Đang dịch The Blackbird- TIM WEAVER

Thảo luận trong 'Góc dịch các tác phẩm tiếng Anh' bắt đầu bởi 72thudo, 1/4/24.

  1. vinaguy

    vinaguy Lớp 11


    6

    I got to the Gascoignes’ house a couple of minutes early. Georgia hadn’t arrived yet, so I walked along the street, getting a sense for the road and its surroundings.

    Tôi tới nhà gia đình Gascoignes sớm vài phút. Georgia vẫn chưa đến nên tôi đi bộ dọc theo con phố, cảm nhận con đường và khung cảnh xung quanh.

    The area was nice, mostly terraced houses. Cate and Aiden’s, and the ones either side of it, were easy to spot because thick sweeps of emerald-green ivy were growing between the ground and first floors. It was now two and a half years since they’d lived here, but none of the ivy had overgrown, which seemed to back up what Martin and Sue had said to me: Georgia looked after things here.

    Khu vực này rất đẹp, chủ yếu là nhà liền kế. Căn của Cate và Aiden, và những căn ở hai bên, rất dễ nhận ra vì những bụi cây thường xuân cong dài, dày đặc, màu xanh ngọc lục bảo, mọc giữa mặt đất và tầng một. Bây giờ đã hai năm rưỡi kể từ khi gia đình Gascoignes sống ở đây, nhưng không có cây thường xuân nào mọc um tùm, điều này dường như chứng minh cho những gì Martin và Sue đã nói với tôi: Georgia trông coi mọi thứ ở đây.

    She was the only one who could enter this ghost house.

    Cô ấy là người duy nhất có thể vào ngôi nhà ma này.

    ‘David?’

    “Anh David?”

    I turned, recognizing Georgia straight away from the pictures that Martin and Sue had shown me. Physically she didn’t share much with her sister, her brown hair threaded through with silver, the angles of her face a little less striking, but she had a beautiful smile and the most perfectly blue eyes.

    Tôi quay lại và nhận ra ngay Georgia từ những bức ảnh mà Martin và Sue đã cho tôi xem. Về mặt hình thể, cô không có nét chung gì nhiều với em gái, mái tóc nâu điểm bạc, các góc cạnh trên khuôn mặt kém nổi bật hơn một chút, nhưng cô có nụ cười đẹp và đôi mắt xanh hoàn hảo nhất.

    ‘Georgia,’ I said, shaking her hand. ‘I really appreciate you meeting me here.’

    “Georgia,” tôi nói và bắt tay cô ấy. “Tôi thực sự đánh giá cao việc cô gặp tôi ở đây.”

    ‘I’m sorry I’m late,’ she replied, her cheeks flushed. The heat of the day had eased off a little, but it was still warm. ‘I was only meant to be covering a few hours.’

    “Tôi xin lỗi tôi đến muộn,” cô trả lời, má đỏ bừng. Cái nóng ban ngày đã dịu đi đôi chút nhưng vẫn còn nóng. “Tôi chỉ dự định nói chuyện trong vài giờ thôi.”

    ‘Honestly, don’t worry.’

    “Thành thật mà nói, đừng quá lo lắng.”

    She started going through her bag.

    Cô bắt đầu lục lọi trong túi xách của mình.

    ‘Your parents gave me keys if it’s easier,’ I said.

    “Bố mẹ cô đã đưa chìa khóa cho tôi, chắc dễ tìm hơn,” tôi nói.

    ‘Ah, brilliant. I’ve got the other set in here somewhere – but alongside my first boyfriend, this bag has to be one of the worst decisions I’ve ever made.’ She smiled, took the keys from me and then unlocked the house, punching in the alarm code on a pad just inside the door. Handing me back Martin and Sue’s set, she said, ‘Come in.’

    “À, tuyệt vời. Tôi có một bộ khác ở đâu đây – nhưng cũng giống ông bạn trai đầu tiên của tôi, việc chọn chiếc túi này chắc chắn là một trong những quyết định tồi tệ nhất trong đời.” Cô ấy mỉm cười, lấy chìa khóa từ tay tôi rồi mở khóa nhà, nhập mã báo động trên một bàn phím ngay bên trong cửa. Trả lại cho tôi bộ chìa khóa của Martin và Sue, cô ấy nói, “Mời anh vào ạ.”

    The house had the appearance of a country cottage, with red-tiled floors in the hallway, an ornate wooden staircase and – through a living-room door on my left – a large stone fireplace with a wood burner. The furniture was rustic, a theme that continued through to the kitchen, where there was an Aga, a big dresser, shelves decorated with plates and jars, and a white ceiling with dark beams.

    Ngôi nhà trông giống kiểu nhà nông thôn, với hành lang lát gạch đỏ, cầu thang bằng gỗ trang trí công phu và – bước qua cửa phòng khách bên trái tôi – một lò sưởi lớn bằng đá có đầu đốt củi. Đồ nội thất dân dã, tiếp đến là cùng một phong cách trang trí vào tận nhà bếp, nơi có một chiếc bếp Aga, một tủ quần áo lớn, những chiếc kệ trưng bày các loại dĩa và bình, trần nhà màu trắng với những thanh xà tối màu.

    ‘They always wanted to live in the sticks,’ Georgia said.

    Georgia nói: “Chúng nó luôn muốn sống như người nhà quê.”

    That much was clear. What was also clear was that, in the time her sister and brother-in-law had been missing, Georgia had shown the house a lot of love. It smelled nice, despite how long it had gone without being lived in, the floors and carpets were all clean, the worktops spotless. It wasn’t all that unusual in missing persons cases to find family members treating an empty home with the same care as their own, as if it were soon going to be lived in again.

    Cách sống mộc mạc đã quá rõ ràng. Một điều cũng rõ ràng nữa là trong thời gian em gái và em rể mất tích, Georgia đã thể hiện rất nhiều tình yêu thương với ngôi nhà. Nó có mùi thơm dễ chịu, mặc dù đã lâu không có người ở, sàn nhà và thảm đều sạch sẽ, mặt bàn bếp không một vết bẩn. Chẳng có gì bất thường khi các thành viên trong gia đình đối xử với ngôi nhà trống rỗng của người mất tích bằng sự trông nom giống như nhà của mình, như thể người mất tích sẽ sớm quay về.

    ‘I’m afraid the water is off, so I can’t offer you a cup of tea.’

    “Tôi e là đã hết nước nên không thể mời anh một tách trà.”

    I told her not to worry and we went to the end of the hallway where the living room wrapped around from the left into a sunroom with a set of huge bifold doors. The garden, like the house, was well kept, although it was simple, perhaps deliberately so: the flower beds were empty, the patio clean. I didn’t know Cate, but I imagined it would have meant a lot to her to see how much effort had been put in by her sister.

    Tôi bảo cô ấy đừng câu nệ và chúng tôi đi đến cuối hành lang, nơi phòng khách bao quanh, từ bên trái đi vào phòng tắm nắng với một bộ cửa hai cánh khổng lồ. Khu vườn, cũng giống như ngôi nhà, mặc dù đơn giản, nhưng được chăm sóc cẩn thận, có lẽ có chủ ý như vậy: luống hoa sạch trống, hiên nhà sạch sẽ. Tôi không biết Cate, nhưng tôi tưởng tượng nếu cô ấy thấy chị gái mình đã bỏ bao nhiêu công sức trông nom như vậy thì điều đó sẽ có ý nghĩa vô cùng đối với cô.

    The angle of the sun had created a shaded corner in the living room, so we sat at the table and enjoyed what little breeze wafted through the doors from outside.

    Ánh nắng chiếu xiên đã tạo ra một góc râm mát trong phòng khách, nên chúng tôi ngồi vào bàn và tận hưởng những làn gió nhẹ thổi qua cánh cửa từ bên ngoài.

    ‘How did it go with Mum and Dad?’ Georgia asked.

    “Mọi chuyện với bố mẹ thế nào rồi?” Georgia hỏi.

    ‘It was good,’ I said, and then started to ask her the same sorts of questions I’d asked her parents: when she last saw Cate, how she seemed, any changes in her sister or moments that stuck.

    “Nói chung là tốt,” tôi nói, rồi bắt đầu hỏi cô ấy những câu hỏi tương tự như tôi đã hỏi bố mẹ cô: lần cuối cô gặp Cate là khi nào, cô ấy trông như thế nào, có bất kỳ thay đổi nào ở em gái cô hoặc có khoảnh khắc nào đọng lại hay không.

    ‘You two were close?’

    “Hai chị em cô rất gần gũi nhau à?”

    ‘Very. I mean, don’t get me wrong, we were sisters, and as teenaged girls in the same house we had our fair share of meltdowns.’ But a flicker of a smile edged across her lips: even the meltdowns were good memories for her now. ‘Cate went to university here in London, to do her photography, and I …’ She stopped. ‘I wasn’t as academic, put it that way. I suppose I gave Mum and Dad a few more sleepless nights than Cate did.’

    “Rất gần. Ý tôi là, đừng hiểu sai ý tôi nhé, chúng tôi là chị em, và khi còn tuổi teen ở cùng nhà, chúng tôi đã có những lúc tranh cãi về sự phân chia công bằng.” Nhưng một nụ cười sắc bén thoáng hiện trên môi cô: ngay cả những cuộc tranh cãi bây giờ cũng là những kỷ niệm đẹp đối với cô. “Cate học khóa chụp ảnh tại một trường đại học ở London, còn tôi…” Cô dừng lời. “Tôi không có học thức, cứ nói vậy đi. Tôi cho rằng bố mẹ đã mất ngủ vì tôi nhiều đêm hơn Cate.”

    ‘In what way?’

    “Theo cách nào?”

    ‘Oh, typical teenage stuff, the type of thing that’ll give me a coronary when my own daughter gets to that age.’ She laughed a little. ‘I liked the bad boys, let’s just say that. Probably went to too many parties and didn’t work hard enough at school. But Cate … she only had two boyfriends before Aiden, both long-term. And she worked her arse off at school. She got As across the board at GCSE and A level.’

    “Ồ, những thứ điển hình của tuổi teen, những thứ mà khiến tôi đau tim khi con gái tôi cũng đến tuổi đó.” Cô ấy cười nhẹ. “Tôi thích đám trai hư, cứ cho là vậy đi. Có lẽ do tiệc tùng quá nhiều và không chịu học hành. Còn Cate… trước khi đến với Aiden, nó chỉ có hai người bạn trai, và đều yêu lâu dài. Và ở trường, nó đã học quần quật như con lừa. Nó đạt điểm A toàn diện ở kỳ thi GCSE(*) và trình độ A.”

    (*) Kỳ thi cuối cấp của học sinh 16 tuổi ở Anh và xứ Wales (General Certificate of Secondary Education) - ND.

    ‘What were those two relationships like before Aiden?’

    “Trước khi yêu Aiden, hai mối tình kia như thế nào?”

    ‘In what sense?’

    “Theo nghĩa nào?”

    ‘I mean, were they good? Turbulent? Did they end badly? I’m just looking for angles.’

    “Ý tôi là, họ có tốt không? Hay náo loạn hết cả lên? Kết thúc tồi tệ à? Tôi chỉ đang muốn có cái nhìn đa chiều thôi.”

    ‘Oh, I see. Well, she was with Aiden for nine years – so I suppose any fallout from her exes would have happened way before the accident.’ It was true, but I asked again if the relationships were good. ‘Yeah, I don’t remember them not being.’

    “Ừ, tôi hiểu rồi. Chà, nó đã sống cùng Aiden được chín năm – do đó tôi cho rằng bất kỳ hậu quả nào đến từ đám người yêu cũ của nó cũng đều đã xảy ra trước vụ tai nạn.” Đó là sự thật, nhưng tôi chỉ hỏi lại xem liệu các mối quan hệ này có tốt không. “Ừ, tôi không nhớ là chúng không tồn tại.”

    ‘Why did they end?’

    “Tại sao những cuộc tình đó lại chấm hết?”

    ‘The first was at school, but they split about two or three months after they both went to different universities on opposite sides of the country. The other one she went out with for about five years in her mid-twenties. They split because he got drunk and shagged some woman on a stag do – and Cate found out.’

    “Lần yêu đầu tiên là ở trường cấp ba, nhưng chúng nó đã chia tay khoảng hai hay ba tháng gì đó sau khi cả hai cùng theo học tại các trường đại học khác nhau ở hai đầu đất nước. Người còn lại mà nó đã hẹn hò khoảng 5 năm, khi nó trên dưới hai mươi. Chúng nó chia tay vì anh ta say rượu và có quan hệ tình dục với một người phụ nữ nào đó trong một cuộc liên hoan – và Cate đã phát hiện ra.”

    On the surface, it was true that neither relationship seemed relevant, but I got the men’s names from Georgia anyway, and made a note to follow up on it.

    Nhìn bề ngoài, đúng là không có mối tình nào liên quan, nhưng dù sao thì tôi cũng đã lấy được tên của những người đàn ông đó từ Georgia và ghi chú lại để điều tra.

    ‘So you said Cate always knew that she wanted to be a photographer?’

    “Vậy, cô nói Cate luôn muốn trở thành một nhiếp ảnh gia?”

    ‘Oh, she always knew exactly what she wanted to be, from as far back as I can remember. She always loved taking pictures, even when we were kids. Mum and Dad bought her this second-hand Polaroid camera back when she was maybe nine or ten, and she just took it everywhere with her. I mean, everywhere. It used to piss me off actually’ – Georgia was smiling again – ‘because you’d hear the whir of that bloody thing, and then turn around, and you’d realize she’d been watching you for ages, just trying to line up the perfect shot.’ She’d been pretty stoic up until now, but as the memory formed and played out in her head, there was the first glimmer in her eyes.

    “Ừ, theo tôi nhớ được, nó luôn biết chính xác nó muốn trở thành gì. Ngay khi còn bé, nó đã luôn thích chụp ảnh. Bố mẹ đã mua cho nó một chiếc máy ảnh Polaroid cũ khi nó chín hay mười tuổi gì đó, và nó luôn mang đi khắp nơi. Ý tôi là, ở mọi nơi. Thực ra nó từng làm tôi bực mình,” - Georgia lại mỉm cười – “bởi vì mình sẽ nghe thấy tiếng tạch tạch của thứ chết tiệt đó, rồi quay xung quanh, và mình nhận ra rằng nó đã theo dõi mình cả năm trời, để cố chụp hàng loạt hình chỉ để lựa được bức ảnh hoàn hảo nhất.” Cho đến bây giờ, Georgia đã khá bình tĩnh, nhưng khi ký ức tràn về trong đầu cô, ánh mắt cô lóe lên chút ánh sáng lờ mờ đầu tiên.

    She looked at me and then away again, as if embarrassed, so I gave her a few moments. ‘She loved stories,’ she said finally. ‘She used to say all the time that her pictures were stories, not photographs. She’d never press the button until she saw it.’

    Cô ấy nhìn tôi rồi lại quay đi, có vẻ như xấu hổ nên tôi đợi cô ấy giây lát. “Nó thích hóng chuyện,” cuối cùng cô nói. “Nó thường nói rằng những bức ảnh của nó là những câu chuyện chứ không phải là những bức ảnh. Nó sẽ không bao giờ bấm máy cho đến khi nó nhìn thấy có câu chuyện ẩn chứa trong đó.”

    I thought of the shots Cate had taken of the downed helicopter, and what Sue had said: She was drawn to the tragic.

    Tôi nghĩ đến những bức ảnh Cate đã chụp về chiếc trực thăng bị rơi và những gì Sue đã nói: Nó bị cuốn vào bi kịch.

    ‘She loved writing too,’ Georgia added.

    “Nó cũng thích viết lách,” Georgia nói thêm.

    ‘What did she write?’

    “Thế cô ấy đã viết những gì?”

    ‘It was all tied into the things she photographed. Often, when she took a picture, she then went and really dug down into the details behind it. So, for example, one of my favourite series was the one she took at that theme park. Did you ever see them?’

    “Tất cả đều gắn liền với những thứ nó chụp. Thông thường, khi chụp một bức ảnh, nó sẽ đào sâu vào những chi tiết ẩn chứa bên trong. Vì vậy, ví dụ, một trong những loạt ảnh yêu thích của tôi là mớ ảnh nó chụp ở công viên giải trí đó. Anh đã bao giờ xem chưa?”

    ‘I saw the picture of the roller coaster.’

    “Tôi đã xem bức ảnh chiếc tàu lượn siêu tốc.”

    ‘There were quite a few others, but yeah. I thought they were really eerie; like, you just don’t expect a theme park to look like that, do you? Anyway, she did an exhibition where all of them were on display, and next to the photos – on the wall – there would be a plaque or a board, or whatever, with something she’d written on it.’

    “Có khá nhiều những tấm ảnh khác, nhưng đúng vậy. Tôi nghĩ chúng thực sự ghê rợn; kiểu như, anh không mong đợi một công viên giải trí trông như thế, đúng không? Dù sao đi nữa, nó đã tổ chức một cuộc triển lãm trưng bày tất cả những bức ảnh đó và bên cạnh chúng – trên tường – sẽ có một tấm thẻ hay một tấm bảng, hoặc thứ gì đó, để nó viết ghi chú.”

    ‘Something like what?’

    “Viết ghi chú kiểu như thế nào?”

    ‘Like, where it was shot, what she was trying to capture, that sort of thing.’

    “Kiểu như, bức ảnh được chụp ở đâu, nó đang cố chụp cái gì, đại loại như thế.”

    ‘So, kind of like background?’

    “Vậy, kiểu giống như làm phông nền à?”

    ‘Exactly. It would aim to support the picture. The story.’ She frowned, as if she’d confused herself. ‘That sounds so airy-fairy, but she was really clever with it. You’d look at the photograph, and then look at the words on the wall next to it – maybe only a paragraph – and it was like you then had a full grasp of it. I suppose what I’m saying is, she was a really bloody good photographer, but I reckon she could just as easily have been a writer. She was so good at both. It made me sick.’

    “Chính xác. Nhằm mục đích hỗ trợ cho hình ảnh hay câu chuyện của nó.” Cô ta cau mày, như thể đang bị nhầm lẫn. “Điều đó nghe có vẻ không thực tế nhưng nó thực sự rất giỏi trong việc ghi chú. Anh nhìn vào bức ảnh, rồi nhìn vào những dòng chữ trên bức tường cạnh nó - có thể chỉ là vài dòng - và có vẻ như anh đã hoàn toàn hiểu được bức ảnh. Ý tôi là tôi cho rằng nó thực sự là một nhiếp ảnh gia giỏi, nhưng tôi nghĩ nó cũng có thể dễ dàng trở thành một nhà văn. Nó giỏi cả hai mặt này. Ôi mệt quá.”

    It was another joke, another broad smile, but while it was clear she’d adored her sister, it felt like a comment that was tinged with some element of truth. I made a mental note of it. ‘So did she ever try to get into photojournalism?’

    Thêm một trò đùa khác, một nụ cười rạng rỡ khác, nhưng rõ ràng là cô ấy rất yêu quý em gái mình nhưng lời nhận xét lại có cảm giác như chỉ có một chút sự thật. Tôi đã ghi nhớ điều này. “Vậy cô ấy đã bao giờ thử theo đuổi nghề báo ảnh chưa?”

    ‘I think, ultimately, that was where she saw herself, yeah. She never had anything major published in terms of her writing, but she contributed a few pieces to some photography magazines. You know, how-to guides. And she had her website.’

    “Tôi nghĩ rút cuộc thì nghề đó là nơi nó tìm thấy chính mình, vâng. Về mặt viết lách, nó chưa bao giờ xuất bản thứ gì, nhưng nó đã đóng góp một số mẩu tin cho một vài tạp chí ảnh. Anh biết đấy, ở mục hướng dẫn cách làm. Và nó đã có trang web riêng.”

    I’d come across it already in the background I’d done on Cate.

    Tôi đã tìm thấy những điều này trong bản thông tin tóm tắt của Cate.

    ‘It was more like a blog, though, right?’

    “Tuy nhiên, website của cô ấy có vẻ giống một blog hơn, phải không?”

    ‘Right,’ Georgia replied. ‘Just a place where Cate liked to put down her thoughts. Mostly it was photography stuff.’

    “Đúng rồi,” Georgia trả lời. “Chỉ là nơi Cate thích viết ra những suy nghĩ của mình. Chủ yếu là ảnh chụp.”

    There wasn’t any obvious connection between what had happened two and a half years ago on Gatton Hill and Cate’s job, but these were important steps in getting to know her, how she thought and where her interests lay. I switched tack to Aiden, trying to do the same with him, and asked Georgia to describe what he was like.

    Không có bất kỳ mối liên hệ rõ ràng nào giữa những gì đã xảy ra cách đây hai năm rưỡi trên đồi Gatton và nghề nghiệp của Cate cả, nhưng đây là những bước quan trọng để tìm hiểu cô ấy, cách cô ấy suy nghĩ và công việc ưa thích của cô ấy. Tôi chuyển chiến thuật sang Aiden, cố gắng hỏi những điều tương tự đối với anh ta và yêu cầu Georgia mô tả xem anh ta như thế nào.

    ‘He was easy-going,’ she responded, echoing what Martin and Sue had already told me. ‘Maybe too easy-going sometimes. He was pretty focused at work, but I know Cate could get frustrated with him around the house. He was …’ She stopped and looked at me. ‘No offence, but he was a typical man. Basically thought, outside of his own responsibilities, life magically ran itself. But one of the things we all loved about Aiden was that you could bring him up on anything and he’d never take offence. He was just really good fun. I mean, I was always taking the piss out of him.’

    “Nó rất dễ tính,” cô ấy trả lời, lặp lại những gì Martin và Sue đã nói với tôi. “Có lẽ đôi khi quá dễ tính. Nó khá tập trung vào công việc, nhưng tôi biết Cate có thể khó chịu khi nó ở nhà. Nó…” Cô ấy dừng lại và nhìn tôi. “Không có ý xúc phạm gì đâu, nhưng nó là một mẫu người đàn ông điển hình. Cơ bản là nó nghĩ rằng, ngoài trách nhiệm của mình, cuộc sống như trò ảo thuật sẽ tự nó vận hành. Nhưng một trong những điều mà tất cả chúng tôi đều thích ở Aiden đó là anh có thể nói với nó bất cứ điều gì và nó chẳng bao giờ khó chịu. Nó thực sự rất vui vẻ. Ý tôi là, tôi luôn chọc tức nó.”

    ‘About what?’

    “Chọc tức về cái gì?”

    ‘Oh, all sorts of stuff. Like, he got this haircut about a year before he and Cate disappeared and the hairdresser left a huge step at the back of his head. It was awful. So obviously none of us let that go for a while.’ She chuckled to herself. ‘And he used to be into open-water swimming – was really good at it too; he competed in all sorts of competitions – so he’d wax his whole body before a race, and inevitably that was a source of enjoyment for us as well. We used to call him the “Karate Kid”.’

    “Ôi, đủ thứ. Giống như, khoảng một năm, trước khi nó và Cate mất tích, nó đi cắt tóc và người thợ cắt tóc đã để lại một vết lớn như bậc tam cấp hằn sau gáy nó. Tệ thật đó chứ. Đấy, rõ ràng là không ai trong chúng ta chấp nhận chuyện đó.” Cô ấy cười khúc khích. “Và nó từng bơi lội ở vùng nước mở – Nó cũng rất giỏi môn này; nó đã tham gia đủ loại cuộc thi - vì vậy trước cuộc thi nó tẩy lông toàn bộ cơ thể, và chắc chắn chuyện này cũng là nguồn vui cho mọi người. Chúng tôi thường gọi nó là ‘Cậu bé Karate’.”

    ‘“Wax on, wax off.”’

    “Bật sáp, tẩy lông.”

    Georgia chuckled again. ‘Right.’

    Georgia lại cười khúc khích. “Phải đấy.”

    ‘Did Cate joke with him too?’

    “Cate có hay đùa với anh ấy không?”

    ‘Oh yeah. She was the ringleader most of the time.’ She paused for a moment, remembering it all, and then her smile faded a little. ‘I miss all of that. I miss them.’

    “Ồ vâng. Hầu như lúc nào nó cũng là người cầm đầu.” Cô ấy dừng lại một lúc, nhớ lại tất cả, rồi nụ cười của cô ấy nhạt dần. “Tôi nhớ tất cả những thứ đó. Tôi nhớ chúng nó.”

    ‘Did you all spend a lot of time together?’

    “Mọi người trong gia đình có dành nhiều thời gian bên nhau không?”

    ‘Tons. Me and Will – that’s my other half – and Cate and Aiden, we all got on great. And Cate and Aiden were amazing with Talia, our little girl.’

    “Quá trời luôn. Tôi và Will – là nửa kia của tôi – và Cate và Aiden, tất cả chúng tôi đều rất hợp nhau. Và Cate và Aiden đối xử thật tuyệt vời với Talia, con gái nhỏ của chúng tôi.”

    ‘Did they ever talk about wanting kids?’

    “Họ có bao giờ bàn chuyện muốn có em bé không?”

    ‘Not really, no. They were way too career-focused, I think. Cate had her thing; Aiden was high up at the design agency he worked for. His company did all sorts of stuff for these huge brands, and he was always zipping about here, there and everywhere, making presentations and meeting people. So their jobs often meant time apart in different places – but when they were together, they were tight. Hardly ever argued, never seemed to get sick of each other. My sister was lucky. Aiden worshipped the ground she walked on most of the time.’

    “Chẳng bao giờ. Tôi nghĩ chúng nó đã quá tập trung vào sự nghiệp. Cate có việc của nó; Aiden có vị trí cao ở công ty thiết kế nơi nó làm việc. Công ty của nó sản xuất đủ thứ cho những thương hiệu lớn và nó luôn chạy hết chỗ này đến chỗ nọ, thuyết trình và gặp gỡ mọi người. Vì vậy, công việc của chúng nó thường là phải xa nhau – nhưng khi ở bên nhau, chúng nó rất khăng khít. Hiếm khi cãi vã, dường như chưa bao giờ chán ghét nhau. Em tôi thật may mắn. Hầu hết thời gian, Aiden luôn tôn thờ nó, kể cả mặt đất dưới chân mà nó giẫm lên.”

    Her choice of words stopped me. ‘“Most of the time”?’

    Cô ta nói chuyện luôn rào trước đón sau. “‘Hầu hết thời gian’?”

    She shrugged. “They had a bit of a rough patch once.”

    Cô ta nhún vai. “Họ đã từng gặp một chút khó khăn.”

    ‘When was that?’

    “Đó là khi nào vậy?”

    ‘Maybe six months before they went missing.’

    “Có lẽ là sáu tháng trước khi chúng nó mất tích.”

    ‘Did your mum and dad know?’

    “Bố mẹ cô có biết chuyện họ gặp trục trặc không?”

    She shook her head. ‘No.’

    Cô ta lắc đầu. “Không.”

    They hadn’t mentioned it, so I’d guessed not.

    Bố mẹ cô ấy chưa đề cập đến chuyện này nên tôi đoán là không biết.

    ‘Why do you think Cate didn’t tell them?’

    “Tại sao cô nghĩ Cate không nói với họ?”

    ‘I guess because she didn’t want to stress them out unnecessarily. I think she only ever saw it as a temporary thing. She and Aiden, they were really solid the rest of the time. But there was a month or two there where it just got a bit rocky.’

    “Tôi đoán là vì nó không muốn làm họ căng thẳng một cách không cần thiết. Tôi nghĩ nó chỉ coi đó là chuyện tạm thời. Nó và Aiden, chúng nó thực sự rất vững vàng trong suốt thời gian còn lại. Nhưng có một hay hai tháng gì đó mọi chuyện hơi lung lay.”

    ‘What was the catalyst for it?’

    “Chất xúc tác cho chuyện này là gì?’

    Georgia opened out her hands. ‘I don’t know. She never wanted to talk about it – which was unusual for Cate, as we normally shared everything. But, whatever it was, she said they’d worked through it.’

    Georgia dang tay ra. “Tôi không biết. Nó không bao giờ muốn nói về chuyện đó – điều này thật bất thường đối với Cate, vì chúng tôi thường chia sẻ mọi thứ với nhau. Nhưng dù gì đi nữa, nó nói rằng chúng nó đã giải quyết xong.”

