Đang dịch The Blackbird- TIM WEAVER

Thảo luận trong 'Góc dịch các tác phẩm tiếng Anh' bắt đầu bởi 72thudo, 1/4/24.

  1. vinaguy

    vinaguy Lớp 11


    Questions

    Câu hỏi

    28 Years Ago
    28 năm trước
    Makayla found a space on the street outside the school and switched off the engine. She could hear a man singing ‘Baby Got Back’, very badly, out of a window in the block of flats opposite St David’s Primary.

    Makayla tìm một chỗ trống trên con phố bên ngoài ngôi trường và tắt máy. Cô có thể nghe thấy một người đàn ông hát bài “Baby Got Back” (Bé Đã Về), rất tệ, từ cửa sổ khu căn hộ đối diện trường tiểu học St David.

    She checked her watch, knew she was early for the twins, so retrieved some paperwork from the back seat on a hit-and-run she’d been working in Gateshead. She leafed through the pages for a while, trying to look for new leads, but – after a while – she started to lose focus. That was happening more and more. She didn’t know if she was falling out of love with the job – or still hung up on what happened two years ago in the dunes outside Bamburgh.

    Cô kiểm tra đồng hồ, biết mình đến đón hai đứa con trai song sinh hơi sớm nên lấy một số giấy tờ từ ghế sau về một vụ tông xe rồi bỏ chạy mà cô đang thụ lý ở Gateshead. Cô lật qua từng trang một lúc, cố gắng tìm kiếm những manh mối mới, nhưng – sau một lát – cô bắt đầu mất tập trung. Chuyện đó xảy ra ngày càng nhiều. Cô không biết liệu mình đã hết yêu nghề hay vẫn còn bị ám ảnh bởi những gì đã xảy ra hai năm trước trên cồn cát ngoại ô Bamburgh.

    Or maybe it was neither of those things.

    Hoặc có lẽ không phải là những thứ đó.

    Maybe I’m in denial, she thought.

    Có lẽ mình đang phủ nhận, cô nghĩ.

    Snapping the file shut, she dropped it into the passenger footwell and got out of the car. As she headed across to the school gates, where some of the other parents were waiting, she tried to stop thinking about what might really be going on with her. Not her falling out of love with her job. Not what happened at the dunes two years ago. Something worse than both of those. But then she took a long breath and switched faces: cop to mum. Her boys didn’t need to see her disappointment, anger and guilt. They didn’t need to see her scared.

    Đóng tập hồ sơ đánh bộp, cô thả nó vào chỗ để chân bên ghế phụ rồi bước ra khỏi xe. Khi đi đến cổng trường, nơi một số phụ huynh khác đang đợi, cô cố gắng ngừng suy nghĩ về những gì thực sự đang xảy ra với mình. Không phải là cô hết yêu công việc. Không phải những gì đã xảy ra ở cồn cát hai năm trước. Một cái gì đó tồi tệ hơn cả hai thứ kia. Nhưng rồi cô hít một hơi dài và đổi sắc mặt: từ cảnh sát thành bà mẹ. Các con trai của cô không cần phải nhìn thấy sự thất vọng, tức giận và tội lỗi của cô. Chúng không cần phải thấy cô sợ hãi.

    ‘Mad hour’s about to start,’ a voice said from behind her.

    “Giờ điên rồ sắp bắt đầu rồi đây,” một giọng nói vang lên từ phía sau cô.

    Makayla turned to find a woman at her shoulder, one of the other mums. She was in her early thirties, slight, dark-haired.

    Makayla quay lại và thấy một người phụ nữ sau lưng, một trong số những bà mẹ khác. Cô ấy khoảng đầu ba mươi, dáng người mảnh khảnh, tóc đen.

    Makayla smiled at her. ‘Don’t I know it.’

    Makayla mỉm cười với cô ấy. “Đúng là như vậy.”

    ‘What year is yours in?’

    “Con chị đang học lớp mấy?”

    ‘They’re both in Year Five. What about you?’

    “Cả hai đứa chúng nó đều học lớp Năm. Còn con chị thì sao?”

    ‘Mine are in Year Six. Twins.’ The woman rolled her eyes playfully. ‘I mean, I love them to bits but mum to two ten-year-old boys? It’s guerrilla warfare.’

    “Mấy đứa nhà tôi đang học lớp Sáu. Sinh đôi.” Người phụ nữ đảo mắt tinh nghịch. “Ý tôi là, tôi yêu chúng nó từng li từng tí nhưng là mẹ của hai thằng bé mười tuổi, cứ như là chiến tranh du kích vậy.”

    Makayla smiled again. ‘Believe it or not, I’ve got twin boys too.’

    Makayla lại mỉm cười. “Tin hay không thì tùy, tôi cũng có hai thằng sinh đôi."

    ‘Really?’

    “Thế cơ à?”

    ‘Yeah. A year younger than yours but, you know, same rules apply.’

    “Vâng. Nhỏ hơn con chị một tuổi nhưng chị biết đấy, quậy như giặc cả thôi.”

    ‘Wow,’ the woman said, chuckling to herself. ‘I’m surprised we never crossed paths before. I’ve been looking for someone else to share the horror with for ages.’ The woman laughed again and then paused, eyeing Makayla for a moment. ‘Look, I know this is a really weird thing to say, but do I know you from somewhere?’

    “Chà,” người phụ nữ nói và cười khúc khích một mình. “Tôi ngạc nhiên là trước đây chúng ta chưa bao giờ gặp nhau. Tôi đang tìm người khác để chia sẻ nỗi kinh hoàng suốt nhiều năm rồi.” Người phụ nữ lại cười rồi dừng lại, nhìn Makayla một lúc. “Xem nào, tôi biết nói điều này hơi kỳ cục, nhưng hình như tôi biết chị ở đâu đó rồi thì phải?”

    Makayla shook her head. ‘I don’t think so.’

    Makayla lắc đầu. “Chắc không phải đâu.”

    ‘Were you on TV?’

    “Hình như chị đã xuất hiện trên TV phải không nhỉ?'

    ‘Oh,’ Makayla said. ‘For a time, a couple of years back.’ She didn’t say anything else, but then felt bad: the woman looked thrown. ‘I work for the police. I had a case.’

    “Ừ,” Makayla nói. “Có một thời gian, cách đây vài năm.” Cô không nói thêm gì nữa, nhưng rồi lại cảm thấy thật tồi tệ: người phụ nữ trông như thể bị ném đá. “Tôi làm việc cho cảnh sát. Tôi đã thụ lý một vụ án.”

    ‘Ah, right,’ the woman responded, and it was like the clouds had cleared in her face. ‘Right. That’s where I remember you from. The girls in the dunes.’

    “À, đúng rồi,” người phụ nữ đáp, và dường như đám mây đã tan đi trên gương mặt cô ấy. “Chính xác. Tôi nhớ được chị rồi. Những cô gái trên cồn cát.”

    Makayla eyed her. ‘That’s right, yeah.’

