhà Nước. Dân còn là Nhà Nước còn, Dân mất là Nhà Nước mất. Với những câu Thần Chú như thế Dân Chúng chỉ còn biết đi theo nghe theo mà thôi.

    Có thể nói Cha Con Doãn Thường đã hiểu được phần nào pháp thuật trị quốc của Quốc Tổ Vua Hùng. Nhưng không có Văn Hóa Cội Nguồn trong tay mà thôi. Cha Con Doãn Thường chỉ nhờ vào những bánh vẽ Dân Chủ, Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng. Nhờ vào những Thần Chú Tất cả là vì dân. Nhà Nước của Dân. Vương Quan chỉ là Công Bộc của Dân. Nhờ Thần Chú hiệu nghiệm nầy Cha Con Doãn Thường thổi một luồng Ma Thuật vào tâm hồn người dân Bách Việt làm cho người dân Bách Việt Bắc Văn Lang chỉ biết cúi đầu tuân theo.

    Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang lập lên đất nước Trung Nguyên. Nước Văn Lang liền bị chia cắt Bắc Nam. Hùng Việt Vương: Tuân Lang đời thứ 13 Hạ Hùng Vương khó chiếm lại Bắc Văn Lang. Dẫn đến mất luôn Bắc Văn Lang rơi vào Nhà Chu Phương Bắc thời Chu Nguyên Vương. Chu Nguyên Vương nhà Chu phong cho Câu Tiễn làm Bá Chủ ở Phương Đông. Câu Tiễn cúi đầu vâng mệnh, Bắc Văn Lang rơi vào Phương Bắc từ đó.

    Nói về Việt Tế Gia nghe Doãn Thường phân tích tỉ mỉ về sự lợi hại nổi dậy cướp lấy Bắc Văn Lang phản lại nhà nước Văn Lang với những câu mị chú vô cùng lợi hại liền thức tỉnh thực hiện theo mưu đồ của Doãn Thường. Thực hiện tạo ra những chiếc Bánh Vẽ Tự Do. Bánh Vẽ Công Bằng, Bình Đẳng. Bánh Vẽ Độc Lập Dân Tộc. Tất cả là của Dân. Do Dân. Vì Dân. Nhà Nước Của Dân. Vương, Quan chỉ là Công Bộc của Dân. Để thực hiện mưu đồ Nghiệp Vương Việt Tế Gia tung ra những khẩu hiệu bánh vẽ và những câu Mị Chú đầy hiệu quả. Phải nói là vô cùng hiệu quả. Và thật vậy không ai là không mơ ước đến Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng. Tự Do Mưu Cầu Hạnh Phúc. Không ai là không mê với câu Mị Chú. Tất Cả là của Dân Do Dân. Và Vì Dân. Không ai là không sung sướng khi nghe những câu Mị Chú nầy. Nhà Nước của Dân. Thời không ai là không hết mình. Cố mà xây dựng lên Nhà nước của Dân. Vương, Quan chỉ là Công Bộc của Dân. Nghe rất êm tai, mát lòng Dân Chúng.

    Trong khi ấy từ phương Nam đến Phương Bắc. Tất cả người Dân sống dưới thể chế Độc Tài, Độc Trị. Không có một chút Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng gì cả. Vua, Quan, muốn dân chết là chết, muốn dân sống là sống. Nơi nào cũng thấy đàn áp bóc lột không nói là thê thảm. Dưới thể chế Độc Tài Độc Trị, người Dân sống trong thể chế nhà tù rộng lớn. Mất hết tất cả những quyền cơ bản con người. Không khác gì cuộc sống nô lệ.

    Bỗng xuất hiện những Bánh vẽ Tự Do Công Bằng, Bình Đẳng. Tất cả là của Dân, Do Dân Và Vì Dân. Nhà Nước của Dân. Vương, Quan là Công Bộc của Dân. Dân là Chủ. Thử hỏi người Dân nào không mê cứ ngỡ đó là Thiên Đàng trần gian, như thời Quốc Tổ dựng nước những quyền con người được thể hiện đầy đủ. Không có cảnh người bóc lột người mà tất cả đều là tự nguyện. Những chiếc bánh vẽ Cha Con Doãn Thường tung ra mà mỗi người Dân khao khát từ lâu. Đã là khát khao thời chỉ cần nghe thấy dù đó chỉ là lời nói liền chạy theo ngay. Cũng như người khác nước miễn cần có nước để được uống đâu còn nghĩ đến nước đục nước trong, chỉ cần nghe có nước liền chạy tới đâu cần nghĩ gì đến sự đánh lừa.

    Lòng khao khát Tự Do Công Bằng Bình Đẳng từ lâu. Chỉ cần nghe thấy có sự Tự Do Công Bằng Bình Đẳng ra đời liền chạy theo ngay. Cha Con Doãn Thường đúng là tổ sư của tâm lý học hiểu tình hình dân chúng như hiểu trong lòng bàn tay của mình. Tạo ra một cuộc đánh lừa Bánh Vẽ khôn khéo như vậy. Lại thêm trăm mưu nghìn kế. Trong đó có một kế sách chủ lực là Mua Quan, Mua chức, Mua quyền. Con Cháu dòng họ Việt Tế Gia vốn có nhiều người làm Quan Tri Huyện.

    Để thực hiện mưu đồ lớn. Việt Tế Gia bỏ ra vô số vàng, bạc, ngọc ngà, châu báu mua chức Quan Tri Phủ Lạc Giang Giao Châu cho Doãn Thường. Nhờ chức Quan Tri Phủ nầy, Cùng những Quan Tri Huyện trong dòng họ. Bao che cho tất cả mọi hoạt động bí mật. Thậm chí luyện tập quân binh trong Châu Phủ cũng như các Nha Huyện chững bị cho một cuộc nổi dậy cướp lấy Bắc Văn Lang. Thời cơ chín muồi, Bắc Văn Lang đi vào loạn lạc cướp bóc hoành hành nổi dậy khắp nơi. Hơn chín mươi phần trăm Dân Bắc Văn Lang nhanh chóng đi theo phong trào Dân Chủ Tự Do do Cha Con Doãn Thường khởi xướng lãnh đạo. Làm lên một cuộc cách Mạng long trời lở đất. Chiếm lấy Bắc Văn Lang Biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ, Trung Nguyên nước Văn Lang trở thành Nam Bắc phân tranh. Chiến tranh triền miên không ngày chấm dứt. Nguyên do là bởi lạc Cội lạc Nguồn mất đi văn Hóa Cội Nguồn màng u minh xuống nước Văn Lang.

    Lạc Nguồn Lạc Cội khổ từ đây

    Chinh chiến đao binh kiếp nạn đầy

    Nhìn thấy đau lòng sa giọt lệ

    Văn Lang khốn khổ xót thương thay

    Nồi da nấu thịt vì lạc lối

    Tài giỏi làm gì chân chặt tay

    Rồng mất Cội Nguồn Rồng hóa Rắn

    Dân lạc Cội Nguồn biến đắng cay.

    Thời Kinh Dương Vương khai khẩn ra đất Giao Chỉ. Lớn nhỏ dọc theo chín con sông. Giết chết không biết bao là Thuồng Luồng khai sanh ra Nước Xích Quỷ. Trải qua được chín đời. Đến đời thứ mười thời chuyển qua niên đại Hùng Vương. Nước Xích Quỷ mở rộng về Phương Nam. Trở thành Nước Văn Lang. Nước Xích Quỷ trở thành Bắc Văn Lang. QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG KHAI SANH RA NƯỚC VĂN LANG 2959 trước công nguyên. Nối truyền được 40 đời. Cộng thêm đời Quốc Tổ dựng nước là 41 đời. 23 đời Thượng Hùng Vương. 18 đời Hạ Hùng Vương. Đến thời Hạ Hùng Vương thứ 13, HÙNG VIỆT VƯƠNG, TUÂN LANG 569 đến 506 trước công nguyên.

    Vào thời điểm 545 trước công nguyên. Cha Con Doãn Thường nổi lên cướp lấy Bắc Văn Lang. Biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Trung Nguyên. Xưng Vương ở giữa. Bắc Văn Lang từ đó dần dần biến mất. Những di tích Văn Hóa Văn Lang bị xóa đi. Thay thế vào đó những di tích Văn Hóa mới. Văn Hóa Trung Nguyên Trung Thổ. Thậm chí cả tên núi non, đất đai, sông, hồ, cũng cải đổi thành tên mới. Ở vào thời Kinh Dương Vương. Thời Sông Trường Giang Chính Là Sông Dương Tử. Chi nhánh ngược lên phía Bắc của sông Dương Tử là Sông Trường. Khi sông Dương Tử chuyển thành sông Trường Giang. Thời chi nhánh phía Bắc sông Trường Giang, không còn gọi là Sông Trường mà gọi là Sông Hán. Sông Kinh, Sông Âu, Sông Lạc đều ở Bắc Văn Lang phía nam sông Trường Giang.

    Nói tóm lại: Phương Bắc xâm chiếm đất Văn Lang tới đâu thời những di tích Văn Hóa Văn Lang bị xóa sạch. Thay vào đó là những Văn Hóa mới theo Phương Bắc. Nên sử sách Trung Quốc không ghi chép nguồn gốc nước Văn Lang. Đây là một âm mưu lớn lâu dài Phương Bắc hầu nuốt trọn nước Văn Lang.

    * * *
     
  15. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    PHẦN 5
    Phương Bắc thời Nhà Chu. Hết thời hưng thịnh Nhà Tề thôn tính hàng phục các nước. Đến thời Nhà Tấn hùng mạnh chinh phục các nước. Từ thời Tấn Huệ Công xuống tới Tấn Hoài Công. Tấn Mục Công. Tấn Văn Công. Tấn Cảnh Công. Tấn Lệ Công. Tấn Điệu Công. Tấn Bình Công. Tấn Chiêu Công. Thời Nhà Chu Phương Bắc cũng đã trải qua nhiều đời Vua. Chu Vũ Vương. Chu Thành Vương. Chu Mục Vương. Chu Di Vương. Chu Lệ Vương. Chu Tuyên Vương. Chu Ung Vương. Chu Hoàn Vương. Chu Trang Vương. Chu Ly Vương. Chu Huệ Vương. Chu Tương Vương. Chu Định Vương. Chu Giãn Vương. Chu Linh Vương đến Chu Cảnh Vương Nhà Chu. Thời Phương Bắc xảy ra không biết bao nhiêu là chiến tranh biến loạn, binh đao máu lửa. Hết thời kỳ Tề hưng thịnh. Đến thời kỳ Tấn ra oai các nước đánh nhau chiến tranh loạn lạc kéo dài mấy trăm năm dân chúng Phương Bắc điêu linh khắp nơi. Trong cảnh binh đao máu lửa Vua, Quan vơ vét thậm tệ phục vụ cho chiến tranh. Dân chúng đói rét cơ cực khốn cùng. Không ít dân chúng bỏ Phương Bắc. Bỏ xứ ra đi lánh nạn vào Phương Nam. Tức là Bắc Văn Lang sanh sống. Có thời điểm dân chúng Phương Bắc chạy lánh nạn chiến tranh di cư vào Bắc Văn Lang, chỉ trong vòng bảy ngày lên đến cả vạn người. Phải nói con số di cư vào Bắc Văn Lang mỗi ngày mỗi kinh khủng. Đến nổi chính quyền địa phương Châu, Quận, Huyện. Giải quyết nạn di cư không nổi, đành để cho phần lớn sống sanh sống vô gia cư tràn lan khắp Bắc Văn Lang. Làm cho Bắc Văn Lang đi vào hỗn loạn. Ở vào thời điểm nầy.

    Hùng Việt Vương, Tuân Lang. Lên Ngôi Quốc Vương Hoàng Đế Trị Vì Thiên Hạ Thay Cha Là: Hùng Vũ Vương, Đức Hiền Lang. 569 đến 506 trước công nguyên. Đến 545 thời Bắc Văn Lang có biến động. Cha Con Doãn Thường nổi dậy. Cùng dân chúng Bách Việt Văn Lang nổi dậy làm lên một cuộc cách mạng long trời lở đất.

    Cha Con Doãn Thường chiếm lấy hai phần Bắc Văn Lang. Như Bắc Giang Giao Châu. Lạc Giang Giao Châu. Dương Giang Giao Châu. Quý Linh Giao Châu. Xích Linh Giao Châu. Hợp Giao Châu. Kinh Giang Giao Châu. Động Đình Châu. Diêm Hồ Châu. Giao Giao Minh Châu. Ninh Giao Châu. Tam Giang Châu Thượng Tây giang Châu. Uất Lang Việt Châu. Lâm Giang Tây Châu. Quế Giang Giao Châu. Liễu Giang Châu. Lạc Trung Châu. Hạt Linh Châu. Kiến Giao Châu. Phúc Hải Châu. Lâm Giang Tây Châu. Định Giao Châu.

    Cùng thời điểm ấy Tây Bắc Văn Lang Dân Chúng nổi dậy chiếm lấy Cương Châu xưng Vua Cương Việt. Cướp lấy Ngô Châu xưng là Ngô Việt. Cướp lấy Di Châu xưng Vua Di Việt. Cướp lấy Liêu Châu xưng là Liêu Việt. Cướp ấy Hung Châu xưng là Hung Việt. Cướp Lấy Lưu Châu xưng là Lưu Việt. Cướp Lấy Phù Châu xưng là Vua Phù Việt. Cướp Lấy Lỗ Châu xưng là Lỗ Việt. Cướp Lấy Mân châu xưng là Vua Mân Việt. Cướp lấy Ngung Châu xưng là Ngung Việt. Cướp lấy Nô Châu xưng là Vua Nô việt.

    Cũng cùng thời điểm ấy Đông Bắc Văn Lang Dân Chúng nổi dậy chiến Đông Hải Châu xưng là Vua Đông Việt. Chiếm lấy Đông Bắc Hải Châu xưng là Vua Hải Việt. Chiếm lấy Nam Hải Giao Châu xưng là Vua Giao Việt. Dạ Loan Châu xưng Loan Việt. Chiếm lấy Thất Khê Châu xưng Vua Khê Việt. Chiếm lấy Đình Hải Châu xưng Vua Điền Việt. Chiếm lấy Cái Hải Châu xưng Vua Lạc Việt. Chiếm lấy Hạ Giang Châu xưng Vua Lang Việt. Thế dân nổi dậy như nước vỡ bờ chiếm lấy toàn bộ Bắc Văn Lang.

    Doãn Thường là nhà Quân Sự Chính Trị tài năng lỗi lạc hiểu rõ tình thế xã hội. Hiểu rõ nguyện vọng của dân. Hiểu rõ tâm lý của dân. Và cũng hiểu rõ nói láo là mẹ đẻ của chính trị dẫn đến thắng lợi thành công. Với câu khẩu hiệu tất cả đấu tranh là vì Dân giải phóng bóc lột cho Dân. Giải phóng nô lệ cho Dân. Đêm Lại quyền sống quyền tự do cho Dân. Ai cũng có đất ruộng để cày. Lập lên Nhà Nước của Dân do Dân vì Dân. Quân Đội của Dân Vì dân mà chiến đấu vì dân mà quên mình, bảo vệ độc lập tự chủ xóa bỏ nô lệ. Lập lên một Xã Hội, Công Bằng, Bình Đẳng, Dân Chủ, Văn Minh. Thoát khỏi ách Độc Tài Độc Trị, Thoát khỏi thể chế xin cho, thoát khỏi tham quan tàn bạo. Lập lên nước Việt Trung Nguyên dân giàu nước mạnh thay thế cho nhà nước Văn Lang. Nhà Nước độc tài độc trị. Đi ngược lại di chí Quốc Tổ Vua Hùng. Tất cả ngôn từ văn từ như một liều thuốc bổ. Dân chúng theo Cha Con Việt Tế Gia như nước vỡ bờ.

    Ngày 3 tháng 2 năm 545 trước công nguyên Cha Con Doãn Thường triệu tập các Vua Việt hội nghị tại Đất Cối Kê nơi đền thờ Vua Vũ từ thời Nhà Hạ đến Phương Nam đến Đất Cối Kê lập nghiệp. Hơn mấy mươi Vua Việt ở Đông Bắc Văn Lang. Tây Bắc Văn Lang, đều tới dự hội đông đủ. Gọi là Hội Liên Minh Việt Bắc Văn Lang. Nơi Đất Cối Kê đền Thờ Vua Vũ. Doãn Thường như một vị anh hùng biện tài vô ngại thuyết phục các Vua Việt mới nổi lên đòi tự trị liên minh thành một khối. Trở thành một Nhà Nước mới. Nhà Nước Trung Thổ Việt Trung Nguyên.

    Bài hùng biện của Doãn Thường trước các Vua Việt như sau:

    Thưa các chư vị Anh Hùng chúng ta là những người khát khao Tự Do, khát khao Công Bằng, Bình Đẳng. Giành lại Quyền Sống. Quyền Tự Quyết. Quyền Tự Do Mưu Cầu Hạnh Phúc. Xây dựng lên một Nhà Nước Trung Lập Nhà Nước Của Dân, Do Dân, và vì Dân. Loại bỏ chế Độ Độc Tài Độc Trị. Sống Theo Hiến Pháp, Luật Pháp. Ai cũng như ai Bình Đẳng. Như thời Quốc Tổ Vua Hùng dựng lên Nhà Nước Văn Lang. Các Vua Hùng thời nay không làm theo lời dạy Quốc Tổ. Trở thành Nhà Nước Độc Tài Độc Trị. Nhà Nước không lấy dân làm gốc. Không Ai sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Mà sống theo thể chế Độc Tài Độc Trị, thể Chế của sự xin cho. Thể chế của sự bóc lột thậm tệ. Không làm đúng những gì Quốc Tổ Vua Hùng đã dạy. Chúng ta là con cháu Tiên Rồng. Chúng ta đi theo lời dạy Quốc Tổ Vua Hùng. Sống Tự Do Công Bằng Bình Đẳng. Không phải sống dưới ách thống trị cường hào nô lệ. Muốn thực hiện một Nhà Nước Trung Lập Việt Trung Nguyên Tự Do. Công Bằng. Bình Đẳng, Công Minh như thời Quốc Tổ Vua Hùng. Thời chúng ta phải liên minh đoàn kết bầu lên Minh Chủ Việt Vương. Lập lên Nước Việt Trung Nguyên. Nam Có Hùng Vương. Bắc Có Chu Vương. Chính Giữa Có Việt Vương. Cách đây hơn ba trăm năm mươi năm về trước. Phương Nam ở vào thời Hùng Huy Vương. Phương bắc ở vào thời Chu Di Vương. Bắc Văn Lang cũng đã nổi lên đòi tự trị chiếm lấy các Châu Bộ. Hình thành lên cả trăm Vua Việt nhưng rốt cuộc đã bị thảm bại bị trước thế lực xâm lược Ân Mao Vương, Hung Di Vương. Hồ Vương. Thôn tính giết sạch. Nếu còn sót vị Vua Việt nào thời Hùng Huy Vương cho quân truy quét diệt tận gốc. Đây là bài học cho chúng ta. Với địa thế Bắc Văn Lang trở thành Nước Việt Trung Thổ Trung Nguyên. Đất đai phì nhiêu rộng lớn. Sông Hồ Kinh Rạch chằng chịt. Dân số đông không kém Nam – Bắc là mấy. Chúng ta sẽ có một đội quân hùng mạnh Nam đánh bại thế lực Hùng Vương. Bắc đánh bại thế lực Chu Vương. Vì sao lại nắm chắc như thế. Vì Thế lực Hùng Vương đang trên đà suy yếu. Tham Quan mọc lên như nấm. Mạnh ai nấy lo túi riêng của mình. Nhất là đánh mất Văn Hóa Cội Nguồn không làm đúng như những gì lời dạy Quốc Tổ. Đánh mất lòng tin của muôn dân. Tuy Thế lực Hùng Vương còn rất mạnh. Nhưng chúng ta không phải là ngoại xâm. Mà là những người người Dân bất mãn với thể chế Độc Tài Độc Trị không làm theo lời dạy quốc Tổ Vua Hùng. Trở thành Nhà Nước Độc Tài Độc Trị không khác gì Nhà Nước Phương Bắc những Vương, Quan, tham lam tàn bạo. Đã đánh mất lòng tin của Dân Chúng. Nên Dân Chúng không ít người bỏ Hùng Vương mà theo chúng ta. Còn Phương Bắc Nhà Chu cũng đã đến thời suy yếu Con Cháu Nhà Chu Tàn Sát Lẫn Nhau. Không kể gì tình anh em ruột thịt. Chỉ biết tranh giành địa vị quyền lực. Ăn nuốt lẫn nhau. Các trấn Chư Hầu cũng chẳng khác chỉ tranh hùng tranh Bá. Mạnh được yếu thua. Thắng là Vua thua là Giặc. Lúc nầy Sở Linh Vương đang thời hưng thịnh tranh hùng tranh Bá dữ dội. Các nước Phương Bắc lo sợ luôn ở vào thế chiến tranh. Sở Linh Vương cậy thế hùng cường đánh hết nước nầy đến nước khác chiến tranh dữ dội. Con cái Sở Vương tranh ngôi thôn tính lẫn nhau. Sở Bình Vương giết chết ba anh lên ngôi càng thêm hỗn loạn. Nói chung Phương Bắc chiến tranh tàn khốc ai lo phận nấy khó mà làm gì được chúng ta. Thời cơ đã giúp chúng ta làm lên nghiệp lớn. Nếu Chúng Ta biết đoàn kết lập lên một Nhà Nước Việt Trung Nguyên hùng mạnh. Trong tương lai một là nuốt trọn nước Văn Lang. Hai là nuốt trọn Phương Bắc. Làm lên một lịch sử Trung Nguyên hào hùng long trời lở đất.

    Các Vua Việt mới nổi lên tự trị nghe có lý nếu không chung nhau đoàn kết thành một Nước Việt Trung Thổ Trung Nguyên hùng mạnh thời phía Bắc sẽ bị Ngô, Sở, đánh vào thôn tính. Phía Nam Vua Hùng đánh ra tiêu diệt Chẳng khác gì thời Phù Đổng Thiên Vương cách đây hơn ba trăm năm mươi năm về trước. Hơn năm mươi Vua Việt muốn tồn tại thời phải đoàn kết đại đoàn kết như một bó đũa khổng lồ không ai bẻ nổi. Sự nhận thức về sự tồn tại, các Vua Việt đồng tôn Doãn Thường lên làm Việt Vương.

    Doãn Thường khôn khéo nói:

    Mỗ Tôi tuy được các Đại Anh Hùng tín nhiệm tôn phong lên làm Việt Vương. Nhưng Mỗ tôi giới thiệu một người tài trí có công lớn trong cuộc khởi nghĩa thắng lợi nầy đó là Việt Tế Gia (Cha của Doãn Thường).

    Thế Là Việt Tế Gia được các Đại Anh Hùng toàn Bắc Văn Lang suy tôn lên Làm Việt Vương. Đầu Mùa Thu 545 Nhà nước Việt Trung Nguyên ra đời. Tạm Thời sử dụng Kinh Đô Kinh Dương Vương làm Kinh Đô Trung Thổ Trung Nguyên. Việt Vương Tế Gia nhờ có Doãn Thường cũng cố Triều Chính nhanh chóng. Việt tế Gia lập Doãn Thường làm Thế Tử nối ngôi Vương.

    Gian đảng âm mưu cướp đất rồi

    Vẽ vời bịa chuyện cứu dân ôi

    Văn Lang miền Bắc còn đâu nữa

    Xưng Vương xưng Chúa trổ hung tôi

    Khổ ải trùm lên dân khốn khổ

    Lạc Nguồn lạc Cội Cáo Sói xơi

    Nước non, non nước đầy binh lửa

    Văn Lang máu đổ cảnh đầu rơi.

    * * *


    PHẦN 6
    Nói về Con Cháu Triệu Xuyên. Triệu Thuẫn liên quan đến tội giết Vua. Bằng trốn vào Nam đến Bắc Văn Lang sanh sống trải qua nhiều đời trở thành dân Văn Lang Hàng năm đều dự hội đồng hương nơi đền thờ Vua Vũ nên được Con Cháu Vua Vũ giúp đỡ có người trở thành Triệu Bá Gia giàu có nhất nhì Bắc Văn Lang.

    Con Cháu Triệu Xuyên đến đời Triệu Phàn thời giàu có nổi tiếng Bắc Văn Lang trở thành Triệu Bá Gia. Có ba người con tài năng vô song Văn Võ song toàn. Triệu Quân. Triệu Hàn. Triệu Anh. Việt Vương Tế Gia phong Triệu Phàn Bá Gia chức Thượng Quân Nguyên Soái thống lãnh 10 vạn quân cùng ba người con làm chủ Tướng trấn giữ Đông – Nam Trung Thổ Trung Nguyên tức là Đông, Nam Bắc Văn Lang chống trả lại thế lực Hùng Việt Vương, Tuân Lang, đời thứ 13 Hạ Hùng Vương.

    Việt Vương Tế Gia phong cho Triệu Công Con Cháu nhiều đời Triệu Thuẫn. Chức Trung Quân Nguyên Soái thống lãnh 10 vạn quân cùng hai Con phong làm Chủ Tướng. Triệu Côi. Triệu Chi. Trấn giữ Tây Nam Trung Thổ Trung Nguyên. Tức là Tây Nam Bắc Văn Lang.

    Việt Vương Tế Gia phong Phạm Đỗ Chinh chức Tân Quân Nguyên Soái thống lĩnh 10 vạn quân. Cùng hai phó Chủ Tướng là Chũng Hầu. Giá Chữ. Trấn giữ chánh Nam Trung Nguyên, tức là Chánh Nam Văn Lang.