    I tapped my pen against the pad.

    Tôi gõ nhẹ cây bút vào tập giấy.

    ‘I remember a couple of things, though,’ Georgia went on. ‘One time, Cate said Aiden was pushing her to do something she wasn’t ready to do. I asked her what, but she didn’t want to say. I just assumed it was starting a family or something like that.’

    “Tuy nhiên, tôi vẫn nhớ một vài điều,” Georgia tiếp tục. “Một lần, Cate nói rằng Aiden đã thúc ép nó làm chuyện gì đó mà nó chưa sẵn sàng. Tôi hỏi nó chuyện gì, nhưng nó không muốn nói. Tôi chỉ giả định đó là việc khởi đầu một gia đình hoặc việc gì đó tương tự.”

    ‘And the other thing?’

    “Còn chuyện khác nữa sao?”

    ‘We met for a coffee in Kew, right in the middle of their rough patch, and I could tell she’d been crying. Then she got this call on her mobile.’

    “Chúng tôi đi uống cà phê ở Kew, ngay giữa khi chúng nó gặp khó khăn và tôi thấy nó khóc. Sau đó nó nhận được một cú điện thoại di động.”

    ‘From who?’

    “Từ những ai?”

    ‘I don’t know. But when she looked down at the phone and saw who was calling, she didn’t want me to see the screen.’

    “Tôi không biết. Nhưng khi nó nhìn xuống điện thoại và thấy người gọi, nó không muốn tôi nhìn vào màn hình.”

    ‘She tried to stop you from looking at the phone?’

    “Cô ấy đã che điện thoại lại à?”

    ‘She turned it over. But it was more than that.’

    “Nó đã lật úp lại. Nhưng còn nhiều hơn thế.”

    ‘What do you mean?’

    “Ý cô là gì?”

    ‘I mean, there was this look on her face as well, this expression. Maybe someone who didn’t know her like I did wouldn’t have even noticed. But I did.’

    “Ý tôi là, trông vẻ mặt nè, biểu cảm nè. Có lẽ một người nào đó không biết nó thì sẽ không nhận ra. Nhưng tôi thì biết.”

    ‘What did the expression say to you?’

    “Biểu cảm đó đã nói lên điều gì ?”

    ‘That she was worried about something but trying to disguise it.’ She paused. ‘Maybe it really was nothing. But it didn’t feel like nothing.’

    “Rằng nó đang lo lắng về điều gì đó nhưng cố che đậy.” Cô dừng lại. “Có lẽ thực sự không có chuyện gì cả. Nhưng tôi không nghĩ thế.”

    ‘So she didn’t pick up?’

    “Vậy là cô ấy không bắt máy?”

    ‘Not then, but whoever it was phoned back a few minutes later.’

    “Không bắt máy lúc đó, nhưng vài phút sau người đó gọi lại.”

    ‘And she took the call then?’

    “Và rồi cô ấy đã nhận cuộc gọi?”

    ‘Yes. She apologized and left the table.’

    “Vâng. Nó xin lỗi và rời khỏi bàn.”

    ‘Did you hear any of her conversation?’

    “Cô có nghe được phần nào cuộc trò chuyện ấy không?”

    ‘No,’ Georgia said, but then paused. ‘Well, maybe one word.’

    “Không,” Georgia nói, nhưng rồi dừng lại. “Chà, có lẽ chỉ một từ thôi.”

    ‘And what was that?’

    “Và đó là từ gì?”

    ‘I could be wrong, but I’m pretty sure she said “dunes”.’

    “Tôi có thể sai, nhưng tôi khá chắc chắn rằng cô ấy đã nói đến chữ ‘cồn cát’.”

    HẾT CHƯƠNG 6​
     
    72thudo and machine like this.
  2. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    Tác giả này cứ ưa dùng chữ PARTNER quá các bác ạ. Lúc em dịch đụng phải nó là em lại không biết phải làm sao... Em không biết nên dịch là CHỒNG hay dịch là NGƯỜI TÌNH nữa cơ... Có đoạn em biết rõ là CHỒNG thì em quết chồng vào rồi, có nhiều đoạn em không xác định được luôn :((:((:(( Đang để là ĐỐI TÁC :D:D:D
     
  3. vinaguy

    vinaguy Lớp 11


    7

    ‘“Dunes”?’ I asked. ‘As in, “sand dunes”?’

    “Cát?” Tôi hỏi. “Như trong ‘cồn cát’?”

    ‘Yes,’ Georgia said, ‘I think so.’

    “Ừ,” Georgia nói, “tôi nghĩ thế.”

    I took a second to think. Dunes sounded pretty similar to a lot of other words, and when I tried to remember if I’d seen any shots of sand dunes in Cate’s albums, I couldn’t recall a single one. Even if there were, though, and Georgia was right, why would that have anything to do with Cate and Aiden’s disappearance?

    Tôi mất một giây để suy nghĩ. Cồn cát nghe khá giống với nhiều từ khác, và tôi cố nhớ xem liệu mình đã thấy bức ảnh nào về cồn cát trong album của Cate hay không, tôi không thể nhớ ra. Tuy nhiên, cứ cho là có đi và cứ cho là Georgia đúng đi, thì tại sao chúng lại liên quan đến sự mất tích của Cate và Aiden?

    ‘You said this was right in the middle of their rough patch?’

    “Cô nói chuyện này xảy ra ngay giữa thời điểm khó khăn của họ?”

    ‘Yes.’

    “Đúng rồi.”

    ‘And she didn’t share anything with you about her marriage?’

    “Và cô ấy không chia sẻ bất cứ điều gì với cô về cuộc hôn nhân của mình?”

    She shook her head. ‘No, not really. She just said they were going through a difficult time – “working things out”. I kept trying to press her about it – but she just kept telling me not to worry. I’ve got to admit it did hurt me a little. It was the first time that she’d ever not been open with me. It made me feel …’ Georgia paused, searching for the word. ‘I don’t know. Confused, I guess.’

    Cô ta lắc đầu. “Không, không hẳn vậy. Nó chỉ nói rằng chúng nó đang trải qua một khoảng thời gian khó khăn - "mọi việc đã được giải quyết". Tôi tiếp tục thuyết phục nó nói về điều đó - nhưng nó cứ bảo tôi đừng lo lắng. Tôi phải thừa nhận rằng tôi hơi bị tổn thương một chút. Đây là lần đầu tiên nó không cởi mở với tôi. Nó khiến tôi cảm thấy…” Georgia ngừng lại, tìm từ ngữ. “Tôi không biết. Tôi rối trí quá.”

    ‘You said their rough patch only lasted for a month or two?’

    “Cô nói khó khăn của họ chỉ kéo dài khoảng một hoặc hai tháng?”

    ‘About that, yes.’

    ‘Vâng, tầm tầm khoảng đó.’

    ‘How did it resolve itself?’

    “Rồi chuyện đó tự qua được à?”

    ‘One day she told me that things were better. I kept asking her what had happened, but she said it was just something that she and Aiden needed to work out for themselves.’ Georgia shrugged. ‘I mean, what else was I supposed to say? It was clear she didn’t want to get into it and, afterwards, things just went back to normal.’

    “Một ngày kia, nó bảo tôi rằng mọi thứ đã tốt hơn rồi. Tôi liên tục hỏi nó chuyện gì đã xảy ra, nhưng nó nói đó chỉ là chuyện riêng mà nó và Aiden tự giải quyết được.” Georgia nhún vai. “Ý tôi là, tôi còn biết nói gì nữa đây? Rõ ràng là nó không muốn ai tham gia vào chuyện đó và sau đó, mọi thứ lại trở lại bình thường.”

    ‘And that was six months before the crash?’

    “Và đó là sáu tháng trước vụ tai nạn?”

    ‘Approximately, yes.’

    “Đại khái là vậy.”

    ‘Did you tell the police all this?’

    “Cô đã báo cảnh sát tất cả chuyện này chưa?”

    ‘About the dunes thing, yes – but I forgot about the other thing. You know, Aiden trying to push her into something she didn’t want to do. I think because, in my head, I thought it was about having kids, I kind of dismissed it.’

    “Về chuyện cồn cát thì rồi, vâng – nhưng tôi quên mất chuyện khác. Anh biết đấy, Aiden đang cố ép nó làm điều mà nó không muốn. Tôi nghĩ bởi vì trong đầu tôi luôn nghĩ về chuyện có em bé nên tôi đã bỏ quên mất những chuyện khác.”

    ‘What did the cops say about the dunes thing?’

    “Thế cảnh sát nói gì về chuyện cồn cát?”

    ‘They didn’t seem to think it was important.’

    “Dường như họ cho rằng chuyện đó không quan trọng.”

    I wrote down dunes and underlined it a couple of times, and then moved on again. ‘I know Aiden was an only child, but does he have any family he’s close to?’

    Tôi viết ra những cồn cát và gạch chân nó vài lần, rồi lại tiếp tục đồ đi đồ lại. “Tôi biết Aiden là con một, nhưng anh ấy có ai thân thiết nữa không?”

    ‘He’s got a couple of cousins – but they both live up north. One of them came down after the crash, but I don’t know …’ She paused, pushing her lips together. ‘I know cousins can be close, but it’s not the same as brothers or sisters – or parents.’

    “Nó có vài người anh em họ – nhưng cả hai đều sống ở phía bắc. Trong đó, một người bị ngã trong một vụ đụng xe, nhưng tôi không biết…” Cô ngừng lời và mím môi. “Tôi biết anh em họ hàng có thể thân thiết, nhưng cũng chẳng giống được như anh chị em ruột – hay cha mẹ.”

    ‘And I understand both his parents are dead.’

    “Và tôi biết được cả cha mẹ anh ấy đều đã chết.”

    ‘His dad died before he met Cate, and his mum passed on four years later. Cancer, both of them.’

    “Bố nó mất trước khi nó gặp Cate, còn mẹ qua đời bốn năm sau đó. Ung thư, cả hai đều bị ung thư.”

    We talked more about Aiden’s extended family and Georgia said she’d dig out the contact details of his cousins for me.

    Chúng tôi nói chuyện nhiều hơn về đại gia đình của Aiden và Georgia nói rằng cô ấy sẽ tìm hiểu chi tiết cách liên lạc với anh em họ của Aiden cho tôi.

    ‘Have you ever watched the YouTube video?’ she asked.

    “Anh đã bao giờ xem video trên YouTube chưa?” cô ấy hỏi.

    I looked at her. ‘You mean the CCTV footage from just before the crash?’

    Tôi nhìn cô ấy. “Ý cô là đoạn clip do camera giám sát ghi lại ngay trước vụ tai nạn?”

    She nodded. I had watched the video of Cate and Aiden that had been posted, many times over, but as an investigative tool it was basically worthless. Ten seconds before the crash everything was fine. It wasn’t that part that was going to get me the answers I sought, it was what happened after the car hit the ravine. But that didn’t stop Internet commenters making the video seem like a vital piece of evidence. Online, in the hands of anonymous posters, that short few seconds of a Land Rover appearing and passing the camera was the key to unlocking everything.

    Cô ấy gật đầu. Tôi đã xem đi xem lại nhiều lần đoạn video về Cate và Aiden được đăng rồi, nhưng xét về mặt công cụ điều tra thì về cơ bản nó chẳng có giá trị gì. Mười giây trước khi va chạm, mọi thứ vẫn ổn. Không phải đoạn đó sẽ mang lại cho tôi những câu trả lời mà tôi đang tìm kiếm, mà là những gì đã xảy ra sau khi chiếc xe lao vào khe núi. Nhưng điều đó không ngăn được những người bình luận trên mạng, coi đoạn video này có vẻ như là một bằng chứng quan trọng. Trên mạng Internet, đối với những người đăng bài ẩn danh, vài giây ngắn ngủi của một chiếc Land Rover xuất hiện và vượt qua camera chính là chìa khóa để mở toang mọi thứ.

    ‘“The Mystery of Gatton Hill”,’ Georgia said, the disdain heavy in her voice. ‘I hated that the media called it that. It made it sound like an episode from a TV show, like this fun puzzle everyone should get involved in. I mean, that video barely lasts any time at all and it’s got three million views or something.’ Her head dropped a little. ‘I hate myself for doing it, but sometimes, when things get a bit desperate, I find myself going on there and reading the comments.’ She looked at me, shook her head. ‘I don’t know why I do it.’

    “Bí ẩn ở đồi Gatton,” Georgia nói, giọng cực kỳ khinh bỉ. “Tôi ghét việc giới truyền thông gọi nó như vậy. Nghe có vẻ giống như một tập trong một chương trình truyền hình, giống như câu đố vui nhộn mà mọi người nên tham gia. Ý tôi là, đoạn video đó hầu như không tồn tại bất cứ lúc nào, cơ mà nó đã có ba triệu lượt xem hay gì đó.” Đầu cô ấy hơi cúi xuống. “Tôi ghét bản thân mình vì đã xem đoạn video đó, nhưng thỉnh thoảng, khi mọi thứ trở nên tuyệt vọng, tôi lại tự mình vào đó và đọc những dòng bình luận.” Cô ấy nhìn tôi, lắc đầu. “Tôi không biết tại sao tôi lại hành động như thế.”

    ‘You’re looking for answers. It’s understandable.’

    “Cô đang tìm kiếm câu trả lời. Điều này dễ hiểu mà.”

    ‘But there are no answers on there. It’s just people saying shit that hurts me. All this crap about how Cate and Aiden faked it, got out of the car and pushed it into the ravine themselves. Or how they owed money to people, which was why they had to go on the run. Or how Aiden deliberately crashed the car because he was trying to kill Cate for the insurance. It just goes on like that. None of it makes any sense, none of it holds up to examination – but that doesn’t stop it from hurting. I’m just glad I’ve kept Mum and Dad away from it – especially Dad.’

    “Nhưng ở đó không có câu trả lời. Chỉ là người ta nói những điều vớ vẩn làm tôi tổn thương thôi. Tất cả những chuyện tào lao về cách Cate và Aiden ngụy tạo tình tiết vụ tai nạn như thế nào, ra khỏi xe và tự mình đẩy nó xuống khe núi ra sao. Hoặc việc họ nợ tiền người khác, đó là lý do tại sao họ phải trốn chạy. Hay việc Aiden cố tình đâm xe vì anh ta đang cố giết Cate để lấy tiền bảo hiểm. Mọi chuyện cứ tiếp tục kiểu như vậy. Không thứ nào trong số đó có lý cả, không thứ nào trong số đó có thể kiểm chứng được - nhưng thứ đó không ngừng gây tổn thương. Bây giờ tôi vui vì đã giữ được bố mẹ tránh xa những chuyện đó – đặc biệt là bố.”

    ‘Why especially him?’

    “Tại sao lại đặc biệt là bố?”

    ‘He had a massive heart attack ten years ago. We thought we were going to lose him. Honestly? All this stuff online, all the lies and conspiracy theories – I genuinely think it would be the death of him.’

    “Bố bị một cơn đau tim nặng mười năm trước. Chúng tôi nghĩ rằng sẽ mất bố. Thật thà ư? Tất cả những thứ này trên mạng, tất cả đều là những lời dối trá và thuyết âm mưu – tôi thực sự nghĩ rằng những thứ đó sẽ gây ra cái chết cho bố.”

    I remembered seeing some of the user comments myself. I agreed with everything Georgia had said – comments on the Internet, more often than not, didn’t lead anywhere good – but I’d scrolled down all the same, wading through the swamp in the remote possibility that there might be something worthwhile, a line to help spark off an idea or theory.

    Tôi nhớ chính mình đã đọc một số bình luận của người dùng. Tôi đồng ý với tất cả những gì Georgia đã nói – những bình luận trên Internet, thường là chẳng có gì tốt đẹp – nhưng tôi vẫn cứ cuộn xuống, lướt qua một số lượng lớn bình luận xa vời với mong muốn kiếm được một thứ gì đó đáng giá, một dòng bình luận mà có thể giúp khơi dậy một ý tưởng hoặc một lý thuyết.

    What interested me most now, which I didn’t think about at the time, was how few question marks had been raised online about the witnesses. If there was ever a place for baseless accusations and unprovable conspiracies it was within the relative anonymity of a website’s comments section. And yet, even among those people who seemed to have studied the case quite closely, there was very little mention of Zoe Simmons and Audrey Calvert. Everyone, from cops to commenters, seemed to have believed the story the witnesses had given. And maybe that was because it wasn’t a story, but an actual, genuine account of what had gone on in the ravine.

    Điều khiến tôi quan tâm nhất bây giờ, điều mà lúc đó tôi không nghĩ tới, đó là trên mạng có rất ít câu hỏi được đưa ra về các nhân chứng. Nếu có một nơi dành cho những lời buộc tội vô căn cứ và những âm mưu không thể chứng minh được thì đó chính là phần dành cho nhận xét ẩn danh trong phần bình luận của một trang web. Chưa hết, ngay cả trong số những người dường như đã nghiên cứu vụ tai nạn này khá kỹ cũng có rất ít đề cập đến Zoe Simmons và Audrey Calvert. Tất cả mọi người, từ cảnh sát đến những người bình luận, dường như đều tin vào câu chuyện mà các nhân chứng đã kể. Và có lẽ vì đó không phải là một câu chuyện mà là một vụ việc có thật, chân thực về những gì đã diễn ra trong khe núi.

    Again, I tapped out a rhythm with my pen, trying to see between the lines. ‘Do you think one of them might have had an affair?’

    Một lần nữa, tôi dùng bút gõ nhịp nhịp, cố gắng nhìn rõ giữa các dòng chữ. “Cô có nghĩ một trong hai người họ có thể đã ngoại tình không?”

    ‘Cate? No way.’

    “Cate hả? Không đời nào.”

    ‘She hid that phone call from you.’

    “Cô ấy đã giấu cô cuộc điện thoại với người nào đó.”

    ‘I know but … I really don’t see it.’

    “Tôi biết nhưng… tôi thực sự không thấy chuyện ngoại tình.”

    ‘What about Aiden?’

    “Còn Aiden thì sao?”

    ‘Cate wouldn’t have taken him back.’

    “Chắc chắn Cate sẽ không quay lại với nó nữa đâu.”

    ‘She might not have known.’

    “Có thể cô ấy không biết thì sao.”

    ‘I think she would have found out. She always told me there were never any secrets between them and, away from their work, they lived in each other’s pockets. I think it would have been hard to hide an affair.’

    “Tôi nghĩ nó sẽ phát hiện ra. Nó luôn nói với tôi rằng giữa chúng nó không bao giờ có bất kỳ bí mật nào và ngoài công việc, chúng nó đi guốc trong bụng nhau kìa. Tôi nghĩ thật khó để che giấu chuyện ngoại tình.”

    Hard but not impossible, I thought.

    Khó nhưng không phải là không thể, tôi nghĩ bụng.

    ‘And if Aiden was cheating on her, she was decisive and single-minded about stuff like that. After her second boyfriend did the dirty, she just cut him off. They were together five years and she ended it right there and then, not even a flicker of hesitation. He used to turn up at the flat they had, begging her to take him back, and she wouldn’t even let him in. I mean, she was upset, don’t get me wrong, but she never wavered. Not even once.’

    “Và nếu Aiden lừa dối nó, nó sẽ dứt khoát và kiên quyết đối với những việc như thế này. Sau khi người bạn trai thứ hai của nó làm chuyện bẩn thỉu, nó liền cắt đứt quan hệ với hắn. Tuy chúng nó đã quen nhau được 5 năm nhưng nó đã kết thúc ngay và luôn, không một chút do dự. Hắn thường đến căn hộ nó ở, cầu xin nó quay lại, nhưng nó thậm chí còn không cho hắn vào nhà. Ý tôi là, nó rất buồn, đừng hiểu lầm tôi, nhưng nó không bao giờ dao động. Thậm chí dù chỉ một lần.”

    We were quiet for a moment, the house silent around us. And then, finally, she looked out at the living room, at the photos on the wall, and said, ‘What do you think happened to them?’

    Chúng tôi im lặng một lúc, xung quanh chúng tôi cả ngôi nhà đều im lặng. Và cuối cùng, cô ấy nhìn ra phòng khách, nhìn những bức ảnh trên tường và nói, “Anh nghĩ chuyện gì đã xảy ra với chúng?”

    This was the heart of it.

    Đây là trọng tâm của vấn đề.

    The what.

    Cái gì.

    The how.

    Làm thế nào.

    ‘I don’t know,’ I replied softly. ‘But I promise you, I’m going to find out.’

    “Tôi không biết,” tôi trả lời yếu ớt. “Nhưng tôi hứa với cô, tôi sẽ tìm ra.”

    HẾT CHƯƠNG 7​
     
    machine and 72thudo like this.
  4. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    8

    I left Georgia in the living room and did a search of the house.

    Tôi để Georgia ngồi lại trong phòng khách và đi kiểm tra ngôi nhà.

    Away from the breeze coming in through the back doors it was hot, stuffy, the air still as a tomb. As I came up the stairs on to the landing, a thick shaft of light poured in, motes of dust in the air, not a single one moving. There were three bedrooms up here, two opposite one another and a third at the other end of the landing, which I could see had been turned into an office.

    Cách xa làn gió mát thổi vào từ cửa sau, không khí trở nên nóng nực, ngột ngạt, xung quanh tĩnh lặng như nấm mồ. Khi tôi bước lên cầu thang dẫn tới chiếu nghỉ, một luồng ánh sáng dày đặc tràn vào, những hạt bụi bay lơ lửng trong không khí, không một hạt nào chuyển động. Có ba phòng ngủ ở trên này, hai phòng đối diện nhau và phòng thứ ba ở đầu kia của cầu thang, nơi tôi thấy đã được biến thành văn phòng.

    I concentrated on the first two bedrooms, looking inside wardrobes, drawers, kneeling at side tables. I spent time going through clothes and shoeboxes full of detritus at the bottom of a built-in cupboard, and then worked my way around to a bookcase in the second bedroom. I paused for a moment, wanting to see the types of books on display, trying to get a sense for Cate and Aiden as people, and not just as faces and names in a file. Thrillers, sci-fi, history, art – which could have been the choice of either of them given that Aiden worked for a design agency – and then a copy of No One Can See the Crows at Night by Eva Gainridge. My eyes lingered on that one; it always reminded me of Derryn, always brought home how little time we’d had together in our marriage and how long she’d been gone.

    Tôi tập trung vào hai phòng ngủ đầu tiên, nhìn vào bên trong tủ quần áo, ngăn kéo, quỳ xuống bên cạnh bàn. Tôi dành thời gian lục lọi quần áo và hộp đựng giày đầy mảnh vụn dưới đáy tủ âm tường, rồi lần tới tủ sách trong phòng ngủ thứ hai. Tôi dừng lại một lúc, muốn xem các loại sách được trưng bày, cố gắng hiểu Cate và Aiden với tư cách là con người chứ không chỉ là khuôn mặt và những cái tên trong hồ sơ. Truyện kinh dị, khoa học viễn tưởng, lịch sử, nghệ thuật - có thể là sự lựa chọn của một trong hai vì Aiden làm việc cho một công ty thiết kế - và sau đó là bản sao cuốn No One Can See the Crows at Night (Chẳng Ai Thấy Quạ Trong Đêm) của Eva Gainridge. Mắt tôi dán chặt vào cuốn đó; nó luôn làm tôi nhớ đến Derryn, luôn gợi nhớ về việc chúng tôi có rất ít thời gian bên nhau trong cuộc hôn nhân của mình và cô ấy đã ra đi được bao lâu.

    I headed through to the office. It was well lit by a huge bay window, but because the sun was on the other side of the house, the office didn’t quite have the stifling heat of the bedrooms or the landing. Under the window was a built-in seat filled with cushions, each cushion cover a black-and-white print of one of Cate’s photographs. A couple I recognized from her albums, but most were new: a shipyard, a lonely hill, a Spanish taxi.

    Tôi đi thẳng tới văn phòng. Nó được chiếu sáng rất tốt bởi một cửa sổ lồi lớn, nhưng vì mặt trời ở phía bên kia của ngôi nhà nên văn phòng không có cái nóng ngột ngạt của phòng ngủ hay đầu cầu thang. Dưới cửa sổ là một chiếc ghế gắn tường bọc đệm, mỗi chiếc đệm có in một bức ảnh đen trắng của Cate. Tôi nhận ra một vài bức ảnh trong album của cô ấy, nhưng hầu hết đều mới: một xưởng đóng tàu, một ngọn đồi vắng, một chiếc taxi Tây Ban Nha.

    There were two desks next to one another, chairs pushed under them. On one was a pencil pot and a cutting board and a few photographs in a pile; on the other an iMac, some more design books and some sort of pitch document for an advertising campaign. Above them was a corkboard but it was empty. I booted up the Mac and moved to the cupboards. On the front of one of the doors was a calendar, the date still set to January 2020, the last month anyone had seen Cate and Aiden alive.

    Có hai cái bàn đặt cạnh nhau, ghế được đẩy xuống dưới gầm. Trên một chiếc bàn có một lọ đựng bút chì, một cái bảng và một vài bức ảnh chất thành chồng; trên mặt bàn khác là chiếc iMac, thêm một số sách thiết kế và một số loại tài liệu giới thiệu bán hàng cho một chiến dịch quảng cáo. Phía trên những chiếc bàn là một tấm bảng treo chai nhưng trống trơn. Tôi khởi động máy Mac và di chuyển tới tủ đựng chén. Ở mặt trước của một trong những cánh cửa tủ chén là một cuốn lịch, vẫn còn dừng lại ở tháng 1 năm 2020, tháng cuối cùng người ta thấy Cate và Aiden còn sống.

    Inside were a series of shelves, laden with camera equipment. Folded tripods. Lenses. Memory cards. Reflective panels. Batteries. There was so much of it, it filled every shelf front to back. When I opened another door, I found more of the same.

    Bên trong là dãy kệ chứa đầy thiết bị chụp ảnh. Chân máy gấp. Ống kính. Thẻ nhớ. Tấm phản chiếu. Pin. Có quá nhiều thứ, lấp đầy mọi ngăn kệ từ trước ra sau. Khi tôi mở một cánh cửa khác, tôi cũng thấy nhiều thứ tương tự hơn.

    Behind a third door, though, were stacks of old boxes. A lot just contained more equipment – I recognized a lens pen and an air blower from my days as a journalist – but some contained random items like Christmas baubles. Others had books in, computer leads and USB sticks, pens, rulers and scalpels. In a smaller shoebox I found tons of old receipts, and as I began to go through them I saw that they were separated according to month, each month stapled together, and that the receipts covered the period between April 2019 and January 2020. The last receipt was for two coffees at a Starbucks on the M4 and was from New Year’s Day.

    Tuy nhiên, đằng sau cánh cửa thứ ba là những chồng hộp cũ. Rất nhiều hộp chứa nhiều thiết bị hơn – tôi nhận ra một chiếc bút có ống kính và một chiếc máy thổi khí từ những ngày tôi còn là nhà báo – nhưng một số lại chứa những món đồ linh tinh như đồ trang trí Giáng sinh. Những hộp khác đựng sách, dây dẫn máy tính và USB, bút mực, thước kẻ và dao mổ. Trong một hộp đựng giày nhỏ hơn, tôi tìm thấy rất nhiều biên lai cũ và khi bắt đầu xem qua, tôi thấy chúng được chia theo tháng, mỗi tháng được ghim lại với nhau và các biên lai được ghi trong khoảng thời gian từ tháng 4 năm 2019 đến tháng 1 năm 2020. Hóa đơn cuối cùng là cho hai ly cà phê Starbucks trên đường M4 vào ngày đầu năm mới.

    Forty-eight hours later, Cate and Aiden were gone.

    Bốn mươi tám giờ sau, Cate và Aiden đã ra đi.

    I tilted the box to see if there was any kind of label and there was: Tax & VAT.

    Tôi nghiêng hộp xem có còn loại nhãn hàng nào nữa không và thấy: Thuế & VAT.

    Maybe there’s something in here.

    Có lẽ có gì đó ở đây.

    I set them aside and bagged up all the memory cards and USB sticks. It would be an arduous task to go through them all, but if there was a small chance it might lead somewhere, it was a job worth doing. I then returned to the Mac. There was no login screen so, once it had loaded, I was able to start exploring the desktop.