    Makayla nhìn cô ấy. “Đúng vậy, ừ.”

    ‘Don’t be disconcerted,’ the woman explained. ‘I have a thing for faces.’

    “Đừng bối rối,” người phụ nữ giải thích. “Tôi có tài nhớ mặt.”

    Just then, the school doors swung open and a tidal wave of kids poured out – a wall of bodies and noise, which carried out both her sons. Joshua came sprinting towards her first and then – a few seconds later, slower, more gingerly – Isaiah trudged across. ‘Hey, Mum!’ Joshua said, handing her his Batman bag.

    Ngay lúc đó, cánh cổng trường bật mở và một làn sóng trẻ con tràn ra - một biển người và tiếng ồn ào, cuốn theo cả hai đứa con trai của cô. Joshua chạy hết tốc lực về phía cô trước và rồi - vài giây sau, chậm hơn, thận trọng hơn một chút - Isaiah lơ thơ bước tới. “Chào mẹ!” Joshua nói và đưa cho cô chiếc túi Batman của nó.

    ‘Hey, big man,’ Makayla said, and kissed her son. When Isaiah arrived, she bent down and kissed the top of his head too. ‘You two ready to rumble?’

    “Này, ông tướng,” Makayla nói và hôn con trai. Khi Isaiah đến, cô cũng cúi xuống và hôn lên đỉnh đầu nó. “Cả hai đứa đã sẵn sàng ầm ĩ chưa đấy?”

    When Makayla turned, the woman had gone. She looked around the school playground for any sign of her or her twins, but it was busy now, a sea of faces.

    Khi Makayla quay lại, người phụ nữ kia đã đi mất. Cô nhìn quanh sân trường để tìm bất kỳ dấu hiệu nào của cô ta hay cặp song sinh con cô ta, nhưng lúc này ở đó thật nhốn nháo, một đám những gương mặt.

    They headed back to the Sierra and got in.

    Mấy mẹ con quay trở lại chiếc Sierra và lên xe.

    ‘Guess what, Mum?’ Joshua said, beaming, as they got in. ‘Robert Kelvin said the F-word today. He called Nancy Kim an “F-word B-word”, and when she began crying he called her “a whiny B-word”.’

    “Mẹ đoán xem nào?” Khi họ bước lên xe, Joshua nói, mặt mày rạng rỡ. “Hôm nay Robert Kelvin đã nói từ F đấy. Nó còn gọi Nancy Kim là “F - B”(*) nữa cơ, và khi bạn ấy bắt đầu khóc, nó lại gọi bạn ấy là ‘B nhõng nhẽo’. Ghê chưa.”

    (*) F – B: Những từ tục tĩu trong tiếng Anh.

    Makayla turned in her seat and looked at Isaiah. ‘Is this true?’ It was a routine they’d got into, an attempt to include Isaiah in conversations that his brother was leading, which was most of them. Sometimes, in quiet moments alone, she worried that there might be a problem with Isaiah. He was smart as hell but he was socially awkward – often just completely silent.

    Makayla từ trên ghế quay lại và nhìn Isaiah. “Có đúng thế không?” Đó là một thói quen mà cô hay làm để cố kéo Isaiah vào các cuộc trò chuyện do anh trai nó đầu trò, hầu hết là thế. Đôi khi, trong những giây phút yên tĩnh một mình, cô lo lắng rằng có thể có vấn đề gì đó với Isaiah. Nó rất thông minh nhưng lại rất vụng về trong giao tiếp xã hội - thường cứ toàn im lặng.

    ‘It’s true,’ he said softly.

    “Thật đó mẹ,” nó nói lí nhí.

    Makayla told Joshua to sit back and put his belt on, and then – as she pulled away from the school – caught his eye in the mirror. ‘Did Mr Greenwall tell him off?’

    Makayla bảo Joshua ngồi lại và thắt dây an toàn vào, rồi - khi cô rời khỏi trường - bắt gặp ánh mắt của nó trong gương. “Ông Greenwall có đuổi bạn ấy đi không?”

    ‘Yeah,’ Joshua said frantically, pushing against his belt again, trying to get the story out. ‘Robert went to Mr Quinlan’s office and he didn’t come back again.’

    “Có chứ,” Joshua cuống cuồng nói, ấn mạnh vào dây an toàn lần nữa, cố gắng kể tiếp. “Robert đã đến văn phòng của ông Quinlan và nó không quay lại nữa.”

    ‘No?’

    “Không à?”

    ‘No. We reckon he got shot into space.’

    “Không. Bọn con cho rằng nó đã bị bắn vào không gian rồi.”

    Makayla smiled. ‘That seems the most likely scenario.’

    Makayla mỉm cười. “Lý do đó có vẻ là kịch bản có khả năng xảy ra nhất đấy nhỉ.”

    ‘Tied to a rocket and whoosh,’ Joshua said, using his arm to gesture towards the roof of the car and the vastness of the universe beyond. ‘You know how you always told us to be honest with you, Mum? Can I be really honest about Robert?’

    “Trói vào một quả tên lửa và vèo èo...,” Joshua nói, dùng cánh tay chỉ thẳng lên nóc ô tô và vũ trụ bao la ngoài kia. “Mẹ có biết mẹ luôn bảo bọn con phải thành thật với mẹ không, mẹ? Con có thể nói thật về Robert được không?”

    ‘Are you going to say something mean?’

    “Ý con định nói chuyện gì phải không?”

    ‘No.’

    “Không.”

    ‘He is,’ Isaiah said.

    “Đúng đó mẹ,” Isaiah nói.

    ‘I’m not, Zi, shut up.’

    “Không hề nhé, Zi, im ngay đi.’

    ‘Hey, hey, hey,’ Makayla said. ‘Be kind, rewind, remember?’

    “Này này này,” Makayla nói. “Hãy nói chuyện tử tế vào, bình tĩnh lại, nhớ không?”

    Joshua nodded. ‘Sorry, Zi.’

    Joshua gật đầu. “Xin lỗi, Zi.”

    Isaiah shrugged.

    Isaiah nhún vai.

    Joshua pushed forward for a third time, locked against his belt, trying to get Makayla’s attention in the front seat. ‘Can I, Mum? Can I be honest about him?’

    Joshua chồm người về phía trước lần thứ ba, khóa chặt dây an toàn, cố gắng gây chú ý với Makayla ở ghế trước. “Con có thể không mẹ? Con có thể nói thật về nó không?”

    She nodded. ‘Let’s hear it, then.’

    Cô gật đầu. “Vậy thì nói nghe xem nào.”

    ‘I liked it when Robert wasn’t there.’

    “Con thích khi không có Robert ở trường.”

    She glanced at him in the mirror. ‘That’s not nice, Josh.’

    Cô liếc nhìn nó trong gương. “Điều đó không hay chút nào, Josh.”

    ‘But it’s true. He’s mean.’

    “Nhưng thật đấy. Nó ác lắm.”

    ‘Is he mean to you?’