    Việt Vương Tế Gia phong con Chư Hạo, Chư Mạnh Hùng Trung Quân Nguyên soái, cùng hai con Chư Kế Dĩnh. Chư Tôn Quá làm Đại Tướng thống lãnh 10 vạn quân trấn giữ Tây Bắc Trung Nguyên tức là Tây Bắc Văn Lang.

    Việt Vương Tế Gia phong Linh Việt Hàn Tân Quân Nguyên Soái. Thống Lãnh 10 vạn quân cùng hai Con là Linh Cô Phù. Linh Quang Dũng. Trấn giữ Trung Bắc Trung Nguyên, tức là Trung Bắc Văn Lang.

    Việt Vương Tế Gia phong cho Thường Thọ Quá chức Thượng Quan Đại Phu thống lĩnh 7 vạn quân, cùng con là Thường Thọ Chí trấn giữ Đông Bắc Trung Nguyên tức là Đông Bắc Văn Lang.

    Việt Vương Tế Gia phong cho tất cả các Vua Việt. Tây Trung Nguyên. Đông Trung Nguyên, tức là Tây Văn Lang Đông Văn Lang thành các Trấn chư hầu dưới sự điều khiển Nhà Nước Việt Trung Nguyên. Thế là nhà nước Việt Trung Nguyên ra đời bài bản vô cùng hùng mạnh.

    Với chính sách đổi mới Bắc khác Nhà Chu. Nam khác Vua Hùng. Lập lên một nhà nước Việt Trung Nguyên mới lạ. Nhà Nước lập lên bằng danh từ bóng bẩy. Sống trên danh từ nói một đường làm một nẻo. Nói Tự Do nhưng lại quản lý cuộc sống con người chặt chẽ. Nói lấy dân quyền làm gốc nhưng thật ra dân không có cái quyền gì cả. Nói tất cả là của dân nhưng thật ra tất cả là của Nhà Nước dân trắng tay không ai có một tất đất nào làm công khoáng trắng của Nhà Nước Độc Quyền Độc Tài. Độc Trị của một nhóm người. Người dân chỉ là công cụ nô lệ. Có thể nói Nhà Nước Việt Trung Nguyên là Nhà Nước lạm dụng danh từ sống trên danh từ. Nhà Nước ảo không có gốc Nhân Quyền chỉ tạo lên Bánh Vẽ Dân Chủ Tự Do, bánh vẽ lấy Dân Làm Gốc. Lừa đảo lòng ham muốn của dân. Đem tất cả cái lợi về cho dân nhưng toàn là những bánh vẽ không bao giờ ăn được chỉ nghe cho sướng tai. Chỉ thấy trên lời nói. Trên giấy tờ thế mà cũng tạo lên sự chú ý Dân Chúng Phương Bắc cũng như Phương Nam.

    Một số lớn Dân Chúng cả hai phương Nam – Bắc cho rằng Nhà Nước Việt Trung Nguyên ra đời mới thật sự là Nhà Nước của Dân do Dân và vì Dân. Và Họ muốn theo về Nhà Nước Việt Trung Nguyên. Vì thế nhà nước Việt Trung Nguyên càng về sau càng lớn mạnh sự đánh lừa khôn khéo nầy cũng đem lại những kết quả ban đầu. Nhưng về sau Dân Chúng phát hiện hiểu ra Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng, Dân Chủ, Nhân Quyền, Dân là cái gốc của Nhà Nước. Nhà nước của Dân do Dân vì Dân. Tất cả chỉ là chiếc Bánh vẽ để lừa. Nhưng khi hiểu ra thời tất cả đã muộn. Cha con Doãn Thường cũng chẳng khác gì các Vua Nhà Chu. Các nước Phương Bắc Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Quản lý gắt gao mọi sự sống của Dân quản lý chặt chẽ hơn nữa. Tất cả người dân như đang sống trong một nhà tù lớn. Không có tự do hay Công Bằng, Bình Đẳng, Dân quyền gì cả. Mà tất cả sự sống của dân chỉ là sự sống nô lệ. Trước đây nô lệ cho những Địa Chủ, Phú Nông. Nay Toàn dân trở thành nô lệ cho Nhà Nước. Nhà Nước Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Nhà Nước của sự xin cho bóc lột sức lực của muôn dân một cách khéo léo không Nhà Nước nào bằng. Như con đỉa hút máu người mà không thấy đau.

    Khi dân biết được mưu đồ khai dựng sự nghiệp Việt Vương của Cha Con Doãn Thường, thời mọi chuyện đã rồi. Ý Vua là Ý Trời thuận thời sống, chống là chết. Tất cả tài sản của Dân Chúng chính là tài sản của Nhà Nước. Khi cần thời Nhà Nước lấy. Với một thể chế xin cho Nhà Nước Việt Trung Nguyên làm gì thì làm tàn bạo còn hơn Nhà Nước Văn Lang ở các thời cuối Hậu Hùng từ thời Hùng Việt Vương, Tuân lang trở xuống. Cũng như Phương Bắc Thời Mạc Nhà Chu.

    Nói chung Phương Bắc. Phương Nam. Việt Trung Nguyên, cá mè một lứa cũng Độc quyền. Độc Tài, Độc Trị chẳng khác gì nhau. Tham quan tàn bạo. Thắng là Vua, thua là Giặc xem đi xét lại Giặc với Vua cũng chẳng khác gì nhau. Nhà Nước Việt Trung Nguyên không tồn tại được lâu, như triều đại Hùng Vương kéo dài độc lập 2701 năm. Trong khi Cha Con Doãn Thường cướp lấy Bắc Văn Lang lập lên nhà nước Trung Nguyên độc lập tự chủ chỉ trên dưới 70 năm.

    Đến thời Việt Vương Câu Tiễn tùng phục Nhà Chu năm 496 trước công nguyên. Vua Nguyên Vương Nhà Chu, phong Bá cho Việt Vương Câu Tiễn. Trở thành (Việt Bá Vương) làm chủ Phương Đông. Việt Vương Câu Tiễn cúi đầu dâng Việt Trung Nguyên cho Nhà Chu.

    Bắc Văn Lang trở thành đất Phương Bắc. Tức thời Bắc Văn Lang nhà nước Việt Trung Nguyên lại chuyển sang một giai đoạn mới. Giai đoạn Trung Quốc trở thành trấn chư hầu Nhà Chu. Việt Trung Nguyên trở thành đất Bắc nhập về Phương Bắc. Bắc Văn Lang mất từ đây.

    Nước Văn Lang chỉ còn lại Miền Trung, Miền Nam. Không cách gì lấy lại Bắc Văn Lang được nữa triều đại Việt Vương Tế Gia. Đến thời Nhà Tần thời coi như hủy diệt không còn. Thay thế vào đó là Triệu Việt Vương.

    Nói tóm lại lịch sử Bắc Văn Lang bị Cha Con Doãn Thường cướp, trở thành Trung Thổ Việt Trung Nguyên đến thời Việt Vương Câu Tiễn, tùng phục Nhà Chu, Bắc Văn Lang Trung Nguyên nhập về Phương Bắc chuyển thành Trung Quốc. Tất cả những di tích Văn Hóa. Cũng như danh nhân những người có công với đất nước Văn Lang bị xóa sạch. Thay thế vào đó là Văn Hóa Phương Bắc. Thờ phụng những người có công ăn cướp Bắc Văn Lang lập lên nhà nước Việt Trung Nguyên mà thôi. Chỉ còn sót lại những di tích Viêm Đế Thần Nông.

    Ông Tổ sáng lập lên nền Văn Minh lúa nước. Từ năm đời niên đại Viêm Đế Thần Nông. Truyền xuống niên đại Kinh Dương Vương chín đời. Đến đời thứ mười thời chuyển sang niên đại Hùng Vương 41 đời. Thượng Hùng Vương 23 đời. Hạ Hùng Vương 18 đời.

    Cha Con Doãn Thường cướp lấy Bắc Văn Lang biến thành Trung Thổ Việt Trung Nguyên. Thời không những Văn Hóa truyền thống Văn Lang bị xóa sạch. Mà những di tích 41 đời Hùng Vương. Cũng như các Công Thần có công chống ngoại xâm giữ nước, cũng đều bị xóa sạch, thay thế vào đó là Văn Hóa Trung Nguyên mới sáng lập. Cũng như những danh nhân có công cướp lấy Bắc Văn Lang lập lên nhà nước Trung Nguyên.

    Cha con Doãn Thường làm như thế là làm cho Bắc Văn Lang sẽ dần dần biến mất không còn tồn tại nữa. Đến thời Việt Vương Câu Tiễn tùng phục Nhà Chu theo về Phương Bắc. Thời Trung Nguyên Bắc Văn Lang lại tiếp tục xóa sạch những di tích Văn Lang còn sót lại. Di Tích Chín đời Kinh Dương. Chỉ còn sót lại Thời Viêm Đế Thần Nông. Kể từ khi nhà nước Việt Trung Nguyên ra đời. Thời nước Văn Lang chỉ còn Trung Văn Lang, Nam Văn Lang mà thôi.

    Về sau có thơ rằng:

    Doãn Thường cướp lấy Văn Lang

    Xưng Vương xưng Đế nối nhau đời đời

    Nào hay Phương Bắc nuốt rồi

    Cáo già đã giả con trời còn chi

    Tiếng đời để lại bia ghi

    Phản non hại nước mấy khi trường tồn

    Thảm thương con cháu Tiên Rồng

    Lạc Nguồn Lạc Cội mắc vòng khốn nguy

    Thiên Đàng đã mất lối đi

    Hồn sa Địa Phủ Âm Ti nghìn trùng.

    Khi cha con Doãn Thường lên ngôi Việt Vương biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Việt Trung Nguyên. Thời những di tích Văn Hóa Văn Lang từ thời Kinh Dương Vương đến thời Đại Hùng Vương đều xóa sổ không cho dân chúng nhắc tới nữa. Thay thế vào đó một số di tích Văn Hóa mới. Văn Hóa thời đại Trung Nguyên. Thờ phụng những người có công nổi dậy chiếm lấy Bắc Văn Lang. Thay đổi một số tên sông. Chẳng hạn như sông Dương, đổi tên thành sông Trường Giang. Một số tên núi. Thay đổi tên Châu. Bộ. Thay đổi tên Kinh Đô. Kinh Đô Xích Quỷ thành Kinh Đô Trung Nguyên. Nói chung là thay đổi hầu hết, danh từ mới thay cho danh từ cũ.

    Văn Hóa Truyền Thống Văn Lang dần dần biến mất không còn. Đều đáng nói ở đây Cha Con Doãn Thường biến Nước Xích Quỷ, Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Trung Nguyên. Xảo ngôn Truyền Bá đất Trung Nguyên là do công lao Vua Vũ khai lập ra. Thế hệ đời sau mắc lừa cho rằng công lao Vua Vũ, thực là to lớn. Dẫn nước chín con sông, làm cho chín Châu có thể ở được. Con cháu Vua Vũ. Đến thời Việt Vương Câu Tiễn, đánh bại nước Ngô. Trả đất lại cho nước Sở. Trả đất lại cho nước Lỗ. Mà nước Ngô đã chiếm lấy.

    Việt Vương Câu tiễn hòa hảo với các trấn chư hầu đất Bắc. Như Tề. Tấn. Vân Vân... cùng một số trấn chư hầu khác hội họp ở Từ Châu. Tùng phục theo Nhà Chu. Vua Nguyên Vương Nhà Chu. Phong Cho Việt Vương Câu Tiễn VIỆT BÁ VƯƠNG làm chủ phương Đông. Việt Vương Câu tiễn cúi đầu dâng Việt Trung Nguyên cho Phương Bắc. Tức thời đất việt Trung Nguyên lại chuyển sang một giai đoạn mới không còn độc lập tự trị nữa mà trở thành TRUNG QUỐC.

    * * *
     
  16. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    PHẦN 7
    Nói về Cha Con Doãn Thường từ khi lên ngôi Vương luôn cũng cố bộ máy Độc Tài Độc Trị. Một cách hiệu quả. Kiểm soát quản lý vận hành chặt chẽ vững bền không sơ sót. Luôn luôn phát huy sức mạnh cơ sở hết đêm cái lợi ảo nầy ra đến cái lợi ảo khác cuốn hút người dân chạy theo. Tất cả cái lợi ảo đều từ chính sách ban ra nhưng không bao giờ thực hiện được. Chỉ đọc ra cho Dân nghe sướng tai mà thôi.

    Cha Con Doãn Thường mở ra thật nhiều trường học nhưng có học mà không đi vào cuộc sống học toàn Văn Từ đồi trị có lợi cho việc mưu phản lại nhà nước Văn Lang chẳng ra đâu, càng học càng dốt. Chuyên moi móc những cái xấu của Vua Quan nhà nước Văn Lang, tán tụng việc làm phản loạn của mình cho là việc làm chính nghĩa.

    Những ai nói lên sự thật liền bị chém đầu hoặc bị cô lập cho đến chết. Tuy mở rộng con đường giáo dục nhưng để ca tụng cuộc cách mạng thần thánh của mình. Mở trường lớp dạy dân nhiều nhưng học toàn là những chuyện mê tín những cuộc tình lãng mạng trai gái. Hầu làm cho dân chúng quên truyền thống dân tộc anh linh hơn mấy nghìn năm.

    Nói tóm lại có học nhiều nhưng không đâu vào đâu cả càng học nhiều thời càng mờ mịt không có tôn chỉ mục đích nào cả. Các vị tu Tiên trên núi thường nói (Chính sách ngu Dân đã được thực hiện). Dân Bắc Văn Lang dần dần quên Cội quên Nguồn, nhưng cơ trời đã thế khó mà cứu vãn được. Tương Lai của người Dân Bắc Văn Lang. Không phải đi đến no cơm ấm áo. Mà là sống trên văn từ bóng bẩy. Bằng cấp hư danh. Làm mê hoặc lòng ham muốn của con người mà thôi.

    Có thể nói không có Nhà nước nào họp hành nhiều như Nhà Nước Việt Trung Nguyên hầu như ngày nào cũng hộp. Mục đích là để bôi trơn bộ máy. Khởi động liên tục đè bẹp những ý tưởng phản loạn. Diệt mầm họa trong trứng nước không cho có cơ hội suy nghĩ đúng sai tạo phản. Cha Con Doãn Thường tạo ra một thể chế kiểm soát gắt gao chặt chẽ không những quản lý về vật chất không cho dân chúng giàu sang. Mà còn quản lý cả tinh thần ý nghĩ của dân chúng. Cha con Doãn Thường thực hiện chính sách như vậy, cứ nghĩ làm như thế Nhà Nước Trung Nguyên sẽ được bền vững lâu dài. Nào hay đâu lại dẫn đến mau sụp đổ.

    Cha Con Doãn Thường nào hiểu, sự tồn tại của chế độ chính là phát triển Tiến Hóa Xã Hội. Sự tồn tại của Xã Hội chính là cái mới thay thế cho cái cũ. Sự tồn tại của Nhà Nước chính là Công Bằng Bình Đẳng. Sự bảo thủ độc tài độc trị, kìm hãm sự phát triển xã hội, kìm hãm quyền tự do của con người, chính là đi vào con đường tự sanh tự diệt. Không cần đánh đổ nó cũng tự sụp đổ. Sự tiến hóa loại bỏ cái cũ lỗi thời, tiến đến cái mới non trẻ, tiến hóa loại bỏ tự nhiên, không có sự mâu thuẫn xung đột nào cả đó chính là sự trường tồn văn minh xã hội. Sự củng cố Độc Quyền. Độc Tài, Độc Trị, dù cho có tài tình tinh vi đến đâu cũng dẫn đến sự xơ cứng của thể chế bảo thủ Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị dẫn đến Nhà Nước Trung Nguyên đi vào xóa sổ. Chỉ khi nào thật sự đi vào quy luật tự nhiên cái mới liên tục phát triển thay cho cái cũ lỗi thời mới đi vào tồn tại lâu dài.

    Cha Con Doãn Thường không những không làm được điều đó có thể nói là chưa phát hiện ra điều đó. Mà chỉ tạo ra những chiếc bánh vẽ lừa gạt dân chúng mà thôi. Nên không thể trụ vững lâu dài được cuối cùng cũng bị Phù Sai đánh bại. Về sau Câu Tiễn tuy diệt được Phù Sai nhưng cúi đầu trước Nhà Chu. Được Nhà Chu Chu Nguyên Vương phong Bá. Bá Vương Câu Tiễn Trung Nguyên không còn tự chủ Độc Lập được nữa thuộc về Phương Bắc. Việt Trung Nguyên chuyển sang một giai đoạn mới giai đoạn trở thành Trung Quốc. Việt Trung Nguyên sát nhập về Phương Bắc thời Chu Nguyên Vương hàng năm phải chịu sự cống nạp cho Nhà Chu. Bắc Văn Lang coi như biến mất không còn từ đây.

    Đây nói về nơi Kinh Đô Văn Lang. Ngày 20 tháng 3, 545 trước công nguyên Hùng Việt Vương, Tuân Lang, đời thứ 13 Hạ Hùng Vương vô cùng tức giận khi nghe tin Cha Con Doãn Thường nổi dậy cướp lấy Bắc Văn Lang.

    Trước Vương Triều Hùng Việt Vương quát hỏi triều thần:

    Cha Con Doãn Thường là ai mà ghê gớm như vậy nổi loạn chiếm lấy Bắc Văn Lang.

    Hầu Tôn Vương nghe Quốc Vương hỏi liền bước ra báo cáo rằng:

    Muôn tâu Quốc Vương bệ Hạ Cha Con Doãn Thường là con cháu 31 đời Vua Vũ thời Nhà Hạ. Di cư đến Huyện Cối Kê Lạc Giang Giao Châu sanh sống. Nhập cư thành dân Bách Việt Văn Lang, trở thành dân Văn Lang chính thống. Giàu có thuộc bậc nhất Bắc Văn Lang. Doãn Thường làm quan đến chức Quan Tri Phủ Lạc Giang Giao Châu. Dòng họ Vũ có Âm Mưu chiếm đoạt Bắc Văn Lang từ lâu, nhưng không mấy ai phát hiện được. Khi phát hiện được thời đã bị Cha Con Doãn Thường nổi dậy cướp mất Bắc Văn Lang rồi.

    Hùng Việt Vương nghe xong nổi giận đùng đùng hét lớn:

    Lũ cướp nước hại dân hại nước kia phải tiêu diệt cho bằng được không để cho một tên sống sót. Các Khanh hãy hiến kế cho Trẫm để Trẫm nhanh chóng cho người quét sạch Cha Con Doãn Thường trừ hậu họa.

    Hầu Tôn Vương nghe xong bằng tâu rằng:

    Muôn Tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Cha Con Doãn Thường đã có âm mưu dã tâm chửng bị từ trước lôi kéo dân chúng nổi dậy chiếm lấy Bắc Văn Lang thế lực rất mạnh. Trung Văn Lang đang trong cơn hỗn loạn không phân biệt được phải trái trắng đen. Có người cho rằng Cha Con Doãn Thường là các Vua Hùng tái sanh lập lên nhà nước Việt Trung Nguyên. Nên dân chúng theo Cha Con Doãn Thường như nước vỡ bờ không có cách gì ngăn cản lại nổi thế lực phản loạn như cơn bão không những chiếm lấy Bắc Văn Lang mà còn tràn vào trung Văn Lang. Châu Phủ, Thục An Kim. Anh Kỳ. Thạch Trung Sơn. Kỳ Thọ ra sức chống trả. Không cho Quân nổi loạn tiếng vào Trung Văn Lang. Tình thế vô cùng cấp bách.

    Hùng Việt Vương nghe Hầu Tôn Vương tâu như vậy lấy làm kinh hãi nói:

    Các Khanh có kế sách gì chống trả lại thế lực quân phản loạn không?

    Hùng Việt Vương Tuân Lang, hỏi đi hỏi lại đến mấy lần thấy dưới triều các Quan Tướng làm thinh.

    Hùng Việt Vương than:

    Các khanh thường ngày khoe tài khoe giỏi, cái tài cái giỏi bay đi đâu hết rồi.

    Từ chỗ ngồi Hầu Lạc Vương đứng dậy nói:

    Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ. Cha Con Doãn Thường nổi lên làm loạn chiếm lấy Bắc Văn Lang nhanh chóng như vậy. Là có sự đồng tình phần lớn dân chúng Bắc Văn Lang. Nhất là thành phần dân chúng Phương Bắc lánh nạn chiến tranh di cư vào Bắc Văn Lang sanh sống đều theo Cha Con Doãn Thường. Chưa kể tình trạng dân chúng di cư qua Bắc Văn Lang làm ăn bất hợp pháp chưa nhập tịch thành dân Văn Lang trên hai triệu người. Nghe Đâu các bang phái ác ma tà giáo cũng gia nhập theo quân phiến loạn Cha Con Doãn Thường. Thế lực quân phản loạn phải nói là rất hùng mạnh nếu không có kỳ tích nhân tài xuất hiện thời khó mà dẹp quân phản loạn nhanh chóng được.

    Hùng Việt Vương nghe Hầu Lạc Vương báo cáo như vậy thời không khỏi lấy làm lo lắng.

    Hầu Thừa Vương từ chỗ ngồi đứng dậy nói:

    Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ. Quân phiến loạn Cha Con Doãn Thường là quân nội loạn. Không phải là quân xâm lược có sự đồng tình của dân chúng đã cấu kết thành sức mạnh được sự che chở của muôn dân Bắc Văn Lang khó mà đánh tan một ngày hai ngày được. Đáng lý ra tiêu diệt mầm phản loạn ngay từ đầu, giờ đây thời đã muộn khó mà tiêu diệt vì dân chúng Bắc Văn Lang đã lập Cha Con Doãn Thường làm Việt Vương Tế Gia có nghĩa là Dân Chúng Bắc Văn đã có Quốc Vương mới dân chúng Bắc Văn Lang phò cha con Doãn Thường chống trả lại nhà nước Văn Lang nên khó mà tiêu diệt nhanh chóng được. Lại nữa Cha Con Doãn Thường không phải là quân xâm lược mà là quân loạn tặc phản loạn nổi dậy quyết lật đổ nhà nước Văn Lang lập lên thời đại mới, thời đại Việt Trung Nguyên. Đã có cái gốc mưu đồ quá lớn Bá Tánh muôn dân Bách Việt Bắc Văn Lang vì thế mà tin theo. Thế lực vô cùng vững chắc. Không như cách đây hơn ba trăm năm mươi năm về trước ở thời Phù Đổng Thiên Vương. Các Bộ Lạc Bách Việt Văn Lang nổi lên đòi tự trị chỉ là ảnh hưởng Văn Hóa Phương Bắc không có thống nhất tổ chức. Mạnh ai nấy xưng Vua, xưng Chúa. Còn cuộc nổi dậy của Cha Con Doãn Thường là có âm mưu từ trước, đường đi nước bước điều có sự tính toán chu đáo nội cái việc mua Quan bán Tước ở Bắc Văn Lang không ai phát hiện ra. Nội sơ Con Cháu dòng họ của Việt Tế Gia có hơn mười Quan Tri Huyện. Một Qua Tri Phủ. Chưa nói đến Con Cháu của Triệu Xuyên. Triệu Thuẫn có đến năm Quan Tri Huyện. Cho thấy dòng họ Vũ, dòng họ Triệu có âm mưu từ trước phải nói là rất lâu đời nhưng không tài nào phát hiện được. Khi phát hiện được thời Bắc Văn Lang đã về tay Cha Con Doãn Thường phải nói là một cuộc loạn tặc phản loạn tài tình hết sức chu đáo. Chỉ còn cách là dốc toàn lực lượng đánh một trận. Một là lấy lại Bắc Văn Lang. Hai là…

    Hầu Lạc Vương dừng lại không nói. Hùng Việt Vương Tuân Lang hỏi:

    Sao khanh không nói tiếp.

    Hầu Lạc Vương nói:

    Bệ Hạ cho phép thời Thần mới nói.

    Hùng Việt Vương nói:

    Khanh cứ nói.

    Hầu Lạc Vương nói:

    Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ Cha Con Doãn Thường biết lợi dụng hình ảnh Quốc Tổ che chở cho mình một lá bùa hộ mệnh không ai phá nổi. Cha con Doãn Thường, thường nói CÁC VUA HÙNG CÓ CÔNG DỰNG NƯỚC DÂN TỘC BÁCH VIỆT VĂN LANG CHÚNG TA CÙNG NHAU GIỮ LẤY NƯỚC. Dân chúng Bắc Văn Lang cho rằng Cha Con Doãn Thường mới thật sự làm theo di chí Quốc Tổ. Nên ra sức bảo bọc như tường đồng vách sắt khó mà đánh bại ngay được. Chỉ còn cách là chờ thời cơ thuận lợi chiếm lấy lại Bắc Văn Lang ngoài hai cách đó không còn cách nào hơn.

    Hùng Việt Vương nghe xong nổi giận quát:

    Khanh có biết Bắc Văn Lang là vựa lúa lớn nhất nước Văn Lang Không? Mất Bắc Văn Lang là có nghĩa chúng ta suy yếu mà còn trở nên nghèo đói khó mà trở nên hùng mạnh được nữa.

    Hầu Lạc Vương sợ hãi nói:

    Thần đã biết tội.

    Hùng Việt Vương nói:

    Bằng mọi giá phải chiếm lại cho bằng được Bắc Văn Lang không để mất Bắc Văn Lang được.