    Tôi đặt những thứ trong hộp sang một bên và đóng gói tất cả thẻ nhớ và USB. Sẽ là một nhiệm vụ khó khăn để xem xét hết tất cả chúng, nhưng nếu có một cơ hội dù nhỏ để có thể lần ra thứ gì đó thì quả là một công việc đáng làm. Sau đó tôi quay lại chỗ chiếc Mac. Không có màn hình đăng nhập nên sau khi khởi động xong, tôi có thể bắt đầu khám phá desktop ngay.

    It looked like it had belonged to Aiden. He had all the projects he’d been working on in folders on the right-hand side – but most of it was stuff like mood boards and prototypes for corporate web pages. Next, I opened Photos. There were a lot of pictures of him and Cate, on holidays, with friends, with family. There were some of him doing the open-water swimming that Georgia had mentioned, some of him at the football with mates, a lot of him and Cate with Georgia and her partner Will. I closed it and went to his browser, to the History. The last site he visited, the day before he and Cate disappeared, was about football transfer rumours. As I went back through December, and then November, and then October, I found more of the same, basically on repeat. Aiden loved his football, his sport, mountain biking, and things like architecture and art too. Beyond what he was doing on the computer for work, he seemed to spend a lot of time looking at holidays and travel, something I’d already seen echoed in the photographs of him and Cate.

    Có vẻ như chiếc Mac này là của Aiden. Có tất cả các dự án mà anh ấy đang thực hiện trong các thư mục ở phía bên phải – nhưng hầu hết trong số đó là những thứ như bảng tâm trạng và nguyên liệu ban đầu cho các trang web của công ty. Tiếp theo, tôi mở thư mục Photos (Ảnh). Có rất nhiều bức ảnh của anh ta và Cate, trong những ngày nghỉ, với bạn bè, với gia đình. Có một số hình trong đó là hình anh ta đang thi bơi lội dưới nước mà Georgia đã đề cập, một số là hình anh ta đang đi xem bóng đá với bạn bè, phần nhiều trong số đó là Cate cùng với Georgia và bạn đời của cô ấy là Will. Tôi đóng thư mục Photos lại và mở trình duyệt web của anh ta, vào phần Lịch sử. Trang web cuối cùng anh ta truy cập, một ngày trước khi anh ta và Cate mất tích, là trang về tin đồn chuyển nhượng bóng đá. Khi tôi quay lại tháng 12, rồi tháng 11, rồi tháng 10, tôi thấy nhiều điều tương tự hơn, về cơ bản là lặp lại. Aiden yêu bóng đá, thể thao, đạp xe leo núi và những thứ như kiến trúc và nghệ thuật. Ngoài những gì anh ấy làm trên máy tính trong công việc, anh ta dường như dành nhiều thời gian để xem xét các kỳ nghỉ và du lịch, điều mà tôi đã thấy lặp lại nhiều trong những bức ảnh của anh ta và Cate.

    But then, just as I was about to close the computer down, I spotted something. I’d deliberately gone back six months from the date of their disappearance, in order to look at Internet activity around the time of the ‘rough patch’ Georgia had described – and that was where I found it. It was a Google search and a subsequent URL, both hidden among a ton of other more mundane links.

    Nhưng rồi, ngay khi tôi chuẩn bị tắt máy tính, tôi phát hiện ra điều gì đó. Tôi đã cố tình quay lại sáu tháng kể từ ngày họ mất tích để xem xét hoạt động trên Internet trong khoảng thời gian “giai đoạn khó khăn” mà Georgia đã mô tả – và đó là nơi tôi tìm thấy chúng. Đó là một tìm kiếm trên Google và tiếp theo là một URL (đường link), cả hai đều ẩn giữa vô số liên kết tầm thường khác.

    The Google search was for local police station.

    Tìm kiếm trên Google là về đồn cảnh sát địa phương.

    The URL was for a page on the Met website.

    URL dẫn đến một trang thuộc website của thành phố Met.

    I clicked on it but then realized there was no longer an Internet connection at the house, so used my phone as a hotspot to bring the page up on the Mac. It was an address and map for Twickenham Police Station.

    Tôi nhắp chuột vào link đó, nhưng sau đó nhận ra ở nhà không còn kết nối Internet nữa nên dùng điện thoại làm điểm phát sóng để truy cập trên máy Mac. Đó là địa chỉ và bản đồ của Sở cảnh sát Twickenham.

    Why would Aiden search for that?

    Tại sao Aiden lại tìm kiếm thứ đó?

    ‘How are you getting on?’

    “Làm thế nào anh mở máy tính ra được?'

    Georgia had appeared in the doorway. I could see she’d been crying. Her eyes were puffy and she was clasping a screwed-up ball of tissue.

    Georgia đã xuất hiện ở ngưỡng cửa. Tôi thấy cô ấy đang khóc. Đôi mắt cô sưng húp và cô đang ôm khư khư một cuộn khăn giấy.

    ‘Is it all right if I take these things?’ I asked gently, and held up the shoebox, its lid off, showing her the receipts and the bag of SD cards and USB sticks.

    “Tôi mang những thứ này đi được không?” Tôi nhẹ nhàng hỏi và giơ hộp đựng giày lên, mở nắp ra, cho cô ấy xem hóa đơn và túi đựng thẻ SD và USB.

    She nodded and then handed me a scrap of paper. ‘Here,’ she said. It was the numbers for Aiden’s cousins up north. ‘Like I say, I don’t really know them all that well – we only talked for the first time after Cate and Aiden went missing – but, you know, maybe they might come up with something that I can’t.’

    Cô ấy gật đầu rồi đưa cho tôi một mảnh giấy. “Đây,” cô nói. Đó là số điện thoại của anh em họ hàng của Aiden ở phía bắc. “Như tôi đã nói, tôi thực sự không biết rõ về họ – chúng tôi chỉ nói chuyện lần đầu tiên sau khi Cate và Aiden mất tích – nhưng, anh biết đấy, có thể họ sẽ biết điều gì đó mà tôi không biết.”

    I pointed to the screen. ‘Any idea why Aiden might have wanted to know where his local police station is?’ I asked. Georgia shook her head, confused, and said she had no idea at all. ‘You said Cate told you that Aiden was pushing her into doing something she didn’t want to do?’

    Tôi chỉ vào màn hình. “Cô có biết tại sao Aiden lại muốn tìm kiếm đồn cảnh sát địa phương ở chỗ nào không nhỉ?” Tôi hỏi. Georgia lắc đầu, bối rối và nói rằng cô không biết gì cả. “Cô nói Cate đã bảo cô rằng Aiden đang ép cô ấy làm điều gì đó mà cô ấy không muốn?”

    Georgia nodded, and I returned my gaze to the monitor. Could that thing have been going to the police? Why would he want her to do that?

    Georgia gật đầu và tôi quay lại nhìn màn hình. Việc làm đó liệu đã đến tai cảnh sát chưa? Tại sao anh ta lại muốn cô ấy làm điều đó?

    It was obvious that Georgia had no idea either way, so I shut the Mac down, and when I turned to her, she looked like she might be about to cry again.

    Rõ ràng là Georgia cũng không biết, nên tôi tắt máy Mac và khi tôi quay sang cô ấy, cô ấy lại trông như sắp khóc.

    ‘Are you okay?’ I asked.

    “Cô ổn chứ?” tôi hỏi.

    The answer was clear – it wasn’t just in her eyes, or in the tissue she held, it was like it was written into her skin – but she smiled all the same, even seemed oddly appreciative of me asking. It made me wonder if it had been a long time since anyone had asked her that. ‘I’m fine,’ she said softly, ‘it’s just, sometimes, it’s all a bit much.’

    Câu trả lời rất rõ ràng - nó không chỉ ở trong mắt cô ấy, hay trong chiếc khăn giấy cô ấy cầm, nó giống như được viết vào da cô ấy - nhưng cô ấy vẫn mỉm cười, thậm chí còn có vẻ tán thành câu hỏi của tôi một cách kỳ lạ. Điều đó làm tôi tự hỏi liệu đã lâu rồi chưa có ai hỏi cô ấy chuyện này sao. “Tôi ổn,” cô nói yếu ớt, “chỉ là, đôi khi, mọi thứ trở nên quá sức một chút.”

    ‘I know. I get it.’

    “Tôi biết. Tôi hiểu rồi.”

    She eyed me for a moment.

    Cô ấy nhìn tôi giây lát.

    ‘I read that …’ She stopped, swallowed. ‘I read that your wife died.’

    “Tôi đọc thấy…” Cô dừng lại, nuốt nước bọt. “Tôi đọc được rằng vợ anh đã mất.”

    ‘She did,’ I said simply.

    “Ừ, cô ấy đã mất,” tôi nói đơn giản.

    ‘I’m really sorry to hear that.’

    “Tôi rất lấy làm tiếc khi nghe điều đó.”

    ‘Thank you.’

    “Cảm ơn.”

    ‘How long has she been gone?’

    “Cô ấy mất được bao lâu rồi?”

    ‘Ten years.’

    “Mười năm.”

    We both looked at each other.

    Cả hai chúng tôi đều nhìn nhau.

    ‘What happened to Cate and what happened to my wife isn’t the same,’ I said, smiling at her. ‘For starters, I’m hoping for good news about Cate …’ I paused, looking around the office. Cate was everywhere here: in the equipment left behind; in the photos on the walls and on the cushions; in the furniture she chose, in the colour she painted the walls. My home still felt like this, even now. I’d struggled with it for years, being in the same place that my wife and I had lived in, laughed in, cried in; sleeping in the same bed I’d nursed her in during her last months. Maybe Georgia’s memories were different in this home, but they came from a similar place. I looked at her. ‘I guess what I’m saying is, whatever happens from here – and especially if the news is difficult – what you’re feeling won’t go away for a while. But, over time, like it did with me, it starts to become less oppressive.’

    “Những gì xảy ra với Cate và những gì xảy ra với vợ tôi không giống nhau đâu,” tôi nói và mỉm cười với cô ấy. “Đầu tiên, tôi luôn mong có tin tốt lành về Cate…” Tôi ngừng lời, nhìn quanh văn phòng. Cate đang có mặt khắp nơi ở đây: trong những thiết bị cô ấy bỏ lại; trong những bức ảnh trên tường và trên đệm; trong những món đồ nội thất mà cô ấy đã chọn, trong màu sắc cô ấy sơn trên tường. Ở nhà tôi cũng có cảm giác như thế này, thậm chí ngay cả bây giờ. Tôi đã vật lộn với cảm giác này trong nhiều năm trời, ở nơi mà vợ chồng tôi đã sống, đã cười, đã khóc; đã ngủ chung trên chiếc giường mà tôi đã chăm sóc cô ấy trong những tháng ngày cuối đời. Có thể ký ức của Georgia ở ngôi nhà này có hơi khác, nhưng ký ức thì đều đến từ một nơi tương tự đó là gia đình. Tôi nhìn cô ấy. “Tôi muốn nói là, bất cứ thứ gì xảy ra từ đây – và đặc biệt là những tin xấu – những gì cô đang cảm nhận sẽ không thể biến đi trong một sớm một chiều. Nhưng theo thời gian, giống như hoàn cảnh của tôi, mọi thứ rồi sẽ nguôi ngoai.”

    She nodded again.

    Cô lại gật đầu.

    And as we lingered there, both of us lost to different people, in different places at different moments in time, my eyes returned to the box of receipts, and I noticed that a couple from the November batch had shaken loose from the pile.

    Và khi chúng tôi nán lại ở đó, cả hai chúng tôi đều như những người khác nhau, như đang ở những nơi khác và vào những thời điểm khác, mắt tôi quay lại nhìn hộp đựng biên lai, và tôi nhận thấy một cặp biên lai từ đợt tháng 11 đã rơi ra khỏi đống.

    I took one of them out. It was dated 6 November. A chicken mayonnaise sandwich. A side portion of chips. A fruit tea.

    Tôi đã lấy ra một tờ. Đó là ngày 6 tháng 11. Một chiếc bánh sandwich thịt gà sốt mayonnaise. Một phần khoai tây chiên phụ. Một trà trái cây.

    But that wasn’t what had got my attention.

    Nhưng đó không phải là điều khiến tôi chú ý.

    It wasn’t the business – the Castle View Café – either.

    Đó cũng không phải là tên tiệm bán đồ ăn nhanh – quán cà phê Castle View.

    It was, instead, the address of the café, listed under its name, that had snagged me. As I stared at it, my thoughts racing, I remembered what Georgia had said about hearing Cate say dunes.

    Thay vào đó, địa chỉ của quán cà phê, được ghi dưới tên của nó, đã khiến tôi băn khoăn. Khi tôi nhìn chằm chằm vào nó, suy nghĩ của tôi quay cuồng, tôi nhớ lại những gì Georgia đã nói về việc nghe Cate nói về cồn cát.

    And I started to wonder if I’d just found a lead.

    Và tôi bắt đầu tự hỏi liệu có phải mình đã tìm được manh mối hay không.

    HẾT CHƯƠNG 8​
     
    72thudo thích bài này.
  5. vinaguy

    vinaguy Lớp 11


    9

    I looked at the receipt, at the black printed logo for the Castle View Café – a spidery ornate design with the t of Castle a turret – and then at the address printed below it.

    Tôi nhìn vào tờ biên lai, nhìn vào logo in màu đen của tiệm Castle View Café – một thiết kế trang trí cầu kỳ với chữ T của từ Castle hình tháp pháo – rồi nhìn vào địa chỉ được in bên dưới.

    Bamburgh, Northumberland.

    Bamburgh, Northumberland.

    I didn’t know that part of the country well but I knew enough. Bamburgh was a picturesque tourist spot on the North Sea coast, renowned for its iconic castle, which was perched on a dramatic crag overlooking the town. From memory I knew that that part of the country was home to something else too. The thing Cate had mentioned.

    Tôi không biết kỹ về vùng đó nhưng chắc cũng đủ. Bamburgh là một địa điểm du lịch đẹp như tranh vẽ trên bờ Biển Bắc, nổi tiếng với lâu đài mang tính biểu tượng cho cả vùng, nằm trên một vách đá cheo leo hùng vĩ nhìn ra thị trấn. Theo trí nhớ, tôi biết rằng khu vực đó cũng là quê hương của một thứ khác. Điều mà Cate đã nhắc đến.

    Sand dunes.

    Các đụn cát.

    Along that frill of the Northumberland coast there were acres of them.

    Dọc theo bờ biển Northumberland có rất nhiều đụn cát rộng hàng mẫu như vậy.

    Georgia had told me she’d meet me downstairs when I was done, so I took another quick look around the office and then gathered up everything I was going to take with me and returned to the living room. Georgia had moved out to the garden and was now turning over the earth in the empty beds. I watched her for a while from behind the glass of the patio doors, wondering how much I should tell her about what I’d found.

    Georgia đã nói với tôi rằng cô ấy sẽ gặp tôi ở tầng dưới khi tôi làm xong việc, vì vậy tôi nhìn nhanh quanh văn phòng một lần nữa rồi thu dọn mọi thứ tôi dự định mang theo và quay trở lại phòng khách. Georgia đã đi ra ngoài vườn và bây giờ đang đào xới trên những luống đất trống. Tôi quan sát cô ấy một lúc từ phía sau tấm kính cửa hiên, tự hỏi mình nên nói cho cô ấy biết ở mức độ nào về những gì tôi đã tìm thấy.

    These moments were always the hardest.

    Những khoảnh khắc như thế này luôn là những giây phút khó khăn nhất.

    A lot of the time the families had gone so long without answers, without any hope at all, that I found the lure to give them something, even something minor, very powerful. But I almost always resisted. Worse than giving someone no hope was giving them false hope, and I’d probably already gone too far in my assurances to the family – to Martin and Sue, to Georgia as well – that I would bring them the truth. I believed I would with every bone in my body, but believing it and delivering on it were two different things. I’d let my emotional connection to the work that I did get the better of me, so when Georgia finally noticed me, put down a trowel and came over, I said to her, ‘I’ve just been going through some of these receipts that Cate was saving for her year-end tax. She seemed to travel quite a lot in the time before she vanished.’

    Nhiều khi các gia đình đó đã phải trải qua một thời gian dài mà không có câu trả lời, không có chút hy vọng nào, đến nỗi tôi phải tìm một thứ bấu víu giả tạo nào đó, thậm chí là rất nhỏ nhoi, nhằm mang lại sức mạnh cho họ. Nhưng tôi hầu như phải luôn kìm nén lại. Thà rằng mang đến cho ai đó một niềm hy vọng hão huyền, còn tốt hơn là không có một tia hy vọng nào cả, và có lẽ tôi đã đi quá xa khi đảm bảo với gia đình - với Martin và Sue, cả với Georgia nữa - rằng tôi sẽ tìm ra sự thật cho họ. Tôi đã cực kỳ tin tưởng rằng tôi sẽ làm được điều đó, nhưng tin vào điều đó và thực hiện nó là hai chuyện khác nhau. Tôi đã để mối liên hệ cảm xúc của mình với công việc lấn át, nên cuối cùng khi Georgia chú ý đến tôi, đặt cái xẻng làm vườn xuống và bước tới, tôi nói với cô ấy, “Tôi vừa mới xem qua một vài tờ trong số biên lai mà Cate đã lưu cho việc quyết toán thuế cuối năm. Cô ấy dường như đã đi du lịch khá nhiều trong thời gian trước khi mất tích.”

    ‘My sister was always on the move.’

    “Em gái tôi luôn luôn đi lại.”

    ‘So her being in a place like Northumberland was pretty normal?’

    “Vậy, việc cô ấy ở một nơi như Northumberland là khá bình thường phải không?”

    ‘Absolutely. She travelled all the time.’

    “Tuyệt đối bình thường. Nó đi du lịch mọi lúc.”

    The mention of Northumberland didn’t seem to register with her. Instead, she looked around the living room, at some of the framed pictures on the wall. One was of the two sisters, a portrait in black and white that Cate must have set up. As Georgia’s gaze lingered on it, there was a faint tremor in her lips.

    Việc đề cập đến Northumberland dường như không gây ấn tượng với cô ấy. Thay vào đó, cô nhìn quanh phòng khách, nhìn vài bức tranh được đóng khung trên tường. Một bức là của hai chị em, một bức chân dung đen trắng mà Cate chắc hẳn đã sắp đặt. Khi Georgia nhìn chăm chú vào nó, môi cô thoáng run lên.

    ‘She was always on the hunt,’ she said quietly.

    “Nó luôn đi săn tìm,” cô nói lặng lẽ nói.

    ‘The hunt for what?’

    “Săn tìm thứ gì?”

    Georgia looked at me. ‘For the perfect story.’

    Georgia nhìn tôi. “Săn tìm một câu chuyện hoàn hảo.”

    I opened up the car, slid behind the wheel and then watched Georgia head back in the direction of the Tube station, thinking for a moment about some of the things we’d talked about, particularly Cate’s mention of dunes. There was every chance that Georgia might have misheard and that Cate hadn’t said it at all. And even if she had said it, it didn’t necessarily have anything to do with her and Aiden going missing. The same was true of Aiden’s search for his local police station. All of it could have meant nothing so, for now, I didn’t want to become too fixated on any of it.

    Tôi mở cửa xe, ngồi sau tay lái rồi nhìn Georgia quay trở lại hướng ga tàu điện ngầm, suy nghĩ một lúc về một số chuyện chúng tôi đã trao đổi, đặc biệt là việc Cate đề cập đến cồn cát. Có nhiều khả năng Georgia đã nghe nhầm và Cate chưa hề nói điều đó. Và ngay cả khi cô ấy có nói ra thì điều đó cũng không nhất thiết liên quan gì đến việc cô ấy và Aiden mất tích. Điều tương tự cũng đúng với việc Aiden tìm kiếm đồn cảnh sát địa phương. Tất cả những điều đó có thể chẳng có ý nghĩa gì nên hiện tại, tôi không muốn quá chú tâm vào bất kỳ điều gì trong số đó.

    Instead, I switched my attention back to the file on the Gascoignes’ crash, and specifically the two witnesses, checking over their personal details and the addresses besides their names. Horsham was an hour away, a straight drive down the M25 and M23. I could be there for seven fifteen if the traffic was kind. And, after, if I took the route back home to Ealing that avoided the motorway, Streatham would be on my way too. But it was still a detour – and neither of them might even be home.

    Thay vào đó, tôi chuyển sự chú ý của mình trở lại hồ sơ về vụ tai nạn của Gascoignes, đặc biệt là hai nhân chứng, kiểm tra thông tin cá nhân và địa chỉ cạnh tên của họ. Horsham cách đó một giờ, lái xe thẳng xuống đường M25 và đường M23. Tôi có thể ở đó lúc bảy giờ mười lăm nếu giao thông tốt. Và sau đó, nếu tôi đi về nhà ở Ealing mà tránh đường cao tốc, Streatham cũng sẽ đi theo đường đó. Nhưng đó vẫn là một con đường vòng – và có thể cả hai người họ đều không về nhà.

    I thought about whether the journey was worth it now.

    Tôi nghĩ xem liệu bây giờ làm một chuyến có đáng không.

    But not for long.

    Nhưng không lâu sau đó.

    A minute later, I was heading south to see Zoe Simmons.

    Chỉ một phút sau thôi, tôi đi về hướng nam để gặp Zoe Simmons.

    HẾT CHƯƠNG 9​
     
    72thudo thích bài này.
  6. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    Amelia

    30 Years Ago
    30 năm trước

    Amelia checked her watch again.

    Amelia kiểm tra đồng hồ lần nữa.

    Three minutes had passed.

    Ba phút đã trôi qua.

    It felt like three hours.

    Cảm giác như đã ba tiếng đồng hồ.

    She looked around the room, at the other women waiting for their scans. She counted seven seated, and then an eighth standing, who was moaning slightly, rubbing her belly, unable to sit because it appeared to be too painful to do so. Just watching her, the way her face would crease up, was making Amelia nervous. Amelia didn’t have any pain, but that didn’t mean everything was rosy: when she’d woken up that morning, she’d found a spattering of crimson spots on her bed sheet.

    Cô nhìn quanh phòng, nhìn những người phụ nữ khác đang chờ đến lượt siêu âm. Cô đếm được bảy người ngồi, rồi một người thứ tám đứng, đang rên rỉ nhẹ, xoa bụng, không thể ngồi được vì có vẻ quá đau đớn. Chỉ cần nhìn cô ấy, cách khuôn mặt cô ấy nhăn lại đã khiến Amelia lo lắng. Amelia không bị đau đớn gì, nhưng điều đó không có nghĩa là mọi thứ đều màu hồng: khi thức dậy vào sáng hôm đó, cô thấy một số đốm đỏ thẫm tung tóe trên ga trải giường.

    She was only nine weeks.

    Cô chỉ mới chỉ bầu chín tuần.

    Bleeding early in pregnancy couldn’t be good, could it?

    Chảy máu sớm trong thai kỳ không phải là điều tốt lành, phải không?

    She didn’t know, that was the truth. She was nineteen and didn’t know anything of the world, really. She readily acknowledged that herself. This whole pregnancy had been a mistake, a stupid drunken consequence of a stupid drunken night out. The worst thing was, she barely remembered the name of the guy she’d slept with. He’d been a friend of a friend, just another face at a party, and when she’d asked around about him in the days that followed – and especially, a few weeks later, as she missed her period and, hands shaking, took a test – no one could remember him. One of her friends seemed to think he was called Phil, but given that everybody at the party was pissed, Amelia wasn’t sure how reliable that information was. But ‘Phil’ was a starting point at least, even if a couple of months on from the party, she could barely even recall how Phil looked.

    Cô không biết, đó là sự thật. Cô mới mười chín tuổi và thực sự không biết gì về thế giới này. Bản thân cô cũng sẵn sàng thừa nhận điều đó. Toàn bộ quá trình mang thai này là một sai lầm, một hậu quả của một đêm say xỉn ngu ngốc. Điều tệ nhất là cô hầu như không nhớ tên người đàn ông mình đã ngủ cùng. Anh ta từng là bạn của một người bạn, chỉ là một gương mặt khác trong một bữa tiệc, và khi cô hỏi thăm xung quanh về anh ta trong những ngày sau đó – và đặc biệt, vài tuần sau, khi cô trễ kinh và, tay run rẩy, đã kiểm tra thử - không ai có thể nhớ được anh ta. Một trong những người bạn của cô lơ mơ nhớ rằng anh ta tên là Phil, nhưng vì mọi người trong bữa tiệc đều say bí tỷ, nên Amelia không chắc thông tin đó đáng tin cậy đến mức nào. Nhưng ‘Phil’ chí ít là nguồn cơn sự việc, ngay cả khi vài tháng sau bữa tiệc, cô thậm chí còn khó có thể nhớ được Phil trông như thế nào.

    That was when it hit her again: she was having the baby of a man she couldn’t pick out in a crowd.

    Đó là lúc cô chợt nhận ra: cô đang mang thai đứa con của một người đàn ông mà cô không thể nhận ra trong đám đông.

    No wonder she hadn’t told her parents yet.

    Chẳng trách cô vẫn chưa nói với bố mẹ mình.

    Amelia had been thinking about it all day every day since she’d taken the test and she reckoned that, after the initial shock had died down, her mum would probably be okay. Disappointed in her possibly; angry maybe – but okay. It was a female thing. ‘We women adapt and survive,’ Amelia’s mum said to her once when she found out Amelia’s dad was having an affair. The way Mum had adapted and survived was to refuse to chuck Dad out – and, instead, she made him suffer. He asked for her forgiveness, but she wouldn’t give it to him. He offered to do anything to make it up to her, and she let him without ever saying thank you.

    Amelia đã suy nghĩ về điều đó hết ngày này sang ngày khác kể từ khi cô thử thai và cô tin rằng, sau khi cú sốc ban đầu qua đi, mẹ cô có lẽ sẽ ổn thôi. Mẹ có thể thất vọng về cô; có thể tức giận - nhưng không sao. Đó là chuyện của phụ nữ. “Phụ nữ chúng ta thích nghi và tồn tại,” mẹ của Amelia đã từng nói với cô khi bà phát hiện ra bố của Amelia ngoại tình. Cách mẹ đã thích nghi và tồn tại là từ chối bố, đuổi bố ra ngoài - và thay vào đó, mẹ khiến bố đau khổ. Bố cầu xin sự tha thứ của mẹ, nhưng mẹ không đồng ý. Bố đề nghị làm bất cứ điều gì để bù đắp cho mẹ, và mẹ đã để mặc bố muốn làm gì thì làm mà không hề nói lời cảm ơn.

    So her mum would probably be okay eventually – but her dad would hit the roof. He’d probably try and apply for a gun licence just so he could buy a rifle and then hunt Phil Whoever-He-Was down. The thought, the image of her dad in that way, made Amelia smile – but the smile only briefly flickered. The woman in the corridor was starting to moan again – actually it was more like a wail now – and her partner was at the reception desk, angry, on edge.

    Vì vậy, cuối cùng thì mẹ cô có lẽ sẽ ổn thôi - nhưng bố cô sẽ nổi cơn thịnh nộ. Có lẽ bố sẽ cố xin cấp phép sử dụng súng chỉ để có thể mua một khẩu súng trường và sau đó săn lùng thằng Phil nào đó. Ý nghĩ đó, hình ảnh của bố cô theo cách đó khiến Amelia mỉm cười – nhưng nụ cười chỉ thoáng qua trong chốc lát. Người phụ nữ ở hành lang lại bắt đầu rên rỉ – thực ra bây giờ nó giống một tiếng kêu ái oán hơn – và bạn đời của cô ấy đang ngồi ở bàn tiếp tân, giận dữ và lo lắng.

    Amelia tried to tune it all out again.

    Amelia cố gắng lờ đi tất cả.