    “Bạn ấy có ác với con không?”

    ‘He’s mean to everyone.’

    “Nó ác với mọi người luôn.”

    ‘Is he mean to you, Zi?’

    “Bạn ấy có ác với con không, Zi?”

    Isaiah had been looking out of the window, but now he turned to meet his mum’s eye in the mirror. He shrugged again. ‘Yes,’ he said. ‘He’s mean to everyone.’

    Isaiah đang nhìn ra ngoài cửa sổ, nhưng bây giờ nó quay lại nhìn vào mắt mẹ mình trong gương. Nó lại nhún vai. “Dạ,” nó nói. “Bạn ấy ác với cả mọi người mẹ ạ.”

    Makayla tried to think of the right answer, the correct response to your sons wishing that a bully be shot into space and never come back down. Maybe there wasn’t one. Makayla learned a long time ago, perhaps in her first weeks at the Met, before they moved north for Tyler’s work, that some questions didn’t have answers.

    Makayla cố gắng nghĩ ra câu trả lời hay, câu trả lời chính xác cho những đứa con trai đang mong một kẻ bắt nạt bị bắn vào không gian và không bao giờ quay trở lại được nữa. Có lẽ không có câu trả lời nào cả. Makayla đã biết từ rất lâu rồi, có lẽ trong những tuần đầu tiên ở Đồn cảnh sát, trước khi họ chuyển về phía bắc vì công việc của Tyler, rằng một số câu hỏi không có câu trả lời.

    She thought about the three women in the dunes.

    Cô nghĩ về ba người phụ nữ trên cồn cát.

    About the killer they’d never found.

    Về kẻ sát nhân mà chưa bao giờ tìm được.

    In the end, some questions just led to more questions.

    Cuối cùng thì, từ một vài câu hỏi chỉ dẫn đến nhiều câu hỏi hơn mà thôi.

    Makayla left the boys in the living room watching TV while she prepared dinner. They lived in Whitley Bay, a couple of streets in from the beach, and Tyler worked in Newcastle as a director at an international accountancy firm.

    ***

    Makayla để bọn trẻ ở phòng khách xem TV trong khi cô chuẩn bị bữa tối. Họ sống ở Vịnh Whitley, cách bãi biển vài con phố, và Tyler làm việc ở Newcastle với vai trò là giám đốc một công ty kế toán quốc tế.

    Normally, his hours were pretty fixed, but he was at an event tonight he’d had in the diary for six months, so Makayla had reminded her DCI that she was going to have to leave the office a couple of hours early. She’d told him that she’d bring the paperwork for the hit-and-run home with her – and, as always, she’d brought her own personal copy of the Murders too. That was what she called what was in the file now. The Murders.

    Thông thường, giờ làm việc của anh khá cố định, nhưng tối nay anh đang tham dự một sự kiện mà anh đã ghi trong nhật ký suốt sáu tháng rồi, vì vậy Makayla đã nhắc vị chánh thanh tra thám tử của cô rằng cô sẽ phải rời văn phòng sớm vài giờ. Cô đã nói với ông ấy rằng cô sẽ mang theo giấy tờ về vụ đâm xe rồi bỏ trốn về nhà - và, như mọi khi, cô cũng mang theo bản sao cuốn Án mạng của riêng mình. Đó là những gì hiện có trong hồ sơ. Những vụ giết người.

    Not the Dune Murders.

    Không phải Vụ án mạng ở Cồn cát.

    Not the surnames of the women.

    Không phải là họ và tên của những phụ nữ.

    Just the Murders, capital M.

    Chỉ là những vụ án mạng, có chữ M hoa.

    When she said that in the office, everyone knew what she was referring to. Leon Coetzer had started referring to it in the same way. They were the only two members of the original investigation still active on the case, so – just in terms of the sheer amount of information they held in their heads, and how many man hours they’d ploughed into it – the case had become more personal to them than to anyone else.

    Khi cô ấy nói M ở văn phòng, mọi người đều biết cô ấy đang ám chỉ điều gì. Leon Coetzer đã bắt đầu đề cập đến M theo cách tương tự. Họ là hai thành viên duy nhất của cuộc điều tra ngày xưa vẫn còn tích cực nghiên cứu vụ án, vì vậy - chỉ xét về lượng thông tin tuyệt đối mà họ lưu giữ trong đầu và số giờ công mà họ đã đầu tư vào đó - vụ án đã trở thành của riêng họ hơn bất cứ ai khác.

    Not that they’d ever found a killer.

    Không phải là họ đã từng tìm ra kẻ giết người.

    Some days it felt like they’d never even come close.

    Một số ngày còn có cảm giác như họ thậm chí sẽ không bao giờ đến gần được kết quả của Vụ án.

    After dinner was over and the plates had all been washed, she told the twins to get ready for bed and poured herself some wine. Quietly, glass in hand, she sat at the table and leafed through the Murders again, trying to force herself to focus.

    Sau khi bữa cơm tối kết thúc và bát đĩa đã được rửa sạch sẽ, cô bảo anh em chúng nó chuẩn bị đi ngủ và rót cho mình một ít rượu. Lặng lẽ, cầm ly rượu trong tay, cô ngồi vào bàn và lật lại cuốn Án mạng, cố gắng ép mình tập trung.

    Just after 7 p.m., the phone rang.

    Mới hơn 7 giờ tối, điện thoại reo vang.

    She got up and went to the kitchen, expecting it to be Tyler – he said he would call about seven. ‘Hullo,’ she said in the slightly comical style she and Tyler always used when answering each other’s calls.

    Cô đứng dậy và đi vào bếp, tưởng đó là Tyler - anh nói sẽ gọi vào khoảng bảy giờ. “Xin chào,” cô nói với phong cách hơi hài hước mà cô và Tyler luôn sử dụng khi trả lời cuộc gọi của nhau.

    ‘Mrs Jennings?’

    “Bà Jennings phải không ạ?”

    Makayla straightened. ‘Uh, yeah.’

    Makayla nghiêm túc lại. “Ờ, vâng.”

    It was a woman.

    Đó là giọng của một người phụ nữ.

    ‘Sorry to be calling so late – we’re running a little behind schedule here, so I’m playing catch-up this week. My name’s Natalie Dover. I’m Dr Ramsey’s secretary.’

    “Xin lỗi vì đã gọi muộn thế này – ở đây chúng tôi đang hơi bị trễ việc, nên tôi đang cố gắng bắt kịp kế hoạch trong tuần này. Tên tôi là Natalie Dover. Tôi là thư ký của bác sĩ Ramsey.”

    Makayla’s chest squeezed shut.

    Ngực Makayla nghẹn lại.

    You denied it, she thought, but now it’s here.

    Mình đã chối bỏ điều này, cô nghĩ, nhưng giờ nó đã tới rồi đây.

    ‘Oh,’ Makayla said. ‘Hi. What can I do for you?’

    “Ồ,” Makayla nói. “Chào cô. Tôi có thể giúp gì được cho cô không?