    Bằng ra lệnh cho Văn Khánh đại Tướng Quân Thống Soái thống lãnh 30 vạn quân đến Vân Giao Châu kết hợp với quân Kỳ Thọ đang cố thủ tại Quang Hải Châu kết hợp với quân Thạch Trung Sơn đang cố thủ tại Bạch Lang Châu. Kết hợp với quân Anh Kỳ đang cố thủ tại Tiên Châu kết hợp với quân Thục An Kim đang cố thủ tại Âu Tây Châu. Tiến đánh thẳng ra Bắc dốc toàn lực bắt Cha Con Doãn Thường đêm về trị tội. Thần Tuân Lịnh.

    Đây nói về Thống Soái Văn Khánh thống lãnh 30 vạn quân đến Vân Giao Châu. Tức thời chia làm ba đạo quân. Đạo quân cánh Tả do Chủ Tướng Lê Quang thống lãnh 8 vạn quân tiến thẳng đến Âu Tây Châu. Đạo quân cánh hữu do Huỳnh Trung Kỳ thống lãnh 8 vạn quân tiến thẳng đến Quang Hải Châu. Còn đạo quân chủ lực Văn Khánh thống soái thống lãnh 14 vạn quân tiến thẳng đến Bạch Lang Châu. Tiên Châu.

    Đây nói về Thục An Kim đang là Tri Phủ Âu Tây Châu nghe hung tin Cha Con Doãn Thường nổi dậy cướp lấy Bắc Văn Lang thời vô cùng kinh hãi tình thế vô cùng nguy cấp liền huy động lực lượng quân binh trấn giữ cố thủ tại Âu Tây Châu. Chỉ hơn bảy ngày sau ở trên thành bốn Cha Con Châu Phủ Thục An Kim nhìn ra hướng Bắc thấy quân phản loạn chia ra nhiều đạo quân tiến về Âu Tây Châu cờ xí gươm giáo trùng trùng không bao lâu thời quân phản loạn bao vây thành Âu Tây Châu.

    Đứng trên thành nhìn xuống thấy cờ Vua Lưu Việt. Cờ Vua Phù Việt. Cờ Vua Lỗ Việt. Cờ Vua Nô Việt. Cờ Vua Ngung Việt. Cờ Vua Mân Việt. Cờ Quân Việt Trung Nguyên. Quân phản loạn bắc loa kêu gọi mở cửa thành đầu hàng bỏ Hùng Vương. Theo Việt Vương.

    Châu Phủ Thục An Kim đứng trên thành chửi:

    Các ngươi đều là con cháu Tiên Rồng. Con Dân Bách Việt Văn Lang cùng chung một Quốc Tổ Vua Hùng. Sao đi theo Cha Con Doãn Thường làm Phản.

    Các Vua Việt nghe Thục An Kim nói thế làm thinh. Triệu Công Phi ngựa tới nói:

    Họ Thục An kia ngươi nói sai rồi kẻ thức thời mới là trang anh hùng tuấn kiệt phải nhận biết thời thế ngọn gió Nam chấm dứt thời ngọn gió Bắc ra đời. Hiện nay tình thế thay đổi nước Văn Lang không còn như thời Quốc Tổ Vua Hùng, mà là nhà nước Văn Lang Vương, Quan, Thần, Tướng ai vì túi nấy. Bỏ bê dân chúng, mặc cho lê dân khốn khổ. Vua Hùng chỉ lo chọn cho nhiều cung phi mỹ nữ. Để cho Vương Quan lộng hành làm bậy đánh mất hết lòng tin muôn dân. Cơ Trời đã báo hiệu khí số niên đại Vua Hùng mấy nghìn năm đã sắp kết thúc rồi còn gì. Theo Ta nghĩ chim khôn tìm cây mà đậu, người khôn tìm chúa mà thờ. Khí số nên đại Vua Hùng đã hết. Cơ Trời ấn định Việt Vương ra đời.

    Các Vua Việt hùa theo Tướng Soái nói:

    Đúng chúng tôi là dân Bách Việt. Đương nhiên phải đi theo Việt Vương không theo Hùng Vương nữa.

    Thục An Kim nghe những lời trái tai đó quát lên như sấm nổ:

    Thằng Triệu Công hỗn láo kia ai thời không biết lý lịch của ngươi. Nhưng đối với ta thời ta quá rõ. Tổ Tông ngươi là Triệu Xuyên. Triệu Thuẫn khi còn ở Nước Tấn đã mưu phản giết vua Di Cao Tấn Linh Công. Đến đời Tấn Cảnh Công. Đồ Ngạn Giả lật ngược tình thế. Dòng Họ Triệu các ngươi bị tru di cửu tộc. Quân Binh truy sát. Ông Cha ngươi trốn qua Bắc Văn Lang sinh sống Vua Hùng không xử tệ với dòng Họ Triệu các ngươi. Cho nhập quốc tịch Dòng Họ Triệu các ngươi trở thành dân tộc Văn Lang. Các ngươi không những không biết ơn manh tâm theo cha con Đoãn Thường làm phản tội đáng chết. Với cái tội phản loạn thời chết chẳng được toàn thây rồi. Còn xúc phạm uy linh Quốc Vương tội đáng tru di cửu tộc. Bỏ gươm giáo xuống tự sát kết liễu đi.

    Cha Con Triệu Công, nghe Châu Phủ Thục An Kim chửi hay quá sợ lay động lòng quân sĩ. Bằng hét lớn:

    Thời đại ngày nay kẻ thắng thời là Vua, kẻ thua là Giặc Ai thờ chủ nấy. Trên chiến trường chỉ có sức mạnh gươm đao giáo mác. Kẻ nào mạnh thời thắng, kẻ nào yếu thời thua. Kẻ thắng chính là vua, người thua chính là giặc. Đó là lẽ thường ở đời mau đầu hàng Việt Vương Tế Gia đi thời sống chống lại thời chết.

    Về sau thơ rằng:

    Bách Việt Văn Lang chẳng còn gì

    Chỉ còn tranh bá giết nhau đi

    Chính nghĩa gì đâu rời Cội Gốc

    Lạc Nguồn lạc Cội khốn với nguy

    Cội Nguồn Văn Hóa đã mất đi

    Hiểm họa đao binh nạn kể gì

    Chiến tranh loạn lạc đầy sóng gió

    Đồng Bào tàn sát có kể chi

    Thương ôi lạc Cội đành tan nát

    Văn Lang binh lửa dậy trời mây

    Kiếp nạn trùm lên đầu dân chúng

    Văn Lang khốn khổ, khổ từ đây

    Quốc Đạo Văn Lang đã mất rồi

    Nước nhà loạn lạc khổ ôi ôi

    Trước mắt u minh buông trùm xuống

    Yêu Tinh Quỉ Dữ chúng nốt xơi

    Anh hùng lạc đạo ngơ với ngác

    Hiếu trung, trung hiếu lạc chơi vơi

    Thắng Vua, thua Giặc hề một lũ

    Thi nhau chém giết máu đầu rơi.

    * * *


    PHẦN 8
    Đây nói về Lê Quang Chủ Tướng, thống lĩnh 8 vạn quân tiến thẳng đến Âu Tây Châu. Còn cách Âu Tây Châu mười dặm liền cho quân thám tính. Thời biết Quân Phản loạn đang bao vây thành Âu Tây Châu. Liền chính đốn quân ngũ chia là ba đạo quân. Đạo Quân cánh hữu hai vạn quân từ phía đông đánh bọc lên thành Âu Tây Châu. Do tướng La Thông chỉ huy. Đạo quân cánh tả hai vạn quân từ cánh Tây đánh bọc xuống thành Âu Tây Châu. Do Tướng Sơn Tây chỉ huy. Còn đạo quân chủ lực Lê Quang Chủ Tướng trực tiếp chỉ huy đánh thẳng vào quân địch chính Nam Âu Tây Châu đang bao vây cửa Nam thành Âu Tây Châu.

    Nói về Quân Phản loạn Việt Trung Nguyên Ba Cha Con Triệu Công đang dồn quân phía Nam thành Âu Tây Châu tìm cách tấn công thành.

    Thời nghe quân thám báo về báo:

    Quân Văn Lang đã kéo đến bao vây tấn công chúng ta.

    Tức thời ba Cha Con Triệu Công bày binh bố trận sẵn sàng giao chiến với quân Văn Lang. Triệu Công thông báo cho hai cánh quân đang bao vây Đông – Tây thành Âu Tây Châu. Cánh Quân loạn tặc phản loạn bao vây Đông thành Âu Tây Châu do Vua Lưu Việt. Phù Việt trực tiếp chỉ huy. Cánh quân loạn tặc phản loạn bao vây phía Tây thành Tây Âu Châu do Vua Lỗ Việt. Vua Nô Việt chỉ huy.

    Nói về ba Cha Con Triệu Công dàn binh bố trận đâu vào đấy thời thấy xa cát bụi mù mịt.

    Trên thành Âu Tây Châu quân binh đang reo hò:

    Quân chủ lực Văn Lang đến rồi. Quân Văn Lang đến rồi.

    Tiếng quân binh reo hò vang dậy trời đất. Triệu Công kinh hải quân Văn Lang đến nhanh như thế sao liền ra lệnh không tấn công thành Âu Tây Châu nữa mà chuẩn bị nghinh chiến.

    Nói về Chủ Tướng Lê Quang thấy quân phản động Trung Nguyên trùng trùng lớp lớp ước tính trên mười vạn quân Lê Quang không ngờ quân phản loạn Việt Trung Nguyên đông như vậy. Trong khi mình chỉ có bốn vạn quân. Nhưng nhìn thấy thành Âu Tây Châu chưa mất khí thế chiến đấu vững mạnh. Lê Quang nghĩ quân Âu Tây Châu từ trong thành đánh ra, thời có thể đánh thắng được quân phản loạn Việt Trung Nguyên. Bằng thúc quân vượt lên xông tới giao chiến. Quân Văn Lang hò hét dậy trời người ngựa gươm đao giáo mác ào ào lao tới xáp chiến với quân Việt Trung Nguyên hai bên giao tranh long trời lở đất. Triệu Công cũng không thua kém thúc quân tiến tới sẵn sàng đánh trả khí thế hừng hực. Triệu Công thấy Chủ Tướng Văn Lang thân cao bảy thước cỡi con ngựa Bạch. Đầu đội Kim khôi mình mang giáp sắt oai phong lẫm liệt cầm thanh đại đao to lớn ước nặng đến trăm cân thời biết đây là một dũng Tướng có sức mạnh kinh người.

    Nói về Lê Quang nhìn thấy Triệu Công tuy lớn tuổi mình cao bảy thước oai phong lẫm liệt cỡi con ngựa đen. Đầu đội kim khôi, mình mang giáp đồng tay cầm đại đao ước lượng nặng không kém gì cây đại đao của mình thời biết đã gặp kỳ phùng địch thủ. Lê Quang định phóng ngựa lên giao chiến với Triệu Công

    Tướng Mạnh Hổ nói:

    Chỉ là một con Lợn già cần gì đến mãnh Hổ, để Thuộc hạ lấy đầu cho rồi.

    Lê Quang nói:

    Tướng quân hãy cố hết sức bình sanh.

    Mạnh Hổ hiểu ý nói:

    Thuộc hạ quyết lấy cho được thủ cấp của giặc.

    Mạnh Hổ mình cao sáu thước cỡi con ngựa xám mình mặc giáp sắt tay cầm trường đao to lớn ước nặng tám mươi cân phi ngựa tới hét lớn:

    Quân phản loạn mau ra đây cúi đầu chịu chết.

    Triệu Côi thấy Tướng Văn Lang hung dữ như vậy liền nói với Triệu Công:

    Để con ra giết quách đi cho rồi.

    Triệu Côi nói xong phóng ngựa lao ra chém một giáo mạnh như thiên lôi giáng. Mạnh Hổ múa đao lên đỡ ken đinh tai nhức óc. Hai bên đánh nhau khói bụi mù mịt giáo đao chém qua chém lại ầm ầm ngựa người xáp tới lao vào bật ra, xáp lại đánh nhau cát bụi mù trời kinh khiếp.

    Đúng là:

    Hai Hổ đánh nhau kinh hồn

    Cát bay đá chạy Giáo Đao ầm ầm

    Ngựa người lao tới rầm rầm

    Đao như thác đổ bão gầm Giáo tuôn

    Đánh cho trời đất chuyển rung

    Đánh cho non núi đổ nghiêng dậy trời

    Tám mươi hiệp đã qua rồi

    Bất phân thắng bại kinh thời khiếp kinh.

    Nói về Tướng Nhị Beo thấy Mạnh Hổ chưa hạ gục được Triệu Côi bằng nói với Lê Quang:

    Để tôi ra hiệp sức giết chết tướng địch cho rồi.

    Nhị Beo nói xong liền phóng ngựa lao ra, tức thời có tiếng quát như sấm nổ:

    Có ta đây đừng hỗn láo.

    Một bóng người phi ngựa lao ra chém tới Nhị Beo. Nhị Beo múa thương chống trả choang một tiếng đinh tai nhức óc.

    Nhị Beo quát:

    Phản tặc xưng tên rồi chịu chết.

    Triệu Chi quát:

    Ông Nội ngươi đây nộp mạng đi.

    Triệu Chi múa giáo chém tới như mưa. Nhị Beo múa đao chống trả quát:

    Thằng phản loạn giặc con Ông Cố Tổ ngươi đây mau về chầu Âm Phủ.

    Trường thương mạnh Hổ đâm chém như mưa sa bão táp thế là hai bên xáp lá cà đánh nhau như sấm sét cát bụi mịt trời.

    Nhìn trận chiến mà đau xót dạ

    Cảnh tương tàn Bách Việt Văn Lang

    Cũng cùng con cháu Rồng Tiên

    Cớ sao nên nổi đảo điên tranh giành.

    Lê Quang đứng xem trận chiến tấn công trước giành phần chủ động liền chỉ kiếm lên trời hết lớn:

    Tử chiến.

    Tức thời ngựa hí vang trời quân reo dậy đất quân Văn Lang ào ào xông tới.

    Triệu Công cũng chỉ Đao lên trời hét lớn:

    Xông lên tử chiến.

    Hai bên như nước vỡ bờ ào ào lao vào nhau xáp lá cà chém thôi là chém.

    Thơ rằng:

    Ôi thôi trận đánh kinh hồn

    Giáo Đao Thương Kiếm ầm ầm dậy non

    Đầu rơi máu đổ xương tan

    Thi nhau ngã gục máu loang đất bằng

    Còn chi Con Cháu Tiên Rồng

    Còn Chi Bách Việt trường tồn còn chi

    Ngựa Người dẫm đạp lên nhau

    Thây phơi thịt xẻ nát tương nát nhừ

    Đồng bào cùng một Cội Nguồn

    Chỉ vì Lạc Cội tranh giành giết nhau

    Văn Lang một Cội trước sau

    Giờ đây chém giết khiếp kinh hãi hùng

    Nam Bắc tranh bá ầm ầm

    Văn Lang binh lửa dậy trời từ đây

    Kìa Chiến trận quân vây lớp lớp

    Kìa Gươm Đao gào thét dậy non

    Văn Lang ơi hỡi Văn Lang

    Từ đây đành phải nát tan cơ đồ

    Nhìn trận chiến khắp cùng thây chất

    Tiếng hò reo tàn sát kinh thiên

    Văn Lang Bách Việt Anh Em

    Nồi Da nấu thịt thảm thê đất trời.

    Đây nói về La Thông Tướng Quân thống lĩnh hai vạn quân đánh bọc từ phía đông lên thành Âu Tây Châu gặp phải một đội quân hùng mạnh hơn hai vạn quân trấn giữ người chỉ huy là Vua Lưu Việt. Vua Phù Việt.

    La Thông phi ngựa tới quát:

    Lưu Việt, Phù Việt hai ngươi là Bách Việt Văn Lang sao lại phản lại nhà nước Văn Lang.

    Vua Lưu Việt nói:

    Ta với Ngươi giờ đây ai thờ chủ nấy.

    Từ xa Vua Phù Việt phi ngựa lao tới chém La Thông với sức mạnh sấm sét. La Thông múa trường thương chống trả choang choang đinh tai nhức óc.

    La Thông Quát:

    Loạn Tặc phản loạn xem đây.

    Tức thời La Thông múa trường đao phi ngựa chém tới như mưa. Vua Phù Việt múa giáo chống trả một còn một mất. Vua Phù Việt thấy không hạ gục được La Thông bằng phi ngựa thoát ra cuộc chiến phất cờ hiệu lệnh tấn công vào quân Văn Lang. Thế là quân loạn tặc phản loạn Trung Nguyên ào ào xông lên càng quét quân Văn Lang như thác đổ.

    La Thông nào chịu kém chỉ kiếm lên trời hét lớn:

    Quét sạch những tên phản loạn cho ta.

    Thế là Quân Văn Lang ầm ầm xông tới hai bên xáp chiến long trời lở đất. La Thông múa trường Thương phi ngựa lao tới đâm chém Vua Lưu Việt tới tấp. Vua Lưu Việt ra sức chống trả. Đường Thương La Thông như rồng bay phụng múa kỳ bí làm cho Vua Lưu Việt chống đỡ muốn hụt hơi. Vua Phù Việt thấy Vua Lưu việt yếu thế liền phi ngựa xông vào xáp chiến. Nhưng đã trễ Vua Lưu Việt bị La Thông đánh trúng một thương ngã nhào xuống ngựa bị thương rất nặng đứng dậy không nổi. La Thông nhanh như chớp bồi thêm một thương nữa Vua Lưu Việt chết tốt.

    Vua Phù Việt lấy làm kinh khiếp định quày ngựa bỏ chạy La Thông liền phi ngựa rượt theo đánh trúng một thương như trời giáng Vua Phù Việt trào máu ngã nhào xuống ngựa hồn du Địa Phủ.

    Thơ rằng:

    Sống thác là thường lý

    Phù du cũng một đời

    Nhưng chết cho có nghĩa

    Linh Hồn mới thảnh thơi

    Đằng nầy cái chết theo quân phản loạn

    Hồn du địa Phủ tàn đời

    Khó mong trở lại làm người

    Cũng vì lạc Cội lạc Nguồn mà ra.

    Quân Văn Lang thắng thế reo hò vang dậy ào ào xông tới chém quân phản loạn Trung Nguyên như chém chuối. Quân phản loạn Trung Nguyên lớp chết lớp bị thương bỏ chạy về hướng Bắc. Quân Văn Lang không tri sát tiến lên bao vây đánh bọc hậu vào mười vạn quân của ba Cha Con Triệu Công.

    Khi ấy ở núi Phù Vân có năm vị tu Tiên đắc Đạo tên là Phù Vân Đạo Sĩ. Nhìn thấy Bắc Văn Lang hung khí đầy trời liền co tay bấm quẻ không khỏi thở dài nói:

    Văn Lang đi vào kiếp nạn. Ý trời đã vậy khó mà cứu vãn, Tiên Thánh như chúng ta cũng đành bất lực. Bắc Văn Lang không bao lâu nữa sẽ rơi vào tay Nhà Chu sát nhập về phương Bắc.

    Thơ rằng:

    Ngán thay cho cõi Hồng Trần

    Thịnh suy, suy thịnh xoa vần lao đao

    Mặt Trời Văn Hóa mất đi

    Văn Lang suy sụp còn chi cơ đồ

    Từ đây chinh chiến bão bùng

    Thần Tiên lánh nạn về Trời nương thân

    Yêu Tinh xuất hiện chuyển xây

    Giả chân, chân giả khó thay cho đời

    Anh hùng lạc đạo đã rồi

    Nước non, non nước ngập trời đao binh

    Văn Lang ơi hỡi Văn Lang

    Non sông Bách Việt tương tàn lẫn nhau

    Nhìn thế cuộc thấy lòng đau

    Đồng Bào một cội thi nhau tương tàn

    Bởi vì lạc Cội lạc Nguồn

    Tranh giành chém giết hận thù triền miên.

    * * *
     
  17. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    PHẦN 9
    Đây nói về Tướng Sơn Tây thống lĩnh hai vạn quân nhanh chóng đánh bọc từ phía tây Âu Tây Châu đánh xuống. Bỗng thấy hơn một vạn quân phản loạn cờ xí rợp trời xông ra chận đánh.

    Tướng quân loạn tặc phản loạn là Vua Nô Việt mình cao sáu thước đầu đội kim khôi mình mang giáp đồng cỡi con ngựa màu nâu tay cầm trường giáo nặng khoảng 60 cân cản đường quát:

    Tướng Văn Lang kia mua xuống ngựa quy hàng thời sống bằng chống trả thời chết.

    Sơn Tây quát:

    Ta là Tướng Văn Lang mà quy hàng bọn giặc cỏ làm loạn các ngươi. Lão Tổ ngươi đã đến sao không mau xuống ngựa đầu hàng.

    Vua Nô Việt cả giận phi ngựa lao tới chém Sơn Tây một giáo mạnh như trời giáng. Sơn Tây múa trường đao chống trả, choang choang đinh tai nhức óc. Hai bên đã thử sức biết đối thủ không thua kém gì mình.

    Sơn Tây quát:

    Thằng cháu giặc cỏ ngươi có mắt như mù thờ Yêu Tinh Quỉ Dữ cha con Doãn Thường đã gặp ta thời coi như tới số xem đường đao lão tổ của ngươi đây.

    Tướng Sơn Tây nhanh như tia chớp múa đao pháp kình phong tuôn ra ù ù chém vào Vua Nô Việt như sấm sét.

    Vua Nô Việt cũng ra oai không kém hét lên một tiếng:

    Xem đường giáo của sư gia đây.

    Tức thời múa giáo vù vù cát bay đá chạy phi ngựa lao tới chém ầm ầm vào Sơn Tây hai con hổ đánh nhau một còn một mất đao giáo choảng nhau liên miên bất tận. Hai bên càng đánh càng hăng cát bụi mịt trời.

    Về Sau có thơ rằng:

    Một bên con Hổ Văn Lang

    Một bên con Hổ Trung Nguyên thét gầm

    Hai bên giao chiến ầm ầm

    Đao qua Giáo lại đùng đùng dậy non

    Đường Đao chơm chớp trời Nam

    Giáo tuôn sấm sét dọc ngang đất trời

    Giáo – Đao trăm hiệp qua rồi

    Bất phân thắng bại ai nào thắng ai

    Cát bay đá chạy kinh thiên

    Rền trời rền đất đảo điên rền trời

    Xem đi xét lại nực cười

    Tranh Giành chém giết hết rồi anh em

    Nước non gặp lúc tối đen

    Anh hùng lạc đạo hết mong về trời.

    Trong lúc hai con Hổ chiến đấu hăng say thời quân Vua Lỗ Việt Trung Nguyên từ sau đánh bọc tới quân Văn Lang trước sau bị địch bao vây Phó Tướng Sơn Tùng tức tốc điều khiển một đạo quân chống trả lại thế đánh bọc hậu của Vua Lỗ Việt. Quân Lỗ Việt từ sau bọc hậu đánh tới liền thấy quân Văn Lang dạt ra hai bên như vòng cung.

    Từ trong vòng cung xuất hiện một tướng quân Văn Lang oai phong lẫm liệt quát lên như sấm:

    Có Tướng Nam nhà trời đây quân phản loạn khó mà chạy thoát.

    Vua Lỗ Việt nhìn thấy Sơn Tùng oai phong lẫm liệt như thế cũng hơi ngán. Nhưng ở vào thế cỡi cọp không đánh cũng không được. Liền thúc quân xông tới giao chiến. Sơn Tùng nghĩ muốn thắng giặc phải giết tướng trước. Quát lên một một tiếng phi ngựa lao tới chém Vua Lỗ Việt một đao sấm sét. Vua Lỗ Việt múa đao chống trả choang một tiếng đinh tai nhức óc. Vua Lỗ Việt cánh tay tê nhức như muốn gãy kinh hồn bạt vía phi ngựa bỏ chạy. Sơn Tùng phi ngựa phóng theo vớt một đao bay đầu.

    Quân loạn tặc phản loạn Trung nguyên thấy Vua Lỗ Việt chết liền đạp lên nhau bỏ chạy. Quân Văn Lang không rượt đuổi mà quay ngược trở lại tấn công vào Quân Vua Nô Việt. Quân Nô Việt chống không lại quân binh rối loạn Bị quân Văn Lang xông tới chém tới tấp.

    Vua Nô Việt hét lên một tiếng đánh bậy một giáo rồi phi ngựa bỏ chạy như bị tên quân Văn Lang bắn chết. Quân Văn Lang thắng thế hò hét vang trời dậy đất thi nhau rượt theo chém quân trung nguyên như chém chuối thây phơi lớp lớp thê thảm chưa từng thấy.

    Về sau có thơ rằng:

    Anh Em cùng một nước non

    Bất đồng chí hướng máu loang chiến trường

    Bởi vì lạc mất Cội Nguồn

    Tranh giành chém giết hãi hùng biết bao

    Mất đi truyền thống Cha Ông

    Như cây mất gốc như sông mất nguồn

    Yêu Tinh Quỉ Dữ lộng hành

    Bày ra cuộc chiến tranh giành hại nhau

    Chúng dân khốn khổ lao đao

    Lạc Ngồn lạc Cội lạc vào hiểm nguy

    Bắc Nam máu đổ đầu rơi

    Cũng vì Lạc Cội ôi thôi lạc Nguồn

    Từ đây khốn khổ vô cùng

    Binh đao máu lửa ngập tràn khắp nơi

    Đúng sai, sai đúng là đâu

    Cũng vì lạc Cội xé xâu tan tành.