    But it was impossible to look around the waiting room and not feel scared. It wasn’t just the thought of having a baby at nineteen, of having no job and an education that was about to go no further than the two Cs she’d scraped at A level. It wasn’t the thought of missing out on parties or clubs, or on holidays with her mates. It wasn’t even the thought of telling her parents. It was the thought that if everything was still all right, if she wasn’t bleeding because something had gone wrong, she was doing this on her own. Sure, her parents would be there – even Dad, in the end, would come round – but there would be no partner. Telling herself that, repeating those words, sent a shiver of panic through her, and she started thinking that maybe it really would be better if something was wrong inside her. Maybe it would be for the best if this was the start of her losing the baby. Because how the hell was she going to cope with being a mum –

    Nhưng không thể nhìn quanh phòng chờ mà không cảm thấy sợ hãi. Đó không chỉ là ý nghĩ có con ở tuổi 19, không có việc làm và trình độ học vấn không cao hơn hai điểm C mà cô đã đạt được ở trình độ A. Đó không phải là ý nghĩ bỏ lỡ các bữa tiệc, câu lạc bộ hay những kỳ nghỉ cùng bạn bè. Đó thậm chí không phải là ý nghĩ nói với bố mẹ cô. Đó là suy nghĩ rằng nếu mọi thứ vẫn ổn, nếu cô không bị chảy máu vì có điều gì đó trục trặc thì cô đang tự mình xử lý việc này. Chắc chắn, bố mẹ cô sẽ có mặt ở đó - thậm chí bố, cuối cùng cũng sẽ đến - nhưng không có mẹ. Tự nhủ mình, lặp lại những lời đó, khiến cô rùng mình hoảng sợ, và cô bắt đầu nghĩ rằng có lẽ sẽ thực sự tốt hơn nếu có điều gì đó trục trặc trong cô. Có lẽ sẽ tốt nhất nếu đây là khởi đầu cho việc cô mất đứa bé. Bởi vì làm thế quái nào mà cô có thể đương đầu được với việc làm mẹ –

    ‘Amelia Robbins, please.’

    “Xin mời cô Amelia Robbins.”

    She looked up.

    Cô ngước lên.

    The nurse was searching the waiting room for her, so – heart beating hard in her chest – Amelia gingerly raised her hand and stood. ‘Yes,’ she said. ‘That’s me.’

    Cô y tá đang tìm kiếm cô trong phòng chờ nên – tim đập mạnh trong lồng ngực – Amelia rón rén giơ tay lên và đứng dậy. “Vâng,” cô nói. “Chính là tôi.”

    ‘Great,’ the nurse said, smiling.

    “Tốt,” cô y tá mỉm cười nói.

    It felt like everyone in the waiting room was staring at her, like every face was silently judging her – for being so young, for being so alone, and stupid, and naive.

    Cảm giác như mọi người trong phòng chờ đều đang nhìn chằm chằm vào cô, như thể mọi khuôn mặt đều đang âm thầm phán xét cô - vì còn quá trẻ, vì đi một mình, vì quá ngu ngốc và ngây thơ.

    She followed the nurse to the ultrasound suite.

    Cô theo y tá đến phòng siêu âm.

    HẾT CHƯƠNG AMELIA​
     
    72thudo thích bài này.
  7. vinaguy

    vinaguy Lớp 11


    10

    An hour and fifteen minutes later, I pulled into Zoe Simmons’s street.

    Một giờ mười lăm phút sau, tôi rẽ vào phố nhà Zoe Simmons.

    At the time of the crash, Simmons had been a twenty-year-old student, studying Sport and Leisure at a college in Crawley. I’d imagined the address would be for her parents’ place and when I pulled up outside the house – a red-bricked semi-detached near the train station – I discovered I was right. I knocked on the door and a woman in her fifties answered. She had bushy blonde hair and looked just like her daughter.

    Vào thời điểm xảy ra vụ tai nạn, Simmons là sinh viên 20 tuổi, đang theo học ngành Thể thao và Giải trí tại một trường cao đẳng ở Crawley. Tôi đã tưởng tượng địa chỉ này sẽ là nhà của bố mẹ cô ấy và khi tôi dừng xe bên ngoài ngôi nhà – một ngôi nhà gạch đỏ liền kề gần ga xe lửa – tôi phát hiện ra mình đã đúng. Tôi gõ cửa và một người phụ nữ khoảng năm mươi tuổi ra mở. Bà ấy có mái tóc vàng rậm rạp và trông giống hệt con gái mình.

    ‘Mrs Simmons?’

    “Bà Simmons phải không ạ?”

    ‘Yes.’

    “Đúng rồi.”

    I got out a business card. ‘My name’s David Raker. I’m an investigator.’

    Tôi lấy ra một tấm danh thiếp. “Tên tôi là David Raker. Tôi là một điều tra viên.”

    She took the card from me, studying it.

    Bà ấy nhận tấm thẻ từ tay tôi, xem xét cẩn thận.

    ‘I’m looking into the disappearance of Cate and Aiden Gascoigne.’ I could see straight away that she recognized the names. ‘I was hoping to speak to Zoe.’

    “Tôi đang điều tra vụ mất tích của Cate và Aiden Gascoigne.” Tôi phát hiện ra ngay rằng bà ấy đã biết những tên này. “Tôi đang mong được nói chuyện với cô Zoe.”

    ‘Oh, Zo just moved out,’ she said. ‘A couple of weeks back.’

    “Ồ, con Zo nó vừa mới dọn đi,” bà nói. “Vài tuần trước.”

    I got out my notebook. It had always been a risk turning up unannounced, but I still felt frustrated at having made the journey all the way down here for nothing. I tried not to show it, and said, ‘Whereabouts does Zoe live now?’

    Tôi lấy cuốn sổ tay ra. Đây là rủi ro của việc xuất hiện mà không báo trước, nhưng tôi vẫn cảm thấy thất vọng vì phải đi suốt chặng đường xuống đây mà chẳng được gì. Tôi cố gắng không biểu hiện điều này ra bên ngoài và nói, “Bây giờ cô Zoe sống ở đâu?”

    ‘In London, at her girlfriend’s flat.’

    “Ở London, tại căn hộ của bạn gái nó.”

    ‘Which part of London?’

    “Khu vực nào của London ạ?”

    ‘Dulwich.’

    “Dulwich.”

    It could have been a lot worse. Audrey Calvert lived in Streatham, which was only three miles west of Dulwich. In fact, depending on the time, if I went to Dulwich first to find Simmons, then to Streatham, I hardly had to deviate from my route home at all. When I glanced at Mrs Simmons, she was still staring at my card.

    Dở thật đấy. Audrey Calvert sống ở Streatham, chỉ cách Dulwich ba dặm về phía Tây. Trên thực tế, tùy theo thời điểm, nếu tôi đến Dulwich trước để tìm Simmons, sau đó đến Streatham, tôi hầu như không phải đi chệch hướng về nhà một chút nào. Khi tôi liếc nhìn bà Simmons, bà vẫn đang nhìn chằm chằm vào tấm danh thiếp của tôi.

    ‘Is everything okay?’ I asked her.

    “Mọi chuyện ổn chứ?” Tôi hỏi bà ấy.

    She almost jerked out of whatever thought or memory had pulled her in, as if I’d physically grabbed her – and then she looked over her shoulder, into the hallway behind her, and inched towards me, on to the front step, pulling the door behind her.

    Bà ấy gần như giật mình thoát ra khỏi dòng ký ức, như thể tôi đã tóm lấy bà ấy - rồi bà ấy nhìn qua vai, vào hành lang phía sau, và nhích dần về phía tôi, tới bậc thềm phía trước, kéo chiếc cánh cửa phía sau bà.

    She eyed me but didn’t say anything.

    Bà ấy nhìn tôi nhưng không nói gì.

    ‘Mrs Simmons?’

    “Bà Simmons?”

    ‘I, uh …’ She paused. ‘I just don’t want my husband to hear this.’

    “Tôi, ừm…” Bà ấy ngừng lời. “Tôi chỉ không muốn chồng tôi nghe thấy điều này.”

    ‘Okay.’ I waited.

    “Được.” Tôi chờ đợi.

    ‘Do you know much about that car crash?’

    “Anh có biết nhiều về vụ tai nạn xe hơi đó không?”

    ‘I’m still filling in details. Why, do you?’

    “Tôi vẫn đang thu thập thông tin chi tiết. Có vấn đề gì thưa bà?'

    ‘No, not much. Just what was reported.’ She looked at my business card again, then at me, as if weighing up whether to say any more. ‘Zo, she was such a good kid, you know?’ She stopped. ‘I mean, she’d only just turned twenty when this thing you’re investigating happened – so, obviously, she could be a bit sullen some days. But most of the time she was good as gold.’ She checked behind her again, making certain the door was shut. ‘My husband … he doesn’t think anything changed afterwards. That’s not surprising because when the kids – Zo and her brother – were growing up he’d often miss the little things in their behaviour that told me something was up.’ She looked at me. ‘What I mean to say is Zo … after that crash, she changed.’

    “Không, không có gì nhiều. Đúng những gì đã được báo cáo.” Bà ấy lại nhìn vào danh thiếp của tôi, rồi nhìn tôi, như thể đang cân nhắc xem có nên nói thêm gì nữa không. “Zo, nó là một đứa trẻ ngoan, anh biết không?” Bà ấy dừng lại. “Ý tôi là, nó chỉ mới bước sang tuổi hai mươi khi chuyện cậu đang điều tra xảy ra – vì vậy, rõ ràng là nó hơi bị rầu rĩ mất mấy ngày liền. Nhưng hầu hết thời gian con bé tốt như vàng mười.” Bà kiểm tra phía sau lần nữa để chắc chắn rằng cánh cửa đã đóng kín. “Chồng tôi… ông ấy không nghĩ có gì thay đổi sau đó. Chuyện đó không có gì đáng ngạc nhiên vì khi bọn trẻ – Zo và anh trai nó – lớn lên, ông ấy thường nhớ những việc nhỏ nhặt trong cách cư xử của chúng, điều đó cho tôi biết có chuyện gì đó không ổn.” Cô ấy nhìn tôi. “Điều tôi muốn nói là Zo… sau vụ tai nạn đó, con bé đã thay đổi.”

    I thought of Zoe’s Instagram page, the lack of posts after the day Cate and Aiden disappeared. ‘In what way did she change?’

    Tôi nghĩ đến trang Instagram của Zoe, thiếu vắng bài viết sau ngày Cate và Aiden mất tích. “Vậy cô ấy đã thay đổi như thế nào?”

    Mrs Simmons took a moment, as if gathering herself.

    Bà Simmons mất một lúc như thể đã bình tĩnh lại.

    “She became much quieter. Zo was always pretty boisterous growing up. She played football and hockey, went on nights out with her mates, did all the things teenagers her age should have been doing – and a few things she probably shouldn’t have.’ A hint of a smile. ‘But after the accident, something just …’

    “Con bé trở nên im lặng hơn nhiều. Zo lớn lên luôn khá huyên náo. Nó chơi bóng đá và khúc côn cầu, đi chơi đêm với bạn bè, làm tất cả những việc mà thanh thiếu niên ở độ tuổi của nó hay làm – và một số việc có lẽ nó không nên làm.” Một thoáng mỉm cười. “Nhưng sau vụ tai nạn, có điều gì đó…”

    ‘Altered?’

    “Đã thay đổi?”

    ‘Yeah.’

    “Vâng.”

    ‘Was it just that she became quiet – or were there other things?’

    “Cô ấy chỉ trở nên im lặng – hay còn có chuyện gì khác?”

    ‘She just wasn’t as open with us as she was before. I mean, I’m sure there were lots of things in her life that she didn’t share with us – I didn’t expect her to tell Greg and me every little thing she got up to. But she and I, we had a close relationship.’

    “Con bé không còn cởi mở với chúng tôi như trước nữa. Ý tôi là, tôi chắc chắn rằng có rất nhiều điều trong cuộc sống của nó mà nó không chia sẻ với chúng tôi - tôi không mong đợi con bé sẽ kể cho Greg và tôi nghe từng điều nhỏ nhặt mà nó đã làm. Nhưng nó và tôi, chúng tôi có mối quan hệ thân thiết.”

    “But it didn’t feel like that after the crash?”

    “Nhưng sau vụ tai nạn, cảm giác không phải như vậy, đúng không?”

    “No.” She shook her head. ‘She never talked about that day. Ever. If you tried to bring it up, she’d shut you down or just leave the room. I don’t know how to explain it, but I just … I knew …’ She faded out.

    “Không.” Bà lắc đầu. “Nó chưa bao giờ kể về ngày đó. Chưa từng. Nếu anh cố nhắc lại chuyện đó, nó sẽ im lặng hoặc rời khỏi phòng. Tôi không biết giải thích thế nào, nhưng tôi chỉ… tôi biết…” Giọng bà nhỏ dần.

    ‘You knew her better than anyone.’

    “Bà hiểu cô ấy hơn bất cứ ai mà.”

    She nodded. ‘She was my daughter.’

    Bà ấy gật đầu. “Nó đã là con gái tôi mà.’

    And then she looked at me, as if she realized she’d unwittingly said was, not is. Something had happened to Zoe two and a half years ago – and, after the crash, it wasn’t the same daughter that came back.

    Và rồi bà ấy nhìn tôi, như thể bà đã nhận ra mình đã vô tình nói ‘đã là’, chứ không phải ‘là’. Chuyện gì đó đã xảy ra với Zoe cách đây hai năm rưỡi - và sau vụ tai nạn, người quay lại không phải là cô con gái đó.

    It was someone else.

    Đó là một người khác.

    Someone who might have been keeping a secret.

    Người mà có thể đang nắm giữ một điều bí mật gì đó.

    HẾT CHƯƠNG 10​
     
    72thudo thích bài này.
  8. vinaguy

    vinaguy Lớp 11


    11

    The flat that Zoe Simmons lived in was the top floor of a semi-detached house near Dulwich Park. I found the only space at the end of the road and then walked back. There were two cars in the driveway, one of them a blue Suzuki Swift. It was the same vehicle Simmons had been driving that day on Gatton Hill.

    Căn hộ mà Zoe Simmons sống là tầng trên cùng của một ngôi nhà liền kề gần Công viên Dulwich. Tôi tìm được chỗ trống duy nhất ở cuối con đường rồi đi bộ về. Có hai chiếc ô tô trên lối vào căn hộ, một trong số đó là chiếc Suzuki Swift màu xanh lam. Đó chính là chiếc xe mà Simmons đã lái ngày hôm đó trên Gatton Hill.

    I buzzed the flat and waited for a response.

    Tôi gọi điện cho căn hộ và đợi trả lời.

    ‘Can I help you?’

    “Tôi có thể giúp được gì cho anh không?”

    Above me a window was open and a woman in her early twenties was perched on the sill. She was an attractive brunette with dark eyes, her cheeks slightly flushed. It could have been the lingering heat of late evening, but more likely it was because she was in the middle of exercising: she was wearing a sports bra and a pair of leggings.

    Phía trên tôi, một cửa sổ đang mở và một người phụ nữ khoảng hai mươi tuổi đang ngồi trên bậu cửa. Cô ấy là một cô gái tóc nâu hấp dẫn với đôi mắt đen, má hơi ửng hồng. Đó có thể là do cái nóng kéo dài của buổi tối muộn, nhưng nhiều khả năng là do cô ấy đang tập thể dục: cô ấy đang mặc một chiếc áo lót thể thao và một chiếc quần bó sát.

    This must have been Simmons’s girlfriend.

    Đây chắc hẳn là bạn gái của Simmons.

    ‘Hi, my name’s David Raker. I’m an investigator.’ I didn’t bother showing her any ID. She was too far away to see it, anyway. ‘I was looking for Zoe.’

    “Xin chào, tên tôi là David Raker. Tôi là điều tra viên.” Tôi chẳng buồn đưa cho cô ấy xem bất kỳ giấy tờ tùy thân nào. Dù sao thì cô cũng ở quá xa để có thể nhìn thấy. “Tôi đang tìm cô Zoe.”

    ‘An investigator?’

    “Một điều tra viên à?”

    ‘That’s right.’

    “Đúng rồi.”

    She frowned. ‘What are you investigating?’

    Cô ấy cau mày. “Anh đang điều tra cái gì ạ?”

    ‘The disappearance of Cate and Aiden Gascoigne.’ I waited for a reaction, but there wasn’t one. It was possible she and Simmons hadn’t been together at the time of the crash. It was also possible that Zoe had chosen not to tell her girlfriend anything about it.

    “Sự mất tích của Cate và Aiden Gascoigne.” Tôi đợi phản ứng từ cô ấy, nhưng không thấy biểu hiện gì. Có thể cô ấy và Simmons đã không ở cùng nhau vào thời điểm xảy ra vụ tai nạn. Cũng có thể Zoe đã chọn không nói với bạn gái mình bất cứ điều gì về chuyện đó.

    ‘I don’t know who they are,’ she confirmed.

    “Tôi không biết họ là ai,” cô xác nhận.

    ‘Sorry, I didn’t catch your name.’

    “Xin lỗi, tôi không nghe rõ tên cô.”

    ‘Becky,’ she said.

    “Becky,” cô nói.

    ‘Hi, Becky.’ I smiled, trying to put her at ease. ‘So Cate and Aiden were involved in a car accident a couple of years ago.’

    “Chào Becky.” Tôi mỉm cười, cố gắng làm cô ấy thoải mái. “Ừ, Cate và Aiden có liên quan đến một vụ tai nạn ô tô cách đây vài năm.”

    Still nothing. This wasn’t going to go anywhere.

    Vẫn không có phản ứng gì. Chuyện này chắc chẳng đi tới đâu.

    ‘Is Zoe in?’

    “Cô Zoe có ở đó không?”

    ‘No, she’s at work.’

    “Không, chị ấy đang ở chỗ làm.”

    Her mother had mentioned that after leaving college she’d landed a job at a sports centre in Croydon.

    Mẹ cô kể rằng sau khi tốt nghiệp đại học, cô đã tìm được việc làm tại một trung tâm thể thao ở Croydon.

    ‘What time is Zoe due home?’

    “Mấy giờ cô Zoe về?”

    I looked at my watch. It was 8.45 p.m.

    Tôi xem đồng hồ. Lúc đó là 8h45 tối.

    ‘Not until at least ten,’ Becky said.

    “Ít nhất là mười giờ,” Becky nói.

    Again, just as with Zoe’s mum, I tried not to let my frustration show, even though this whole trip had been a waste of a couple of hours. The sun had set already and, by the time I got to Streatham, and Audrey Calvert’s address, it was going to be even later. It didn’t feel like the sensible option turning up there at night: people tended to be more guarded after dark and knocking on her door at 10 p.m. was only going to put Calvert on edge.

    Một lần nữa, cũng giống như trường hợp gặp mẹ Zoe, tôi cố không biểu lộ sự thất vọng, dù biết chuyến đi này coi như đã lãng phí mất vài giờ rồi. Mặt trời thì đã lặn và chắc chắn khi tôi đến nhà của Audrey Calvert ở Streatham, thậm chí còn muộn hơn thế này nữa. Có vẻ như đến đó vào buổi tối không phải là lựa chọn hợp lý: mọi người có xu hướng cảnh giác hơn sau khi trời tối và việc gõ cửa nhà bà ấy lúc 10 giờ tối sẽ chỉ khiến Calvert gặp hồi hộp và lo lắng hơn mà thôi.

    ‘What’s any of this got to do with Zoe?’

    “Vụ tai nạn thì liên quan gì đến chị Zoe?”

    Becky was leaning a little further out of the window now, her one hand on the edge of the frame. Even from where I was I could see her brain going.

    Lúc này Becky đang nghiêng người ra ngoài cửa sổ xa hơn một chút, một tay cô đặt trên mép khung cửa. Ngay cả từ chỗ tôi đang đứng tôi cũng có thể thấy bộ não của cô ấy đang hoạt động.

    Maybe this is something I can use.

    Có lẽ đây là thứ tôi có thể khai thác được.

    ‘I’m going to post my card through the letterbox here,’ I said. ‘It’s got my name and details on it. Maybe you could pass it on to Zoe when she gets home?’

    “Giờ tôi sẽ gửi danh thiếp của tôi qua hộp thư ở đây,” tôi nói. “Có tên tôi và thông tin chi tiết trên đó. Có lẽ cô có thể chuyển nó cho cô Zoe khi cô ấy về nhà?”

    ‘I still don’t get it. What’s this got to do with her?’

    “Tôi vẫn chưa hiểu. Chuyện này có liên quan gì đến chị ấy?”

    I didn’t want to damage their relationship, especially if they had been together at the time of the crash; after all, there may have been good reasons for Simmons not to have told Becky about what happened two and a half years ago. So it felt like my best option was to leave a business card with the girlfriend there was a good chance Zoe had kept all this from. That way, in front of Becky, Simmons could pretend she didn’t know what I wanted and protect the sanctity of their relationship. But she also couldn’t ignore me. The card was a message: call me, or next time I’m honest with your girlfriend.

    Tôi không muốn làm tổn hại đến mối quan hệ của họ, đặc biệt nếu họ đã ở bên nhau vào thời điểm xảy ra vụ tai nạn; suy cho cùng, có thể có lý do chính đáng để Simmons không nói với Becky về những gì đã xảy ra hai năm rưỡi trước. Vì vậy, có vẻ như lựa chọn tốt nhất của tôi là để lại danh thiếp cho bạn gái của cô ấy nhằm giúp Zoe giữ kín tất cả những chuyện này. Bằng cách đó, trước mặt Becky, Simmons có thể giả vờ như cô ấy không biết tôi muốn gì và bảo vệ sự thiêng liêng trong mối quan hệ của họ. Nhưng cô ấy cũng không thể phớt lờ tôi. Tấm thiệp là thông điệp: hãy gọi cho tôi, hoặc lần sau tôi sẽ nói thật với bạn gái của cô.

    ‘I’d really appreciate you giving her my card,’ I said. ‘It’s nothing to worry about. Just let Zoe know I called by.’

    “Tôi thực sự đánh giá cao việc cô đưa danh thiếp của tôi cho cô ấy,” tôi nói. “Không có gì phải lo lắng đâu. Chỉ cần cho cô Zoe biết tôi đã ghé qua thôi.”

    HẾT CHƯƠNG 11​
     
    72thudo and machine like this.
  9. machine

    machine Lớp 12

    Bác vinaguy dịch sát nghĩa đấy, và đủ ý :rose::rose:
    Cuốn này bao nhiêu chương vậy bác?
     
    vinaguy thích bài này.
  10. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    Truyện bao gồm 4 phần với 93 chương... hiện tại em đã dịch xong phần 1 (22 chương) và mới là mở toang chanh bành vấn đề ra chứ chưa gỡ một chút rối nào cả. Không biết sau này, tác giả có lần lượt gỡ hết được cái mớ rối này không...
    Cảm nhận ban đầu của em thì truyện tương đối hấp dẫn.
    Em cũng đang cố chuyển tải lại một cách trung thực nhất tất cả thông điệp mà tác giả muốn gửi đến bạn đọc. Nhưng dân dịch "nghiệp dư" như em thì chắc chắn có nhiều sai sót, mong các bác thông cảm và góp ý cho em nhiều hơn nữa, động viên tinh thần cho nhóm dịch là em và bác @72thudo để cố gắng đi được hết cuốn này, và nếu có đủ tinh thần sẽ dịch tiếp những cuốn khác tiếp theo nữa :):):)
    P/S: Dân nghiệp dư như em mà dám làm cuốn đầu tiên dài lê thê như thế này... thật đúng là nhiều khi cũng thấy ngán. Em dịch chậm, mỗi ngày chỉ dịch được tầm 1,5 đến 2 chương, nhưng đợt này em cũng nhiều việc... nên không chuyên tâm được.
    Em vẫn để cả In Lít và tiếng Việt để cho các bác đối chiếu cho dễ để có ý kiến giúp em về mặt dịch thuật nhé. Lúc nào em dịch nhuyễn rồi thì em sẽ để mỗi tiếng Việt không thôi nhé.
     
    machine thích bài này.
  11. Nga Hoang

    Nga Hoang Lớp 11

    Khi xưa khi tôi mới tập tọe bước vào mảng dịch thuật này tôi được hai người bạn đã cho tôi hai lời khuyên đã giúp tôi thêm can đảm đi tiếp con đường rất khó nhằn này.

    Anh Trịnh Y Thư khuyên: “Dịch hay hay dở thì cũng phải dịch đã, có được bản dịch rồi mới bàn đến chuyện hay dở.”

    Do đo tôi xin chuyển lời khuyên quí báu này đến @vinaguy:
    … em thích thì em cứ nhích...

    @vinaguy sẽ có rất ít cơ hội có chỉ dẫn để học hỏi kinh nghiệm vì sẽ nhận được nhiều đá hơn là kinh nghiệm. Nhưng anh vvn (ai đã từng sinh hoạt vơi TVE xưa thì biết anh mọt già này) có nói với tôi: “Dịch là chuyện của mình, ném đá là chuyện của người. Hai chuyện hoàn toàn không dính dáng gì với nhau, nên mình cứ hồn nhiên mà dịch.”

    Riêng tôi có lời nhắn nhủ như sau: “Cứ dịch đi xong để đó, một hai tháng sau đọc lại thấy “thúi” chỗ nào thì edit lại chỗ đó. Vài lần như vậy đến khi nào thấy “đỡ thúi” thị OK. Còn nói là dịch “được” là khi bạn gửi cho nhà xuất bản mà họ chịu in và trả tiền công cho bạn.


    PS1. Thực ra như bạn cũng thấy, nhiều dịch giả dịch cực thúi và vô trách nhiệm mà cũng được in sách đấy thôi. (như cuốn Mật mã Da Vinci do em Hà dịch (Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link) hay cuốn Chân dung một gián điệp em Quyên dịch (Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link).

    PS2. Chúc @vinaguy nhiều can đảm và nhiều hồn nhiên.
     
    Chỉnh sửa cuối: 24/4/24
    vinaguy and machine like this.
  12. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    Vậy có khi nào "để một vài tháng" sau đó em lại phải dịch lại cả quyển không nữa :):):) :D:D:D
    Em cám ơn bác @Nga Hoang rất nhiều về những lời động viên.
     
  13. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    12

    By the time I arrived back in Ealing, it was completely dark and the air had cooled. I pulled into my driveway and turned off the engine, then sat there, looking at my house. At the edge of the lawn was the FOR SALE sign that had been there, on and off, for over eighteen months. I’d had offers, I’d even accepted two of them, but both times the buyers had pulled out and I’d genuinely started to believe that, perhaps, I wasn’t destined to leave these walls, that maybe the ties binding me to it – the fact that it was the house that I’d bought with my wife, that was supposed to have been the place we had kids in – made it impossible to pass on.

    Khi tôi trở lại Ealing thì trời đã tối hẳn và không khí đã mát dần. Tôi lái xe vào nhà và tắt máy, rồi ngồi đó ngắm nhìn căn nhà của mình. Ở rìa bãi cỏ là tấm biển BÁN NHÀ, đã treo lên rồi hạ xuống, tồn tại ở đó suốt hơn mười tám tháng. Tôi đã ra giá, thậm chí tôi đã đồng ý bán hai lần, nhưng cả hai lần người mua đều rút lui và tôi thực sự bắt đầu tin rằng, có lẽ, định mệnh của tôi là không rời bỏ được căn nhà này, rằng có lẽ có mối ràng buộc giữa tôi và nó - sự thật rằng đó là ngôi nhà mà tôi đã mua cùng vợ, lẽ ra là nơi chúng tôi sinh con đẻ cái – nhưng không thể trao lại cho chúng được nữa rồi.

    Then, five months ago, I got another offer, and so far this one had stuck. I’d asked the estate agent not to change the FOR SALE sign for SOLD, because I didn’t want to jinx it, but as determined as I was to move on, to begin again somewhere new where I could remember my wife but not feel her in every part of the house, there were still doubts. Mostly they came in these moments, when I pulled on to the driveway. I’d sit and look at my home and it would feel as if I were betraying her somehow – leaving her, forgetting her. I knew that I never would, not for a single second – but it didn’t make the feeling any less real. Sometimes the thought of change seemed so big, so frightening, I’d found myself putting the estate agent’s number into my phone, ready to pull out of the sale.