    She asked the question like she had no idea what was coming.

    Cô hỏi một câu như thể cô không biết chuyện gì sắp xảy ra.

    But she did.

    Nhưng cô đã biết.

    In every part of her she knew.

    Trong từng thớ thịt của cô đều đã biết.

    HẾT CHƯƠNG 28 NĂM TRƯỚC
    P/S: Sorry các bác, em có sửa lại vài trạng từ và giới từ cho bản dịch mượt hơn ạ. Chương này thật khó dịch. Các bác thông cảm nhé.
     
    Chỉnh sửa cuối: 28/5/24
    machine thích bài này.
  2. vinaguy

    vinaguy Lớp 11


    17

    I wrote down the name Makayla Jennings next to Leon Coetzer and Tom Swainswick in my notebook – but as I read the last few paragraphs of Swainswick’s article, I started to realize that Makayla Jennings was already a dead end.

    Tôi viết tên Makayla Jennings ngay bên cạnh Leon CoetzerTom Swainswick vào sổ tay – nhưng khi đọc vài đoạn cuối trong bài viết của Swainswick, tôi bắt đầu nhận ra rằng Makayla Jennings đã đi vào ngõ cụt.

    She found out she had a brain tumour.

    ***

    Cô phát hiện mình bị u não.

    ‘When Mak got ill, the wheels just completely came off that whole investigation,’ one member of Operation Red recalls. ‘We were done, basically. Mak was the glue that held it all together.’

    “Khi Mak ngã bệnh, toàn bộ cuộc điều tra đó hoàn toàn mất phương hướng,” Một thành viên của Operation Red nhớ lại. “Về cơ bản thì chúng tôi coi như đã kết thúc. Mak chính là chất keo kết dính tất cả lại với nhau.”

    Only forty-four at the time, and popular among the rank and file, the news hit the team hard – especially when Jennings had to take extended leave from the force and then early retirement. Many insiders believe her departure put paid to any realistic chance of the case being solved – short of a freak occurrence or an outrageous slice of good fortune. And, as has been well documented already, neither of those things happened here.

    Vào thời điểm đó, chỉ mới 44 tuổi và và được nhiều người trong ngành biết đến, tin tức này đã ảnh hưởng nặng nề đến toàn đội - đặc biệt là khi Jennings phải nghỉ phép kéo dài và sau đó nghỉ hưu sớm. Nhiều người trong cuộc tin rằng việc cô rời đi đã chấm dứt mọi cơ hội thực tế để giải quyết vụ án - trừ khi có một điều kỳ diệu hoặc cực kỳ may mắn xảy đến. Và, như đã được ghi chép rõ ràng, không có điều kỳ diệu nào xảy ra ở đây.

    Unfortunately, the tragedy didn’t end there for Jennings.

    Thật không may, bi kịch chưa dừng lại ở đó với Jennings.

    After four operations her long battle against the brain tumour was finally won – but then, in a second heart-rending twist, nine years ago – aged only 63 – she was diagnosed with dementia.

    Sau bốn cuộc phẫu thuật, cuối cùng cô cũng đã chiến thắng cuộc chiến chống lại khối u não kéo dài - nhưng sau đó, trong một bước ngoặt đau lòng thứ hai, chín năm trước – khi chỉ mới ở tuổi 63 - cô được chẩn đoán mắc chứng mất trí nhớ.

    I kept reading, making notes the whole time, but the rest of the article seemed simply to be a roll call of failure, of how things had gone wrong, or could have been done better, or weren’t done at all. From the outside looking in it didn’t appear as if those things were necessarily down to failures on the part of the task force – although there were likely to have been some; there always were in every manhunt on this sort of scale – more the lack of available evidence. Actual, usable leads were the oxygen that kept a case breathing; without them it was inevitable it began dying.

    Tôi tiếp tục đọc và ghi chú suốt quá trình, nhưng phần còn lại của bài viết dường như chỉ đơn giản là điểm lại sự thất bại, về việc mọi thứ đã diễn ra sai sót như thế nào, hoặc lẽ ra có thể được thực hiện tốt hơn hoặc chưa được thực hiện chút nào. Từ ngoài nhìn vào, có vẻ như những điều đó không nhất thiết là do lỗi của lực lượng đặc nhiệm - mặc dù có thể đã có một vài lỗi; đương nhiên sẽ luôn có trong mọi cuộc săn lùng tội phạm ở quy mô dạng này - hơn nữa là thiếu bằng chứng sẵn có. Trên thực tế, những manh mối hữu dụng giống như là oxy giúp cho ca bệnh tiếp tục thở; không có những manh mối đó thì điều không thể tránh khỏi là cuộc điều tra sẽ bắt đầu chết dần.

    There were two obvious questions I could see.

    Có hai câu hỏi rõ ràng mà tôi có thể thấy.

    First, was this the ‘dunes’ reference that Georgia had overheard Cate talking about on the phone? If it was – and, to me, it now felt hugely unlikely that it wouldn’t be – why was Cate interested in the case in the first place?

    Đầu tiên, đây có phải là tài liệu tham khảo về 'cồn cát' mà Georgia đã tình cờ nghe được Cate nói qua điện thoại không? Nếu đúng như vậy - và đối với tôi mà nói, bây giờ tôi cảm thấy cực kỳ khó có thể xảy ra - tại sao Cate lại quan tâm đến vụ án này ngay từ đầu?

    Could that interest have led to her own disappearance?

    Phải chăng sự quan tâm đó đã dẫn đến sự biến mất của chính cô?

    It was the call to Coetzer that gave me pause. She’d contacted Swainswick first on 4 November and then Coetzer, so it was possible that Swainswick may have given Cate the number for Coetzer. It was possible that Swainswick was simply a go-between, a call she made in order to try and get to who she really wanted: Coetzer. I looked down at the photograph albums, at the pages of notes that I’d made during the course of the day. Even if that was true and she did speak to him, where was the evidence of that in her work? Where were the pictures she’d taken while she was up north?

    Chính cuộc gọi tới Coetzer đã khiến tôi phải dừng lại. Trước tiên cô ấy đã liên lạc với Swainswick vào ngày 4 tháng 11 và sau đó là Coetzer, vì vậy có thể Swainswick đã cho Cate số điện thoại của Coetzer. Có thể Swainswick chỉ đơn giản là người trung gian, một cuộc gọi mà cô ấy thực hiện để cố gắng tiếp cận người mà cô ấy thực sự muốn: Coetzer. Tôi nhìn xuống những cuốn album ảnh, những trang ghi chú mà tôi đã viết trong ngày. Ngay cả khi điều đó là sự thật thì dựa vào bằng chứng nào để cô ấy gọi điện cho anh ấy? Những bức ảnh cô ấy chụp khi lên phía bắc đâu rồi?

    Bamburgh.

    Bamburgh.

    The dunes.

    Những cồn cát.

    Coetzer. Swainswick.

    Coetzer. Swainswick.