    Đây nói về ba Cha Con Triệu Công đang chiến đấu hăng say. Thúc 10 vạn quân tiến lên đè bẹp quân Văn Lang, quân Văn Lang chỉ có bốn vạn khó mà chống cự cho lại, quân phản loạn Việt Trung Nguyên ào ào xông lên lấy thịt đè người. Trận thế đang nghiêng về quân loạn tặc phản loạn, quân Văn Lang yếu thế hơn thấy rõ. Triệu Côi, Triệu Chi, áp đảo tướng Mạnh Hổ, Tướng Nhị Beo.

    Triệu Côi, Triệu Chi múa giáo vù vù chém tới tấp nhát nào nhát nấy như trời giáng. Tướng Mạnh Hổ, Tướng Nhị Beo ra sức chống đỡ yếu thế thấy rõ sắp bị đánh bại tới nơi còn Chủ Tướng Lê Quang ra sức đánh với Triệu Công.

    Triệu Công tuy lớn tuổi nhưng võ nghệ cao cường múa trường đao như sấm sét chém tới như mưa. Lê Quang múa đao chống trả thế đao chém tới ầm ầm trận chiến kinh hồn cát bay đá chạy không ai chịu thua ai. Quân Văn Lang đang trong lúc yếu thế có thể nói là sắp bị đánh bại tới nơi. Trong lúc nguy cơ ấy.

    Bỗng nghe chiêng trống vang trời quân reo dậy đất. Hai bên cánh tả, cánh hữu phía sau lưng quân loạn tặc phản loạn. Quân Văn Lang đánh thốc tới thế mạnh như chẻ tre dưới sự chỉ huy của Tướng La Thông. Tướng Sơn Tây.

    Mười vạn quân phản loạn Trung Nguyên tức thời rối loạn. Cùng lúc ấy bốn Cha Con Tri Phủ. Thục An Kim, Thục An Chu, Thục An Hãn, Thục An Ngưu ở trên thành Âu Tây Châu nhìn thấy hai cánh quân phản loạn Đông – Tây do các Vua Việt chỉ huy đã bị hai cánh quân Văn Lang đánh bại. Liền mở cổng thành thống lĩnh hơn một vạn quân xông ra hiệp cùng hai cánh quân Văn Lang từ phía sau đánh bọc tới, dồn ép quân phản loạn Việt Trung Nguyên vào giữa tiêu diệt.

    Thơ rằng:

    Binh hùng tứ phía bao vây

    Quân reo dậy đất cờ bay rợp trời

    Quân Nguyên bị đánh tơi bời

    Chỉ vì phản lại Vua Hùng tan thây.

    Triệu Công đang hăng say chiến đấu với Chủ Tướng Lê Quang. Bỗng thấy quân binh rối loạn thời chưa hiểu là chuyện gì.

    Cùng lúc ấy một tướng giặc phi ngựa tới nói lớn:

    Bẩm Nguyên soái mau cho quân mở đường rút lui, quân Văn Lang đang bao vây tứ phía dồn ép quân ta vào giữa tiêu diệt.

    Triệu Công nghe nói thất kinh hét lớn:

    Bắn pháo lệnh rút lui.

    Lê Quang quát lên như sấm nổ:

    Chạy đâu cho thoát.

    Liền phi ngựa đến chém Triệu Công tới tấp. Vị tướng giặc mới đến múa giáo chận đánh Chủ Tướng Lê Quang. Triệu Công phi ngựa thúc quân binh phá vòng vây Tướng Giặc múa giáo ra sức đánh với Lê Quang bỗng hét lên một tiếng chém tới Lê Quang một giáo mạnh như sấm sét bất thình lình phóng ngựa chạy dài. Chủ Tướng Lê Quang không rượt đuổi theo mà thúc quân binh xông lên chém giết quân loạn tặc phản loạn Trung Nguyên như chém chuối. Quân loạn tặc phản loạn Trung Nguyên kinh hồn bạt vía người ngựa đạp lên nhau mà chạy. Quân Văn Lang lao theo chém thôi là chém.

    Thơ rằng:

    Tế Gia Yêu Quỉ ra đời

    Làm cho Bách Việt đứng ngồi không yên

    Ngư Tinh chuyển hóa xưng vương

    Mở màng chinh chiến nát tan cơ đồ

    Văn Lang binh lửa dậy trời

    Chỉ vì tranh Bá của loài Yêu Tinh

    Ôi thê thảm còn chi Bách Việt

    Thây ngã nhào kết cuộc thảm thê

    Văn Lang con cháu Rồng Tiên

    Lạc Nguồn Lạc Cội đảo điên cơ đồ

    Quỉ Yêu xây chuyển lộng hành

    Chia bè rẽ phái tranh giành hại nhau.

    Nói về ba Cha Con Triệu Công thúc quân binh phá vòng vây chạy về Phù Châu. Quân Văn Lang rượt đuổi theo chém giết tơi bời. Ba Cha Con Triệu Công chạy thục mạng bán sống bán chết. Thời thấy một đạo quân xuất hiện biết đó là quân của mình vô cùng mừng rỡ. Đạo quân trước mặt nhanh chóng đến nơi. Thì ra đó là vợ của Triệu Côi Phù Châu con của Vua phù Việt. Đang trên đường vận chuyển lương thực. Phù Châu thấy Cha Chồng và Chồng thất trận thảm thê. Đằng sau quân Văn Lang đuổi theo chém giết rất dữ.

    Phù Châu nói:

    Để con chận đứng quân Văn Lang lại cho.

    Nói xong Phù Châu phi ngựa về phía trước thấy quân Văn Lang trùng trùng lớp lớp hò hét rượt đổi quân phản loạn Trung Nguyên chém giết ầm ầm dậy trời dậy đất.

    Phù Châu phi ngựa tới hét lớn:

    Quân Văn Lang khốn kiếp kia xem đây.

    Liền rút ra một cái quạt niệm chú quạt liền ba cái. Tức thời cuồng phong nổi dậy ầm ầm mù trời mịt đất cát bay đá chạy cây cối ngã đổ. Quân Văn Lang bị cuồng phong đánh bật trở lại kinh hồn bạt vía rút lui không còn đuổi theo quân phản loạn nữa. Rút hết về Âu Tây Châu. Triệu Công điểm lại quân binh, đi tiêu hơn bốn vạn. Xây xẩm mặt mày. Chưa kể các Vua việt bỏ mạng, cánh Đông cánh Tây quân binh các Vua việt chết hơn phân nửa.

    Phù Châu nghe nói Cha mình Vua Phù Việt đã bỏ mạng khóc sướt mướt nói:

    Để con đem quân giết sạch quân Văn Lang báo thù.

    Triệu Công thở dài can:

    Quân Văn Lang xảo trá Lắm khó mà đánh bại lúc nầy được phải chờ cơ hội khác. Ngay lúc bây giờ đây là củng cố lại lực lượng ngăn chặn không cho quân Văn Lang tiến ra Bắc.

    Bằng ra lệnh cho Triệu Côi thống lĩnh hai vạn quân đến Phù Châu kết hợp với quân Phù Việt cũng cố thành trì trấn giữa không cho quân Văn Lang tiến ra Bắc. Triệu Chi thống lĩnh hai vạn quân đến Lâm Giang Tây Châu kết hợp với quân Lâm Việt cũng cố thành trì trấn giữ không cho quân Văn Lang tiến ra Bắc. Triệu Công thống lĩnh hai vạn quân đến Uất Lang Việt Châu kết hợp với quân Lang Việt củng cố thành trì trấn giữ không cho quân Văn Lang tiến ra Bắc.

    Tan nát nước nhà do mất Cội

    Chiến chinh loạn lạc bởi lòng tham

    Truyền thống Ông Cha vừa quên lãng

    Binh đao máu lửa dậy tràn lan

    Khốn khổ muôn dân vì đâu hỡi

    Độc tài độc trị họa diệt vong

    Hãy theo Quốc Tổ thời dựng nước

    Pháp Quyền Dân Chủ náo nương thân.

    Muốn xây dựng lên một đất nước thật sự Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng. NHÂN QUYỀN Dân Chủ Văn Minh. Thời phải xây dựng lên Nhà Nước Pháp Quyền, dựa trên nền tảng Quyền con người nhà nước Pháp Quyền của Dân do Dân và vì Dân. Đằng nầy Cha Con Doãn Thường không hiểu gì về nhà nước Pháp Quyền mà chỉ dựa trên Văn Từ lừa dối mà thôi.

    Cha con Doãn Thường chủ thuyết xây dựng lên nhà nước Pháp Quyền bằng con đường bạo lực. Đấu tranh bằng bạo lực thắng là Vua thua là giặc. Thời không thể nào lập lên một nhà nước Pháp Quyền chân chính được. Mà chỉ lập lên nhà nước độc quyền, độc tài, độc trị vì muốn lập lên một nhà nước Pháp Quyền thật sự của dân, do dân, vì dân thời cuộc đấu tranh đó lập lên nhà nước Pháp Quyền, không phải là cuộc đấu tranh thắng là Vua thua là Giặc. Mà là cuộc đấu tranh Văn Hóa về quyền con người. Chỉ Có Ở Thánh Chiến, không có ở phàm chiến, thần chiến. Nhà nước Pháp Quyền phải lập trên nền tảng Quyền con người. Nhân Quyền công bằng bình đẳng. Vì thế lập lên nhà nước Pháp Quyền không phải nhà nước thắng là Vua, thua cho là Giặc, nhà nước Độc Tài, Độc trị.

    Có thể nói Cha Con Doãn Thường vẽ ra chiếc bánh Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng, Dân Chủ, Dân Quyền, Văn Minh. Nhà Nước Pháp Quyền của Dân do Dân và vì Dân. Lừa dân quả thật là tài tình. Dân Bắc Văn Lang vì mê chiếc Bánh Vẽ hợp lòng dân nầy. Nên Dân Bắc Văn Lang sẵn sàng đi theo Cha Con Doãn Thường. Cướp lấy Bắc Văn Lang lập lên nhà nước Trung Nguyên Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị quản lý Dân chúng còn chặt chẽ hơn Phương Bắc Nhà Chu. Phương Nam Vua Hùng.

    Dân Chúng sống trong một nhà tù rộng lớn dưới sự kiểm soát quản lý gắt gao của nhà nước Trung Nguyên. Tất cả ruộng đất đều về tay nhà nước Trung Nguyên Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Với một thể chế xin cho dân chúng không những sống không có Tự Do như những gì Cha Con doãn Thường đã nói. Mà còn sống trong cảnh bóc lột thậm tệ.

    Dân Chúng khi hiểu ra sự lừa đảo của Cha Con Doãn Thường thời tài sản hết sạch tất cả đều là của nhà nước Trung Nguyên. Dân chúng được nhà nước Trung Nguyên chia cho có ruộng đất để canh tác làm ăn. Nhưng chỉ là nô lệ khéo làm công cho một địa chủ lớn là nhà nước Độc Tài Độc Trị. không có dư chỉ đủ sống mà thôi.

    Theo những gì Quốc Tổ Vua Hùng Dạy: Muốn có một đất nước thật sự Tự Do. Công Bằng, Bình Đẳng, Nhân Quyền Dân Chủ Văn Minh. Thời nhà nước Văn Lang thời Mạt Pháp Phải tự xóa bỏ Độc quyền, Độc Tài, Độc Trị. Tiến tới nhà nước Pháp Quyền. Nhà nước Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp là Vua của nước Văn Lang. Nền Quốc Đạo Dân Tộc. Còn Vương, Vua chỉ là người Đại diện tối cao của nước Văn Lang. Bảo vệ thi hành Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp nền Quốc Đạo Dân tộc. Thời nhà nước đó mới thật sự là nhà nước Pháp Quyền. Nhà nước của Dân do Dân và vì Dân. Nhà nước Công Bằng Dân Chủ Văn Minh.

    Cha Con Doãn Thường chỉ là xảo ngôn lừa đảo. Mưu đồ cướp lấy Bắc Văn Lang mà thôi. Khi chiếm lấy được Bắc Văn. Thời lộ bộ mặt Chồn Cáo lộ ra Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Tạo lên thể chế xin cho Tàn Bạo vô cùng. Và cuối cùng cũng đưa đến sự nhanh chóng hủy diệt. Đất nước Trung Nguyên không còn của Trung Nguyên mà Trở Thành Trung Quốc Phương Bắc. Những di tích Văn Hóa Văn Lang xóa sạch không còn. Thay vào đó là di tích Văn Hóa Phương Bắc.

    Điều đáng nói ở đây Dân Tộc Văn Lang đánh mất Văn Hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo dân tộc. Chạy theo Văn Hóa Phương Bắc. Đánh mất bản Sắc Văn Hóa Truyền Thống Dân Tộc. Thời nguy cơ mất nước sắp đến. Anh Hùng Lạc Cội. Chia bè rẽ phái nổi lên đòi tự trị tranh giành đất đai chém giết lẫn nhau. Tạo ra cảnh nồi da nấu thịt Anh Em tàn sát, tranh bá tranh hùng. Cuối cùng cũng rơi vào tay các thế lực ngoại xâm. Cũng như Cha Con Doãn Thường dâng Bắc Văn Lang cho Phương Bắc Nhà Chu, Thời Chu Nguyên Vương.

    Gương lịch sử thời xưa cũng như thời nay ở vào thời nào Dân Tộc Văn Lang. Hay Dân Tộc Việt Nam. Mà đánh mất Văn Hóa Cội Nguồn làm phai mờ truyền thống anh linh dân tộc. Chạy theo Văn Hóa ngoại lại cũng chính là lúc thời kỳ dẫn đến sự đen tối nhất. Dân chúng không còn đoàn kết được nữa dẫn đến chia bè rẽ phái chém giết lẫn nhau xưng hùng xưng bá. Cũng là lúc các thế lực ngoại xâm có cơ hội xâm lược đất nước Văn Lang hay đất nước Việt Nam. Bài học xương máu từ lịch sử Ông Cha. Mỗi lần cây mất gốc thời héo cành rũ ngọn. Mỗi lần nước không nguồn thời sông cạn đồng khô.

    Nói tóm lại: Cứ mỗi lần quên đi Quốc Tổ Vua Hùng. Quên đi truyền thống anh linh dân tộc. Là mỗi lần kiếp nạn xảy ra, binh đao máu lửa chém giết lẫn nhau, đói nghèo lạc hậu. Đạo đức xuống cấp thậm chí dẫn đến không còn lương tri nhân tính làm những điều tội lỗi không sao tưởng tượng được.

    * * *


    PHẦN 10
    Đây nói về Chủ Tướng Huỳnh Trung Kỳ thống lĩnh 8 vạn quân nhanh chóng đến Quan Hải Châu. Khi đại quân chỉ còn cách Quang Hải Châu mười dặm thời cho quân binh dừng lại. Huỳnh Trung Kỳ liền cho đội quân thám báo trinh sát đến Quang Hải Châu xem xét tình hình.

    Đội quân Thám Báo đi không bao lâu thời trở về báo:

    Bẩm Chủ tướng Quân phản loạn Trung Nguyên đang tấn công Quang Hải Châu, tình thế vô cùng nguy cập.

    Huỳnh Trung Kỳ nghe xong liền ra lệnh:

    Tô Vũ nghe lệnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh hai vạn quân đánh thẳng xuống cửa Tây Hải Châu. Tuân lệnh.

    Chu An nghe lệnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh hai vạn quân nhanh chóng từ cánh đông đánh bọc lên cửa phía đông thành Hải Châu. Tuân lệnh.

    Còn Huỳnh Trung Kỳ thống lĩnh bốn vạn quân đánh thẳng vào cửa chính Nam nơi có hơn 10 vạn quân chủ lực quân phản loạn Trung Nguyên.

    Đây nói về Tri Phủ Quang Hải Châu. Kỳ Thọ cùng ba người con là Kỳ Lộ, Kỳ Hội, Kỳ Duyên cố thủ Quang Hải Châu không chịu đầu hàng quân loạn tặc phản loạn.

    Ở trên thành chửi rủa bốn cha con Triệu Phàn:

    Thằng giặc Triệu Phàn kia. Ngươi theo Cha Con Doãn Thường cướp lấy Bắc Văn Lang xưng Vương. Xưng Chúa Phản bội lại non sông Tổ Quốc. Phản bội Quốc Tổ Vua Hùng tội ngươi đáng phanh thây xẻ thịt. Mau bỏ gươm giáo xuống quy hàng may ra còn mạng sống.

    Triệu Phàn cười ha hả nói:

    Thằng Kỳ Thọ ngu dốt kia thời đại Hùng Vương sắp hết rồi. Toàn là một lũ tham quan chỉ lo tửu sắc vơ vét của dân phá tan đất nước Văn Lang. Ông trời nổi giận mới sanh ra Chúa mới ra đời. Doãn Thường là Quốc Tổ đầu thai trở lại cứu dân tộc Bách Việt Văn Lang thoát khỏi bọn tham quan để lo cho dân cho nước sống được tự do ăn no mặc ấm. Mau thức thời mở cổng thành quy hàng, thời còn cái đầu để mà nhìn con nhìn cháu. Bằng không thời con gà con chó cũng không còn.

    Kỳ Thọ nghe Triệu Phàn nói Doãn Thường là Quốc Tổ đầu thời râu tóc dựng đứng lên quát như sấm nổ:

    Thằng Triệu Phàn kia ngươi dám hỗn láo đến Anh Linh Quốc Tổ. Quốc Tổ nào đầu thai tiêu diệt con cháu các Vua Hùng của mình. Chỉ có loài Ác Quỉ đầu thai cướp giang san Quốc Tổ thời có. Ta lạ gì Ông Cha ngươi ở phương Bắc đã từng giết Vua Nhà Tấn đại nghịch Ác Đạo. Đã bị tru di cửu tộc. Nếu không nhờ Phương Nam Văn Lang che chở thời làm gì dòng họ Triệu Ngươi hưng thịnh như ngày hôm nay. Không biết ơn các Vua Hùng có công dựng nước, có công giữ nước để cho ngươi hưởng lạc mà còn tạo phản. Theo ác quỉ manh tâm cướp lấy giang sang các Vua Hùng.

    Triệu Phàn quát:

    Ta không cướp lấy giang sang Vua Hùng mà là thay thế Quốc Tổ Vua Hùng tiêu diệt lũ tham quan các ngươi đã quên hết Cội Nguồn chạy theo Văn Hóa Phương Bắc bán đứng truyền thống đất nước Văn Lang. Nếu không giết sạch lũ tham quan các ngươi để các ngươi sống chỉ làm dơ bẩn đất nước Văn Lang mà thôi.

    Kỳ Thọ quát:

    Các ngươi không cướp lấy giang sang Vua Hùng thời Bắc Văn Lang, là Bắc Văn Lang. Sao các ngươi thay tên đổi xứ thành Trung Thổ, Việt Trung Nguyên.

    Triệu Phàn thua lý quát lớn:

    Nơi trận địa chỉ nói chuyện bằng gươm đao ta hạn cho Cha con Kỳ Thọ ngươi trong vòng ba ngày quy thuận Việt Vương Tế Gia thời sống. Bằng chống lại Việt Vương Tế Gia thời chết.

    Kỳ Thọ nhìn lên trời than rằng:

    Cướp nước nhờ lối xảo ngôn

    Lừa dân nhờ lối khéo khôn dụng từ

    Chánh Tà lẫn lộn mơ hồ

    Làm cho dân chúng lầm đường Tà Ma

    Vua Hùng thời bỏ lánh xa

    Yêu Tinh Quỉ Dữ ngợi ca tôn thờ

    Văn Lang đen tối mịt mờ

    Ôi thôi non nước dậy thời binh đao.

    Ba ngày trôi qua không thấy Cha Con Kỳ Thọ mở cửa thành đầu hàng. Triệu Phàn liền ra lệnh cho các chư hầu Vua Việt, Vua Giao Việt, Vua Loan Việt, Vua Khê Việt tấn công cửa Tây Thành. Vua Điền Việt, Vua Lạc Việt, Vua Lang Việt tấn công cửa Đông thành. Còn Bốn Cha Triệu Phàn thống lĩnh 10 vạn quân đánh trực vào cửa chính Nam thành.

    Quan Hải Châu không lớn lắm thành cũng chẳng cao. Đứng trên thành nhìn xuống thấy quân giặc đông như kiến chuẩn bị tấn công thành. Trong khi trong thành chỉ hơn một vạn quân. Quan Tri Phủ Kỳ Thọ nhìn lên trời thở dài.

    Kỳ Duyên nhìn thấy Cha thở dài như vậy nói:

    Thưa Cha bọn phản động dã tâm hiểm độc. Chúng muốn cướp lấy giang sang Quốc Tổ Vua Hùng biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Việt Trung Nguyên. Tội phản nghịch đã rõ. Con Cháu Rồng Tiên không bao giờ đầu hàng chúng. Lũ phản nghịch Phản bội đất nước Văn Lang dù cho mạnh đến đâu cũng không có gì là nao núng chỉ còn một hơi thở là xông lên chiến đấu quyết một còn một mất với quân phản loạn bất lương nầy.

    Kỳ Thọ nhìn đứa con gái thân yêu của mình nói những lời đầy chính nghĩa dũng cảm như thế lòng cảm thấy rất vui.

    Kỳ Thọ nói:

    Nếu cuộc chiến quyết tử hôm nay là cuộc chiến chống ngoại xâm thời hay biết mấy. Nhưng đây chỉ là một cuộc chiến Bách Việt Văn Lang tàn sát lẫn nhau không vẻ vang gì. Một cuộc chiến phải nói là vô cùng đau đớn nồi da nấu thịt. Nhưng không còn cách nào để lựa chọn đành phải tử chiến với quân loạn tặc phản loạn bảo vệ thành quả mà Ông Cha ta đã gầy dựng lên. Đất nước Văn Lang của Quốc Tổ Vua Hùng quyết không thể rơi vào tay quân loạn tặc phản loạn được. Không để cho Cha Con Doãn Thường cướp lấy thêm một tất đất nào nữa.

    Kỳ Lộ cũng nói:

    Sợ gì quân phản loạn sẳn sàng tử chiến với chúng.

    Kỳ Hội cũng nói:

    Non Sông Tổ Quốc nầy nào phải của Cha Con Doãn Thường khai dựng lập nên mà có từ thời Kinh Dương Vương dựng Nước Xích Quỷ, Văn Lang rồi đến bây giờ. Cha Con Doãn Thường muốn cướp lấy giang sang Văn Lang phải dẫm lên xác chết của chúng ta. Những kẻ phản loạn chúng chỉ lợi dụng hình ảnh Quốc Tổ làm bức bình phong che chắn tội ác phản loạn của chúng mà thôi tội ác bọn phản loạn đã rõ. Kẻ nào theo quân cướp nước thời coi như phản bội lại Ông Cha. Giết sạch chẳng tha. Dù chúng có mạnh đến đâu cũng không có gì đáng sợ. Chết Vinh hơn sống nhục. Chúng con sẵn sàng chiến đấu tới hơi thở cuối cùng. Nước Văn Lang chỉ có Quốc Tổ Vua Hùng là vì Quốc Tổ duy nhất khai dựng nước Văn Lang mà thôi. Không Trung Thổ Việt Trung Nguyên gì cả.

    Kỳ Thọ nghe các con nói những lời chính nghĩa như vậy lấy làm tự hào khen:

    Các con quả không mất đi dòng máu Tiên Rồng. Dòng máu anh hùng bất khuất.

    Kỳ Thọ thấy các con anh dũng sẵn sàng chiến đấu tới hơi thở cuối cùng liền phất cờ hiệu lệnh sẵn sàng tử chiến.

    Khẩu hiệu được truyền ra:

    Văn Lang là đất nước Văn Lang. Kẻ nào cướp lấy kẻ đó sẽ bị tiêu diệt.

    Thơ rằng:

    Quên mình thề giết quân Nguyên

    Dù cho ngã gục tiến lên sẵn sàng

    Dù cho quân giặc trùng trùng

    Theo gương Phù Đổng lẫy lừng năm xưa

    Đánh cho lũ giặc khiếp kinh

    Đánh cho phản loạn nát tan phen nầy

    Gươm đã sẵn trong tay tử chiến

    Nào hò reo liều chết huy sinh

    Tiến lên Tử chiến, tiến lên diệt thù.

    Triệu Phàn thấy Cha Con Kỳ Thọ ngoan cố không chịu đầu hàng mà còn sẳn sàng tử chiến liền phất cờ hiệu lệnh thổi còi tức thời pháo lệnh tấn công đã bắn lên trời. Quân phản loạn reo hò dậy trời dậy đất ào ào bắc thang trèo lên thành. Có sự yểm trợ của đội quân xạ tiễn, tên bắn lên thành như mưa.

    Quân binh Quang Hải Châu trên thành ra sức chống trả. Nhưng tình hình khó chống cự được lâu Quan Hải Châu sắp rơi vào tay quân phiến loạn. Trong lúc quả chuông treo sợi tóc thành Hải Châu mất đến nơi.

    Bỗng quân phiến loạn nghe quân binh trên thành Hải Châu reo hò vang dậy:

    Quân cứu viện đến rồi, quân cứu viện đến rồi.

    Tinh thần quân binh dân cao chống trả quyết liệt. Nói về quân phiến loạn thấy quân Văn Lang kéo tới từ phía sau đánh thốc lên như vũ bão. Gươm đao giáo mác dậy trời. Quân loạn tặc phiến loạn chưa lấy được thành bị quân Văn Lang đánh tới tấp nên có bề yếu thế. Quân binh trên thành liền chiếm lại ưu thế. Phản công dữ dội la hét dậy trời.

    Bắt sống Triệu Phàn

    Bắt sống Triệu Phàn

    Đi theo bè lũ quỉ yêu tinh

    Một bọn phản nòi quân khác máu

    Quét sạch chúng đi tiến lên tiến lên.