    Rồi, 5 tháng trước, tôi nhận được một lời ngã giá khác và cho đến nay vẫn chưa thực hiện được. Tôi đã yêu cầu văn phòng môi giới bất động sản không đổi biển BÁN NHÀ thành biển ĐÃ BÁN, vì tôi không muốn gặp xui xẻo nữa, nhưng tôi đã hạ quyết tâm chuyển nhà, bắt đầu lại ở một nơi nào đó mới, nơi tôi có thể tưởng nhớ đến vợ mình mà không phải cảm nhận thấy và nghi ngờ rằng cô ấy đang ở mọi ngóc ngách trong căn nhà. Những cảm nhận mà chúng hầu như xuất hiện vào những thời điểm khi tôi tấp vào nhà. Tôi ngồi nhìn ngôi nhà của mình và có cảm giác như thể bằng cách nào đó tôi đang phản bội cô ấy - rời xa cô ấy, quên mất cô ấy. Tôi biết rằng tôi sẽ không bao giờ quên hay rời bỏ, không một giây nào - nhưng việc này không làm cho cảm giác đó kém chân thực hơn chút nào. Đôi khi ý nghĩ về sự thay đổi dường như quá lớn, quá đáng sợ, dù chính tôi đã lưu số của văn phòng môi giới bất động sản vào điện thoại của mình, nhưng sẽ sẵn sàng rút lui khỏi cuộc mua bán.

    But, in the end, I always stepped back from the edge.

    Nhưng cuối cùng, tôi luôn lùi bước khỏi bờ vực thẳm.

    I unlocked the front door, the air inside thick with the heat of the day. I opened windows and doors and let the night cool the place off, and once I’d showered, made myself something light to eat. I sat on the back deck listening to the music playing next door and to the gentle hum of traffic out on Uxbridge Road.

    Tôi mở khóa cửa trước, không khí bên trong dày đặc cái nóng của ban ngày. Tôi mở cửa sổ và cửa ra vào, để màn đêm làm dịu bớt trong phòng, rồi sau khi tắm xong, tôi chuẩn bị cho mình một bữa ăn nhẹ. Tôi ngồi ở hiên sau, nghe tiếng nhạc phát ra từ nhà bên cạnh và tiếng ồn ào khe khẽ của xe cộ trên đường Uxbridge.

    As I ate, I thought about Zoe Simmons, about Audrey Calvert too. I’d drive out to see Calvert in the morning, but for now I’d sown a seed with Simmons by leaving my business card with her, so things were moving with at least one of the witnesses.

    Khi ăn, tôi nghĩ về Zoe Simmons, cả về Audrey Calvert nữa. Tôi sẽ lái xe đến gặp Calvert vào buổi sáng, nhưng hiện tại tôi đã đặt vấn đề thẳng với Simmons bằng cách để lại danh thiếp của mình cho cô ấy, nên mọi việc đang diễn ra với ít nhất một trong những nhân chứng.

    After dinner, I phoned Aiden’s cousins, Ted and Barbara, apologizing for the late hour. The first call was to Ted who told me he was a night owl, anyway. He filled me in on some of the family background: Aiden’s parents had both died of cancer, four years apart, when Aiden was in his twenties; both Ted’s parents – his dad and Aiden’s mum had been brother and sister – were gone too. Which just left him, Aiden and Barbara, Ted’s sister.

    Sau bữa tối, tôi gọi điện cho anh họ của Aiden, Ted và Barbara, không quên xin lỗi về việc gọi điện trễ. Cuộc gọi đầu tiên là cho Ted, người đã nói với tôi rằng dù sao thì anh ấy cũng là một con cú đêm. Anh ấy cung cấp cho tôi một số thông tin về hoàn cảnh gia đình: Cha mẹ của Aiden đều qua đời vì bệnh ung thư, cách nhau bốn năm, khi Aiden ở tuổi đôi mươi; cả bố mẹ của Ted – bố anh và mẹ của Aiden đều là anh chị em – cũng đã mất. Thế là chỉ còn lại anh, Aiden và Barbara, em gái của Ted.

    ‘We’re a pretty small family now,’ he said.

    “Bây giờ chúng tôi là một gia đình khá nhỏ,” anh nói.

    ‘Did you used to see Aiden a lot?’

    “Anh đã từng gặp Aiden nhiều chứ?”

    ‘Not tons, but, you know, on and off. The last time I saw him was a few months before he and Cate disappeared. I had a couple of work meetings in London, so we met for a pint and a pub lunch. It was just nice to catch up with him.’

    “Không nhiều, nhưng, anh biết đấy, thỉnh thoảng thôi. Lần cuối cùng tôi gặp anh ấy là vài tháng trước khi anh ấy và Cate mất tích. Tôi đã có một vài cuộc họp công việc ở London, vì vậy chúng tôi gặp nhau để uống vài cốc bia và ăn trưa ở quán rượu. Thật vui khi được gặp anh ấy.”

    ‘What was he like?’

    “Anh ấy trông như thế nào?”

    ‘Fun, pretty much up for anything. When we were younger, Aid and I used to run marathons together. We did London, the Great North Run, we even went over to Berlin and ran that one year. He was great company. He was someone I’d have liked even if he wasn’t my cousin. He had solid values too. He could drink you under the table and he liked a laugh with the lads, but he was all about family. When his dad died, that hit him really hard. At least when his mum passed on a few years later, he had Cate to help him get through it.’

    “Vui vẻ, khá vui đối với mọi thứ. Khi chúng tôi còn trẻ, Aid và tôi thường chạy marathon cùng nhau. Chúng tôi đã tham gia tại London, giải Great North Run, thậm chí cùng năm đó chúng tôi còn đến Berlin và thi chạy nữa cơ. Anh ấy là một người bạn tuyệt vời. Anh ấy là người tôi rất thích cho dù khi anh ấy không phải là anh họ của tôi đi chăng nữa. Anh ấy cũng có những giá trị vững chắc. Anh ấy có thể uống rượu khiến anh phải ‘chìm dưới bàn’ mới thôi và anh ấy thích trêu đùa với đám thanh niên, nhưng anh ấy chỉ vì gia đình. Khi cha anh qua đời, điều này đã ảnh hưởng nặng nề đến anh ấy. Ít nhất khi mẹ anh ấy qua đời vài năm sau đó, anh ấy đã có Cate giúp anh ấy vượt qua giai đoạn khó khăn này.”

    ‘Cate’s family described them as a tight unit.’

    “Nhà Cate đã mô tả họ là một tổ ấm khăng khít.”

    ‘Yeah. I met Cate loads of times and you could see it. He doted on her, her on him. It was nice to see, you know? Too often couples are at each other’s throats.’

    “Vâng. Tôi đã gặp Cate rất nhiều lần và anh thấy đấy. Anh ấy yêu cô ấy, cô ấy yêu anh ấy. Thật vui khi thấy điều đó, anh biết không? Các cặp đôi khác thường xuyên cãi vã nhau chí chóe.”

    I lingered on that last sentence. Cate and Aiden were never at each other’s throats based on what I’d heard – other than six months before they vanished, when something had been briefly off in their marriage. I thought about Aiden’s Internet search for a local police station, then said, ‘So no skeletons in the closet as far as Aiden’s concerned?’

    Tôi suy ngẫm ở câu cuối cùng này. Dựa trên những gì tôi đã nghe được, Cate và Aiden chưa bao giờ cãi cọ nhau - ngoại trừ sáu tháng trước khi họ mất tích, khi có điều gì đó tạm thời không ổn trong cuộc hôn nhân của họ. Tôi nghĩ đến việc Aiden tìm kiếm đồn cảnh sát địa phương trên Internet rồi nói, “Vậy đối với Aiden không có bí mật nào cần được giấu kín chứ?”

    ‘In what sense?’

    “Theo nghĩa nào?”

    ‘In any sense that might help me find him.’

    “Theo bất kỳ nghĩa nào thì điều đó cũng có thể giúp tôi tìm được anh ấy.”

    ‘No. Not that I ever knew of, anyway.’

    “Không. Dù sao thì tôi cũng chưa từng biết đến một bí mật nào.”

    We talked a little more and then I thanked him, hung up, and called Barbara. The conversation echoed pretty much everything I’d already been told about Aiden, by Martin and Sue, by Georgia, and by Ted. He was a clever guy, he loved his work at the design agency, he was easy-going, funny, serious about his exercise. There were still friends and work colleagues of his that I’d need to chase down – but somehow, in my gut, I felt that if Aiden was carrying a secret, it was something he’d even hidden from the people he knew best, perhaps including Cate.

    Chúng tôi nói chuyện thêm một chút rồi tôi cảm ơn anh ấy, cúp máy và gọi cho Barbara. Cuộc trò chuyện lặp lại hầu hết mọi điều tôi đã được nghe Martin và Sue, Georgia và Ted kể về Aiden. Anh ấy là một chàng trai thông minh, yêu thích công việc ở công ty thiết kế, anh ấy là người dễ gần, vui tính và nghiêm túc trong việc tập luyện. Vẫn còn một số người bạn và đồng nghiệp của anh ấy mà tôi cần phải truy tìm – nhưng bằng cách nào đó, trong thâm tâm, tôi cảm thấy rằng Aiden đang nắm giữ một bí mật nào đó, đó là điều mà anh ấy thậm chí đã giấu kín với những người thân quen nhất, có lẽ bao gồm cả Cate.

    Shortly after I was done with Barbara, my phone went.

    Ngay sau khi tôi nói chuyện xong với Barbara, điện thoại của tôi reo lên.

    On the display, it said SPIKE. He was another old contact from my paper days, a software developer who didn’t do much in the way of software development and whose real name wasn’t Spike. In fact, despite knowing him – at least via a telephone line – for almost fifteen years, I didn’t know what his real name was. That was the way he liked it, given that he made his money these days as a hacker.

    Trên màn hình có dòng chữ SPIKE. Anh ấy là một người quen cũ khác từ thời tôi còn làm báo, một nhà phát triển phần mềm mà lại không làm việc nhiều trong lĩnh vực này và tên thật không phải là Spike. Trên thực tế, mặc dù biết anh ấy - ít nhất là qua điện thoại - trong gần mười lăm năm, tôi vẫn không biết tên thật của anh ấy là gì. Đó là cách anh ấy thích, vì ngày nay anh ấy kiếm tiền bằng nghề hacker.

    ‘How you doing, Spike?’

    “Anh khỏe không, Spike?”

    ‘Hey, David. I thought I’d take a chance on you still being up.’

    “Này, David. Tôi nghĩ tôi gặp may vì anh vẫn còn thức.”

    ‘I’m still here. You got some good news for me?’

    “Tôi vẫn còn thức đây. Anh có tin tốt cho tôi à?”

    ‘I’ve got phone records for October and November for Cate and Aiden, and I’ve gone through the numbers – both the ones they called, and the ones that called them – and have done a search on who those numbers belong to. That information is all in what I’m about to send you, including home addresses. I’ve also included December as well, running through to the day they disappeared. I know you have those already, but it’s just easier to pull it all.’

    “Tôi đã có danh sách các cuộc gọi trong tháng 10 và tháng 11 của Cate và Aiden, và tôi đã xem qua các số điện thoại – những số mà cả hai người họ đã gọi và những số đã gọi cho họ - và đã tìm kiếm xem những số đó là của ai. Thông tin đó có trong tất cả những gì tôi sắp gửi cho anh, bao gồm cả địa chỉ nhà. Tôi cũng kèm luôn cả tháng 12 nữa, tính đến ngày họ mất tích đó. Tôi biết anh đã có những thứ đó rồi, nhưng gộp hết tất cả vào đây sẽ dễ dàng hơn.”

    ‘You’re a rock star, Spike. Thank you.’

    “Anh là ngôi sao nhạc rock rồi đó, anh Spike ạ. Cảm ơn.”

    ‘You got it. The new combination is 4077.’

    “Anh nhớ rồi chứ. Dãy mã số mở khóa mới là 4077.”

    I wrote it down. He meant the combination for the locker he was using as a drop-off for the money I now owed him. The locker changed location all the time, but for the last six weeks it had been in the changing rooms at a country club down in Richmond. Spike and I never met, I just drove the cash to the locker he gave me within forty-eight hours of the work being sent to me.

    Tôi đã ghi ra. Ý của anh ấy là mã số của chiếc tủ đựng đồ anh ấy đang sử dụng để gửi số tiền mà bây giờ tôi nợ anh ấy. Tủ đựng đồ thay đổi vị trí liên tục, nhưng trong sáu tuần qua, nó nằm trong phòng thay đồ của một câu lạc bộ khu vực ở Richmond. Spike và tôi chưa bao giờ gặp nhau, tôi chỉ đưa tiền đến bỏ vào tủ đựng đồ theo mã anh ấy đưa trong vòng 48 giờ kể từ khi tài liệu được gửi cho tôi.

    While I waited for his email to arrive, I spent some time looking again at the website Cate had created. It was really just a place where Cate could talk about her photography: the type of images that inspired her and how she captured her own; equipment she used; technical breakdowns; and news about her exhibitions. She’d written a blog – back in June 2019 – about the series Martin and Sue had mentioned, ‘Tragic, Drawn’. That collection had exhibited at a gallery off Covent Garden called The Memorial and Cate had described it on the blog as ‘a selection of portraits from the justice system that are truly some of the most personal I’ve ever shot.’ There were a couple of photos posted to the blog – one of some courthouse steps, another taken on the bottom floor of a prison, cells running down either side of her. It made me wonder if it might be worth speaking to the gallery and seeing if there was some kind of record of – or, even better, visual guide to – the pictures she’d put on display, because they weren’t in her albums, as far as I could tell. Maybe it wouldn’t lead anywhere, but at the very least, it would help fill in a little more of Cate for me.

    Trong khi chờ email của anh ấy đến, tôi dành chút thời gian để xem lại trang web mà Cate đã tạo. Đó thực sự chỉ là nơi Cate có thể nói về nhiếp ảnh: loại hình ảnh đã truyền cảm hứng cho cô ấy và cách cô ấy chụp những bức ảnh của riêng mình; thiết bị cô ấy đã sử dụng; sự cố kỹ thuật; và tin tức về các cuộc triển lãm của cô ấy. Cô ấy đã viết một blog - vào tháng 6 năm 2019 - về loạt ảnh mà Martin và Sue đã đề cập, 'Bi kịch, U sầu'. Bộ sưu tập đó đã được trưng bày tại một phòng trưng bày gần Covent Garden có tên là The Memorial và Cate đã mô tả nó trên blog là “một tuyển tập các bức chân dung từ hệ thống tư pháp, thực sự là một trong những bức chân dung mang tính cá nhân nhất mà tôi từng chụp”. Có vài bức ảnh được đăng lên blog – một trong những bậc thang của tòa án, một bức khác được chụp ở tầng dưới cùng của nhà tù, các phòng giam chạy dọc xuống hai bên cô ấy. Tôi tự hỏi liệu có đáng để trao đổi với phòng trưng bày để xem có còn loại hồ sơ nào đó về - hoặc, thậm chí tốt hơn, hướng dẫn trực quan - về những bức ảnh cô ấy trưng bày, vì theo như tôi có thể nhận thấy, chúng không có trong album của cô ấy. Có thể nó sẽ chẳng tới đâu cả, nhưng ít nhất, nó sẽ giúp tôi hiểu thêm một chút nữa về Cate.

    Fifteen minutes later, the email from Spike pinged through.

    Mười lăm phút sau, có âm báo email từ Spike gửi tới.

    While the attachment was downloading, I grabbed a beer from the fridge and, heading back outside, realized how low the temperature had dropped. I didn’t mind the cool, though. In fact, often, it gave me exactly the clarity I needed.

    Trong khi tệp đính kèm đang được tải xuống, tôi lấy một cốc bia trong tủ lạnh và quay trở ra bên ngoài, nhận ra nhiệt độ đã giảm xuống thấp đến mức nào. Tuy nhiên, tôi không bận tâm đến sự mát mẻ. Trên thực tế, chính xác là cái mát thường mang lại cho tôi sự sáng suốt cần thiết.

    But then my mobile started buzzing across the table again. It was late now – well after 11 p.m. – and, as I scooped up the phone, I tried to imagine who it could be.

    Nhưng rồi điện thoại di động của tôi lại bắt đầu rung lên trên bàn. Bây giờ đã muộn rồi - cũng đã hơn 11 giờ đêm rồi – và khi tôi nhấc điện thoại lên, tôi cố tưởng tượng đó có thể là ai.

    The number said WITHHELD.

    Con số có nội dung GIỮ LẠI.

    The second I saw that, my heart sank.

    Lần thứ hai tôi nhìn thấy thứ này, trái tim tôi như chìm xuống.

    HẾT CHƯƠNG 12​
     
    machine thích bài này.
  14. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    Ngoài lề: Lúc bắt tay vào dịch cuốn sách này... nhiều đoạn bí lối thì may nhờ vớ được cuốn Cambridge Advanced Learner's Dictionary, đương nhiên là không thể thiếu được cuốn Longman DOC 5th :) ... Nhưng phải thừa nhận là Cambridge hỗ trợ quá lớn, toàn sử dụng những lúc gặp ngữ cảnh độc chiêu. Còn những cuốn từ điển khác thì chỉ có cho vui thôi, chẳng làm được gì ngoài việc xem những từ lặp lại của Cambridge mà thôi (mà còn bị thiếu nghĩa nữa cơ). :)
     
  15. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    Healy

    It was just gone 8 p.m. when he noticed the security light flick into life at the front of the cottage. He was in the kitchen making himself some tea, and he paused there, teaspoon hovering above the mug, looking out through the window at the driveway. Sometimes people would walk past on the lane beyond the gate and set the light off, but he hadn’t heard any voices and it was so quiet up here that anyone approaching normally announced themselves – like an alarm call – from halfway down the hill. That probably meant it was an animal, a rabbit or a fox, or it could even have been a cat – maybe the plump tabby that lived with the woman in the next house down from his. When it could be bothered, it sometimes ambled up this way looking for birds or voles.

    Chỉ mới qua 8 giờ tối khi anh thấy đèn an ninh bật sáng ở phía trước ngôi nhà. Anh đang ở trong bếp tự pha cho mình tách trà, rồi dừng lại ở đó, chiếc thìa đang lơ lửng phía trên tách trà, nhìn ra ngõ qua cửa sổ. Đôi khi có người đi ngang qua con đường phía bên kia cổng cũng nên và sau đó đèn an ninh lại tắt, nhưng anh không nghe thấy bất kỳ giọng nói nào và ở đây yên tĩnh đến mức bất cứ ai đến gần thường tự họ phải thông báo - giống như chuông báo động - từ khoảng cách nửa đường xuống đồi. Điều đó có nghĩa là có lẽ có một con vật, một con thỏ hay một con cáo, hoặc thậm chí có thể là một con mèo - có thể là con mèo mướp mập ú sống cùng người phụ nữ ở ngôi nhà kế bên dưới nhà anh. Thỉnh thoảng khi bị quấy rầy, nó lại đi chầm chậm về phía này để tìm chim hoặc chuột đồng.

    Healy waited a moment, saw nothing, and then took his tea through to the living room. The last time Raker had come to visit him, he’d brought a huge stack of DVDs and a box of books. Healy had slowly been working through them all. He remembered that one of the books, No One Can See the Crows at Night, had been one of Raker’s wife’s favourite novels, so he’d read that first and had liked it. Now he was reading a pulpy sci-fi novel about two men who were exactly alike.

    Healy đợi một lúc, không thấy động tĩnh gì rồi bưng trà vào phòng khách. Lần cuối cùng Raker đến thăm anh, anh ấy đã mang theo một chồng đĩa DVD khổng lồ và một hộp sách. Healy đã dần xem hết tất cả những thứ đó. Anh nhớ rằng một trong những cuốn sách, No One Can See the Crows at Night (Chẳng ai thấy quạ ban đêm), từng là một trong những cuốn tiểu thuyết yêu thích của vợ Raker, vì vậy anh đã đọc cuốn đó đầu tiên và rất thích nó. Bây giờ anh đang đọc một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng rẻ tiền về hai người đàn ông giống hệt nhau.

    The DVDs, however, he’d been trying to eke out, because it would be another ten weeks before Raker returned with more. Books weren’t as much of a problem, as there was always the library in the next village if Healy got desperate. They had DVDs there too but, over the course of the two years he’d been hiding out here, living under the alias Marcus Savage, he’d already been through the entire collection. Really, Raker was it.

    Tuy nhiên, anh đã cố nhín nhịn xem từ từ các đĩa DVD này vì phải mười tuần nữa Raker mới quay lại và mang thêm một số đĩa khác. Sách không thành vấn đề lớn vì luôn có một thư viện ở làng bên cạnh nếu Healy thấy cần thiết. Thư viện cũng có đĩa DVD nhưng trong suốt khoảng thời gian hai năm anh trốn ở đây, sống dưới bí danh Marcus Savage, anh đã xem hết toàn bộ bộ sưu tập. Thực sự, Raker chính là nguồn thông tin giải trí mà anh có.

    Raker was how Healy maintained his sanity.

    Raker chính là cách Healy duy trì sự minh mẫn của mình.

    It was why he so looked forward to their weekly phone calls, even if all they talked about was Raker’s work, or the boring shite Healy did with his own life: his job on the trawler, his memories of his old life as a cop. He just wished Raker was able to come up more often, but he’d insisted that they stick to four times a year because he felt it was too risky to do it more frequently. Much as he didn’t enjoy the solitude, Healy understood.

    Đó là lý do tại sao anh rất mong chờ những cuộc điện thoại hàng tuần giữa anh và Raker, ngay cả khi tất cả những gì họ nói đều là về công việc của Raker, hay là những thứ tào lao mà Healy đã đảm nhận trong đời: công việc trên tàu đánh cá, những ký ức về thời gian làm cảnh sát của anh. Anh chỉ ước Raker có thể đến thường xuyên hơn, nhưng anh ấy tuyên bố rằng được bốn lần một năm vì anh ấy cảm thấy quá mạo hiểm nếu gặp thường xuyên. Dù không thích sự cô độc nhưng Healy hiểu điều đó.

    He was, after all, supposed to be dead.

    Rốt cuộc thì anh đáng lẽ đã phải chết.

    Shrugging out of his thoughts, he reached to the DVD pile and looked at the cover of the one on the top. Anzio with Robert Mitchum, about an Allied assault on the titular Italian port. He had the vague notion he might have watched it before, but he put it on anyway and collapsed into the sofa. As the disc loaded, he thought about how much he’d give for a phone right now or a laptop, some way to connect himself to the outside world that didn’t involve trudging into the next town and using the computer at the library there. But he didn’t spend too long on the idea because, once that sort of thing lodged, it made him frustrated, and when he got frustrated, he got angry.

    Rùng mình thoát khỏi dòng suy nghĩ, anh với tay tới chồng đĩa DVD và nhìn vào bìa của chiếc đĩa ở trên cùng. Anzio với Robert Mitchum, kể về cuộc tấn công của quân Đồng minh vào cảng Ý. Anh có cảm giác mơ hồ rằng mình có thể đã xem nó trước đây, nhưng anh vẫn mở nó lên và ngả người xuống ghế sofa. Khi đĩa được nạp, anh nghĩ về việc bây giờ mình mua một chiếc điện thoại hoặc máy tính xách tay sẽ hết bao nhiêu tiền nhỉ, phải tìm cách nào đó để kết nối bản thân với thế giới bên ngoài mà không phải lê bước đến thị trấn bên cạnh và sử dụng máy tính trong thư viện ở đó. Nhưng anh đã không dành quá nhiều thời gian cho ý tưởng đó bởi vì một khi điều đó nảy sinh, nó sẽ khiến anh thất vọng và khi thất vọng, anh sẽ bực bội.

    A noise.

    Có một tiếng động.

    Healy swivelled on the sofa, looking out into the kitchen. Had it come from in there? He paused the film – which had automatically started playing – and listened.

    Healy xoay người trên ghế sofa, nhìn vào bếp. Có phải âm thanh đến từ trong đó không? Anh tạm dừng bộ phim - bộ phim đã tự động bắt đầu phát - và lắng nghe.

    The noise came again, this time more clearly.

    Tiếng động lại vang lên, lần này rõ ràng hơn.

    Someone was knocking at the door.

    Có ai đó đang gõ cửa.

    He got up. The layout of the cottage didn’t conform to modern design, and Healy liked it that way: access through the kitchen and the fact that it had two windows, one looking out at the drive, the other down the hill to the village, meant he didn’t bring the stink of fish from his bib and braces any further into the house, and he also got an unimpeded view of the only two approaches to the cottage.

    Anh đứng dậy. Cách sắp đặt của ngôi nhà không tuân theo thiết kế hiện đại, và Healy thích bố trí theo cách đó: lối vào đi qua nhà bếp và thực tế là nó có hai cửa sổ, một cái nhìn ra ngõ, cái kia nhìn xuống đồi dẫn vào làng, có nghĩa là anh không mang mùi tanh cá từ tạp dề và đai đeo vào nhà nữa, và tầm nhìn của anh cũng không bị cản trở khi nhìn ra hai lối vào duy nhất dẫn đến ngôi nhà.

    Who the hell would be knocking on his door?

    Đứa đếch nào đang gõ cửa nhà mình thế nhỉ?

    He stepped right up to the window facing the driveway. To his surprise there was a woman in her fifties there – tall, lean, her eyes on the front door. Was it the woman who lived in the next house down with the cat? He’d never even said a proper hello to her the few times they’d passed in the lanes, and would barely have been able to pick her out in a crowd. Involving himself in the lives of others, making friends, all endangered his situation here. So he just passed through the village every day, spent no time in it – never went to the pub or the small general store – rarely even put on interior lights at night, just so it would look like no one was home. He and Raker agreed to monitor the set-up here day by day, and they’d organized it so they could react quickly if he had to move out and move on. As a result, he’d never exchanged a single word with anyone from the village. No one seemed to care, or even realize, that he was living here now.

    Anh bước thẳng tới cửa sổ hướng ra ngõ. Trước sự ngạc nhiên của anh, có một người phụ nữ trạc năm mươi tuổi đứng đó - cao, gầy, mắt nhìn về phía cửa trước. Đó có phải là người phụ nữ sống ở ngôi nhà bên cạnh phía dưới với con mèo không nhỉ? Anh thậm chí còn chưa bao giờ chào bà ta một cách tử tế trong vài lần họ đi ngang qua nhau ngoài đường, và gần như không thể nhận ra bà ta trong đám đông. Dính dáng vào cuộc sống của người khác, kết bạn kết bè, tất cả đều gây nguy hiểm cho tình hình của anh ở đây. Vì vậy, anh chỉ đi ngang qua ngôi làng mỗi ngày, không nấn ná ở đó – không bao giờ đến quán rượu hay bách hóa tổng hợp nhỏ – thậm chí hiếm khi bật đèn trong nhà vào ban đêm, chỉ để trông như không có ai ở nhà. Anh và Raker đồng ý giám sát việc tình hình ở đây hàng ngày và họ đã sắp đặt sao cho có thể phản ứng nhanh chóng nếu anh phải dọn đi nơi khác. Kết quả là anh chưa bao giờ trao đổi một lời nào với bất kỳ ai trong làng. Dường như không ai quan tâm, thậm chí không nhận ra rằng anh đang sống ở đây.

    No one, it seemed, except for this woman.

    Dường như không có ai ngoại trừ người phụ nữ này.

    He thought about not answering, but she glimpsed him at the window when she turned to look, a hint of a smile in her face. Nodding to her, he realized he didn’t have a choice now; if he didn’t open up, this exchange would stay with her – it wouldn’t be a brief forgettable conversation with a neighbour, it would be him seeing her out there and refusing to answer the door. She might tell her partner if she had one. She might speak to other people in the village.

    Anh nghĩ đến việc không trả lời, nhưng bà ta thoáng nhìn thấy anh ở cửa sổ khi bà quay lại nhìn, trên khuôn mặt bà thoáng hiện một nụ cười. Gật đầu với bà, anh nhận ra bây giờ mình không còn lựa chọn nào khác; nếu anh không mở lòng, cuộc trao đổi này sẽ gây ấn tượng trong tâm trí bà ta - đó sẽ không phải là một cuộc trò chuyện ngắn ngủi đáng quên với người hàng xóm, mà là anh thấy bà ta ở ngoài kia và từ chối mở cửa. Bà ta có thể kể với chồng bà nếu có. Bà ta có thể kể với những người khác trong làng.

    ‘Shit,’ he muttered.

    “Chết tiệt,” anh càu nhàu.

    Swallowing his frustration, Healy stepped away from the window, flicked on the kitchen lights and then, taking a couple of deep breaths, pulled open the door.