    There were too many connections now to the Dune Murders for me to write this off as just another trip Cate had made to take pictures.

    Hiện tại có quá nhiều mối liên hệ với Vụ án mạng ở Cồn cát nên tôi không thể coi đây chỉ là một chuyến đi mà Cate đã thực hiện chỉ để chụp ảnh.

    It was something more.

    Đó là một thứ gì đó nhiều hơn thế nữa.

    Now I had to find out what.

    Bây giờ tôi phải bắt đầu tìm hiểu những gì đây.

    HẾT CHƯƠNG 17​
     
    machine thích bài này.
  3. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    18

    At 3.30 a.m., I was still awake.

    Đến 3h30 sáng tôi vẫn còn thức.

    I lay in bed, looking up at the ceiling, feeling the light touch of the night as a breeze danced across my body. I thought about Healy, about the possibility that Connor McCaskell might have somehow connected the dots, but then I tried to talk myself back. As far as the rest of the world was concerned, Healy had been dead for seven years, his body in a cemetery in St Albans under six feet of earth. We’d been careful, we’d been precise; there was no reason why even a journalist like McCaskell – who spent his entire life in the gutter, digging around in people’s private lives – should find anything that could give us trouble. Even so, it was still a hum in my head, a pressure building.

    Tôi nằm trên giường, nhìn lên trần nhà, cảm nhận sự mơn man nhẹ nhàng của màn đêm khi một làn gió nhẹ lướt qua cơ thể. Tôi nghĩ về Healy, về khả năng Connor McCaskell bằng cách nào đó đã kết nối được các điểm manh mối bé xíu đó lại được với nhau, nhưng rồi tôi cố gắng tự nhủ mình. Đối với phần còn lại của thế giới, Healy đã chết được bảy năm, thi thể của anh nằm trong một nghĩa trang ở St Albans dưới lớp đất sâu 6 feet. Chúng tôi đã cẩn thận, chúng tôi đã chính xác; không có lý do gì mà ngay cả một nhà báo như McCaskell - người đã dành cả cuộc đời mình trong bãi sình lầy, đào bới đời tư của mọi người - lại tìm ra bất cứ điều gì có thể gây rắc rối cho chúng tôi. Dù vậy, đó vẫn là tiếng vo ve trong đầu tôi, một áp lực ngày càng tăng.

    And when my thoughts shifted back to Cate and Aiden Gascoigne, the pressure became more intense.

    Và khi suy nghĩ của tôi quay lại với Cate và Aiden Gascoigne, áp lực càng trở nên mãnh liệt hơn.

    I stared out of the bedroom window, across the darkness of the lawn, semi-lit against by solar lights, but the blackness of everything else all I could see when I blinked were the photographs I’d found online of the Dune Murders: the sweep of the sand and prickle of the beach grass; the bleakness of the weather at the time the bodies were discovered. I saw granite skies, and washed-out colours, and then the white forensic tents erected over the three young women’s bodies.

    Tôi nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ phòng ngủ, xuyên qua bóng tối của bãi cỏ, sáng lờ mờ nhờ ngọn đèn năng lượng mặt trời, ngoại trừ bóng tối của mọi thứ khác, tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy khi chớp mắt là những bức ảnh tôi tìm thấy trên mạng về Vụ án mạng ở Cồn cát: những đường cong của cát và những cái gai của cỏ rễ dày; sự ảm đạm của thời tiết vào thời điểm các thi thể được phát hiện. Tôi nhìn thấy bầu trời như bằng đá granit, những màu sắc nhạt nhòa, và rồi những chiếc lều pháp y màu trắng được dựng lên trên thi thể của ba phụ nữ trẻ.

    I rolled over again, listening to the soft moans of the house as it contracted under the coolness of the stars, and I pictured the three faces from the photographs that the families had given the cops to distribute.

    Tôi lại lăn mình trên giường, lắng nghe những tiếng rên rỉ nhè nhẹ của ngôi nhà khi nó co lại dưới cái mát mẻ của những vì sao, và tôi hình dung ra ba khuôn mặt từ những bức ảnh mà các gia đình đã đưa cho cảnh sát để phân phát khi tìm người.

    They were so young, people who the world deserved to know better than just as a series of names in a newspaper story. They were at the beginning of a trail that should have gone on for decades, one through which they should have walked unscathed and undamaged. Instead, they were a footnote in history, forgotten apart from by the family members that were still alive, who remembered, and who even now would still be bound to the memory of what had happened in 1992.

    Họ còn quá trẻ, những người mà xứng đáng được cả thế giới biết đến hơn chỉ là hàng loạt cái tên trên báo. Họ đang ở điểm bắt đầu của một con đường lẽ ra phải kéo dài hàng thập kỷ, một con đường mà lẽ ra họ phải đi qua mà không bị tổn hại và không bị hư hỏng. Thay vào đó, họ chỉ như là một chú thích cuối trang trong lịch sử, bị lãng quên ngoại trừ những thành viên còn sống trong gia đình, những người còn nhớ và những người thậm chí bây giờ vẫn còn bị ràng buộc với ký ức về những gì đã xảy ra vào năm 1992.

    And yet, awful as the thought was, there had been so many women who had suffered in so many equally appalling ways, so what was it that resonated with Cate about those three?

    Tuy nhiên, thật khủng khiếp khi nghĩ rằng đã có rất nhiều phụ nữ phải chịu đựng theo nhiều cách kinh khủng tương tự, vậy điều gì khiến Cate ấn tượng về ba người đó?

    Lilly. Felicity. Maggie.

    Lily. Felicity. Maggie.


    I began to wonder if it might have been part of some wider project. Maybe Cate was documenting exactly what I’d just been turning over in my head – forgotten women, the many victims of violence, trying to ensure they weren’t just an afterthought. So often it was the killer that was remembered, sometimes perversely, their acts lionized, even exalted, and it shouldn’t have been like that. Perhaps Cate had been trying to put that right and it had ended up leading her somewhere dangerous.

    Tôi bắt đầu tự hỏi liệu đây có phải là một phần của dự án lớn không. Có lẽ Cate đang ghi lại chính xác những gì tôi vừa suy ngẫm trong đầu – những người phụ nữ bị lãng quên, nhiều nạn nhân của bạo lực, cố gắng đảm bảo rằng đó không chỉ là một lời giải thích muộn màng. Vì vậy, thói thường thì kẻ giết người mới được nhớ đến, đôi khi thật bất công, hành động của họ được tôn sùng, thậm chí được tán dương, và điều mà đáng ra không nên như vậy. Có lẽ Cate đã cố gắng viết ra lẽ phải và cuối cùng việc đó đã dẫn cô đến một nơi nguy hiểm.

    Perhaps the finale was what happened on Gatton Hill.

    Có lẽ kết cục là những gì đã xảy ra trên Đồi Gatton.