    Nói về Tô Vũ thống lĩnh hai vạn quân nhanh chóng tiến thẳng đến cửa Tây Hải Châu đánh từ phía sau địch đánh tới làm cho quân giặc rối loạn. Vua Giao Việt, Vua Loan Việt, Vua Khê Việt không còn sức đâu mà tấn công thành, bằng quay sang điều khiển quân binh chống trả lại quân Văn Lang từ sau đánh tới.

    Cùng lúc ấy cửa Đông Hải Châu trận chiến đã xảy ra dữ dội Vua Điền Việt, Vua Lạc Việt, Vua Lang Việt thúc quân binh chống trả lại quân Văn Lang từ phía Đông bọc sau đánh tới như vũ bão. Vua Giao Việt, Vua Loan Việt, Vua Khê Việt huy động quân binh toàn lực lượng chận đứng quân Văn Lang tràn tới như nước vỡ bờ. Vua Giao Việt thấy Tướng Văn Lang cỡi con ngựa đen múa trường đao chém quân phản loạn như chém chuối. Liền cỡi ngựa xông tới múa giáo chém tới.

    Chu An thấy vua Giao Việt chận đánh mình, liền quát lên như sấm nổ hét lớn:

    Quân phản loạn nạp mạng.

    Phi ngựa múa đao chém tới Vua Giao Việt. Vua Giao Việt múa giáo chống trả. Đường đao Chu An như rồng bay phụng múa chém tới như mưa sa bão táp. Vua Giao việt đánh không lại sắp bị đánh bại tới nơi. Vua Lạc Việt từ xa thấy thế phi ngựa đến trợ lực giao chiến. Hai người đánh một đao giáo dậy trời.

    Khi ấy nơi miếu Thổ Thần gần đó cách không xa trận chiến có một số Anh Linh Tướng sĩ ở các thời Vua Hùng nhìn thấy cảnh Bách Việt Văn Lang chém giết dậy trời thời không khỏi thở dài. Bỗng một hồn thiêng anh linh Tướng Sĩ ngân bài thơ rằng:

    Thời mạt vận Văn Lang nội chiến

    Thôn tính nhau chém giết lẫn nhau

    Chiến trường máu đổ đầu rơi

    Thắng thua, thua thắng biển trời thê lương

    Văn Lang ơi hỡi Văn Lang

    Vì đâu nên bởi chiến tranh thế nầy

    Chiến trường bỏ mạng khắp đầy

    Thắng thua, thua thắng cuộc hề loạn li.

    Nói về Phó Tướng Lý Hạo thúc quân binh Văn Lang xông lên chém quân loạn tặc phản loạn ầm ầm. Vua Việt Lang thúc quân loạn tặc phản loạn chống trả. Chiến trường ngựa hí quân reo gươm đao giáo mác dậy trời, hai bên xáp lá cà thi nhau mà chém. Thây người thi nhau ngã gục thê thảm hãi hùng.

    Nơi Miếu Thổ Thần các Anh Linh Tướng Sĩ nói:

    Dân tộc Bách Việt Văn Lang tàn sát lẫn nhau, chúng ta khó mà giúp bên nào vì tất cả là Đồng Bào anh em chúng ta, dù biết rằng đó là quân loạn tặc phản loạn. Thôi thời mặc cho huyền cơ số phận dân chúng Văn Lang vậy.

    Thơ rằng:

    Nguồn Cội mất nước non nguy khốn

    Cảnh Đồng Bào chém giết lẫn nhau

    Chiến tranh loạn lạc biết bao

    Thây phơi chật đất núi sâu hận thù

    Bởi lạc Nguồn chia bè rẽ phái

    Bởi tham tàn xưng bá xưng vương

    Chiến trường mạnh được yếu thua

    Thắng Vua, thua Giặc còn chi đạo trời

    Gươm đao gào thét hãi hùng

    Văn Lang Bách Việt chiến trường thây phơi

    Sự thật là thế ai ơi

    Sử Kinh để lại cho đời soi xem.

    Nói về Lý Hạo thấy Vua Việt Lang hung dữ thúc quân loạn tặc phản loạn chống trả lại quân Văn Lang chém quân Văn Lang tới tấp. Lý Hạo hét lên một tiếng như sấm nổ phi ngựa lao tới chém Vua Việt Lang. Vua việt Lang múa giáo chống trả. Hai bên đánh với nhau một mất một còn giáo đao choảng nhau đinh tai nhức óc. Lý Hạo giả thua bỏ chạy Vua việt Lang đổi theo, bất ngờ Lý Hạo quay ngược trở lại chém một đao, Vua Lang Việt tránh không kịp nhào xuống ngựa hồn du Địa Phủ.

    Quân Văn Lang thắng thế hò hét xông lên chém quân loạn tặc phản loạn tơi bời. Quân phản loạn tặc phản loạn đạp lên nhau bỏ chạy thây người ngã gục lớp lớp.

    Thơ rằng:

    Ôi thôi sanh mạng còn gì

    Văn Lang Bách Việt kể gì giết nhau

    Nhìn xem mà thấy lòng đau

    Đầu rơi máu đổ vứt thây khắp cùng

    Cũng vì tranh bá tranh hùng

    Hồn sa Địa Phủ hết còn siêu sanh.

    Muốn cứu vãn đất nước thoát khỏi sự kìm kẹp của ngoại bang cũng như tránh khỏi cuộc binh đao máu lửa nội chiến. Tìm lại con đường Độc Lập Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng, Nhân Quyền Dân Chủ Văn Minh. Không phải bằng con đường bạo lực mạnh được yếu thua. Thắng xưng là Vua, thua cho là Giặc. Xem đi xét lại Giặc với Vua cũng chỉ là một thứ. Mà giải quyết bằng con đường Văn Hóa. Tránh con đường chém giết lẫn nhau. Tranh Hùng Tranh Bá. Mạnh ai cũng tự cho mình là chính nghĩa. Mà là tất cả đồng trở về Cội Nguồn TÔN THỜ QUỐC TỔ vun đắp cái gốc Cội Nguồn Dân Tộc lên cao. Thời Tự nó nở cành xanh ngọn tự nó giải quyết tất cả mọi mâu thuẫn. Giải quyết tất cả mọi xung đột giải, quyết đói nghèo lạc hậu. Khi sức mạnh tinh thần đoàn kết toàn Dân Tộc đã có. Chính nghĩa đã sung đầy tự đứng vững trên đôi chân của chính người Đại Việt. Nội Lực hùng mạnh. Thời màng đêm ách thống trị ngoại ban sẽ tan biến không còn. Hãy đi theo con đường Quốc Tổ. Con đường bất chiến tự nhiên thành. Nghĩa là mỗi người dân Việt Nam tôn vinh Cội Nguồn, TÔN THỜ QUỐC TỔ Phát huy truyền thống anh linh dân tộc. Thời kiếp nạn dân tộc sẽ tai qua nạn khỏi. Bỏ mất cội Nguồn, quên đi truyền thống anh linh dân tộc, thời bóng u minh sẽ trùm xuống non sông Tổ Quốc ngay. Yêu tinh quỉ dữ sẽ nhân cơ hội nầy mà đầu thai làm người khởi động bộ máy chiến tranh. Lôi kéo con cháu Tiên Rồng vào cảnh nồi da nấu thịt. Như Kinh Văn đã nói trên.

    * * *
     
  18. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    PHẦN 11
    Nói về Chu An một mình đánh với Vua Điền Việt, Vua Lạc Việt. Có vẻ hơi yếu thế nếu kéo dài trận chiến sẽ bị Vua Điền Việt, Vua Lạc Việt đánh bại. Chu An trổ hết thần oai uy dũng quyết một còn một mất đường đao chém tới véo véo kinh hồn. Vua Điền Việt, Vua Lạc Việt múa giáo quyết hạ gục Chu An trận chiến càng lúc càng dữ dội.

    Bỗng từ xa một dũng Tướng phi ngựa tới hét lớn chém Vua Điền Việt. Vua Điền Việt bận lo chống đỡ đao pháp Chu An chém tới như mưa nên không tránh kịp đao pháp bất ngờ chém tới liền trúng một đao ngã nhào xuống ngựa chết tốt. Vua Lạc Việt kinh khiếp định bỏ chạy nhưng không còn kịp bị Chu An chém một đao ngã nhào hồn lìa khỏi xác.

    Quân Văn Lang thắng thế như nước vỡ bờ ào ào lao tới chém quân loạn tặc phản loạn như chém chuối. Thây phơi như rạ quân loạn tặc phản loạn thi nhau bỏ chạy bán sống bán chết. Quân Văn Lang không đuổi theo mà đánh bọc hậu lên cửa Nam thành dồn đại quân loạn tặc phản loạn Trung Nguyên vào giữa.

    Cùng lúc ấy Tô Vũ xua quân đánh xuống cửa Tây như thác lũ. Vua Giao Việt thấy Tôn Vũ uy dũng vô song múa trường đao như mưa sa bão táp chém quân loạn tặc phản loạn như chém chuối. Vua Giao Việt múa song chùy phi ngựa xông tới đánh Tô Vũ. Hai Hổ giao tranh kẻ đao người chùy đánh với nhau cát bay đá chạy bụi đất mịt mù.

    Bỗng nghe một tiếng quát như sấm nổ. Vua Khê Việt múa cặp búa chém tới Tô Vũ thế là ba con Hổ đánh nhau chí tử. Tô Vũ một mình đánh không lại hai người chém bậy một Đao rồi bỏ chạy.

    Bỗng một tiếng quát như sấm nổ:

    Có phó tướng Hầu Bưu đây.

    Hầu Bưu liền chận đánh Vua Việt Khê. Vua Việt Khê ủy sức mạnh múa cặp búa ù ù chém tới. Hầu Bưu múa thương chống đỡ hai bên đánh nhau long trời lở đất. Tô Vũ quày ngựa trở lại múa trường đao chém vào Vua Giao Việt như mưa. Vua Giao Việt múa Song Chùy chống trả hai bên đánh nhau mù trời mịt đất.

    Bỗng một người xuất hiện Tô Cẩn con trai lớn Tô Vũ dương cung bắn một phát Vua Giao Việt trúng tên ngã nhào xuống ngựa Tôn Vũ dớt một đao bay đầu. Tô Cẩn lại dương cung bắn một phát nữa Vua Khê Việt trúng tên ngay cổ ngã nhào xuống ngựa Hầu Bưu dớt cho một thương Vua Việt Khê hồn du địa phủ.

    Vua Lang Việt kinh hồn bạt vía phi ngựa bỏ chạy. Quân Văn Lang thắng thế ào ào lao tới chém quân phản loạn tặc phản như chém chuối chết la chết liệt, quân phản loạn đạp lên nhau bỏ chạy. Quân Văn Lang không đuổi theo từ phía Tây bọc xuống cửa Nam đánh bọc sau lưng quân chủ lực loạn tặc phản loạn của địch đánh tới ép mười vạn quân loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên vào giữa.

    Thơ rằng:

    Giáo, đao, xối xả ầm ầm

    Tên bay chùy nện đùng đùng khiếp kinh

    Văn Lang kiếp nạn bủa vây

    Đầu rơi máu đổ giết nhau tương tàn

    Đồng Bào thê thảm Khốn cùng

    Văn Lang ơi hỡi còn gì Văn Lang

    Truyền thống mờ mịt nát tan

    Còn đâu yên ổn cháu con Lạc Hồng

    Truyền thống lệch lạc phai mờ

    Tương tàn chém giết hãi hùng biết bao

    Hỏi Trời hỡi tại làm sao

    Cội Nguồn vứt bỏ biết bao khốn cùng

    Nước non chinh chiến kinh hoàng

    Tranh giành quyền lực để rồi hại nhau.

    Đây nói về Chủ Tướng. Huỳnh Trung Kỳ thống lĩnh bốn vạn quân tiến thẳng đến cửa Nam Quang Hải Châu còn cách hơn mười dặm thời dừng lại. Cho quân trinh sát đi dọ thám.

    Không bao lâu thời quân dọ thám trở về báo:

    Bẩm Chủ Tướng, Quang Hải Châu sắp bị tấn công.

    Huỳnh Trung Kỳ nhanh chóng điều động quân binh:

    Trương Nhân Tướng Quân nghe lệnh: Có thuộc hạ Tướng Quân tức tốc thống lĩnh một vạn quân nhanh chóng đánh vào cánh tả quân chủ lực loạn tặc phản loạn. Tuân Lệnh.

    Bảo Đồng Tướng Quân nghe lệnh: Có thuộc hạ Tướng Quân tức tốc thống lĩnh một vạn quân nhanh chóng đánh vào cánh hữu quân chủ lực loạn tặc phản loạn. Tuân lệnh.

    Huỳnh Trung Kỳ nhanh chóng thống lĩnh hai vạn quân đánh thẳng vào trung đạo cửa Nam quân loạn tặc phản loạn khí thế hừng hực.

    Đây nói về Triệu Phàn ra lệnh tấn công Quang Hải Châu cửa thành sắp bị phá vỡ Quang Hải Châu sắp bị hủy diệt.

    Triệu Phàn ngửa mặt lên trời cười ha hả:

    Những kẻ chống lại bổn soái thời con gà con chó cũng không còn.

    Triệu Phàn nghĩ là mình sẽ chiếm được Quang Hải Châu hơn tiếng nữa. Bất ngờ thấy quân binh trên thành Hải Châu reo hò vang dậy:

    Quân Văn Lang đến rồi, đền rồi.

    Quân binh trên thành phản công dữ dội. Triệu Phàn chưa hiểu nép tẻ gì cả thời có một tướng phi ngựa đến báo:

    Bẩm Thượng Quân Nguyên Soái quân Văn Lang đã tấn công cửa Đông cửa Tây rồi quân ta đang chống trả quyết liệt.

    Triệu Phàn nghe xong vô cùng kinh hãi. Triệu Phàn nghe chiêng trống nổi dậy vang trời hình như quân Văn Lang bủa vây tứ phía.

    Triệu Phàn chưa biết xử trí ra làm sao thời thấy một tướng lĩnh khác phi ngựa tới báo:

    Bẩm Nguyên Soái quân Văn Lang đang tấn công vào cánh hữu cánh tả quân ta như vũ bão.

    Triệu Phàn thất kinh hét lớn ra lệnh cho Triệu Quân mau thống lĩnh quân binh chống trả lại quân cánh tả Văn Lang. Triệu Quân nhanh chóng cùng mấy viên tướng phi ngựa đến cánh tả thời thấy quân Văn Lang như nước vỡ bờ ào ào xông tới chém giết ầm ầm.

    Triệu Phàn không ngờ quân Văn Lang không những hùng mạnh mà còn kéo đến tấn công nhanh chóng như cơn bão lốc. Liền ra lệnh Triệu Hàn cùng một số tướng lĩnh điều khiển quân binh chống trả lại quân cánh hữu Văn Lang như cơn bão đánh thốc tới.

    Triệu Phàn chưa kịp trở tay thời quân Văn Lang từ Trung Đạo chính diện ào ào kéo đến như nước vỡ bờ, gươm đao giáo mác chiêng trống dậy trời dậy đất, cờ xí lớp lớp. Triệu Phàn không còn cách nào hơn là thúc quân giao chiến.

    Cùng lúc ấy Triệu Anh phi ngựa tới nói:

    Thưa Cha quân Văn Lang đánh bại quân ta cửa Đông Cửa Tây rồi đang đánh bọc hậu đánh tới rất mạnh. Không những thế quân Hải Châu từ thành tràn ra kết hợp với quân Văn Lang bao vây vây tứ phía đánh tới tấp rất mạnh quân ta chống đỡ không nổi.

    Triệu Phàn kinh hoảng bắn pháo lệnh rút lui chạy về Hạt Linh Giao Châu. Quân Văn Lang rượt đuổi chém giết tơi bời. Bốn cha con Triệu Phàn chạy bán sống bán chết ngã gục la liệt khắp dọc đường.

    Triệu Phàn khiếp vía than rằng:

    Thôi hết rồi.

    Triệu Phàn vừa than xong thời trên hư không bỗng xuất hiện một con quái vật đầu Sấu đuôi Rồng Quái Vật Thuồng Luồng hóa ra một trận cuồng phong đen trời mịt đất che chở cho quân loạn tặc phản loạn. Quân Văn Lang bị trận quái phong đánh bật trở lui vô cùng khiếp đảm. Cũng may lúc ấy trên hư không bỗng vang lên tiếng sấm lớn. Con thuồng luồng khiếp sợ biến mất. Quân Văn Lang liền thoát kiếp nạn của trận cuồng phong quái ác khủng khiếp ấy.

    Nói về Huỳnh Trung Kỳ, Tô Vũ, Chu An thúc quân rượt đuổi quân phản loạn Trung Nguyên, không ngờ bị cuồng phong chận đứng.

    Thời than rằng:

    Cơ trời không cho ta tiêu diệt quân loạn tặc phản loạn Trung Nguyên.

    Thời biết rằng Bách Việt Văn Lang rơi vào cảnh đại họa vì kiếp nạn Yêu Tinh Quỉ Dữ không sao tránh khỏi. Huỳnh Trung Kỳ bằng thu quân trở lại Quang Hải Châu địa đầu Trung Văn Lang tiếp giáp với Bắc Văn Lang. Đóng quân trấn giữ tại đây không cho quân loạn tặc phản loạn Trung Nguyên tiến quân chiếm đánh Trung Văn Lang.

    Thơ rằng:

    Nước loạn vì đâu phải có căn

    Nào phải tự nhiên có chị Hằng

    Mất Nguồn lạc Cội sanh nguy biến

    Nước non đen tối họa kiếp chen.

    Nói về Triệu Phàn bị quân Văn Lang đánh tả tơi thu quân chạy bán sống bán chết. Nếu không nhờ trận cuồng phong đẩy lùi quân Văn Lang thời không biết sẽ thảm họa ra sao thở dài nói:

    Quân Văn Lang quả là lợi hại không dễ gì đánh bại được.

    Triệu Phàn điểm quân lại thời đi tiêu hơn hai vạn. Chưa kể cánh Đông, cánh Tây thiệt mạng hơn phân nửa. Các Vua Việt đều bỏ mạng tại sa trường. Chi bằng cố thủ Đông Nam Bắc Văn Lang vững chắc thời hay hơn.

    Liền kêu Triệu Quân đến nói:

    Con điểm hai vạn quân đến trấn thủ Lạc Trung Giao Châu. Kết hợp với quân Lạc Việt cũng cố thành trì. Không cho quân Văn Lang tiến ra địa phận Bắc Văn Lang.

    Triệu Quân theo lệnh Triệu Phàn nhanh chóng điểm hai vạn quân đến Lạc Trung Giao Châu.

    Triệu Phàn gọi Triệu Hàn đến nói:

    Con điểm hai vạn quân nhanh chóng đến Liễu Giang Châu. Kết hợp với quân Liễu Việt cũng cố thành trì vững chắc không cho quân Văn Lang tiến ra Bắc Văn Lang.

    Triệu Hàn liền nhanh chóng điểm hai vạn quân đến trấn thủ Liễu Giang Châu.

    Triệu Phàn cùng Triệu Anh thống lĩnh bốn vạn đến Hạt Linh Giao Châu, kết hợp với quân Linh Việt củng cố thành trì ngăn cản quân Văn Lang không cho quân văn Lang tiến ra Bắc Văn Lang.

    Nói về các vua Việt tử nạn con lên thay thế trấn thủ Nam Hải Giao Châu, Dạ Loan Châu, Thất Khê Châu, Đình Hải Châu, Cái Hải Châu, Hạ Giang Châu. Quyết phò Cha con Doãn Thường chống trả lại Hùng Vương. Vì cho rằng Hùng Việt Vương Tuân Lang, không làm theo di chí Quốc Tổ chỉ lo củng cố quyền lực Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị của mình không lo gì đến dân chúng Bách Việt Văn Lang nữa cần loại bỏ thay thế Quốc Vương mới. Và Cha Con Doãn Thường là Thần tượng để cho dân chúng tôn thờ.

    Phần đông dân chúng Bách Việt Bắc Văn Lang vì nghe theo lời lừa phỉnh của Cha Con Doãn Thường cho rằng Thời Đại Hùng Vương đã mạc phải thay thế thời đại mới. Dân chúng Bắc văn Lang nghĩ Cha Con Doãn Thường là hiện thân của Minh Quân không khác gì Quốc Tổ thời dựng nước Văn Lang. Nhưng dân chúng Bắc Văn Lang nào có hiểu. Một sự âm mưu lớn của Dòng Họ Vũ đã trải qua nhiều đời. Kể từ khi Vua Vũ từ phương Bắc thời Vua Kiệt di cư đến đất Bắc Văn Lang. Mưu đồ làm Vương nước Văn Lang.

    Đây nói về Đồng Bào dân chúng Bách Việt Văn Lang vô cùng khốn khổ bởi chiến tranh chia cắt Bắc Nam dân chúng qua lại không được. Có những người Mẹ nhớ con ở Bắc. Người Ông người Cha nhớ con ở Nam ngày đêm ràn rụa nước mắt.

    Trong số người nhớ con ấy có một vị kỳ nhân tài trí vô cùng tên là Văn Bát không theo quân loạn tặc phản loạn, cũng không ra giúp cho Vua Hùng vì chán ngán thế sự anh em Bách Việt Đồng Bào tương tàn lẫn nhau.

    Sau có thơ rằng:

    Nghĩ đời mà ngán cho đời

    Từ đây Nam – Bắc tương tàn giết nhau

    Nghĩ đời càng nghĩ càng đau

    Văn Lang đất Bắc còn đâu một nhà

    Biến thành Trung Thổ mất rồi

    Tranh Giành chém giết dân tình đảo điên

    Rồng Tiên ơi hỡi Rồng Tiên

    Lạc Nguồn Lạc Cội đảo điên cơ đồ

    Đồng bào chung một Cội Nguồn

    Quên đi Nguồn Cội tranh giành hại nhau

    Thánh Thần trông thấy đớn đau

    Thắng thua, thua thắng nhục vinh cuộc hề

    Chia bè nổi loạn ê chề

    Lạc vào Ác Đạo linh hồn còn chi

    Muôn đời vạn kiếp vùi chôn

    Khắp nơi Địa Phủ dập dồn nạn tai

    Ác gieo Ác gặt chuyển xây

    Khổ chồng lên khổ biết bao khốn cùng

    Quên Nguồn quên Cội lạc đường

    Nước non, non nước ngập tràn binh đao.

    Ở vào thời Quốc Tổ Hùng Vương dựng nước không có sự Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Mà tất cả đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Dân Tộc. Sự hiện thân của Nhà nước chính là sự hiện thân Công Lý. Thực thi Công Lý đêm lại sự Công Bằng, Bình Đẳng, Văn Minh của Xã Hội. Từ bỏ Độc quyền, Độc Tài, Độc Trị. Đó là cái phúc cho toàn Dân Tộc, tránh đi bao tai họa lặp đi lặp lại tranh danh đoạt lợi binh đao máu lửa. Xây dựng lên Nhà Nước Pháp Quyền. Nhà Nước của Dân do Dân và vì Dân. Như từ buổi khai dựng lập lên nước Văn Lang. Hai chữ Đồng Bào thiêng liêng. Bách Việt Văn Lang sống trong Công Bằng, Bình Đẳng. Không có Sự Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Mà sống theo Nhân quyền Dân Chủ Văn Minh. Nhà Nước thật sự của Dân do Dân và vì Dân. Là Nhà nước Pháp Quyền. Tất cả đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp nền Quốc Đạo dân tộc. Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Luật Vũ Trụ, Thiên Ý Cha Trời chính là Kim Chỉ Nam cho sự phát triển xã hội, tiến tới dân giàu nước mạnh Nhân Quyền, Dân Chủ, Công Bằng, Bình Đẳng Văn Minh.

    * * *


    PHẦN 12
    Đây nói về Văn Khánh Thống Soái. Theo lệnh Hùng Việt Vương, Tuân Lang. Thống Lĩnh 30 vạn quân tiến về Bắc Văn Lang tiêu diệt quân phản tặc phản loạn Cha Con Doãn Thường dấy loạn chiếm Bắc Văn Lang biến thành thuộc địa Trung Nguyên. Đại quân đi đến Vân Giao Châu thời chia ra làm ba đạo quân chủ lực.

    Đạo quân cánh tả do Chủ Tướng Lê Quang chỉ huy, thống lĩnh 8 vạn quân tiến thẳng đến Âu Tây Châu.

    Đạo quân cánh hữu do Chủ Tướng Huỳnh Trung Kỳ chỉ huy thống lĩnh 8 vạn quân tiến thẳng đến Quang Hải Châu.

    Còn đạo quân chủ lực Văn Khánh thống soái thống lĩnh 14 vạn quân trực tiếp chỉ huy tiến tới Tiên Châu, Bạch Lang Châu quyết tiêu diệt cho được quân loạn tặc phản loạn. Khi đại quân chỉ còn cách Tiên Châu hơn 10 dặm thời thống soái Văn Khánh cho đại quân dừng nghỉ. Thống soái ra lệnh cho đội quân thám báo xem xét tình hình Tiên Châu và Bạch Lang Châu rồi mới tiến quân.

    Đội quân thám báo đi không bao lâu thời trở về báo:

    Bẩm thống soái Bạch Lang Châu đã bị quân phản loạn Trung Nguyên chiếm mất rồi. Còn Tiên Châu thời quân phản loạn Trung Nguyên đang bao vây trùng trùng lớp lớp có lẽ chuẩn bị tấn công đến nơi.

    Văn Khánh nghe xong liền điều động quân chủ lực chia làm hai đạo quân. Một đạo quân tiến đánh lấy lại thành Bạch Lang Châu. Một đạo quân tiến đánh quân phản tặc loạn đảng Tiên Châu.