    Nuốt cục bực xuống, Healy bước ra khỏi cửa sổ, bật đèn nhà bếp rồi hít một vài hơi thật sâu, mở cửa.

    Just remember who you are now.

    Chỉ cần nhớ bây giờ mình là ai.

    Warm air escaped from the night into the house, followed by the scent of her perfume. She was holding a basket of apples down by her side and looked a little older up close – early sixties maybe, six or seven years beyond Healy’s age, rather than the three or four he’d first thought. A flowing floral dress hid much of her body, but he could see she was slim, and she was definitely attractive.

    Một làn gió ấm từ trời đêm ào vào nhà, mang theo mùi nước hoa của bà ta. Bà đang cầm một giỏ táo bên cạnh và khi nhìn gần trông già hơn một chút - có lẽ là đầu sáu mươi, hơn tuổi của Healy sáu hoặc bảy tuổi, thay vì ba hoặc bốn tuổi như anh nghĩ lúc đầu. Chiếc váy hoa bồng bềnh che đi phần lớn cơ thể bà, nhưng anh có thể thấy bà mảnh khảnh và chắc chắn là rất hấp dẫn.

    ‘Oh, hi,’ she said, her voice soft, and her accent – like his – not local. ‘I keep seeing you walk past, but we never get a chance to speak to each other. So I thought I’d put that right.’ She had blue-grey eyes tagged with fine age lines, and shoulder-length blonde hair. Holding out a hand, she said, ‘Nice to meet you. I’m Paula.’

    “Ồ, xin chào,” bà nói, âm thanh nhỏ nhẹ và giọng bà – giống như anh – không phải giọng địa phương. “Tôi cứ thấy anh đi ngang qua, nhưng chúng ta chưa bao giờ có cơ hội nói chuyện với nhau. Có lẽ, tôi nghĩ mình đã nói đúng.” Bà ấy có đôi mắt màu xanh xám với những đường nét tuổi tác rõ ràng và mái tóc vàng dài ngang vai. Bà đưa tay ra và nói: “Rất vui được gặp anh. Tôi là Paula.”

    He took her hand. ‘Marcus. Nice to meet you too.’

    Anh nắm lấy tay bà. “Tôi là Marcus. Cũng rất hân hạnh được gặp bà.”

    ‘I love your accent. What part of Ireland are you from?’

    “Tôi thích giọng nói của anh. Anh đến từ vùng nào của Ireland?'

    Dublin. ‘Cork.’

    Dublin. “Cork.”

    ‘That’s a beautiful part of the world.’ She paused, and then seemed to remember she was holding the basket of apples. ‘Oh, these are for you. I’ve got a huge Bramley tree at the bottom of the garden, and I can’t keep up with it. They’re cookers, obviously, so you’ll need to whack them in a pie, or just stew them.’

    “Đó là một vùng tuyệt đẹp của thế giới.” Bà dừng lại, rồi dường như nhớ ra mình đang cầm giỏ táo. “Ồ, những thứ này là dành cho anh. Tôi có một cây Bramley bự tổ chảng ở cuối vườn và tôi không hái kịp. Rõ là táo dùng để nấu nướng, vì vậy anh cần phải băm ra cho vào bánh pie hoặc chỉ cần hầm là được.”

    He took the basket from her. ‘Thank you,’ he said.

    Anh nhận giỏ từ tay bà. “Cảm ơn,” anh nói.

    They stood there for a moment.

    Họ đứng đó một lúc.

    ‘Uh, anyway, I don’t want to take up too much of your time,’ she said. The security light had flicked off, but now it erupted into life again.

    “Ừ, dù sao thì tôi cũng không muốn làm mất quá nhiều thời gian của anh,” bà nói. Đèn an ninh đã tắt, nhưng bây giờ nó lại bừng sáng.

    Would you like to come in?

    Bà có muốn vào nhà không?

    That’s what he wanted to ask her. Something fizzed in his guts, the weight of the words on his tongue, the desire to say them like a rope around his waist, tugging him closer to them. He wanted to talk to her. It wasn’t just because she was attractive. He just wanted to have a conversation with someone. He wanted to be normal, feel normal. But he stopped himself as he watched her eyes go past him, into the kitchen, to where his bibs and braces hung.

    Đó là điều anh muốn hỏi bà. Có thứ gì đó sôi lên trong bụng anh, sức nặng của những lời nói trên lưỡi anh, mong muốn được nói chuyện như một sợi dây quấn quanh eo anh, kéo anh lại gần với mong muốn đó hơn. Anh muốn nói chuyện với bà ta. Không phải chỉ vì bà hấp dẫn. Anh chỉ muốn nói chuyện với ai đó. Anh muốn được bình thường, cảm thấy bình thường. Nhưng anh dừng lại khi nhìn thấy ánh mắt bà lướt qua anh, vào bếp, nơi treo tạp dề và đai thắt của anh.

    ‘Oh, are you a fisherman?’ she asked.

    “Ồ, anh có phải là ngư dân không?” bà ta hỏi.

    ‘Yes.’

    “Đúng rồi.”

    ‘On Anglesey?’

    “Ở Anglesey?”

    He wondered what the best response was. He’d done such a good job of keeping his head down that she didn’t even realize the trawler he worked on tended to get moored overnight at the village’s only jetty. But if he lied to her, and she saw him down there one day, what then? Would she think anything of it? Or would his lie register with her and then make her look more closely at him?

    Anh băn khoăn về câu trả lời tốt nhất là gì. Anh đã làm rất tốt việc cúi đầu xuống đến nỗi bà ta thậm chí còn không nhận ra chiếc tàu đánh cá mà anh làm việc có xu hướng neo đậu qua đêm tại cầu cảng duy nhất của làng. Nhưng nếu anh nói dối bà, và một ngày nào đó bà ta nhìn thấy anh ở dưới đó thì sao? Liệu bà ấy có nghĩ gì về chuyện này không? Hay lời nói dối của anh sẽ khiến bà ghi nhớ và sau đó bà sẽ soi anh kỹ hơn?

    ‘I work all over, really,’ he said finally.

    “Thật sự là tôi làm việc khắp nơi,” cuối cùng anh nói.

    She nodded and seemed fine with the response.

    Bà ấy gật đầu và có vẻ ổn với câu trả lời.

    ‘What about you?’

    “Còn bà thì sao?”

    ‘I work from home,’ she said. ‘Marketing. It’s very boring.’

    “Tôi làm việc ở nhà,” bà nói. “Tiếp thị. Công việc rất chán lắm.”

    Another smile, and he was struck again by how lovely she was, her face half lit by the light coming from the kitchen. He tried to gather himself, to bring down the shutters, knowing he was being led somewhere he wasn’t meant to go. But this was the first close physical contact – beyond the father and son he shared a boat with, and the occasional visits by Raker – that he’d had with anyone for a long, long time.

    Một nụ cười khác, và anh lại bị ấn tượng bởi vẻ đẹp đáng yêu của bà ta, khuôn mặt bà được chiếu sáng một nửa bởi ánh sáng phát ra từ nhà bếp. Anh cố gắng trấn tĩnh lại, kéo cửa chớp xuống, biết rằng mình đang bị dẫn đến một nơi nào đó mà anh không dự định đi. Nhưng đây là lần tiếp xúc thân thể gần gũi đầu tiên – ngoài hai cha con mà anh ở chung thuyền và những lần Raker thỉnh thoảng đến thăm – mà trong một thời gian dài anh chưa tiếp xúc với bất kỳ ai.

    ‘Anyway,’ she said, ‘I didn’t just come up here to give you some apples.’

    “Dù sao,” bà ấy nói, “tôi không chỉ đến đây để đưa cho anh một ít táo đâu.”

    He eyed her. ‘No?’

    Anh nhìn bà. “Không phải à?”

    ‘No.’ She shook her head. ‘I mean, those apples are great in a pie, don’t get me wrong, but the real reason …’ She paused, frowned. ‘I guess it could be nothing at all.’

    “Không.” Bà lắc đầu. “Ý tôi là, những quả táo đó dùng để làm bánh rất tuyệt, đừng hiểu sai ý tôi, nhưng lý do thực sự…” Bà dừng lại, cau mày. “Tôi đoán nó có thể chẳng là gì cả.”

    Healy’s stomach knotted.

    Bụng Healy chợt quặn lên.

    ‘Yesterday, a man came to your house,’ Paula said.

    “Hôm qua, có một người đàn ông đến nhà anh,” Paula nói.

    ‘A man?’

    “Một người đàn ông à?”

    ‘In the morning. It’s probably nothing, but it just struck me as … odd. I can see some of your driveway here from my back step, and I was in the garden hanging out some washing and happened to look up. And I could see this man, about where I am.’

    “Vào buổi sáng. Có lẽ không có gì, nhưng điều đó khiến tôi thấy… kỳ kỳ. Đấy, tôi có thể nhìn thấy một phần ngõ nhà anh từ bậc thềm sau nhà tôi, và khi tôi đang phơi đồ trong vườn và tình cờ nhìn lên. Và tôi có thể nhìn thấy người đàn ông này, từ nơi tôi đang đứng.”

    ‘Knocking on my door?’

    “Gõ cửa nhà tôi à?”

    ‘No,’ she said. ‘Looking through your windows.’

    “Không,” bà nói. “Nhìn vào cửa sổ nhà anh thôi.”

    Another twist in Healy’s stomach.

    Bụng Healy lại quặn lên lần nữa.

    ‘I guess you were out on the boat at the time, and I just figured that maybe he was a friend of yours, or one of those annoying door-to-door salesmen who can’t handle it when someone isn’t actually home.’ She smiled again, joking.

    “Tôi đoán lúc đó anh đang ở trên thuyền và tôi chỉ nghĩ rằng có thể hắn là bạn của anh, hoặc là một trong những người bán hàng dạo tận nhà phiền phức, không thể bán được hàng khi thực sự chủ không ở nhà.” Bà lại mỉm cười, nói đùa.

    But Healy hardly noticed it this time, his mind racing.

    Nhưng lần này Healy hầu như không nhận thấy điều đó, tâm trí anh đang quay cuồng.

    ‘Thing is, though, that wasn’t the end of it.’

    “Tuy nhiên, chuyện này còn chưa hết đâu.”

    He looked at Paula again. ‘No?’

    Anh lại nhìn Paula. “Chưa à?”

    ‘No,’ she said. ‘Because he came back again later on.’

    “Chưa đâu,” bà nói. “Bởi vì sau đó hắn đã quay lại.”

    HẾT CHƯƠNG HEALY

    P/S: Em có điều chỉnh một chút ở câu dịch màu xanh.​
     
    Chỉnh sửa cuối: 27/4/24
    machine thích bài này.
  16. vinaguy

    vinaguy Lớp 11


    13

    ‘Some guy was snooping around the house?’

    “Có thằng cha nào đó đang rình mò quanh nhà à?”

    I knew that an unscheduled call from Healy, after 11 p.m., and on a day that we didn’t normally speak, was never likely to be good news. But I hadn’t expected it to be this.

    Tôi biết rằng một cuộc gọi đột xuất từ Healy, sau 11 giờ đêm và không phải là ngày quy định nói chuyện như thường lệ, thì không bao giờ có thể là tin tốt được. Nhưng tôi không ngờ nó lại xảy ra như thế này.

    ‘That’s what she reckons,’ Healy replied.

    “Đó là theo những gì bà ấy đoán,” Healy trả lời.

    ‘What did he look like?’

    “Hắn trông như thế nào?”

    ‘I didn’t ask. I didn’t want to seem too desperate for an answer.’

    “Tôi không hỏi. Tôi không muốn tỏ ra quá liều mạng để có được câu trả lời.”

    I realized he was right. Too many questions, too much hint of panic, and it just drew more attention to him. The whole reason he was living in a tiny village in north Wales was to vanish. And, as I thought of that, I thought about how we’d ended up here.

    Tôi nhận ra anh ấy đã đúng. Quá nhiều câu hỏi, quá nhiều dấu hiệu hoảng sợ, và điều đó chỉ khiến người ta chú ý đến anh ấy nhiều hơn mà thôi. Toàn bộ lý do khiến anh ấy sống ở một ngôi làng bé xíu ở phía bắc xứ Wales là để coi như biến mất trên cõi đời này. Và, khi tôi nghĩ về điều đó, tôi suy nghĩ về cách chúng tôi đã dừng lại ở đây.

    It had begun with Healy being fired from the Met, after spending a decade and a half as a detective. But that had only been the start of his spiral. He buried a daughter he loved even more than his job, he became a drunk, his family disowned him, and then he suffered a near-fatal heart attack. For a time he was homeless, which I didn’t know about until after, and then the only way he felt he could ever begin again was by becoming someone else entirely. He believed closing the chapter on Colm Healy and beginning with a new name in a new place would wash him clean of everything that had come before. So he’d faked his death, and – because I’d recognized something in him: his grief, his suffering – I’d helped him do it, perjuring myself in front of the police as I did. And now here we were: having to move him every time something looked even slightly off, constantly on edge about our secret escaping into the open.

    Mọi chuyện bắt đầu với việc Healy bị sa thải khỏi Met, sau một thập kỷ rưỡi làm thám tử. Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu cho vòng xoáy của anh. Anh đã phải chôn cất đứa con gái mà anh yêu quý hơn cả công việc, anh trở thành một kẻ nát rượu, gia đình chối bỏ anh, và sau đó anh bị một cơn đau tim thập tử nhất sinh. Khoảng một thời gian, anh sống vô gia cư, điều mà mãi về sau tôi mới biết, và khi đó cách duy nhất anh cảm thấy mình có thể bắt đầu lại là trở thành một người khác hoàn toàn. Anh tin rằng việc kết thúc thân phận là Colm Healy và bắt đầu bằng một thân phận mới ở một nơi ở mới sẽ gột rửa mọi thứ đã xảy ra với anh trước đó. Vì thế anh đã giả vờ tạo ra cái chết, và – bởi vì tôi đã nhận ra điều gì đó ở anh: nỗi thương tiếc, sự đau khổ của anh – tôi đã giúp anh thực hiện điều đó, chính tôi đã khai man trước mặt cảnh sát. Và bây giờ chúng tôi ở đây: mỗi khi có điều gì đó trông hơi khác thường lại phải chuyển anh đi chỗ khác, liên tục lo lắng về việc bí mật của chúng tôi sẽ bị bại lộ.

    ‘Who is she?’ I asked. ‘This neighbour, I mean?’

    “Bà ấy là ai?” tôi hỏi. “Ý tôi là người hàng xóm kia đó?”

    ‘I don’t know. Tonight’s the first time we’ve ever spoken.’

    “Tôi không biết. Tối nay là lần đầu tiên chúng tôi nói chuyện mà.”

    ‘You haven’t spoken to her in two years?’

    “Anh đã không nói chuyện với bà ấy suốt hai năm rồi cơ à?”

    ‘Two years and three months,’ he said. ‘I thought you’d be pleased. Isn’t this what you wanted?’

    “Hai năm ba tháng,” anh nói. “Tôi nghĩ anh sẽ hài lòng. Đây không phải là điều anh mong muốn sao?”

    The comment annoyed me but I let it go. In part, it was true: it was exactly what I wanted, because it was the best way to keep us both safe. But there were days where I regretted deeply what we’d started. It wasn’t just the lies I’d had to tell after helping him fake his death. It wasn’t the way Healy had emotionally blackmailed a forensic tech who’d owed him a favour into swapping around DNA samples – although those were certainly a part of it. It was that – even though everything I felt for him at the time had been real, all the grief, mirrored in him, that I felt myself – sometimes I wondered if it was a burden I shouldn’t have helped him carry. If I’d just let him destroy himself, I wouldn’t have had to lug the weight of this around. There would be no persistent low-level alarm buzzing at the back of my head. I wouldn’t be paying rent on a place in north Wales I’d never live in myself and I wouldn’t have to drive up every three months to collect the cash I was owed. I wouldn’t have to go out and get fake IDs, and I wouldn’t have to deal with the fire that still burned in Healy, the caustic nature of him that he’d never quite quelled.

    Lời bình luận làm tôi khó chịu nhưng tôi cho qua. Một phần thì đó là sự thật: đó chính xác là điều tôi mong muốn, vì đó là cách tốt nhất để giữ an toàn cho cả hai chúng tôi. Nhưng có những ngày tôi vô cùng hối hận về những gì chúng tôi đã bắt đầu. Đó không chỉ là những lời nói dối mà tôi phải nói sau khi giúp anh ấy giả chết. Đó không phải là cách Healy tống tiền một kỹ thuật viên pháp y, người đã nợ anh ấy một ân huệ trong việc trao đổi các mẫu DNA – mặc dù việc làm này chắc chắn là có một phần trách nhiệm của anh ấy. Đó là - mặc dù tất cả những gì tôi cảm thấy đối với anh ấy vào thời điểm đó đều là thật, tất cả nỗi đau phản chiếu trong anh ấy, mà tôi cảm thấy như chính mình - đôi khi tôi tự hỏi liệu đó có phải là gánh nặng mà lẽ ra tôi không nên gánh giúp anh ấy hay không. Nếu tôi để anh ấy tự hủy hoại bản thân, tôi đã không phải mang gánh nặng này đi khắp nơi. Sẽ không có tiếng báo động mức độ thấp liên tục vang lên trong đầu tôi. Tôi sẽ không phải trả tiền thuê một nơi ở phía bắc xứ Wales. Tôi sẽ không bao giờ sống một mình và tôi sẽ không phải lái xe ba tháng một lần để thu số tiền mà tôi còn nợ. Tôi sẽ không phải ra ngoài làm chứng minh thư giả, và tôi sẽ không phải đối mặt với ngọn lửa vẫn đang bùng cháy ở Healy, bản chất cay độc mà anh ấy chưa bao giờ dập tắt được.

    But then he’d be dead.

    Nhưng rồi anh ấy sẽ chết.

    Is that what you want?

    Đó là điều mình muốn?

    ‘Raker?’

    “Anh Raker nè?”

    I tuned back in.

    Tôi lấy lại giọng.

    ‘Have you been talking to anyone else in the village?’ I asked.

    “Anh đã nói chuyện với ai khác trong làng chưa?” tôi hỏi.

    ‘No,’ he said.

    “Chưa,” anh nói.

    ‘What about the people you work with?’

    “Còn những người làm việc cùng anh thì sao?”

    ‘The father and son?’ He made it sound like a joke. ‘The father’s monosyllabic and the son’s an arsehole. I don’t talk to them unless I have to.’ He paused, and then I heard him take a tired breath. It was a common refrain. He hated working on the trawler, even though he knew it was the perfect way for him to exist below the radar. He was out at sea the whole day and it was cash in hand, so no one except the father and son spent any time with him, and no bank had an account of what money he did or didn’t have. But those things were hard to square when the only job he wanted, and had truly loved, was one he could never go back to.

    “Ông cha và thằng cu con đó à?” Anh ấy nói âm điệu như đùa. “Ông cha thì cộc lốc và thằng con trai là kẻ khốn nạn. Tôi chẳng thèm nói chuyện với họ trừ khi tôi buộc phải nói.” Anh ấy dừng lại, rồi tôi nghe thấy anh thở một hơi mệt mỏi. Đó là một điệp khúc muôn thuở. Anh ghét làm việc trên tàu đánh cá, mặc dù anh biết đó là cách hoàn hảo để anh tồn tại được dưới sự chú ý của mọi người. Cả ngày anh ấy đi biển và trong tay có tiền mặt nên không ai ngoại trừ hai cha con nhà kia có thời gian tiếp xúc với anh ấy, và cũng chẳng có ngân hàng nào ghi chép đầy đủ về số tiền anh có hay không. Nhưng những điều đó thật khó giải quyết khi công việc duy nhất anh ấy muốn và thực sự yêu thích lại là công việc mà anh ấy không bao giờ có thể quay lại.

    He couldn’t be a cop again – not now, not ever.

    Anh không thể làm cảnh sát được nữa – không phải bây giờ, mà là không bao giờ.

    ‘Can you think of any reason at all you might have compromised yourself?’

    “Anh có thể nghĩ ra lý do nào có thể khiến anh gặp nguy hại không?”

    ‘No.’

    “Không.”

    But had there been a minor hesitation this time?

    Nhưng lần này có chút do dự nào không?

    ‘Healy?’

    ‘Này Healy?’

    ‘No,’ he repeated, his hackles up again.

    “Không,” anh lặp lại, tóc lại dựng lên.

    ‘I’m only asking because I need to be one hundred per cent sure.’

    “Tôi chỉ hỏi vì tôi cần chắc chắn một trăm phần trăm.”

    ‘And I’m telling you, I’ve been careful.’

    “Và tôi đang nói với anh, tôi đã rất cẩn thận rồi.”

    I paused again, thinking. The most obvious decision would be to move him on again – send him to another part of the country and get him a new name – but that was also the hardest option. It was hard for me, because it took time to enact big changes like that and erase the evidence of his two years in north Wales, and it was even harder on him – small as Healy’s life there was, it was a life of sorts.

    Tôi lại dừng lại và suy nghĩ. Quyết định rõ ràng nhất là chuyển anh ấy đi tiếp - đưa anh ấy đến một vùng khác của đất nước này và đặt cho anh ấy một cái tên mới - nhưng đó cũng là lựa chọn khó khăn nhất. Điều đó thật khó đối với tôi, vì phải mất thời gian để thực hiện những thay đổi lớn như thế và xóa bỏ dấu vết về hai năm anh ấy ở phía bắc xứ Wales, và điều đó còn khó hơn với anh ấy – cuộc đời của Healy tuy nhỏ bé nhưng đó cũng là một cách sống.

    I tried to think of any reason why someone would be snooping around the house if it wasn’t because of us. Maybe it had been the owner, wanting something, although I couldn’t think what. Maybe the owner had put the house on the market, and just hadn’t informed us yet, and it had been someone from the estate agency. Or maybe the neighbour had been right: the man had been selling something, just going door to door. Did door-to-door salesmen keep coming back, like this guy had? It was possible. Did they peer into people’s windows? That felt more unlikely.

    Tôi cố nghĩ ra lý do tại sao lại có người rình mò quanh nhà nếu không phải vì chúng tôi. Chắc có lẽ đó là người chủ muốn thứ gì đó, mặc dù tôi không thể nghĩ ra đó là gì. Có lẽ người chủ đã rao bán ngôi nhà và chưa thông báo cho chúng tôi, và đó chắc là người từ công ty môi giới bất động sản. Hoặc có thể bà hàng xóm đã đúng: người đàn ông kia chỉ đi đến từng nhà và đang bán thứ gì đó. Những người bán dạo tận nhà có tiếp tục quay lại như anh chàng này không? Điều đó là có thể. Họ có nhìn vào cửa sổ của mọi người không? Điều đó cảm thấy khó xảy ra hơn.

    And then I stopped.

    Và rồi tôi dừng lại.

    ‘Shit,’ I said quietly. ‘What if it’s McCaskell?’

    “Chết tiệt,” tôi lặng lẽ nói. “Nếu đó là McCaskell thì sao?”

    Silence. I could almost feel Healy’s blood chill.

    Im lặng. Tôi gần như có thể cảm nhận được nỗi ớn lạnh trong máu của Healy.

    Connor McCaskell was a journalist at the Daily Tribune who had been on my trail for over four years. I could barely remember how his interest in me had begun. But he worked for the country’s bestselling and most salacious tabloid, and whatever the genesis was, he believed that my public persona, such as it was, was a lie. The few times I’d appeared in the press – reluctantly, after a big case – seemed to have riled him somehow. He believed there was no way that I could do what I did just because I wanted to help people. He believed I was hiding some dark secret.

    Connor McCaskell là nhà báo của tờ Daily Tribune, người đã lần theo dấu vết tôi hơn bốn năm nay. Tôi hầu như không thể nhớ được mối quan tâm của hắn dành cho tôi đã bắt đầu như thế nào. Nhưng hắn làm việc cho tờ báo lá cải khiêu dâm bán chạy nhất và hấp dẫn nhất cả nước, và dù khởi điểm là gì, hắn tin rằng tính cách của tôi trước công chúng, chẳng hạn như vậy, là dối trá. Một vài lần tôi xuất hiện trên báo chí - miễn cưỡng mà nói, sau một vụ án lớn - bằng cách nào đó dường như đã chọc tức hắn. Hắn tin rằng chẳng đời nào tôi làm việc chỉ vì giúp đỡ mọi người. Hắn tin rằng tôi đang che giấu một bí mật đen tối nào đó.

    He just didn’t know that my secret was Healy.

    Hắn chỉ không biết rằng bí mật của tôi chính là Healy.

    He didn’t know about the blackmail and the perjury.

    Hắn không biết về vụ tống tiền và khai man.

    Perhaps until now.

    Có lẽ cho đến bây giờ hắn vẫn chưa biết.

    ‘He’s been quiet for months,’ Healy said.

    “Hắn đã im hơi trong nhiều tháng,” Healy nói.

    ‘I know. That’s what worries me.’

    “Tôi biết. Đó là điều khiến tôi lo lắng.”

    ‘How would he even know about me?’

    “Làm sao hắn biết được về tôi?”

    ‘He shouldn’t,’ I replied, my mind still turning, ‘but he’s been looking into me, so he’s probably been looking into things I’m connected to.’

    “Hắn không thể,” tôi trả lời, tâm trí vẫn đang quay cuồng, “nhưng hắn đang điều tra tôi, nên có lẽ hắn đang xem xét những thứ mà tôi có liên quan.”

    ‘You think he’s got hold of your financial records?’

    “Anh nghĩ hắn đã nắm giữ hồ sơ tài chính của anh à?”

    ‘He works for the Tribune. I wouldn’t put it past him.’

    “Hắn làm việc cho Tribune. Tôi sẽ không bỏ qua hắn đâu.”

    ‘But we’ve insulated ourselves, right?’

    “Nhưng chúng ta đã tự cách ly rồi mà, đúng chưa?”

    ‘He shouldn’t be able to connect me to the house you’re in, no. All the contact I’ve had with the landlord is done over the phone, via a call box, and the financial stuff – the rent, anything else – isn’t on my statements because it’s paid through a holding company. It should be impenetrable. Spike set it all up for me and there’s no way McCaskell has the skillset to break through a wall like that.’

    “Hắn không thể tìm ra mối liên kết giữa tôi với ngôi nhà mà anh đang ở, không. Tất cả liên hệ của tôi với chủ nhà đều được thực hiện qua điện thoại, qua hộp thư thoại và các vấn đề tài chính - tiền thuê nhà, bất cứ thứ gì khác - không có trong bảng sao kê của tôi vì nó được thanh toán thông qua một công ty cổ phần. Chắc chắn là không thể dò ra được. Spike đã sắp đặt tất cả cho tôi và không đời nào McCaskell có đủ kỹ năng để vượt qua bức tường như vậy.”

    ‘So what do you want to do?’

    “Thế giờ anh muốn làm gì đây?”

    I looked out into the blackness of the garden. I felt cold now, although I wasn’t sure what was making me shiver: the coolness of the night or the thought of a tabloid journalist unearthing my secrets. I didn’t want to move Healy if it really was just some door-to-door salesman.

    Tôi nhìn ra bóng tối của khu vườn. Bây giờ tôi cảm thấy lạnh, mặc dù tôi không chắc điều gì đang khiến tôi rùng mình: cái lạnh của màn đêm hay ý nghĩ một nhà báo lá cải đang cố đào bới bí mật của tôi lên. Tôi không muốn chuyển Healy đi chỗ khác nếu đó thực sự chỉ là tên bán hàng dạo tận nhà.

    But what if it was McCaskell?

    Nhưng nếu đó là McCaskell thì sao?

    I could get Healy to install a doorbell camera, but that required the Internet, and it also required him to have a mobile phone, and both those things would make him easier to locate, trace and to follow. One of the ways we’d kept Healy hidden so successfully was by leaving no digital trail.

    Tôi có thể nhờ Healy lắp camera chuông cửa, nhưng điều đó cần có Internet và nó cũng yêu cầu anh ấy phải có điện thoại di động, và cả hai thứ đó sẽ giúp anh ấy dễ dàng định vị, phát hiện và lần theo hơn. Một trong những cách chúng tôi đã giấu kín Healy rất thành công là không để lại dấu vết kỹ thuật số nào.