    I got up and padded through to the living room where I’d left the photograph albums that Martin and Sue had given me. Putting on a lamp, I made myself some tea and started going through the pictures again. I’d been through all seven of the albums so many times now, but I went back over them again, looking for anything that might connect with the idea of Cate taking an interest in the victims of violence, or even women in general – life stories, moments in time that captured them as people and not just some statistic.

    Tôi đứng dậy và bước vào phòng khách, nơi tôi để lại cuốn album ảnh mà Martin và Sue đã đưa cho tôi. Bật đèn lên, tôi pha cho mình một ít trà và bắt đầu xem lại các tấm ảnh. Tôi đã xem qua tất cả bảy album này rất nhiều lần, nhưng tôi vẫn xem lại chúng một lần nữa, tìm kiếm bất cứ điều gì có thể liên quan đến ý tưởng về việc Cate quan tâm đến các nạn nhân của bạo lực, hay thậm chí cả phụ nữ nói chung – những câu chuyện cuộc đời, những khoảnh khắc miêu tả họ chính xác là những con người chứ không chỉ là những con số thống kê.

    I couldn’t see anything.

    Tôi chẳng nhìn ra gì cả.

    I pulled my notebook towards me and looked at the names of the four people I needed to chase down in my hunt for answers: the cop and the journalist who Cate called two months before she and her husband vanished into thin air; and two witnesses who might have lied about what they saw the day of the crash.

    Tôi kéo cuốn sổ về phía mình và nhìn vào tên của bốn người tôi cần truy lùng trong cuộc tìm kiếm câu trả lời: cảnh sát và nhà báo mà Cate đã gọi điện hai tháng trước khi cô và chồng tan biến trong làn không khí mỏng manh; và hai nhân chứng có thể đã nói dối về những gì họ nhìn thấy vào ngày xảy ra vụ tai nạn.

    What was going on with you, Cate?

    Chuyện gì đang xảy ra với em thế, Cate?

    What was your interest in those murders?

    Mối quan tâm của em trong những vụ giết người đó là gì?

    Why might two witnesses lie to the police about you?

    Tại sao hai nhân chứng có thể nói dối cảnh sát về em?


    I lingered, looking at the pictures that Cate had taken, turning page after page in a search for answers, and returned to bed and tried to sleep.

    Tôi nán lại, xem những bức ảnh Cate đã chụp, lật dở từng trang từng trang để tìm kiếm câu trả lời, rồi leo lên giường cố ngủ.

    By the time the sun came up, I was still awake.

    Đến khi mặt trời mọc, tôi vẫn còn thức.

    HẾT CHƯƠNG 18​
     
  4. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    19

    I got up before 8 a.m., my head throbbing from the lack of sleep.

    Tôi thức dậy trước 8 giờ sáng, đầu đau nhói vì thiếu ngủ.

    Taking some paracetamol, I washed out the exhaustion in the shower, letting the water pound my face and body, and then ate breakfast on the back deck and tried to soak up the sun. It was another hot day: blue skies, no clouds, the heat already dense and oppressive.

    Uống một ít thuốc giảm đau paracetamol, tôi đi tắm để rửa trôi đi cái mệt mỏi, để nước dội vào mặt và cơ thể, rồi ăn sáng ở hiên sau và cố tận hưởng chút nắng buổi sáng. Lại thêm một ngày nóng bức nữa: bầu trời trong xanh, không một gợn mây, cái nóng đã dày đặc và ngột ngạt.

    At 9 a.m., I called Leon Coetzer.

    Lúc 9 giờ sáng, tôi gọi điện cho Leon Coetzer.

    It went to the same voicemail message I’d heard the night before. I didn’t have a mobile number for him, just a direct line at Northumbria Police, so as I listened to the same recorded message, I considered my options. I could go hunting for his mobile – get someone like Spike to dig it out for me – which would be a more direct route to him picking up, but I also didn’t want to scare him off before we’d had the chance to talk. If I called on his mobile, and especially if it was a number that he didn’t hand out very often, there was a good chance it would paint a negative picture of me and the tactics I was prepared to use to get hold of information not in the public domain. For now, it was easier to follow the route Cate had taken. So, after the tone, I left a message of my own: ‘Superintendent Coetzer, my name’s David Raker. I’m looking into the disappearance of Cate Gascoigne. I was hoping we could speak.’ I left him my number and hung up.

    Lại nhận được cùng một tin nhắn thoại mà tôi đã nghe vào đêm hôm trước. Tôi không có số điện thoại di động của anh ta, chỉ có số gọi trực tiếp tới đồn Cảnh sát Northumbria, vì vậy khi nghe tin nhắn được ghi âm tương tự, tôi đã cân nhắc các lựa chọn của mình. Tôi có thể lùng ra số di động của anh ta – nhờ ai đó như Spike moi ra dùm – đó sẽ là con đường trực tiếp hơn để liên lạc với anh ta qua điện thoại, nhưng tôi cũng không muốn làm anh ta sợ hãi trước khi chúng tôi có cơ hội nói chuyện. Nếu tôi gọi vào số điện thoại di động của anh ta, và đặc biệt nếu đó là số mà anh ta không công bố rộng rãi, rất có thể việc đó sẽ vẽ ra một bức tranh tiêu cực về tôi và các chiến thuật mà tôi đã chuẩn bị sử dụng để khai thác những thông tin không được công bố. Hiện tại, đi theo lộ trình của Cate sẽ dễ dàng hơn. Vì vậy, sau tiếng bíp của tin nhắn thoại, tôi đã để lại lời nhắn: ‘Giám đốc Coetzer, tên tôi là David Raker. Tôi đang điều tra vụ mất tích của Cate Gascoigne. Tôi hy vọng chúng ta có thể nói chuyện.’ Tôi để lại số điện thoại cho anh ta và cúp máy.

    Next, I tried Tom Swainswick at the Star.

    Tiếp theo, tôi thử gọi cho Tom Swainswick tại tòa báo Star.

    This time I didn’t have to wait long for an answer.

    Lần này tôi không phải chờ lâu cho câu trả lời.

    ‘This is Tom.’

    “Tom đây.”

    ‘Mr Swainswick, my name’s David Raker. I’m a missing persons investigator in London and, at the moment, I’m looking into Cate Gascoigne.’

    “Anh Swainswick, tên tôi là David Raker. Tôi là nhà điều tra người mất tích ở London và hiện tại tôi đang điều tra vụ Cate Gascoigne.”

    A brief pause on the line. ‘Okay.’

    Im lặng một chút. “Được rồi.”

    ‘Do you remember Cate?’

    “Anh có nhớ cô Cate không nhỉ?”

    ‘Yeah, of course.’

    “Ừ, tất nhiên là có rồi.”

    I heard the tap of a keyboard. He was probably googling me.

    Tôi nghe thấy tiếng gõ bàn phím lách tách. Có lẽ ông ta đang tra Google về tôi.

    ‘Well, I’ve been going through her phone records and, in the November before she disappeared, it looks like she called you.’ I had my laptop open in front of me and zoomed in on the entry for Swainswick. ‘According to this, the call lasted thirty-one minutes.’