    Chủ tướng Võ Hầu nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh 7 vạn quân tới Bạch Lang Châu ngay trong đêm tối nay nhân lúc quân phản loạn mới chiếm được thành còn hỗn loạn chưa ổn định. Bất ngờ tiến quân vào thành quét sạch tiêu diệt quân loạn tặc phản loạn. Tuân Lệnh.

    Lương Minh nghe lịnh. Có thuộc Hạ. Tướng quân thống lĩnh 2 vạn quân nhanh chóng bọc lên phía Tây thành Tiên Châu đánh xuống sau lưng quân loạn tặc phản loạn. Tuân Lệnh.

    Lưu Hà nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh 2 vạn quân bọc từ phía Đông thành Tiên Châu đánh bọc lên sau lưng địch. Tuân Lệnh.

    Còn thống soái Văn Khánh thời thống lĩnh 3 vạn quân nhanh chóng bất ngờ đánh thẳng vào sau lưng địch vào cửa chánh Nam Tiên Châu.

    Đây nói về quân phản loạn tặc phản loạn. Quan Đại Phu Chủng Hầu. Cùng Quan Trung Lang Giá Chữ thống lĩnh 5 vạn quân đánh chiếm Bạch Lang Châu. Chủng Hầu, Giá Chữ dùng loa kêu gọi Cha con Thạch Trung Sơn đầu hàng.

    Chủng Hầu lớn lối kêu gọi rằng:

    Quân Bạch Lang Châu cùng Quan Tri Phủ nghe đây. Niên Đại Hùng Vương sắp hết. Niên Đại Việt Vương Tế Gia ra đời. Thần linh ứng cơ dạy như thế. Các quẻ ứng nghiệm không sai mau thức thời bỏ thời đại Hùng Vương mà theo thời đại Việt Vương Tế Gia. Thời cái đầu trên cổ vẫn còn. Không chừng còn được làm quan trở lại. Còn bằng trái lại cơ trời thời không ai còn sống sót.

    Ở trên thành Thạch Trung Sơn thấy quân loạn tặc phản loạn phát loa kêu gọi quân Bạch Lang Châu đầu hàng với lời lẽ vô đạo đức như vậy cũng như lợi dụng vào Thần Linh Ứng Quẻ hết sức lợi hại những người nhẹ dạ cả tin sẽ ngả lòng theo.

    Thạch Trung Sơn bằng phát loa nói rằng:

    Lời kêu gọi bọn loạn tặc phản loạn các ngươi chỉ là lời Ma lời Quỉ nói những lời bất Trung bất Nghĩa. Phản dân hại nước. Các ngươi sẽ bị quả báo cho những sự sai lầm phản phúc theo loạn tặc Phản Loạn Cha Con Doãn Thường. Các ngươi sẽ bị trời tru đất diệt.

    Chủng Hầu, Giá Chữ chỉ Thạch Trung Sơn quát:

    Thằng Thạch Trung Sơn ngu si kia. Không biết thức thời là gì cả. Việt Vương Tế Gia là đấng con trời sanh xuống. Nay mai sẽ làm chủ nước Văn Lang. Xóa bỏ Độc Tài, Độc Trị, xóa bỏ bè lũ tham quan hại dân hại nước. Dân chúng sẽ được tự do an hưởng thái bình.

    Thạch Trung sơn quát lớn:

    Hai thằng Chủng Hầu, Giá Chữ ngu dốt kia ngươi là con cháu Tiên Rồng. Con Dân Văn Lang theo loạn tặc. Phản bội lại truyền thống anh linh Dân Tộc. Phản bội lại Vua Hùng thời coi như hết đời rồi mau quay đầu lại là bờ bến bằng không, không còn cái đầu để mà thấy vợ con.

    Chủng Hầu, Giá Chữ nghe Thạch Trung Sơn nói thế cười ha hả nói:

    Ta không cần biết là ai đúng ai sai ai Tà ai Chính Chỉ cần thắng là vua thua là giặc. Bắc Văn Lang nay thuộc về Việt Vương Tế Gia. Không còn của Hùng Vương nữa Bắc Văn Lang trở thành đất Việt Trung Nguyên, không còn là đất Văn Lang, nói cho đúng là nhà nước Văn Lang sẽ xóa sổ thay vào đó là nhà nước Việt Trung Nguyên ra đời.

    Thạch Trung Sơn nghe Chủng Hầu, Giá Chữ nó thế thời vô cùng tức giận hét lớn:

    Bọn phản loạn mất hết lương tâm lương tri kia ta không thể nói bằng lý lẽ với các ngươi được nữa chỉ nói bằng gươm, đao, giáo, mác mà thôi. Trung Sơn Ta nhất quyết không đầu hàng sẵn sàng quyết tử với quân phản loạn tặc phản loạn các ngươi.

    Liền ra lệnh cho quân binh ráng ra sức cố thủ cung thành chờ quân Văn Lang đến cùng. Không ngờ tối hôm ấy vào lúc nửa đêm bỗng nghe quân loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên tràn vô thành như nước vỡ bờ. Các cửa thành đã mở toang quân binh trong thành không chống cự lại nổi thi nhau ngã gục có số đầu hàng.

    Khi ấy trong thành có năm vị Bố Chánh Đại Nhân Tri Huyện trong đó có Bố Chánh Tri Huyện Bảo Trung chạy tới chỗ Cha Con Tri Phủ Thạch Trung Sơn nói:

    Cha Con Hồ Phĩ, Hồ Lũ, Hồ Bão phản rồi.

    Thấy tình thế vô cùng nguy cập mau trốn đi. Tri Phủ Thạch Trung Sơn không kịp di chuyển vợ con. Bằng theo đường hầm bí mật thoát ra khỏi thành Bạch Lang Châu nương theo đồi gò trốn vào rừng. May sao gặp được quân Văn Lang như đã nói trên.

    Chủng Hầu, Giá Chữ chiếm được thành đang thúc quân ráo riết tìm Cha Con Thạch Trung Sơn. Hồ Phỉ bắt cả gia quyến của Thạch Trung Sơn đến giao nạp cho Chủng Hầu, Giá Chử.

    Chủng Hầu, Giá Chữ nhìn thấy hai người con gái xinh đẹp hỏi:

    Hai người con gái nầy là ai?

    Hồ Phỉ nghe hỏi cúi đầu khom lưng nói:

    Bẩm nhị vị Quan Đại Phu. Hai người con gái nầy chính là hai con dâu của Thạch Trung Sơn.

    Giả Chữ, Chủng Hầu vốn là tay háo sắc, thấy thứ Nữ Chân Kiều da trắng như tuyết, lưng eo, ngực lớn, mông nở. Thời có vẻ thèm khác vô cùng khen Hồ Phỉ không hết lời.

    Giá Chữ, Chủng Hầu ra lịnh giam tất cả bọn chúng lại. Nhất là hai cô nầy cho ăn uống tử tế tắm rửa sạch sẽ để nhị quan gia thưởng thức.

    Mặt trời buông xuống nhưng tiếng quân binh loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên vẫn sùng lục khắp nơi. Tìm những tên quân binh đang trốn trong kẹt cửa xó nhà lôi ra chém giết. Đàn bà con gái trong thành bị quân binh hảm hiếp thê thảm vô cùng. Chúng thi nhau vơ vét châu báu cướp của giết người. Những ai đầu hàng theo quân loạn tặc phản loạn thời chúng tha. Còn tất cả thời bị giết sạch.

    Giá Chữ, Chủng Hầu đang hảm hiếp Thứ Nữ, Chân Kiều vô cùng thích thú.

    Thơ rằng:

    Con người đó cũng con người đó

    Lạc Cội Nguồn đã hóa Yêu Tinh

    Hung tàn bạo ác vô biên

    Mất đi nhân tính trở nên hung tàn

    Lạc Cội Nguồn linh hồn hóa quỉ

    Mất lương tâm chẳng nghĩ Ông Cha

    Cuồng dâm phản loạn ác tà

    Hung sùng ác sát kể gì anh em

    Đời ăn cướp còn chi chính nghĩa

    Phản non sông hí hửng xưng danh

    Mặt dày đến hết chỗ chê

    Làm quân loạn tặc cũng khoe anh hùng

    Luật nhân quả khó mòng chạy thoát

    Ác gieo ra quả báo đến nơi

    Chạy đâu thoát khỏi cơ trời

    Xương tan thịt nát để rồi mà xem.

    Đây nói về Chủ Tướng Võ Hầu. Thống lĩnh 7 vạn quân kéo đến Bạch Lang Châu, chỉ còn 8 dặm nữa thời tới Bạch Lang Châu Võ hầu liền cho quân dừng lại im hơi lặng tiếng ra lệnh cho đội quân thám báo đến Bạch Lang Châu dọ thám xem xét kỷ tình hình. Chờ cho trời tối mới tiến quân tấn công quân phản loạn đang chiếm lấy Bạch Lang Châu.

    Nói về quân thám báo chia nhau nhiều hướng lặng lẽ âm thầm phi thân trong màn đêm đến Bạch Lang Châu. Đội Trưởng thám báo là Vũ Tùng đang phi thân vùn vụt nương theo những lùm cây thời phát hiện có người ẩn núp. Vũ Tùng ra lệnh cho quân thám báo nhanh chóng bao vây tóm cổ chúng, đội quân thám báo là những người không những võ nghệ cao cường mà thuật kinh công cũng siêu đẳng, tuy trời đã sẩm tối nhưng những người thám báo hành động lợi hại vô cùng họ tóm được ngay ba người ẩn núp trong bụi rậm trên đồi gò cao.

    Vũ Tùng hỏi gì ba người ấy cũng không nói liền cho người trói lại dẫn đến gặp Chủ Tướng Võ Hầu. Chủ Tướng Võ Hầu nhìn ba người tuy ăn mặt theo kiểu nông dân nhưng không che được vẻ oai phong của bậc công hầu khanh tước liền sinh nghi hỏi:

    Ba ngươi làm gì lén lút ẩn núp trong bụi rậm.

    Ba người nghe Võ Hầu hỏi vẫn làm thinh không nói. Vũ Tùng thấy vậy nổi nóng nói:

    Có lẽ chúng là ba tên quân dọ thám của quân loạn tặc phản loạn dùng tra tấn cực hình may ra chúng mới chịu khai.

    Ba người bị bắt nghe Vũ Tùng nói họ là quân loạn tặc phản loạn thời hai con mắt sáng lên chăm chăm nhìn Võ Hầu. Võ Hầu linh cảm ba người nầy không phải là quân dọ thám loạn tặc liền nhỏ dọng lễ phép hỏi:

    Ba vị là ai? Vì sao lại lẫn trốn trong bụi rậm?

    Người lớn tuổi nghe Võ Hầu hỏi lần nầy không làm thinh nữa mà hỏi lại:

    Các Ngài là quân binh ở nơi nào?

    Võ Hầu nghe người lớn tuổi hỏi liền nói:

    Bổn chủ tướng cho các ngươi biết cũng không sao. Ta chính là Chủ Tướng của quân Văn Lang.

    Ba người nghe xong liền quỳ lạy nói:

    Chúng tôi là Tri Phủ trấn giữ Bạch Lang Châu.

    Võ Hầu quá bất ngờ hỏi trong ba vị:

    Ai là Tri Phủ đại nhân Thạch Trung Sơn?

    Người lớn tuổi nói:

    Tôi chính là Thạch Trung Sơn.

    Võ Hầu nghe xong liền đứng dậy bước tới mở trói cho ba người chắp tay xin lỗi mời ba người ngồi.

    Thạch Trung Sơn giới thiệu người áo đen nói:

    Người nầy chính là Quan Tri Huyện Bảo Trung còn người nầy chính là con trai của tôi Thạch Kế.

    Võ Hầu nghe xong lấy làm mừng, liền hỏi:

    Tình hình quân loạn tặc phản loạn mạnh yếu ra sao?

    Tri Phủ Thạch Trung Sơn nói:

    Tình hình Bạch Lang Châu vô cùng hỗn loạn. Quân loạn tặc phản loạn đang sùng lục truy sát chém giết khắp nơi.

    Võ Hầu hỏi:

    Quân loạn tặc phản loạn hiện đang ở trong thành bao nhiêu?

    Quan Tri Huyện Bảo Trung nghe Võ Hầu hỏi liền trả lời thay cho Quan Tri Phủ Thạch Trung Sơn:

    Bẩm chủ tướng quân loạn tặc ở trong thành phỏng chừng ba vạn, còn hơn hai vạn chúng đang bao vây kiểm soát các cổng thành ra vào, cũng như sự truy sát khắp nơi của chúng. Mỗi cổng thành quân loạn tặc canh giữ ước lượng hơn 5 nghìn quân.

    Thạch Trung Sơn nói xen vào:

    Tôi còn hai người con đang lẩn trốn trong rừng chủ tướng cho phép tôi đi tìm chúng nó.

    Võ Hầu nói:

    Tri Phủ đại nhân cứ tự nhiên hành động.

    Thạch Trung Sơn đi tìm không bao lâu thời gặp được hai con, người con lớn tên là Thạch Công, người con út tên là Thạch Thừa, người nào người nấy anh dũng vô song. Võ Hầu nhìn thấy không khỏi khen thầm.

    Võ Hầu giờ đây đã nắm rõ tình hình quân phản loạn liền lên kế sách tấn công lấy lại thành Bạch Lang Châu ngay trong đêm nay:

    Trương Hoài nghe lệnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh 2 vạn quân cùng Thạch Công, Thạch Thừa, nhanh chóng bất ngờ tấn công vào cửa Tây hạ gục hơn năm nghìn quân phản loạn, thần tốc tiến vào thành quét sạch quân phản loạn ngay trong đêm nay. Tuân Lệnh.

    Nguyên Tôn Chí nghe lệnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh 2 vạn quân cùng với Tri Huyện Đại Nhân Bảo Trung, Tri Phủ Đại Nhân Thạch Trung Sơn nhanh chóng bất ngờ đánh vào cửa Đông xóa sổ hơn năm nghìn quân phản loạn thần tốc tiến vào thành hốt trọn ổ không cho một tên loạn tặc phản loạn chạy thoát. Tuân Lệnh.

    Còn Võ Hầu thống lĩnh 3 vạn quân bất ngờ thần tốc đánh vào cửa chính Nam Bạch Lang Châu.

    Đây nói về Trương Hoài thống lĩnh 2 vạn quân cùng Thạch Công, Thạch Thừa. Nhanh chóng bí mật di chuyển quân binh trong đêm. Dưới ánh trăng lờ mờ ảm đạm quân Văn Lang đã tiến sát sau lưng quân loạn tặc phản loạn chỉ hơn nữa dặm mà chúng không hay biết gì hết. Năm nghìn quân phản loạn đang bao vây cửa phía tây thành Lang Châu chỉ chăm chăm đến dân chúng, bắc dân chúng những người chúng cho là quân binh Bạch Lang Châu giả dạng dân trốn thoát.

    Cùng lúc ấy cánh quân phía Đông Nguyên Tôn Chí cùng Tri Phủ Thạch Trung Sơn, Tri Huyện Bảo Trung Thạch kế cũng đã áp sát quân giặc, chờ lệnh tấn công mà thôi. Cùng lúc ấy Võ Hầu cũng đã thống lĩnh 3 vạn quân áp sát quân loạn tặc phản loạn. Quân loạn tặc tuy có cảnh giác đề phòng nhưng cũng không phát hiện Quân Văn Lang áp sát chỉ chờ lệnh là tấn công tiêu diệt quân loạn tặc phản loạn.

    Võ Hầu vừa nghe cánh Tây quân Văn Lang động chuyện tức thời ra lệnh tấn công. Quân Văn Lang bất ngờ ập tới tiêu diệt quân loạn tặc phản loạn như bão lũ xơi vài miếng năm nghìn quân phản loạn chết sạch không còn một tên.

    Cùng lúc Nguyên Tôn Chí ở cánh Đông nghe quân Văn Lang ở cánh Nam động chuyển liền ra lệnh tấn công. Hơn năm nghìn quân phản loạn Trung Nguyên chẳng kịp trở tay bị quân Văn Lang xơi một phát chết sạch thây phơi như rạ. Cánh quân Văn Lang phía tây ra tay trước khi thấy quân loạn tặc phản loạn chỉ lo ăn uống trâu, bò, dê, heo. Cũng hảm hiếp đàn bà con gái. Chúng đang hưởng lạc thời bỗng nghe như một trận đại hồng thủy ập tới chém xối xả vào chúng. Quân loạn tặc phản loạn chưa kịp trở tay thời bị một đao đầu lìa khỏi cổ. Hai vạn quân Văn Lang ập tới chỉ cần đốt một phát là năm nghìn quân binh loạn tặc phản loạn chưa kịp kêu la thời hồn du địa phủ. Ba cánh quân Văn Lang đồng loạt tràn vào thành như cuồng phong vũ bão. Quân loạn tặc phản loạn trong thành không chút đề phòng vừa hảm hiếp phụ nữ, vừa quay heo, nướng gà, nấu bò, mổ trâu. Bỗng thấy quân Văn Lang như từ dưới đất chui lên, từ trên trời nhảy xuống chém bọn chúng như chém chuối chết không kịp ngáp, bay đầu thủng ruột không kịp trở tay.

    * * *
     
  19. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    PHẦN 13
    Đây nói về Giá Chữ, Chủng Hầu là hai tay háo sắc thấy thấy Thứ Nữ, Chân Kiều. Tướng người mảnh mai xinh đẹp da trắng như tuyết, mông nở, ngực đầy, thời lao tới mà mân mà mê, mà ve mà vuốt Thứ Nữ, Chân Kiều càng kháng cự càng thời hai tên háo sắc lại càng thích thú. Hai tay đại gian đại ác như hai con mèo vờn chột, chúng vờn cho đã rồi mới xơi.

    Hai tên quỉ dữ đang hì hục hảm hiếp Chân Kiều, Thứ Nữ bỗng nghe quân reo dậy đất chiêng trống dậy trời. Gươm Đao giáo mác ầm ầm thời kinh hãi hỏi:

    Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

    Nhưng nào có ai trả lời chỉ nghe gươm đao giáo mác dậy trời. Chủng Hầu phóng xuống giường từ trong nhà chạy ra mặt mày hớt hãi vừa mặc quần vừa chạy vừa nói không ra lời: Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

    Chủng Hầu chưa hết khiếp sợ thời quân binh đã ập tới. Một vị tướng xuất hiện chận đầu Chủng Hầu cho quân binh bắt lại. Vị Tướng xông vào trong nhà thấy Thứ Nữ trần truồng nằm trên giường thời hiểu rõ tất cả.

    Thứ nữ vừa nhìn thấy vị Tướng quân mới đến thời khóc ròng nói:

    Hắn hảm hiếp thiếp rồi.

    Thạch Công hỏi:

    Hắn là ai?

    Thứ nữ khóc lóc nói:

    Hắn là Chủng Hầu.

    Thạch công hỏi:

    Thằng khốn từ trong nhà mới chạy ra đó sao?

    Thứ Nữ nói:

    Chính hắn.

    Thạch Công nói:

    Đưa thằng khốn ấy vào đây.

    Chủng Hầu lúc nầy mặt không còn chút máu. Thứ Nữ lúc nầy đã mặc lại áo quần cầm con dao tới nói:

    Ta xẻo thịt mầy.

    Thế là Thứ Nữ xẻo hết miếng thịt nầy đến miếng thịt khác, cắt mũi, cắt tai, móc mắt. Chủng Hầu đau đớn không chịu nổi. Hành hạ đã đời Thứ Nữ liền đâm cho mấy nhác Chủng Hầu hồn du địa phủ. Thứ Nữ liền tự sát chết luôn. Thạch Công đau đớn vô cùng bằm Chủng Hầu ra trăm mảnh.

    Đây nói về Giá Chữ đang hảm hiếp Chân Kiều nghe quân binh ập tới gươm giáo dậy trời thời kinh hải: Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

    Còn đang trần truồng thời một người xông vào chém một nhát đứt lìa cánh tay, người ấy chém một nhát nữa rụng luôn một cánh tay nữa, người ấy xếnh cho một đá ngã nhào xuống đất.

    Chân Kiều nhìn thấy người đến cứu mình chính là Thạch Thừa. Liền khóc lớn:

    Hắn làm hại thiếp rồi.

    Thạch Thừa uất khí xông lên hỏi:

    Hắn Là Ai?

    Chân Kiều nói:

    Hắn là Giá Chữ.

    Thạch Thừa nói:

    Thì ra là thằng khốn nầy.

    Định băm ra thành từng mảnh. Chân Kiều bận xong áo quần nói:

    Để thiếp xử lý cho.

    Chân Kiều rút kiếm của Giá Chữ tới móc mắt mổ ruột moi gan đã đời rồi tự sát luôn. Thạch Thừa đau đớn vô cùng lấy kiếm băm Giá Chữ ra làm trăm mảnh.

    Nói về quân Văn Lang mau chóng lấy lại thành Bạch Lang Châu tiêu diệt quân phản loạn hầu như chết sạch. Chỉ còn một số ít người giả làm quân binh Lang Châu trốn chạy. Trong số người trốn chạy ra Bắc có Cha Con Hồ Phỉ, Hồ Lũ, Hồ Bão. Chạy đến huyện Lang Chi thời trời sắp mưa.

    Ba Cha Con Hồ Phỉ liền chạy đến gốc cây cổ thụ to lớn tránh mưa. Nghĩ là đã thoát nạn nhìn lên trời cười ha hả nói:

    Nghe nói Quốc Tổ Vua Hùng linh thiêng lắm. Thật ra chỉ là lời đồn đại phao tin. Cha Con ta phản bội lại Quốc Tổ hại con cháu Văn Lang chết như rạ nhưng nào có ai làm gì được Cha Con Ta đâu.

    Cùng lúc ấy trên không trung sấm chớp nổi lên ầm ầm một tia sấm chớp khủng khiếp đánh xuống chỗ cây cổ thụ tiếng nổ vang dội. Ba Cha Con Hồ Phỉ bị tia sấm chớp đánh trúng cháy đen cháy thui hồn phách tan biến khó tụ lại được vì Linh Căn Huệ Mạng đã bị hủy diệt hàng trăm triệu năm cũng chưa khôi phục căn thân huệ mạng linh hồn luân hồi mãi trong côn trùng thảo mộc.

    Về sau có câu thơ rằng:

    Trên đầu luôn có Thần Linh

    Nghe lời hỗn láo ngạo kinh Vua Hùng

    Thần Linh nổi giận đùng đùng

    Nổi cơn sấm sét giết loài yêu tinh

    Cha Con Hồ Phĩ cháy đen

    Phách hồn tan biến khó mong hoàn hồn

    Sử Kinh chép lại để đời

    Những ai phản lại giống nòi dè răng.

    Đây nói về Lương Minh, cùng hai phó tướng là Ba Ra và Hê Na theo lệnh Văn Khánh thống lĩnh 2 vạn quân nhanh chóng bọc lên phía Tây thành Tiên Châu đánh bọc xuống sau lưng quân phản loạn, trong lúc cánh Tây quân loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên đang tập trung lực lượng tấn công thành Tiên Châu nên không hay biết gì cả. Chỉ lo loan tin là thành Bạch Lang Châu đã chiếm lấy được rồi. Cùng lúc ấy đạo quân của Lưu Hà cùng hai phó tướng là Hơ Tu và Ê Ran, thống lĩnh 2 vạn quân từ cánh Đông bọc lên cũng đã áp sát sau lưng quân giặc. Nhưng quân giặc cũng không hề hay biết gì cả. Cùng lúc ấy thống soái Văn Khánh thống lĩnh 3 vạn quân áp sát quân giặc từ phía sau lưng cửa chánh Nam Phải nói Quân Văn Lang dưới sự chỉ huy của Văn Khánh duy chuyển quân binh thần tốc. Cũng như áp sát quân loạn tặc phản loạn, nhưng quân loạn tặc phản loạn không hay biết gì cả.

    Đây nói về Phạm Đổ Chinh Tân Quân Nguyên Soái thống lĩnh hơn 6 vạn quân tiến đánh thành Tiên Châu. Thành Tiên Châu khó đánh hơn thành Bạch Lang Châu nên quân phản loạn Trung Nguyên chưa có cách gì chiếm được. Chúng ngày đêm kêu gọi Cha Con Tri Phủ Anh Kỳ đầu hàng. Tri Phủ Anh Kỳ có bốn người con hai trai, hai gái đều là anh hùng hảo hán. Hai người con trai mạnh như voi nhanh như hổ, võ nghệ cao cường con trai lớn là Anh Võ, con trai nhỏ là Anh Quyền. Hai người con gái võ nghệ cũng cao cường. Một người là Xuân Cẩm. Một người là Kim Thu.

    Bốn cha con Anh Kỳ nghe quân phản loạn ngày đêm kêu gọi đầu hàng thời sôi gan quát lớn:

    Quân phản loạn theo Cha con Doãn Thường kia. Chúng bây không còn là con người nữa mà là một lũ ác quỉ nổi lòng tham cướp lấy Bắc Văn Lang. Các ngươi sẽ bị băm nát ra tương, ở đó mà lớn lối kêu gọi đầu hàng.

    Phạm Đỗ Chinh biết Cha Con Anh Kỳ thà chết không chịu đầu hàng. Liền hợp các tướng lĩnh lại nói chuẩn bị quân binh tối nay đến giờ Dậu tấn công Tiên Châu. Quân Tiên Châu không đầy một vạn nhưng tinh thần chiến đấu hừng hực dâng cao không hề khiếp sợ quân loạn tặc phản loạn tấn công.