    ‘Raker, you keep going silent on me.’

    “Anh Raker, sao cứ im lặng với tôi hoài vậy.”

    ‘I’m still here,’ I said. ‘I’m just thinking.’

    “Tôi vẫn ở đây nè,” tôi nói. “Tôi chỉ đang suy nghĩ thôi.”

    ‘I vote we sit tight for now.’ He didn’t want to move again either, which I didn’t blame him for.

    “Tôi quyết định bây giờ chúng ta sẽ đâu ở yên đó đi.” Anh ấy cũng không muốn thay đổi chỗ ở nữa, điều đó tôi không trách anh ấy.

    ‘This neighbour,’ he continued quietly. ‘She told me that she works from home.’

    “Người hàng xóm này,” anh ấy lặng lẽ tiếp tục. “Bà ấy nói với tôi rằng bà ấy làm việc ở nhà.”

    I was already shaking my head. ‘No.’

    Tôi đã lắc đầu rồi nói. “Không.”

    ‘What’s the alternative?’

    “Nếu không, giải pháp thay thế là gì đây?”

    ‘We don’t know her.’

    “Chúng ta không biết bà ấy mà.”

    ‘She could keep an eye on the house for us when I’m out.’

    “Bà ấy có thể trông nhà hộ chúng ta khi tôi ra ngoài.”

    ‘We don’t even know her, Healy.’

    “Chúng ta thậm chí còn không biết bà ấy nữa, Healy.”

    ‘What’s the alternative, then, Raker? Because I’m all ears.’

    “Vậy thì giải pháp thay thế là gì đây, Raker? Bởi vì tôi luôn biết lắng nghe mà.”

    ‘We could move you again.’

    “Chúng ta có thể chuyển chỗ ở một lần nữa.”

    His silence said everything.

    Sự im lặng của anh ấy đã nói lên tất cả.

    And that was just the problem: I couldn’t think of another alternative.

    Và đó chính là vấn đề: tôi không thể nghĩ ra giải pháp thay thế nào khác.

    He continued: ‘She was the one who told me about this guy being at the house. If I spoke to her about it, it doesn’t have to be some big thing. I’ll make it casual. Give me some credit here: I’m not a total idiot. I can make it work with her if we need to.’

    Anh ấy nói tiếp: “Bà ấy là người đã báo cho tôi về việc thằng cha nào đó đang dòm vào nhà. Nếu tôi nói với bà ấy về chuyện đó thì đó chẳng phải là chuyện gì to tát cả. Tôi sẽ làm cho nó bình thường lại. Hãy ghi công cho tôi ở đây: Tôi không phải là một thằng hoàn toàn ngốc. Tôi có thể làm việc đó với bà ấy nếu chúng ta cần.”

    It was this. Or it was uprooting him.

    Thì hoặc là cách này. Hoặc là phải chuyển anh ấy đi chỗ khác thôi.

    And why do that until we knew who this guy really was?

    Và tại sao lại phải làm vậy khi chúng ta thực sự chưa biết thằng cha kia là ai nhỉ?

    ‘Okay,’ I said eventually. ‘Speak to her.’

    “Được rồi,” cuối cùng tôi nói. “Nói chuyện với bà ấy đi.”

    ‘Okay, good.’

    “Nhất trí, tốt.”

    ‘But be careful.’

    “Nhưng hãy cẩn thận đấy.”

    ‘I will.’

    “Đương nhiên rồi.”

    ‘I mean it, Healy.’

    “Ý tôi là vậy đó, Healy.”

    ‘I know,’ he said. ‘Trust me, I’ll find out who our snooper is.’

    “Tôi biết rồi,” anh ấy nói. “Hãy tin tôi đi, tôi sẽ tìm ra thằng cha rình mò nhà mình là ai ngay thôi.”

    HẾT CHƯƠNG 13​
     
  17. vinaguy

    vinaguy Lớp 11


    14

    Tired, but wanting to get back to the phone records that Spike had sent me, I grabbed a second beer from the fridge, returned to the deck and opened up the PDF.

    Mệt mỏi nhưng muốn xem lại lịch sử cuộc gọi mà Spike đã gửi cho tôi, tôi lấy cốc bia thứ hai trong tủ lạnh, quay trở lại sân thượng và mở bản PDF lên.

    It was divided into about thirty pages for each month. October had a little more than November and December but not by much. Spike had given me a foot-up by organizing each page according to the number that either Cate or Aiden had called or been called by, the name of the person or company associated with the number, and then their address.

    Mỗi tháng có khoảng ba mươi trang. Tháng 10 có nhiều hơn tháng 11 và tháng 12 một chút nhưng không nhiều. Spike đã giúp tôi rất nhiều khi sắp xếp từng trang theo số điện thoại mà Cate hoặc Aiden đã gọi hoặc được gọi, tên người gọi hoặc công ty có liên quan tới số đó và sau đó là địa chỉ của họ.

    Before I started going through it all, I again went to my Inbox and found the list of names and contact details, where possible, for friends and work colleagues of Cate and Aiden that Martin, Sue and Georgia had put together for me. I wasn’t about to discount the idea that one of their friends might know what had happened to the couple, but – if I could cross-check everything against a list of close contacts – it would be easier for me to spot one-off calls or calls to or from new numbers.

    Trước khi bắt đầu xem xét tất cả, tôi lại vào Hộp thư đến của mình và tìm danh sách tên và chi tiết liên hệ, nơi có thể, của bạn bè và đồng nghiệp của Cate và Aiden mà Martin, Sue và Georgia đã tổng hợp lại cho tôi. Tôi không định loại bỏ ý tưởng rằng một trong những người bạn của họ có thể biết chuyện gì đã xảy ra với cả hai người họ, nhưng - nếu tôi có thể kiểm tra chéo mọi thứ với danh sách những người có liên hệ chặt chẽ - thì tôi sẽ dễ dàng hơn trong việc phát hiện ra những cuộc gọi chỉ xảy ra một lần, hoặc những cuộc gọi đi hoặc gọi đến từ các số mới.

    I went through the data meticulously, noting names and numbers that weren’t on the family’s list. The list obviously gave me more of an advantage with Cate than with Aiden, though Georgia had done her best to add some friends of Aiden’s, some work colleagues she’d met or heard Cate talk about. The truth was, though, without parents or siblings to help me, I was probably going to have to do some more legwork in that area.

    Tôi xem xét dữ liệu một cách tỉ mỉ, ghi lại những cái tên và số điện thoại không có trong danh bạ của gia đình. Danh sách này rõ ràng mang lại cho tôi nhiều lợi thế hơn với Cate so với Aiden, mặc dù Georgia đã cố gắng hết sức để bổ sung thêm một số bạn bè của Aiden, một số đồng nghiệp mà cô ấy đã gặp hoặc nghe Cate nhắc đến. Tuy nhiên, sự thật là nếu không có người thân giúp đỡ, để làm được việc này có lẽ tôi sẽ phải mất nhiều công sức hơn.

    Even so, I kept going, and the next time I looked up, it was half past midnight, and I’d gone so deep into the numbers that I didn’t see that I’d emptied the second bottle of beer. I was cold now too, so I went inside and grabbed a hoodie, then made a cup of tea and returned to the work.

    Mặc dù phức tạp vậy, tôi vẫn miệt mài xem xét, và lần ngửng đầu tiếp theo thì đã quá nửa đêm, tôi đã chìm sâu vào các con số đến mức không nhận ra rằng mình đã uống hết chai bia thứ hai. Lúc này tôi cũng cảm thấy lạnh nên vào trong lấy chiếc áo hoodie rồi pha một tách trà, rồi quay lại làm việc.

    It was one thirty by the time I was done.

    Khi tôi hoàn tất thì đã là một giờ ba mươi.

    There were things I could run down, like names – especially related to Aiden – of potential friends and colleagues who might be worth speaking to. But, based on the phone calls he made and received in those last three months, I didn’t see a lot to worry me. Most of his calls had been to the same small group of friends, or to a series of mobiles that started with similar numbers to his, which suggested they were work associates on company handsets.

    Có những thứ tôi có thể tìm ra, chẳng hạn như những cái tên - đặc biệt liên quan đến Aiden - của những người bạn và đồng nghiệp tiềm năng có thể rất đáng để hỏi thăm. Tuy nhiên, dựa trên những cuộc điện thoại mà anh ấy đã gọi và nhận trong ba tháng qua, tôi không thấy có gì phải lo lắng nhiều. Hầu hết các cuộc gọi của anh đều đến cùng một nhóm nhỏ bạn bè, hoặc tới một loạt số điện thoại di động tương tự như số của anh, điều này cho thấy họ làm việc trên bộ đàm của công ty.

    By contrast, because she was self-employed, Cate didn’t have colleagues in the traditional sense, but there were some galleries and studios I could chase up. More interesting to me were phone calls she’d made to places outside London. When I ran the numbers down, they tended to be hotels, car hire places and airlines, which suggested they were locations that she was travelling to for her work.

    Ngược lại, vì làm việc tự do, nên Cate không có đồng nghiệp theo nghĩa truyền thống, nhưng có một số phòng trưng bày và studio mà tôi có thể điều tra. Điều thú vị hơn với tôi là những cuộc điện thoại cô ấy gọi tới những nơi ngoài London. Khi tôi xem hết các số điện thoại đó, nhìn chung chúng là khách sạn, địa điểm cho thuê ô tô và hãng hàng không, điều này gợi ý rằng đó là những địa điểm mà cô ấy sẽ đến để làm việc.

    One grouping of calls particularly caught my eye.

    Một nhóm cuộc gọi đặc biệt thu hút sự chú ý của tôi.

    They’d all been made in early November, two months before the crash – and as I looked at them, I immediately thought of the receipt Cate had for the café in Bamburgh, dated 6 November, and of Georgia hearing her sister say dunes.

    Tất cả các cuộc gọi đều được thực hiện vào đầu tháng 11, hai tháng trước vụ tai nạn – và khi đọc qua, tôi nghĩ ngay đến hóa đơn quán cà phê ở Bamburgh của Cate, đề ngày 6 tháng 11, và nghĩ đến việc Georgia nghe em gái cô nói về cồn cát.

    That date fitted with what I was looking at now.

    Ngày đó phù hợp với những gì tôi đang xem xét bây giờ.

    The calls were all to the north-east. One was even to a hotel on the A1, the road that ran from Newcastle all the way up the North Sea coast to Edinburgh, passing Bamburgh on the way.

    Tất cả các cuộc gọi đều gọi tới vùng đông bắc. Một cuộc thậm chí còn gọi đến một khách sạn trên đường A1, con đường chạy xuyên từ Newcastle lên tận bờ Biển Bắc đến Edinburgh, trên đường đi chạy ngang qua Bamburgh.

    I went back into the house and grabbed the pile of receipts for November. I’d been through them all once already – but only very briefly – and, after some digging, found an invoice for a hotel called the Coast Inn on the A1. The invoice didn’t have a header or a logo; the name was just printed small at the bottom of the receipt, which is why it hadn’t particularly lodged with me on a first run-through. But now I looked closer. The invoice was for a three-night stay from Tuesday 5 to Friday 8 November 2019. That would have coincided with two other calls she’d made to north-east numbers on 4 November, the day before she’d driven up.

    Tôi quay vào nhà và lấy chồng biên lai của tháng 11. Tôi đã xem qua tất cả chúng một lần rồi - nhưng chỉ xem sơ sơ - và sau khi xem xét kỹ, tôi đã tìm thấy hóa đơn của một khách sạn tên là Coast Inn trên đường A1. Hóa đơn không có tiêu đề hoặc logo; cái tên chỉ được in nhỏ ở cuối biên lai, đó là lý do tại sao tôi không đặc biệt chú ý đến nó trong lần đọc đầu tiên. Nhưng bây giờ tôi đã xem gần hơn. Hóa đơn dành cho thời gian lưu trú ba đêm từ Thứ Ba ngày 5 đến Thứ Sáu ngày 8 tháng 11 năm 2019. Điều đó có thể trùng hợp với hai cuộc gọi khác mà cô đã thực hiện tới các số điện thoại ở phía đông bắc vào ngày 4 tháng 11, một ngày trước khi cô lái xe đến.

    One of the calls was to someone called Tom Swainswick.

    Một trong những cuộc gọi là gọi cho một người tên Tom Swainswick.

    When I googled him and the address that Spike had provided me with, I quickly found out who he was: a senior crime reporter for the Northumberland Star.

    Khi tôi tra Google về anh ta và địa chỉ mà Spike đã cung cấp, tôi nhanh chóng biết anh ta là ai: một phóng viên cấp cao về tội phạm của tờ Northumberland Star.

    But that didn’t interest me as much as the second call she’d made.

    Nhưng điều đó không làm tôi quan tâm nhiều bằng cuộc gọi thứ hai mà cô ấy đã thực hiện.

    That one had been to Northumbria Police.

    Cuộc gọi đó là gọi đến đồn Cảnh sát Northumbria.

    HẾT CHƯƠNG 14​
     
  18. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    Xin chào các bác! Vừa rồi em bận nhiều việc, nên chưa tiếp tục ấp truyện dịch này lên được. Giờ việc vãn vãn đi một chút... em lại tiếp tục ấp lên những chương còn lại, các bác ai rảnh lại tiếp tục chỉnh sửa dùm em nhé. Regards,

    15

    Why would Cate have been phoning the cops before she made the journey north? And was it connected to the Internet search Aiden had done for police stations?

    Tại sao Cate lại gọi điện cho cảnh sát trước khi cô ấy đi về phía bắc? Và chuyện này liệu có liên quan tới việc Aiden tìm kiếm các đồn cảnh sát trên Internet hay không?

    Contacting the reporter at the Northumberland Star could be explained, at least on paper, by the fact that Cate was a photographer. Maybe she’d done some freelance work. Maybe she was pitching for opportunities. Although, in truth, both those arguments failed to sit comfortably with me. If she was just pitching for work, why did she call a reporter covering the crime beat? And why would she then call the police headquarters in Tyne and Wear straight after?

    Việc liên lạc với phóng viên ở Northumberland Star có thể giải thích được, ít nhất là trên giấy tờ, bởi thực tế Cate là một nhiếp ảnh gia. Có lẽ cô ấy đã làm một số công việc tự do. Có lẽ cô ấy đang tìm kiếm cơ hội. Tuy nhiên, trên thực tế, cả hai lập luận đó đều không khiến tôi cảm thấy thoải mái. Nếu cô ấy chỉ là đang tìm kiếm việc làm, tại sao cô ấy lại gọi cho phóng viên chuyên về tội phạm? Và tại sao sau đó cô ấy lại gọi thẳng đến trụ sở cảnh sát ở Tyne and Wear?

    I went to my laptop and cross-checked the number Cate had used against the number listed on the force’s website. I expected the numbers to be the same, for it to have been a switchboard.

    Tôi tiến về phía máy tính xách tay và kiểm tra chéo số Cate đã sử dụng với số được liệt kê trên trang web của lực lượng cảnh sát. Tôi mong rằng những số điện thoại này sẽ giống nhau, vì chúng cùng một tổng đài.

    But it wasn’t.

    Nhưng không phải vậy.

    I grabbed my mobile, punched in the number that Cate had used, even though it was late. After five rings, a voicemail message kicked in. ‘Hi, this is Detective Superintendent Leon Coetzer. Please leave a message after the tone.’

    Tôi chộp lấy điện thoại di động của mình, bấm số mà Cate đã sử dụng, mặc dù đã muộn. Sau năm hồi chuông, một tin nhắn thoại được phản hồi. “Xin chào, đây là Chánh Thanh tra Thám tử Leon Coetzer. Vui lòng để lại tin nhắn sau tiếng bíp.”

    I hung up.

    Tôi cúp máy.

    Pulling my laptop towards me, I put in a Google search for Coetzer. I found plenty of photographs of him behind microphones at press conferences, as well as official shots of him in uniform, used by the force in media packs. I clicked on a couple to see where they took me and I ended up embedded in news stories that featured him.

    Kéo máy tính xách tay về phía mình, tôi tìm kiếm Coetzer trên Google. Tôi đã tìm thấy rất nhiều bức ảnh chụp anh ta đằng sau micro tại các cuộc họp báo, cũng như những bức ảnh chính thức chụp anh ta trong bộ quân phục, được lực lượng này sử dụng trong các phương tiện truyền thông. Tôi nhấp vào một vài tấm hình để xem đường link của chúng dẫn tới đâu và cuối cùng tôi truy cập được vào những mẩu tin tức có đề cập đến anh ta.

    What interest would Cate have in a cop like Coetzer?

    Cate có hứng thú gì với một cảnh sát như Coetzer?

    Her exhibition on justice – ‘Tragic, Drawn’ – had taken place five months before the call, and if she wanted to see day-to-day police work in action – the aftermath of crimes, cases being worked – a superintendent wasn’t going to be the most visual of focal points. At his rank most of Coetzer’s professional life was going to be spent chained to a desk.

    Cuộc triển lãm của cô về công lý - 'Bi kịch, U sầu' - đã diễn ra năm tháng trước cuộc gọi, và nếu cô muốn tìm hiểu về các hoạt động trong công việc thường ngày của cảnh sát như thế nào – như là kết quả điều tra tội phạm, các vụ án đang được giải quyết chẳng hạn - thì một chánh thanh tra sở không phải là điểm trực quan và trọng tâm nhất để quan sát. Ở cấp bậc đó, phần lớn thời gian hoạt động nghề nghiệp của Coetzer sẽ là ngồi bên bàn giấy.

    So had she called him because she needed access?

    Vậy liệu có phải cô gọi cho anh ta vì cô cần được tiếp cận?

    An official sign-off from a senior cop?

    Cần một sự xác nhận chính thức từ một cảnh sát cấp cao?

    And if so, a sign-off for what?

    Và nếu đúng vậy, thì xác nhận cho cái gì?

    I backed up, switching tabs in Google from Images to All, then scrolled down the wall of results. They were all links to local news stories, the headlines as dull as the images I’d already found and followed: Coetzer talking about budgets, about the strain on the force during Covid lockdowns, about training and recruitment. He seemed to get wheeled out a lot, even for things that might have been the remit of the chief constable or his assistants, which suggested that management liked Coetzer and trusted him. His history would no doubt have also played into their thinking. The idea of a veteran detective was a lot sexier to the public than a cop who hit the heights because they’d been the best at administration.

    Tôi đã sao lưu, chuyển từ tab Hình ảnh (Images) trong Google sang tab Tất cả (All), sau đó cuộn xuống phần kết quả tìm kiếm. Tất cả chúng đều là liên kết đến các mẩu tin tức địa phương, những tiêu đề trông buồn tẻ như những hình ảnh tôi đã tìm thấy và theo dõi: Coetzer nói về ngân sách, về sự căng thẳng của lực lượng cảnh sát trong thời gian phong tỏa vì Covid, về đào tạo và tuyển dụng. Anh ta dường như được giao rất nhiều nhiệm vụ, ngay cả những việc là trách nhiệm của cảnh sát trưởng hay của trợ lý cũng được giao cho anh ta, điều này cho thấy rằng ban quản lý thích Coetzer và tin tưởng anh ta. Lai lịch của anh ta chắc chắn cũng đã ảnh hưởng đến tư duy của họ. Ý tưởng về một thám tử kỳ cựu trong mắt công chúng hấp dẫn hơn nhiều so với một cảnh sát đạt đến đỉnh cao vì họ chỉ là người giỏi nhất về công tác quản lý.

    Then, at the bottom of the page, something stopped me.

    Sau đó, ở cuối trang, có một thứ đã khiến tôi dừng lại.

    The very last hit was for a story that had run in the Northumberland Star almost three months ago, towards the end of April. I clicked on it. It was a retrospective of sorts, written to coincide with the thirty-year anniversary of a local crime that had never been solved. The byline was for Tom Swainswick, the same journalist Cate had called.

    Mẩu tin dưới cùng là về một câu chuyện được đăng trên tờ Northumberland Star gần ba tháng trước, vào khoảng cuối tháng Tư. Tôi nhắp chuột vào đó. Đó là một bài viết dạng hồi tưởng, được viết trùng với dịp tưởng niệm ba mươi năm một tội ác ở vùng đó mà chưa bao giờ được giải quyết. Dòng nội dung này dành cho Tom Swainswick, nhà báo mà Cate đã gọi.

    But it was the headline that caught my attention.

    Nhưng chính tiêu đề đó đã thu hút sự chú ý của tôi.

    THIRTY YEARS ON, WHEN WILL THERE BE JUSTICE FOR THE GIRLS IN THE DUNES?

    BA MƯƠI NĂM SAU, KHI NÀO SẼ CÓ CÔNG LÝ CHO NHỮNG CÔ GÁI TRÊN CỒN CÁT?

    HẾT CHƯƠNG 15​
     
  19. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    Dunes

    Cồn cát

    30 Years Ago
    30 năm trước
    Makayla gunned her car along the coastal road.

    Makayla phóng xe dọc theo con đường ven biển.

    Off to her right, still at a distance, she could see activity in the beach grass, the white specks of a forensic team moving around, constables further out, their dark uniforms like swishes of paint at the edges of the crime scene. They were trying to push the media back, off the sand and on to the tarmac. In the end, it wasn’t going to make much difference. The media already had a perfect view: against the grey of the sky she could see two helicopters circling the dunes, like crows hunting for carrion.

    Cách xa một đoạn, ở phía bên phải, cô vẫn có thể nhìn thấy hoạt động trên đám cỏ rễ dày, những đốm trắng của đội pháp y đang di chuyển xung quanh, những cảnh sát ở xa hơn một chút, đồng phục tối màu của họ giống như những vệt sơn ở rìa hiện trường vụ án. Họ đang cố lùa đám truyền thông ra khỏi bãi cát về phía đường nhựa. Cuối cùng, chuyện đó cũng chẳng tạo ra nhiều khác biệt. Đám truyền thông đã có cách quan sát hiện trường hoàn hảo: trên nền trời xám xịt, cô có thể nhìn thấy hai chiếc máy bay không người lái bay vòng quanh cồn cát, giống như những con quạ đang săn xác chết.

    Two minutes later she arrived, stopping her Volvo at the edge of the circus, where three marked cars and a mobile forensic lab were in a line. There was a news truck off to the left of those, a cameraman watching back footage he’d taken already. She recognized the presenter in the front of the truck, talking to someone on a car phone, but she couldn’t recall his name, and soon her focus shifted elsewhere. Grabbing her coat from the back seat, she checked her pockets for her warrant card, then made a beeline for a bleached uneven boardwalk. On a normal day there would have been few, if any, vehicles parked here, and – at this time of year – the boardwalks and dunes would have been deserted, the thick braid of protected coastland empty.

    Hai phút sau, cô đến nơi, dừng chiếc Volvo của mình ở rìa bùng binh, nơi có ba chiếc xe được đánh dấu và một phòng thí nghiệm pháp y di động đang xếp hàng. Có một chiếc xe tải thu thập tin tức ở bên trái những chiếc đó, một người quay phim đang xem lại đoạn phim anh ta đã quay. Cô nhận ra người thuyết trình ở phía trước xe tải, đang nói chuyện với ai đó bằng điện thoại trên ô tô, nhưng cô không thể nhớ tên anh ta và ngay sau đó sự tập trung của cô chuyển sang nơi khác. Lấy áo khoác từ ghế sau, cô kiểm tra túi để tìm thẻ cảnh sát, sau đó đi thẳng đến lối đi lát ván gồ ghề được tẩy trắng. Vào một ngày bình thường, nếu có, sẽ có rất ít phương tiện đậu ở đây, và - vào thời điểm này trong năm - các lối đi bộ lót ván và cồn cát sẽ vắng tanh, dải đất dày ven biển được bảo vệ sẽ trống trơn.

    But this wasn’t a normal day.

    Nhưng đây không phải là một ngày bình thường.

    As the sand dunes rose and then flattened off, she could see the scene more clearly. A tent had been erected about a hundred and fifty feet ahead of her; beyond that was the North Sea, tormented and sullen, breaking hard on to the sweep of beach that bled into the dunes. The closer she got, the more she could hear of conversations along the boardwalk and its edges. A TV crew had already started broadcasting. An official from the council, concerned about ecological damage, was complaining about the metal plates that the scene of crime officer had laid across the sand in order to get officials from the boardwalk out to the body. And in front of the crime scene tape, as it whipped and twisted in the wind, was another journalist. Her name was Abi Salaya – but back at the office, they’d taken to calling her Abi’s A Liar, because most of what she wrote in her tabloid was fiction.

    Khi những đụn cát nhô lên cao và sau đó bằng phẳng, cô có thể nhìn thấy khung cảnh rõ ràng hơn. Một chiếc lều đã được dựng lên phía trước cô khoảng một trăm năm mươi feet; xa hơn nữa là Biển Bắc, dữ dội và ảm đạm, vỗ thẳng vào bờ tung bọt lên những cồn cát. Càng đến gần, cô càng có thể nghe thấy nhiều cuộc trò chuyện dọc theo bờ của lối đi lót ván. Một đoàn truyền hình đã bắt đầu phát sóng. Một quan chức của hội đồng, lo ngại làm hỏng môi trường sinh thái, đã phàn nàn về những tấm kim loại mà nhân viên hiện trường vụ án dùng để trải trên cát để đưa các quan chức từ lối đi lát ván, ra tiếp cận thi thể. Và phía trước dải băng đánh dấu hiện trường vụ án, đang bị gió cuốn đi và xoắn lại, là một nhà báo khác. Tên cô ấy là Abi Salaya – nhưng khi ở văn phòng, họ quen gọi cô ấy là Abi's A Liar, bởi vì hầu hết những gì cô ấy viết trên tờ báo lá cải đều là hư cấu.

    ‘Detective Jennings! Detective Jennings!’

    “Thám tử Jennings! Thám tử Jennings!”

    Makayla held up a hand. ‘No comment.’

    Makayla giơ tay lên. “Miễn bình luận.”

    ‘Can you confirm whether this is –’

    “Cô có thể xác nhận xem đây có phải là…”

    ‘No comment,’ Makayla said again, pushing aside a Dictaphone that was being shoved into her face. She showed her warrant card to a waiting uniform and ducked under the tape. A camera flash went off behind her somewhere, and she heard heavy footsteps on the boards, which she assumed was a TV crew trying to catch up with her before she got too far away. But she didn’t look back. She hated seeing herself in print but hated being on TV even more, despite it always giving her kids a thrill. The last time it happened, her husband Tyler recorded her appearance on the BBC and made her watch it back with them after dinner one night. Her boys – seven-year-old twins – had danced around the room singing ‘Mummy is a film star, Mummy is a film star’ so perfectly in unison that she knew it had to have been Tyler’s idea, because he’d clearly made them practise before she got home. But then, later, when she and Tyler had cuddled up on the sofa, he’d said to her, ‘Not that I don’t like you being a film star – but please promise me you’ll stay safe out there.’

    “Không bình luận gì nhé,” Makayla nhắc lại, đẩy chiếc máy ghi âm Dictaphone đang được dí sát vào mặt sang một bên. Cô đưa thẻ cảnh sát của mình cho người bảo vệ mặc đồng phục và chui đầu qua dải băng đánh dấu hiện trường. Đèn flash của máy ảnh vụt tắt ở đâu đó sau lưng cô, và cô nghe thấy tiếng bước chân nặng nề trên tấm ván, cô cho rằng đó là đoàn truyền hình đang cố đuổi kịp cô trước khi cô đi quá xa. Nhưng cô không nhìn lại. Cô ghét nhìn thấy mình trên báo chí nhưng thậm chí còn ghét xuất hiện trên TV hơn, mặc dù điều đó luôn khiến các con cô cảm thấy thích thú. Lần cuối cùng điều đó xảy ra, vào một đêm nọ chồng cô, Tyler, đã ghi lại sự xuất hiện của cô trên đài BBC và bắt cô xem lại cùng cả nhà sau bữa tối. Các con trai của cô - cặp song sinh bảy tuổi - đã nhảy múa quanh phòng và hát 'Mẹ là một ngôi sao điện ảnh, Mẹ là một ngôi sao điện ảnh' đồng thanh hoàn hảo đến nỗi cô nhận ra đó hẳn phải là ý tưởng của Tyler, bởi vì rõ ràng anh ấy đã hướng dẫn các con luyện tập trước khi cô về nhà. Nhưng sau đó, khi cô và Tyler ôm nhau trên ghế sofa, anh đã nói với cô, “Không phải anh không thích em trở thành một ngôi sao điện ảnh - nhưng hãy hứa với anh rằng em sẽ an toàn khi ở ngoài đó nhé.”