    “Chà, tôi đã xem qua lịch sử các cuộc gọi của cô ấy và vào tháng 11 trước khi cô ấy mất tích, có vẻ như cô ấy đã gọi cho anh.” Máy tính xách tay đang mở trước mặt và tôi phóng to danh sách lịch sử cuộc gọi có thông tin về cuộc của Swainswick. “Theo đó, cuộc gọi kéo dài 31 phút.”

    Swainswick was quiet.

    Swainswick im lặng.

    ‘Mr Swainswick?’

    “Anh Swainswick còn nghe đó chứ?”

    ‘I thought I’d heard your name before,’ he said. His Google search had clearly been successful. ‘You were the guy who found out what went on down at Black Gale.’

    “Tôi nghĩ chắc tôi đã từng nghe tên anh trước đây,” ông ấy nói. Kết quả tìm kiếm trên Google của ông ta rõ ràng đã thành công. “Anh là người đã phát hiện ra chuyện gì đã xảy ra ở Black Gale.”

    Black Gale was a tiny village in Yorkshire. All nine residents had disappeared one night and I was asked by their families to find out what had happened. That had been the last case of mine to really blow up big. In fact, Black Gale was a major reason why Connor McCaskell was sniffing around my life.

    Black Gale là một ngôi làng nhỏ ở Yorkshire. Tất cả chín cư dân đã biến mất trong một đêm và tôi được các gia đình họ yêu cầu tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra. Đó là vụ án cuối cùng của tôi thực sự bùng nổ. Trên thực tế, Black Gale là lý do chính khiến Connor McCaskell rình mò quanh cuộc đời tôi.

    ‘That was impressive,’ Swainswick added.

    “Vụ đó thật ấn tượng,” Swainswick nói thêm.

    I paused for a moment, seeing for the first time the risk in calling Swainswick. Maybe he wasn’t the type of journalist that Connor McCaskell was, but he was still a journalist. Even without knowing him, I could almost hear the cogs turning, the first kernel of an idea forming. I’d been there once, just like Swainswick, so I knew how it was when you started to smell a story. What I had to do now was try and head him off.

    Tôi dừng lại một lúc, lần đầu tiên nhận thấy sự nguy hiểm khi gọi cho Swainswick. Có thể anh ta không phải là kiểu nhà báo như Connor McCaskell, nhưng anh ta vẫn là một nhà báo. Ngay cả khi không biết anh ta, tôi gần như có thể nghe thấy tiếng bánh răng đang quay, mầm mống đầu tiên của một ý tưởng đang được nhen nhóm. Tôi đã từng đến đó một lần, giống như Swainswick, nên tôi biết cảm giác như thế nào khi người ta bắt đầu đánh hơi thấy một câu chuyện. Điều tôi phải làm bây giờ là cố gắng chặn anh ta lại.

    ‘Could I ask why Cate called you?’

    “Tôi có thể hỏi tại sao Cate lại gọi cho anh được không?”

    ‘She was phoning to catch up.’

    “Cô ấy gọi điện để hỏi thăm thôi.”

    ‘Catch up?’

    “Hỏi thăm à?”

    ‘I’d met her before,’ Swainswick explained. ‘She’d shot some images for the tourist board up here – ooh, maybe six or seven years ago – and, before I worked on the crime desk, I was a bit of a jack-of-all-trades. They used to send me out to do all sorts of boring old crap. One of those things was covering this multimillion-pound marketing campaign that Visit Northumberland had come up with. Cate was there on the day I went to interview the chief exec, and we just got chatting. Being completely honest, she was the sole reason I even remember covering the story. I’ve done tons of other shit like that and I’ve forgotten all of it. But I never forgot that one.’

    “Tôi đã gặp cô ấy trước đây,” Swainswick giải thích. “Cô ấy đã chụp một số bức ảnh cho ủy ban du lịch ở đây – ồ, có lẽ là sáu hoặc bảy năm trước – và, trước khi làm việc ở ban điều tra tội phạm, tôi là một người đa tài. Họ thường bắt tôi đi làm đủ thứ việc tào lao cũ rích nhàm chán. Một trong những thứ đó bao gồm chiến dịch tiếp thị trị giá hàng triệu bảng Anh mà chương trình Visit Northumberland (Hãy ghé thăm Northumberland) đã đưa ra. Cate đã ở đó vào ngày tôi đến phỏng vấn giám đốc điều hành và chúng tôi cũng chỉ nói chuyện phiếm. Thành thật mà nói, cô ấy là lý do duy nhất khiến tôi nhớ luôn đến chuyện này. Tôi đã làm rất nhiều việc linh tinh tương tự như vậy và tôi đã quên hết chúng. Nhưng tôi không bao giờ quên chuyện đó.”

    I dragged my notebook towards me. ‘Did you keep in touch after that?’

    Tôi kéo cuốn sổ về phía mình. “Sau đó hai người có giữ liên lạc không?”

    ‘Not really, but when she called that day, I was pleased to hear from her.’

    “Không hẳn, nhưng khi cô ấy gọi vào ngày hôm đó, tôi rất vui khi nhận được cuộc gọi từ cô ấy.”

    ‘So what did you two talk about – do you remember?’

    “Vậy hai người đã nói chuyện gì – Anh có nhớ không?”

    This time he took a long breath, the sound crackling down the line, and that was when I knew for sure: he wanted to try to turn this into a negotiation. We were barely a couple of minutes in and he already saw the mileage in my story.

    Lần này anh ta hít một hơi dài, âm thanh lách tách ở đầu dây, và đó là lúc tôi biết chắc chắn: anh ta muốn biến chuyện này thành một cuộc đàm phán. Chúng tôi chỉ mới bắt đầu được vài phút và anh ta đã nhìn thấy chặng đường dài trong câu chuyện của tôi.

    Or perhaps in the story I was yet to write.

    Hoặc có lẽ trong câu chuyện tôi vẫn chưa viết.

    ‘She was just interested in some of the things I’ve done.’

    “Cô ấy chỉ quan tâm đến một số việc tôi đã làm mà thôi.”

    ‘Do you remember which pieces specifically?’

    “Anh có nhớ cụ thể là mảng nào không?”

    ‘Why is this important?’

    “Sao, chuyện này có quan trọng lắm không?”

    I considered my options, and then lied. ‘It probably isn’t. I’m just chasing down all the angles I possibly can – and this happens to be one of them.’

    Tôi đã cân nhắc các lựa chọn của mình và rồi nói dối. “Có lẽ là không đâu. Tôi chỉ đang tìm hiểu mọi góc độ có thể thôi – và đây chính là một trong số đó.”

    No reply this time. I could sense he was trying to get ahead of me, and maybe didn’t fully believe me, but that he also couldn’t see through the cracks.

    Lần này không có câu trả lời. Tôi có thể cảm nhận được anh ta đang cố gắng chiếm thế thượng phong và có lẽ không hoàn toàn tin tôi, nhưng anh ta cũng không thể nhìn thấu được những kẽ hở.