    Cha Con Kỳ Anh chuẩn bị dầu sôi lửa bỏng. Cung tên đá lớn đánh trả lại quân công thành. Phạm Đỗ Chinh là tay cáo già thông thạo nhiều loại binh pháp. Nên Phạm Đỗ Chinh tấn công thành bằng hỏa Công theo hướng có lợi chiều gió. Tạo ra những cung lớn bắn dầu bắn lửa lên thành đốt cháy tả tơi rồi mới cho quân binh bắt thang leo tường tấn công với sự yểm trợ của đội quân xạ tiễn. Quân Văn Lang ẩn mình trong đêm không xa chờ cho quân phản loạn tấn công thành Tiên Châu là từ phía sau đánh bọc tới.

    Giờ Dậu đã đến còi hụ nổi lên, cũng như pháo lệnh tấn công quân loạn tặc phản loạn đã bắn lên trời tức thời quân phản loạn Trung Nguyên hò reo dậy đất. Dưới ánh trăng lờ mờ lửa bắn lên thành đỏ rực lửa gặp gió bốc cháy ngùn ngụt. Lửa cháy lan trên thành nhanh chóng. Những chảo dầu trên thành đang nóng để chống trả lại quân phản loạn leo tường không ngờ bị lửa phủ cháy phản ngược trở lại đốt cháy quân Tiên Châu.

    Trên thành quân binh hỗn loạn. Lửa cháy đỏ trời Phạm Đổ Chinh ra lệnh tấn công tức thời quân binh loạn tặc phản loạn ào ào xông tới bắc thang leo lên thành đen nghịt. Có đội quân yểm trợ bắn tên lên thành như mưa. Thành Tiên Châu đang trong lúc nguy kịch. Thời bỗng thấy quân phản loạn kinh hãi rối loạn vì quân văn Lang từ sau lưng đánh thốc tới như vũ bão chiêng trống ầm ầm quân reo dậy đất.

    Phạm Đỗ Chinh kinh khiếp:

    Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

    Một vị tướng phi ngựa chạy tới kinh hãi nói lớn:

    Bẩm Nguyên Soái quân Văn Lang bao vây trùng trùng lớp lớp từ sau đánh bọc tới như nước vỡ bờ thế mạnh đời non lấp biển.

    Phạm Đỗ Chinh xây xẩm mặt mày chưa kịp đối phó làm sao. Thời có một tướng khác phi ngựa tới báo:

    Bẩm nguyên soái mau cho quân phá vòng vây trốn chạy.

    Phạm Đỗ Chinh liền ra lệnh mau phá vòng vây chạy về Huyện Đức Nam, Bộ Hợp Phố, Đức Châu. Quân Bắc Việt Trung Nguyên thi nhau bỏ chạy dẫm đạp lên nhau thê thảm vô cùng.

    Khi ấy trên hư không có vị Đại Tiên trên đường chu du qua Đông Hải nhìn thấy cảnh ấy thở dài ngâm bài thơ rằng:

    Thê thảm nào hơn thảm cảnh nầy

    Thăng trầm họa phúc mãi chuyển xây

    Hết thịnh tới suy âu là thế

    Văn Lang kiếp nạn Quỉ chuyển xây

    Huyền cơ Tạo Hóa nào tránh thoát

    Nội chiến dậy trời giáo gươm bay

    Ba nghìn năm nữa tai kiếp hết

    Văn Lang Bách Việt sải cánh bay.

    Nói về Anh Kỳ trên thành Tiên Châu thấy Quân Văn Lang đánh bọc sau lưng quân loạn tặc phản loạn đánh tới liền cho bắn pháo lệnh ám hiệu lên không cho biết thành Tiên Châu chưa mất làm tăng thêm khí thế chiến đấu quân binh.

    Lương Minh cho người bắn pháo lệnh đáp trả lại. Anh Kỳ biết chắc là quân Văn Lang đang tấn công quân phản loạn bằng thống lĩnh quân binh mở cửa thành xông ra chém giết quân phản loạn chém thôi là chém quân phản loạn chết lớp lớp người ngựa đạp lên nhau bỏ chạy chết thôi là chết. Quân Văn Lang từ bốn phía đánh thốc tới gươm đao giáo mác dậy trời.

    Phạm Đổ Chinh xua quân phá vòng vây chạy về Huyện Đức Nam, giáp ranh với Huyện Lộc Điền, Hợp Phố Đức Châu. Quân Văn Lang rượt đuổi hơn 20 dặm gần đến Bàu Sen núi Bà phía Nam Huyện Lộc Điền. Thời trời bỗng nổi lên một cơn mưa khủng khiếp mưa xuống như trút mấy giờ liền. Nước tràn ngập đồng ngập sá quân Văn Lang đành phải rút trở về Tiên Châu.

    Văn Khánh nhìn lên trời thở dài nói:

    Không lẽ đây cũng là ý trời kiếp nạn Văn Lang phải mất Bắc Văn Lang.

    Văn Khánh rút quân về Tiên Châu trong lòng luôn lo nghĩ là khó mà chiếm lấy lại Bắc Văn Lang. Vì huyền cơ kiếp nạn Văn Lang như vậy. Con người không thể làm gì khác hơn là tận lực tri thiên mệnh mà thôi. Chiếm lấy lại Bắc Văn Lang được hay không còn phải chờ huyền cơ Tạo Hóa Cơ Trời.

    Nói về Phạm Đỗ Chinh nhờ trận mưa mà quân Văn Lang không truy đổi nữa. Cho người điểm lại quân binh thời chỉ còn hơn ba vạn thời thở dài xây xẩm mặt mày hơn 10 vạn quân giờ đây chỉ còn hơn ba vạn. Liền viết thư cho người về Kinh Đô Việt Trung Nguyên tức là Kinh Đô Xích Quỷ Bắc Văn Lang xin thêm quân trấn giữa Lộc Điền, Diêm Hồ Châu, Ninh Giao Châu. Không cho quân Văn Lang tiến ra Bắc.

    Văn Khánh tuy thắng trận nhưng không thể tiến sâu ra Bắc Văn Lang được. Vì Bắc Văn quân phản loạn đã củng cố các thành trì vững chắc. Lại thêm quân lực hùng mạnh trong hai cánh Quân Tây – Đông. Lê Quang, Huỳnh Trung Kỳ cũng chỉ giải tỏa sự bao vây của quân phản loạn ở Quang Hải Châu và Âu Tây Châu mà thôi. Có Lẽ ý trời Bắc Văn Lang rơi vào tay giặc. Chỉ còn cách trấn thủ địa đầu Trung Văn Lang, không cho quân phản loạn Trung Nguyên xâm chiếm Trung Văn Lang mà thôi. Bằng cho quân binh củng cố lại thành Bạch Lang Châu, củng cố lại thành Tiên Châu. Không cho quân phản Bắc Văn Lang tiến vào. Cũng từ đây Nam Bắc Phân Tranh quân Văn Lang. Quân Việt Trung Nguyên giao tranh khốc liệt. Quân Văn Lang tiến ra Bắc cũng không nổi. Quân Trung Nguyên tiến vào cũng không được. Kéo dài hơn bảy mươi năm.

    * * *


    PHẦN 14
    Đây nói về Việt Vương tế Gia, thời còn điều khiển hơn trăm thương đoàn, buôn bán giao thương khắp đất nước Văn Lang. Có buôn lậu Sắt Thép từ Kinh Đô Văn Lang giao thương với Phương Bắc. Tích góp được một số thép tốt thượng hạn để dành tinh luyện thành kiếm báu. Ở vào thời ấy có Âu Giã Tử. Là người rất giỏi về luyện kim, luyện kiếm. Được Việt Vương Tế Gia mời đến tiếp đãi trọng hậu. Còn ban cho một chức quan.

    Việt Vương Tế Gia nói:

    Ta có một số thép rất tốt mua được từ Kinh Đô Văn Lang, ngươi có thể tinh luyện cho Ta thành năm kiếm báu được không?

    Âu Giã Tử nói:

    Bẩm Đại Vương. Hạ dân xem qua thép tốt ấy như thế nào mới biết luyện được hay không.

    Việt Vương Tế Gia liền cho người mang ra một bao thỏi thép. Mỗi thỏi thép nặng hơn cân, được hơn năm mươi thỏi. Âu Giã Tử liền bốc lên một thỏi xem thử thời không khỏi biến sắc mặt nói:

    Bẩm Đại Vương đây là những thỏi thép quý vô giá, những người có phúc lớn mới gặp được. Những thỏi thép nầy có từ thời luyện kim Cao Tổ, Cao Tông. Công thức luyện kim nầy đã thất truyền không còn ai biết nữa. Nếu đem rèn chế thành mũi tên thời bắn thủng cả áo giáp sắt. Áo giáp đồng lợi hại vô cùng. Nếu đem luyện thành kiếm báu thời chém sắt như bùn. Còn nếu luyện thành Thần Kiếm thời phải có vàng tinh luyện nguyên chất, cũng như phải có Tinh Khí Thần con người đồng trinh nam nữ kết hợp thời mới luyện thành.

    Việt Vương Tế Gia nghe xong liền cho người tìm đủ những thứ ấy. Âu Giã Tử liền chọn ngày lành tháng tốt khởi động sai các đồng nam đồng nữ cả thảy trăm người kéo bễ quạt than lửa cháy đỏ rực nhiệt độ rất cao nấu vàng nấu thép chảy ra nước bảy lần bảy 49 ngày đến ngày cuối cùng luyện thành Thần Vật.

    Thời khắc quan trọng tức thời năm nam năm nữ đồng trinh tự nguyện nhảy vào lò luyện kim phút chốc tiêu tan tất cả. Tức thời hào quang từ trong lò luyện kim sáng lên rực rỡ hóa thành Thần Vật.

    Âu Giã Tử mừng rỡ reo lên:

    Thành rồi, thành rồi.

    Âu Giã Tử liền làm ra năm thanh Thần Kiếm. Một là Trạm Lư, hai là Bàn Sính, ba là Ngư Trường, bốn là Can Tương, năm là Hiệp Gia.

    Việt Vương Tế Gia khi còn làm thương gia giàu có thường sang nước Ngô buôn bán Sắt, Đồng giao thương ra mắt Vua Thọ Mộng. Nên cũng có quen biết với Vua Ngô.

    Vua Ngô Thọ Mộng khi ấy có bốn người con. Người con Trưởng là Chư Phàn. Người con thứ hai là Dư Tế. Người con thứ ba là Di Muội. Người con thứ tư là Quý Trát. Vua Thọ Mộng lúc nào cũng dòm ngó Việt Trung Nguyên nhưng không biết làm sao đánh chiếm được Việt Trung Nguyên tức là Bắc Văn Lang.

    Bắc Văn Lang đất đai trù phú không nơi nào bằng. Lại có nền Văn Minh lúa nước từ thời Viêm Đế Thần Nông truyền lại. Nước văn Lang nhờ nền Văn Minh lúa nước nầy mà dân giàu nước mạnh. Việt Vương Tế Gia trị vì thiên hạ không bao lâu thời qua đời Việt Vương Doãn Thường lên thay thế.

    Việt Vương Doãn Thường là nhà Quân Sự Thiên Tài lại biết lo xa. Sợ Thọ Mộng đem quân xâm chiếm Bắc Văn Lang. Bằng sai sứ giả đêm ba thanh kiếm báu dâng hiến cho Vua Thọ Mộng cầu hòa. Khi ấy Vua Thọ cũng đã già không bao lâu thời mất.

    Người con lớn Chư Phàn lên thay thế. Thời lúc nào cũng muốn chiếm lấy Bắc văn Lang. Vì Bắc Văn Lang Việt Trung nguyên là miếng mồi quá béo bở. Không những giàu có về vàng, bạc, ngọc ngà, châu báu. Nhất là giàu về lúa gạo, ngô, khoai, củ, quả ăn không hết. Mà còn giàu có về nguồn sông nước Thủy Sản, giàu có về Biển Cả Hải Sản, giàu có về Sơn Hào rừng núi. Chiếm lấy được Bắc Văn Lang chẳng khác gì ngồi trên đống vàng ngọc ngà châu báu. Ngồi trên Sơn Hào, Hải Vị. Muốn gì được nấy nhất là nền văn lúa nước. Nền văn minh sắt, thép. Thời không có mọt nước nào bằng.

    Chư Phàn ăn cũng mơ ngủ cũng mơ tìm mọi phương cách chiếm cho được Bắc Văn Lang. Chư Phàn nghĩ Cha Con Doãn Thường đã tận lực chống trả lại quân Văn Lang sức lực suy yếu. Chỉ cần khởi binh xâm lấn liền chiếm được Việt Trung Nguyên.

    Không ngờ quân Trung Nguyên khó đánh vô cùng. Bị quân Trung Nguyên đánh bại. Uất khí nổi lên sanh bệnh rồi chết. Chư Phàn chết.

    Dư Tế lên thay cũng đem quân xâm chiến Trung Nguyên Bắc văn Lang. Nhưng đều bị thất bại. Hao quân tổn tướng. Trong khi ấy các nước Phương Bắc dòm ngó nước Ngô có nhiều nước đem quân xâm lấn nước Ngô. Dư Tế ra sức chống trả lấy làm sầu não sanh bệnh chết.

    Di Muội lên thế. Thường đem quân xâm lấn biên giới Việt Trung Nguyên. Nhưng bị quân Việt Trung Nguyên Doãn Thường đánh bại. Từ đó Việt – Ngô như nước với lửa thường đánh nhau luôn trên chuyến tuyến biên giới của hai bên. Di Muội tốn không biết bao nhiêu là công sức hao quân tốn lương cũng không chiếm nổi đất biên giới Văn Lang sanh bệnh rồi chết.

    Đáng lý Vua Ngô Di Muội trước khi lâm bệnh phải nhường ngôi cho Công Tử Quang. Con Chư Phàn. Đằng nầy không nhường ngôi cho Công Tử Quang. Mà lập người con Di Muội là Vương Liêu lên làm vua.

    Công Tử Quang là con của Chư Phàn. Có ý muốn giết Vương Liêu. Nhưng chưa biết phải làm sao. Thời Vận may Công Tử Quang gặp Ngũ Tử Tư bỏ nước Sở chạy trốn đến nước Ngô. Công Tử Quang trọng dụng Ngũ Tử Tư cho làm thượng khách quý của mình. Nhờ Ngũ Tử Tư bày kế giết Vương Liêu.

    Năm 525 trước công nguyên. Tháng tư, ngày Bính Tý. Công Tử Quang đặt ngầm binh sĩ mang áo giáp ở nhà hầm. Mời Vương Liêu đến uống rượu Vương Liêu tuy có đề phòng. Chuyên Chư mang thức ăn lên dâng cho Vương Liêu bất ngờ lấy Ngư Trường kiếm chém sắt như chém bùn đâm Vương Liêu một nhát thủng áo giáp đang mặt chết tốt.

    Công Tử Quang lên làm Vua Ngô tức là Hạp Lư. Hạp Lư lên làm Vua nước ngô thèm khác Bắc Văn Lang Trung Nguyên còn hơn Cha, Chú của Y chiến tranh Việt – Ngô càng thêm dữ dội hơn nữa.

    Đây nói về Hạp Lư Vua Ngô ở bên kia phía Bắc Sông Trường Giang vô cùng lo lắng vì Việt Trung Nguyên càng ngày càng lớn mạnh. Phần thời sợ Việt Trung Nguyên tấn công. Phần thì sợ Sở tấn công. Nam thời sợ Việt Trung Nguyên vượt Trường giang sang đánh. Đông thời sợ Sở vượt sông Hán Thủy tiến đánh.

    Lư Hạp liền kêu Ngũ Viên tới nói:

    Ta có được ngươi như cá được nước ngươi có cách gì làm cho Nước Ngô ta hùng mạnh. Nam ngăn được Việt Trung Nguyên. Đông chặn được Sở.

    Ngũ Viên nói:

    Muốn làm được như vậy thời phải làm cho lúa thóc đầy kho. Sửa sang lại thành quách. Thu nạp binh sĩ. Luyện tập binh mã.

    Hạp Lư liền nghe theo lời Ngũ Viên chọn nơi đất tốt xây Thành Trì. Thấy phía Đông Bắc núi Cô Tô khí thế hưng vượng tức thời cho quân binh đắp thành trì không bao lâu Ngũ Viên đắp xong một thành lớn rộng bốn mươi bảy dặm gọi là Thiên Đô.

    Chia làm tám cửa như sau:

    Bàn Môn và Xà Môn ở phía Nam.

    Tề Môn và Bình Môn ở phía Bắc.

    Lâu Môn và Tượng Môn ở phía Đông.

    Xương Môn và Tư Môn ở phía Tây.

    Thành quách đắp xong. Ngũ Viên đón Lư Hạp vào Thiên Đô ở đấy. Rồi ra sức tuyển mộ quân binh lên đến hàng vạn vạn người ngày đêm thao luyện quân binh diễn tập chiến trận. Lại cho đắp một cái thành nữa ở phía nam Phượng Hoàng Sơn đề phòng Việt Trung Nguyên tiến quân sang đánh nước Ngô.

    Lúc bấy giờ Bá Hi nước Sở sợ tội chạy trốn nghe nói Ngũ Viên đã làm quan nước Ngô, mới trốn sang nước Ngô vào yết kiến Ngũ Viên hai người ôm nhau mà khóc. Ngũ Viên đưa Bá Hi vào yết kiến Hạp Lư. Hạp Lư có lòng thương cho làm Quan Đại Phu cùng Ngũ Viên bàn việc nước.

    Quan Đại Phu nước Ngô là Bị Ly hỏi riêng Ngũ Viên rằng:

    Ngài nghĩ thế nào mà tin Bá Hi như vậy?

    Ngũ Viên nói:

    Sự oan uổng của Bá Hi, cũng chẳng khác gì sự oan uổng của tôi. Tục ngữ có câu rằng: “đồng bệnh tương liên hẳn ngài chẳng còn lạ gì điều đó.”

    Bi Ly nói:

    Ngài chỉ biết mặt ngoài, chưa biết mặt trong. Tôi trông Bá Hi, mắt nhìn như mắt chim ưng. Chân đi như dáng con hổ phải nói là người tham nịnh tàn ác chớ nên đến gần. Nếu người ấy được trọng dụng thời tất liên lụy đến Ngài.

    Ngũ Viên không cho là phải, cùng Bá Hi thờ Vua Ngô. Một hôm thiết triều Hạp Lư vua Ngô nói với triều Thần rằng:

    Nước Ngô Ta giờ đây phải nói là rất hùng mạnh. Tướng Giỏi quân nhiều Phương Bắc chẳng nước nào dám xâm lược. Việt Trung Nguyên không còn là mối lo nữa. Nhân cơ hội nầy ta từ Bắc đánh vào là chiếm được Việt Trung Nguyên Bắc Văn Lang. Nếu chiếm được Việt Trung Nguyên thời coi như nguồn lương thực dồi dào dân số lại đông. Phía Nam sợ gì Hùng Vương. Phía Bắc Sợ gì Nhà Chu. Sở muốn nuốt hồi nào chẳng được.

    Bá Hi tâu:

    Chúa công nói rất phải. Nếu không cơ hội nầy chiếm Bắc Văn Lang Trung Nguyên thời còn có cơ hội nào nữa. Vì sao thần lại nói như vậy? Vì Việt Vương Doãn Thường đã dốc toàn lực lượng chống trả lại quân Văn Lang từ Nam đánh ra Bắc. Còn lực lượng đâu chống trả quân ta. Quân ta bất ngờ đánh chiếm nhất định chiếm được Việt Trung Nguyên.

    Hạp Lư cho là phải. Ngũ Viên khuyên can tâu:

    Chúa công Bắc Văn Lang Việt Trung Nguyên là nơi linh địa nước Xích Quỷ chín thời Kinh Dương Vương ngự trị Linh Địa ấy không dễ gì đánh chiếm được đâu. Nước Văn Lang tuy Nền Quốc Đạo không còn nhưng uy danh vẫn còn lừng lẫy Dân Chúng tuy ngã về Văn Hóa Phương Bắc. Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang. Nhưng không phải là quân ngoại xâm. Chỉ là quân nội loạn nổi lên đòi tự trị được dân chúng Bắc Văn Lang theo về bảo bọc che chở. Cuộc nội loạn Bắc Văn Lang không phải là lần đầu mà cách đây hơn ba trăm năm mươi năm vào thời. Hùng Huy Vương: Pháp Hải Lang. Phù Đổng Thiên Vương ra đời quét sạch quân xâm lược cũng như quân phản loạn. Ở vào thời đó 961 đến 893 trước công nguyên. Bắc Văn Lang các Vua Việt nổi lên đòi tự trị. Theo xu thế Phương Bắc, một quận, một huyện cũng xưng vua. Ân Mao Vương cùng Hồ Vương, Hung Vương đưa quân xâm lược. Bắc Văn Lang tưởng như là đã chiếm được Bắc Văn Lang. Nhưng đã bị Phù Đổng Thiên Vương quét sạch. Chỉ trong vòng ba ngày. Đừng nói đến thời Ân Mao Vương sau nầy. Mà ngay cả cuối thời Nhà Thương. (Xem Văn Lang Chiến Sự 1 sẽ rõ). Ân Thọ khi lên ngôi Trụ Vương thời ngày đêm thèm khác nước Văn Lang giàu có. Ỷ mình có binh hùng tướng mạnh bằng dốc toàn lực lượng Nhà Ân. Trên 200 vạn quân tràn sang xâm chiếm cho bằng được nước Văn Lang. Nhưng mới tiến vào Bắc Văn Lang. Thời đã bị Hùng Tiên Lang: Điển Lang đánh bại vùi chôn hơn một nửa quân binh nơi đất Bắc Văn Lang. Cách đây gần 600 năm. (Tức là 1141 đến 1077 trước công nguyên). Vì thế Bắc Văn Lang tìm ẩn những điều không lường trước được. Cha Con Doãn Thường nổi dậy chiếm Bắc Văn Lang chỉ là nội loạn được sự hưởng ứng của người dân Bắc Văn Lang. Còn chúng ta là khác không phải là quân nội loạn mà là quân xâm lược. Dân Văn Lang luôn tự hào dòng giống Tiên Rồng. Không dễ đánh thắng được đâu. Chúng ta đưa quân chiếm lấy Bắc Văn Lang chính là quân ngoại xâm lược. Dân Bắc Văn Lang tuy theo Cha Con Doãn Thường nhưng lòng quật cường anh linh truyền thống dân tộc Văn Lang vẫn còn mạnh. Không thể xem thường được.

    Hạp Lư không nghe lời khuyên của Ngũ Viên. Giao quốc chính cho Ngũ Viên cùng Phù Sai. Trực tiếp chỉ huy 25 vạn quân có thể nói là dốc toàn lực lượng sức mạnh của quân Ngô. Vượt qua Sông Dương tức là Sông Trường Giang chia làm ba đạo quân. Tiến đánh Việt Trung Nguyên.

    Đạo quân thứ nhất: Trực tiếp Hạp Lư chỉ huy thống lĩnh hơn 10 vạn quân cùng Bá Hi, Vương Tôn Lạc, Chư Nghị đánh thẳng vào Dương Giang Giao Châu.

    Đạo quân thứ hai: Bá Cổn Chủ Tướng Thượng Quân, Tiêu Chấn phó Chủ Tướng Hạ Quân thống lãnh 7 vạn quân đánh thẳng vào Bắc Giang Giao Châu.

    Đạo Quân thứ ba: Chuyên Tạo Chủ tướng, Bá Cẩn làm phó tướng thống lãnh 7 vạn quân đồng loạt vượt sông Dương Tử. Tiến vào địa phận Trung Nguyên đánh thẳng vào Lạc Giang Giao Châu.

    * * *
     
  20. vanlinh2802

    vanlinh2802 Lớp 1

    PHẦN 15
    Nói về Quân Ngô tiến qua Bắc Văn Lang thế mạnh như chẻ tre đánh đâu thắng đó chiếm lấy các quận huyện chẳng khó khăn gì cả. Quân địa phương Việt Trung Nguyên khiếp kinh bỏ chạy.

    Hạp Lư cười ha hả nói:

    Quân Việt Trung Nguyên dồn hết vào phía Nam chống trả lại quân Văn Lang, còn binh lính đâu mà chống trả lại quân ta. Đời Ông Cha thế lực quân Ngô chưa đủ mạnh nên chưa lấy được Bắc Văn Lang. Nay thế lực quân Ngô Ta như nước vỡ bờ Bắc Văn Lang sẽ là của Ta.

    Đại quân Hạp Lư tiến đến đâu thời quân địa phương Việt Trung Nguyên bị đánh bại đến đó. Khi quân Ngô tiến sâu vào huyện Điền Lý. Sắp đến Dương Giao Châu. Thời nghe quân reo dậy đất quân Việt Trung Nguyên xuất hiện ước lượng hơn 2 vạn quân. Tướng dẫn đầu quân Trung Nguyên là Việt Vương Doãn Thường.

    Nói về Việt Vương Doãn Thường là Việt Vương đời thứ hai sau Việt Vương Tế Gia, nhà quân sự, chính trị, binh pháp thiên tài chuyển xây tình thế đủ sức nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang. Điều binh khiển tướng có một không hai trong thời ấy. Phía Nam Bắc Văn Lang, tức là Nam Việt Trung Nguyên đủ sức chống trả lại thế lực Vua Hùng. Phía Bắc, Bắc Văn Lang tức là Bắc Việt Trung Nguyên phòng thủ vững chắc không sợ các thế lực ngoại ban tấn công xâm lấn từ Phương Bắc.