    It was hard to know what was safe any more.

    Thật khó để biết điều gì là an toàn nữa.

    She certainly wasn’t in any danger here – but it would be hard to describe any crime scene as safe. Safe was certainty, security. It was where no one came to harm.

    Cô chắc chắn không gặp bất kỳ nguy hiểm nào ở đây – nhưng thật khó để mô tả bất kỳ hiện trường vụ án nào là an toàn. An toàn là sự chắc chắn, an ninh. Đó là nơi không có ai đến làm hại mình.

    Makayla looked at the tent ahead of her.

    Makayla nhìn vào căn lều trước mặt.

    That place wasn’t here, she thought.

    Nơi đó không phải ở đây, cô nghĩ.

    She finally deviated from the boardwalk and made her way across the metal plates, feeling them sink under her weight into the sand. The day was unseasonably cold, a frigid morning at the end of April, and while the wind was light, it was bitter. As it rolled in off the sea, carried all the way down from Scandinavia, her eyes began to water and then, as she wiped them clean, something else hit her: the first wave of decay. Makayla held her breath for a second – in all the years she’d been doing this, she’d never got used to it – and then forced herself forward to the tent, to the smell.

    Cuối cùng cô cũng rời khỏi lối đi lát ván và băng qua những tấm kim loại, cảm thấy chúng chìm xuống cát dưới sức nặng của cô. Hôm đó trời lạnh khác thường, một buổi sáng se lạnh cuối tháng Tư, tuy gió nhẹ nhưng buôn buốt. Khi gió cuồn cuộn qua biển, thổi từ Scandinavia xuống, mắt cô bắt đầu đọng nước và sau đó, khi cô lau sạch chúng, một thứ khác ập đến với cô: một đợt mùi phân hủy đầu tiên. Makayla nín thở trong giây lát – trong ngần ấy năm cô đã làm việc này, cô chưa bao giờ quen với nó – rồi ép mình tiến về phía lều, rồi cũng phải ngửi mùi thôi.

    Leon Coetzer was waiting for her at the entrance.

    Leon Coetzer đang đợi cô ở lối vào.

    The two of them had worked together for twelve months but couldn’t have been more different: Makayla was a trim and diminutive 42-year-old woman from London, attractive and well dressed, a mum first, a wife second, a cop third; Coetzer was a heavy 26-year-old single guy from Sunderland, who had one good suit and a second for when the good one was in the wash. He had no kids and had already been divorced once. Makayla could see today was a second-suit day – it was getting small for him, the stitching of the jacket starting to strain.

    Hai người họ đã làm việc cùng nhau được 12 tháng nhưng không thể khác biệt hơn được nữa: Makayla là một phụ nữ 42 tuổi nhỏ nhắn và mảnh dẻ đến từ London, hấp dẫn và ăn mặc đẹp, trước hết là một người mẹ, sau đó là một người vợ, thứ ba là một cảnh sát; Coetzer là một anh chàng độc thân 26 tuổi, nặng ký đến từ Sunderland, người có một bộ vest đẹp và một bộ vest thứ hai để dùng khi bộ tốt nhất đang được giặt. Anh ta không có con và đã ly hôn một lần. Makayla có thể thấy hôm nay là ngày mặc bộ đồ thứ hai – đối với anh ta bộ vest ngày càng bé đi, đường may trên chiếc áo bắt đầu căng ra.

    ‘Sorry I’m late,’ Makayla said, even though she was Coetzer’s DI.

    “Xin lỗi tôi đến muộn,” Makayla nói, mặc dù cô là thanh tra cấp trên của Coetzer.

    ‘The school run?’

    “Đưa đón con đi học à?”

    ‘How did you guess?’

    “Làm sao anh đoán được?”

    Coetzer did a quick round of introductions, although Makayla already knew the pathologist, then they both moved past the group gathered outside and into the tent.

    Coetzer giới thiệu nhanh một vòng, mặc dù Makayla đã biết vị bác sỹ pháp y, sau đó cả hai đi qua một nhóm đang tụ tập bên ngoài và tiến vào trong lều.

    The body was in the middle.

    Thi thể nằm ở giữa.

    Makayla, conscious of not contaminating the scene until forensics had officially cleared it, stayed at the edges of the tent with the back of her hand to her nose. Techs danced around the body – buzzing like the insects that had already long done their work here – dusting, digging, picking up, photographing. But, even with them partly obscuring her view, she could see enough: the woman had been concealed in landscape fabric, brown hessian wrapped around her like bandages. Over time, the hessian had started to unravel, perhaps picked at by the red foxes living along this stretch of the coast, or the crows, maybe the gulls. Or it could have been the weather that had loosened the covering; the previous week, the coast had been battered by gales.

    Makayla, ý thức được việc không làm ô nhiễm hiện trường cho đến khi pháp y chính thức tìm hiểu rõ ràng về nó, đứng ở rìa lều, đưa mu bàn tay lên mũi. Các kỹ thuật viên nhảy múa quanh thi thể – nói chuyện rì rầm như những con côn trùng đã hoàn thành nhiệm vụ của chúng ở đây từ lâu – quét dọn bụi bặm, đào bới, nhặt nhạnh, chụp ảnh. Nhưng, ngay cả khi họ che khuất một phần tầm nhìn của cô, cô vẫn có thể nhìn thấy đủ: người phụ nữ đã được giấu trong lớp vải khổ ngang, chiếc bao bố màu nâu quấn quanh người cô ta như những dải băng. Theo thời gian, lớp bao bố đã bắt đầu bong ra, có lẽ bị những con cáo đỏ sống dọc bờ biển này hoặc những con quạ, có thể là mòng biển gây ra. Hoặc có thể do thời tiết đã làm lớp phủ bị bong ra; tuần trước, bờ biển có gió giật mạnh.

    Makayla could make out a hand – the fingers facing up towards the sky – and part of a face: an eye socket, the eyes starting to liquefy, and the hint of polished bone in the forehead where a wound must have been picked at. The rest of the woman was either still hidden under the hessian, or by the thickness of the beach grass that she’d been shoved into and covered with. Not only that, but two months without discovery had been enough time for her to start to become part of the grass itself, the blades flourishing around her. As she’d continued to hollow out, they’d even fused with her body. She’d been so well hidden, and so far away from the boardwalk, that no one had seen her. With the spring growth, if she’d been here much longer, it was possible she might never have been found at all.

    Makayla có thể nhận ra một bàn tay - những ngón tay hướng lên trời - và một phần khuôn mặt: hốc mắt, đôi mắt bắt đầu hóa lỏng và dấu vết xương bóng loáng trên trán nơi chắc hẳn là vết thương đã được chạm vào. Phần còn lại của người phụ nữ hoặc vẫn còn ẩn dưới tấm vải bố, hoặc dưới lớp cỏ rễ dày trên bãi biển mà cô đã bị ném vào và phủ lên. Không chỉ vậy, hai tháng không được phát hiện ra cũng đủ thời gian để cô bắt đầu trở thành một phần của cây cỏ, những ngọn cỏ đâm chồi nảy lộc xung quanh cô. Khi cô tiếp tục mục ruỗng, cây cỏ thậm chí còn hợp nhất với thi thể của cô. Cô đã được che giấu rất kỹ càng và cách xa lối đi lót ván nên không ai nhìn thấy cô. Với sự phát triển của mùa xuân, nếu cô ở đây lâu hơn tí nữa, có lẽ cô sẽ không bao giờ được tìm thấy nữa.

    ‘Is it definitely her?’ Makayla asked the pathologist.

    “Chắc chắn là cô ấy phải không?” Makayla hỏi vị bác sỹ pháp y.

    He nodded. ‘Looks like it. There was a handbag with the body – it’s got her driving licence in, her bank cards and other stuff belonging to her.’ He faded out.

    Anh ta gật đầu. “Có vẻ như vậy. Có một chiếc túi xách bên cạnh thi thể – trong đó có giấy phép lái xe, thẻ ngân hàng và những thứ khác của cô ấy.” Giọng anh ta lịm dần.

    ‘So it’s her, is what you’re saying.’

    “Vậy theo như những gì anh đang nói thì chính là cô ấy rồi.”

    ‘Yes,’ the pathologist said. ‘It looks like it’s Lilly.’

    “Đúng vậy,” vị bác sỹ pháp y nói. “Có vẻ như đó là Lilly.”

    Lilly Andrews was eighteen when she disappeared. On the morning of Thursday 27 February, she’d left her home in North Shields and taken the Metro into Newcastle where she worked at a record store at the bottom of Dean Street. She’d never gone to college, much less university, because her family couldn’t afford it, and she still lived at home – but she absolutely loved music. She played the keyboard and guitar, both self-taught, was never seen anywhere without a Walkman and headphones, and had an encyclopaedic knowledge of bands and artists. Her parents told Makayla and Coetzer that Lilly had still harboured ambitions of studying music, despite the fact she played everything by ear and from memory, and could barely read a note.

    Lilly Andrews mười tám tuổi khi cô ấy mất tích. Vào sáng thứ Năm ngày 27 tháng 2, cô rời nhà ở North Shields và đón tàu điện ngầm đến Newcastle, nơi cô làm việc tại một cửa hàng băng đĩa ở cuối phố Dean. Cô ấy chưa bao giờ học cao đẳng, chứ đừng nói đến đại học, vì gia đình cô ấy không đủ khả năng chi trả và cô ấy vẫn sống ở nhà - nhưng cô ấy cực kỳ yêu thích âm nhạc. Cô chơi keyboard và guitar, cả hai thứ đều tự học, chưa bao giờ người ta nhìn thấy cô ở bất cứ đâu mà không có cái máy Walkman và tai nghe, đồng thời có kiến thức bách khoa toàn thư về các ban nhạc và nghệ sĩ. Cha mẹ cô nói với Makayla và Coetzer rằng Lilly vẫn nuôi tham vọng học nhạc, mặc dù thực tế là cô chơi mọi thứ bằng tai và từ trí nhớ, và hầu như không thể đọc được một nốt nhạc nào.

    Somewhere between leaving T-Bridge Records after it closed and the time she should have been home – 7 p.m. – Lilly disappeared. Makayla and Coetzer tried to follow Lilly’s route back on surveillance film, but coverage wasn’t anywhere close to good enough in Newcastle city centre, and certainly not once Lilly had exited the Metro in North Shields.

    Đâu đó giữa lúc rời tiệm T-Bridge Records sau khi tiệm đóng cửa và thời điểm lẽ ra cô ấy phải ở nhà - 7 giờ tối – Lilly mất tích. Makayla và Coetzer đã cố gắng theo dõi lộ trình của Lilly trên camera giám sát, nhưng phạm vi phủ sóng ở trung tâm thành phố Newcastle không đủ tốt, và chắc chắn không phải khi Lilly rời khỏi Metro ở North Shields.

    If she’d even got the Metro at all.

    Giá như cô ấy đón được tàu điện ngầm.

    They spoke to eyewitnesses and that led nowhere: no one remembered seeing her on the train she always returned on; no one saw her at Central Station before she left Newcastle. Sometimes, her parents said, she would bump into old school friends in North Shields, but none of the friends had seen her on that particular day. And in the days beforehand they hadn’t seen her with anyone new and hadn’t noticed any unusual behaviour. As a result, Makayla and her task force ran down thousands of leads – but, eventually, all of them proved to be dead ends.

    Họ đã nói chuyện với những người chứng kiến và điều đó cũng chẳng đi đến đâu: không ai nhớ đã nhìn thấy cô ấy trên chuyến tàu mà cô ấy thường đi về; không ai nhìn thấy cô ấy ở Nhà ga Trung tâm trước khi cô ấy rời Newcastle. Cha mẹ cô cho biết đôi khi cô tình cờ gặp những người bạn học cũ ở North Shields, nhưng không ai trong số những người bạn đó nhìn thấy cô vào ngày đặc biệt đó. Và trong những ngày trước đó họ không thấy cô đi cùng ai mới và cũng không nhận thấy bất kỳ hành vi bất thường nào. Kết quả là Makayla và lực lượng đặc nhiệm của cô đã tìm được hàng nghìn đầu mối - nhưng cuối cùng, tất cả chúng đều là ngõ cụt.

    And so, despite Lilly being on the local news for weeks after, on the front pages of regional newspapers – even the nationals for a day or two – the investigation stalled. It was never far from the thoughts of Makayla Jennings, never far from the desk where she and Coetzer had mounted a MISSING poster on the wall, Lilly’s face looking out, the edges adorned with yellow Post - its full of facts and hypotheses.

    Và vì vậy, mặc dù Lilly xuất hiện trên trang tin tức địa phương trong nhiều tuần sau đó, trên trang nhất của các tờ nhật báo địa phương - thậm chí cả báo chí toàn quốc trong một hoặc hai ngày - cuộc điều tra vẫn bị đình trệ. Kết quả điều tra chẳng bao giờ vượt xa hơn những suy nghĩ của Makayla Jennings, chẳng bao giờ xa hơn chiếc bàn nơi cô và Coetzer đã treo một tấm áp phích MẤT TÍCH lên tường, khuôn mặt của Lilly nhìn ra ngoài, các mép được trang trí bằng những tờ thông báo màu vàng - nó chứa đầy những sự kiện và giả thuyết.

    Never far, but far enough that they had never found Lilly.

    Không bao giờ xa, nhưng đủ xa để họ không bao giờ tìm thấy Lilly.

    Not until this morning when – forty-five miles away from where Lilly was last seen leaving the record store, and two months after she first disappeared – the owner of a Labrador followed his dog into the protected scrub of some sand dunes on the Northumberland coast. He wanted to see why the animal was barking, because the dog was normally so quiet; ‘as placid as a millpond’ he would tell police afterwards.

    Phải cho đến sáng nay khi – cách nơi người ta nhìn thấy Lilly lần cuối khi rời khỏi cửa hàng băng đĩa bốn mươi lăm dặm, và hai tháng sau khi cô bé mất tích lần đầu tiên – người chủ của một con chó Labrador đã theo nó vào vùng bụi rậm được bảo vệ của một số cồn cát trên bờ biển Northumberland. Anh ta muốn biết tại sao con vật lại sủa, vì con chó thường rất im lặng; “êm đềm như mặt hồ phẳng lặng” sau đó anh ta báo cảnh sát.

    There he saw something in the grass.

    Ở đó anh ta nhìn thấy thứ gì đó trên bãi cỏ.

    A pale hand.

    Một bàn tay nhợt nhạt.

    After she got home that night, after seeing the kids and eating dinner with Tyler, Makayla got a call from Coetzer, who’d gone back to the office.

    Sau khi về nhà tối hôm đó, sau khi gặp bọn trẻ và ăn tối với Tyler, Makayla nhận được cuộc gọi từ Coetzer, người đã quay lại văn phòng.

    ‘I just heard from Rebin,’ Coetzer told her.

    “Tôi vừa nghe tin từ Rebin,” Coetzer nói với cô ấy.

    Rebin was the scene of crime officer.

    Rebin là sĩ quan hiện trường tội phạm.

    ‘What did he say?’

    “Anh ta đã nói gì?”

    ‘He decided to expand the search, just to make sure they didn’t miss any evidence. He’d already got uniforms to walk those sand dunes within a quarter-mile radius of the dump site, but he expanded it out to a half-mile.’

    “Anh ấy quyết định mở rộng tìm kiếm, chỉ để đảm bảo rằng họ không bỏ sót bất kỳ bằng chứng nào. Anh ấy đã mang theo đồng phục đi bộ trên cồn cát trong bán kính một phần tư dặm tính từ bãi rác, nhưng anh ấy đã mở rộng ra đến nửa dặm.”

    ‘Okay,’ Makayla said. ‘Did they find something?’

    “Được rồi,” Makayla nói. “Họ có tìm thấy gì không?”

    ‘Yeah, they found something.’

    “Ừ, có chứ, họ đã tìm thấy thứ gì đó.”

    ‘More of Lilly’s things?’

    “Thêm đồ của Lilly nữa à?”

    ‘No,’ Coetzer said. ‘They found two other bodies.’

    “Không,” Coetzer nói. “Họ tìm thấy hai thi thể khác nữa.”

    HẾT CHƯƠNG 30 năm trước
     
  20. vinaguy

    vinaguy Lớp 11


    16

    THIRTY YEARS ON, WHEN WILL THERE BE JUSTICE FOR THE GIRLS IN THE DUNES?

    BA MƯƠI NĂM SAU, KHI NÀO SẼ CÓ CÔNG LÝ CHO NHỮNG CÔ GÁI TRÊN CỒN CÁT?

    By Tom Swainswick | Senior Reporter

    Viết bởi Tom Swainswick | Phóng viên cấp cao

    Families no closer to answers after three decades


    Những gia đình không có câu trả lời sau ba thập kỷ

    On 28 April 1992, the body of 18-year-old Lilly Andrews was uncovered by a dog walker in a two-mile stretch of sand dunes north of Bamburgh. She’d been missing for two months.

    Vào ngày 28 tháng 4 năm 1992, thi thể của Lilly Andrews, 18 tuổi, được một người dắt chó đi dạo phát hiện trong một dải cồn cát dài hai dặm về phía bắc Bamburgh. Cô ấy đã mất tích khoảng hai tháng.

    The confirmation that Lilly had been murdered was terrible enough – but later on the same day, as the search area was expanded to include a larger section of dunes known as ‘The Hook’, police made a further grisly discovery. Two more bodies had been dumped there – Felicity Sykes, 19, from Jedburgh, and Maggie Wilkins, 21, from Carlisle. Felicity had been missing since 15 January, and Maggie two weeks before that, since New Year’s Day.

    Lời xác nhận rằng Lilly đã bị sát hại là đã đủ khủng khiếp - nhưng sau đó cùng ngày, khi khu vực tìm kiếm được mở rộng hơn ra cả cồn cát được gọi là 'The Hook', cảnh sát đã phát hiện thêm một điều khủng khiếp hơn nữa. Hai thi thể nữa được vứt ở đó – Felicity Sykes, 19 tuổi, đến từ Jedburgh và Maggie Wilkins, 21 tuổi, đến từ Carlisle. Felicity đã mất tích kể từ ngày 15 tháng 1, và Maggie mất tích hai tuần trước đó, kể từ ngày đầu năm mới.

    All three had been strangled.

    Cả ba đều đã bị siết cổ.

    The search for answers, and the person responsible, turned into one of the most expensive investigations in the history of the force: over 7,500 leads were pursued, 91 persons of interest were brought in for questioning, and – at its height – over 150 people were working on the case across various departments.

    Việc tìm kiếm câu trả lời và người chịu trách nhiệm đã trở thành một trong những cuộc điều tra tốn kém nhất trong lịch sử của lực lượng công an: hơn 7.500 đầu mối được truy lùng, 91 người bị tình nghi được đưa ra để thẩm vấn, và – thời điểm đỉnh cao - hơn 150 người tham gia giải quyết vụ việc ở nhiều phòng ban khác nhau.

    Ultimately, all the effort was to no avail.

    Cuối cùng, mọi cố gắng đều vô ích.

    Despite interviewing what at the time were referred to as ‘several promising suspects’, Northumbria Police never ended up making an arrest. In fact, according to one insider, the task force didn’t even get close to identifying the killer. ‘The so-called “promising suspects” – that was just hot air. We brought a couple of guys in who had records we thought might be relevant. But I don’t think, even for a minute, that we genuinely believed any of them killed those girls – plus they all had alibis. We had another one who ran a local business, who could have been our guy, but we had nothing to tie him to any of the women – just some weird behaviour, and being weird isn’t a crime.’ Another former detective who worked on Operation Red, as the murders were then codenamed, agrees: ‘I think most of the time we were just wheeling in these men so we could make ourselves feel better.’

    Mặc dù đã phỏng vấn những người mà vào thời điểm đó được coi là ‘một số nghi phạm đầy hứa hẹn’, Cảnh sát Northumbria chưa bao giờ bắt được hung thủ. Trên thực tế, theo một người trong cuộc, lực lượng đặc nhiệm thậm chí còn chưa tiến được đến gần việc nhận dạng ra kẻ giết người. “Cái gọi là ‘nghi phạm đầy hứa hẹn’ – đó chẳng qua chỉ là không khí khẩn trương nóng bỏng. Chúng tôi đã triệu tập một vài người có hồ sơ mà chúng tôi nghĩ có thể có liên quan đến các vụ án. Nhưng tôi không nghĩ, dù chỉ một phút, rằng chúng tôi thực sự tin bất kỳ ai trong số họ đã giết những cô gái đó - hơn nữa họ đều có bằng chứng ngoại phạm. Chúng tôi nhắm tới một người khác đang điều hành một doanh nghiệp địa phương, đây có thể là người đàn ông chúng tôi đang dò tìm, nhưng chúng tôi không tìm thấy mối liên hệ nào giữa anh ta với bất kỳ người phụ nữ nào trong số các nạn nhân - chỉ là một số hành vi kỳ quặc và kỳ quặc thì không phải là tội ác.” Một cựu thám tử làm việc trong Điệp Vụ Biển Đỏ(*), khi các vụ giết người sau đó được đặt mật danh, đồng ý rằng: “Tôi nghĩ phần lớn thời gian chúng tôi kín đáo đưa những người đàn ông này vào điều tra là để có thể khiến bản thân chúng tôi cảm thấy dễ chịu hơn mà thôi.”

    (*) Nguyên tác: Operation Red. Tạm dịch: Điệp Vụ Biển Đỏ

    Yet another former cop goes further: ‘That case was cursed.’

    Tuy nhiên, một cựu cảnh sát khác còn nói quá hơn: “Vụ án đó thật đáng nguyền rủa.”

    This isn’t just superstitious talk. A number of detectives and personnel who were assigned to the case said it was afflicted with continual bad luck. ‘Someone, somewhere must have broken about fifty mirrors the day we found those girls because it was just one thing after another,’ says a former detective sergeant in Northumbria Police. ‘Forensically, it was a washout. We had nothing of any worth. Those girls had been dumped in those dunes, wrapped up in hessian sacks, but the sacks had unravelled and become loose over time, so animals had been at them, sea spray, sand. The weather was bloody awful for weeks running up to their discovery. If there was evidence left on them, it had been contaminated or destroyed. And remember this was before the days of DNA testing in every case as well. So we started with nothing on that beach. Meantime, the media were all over us like a rash, and had been ever since Lilly first vanished, which generated this insane pressure for us to do something, anything. That forced us into mistakes, into rushing things through, into opting for desperate moves, like bringing in men for questioning that we knew didn’t do it. We wasted weeks trying to pin it on one guy because of some local fire he might have been involved in. It was a mess, and then you had a jurisdictional problem. The other two girls weren’t even from the north-east – Felicity was from Scotland, and Maggie was from Cumbria. Cooperation between forces was at best laboured, at worst non-existent. So that was all playing out, and was bad enough – but then the guts got ripped out of the team as well.’

    Đây không chỉ là lời nói mê tín. Một số thám tử và nhân sự được giao phụ trách vụ án cho biết việc điều tra cực kỳ nhọc nhằn do liên tục gặp xui xẻo. “Ai đó, ở đâu đó chắc chắn đã đánh vỡ khoảng 50 chiếc gương vào ngày chúng tôi tìm thấy những cô gái đó bởi vì hết chuyện nọ đến chuyện kia liên tiếp xảy ra,” một cựu trung sĩ trinh thám ở đồn Cảnh sát Northumbria nói. “Về mặt pháp y, đó là một thất bại. Chúng tôi không thu được gì có giá trị cả. Những cô gái đó đã bị vứt xuống những cồn cát, bị bọc trong bao tải vải bố, nhưng bao tải đã bung ra và trở nên lỏng lẻo theo thời gian, nên động vật, bụi trong nước biển, cát... đã tác động lên họ. Thời tiết thật khủng khiếp trong nhiều tuần trước khi tìm thấy họ. Nếu có bằng chứng còn sót lại trên đó thì cũng đã bị ô nhiễm hoặc bị phá hủy mất rồi. Và hãy nhớ rằng đối với mọi trường hợp, điều này xảy ra trước lúc xét nghiệm ADN nhiều ngày. Coi như là chúng tôi bắt đầu với con số không trên bãi biển đó. Trong khi đó, giới truyền thông đổ dồn vào chúng tôi như một cơn sốt phát ban, bắt đầu từ vụ Lilly mất tích, điều này tạo ra áp lực điên cuồng buộc chúng tôi phải làm một thứ gì đó, bất cứ thứ gì. Chính điều đó buộc chúng tôi phạm sai lầm, phải gấp rút thực hiện mọi việc, chọn những bước đi liều lĩnh, chẳng hạn như đưa những người đàn ông đến để thẩm vấn mà chúng tôi biết rằng họ chẳng làm điều đó. Chúng tôi đã lãng phí hàng tuần chỉ để cố gắng đổ lỗi cho một anh chàng vì một vụ hỏa hoạn nào đó ở địa phương mà anh ta có thể đã dính dáng vào. Đó là một mớ hỗn độn, và sau đó là phải đối mặt với vấn đề về quyền tài phán. Hai cô gái còn lại thậm chí không đến từ vùng Đông Bắc - Felicity đến từ Scotland và Maggie đến từ Cumbria. Sự hợp tác giữa các lực lượng điều tra lúc tốt nhất cũng đã rất vất vả khó nhọc, lúc tệ nhất là chẳng có luôn. Vì vậy, mọi chuyện đã diễn ra như thế và đã đủ tồi tệ rồi – nhưng rồi sự quyết tâm của cả đội cũng bị xé nát nốt.”

    That last part plays into talk of a ‘curse’, and refers to a series of tragic events that befell the core team: one, Detective Constable Leon Coetzer, who was only 26 at the time, suffered a heart attack in the July following the discovery of the bodies; a civilian member of the major crimes team, Anne Glass, who was responsible for inputting key details from the investigation into HOLMES, the police database, was killed in a fatal car accident seven months later; and then, perhaps most prominently, there was the senior investigating officer – and the face of the ‘Dune Murders’ in print and on TV – Detective Inspector Makayla Jennings. Even when the hunt for the person responsible was scaled back, Jennings still spent her days trying to keep the search for answers alive – for herself as much as for the families of the three murdered women, according to the people who knew her.

    Phần cuối cùng đó nói về một 'lời nguyền' và đề cập đến một loạt các sự kiện bi thảm xảy ra với đội ngũ chủ chốt: một, Thám tử Cảnh sát Leon Coetzer, lúc đó mới 26 tuổi, bị đau tim vào tháng 7 sau khi phát hiện những thi thể tiếp theo; một thành viên dân thường của nhóm chống tội phạm nghiêm trọng, Anne Glass, người chịu trách nhiệm nhập các chi tiết quan trọng từ cuộc điều tra vào phần mềm HOLMES, cơ sở dữ liệu của cảnh sát, đã thiệt mạng trong một vụ tai nạn xe hơi nghiêm trọng bảy tháng sau đó; và rồi, có lẽ nổi bật nhất là sĩ quan điều tra cấp cao - và gương mặt của 'Vụ giết người ở cồn cát' trên báo in và trên TV - Thanh tra thám tử Makayla Jennings. Theo những người biết cô, ngay cả khi cuộc săn lùng kẻ chịu trách nhiệm được thu hẹp lại, Jennings vẫn dành nhiều ngày để cố gắng duy trì việc tìm kiếm câu trả lời - cho bản thân cô cũng như nhiều nhất có thể cho các gia đình của ba người phụ nữ bị sát hại.

    But all that came crashing down close to the two-year anniversary of the bodies being discovered when Jennings was delivered a cruel hammer blow in her personal life.

    Nhưng tất cả những điều đó đã sụp đổ vào gần dịp tưởng niệm hai năm những thi thể được phát hiện khi Jennings bị giáng một nhát búa tàn nhẫn vào đời tư của cô.

    HẾT CHƯƠNG 16​
     

Chia sẻ trang này