    Nói về Hạp Lư Vua Ngô xua quân xâm lược tiến đánh Việt Trung Nguyên thế mạnh như chẻ tre, quân binh tràn tới đâu quân địa phương Việt Trung Nguyên tan rã đến đó. Hạp Lư vô cùng cao ngạo tiến quân đánh thẳng thọc sâu vào địa phận Việt Trung Nguyên. Quân Việt Trung Nguyên thua chạy có cờ. Hạp Lư càng tiến sâu vào Việt Trung càng cao ngạo. Nói Thế lực quân Việt Trung Nguyên suy yếu thấy rõ. Vua Ngô Hạp Lư cho đây là cơ hội chiếm lấy việt Trung Nguyên cho bằng được.

    Việt Vương Doãn Thường nghe tin Vua Hạp Lư trực tiếp chỉ huy 25 vạn quân chủ lực tiến đánh Việt Trung Nguyền liền trực tiếp thống lĩnh quân binh đối mặt với Hạp Lư Vua Ngô quyết đánh bại Vua Ngô Hạp Lư trong trận chiến xâm lược nầy. Hầu làm khiếp đảm các nước Phương Bắc như Sở, Tề, Tấn vân. và …vâng vâng.

    Doãn Thường ra lịnh:

    Linh Việt Hàn: Có Thần. Nguyên Soái thống lĩnh 2 vạn quân đến Huyện Dương Hạ bí mật phục kích chờ cho quân Ngô đi qua tiến sâu vào Trung Nguyên mới dàn quân ra phục kích chận đánh đường rút lui của chúng. Tuân Lệnh.

    Linh Cô Phù nghe lịnh. Có Thần. Chủ Tướng thống lĩnh 3 vạn quân ẩn mình phục kích phía đông Huyện Điền Lý. Khi nào thấy pháo lệnh bắn lên trời nghe giao tranh khốc liệt thời mới xuất hiện từ cánh đông Huyện Điền Lý nhanh chóng tiến quân đánh bọc lên vào khúc giữa cắt đứt làm hai quân Ngô. Tuân lệnh.

    Linh Quang Dũng nghe lịnh. Có Thần. Chủ Tướng thống lĩnh 3 vạn quân ẩn mình phục kích phía tây Huyện Điền Lý. Khi nào thấy pháo lệnh bắn lên trời nghe giao tranh khốc liệt thời nhanh chóng tiến quân đánh vào khúc đuôi quân địch. Tuân lệnh.

    Phân bổ lực lượng đâu vào đó. Việt Vương Doãn Thường thống lĩnh 2 vạn quân dụ địch sa vào kế bẫy của mình.

    Đây nói về hơn 10 vạn quân Ngô trực tiếp do Hạp Lư Vua Ngô chỉ huy tiến đến đâu thời quân Việt Trung Nguyên bị đánh tan tác đến đó. Quân Ngô không khác gì bầy chó sói ăn thịt bầy gà chận đường. Gặp quân Việt Trung Nguyên là xơi đẹp Quân Ngô cứ tiến sâu vào Trung Nguyên như chỗ không người.

    Khi quân Ngô đến đất Điền Lý thấy cây cối tuy không rậm rạp nhưng cũng che khuất tầm nhìn. Nếu qua khỏi đất Điền Lý thời tới Dương Giao Châu. Hạp Lư không coi quân Trung Nguyên vào đâu Đại quân Ngô cứ tiến sâu vào đất Trung Nguyên. Khi quân Ngô vào đất Điền Lý thời thấy một đạo quân xuất hiện phải nói là hùng mạnh nhất từ khi quân Ngô tiến vào đất Trung Nguyên. Ước lượng 2 vạn quân Tướng dẫn đầu quân Trung Nguyên là Việt Vương Doãn Thường.

    Việt Vương Doãn Thường thúc ngựa tới hét lớn chỉ mặt Vua Ngô là Hạp Lư chửi mắn nói:

    Thằng Hạp Lư ngu si kia Ta đối với nước Ngô không tệ. Đem ba bảo kiếm là Trạm Lư bảo kiếm, Bàn Sính bảo kiếm, Ngư Trường bảo kiếm dâng hiến cho nước Ngô giao hảo cầu hòa Ông Nội Thọ Mộng ngươi. Không nói với ngươi biết sao? Nay ngươi đem quân xâm chiếm Việt Trung Nguyên của Ta. Ngươi tưởng nuốt Việt Trung Nguyên dễ lắm sao nơi đất Điền Lý nầy là mồ chôn của ngươi.

    Hạp Lư nhìn thấy quân Trung Nguyên chỉ có trên dưới 2 vạn thời nhìn lên trời cười ngất:

    Thằng Doãn Thường cáo già kia ta lạ gì mà không biết Cha Con ngươi. Cha Con ngươi người gốc Phương Bắc dòng dõi Vua Vũ. Bị Vua Kiệt tri sát chạy đến Bắc Văn Lang. Tuy Dòng Tộc ngươi trở thành dân Văn Lang từ lâu. Nhưng Ông Cha ngươi nuôi mộng mưu đồ từ lâu chiếm lấy Bắc Văn Lang cướp giang sang của các Vua Hùng. Đất Bắc Văn Lang nào phải Cha Con Doãn Thường ngươi khai dựng tạo lập lên. Mà chỉ là quân loạn tặc phản loạn nổi dậy cướp nước. Còn Ta là quân xâm lược nào có khác chi. Miếng thịt béo bở Bắc Văn Lang nay không thuộc của ai. Ai mạnh gươm đao hơn thời người đó được.

    Việt Vương Doãn Thường nổi nóng quát:

    Có tướng nào ra lấy đầu thằng Hạp Lư ngu dốt kia cho ta.

    Bỗng một tướng tên là Vũ Hạo chấp tay nói:

    Để Thần ra lấy đầu thằng ngu dốt ấy cho.

    Nói xong Vũ Hạo phóng ngựa múa đao lao tới quát lớn:

    Thằng Hạp Lư quân cướp kia có giỏi thời ra đây đấu với Ông Nội ngươi.

    Hạp Lư nổi nóng quát:

    Có tướng nào ra thịt thằng hổn láo ấy cho Ta.

    Vương Tôn Lạc nói:

    Để Thần ra giết quách tên hổn láo ấy cho rồi.

    Vương Tôn Lạc nói xong phi ngựa lao tới múa đao chém Vũ Hạo. Vũ Hạo múa đao chống trả hai bên kẻ đánh qua người trả lại bụi cát mịt mù đánh hơn ba mươi hiệp. Vương Tôn Lạc giả đò thua bỏ chạy. Vũ Hạo đuổi theo chém Vương Tôn Lạc. Vương Tôn Lạc bất ngờ quay ngựa trở lại chém một đao như thiên lôi giáng. Vũ Hạo tránh không kịp trúng một đạo ngã nhào xuống ngựa chết tốt.

    Quân Ngô thắng thế Hạp Lư chỉ kiếm vào quân Việt Trung Nguyên ra lệnh tấn công thế là hơn 10 vạn quân Ngô ào ào xông lên. Doãn Thường cũng chỉ kiếm vào quân Ngô thét lớn tấn công thế là quân Việt Trung Nguyên ào ào xông tới xáp lá cà với quân Ngô trận chiến dậy trời dậy đất.

    Doãn Thường biết đánh không lại ra lệnh quân binh rút lui bỏ chạy. Hạp Lư thắng thế rượt đuổi theo Quân Trung Nguyên chém tơi bời. Quân Việt Trung Nguyên bỏ chạy một đoạn thời dừng lại bắn pháo lên trời không chạy nữa mà quay trở lại chống trả quyết liệt. Chận đứng hơn 10 vạn quân Ngô. Mười vạn quân Ngô tạm thời tiến tới không nổi. Hạp Lư đang hăng say thắng thế thúc quân binh xông tới tiêu diệt 2 vạn quân Trung Nguyên.

    Cùng lúc ấy từ phía Đông một đạo quân Việt Trung Nguyên đông như kiến chiêng trống dậy trời nhanh chóng lao tới đánh bọc lên tấn công vào khúc giữa mười vạn quân Ngô. Quân Ngô tức thời bị cắt ra làm hai.

    Cùng Lúc ấy một đạo quân Việt Trung Nguyên khác từ phía Tây Điền Lý đánh ập xuống. Hạp Lư bị quân Trung Nguyên tấn công đầu, đuôi, khúc giữa thế mạnh như chẻ tre. Quân Ngô rối loạn, quân Việt Trung Nguyên chém tới tấp Quân Việt Trung Nguyên phát cờ rợp trời rợp đất gươm đao giáo mác dậy trời. Từ cánh Đông đánh bọc lên thế mạnh như vũ bão.

    Tướng Ngô là Tôn Các thúc quân binh chống trả. Tướng Trung Nguyên là Linh Cô Phù phi ngựa chém Tôn Các. Tôn Các đánh không lại bị Linh Cô Phù chém một đao hồn du địa phủ.

    Quân Trung Nguyên lấn thế chém quân Ngô như chém chuối. Cùng lúc ấy Linh Quang Dũng thúc quân binh từ phía Tây đánh xuống thế mạnh như nước vỡ bờ vào khúc đuôi quân Ngô.

    Tướng Ngô là Bá Chu thúc quân binh chống trả. Linh Quang Dũng phi ngựa tới múa giáo chém Bá Chu. Bá Chu đánh không lại bị Linh Quang Dũng chém một giáo rồi đời.

    Quân Ngô mất tướng quân Trung Nguyên ào ào lao tới chém quân Ngô như chém chuối thây ngã la liệt. Hạp Lư biết là đã trúng kế bẫy của Doãn Thường kinh hồn bạt vía chưa biết phải làm sao không lẽ phải bỏ mạng tại nơi đây.

    Vương Tôn Lạc, Bá Hi, Chư Nghị nói:

    Chúa Công mau đi theo chúng thần.

    Vương Tôn Lạc, Bá Hi, Chư Nghị ra sức bảo vệ Hạp Lư tháo chạy về Ngô. Chạy đến Dương Hạ thời trời cũng đã sẩm tối Hạp Lư nghĩ quân Việt Trung Nguyên không còn rượt đuổi theo nữa liền tạm nghỉ xả hơi Hạp Lư nhìn quân binh tướng tá người nào người nấy tả tơi bơ phờ thời tức muốn trào máu họng.

    Nhìn lên trời nói:

    Không ngờ Doãn Thường là tay quỉ quyệt như vậy. Nhưng ngươi cũng chỉ là tầm thường nếu không thời Ta khó mà thoát chạy.

    Hạp Lư vừa mới nói xong thời nghe chiêng trống vang trời quân reo dậy đất, quân Trung Nguyên bao vây đánh ập tới. Hạp Lư kinh hồn bạt vía.

    Linh Việt Hàn phi ngựa tới hét:

    Hạp Lư mau nạp mạng.

    Vương Tôn Lạc nói:

    Chúa Công mau bỏ áo mão giả làm quân binh trốn thoát.

    Hạp Lư không còn cách nào hơn giả làm quân binh cùng Vương Tôn Lạc, Chư Nghị, Bá Hi, trốn chạy về nước Ngô. Cũng may Ngũ Viên, Phù Sai đem quân ứng cứu Hạp Lư mới thoát chết trở về nước Ngô. Điểm lại quân số 10 vạn quân chỉ còn có 3 vạn đi tiêu hơn 7 vạn. Hạp Lư càng nghĩ càng hận Doãn Thường vô cùng. Một trận thua nhục nhã chưa từng có.

    Nói về Bá Cổn, Tiêu Chấn chỉ huy cánh tả thống lãnh 7 vạn quân theo lệnh Hạp Lư vượt qua sông Dương Tử tiến đánh Tây Bắc Việt Trung nguyên. Quân Ngô thế mạnh như vũ bão tràn qua sông Dương tiến đánh các Quận Huyện phía Đông, Tây Bắc Văn Lang tức là các Quận Huyện phía Đông, Tây Bắc Trung Nguyên, quân Việt Trung Nguyên các Quận Huyện thua chạy.

    Bá Cổn, Tiêu Chấn tiến quân sâu vào đất Việt Trung Nguyên, phía Đông, Tây Bắc Văn Lang như chỗ không người, quân Ngô tiến đến Huyện Dương Hề thời nghe ngựa hí vang trời quân reo dậy đất. Quân Việt Trung Nguyên đến lúc nầy mới thật sự phản công quyết liệt.

    Đây nói về Chư Hạo Hạo, Trung Quân Nguyên Soái theo lệnh Việt Vương Tế Gia thống lĩnh 10 vạn quân cùng hai con là Chư Kế Dĩnh, Chư Tôn Quá. Kết hợp cùng Vua Cương Việt, Vua Ngô Việt, Vua Hung Việt trấn giữ Tây Bắc Văn Lang, tức là Tây Bắc Việt Trung Nguyên.

    Đến đời Việt Vương Doãn Thường. Thời đội quân thám báo cho biết quân Ngô tiến đánh phía Đông Tây Bắc Trung Nguyên. Tức thời Chư Hạo Hạo cho người khẩn cấp báo cho Việt Vương Doãn Thường. Việt Vương Doãn Thường ra lịnh Chư Hạo Hạo dốc toàn lực lượng tiêu diệt cho bằng được quân Ngô. Chư Hạo Hạo bày binh bố trận như sau:

    Các Trấn chư hầu nghe lệnh: Vua Cương Việt, Vua Ngô Việt, Vua Di Việt, Vua Hung Việt phục kích phía Tây Huyện Dương Hề khi thấy pháo lệnh thời thúc quân binh tràn xuống bao vây tiêu diệt quân Ngô. Tuân Lệnh.

    Chư Kế Dĩnh nghe lịnh. Chủ Tướng thống lĩnh 3 vạn quân phục kích ở phía đông Huyện Dương Hề khi thấy pháo lệnh bắn lên trời thời từ cánh đông nhanh chóng kéo quân đến bao vây tiêu diệt quân Ngô. Tuân Lệnh.

    Chư Tôn Quá nghe lịnh. Chủ Tướng thống lĩnh 3 vạn quân nhanh chóng đến Dương Ba phía Bắc Huyện Dương Hề ẩn mình từ xa cứ để cho quân Ngô đi qua tiến về Huyện Dương Hề không chận đánh, đến khi nào nghe chiến trận nổ ra pháo lệnh bắn lên trời thời nhanh chóng điều động quân binh từ phía sau quân địch đánh tới. Tuân Lệnh.

    Chư Hạo Hạo phân bổ lực lượng xong. Liền cho 2 vạn quân mai phục gần phía nam Huyện Dương hề do phó soái Mạnh Hùng trực tiếp chỉ huy. Còn mình thời thống lĩnh 2 vạn quân đối mặt với quân Ngô.

    * * *


    PHẦN 16
    Đây nói về Bá Cổn, Tiêu Chấn tiến quân đến đâu thời quân Việt Trung Nguyên các Quận Huyện phía đông Tây Bắc ngã rạp đến đó quân Ngô thế mạnh như nước tràn bờ. Bá Cổn, Tiêu Chấn không coi quân Việt Trung Nguyên vào đâu cả dửng dưng tự đắc tiến quân ồ ạt. Không ngờ quân Ngô tiến vào đất Dương Hề thời nghe chiêng trống vang trời quân reo dậy đất.

    Chư Hạo Hạo thống lĩnh hai vạn quân từ xa lao tới chận đánh bảy vạn quân Ngô. Bá Cổn, Tiêu Chấn nhìn thấy hai vạn quân Trung Nguyên chận đánh thời nhìn lên trời cười ngất nói:

    Tướng Trung Nguyên mau quỳ xuống thời ta còn để cái đầu còn trên cổ. Bằng không thời ta làm thịt tất cả.

    Chư Hạo Hạo quát:

    Hai Tướng Ngô xâm lược kia người khác thời không biết hai ngươi là ai. Còn Ta thời Ta quá rõ hai ngươi chỉ là hai tên ăn cướp đầu Heo mặt Chó vừa ngu si vừa sủa bậy hôm nay gặp Ta thời kể như hồn du địa phủ.

    Bá Cổn, Tiêu Chấn nghe Chư Hạo Hạo chửi rát lỗ tai quá nổi nóng rút kiếm chỉ về phía quân Việt Trung Nguyên hét lớn:

    Chém sạch giết sạch cho ta.

    Thế là quân Ngô tràn tới như vũ bão chém ầm ầm vào quân Việt Trung nguyên. Quân Việt Trung Nguyên ra sức chống trả nhưng làm sao chống lại bảy vạn quân Ngô, đành thi nhau tháo chạy quân Ngô ào ào rượt đuổi theo một đoạn.

    Bỗng quân Ngô nghe chiêng trống rền trời quân Việt Trung Nguyên ẩn núp từ hai bên đường ào ra chân đánh quân Ngô. Quân Ngô bị chận đánh bất ngờ sanh ra lúng túng.

    Chư Hạo Hạo không bỏ chạy nữa mà thúc quân binh quay ngược trở lại hợp lực với quân Chư Mạnh Hùng tấn công vào quân Ngô như sấm sét. Chư Hạo Hạo cho quân bắn pháo lệnh lên trời đỏ rực. Từ cánh đông Chư Kế Dĩnh nhìn thấy pháo lệnh bắn lên trời đỏ rực. Tức thời bắn pháo lệnh tấn công đáp trả. Thúc ba vạn quân binh nhanh chóng tiến đánh quân Ngô.

    Cùng lúc ấy Vua Cương việt, Vua Ngô Việt, Vua Di Việt, Vua Hung Việt từ cánh tây thấy pháo lệnh tấn công bắn lên trời đỏ rực liền thúc quân binh nhanh chóng tiến đánh quân Ngô.

    Cùng lúc ấy Chư Tôn Quá phục kích ở Huyện Dương Ba thấy pháo lệnh tấn công bắn lên trời đỏ rực, liền nhanh chóng thúc ba vạn quân bao vây từ sau đánh tới.

    Quân Ngô bị bốn phương tứ hướng quân Việt Trung Nguyên tấn công dồn dập. Bá Cổn, Tiêu Chấn kinh hồn bạt vía biết đã rơi vào cạm bẫy Quân Nguyên nhưng tất cả đều đã trễ. Bá Cổn, Tiêu Chấn cho quân binh phá vòng vây tẩu thoát.

    Chư Hạo Hạo, Chư Mạnh Hùng quyết hạ gục Bá Cổn, Tiêu Chấn cho bằng được liền thúc quân đánh tới tấp. Quát lên:

    Con Chó Bá Cổn, con Lợn Tiêu Chấn kia chạy đâu cho thoát.

    Bảy vạn quân Ngô bị quân Việt Trung Nguyên bao vây đánh tơi tả. Bá Cổn, Tiêu Chấn bị trúng tên bỏ mạng tại sa trường. Quân Ngô chỉ còn một vạn sống sót trở về nước Ngô.

    Nói về Chuyên Tạo, Bá Cẩn thống lĩnh 7 vạn quân theo lệnh Hạp Lư Tiến đánh Lạc Giao Châu thế mạnh như hổ báo quân Việt Trung Nguyên các Quận Huyện thua chạy. Chuyên Tạo, Bá Cẩn thúc quân nhanh chóng đánh chiếm lấy Lạc Giao Châu. Quân Ngô do Chuyện Tạo, Bá Cẩn chỉ huy tiến đến Huyện Tiêu Sơn đi sâu vào đường rừng thời thấy lửa cháy đỏ trời phủ tới thiêu đốt quân Ngô. Chuyên Tạo, Bá Cẩn kinh hãi cho quân tháo lui.

    Đây nói về Thường Thọ Quá được thông tin mật báo là quân Ngô tiến đánh Lạc Giao Châu tức thời lên kế sách tiêu diệt quân địch. Thường Thọ Quá ra lịnh cứ để cho quân Ngô tiến sâu vào đất Việt Trung Nguyên đến Huyện Tiêu Sơn thời mới ra tay:

    Vua Đông Việt, Vua Hải Việt, Vua Giao Việt nghe lệnh. Ba trấn chư hầu nhanh chóng đem quân phục kích phía Tây Huyện Tiêu Sơn. Khi nào nhìn thấy rừng Phong Kê bốc cháy thời thúc quân tràn xuống đánh thẳng vào cánh hữu 7 vạn quân Ngô. Tuân Lệnh.

    Thường Thọ Chí nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh 3 vạn quân phục kích phía Nam Huyện Tiêu Dao. Khi quân Ngô tháo chạy qua đây thời chận đánh tiêu diệt quét sạch. Tuân Lệnh.

    Trương Hào nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh 5 nghìn quân phục kích đường rừng cách xa khỏi tầm dọ thám của chúng. Khi thấy quân Ngô tiến sâu vào đường rừng thời đốt lửa đánh hỏa công. Tuân lệnh.

    Còn Thường Thọ Quá thống lĩnh hơn ba vạn quân phục kích phía đông Huyện Tiêu Sơn. Thấy rừng Phong Kê bốc cháy thời nhanh chóng tiến quân đánh vào cánh tả quân Ngô.

    Đây nói về Chuyên Tạo, Bá Cẩn tiến quân sâu vào đất Việt Trung Nguyên. Không có một thế lực nào chống trả lại nổi quân binh các Quận Huyện bị đánh bại một cách dễ dàng. Đại quân Chuyên Tạo, Bá Cẩn tiến thẳng đến Lạc Gao Châu chỉ cần qua khỏi rừng Phong Kê là đến Lạc Giao Châu. Rừng Phong Kê tuy không lớn nhưng rất rậm lại nhiều khúc quanh co dễ bị đánh hỏa công. Chuyên Tạo là tay am hiểu nhiều binh pháp nên cho đại quân dừng lại không tiến vào rừng Phong Kê mà cho quân thám thính. Khi thám thính không có gì mới cho quân đi qua. Mà chỉ cho một vạn quân tiên phong mở đường mà thôi, còn 6 vạn quân khi nào thấy an toàn mới đi qua. Chuyên Tạo sai Phu Sái thống lĩnh một vạn quân qua rừng Phong Kê trước.

    Nói về Phu Sái thống lĩnh một vạn quân Ngô tiến sâu vào rừng Phong Kê đi qua hơn nửa rừng thời thấy rừng bốc cháy cọng với gió to lửa cuồn cuộn đỏ trời. Phu Sái kinh hồn bạt vía cho quân rút lui quân binh hỗn loạn đạp lên nhau tháo chạy.

    Phu Sái vừa nhìn thấy Chuyên Tạo thời nói:

    Chúng ta bị hỏa công rồi. Quân binh chết hơn nửa.

    Chuyên Tạo, Bá Cẩn tuy có lường trước nhưng cũng thấy bất an chưa kịp tính toán ra sao. Thời có người đến báo:

    Bẩm Chủ Tướng quân Việt Trung Nguyên từ phía Tây Tiêu Sơn tràn xuống đông như kiến tiến đánh quân ta.

    Chuyên Tạo kinh hãi:

    Có chuyện đó sao?

    Chuyên Tạo chưa kịp ra lệnh thời có quân đến báo:

    Bẩm Chủ Tướng phía Đông Tiêu Sơn quân Trung Nguyên cờ xí trùng trùng chiêng trống dậy trời tràn tới tấn công quân ta.

    Chuyện Tạo ra lệnh rút quân, nhưng không còn kịp nữa phía trước mặt là hỏa công. Hai bên Tả Hữu như hai gọng kìm đánh phủ tới. Quân Ngô ra sức chống trả hầu rút lui. Bá Cẩn thúc quân ra sức phá vòng vây.

    Bỗng nghe một tiếng quát như sấm nổ. Thì ra người quát đó chính là Thường Thọ Quá. Thường Thọ Quá múa đao phi ngựa tới chém Bá Cẩn. Bá Cẩn múa giáo chống trả hai bên đánh nhau khốc liệt. Thường Thọ Quá võ nghệ cao cường Bá Cẩn đánh không lại bị Thường Thọ Quá dớt cho một đao chết tốt.

    Quân Trung Nguyên thắng thế ào ào xông lên chém quân Ngô như chém chuối. Cánh Hữu quân Ngô bị quân Đông Việt, quân Hải Việt, quân Giao Việt tấn công như vũ bão. Quân Ngô đánh không lại thi nhau bỏ chạy.

    Chuyên Tạo phá được vòng vây kéo quân chạy về hướng Tây Bắc, quân binh xơ xác bơ phờ, mệt mõi, đói khác vừa chạy đến Huyện Tiêu Dao thời bị quân Việt Trung Nguyên chận đánh. Còn sức đâu mà chống trả. Thường Thọ Chí thấy Chuyên Tạo đang phá vòng vây trốn chạy.

    Thường Thọ Chí ra lệnh:

    Bắn chết thằng giặc cướp đó cho ta.

    Tức thời hàng nghìn mũi tên tập trung bắn vào chuyên Tạo. Chuyên Tạo ngã gục hồn du địa phủ, quân Ngô chết không còn một mạng.

    Đây nói về Hạp Lư qua khỏi Sông Dương ngồi thở dốc. Nói rằng:

    Không ngờ quân Việt Trung Nguyên quỷ quyệt như vậy, chúng đã có sự chuẩn bị từ trước dụ quân ta vào kế bẫy bao vây tiêu diệt.

    Hạp Lư hỏi:

    Còn hai cánh quân kia ra sao?

    Ngũ Viên nói:

    Bá Cổn, Tiêu Chấn đã bỏ mạng tại huyện Dương Hề chỉ còn hơn một vạn thoát thân. Bá Cẩn bỏ mạng tại Huyện Tiêu Sơn. Chuyên Tạo bỏ mạng tại Huyện Tiêu Dao, bảy vạn quân sống sót hơn vài trăm.

    Hạp Lư nghe xong thời điến cả hồn đi hết nổi. Phải có người dìu lên xe ngựa trở về Thiên Đô.

    * * *
     
Moderators: nhanjkl

Chia sẻ trang này