    ‘I think I talked her through a story I did about our local MP not paying taxes on a second property,’ he said. ‘There was another about a husband and wife in Blyth. Basically, she poisoned him.’

    “Tôi nghĩ rằng tôi đã kể với cô ấy một câu chuyện về việc quan chức địa phương chúng tôi không đóng thuế đối với tài sản thứ hai,” anh ta nói. “Thêm một câu chuyện khác về một cặp vợ chồng ở Blyth. Về cơ bản, bà vợ đã đầu độc ông chồng.”

    He paused, trying to remember some of the others he’d told her about, but instinctively it didn’t feel like either of the ones he’d mentioned would be relevant to Cate and Aiden going missing. As he talked me through a few more – cut from the same cloth – I waited patiently for him to get to the one I wanted.

    Anh ta dừng lại, cố nhớ thêm một vài thứ khác mà anh ta đã kể cho cô ấy nghe, nhưng theo bản năng, anh ta cảm thấy cả hai thứ anh ta vừa nhắc đến đều chẳng liên quan tới việc Cate và Aiden mất tích cả. Khi anh ta nói chuyện với tôi thêm một lát nữa – cũng cùng một kiểu cách - tôi kiên nhẫn đợi anh ta nói đến thứ mà tôi muốn nghe.

    ‘I guess we probably talked about the Dune Murders too.’

    “Tôi đoán có lẽ chúng tôi cũng đã nói về Những vụ Giết người ở Cồn cát.”

    Bingo. ‘The Dune Murders?’

    Chính xác. “Những vụ án mạng ở cồn cát?”

    He filled me in on all the details I was already familiar with, but I just stayed silent. When he was done, in order to disguise where my real interests lay, I went back and asked questions about the other stories he’d mentioned, before working my way back around to the murders again. ‘And these so-called “Dune Murders”. Same question again. Do you remember what Cate wanted to know?’

    Anh ta kể cho tôi nghe tất cả những chi tiết mà tôi đã quen thuộc, nhưng tôi chỉ im lặng. Khi anh ta kể xong, để che giấu mối quan tâm thực sự của tôi nằm ở đâu, tôi quay lại và đặt câu hỏi về những câu chuyện khác mà anh ta đã đề cập, trước khi quay lại với các vụ giết người một lần nữa. “Và những cái gọi là ‘Những vụ Giết người ở Cồn cát’. Lại cùng một câu hỏi. Anh có nhớ Cate muốn biết về điều gì không?”

    ‘Not really,’ he said. ‘It was – what? – getting on for three years ago.’

    “Không hẳn,” anh ta nói. “Đó là – cái gì nhỉ? – bắt đầu từ ba năm trước rồi.”

    ‘You don’t remember anything at all?’

    “Anh không nhớ gì cả à?”

    He sighed. ‘I think she mostly asked about Jennings and Coetzer.’

    Anh ta thở dài. “Tôi nghĩ cô ấy chủ yếu hỏi về Jennings và Coetzer.”

    ‘Jennings and Coetzer?’

    “Jennings và Coetzer à?”

    ‘They were the kind of figureheads on the task force.’

    “Họ là những tay bù nhìn trong lực lượng đặc nhiệm.”

    ‘What did she ask about them?’

    “Cô ấy hỏi gì về họ?”

    ‘I honestly don’t remember.’

    “Thành thật mà nói tôi không nhớ gì.”

    It was frustrating but I didn’t blame him. In my experience witnesses often failed to recall exact details an hour after something happened, let alone nearly three years down the line.

    Chán cái mớ đời nhưng tôi không trách anh ta. Theo kinh nghiệm của tôi, một giờ sau khi sự việc xảy ra, các nhân chứng thường đã không nhớ lại được chi tiết chính xác rồi, chứ chưa nói đến gần ba năm sau.

    ‘And you’d only met that one time before she called in the November?’

    “Và anh chỉ gặp cô ấy một lần trước khi cô ấy gọi điện cho anh vào tháng 11 chứ?”

    ‘Yes,’ he said.

    “Ừ,” anh ta nói.

    I could hear the doubts in his voice this time.

    Lần này tôi có thể nghe thấy sự nghi ngờ trong giọng nói của anh ta.

    The more he was thinking about it, the less transparent Cate’s call seemed. Why would she get in touch with him after only meeting him once? Why would she start asking about the stories he was writing? In some of the things he’d said to me – She was the sole reason I even remember covering the story; I was pleased to hear from her – it felt very possible that Swainswick had taken a real liking to Cate. I realized too – and perhaps he did as well now – that she might have subtly used that to her advantage – not just to get the answers she needed from Swainswick, but to create some fog if he happened to recollect the call later on down the line. In the days and weeks after, even when he read about Cate disappearing, he might still have been thinking about the catch-up part of it, the bit of their call that he’d enjoyed the most. And if he thought about the other part at all, about what her real intentions might have been, he was less likely to have connected the dots.

    Càng nghĩ về cuộc gọi của Cate, thì nó lại càng trở nên mờ ám. Tại sao cô ấy lại liên lạc với anh ta sau khi chỉ mới gặp anh ta có một lần? Tại sao cô ấy lại bắt đầu hỏi về những câu chuyện anh ta đang viết? Trong một số thứ anh ta đã kể với tôi - Cô ấy là lý do duy nhất khiến tôi nhớ luôn đến chuyện này; Tôi rất vui khi nhận được cuộc gọi của cô ấy – có cảm giác rất có thể Swainswick đã thực sự thích Cate. Tôi cũng nhận ra – và có lẽ bây giờ anh ta cũng vậy – rằng cô ấy có thể đã khéo léo dựa vào điều đó để thu lợi cho mình – không chỉ để có được câu trả lời cô ấy cần từ Swainswick, mà còn để tung hỏa mù để nếu như sau này anh ta tình cờ nhớ lại cuộc gọi. Trong những ngày và những tuần sau đó, ngay cả khi anh ta đọc được thông tin về việc Cate mất tích, anh ta có thể vẫn còn đang suy nghĩ về một phần cuộc trò chuyện, một phần cuộc gọi giữa họ mà anh ta thích nhất. Và nếu anh ta nghĩ về phần còn lại của cuộc gọi, về ý định thực sự của cô ấy, anh ta sẽ ít có khả năng khâu nối được các chi tiết lại với nhau.

    Not to the Dune Murders.

    Không phải Những vụ Giết người ở Cồn cát.

    And not from there to any potential link to the Gascoignes’ car crash.

    Và từ đó không có bất kỳ mối liên hệ có khả năng nào với vụ tai nạn xe hơi của nhà Gascoignes.

    If those two things intersected at all.

    Nếu hai thứ đó giao nhau thì sao.

    But increasingly it felt like they might, and if that was the case, I had to make sure that Swainswick wasn’t stalking my shadow, so he and I talked some more, mostly so I could sow a few more seeds: dead ends, things that were going to ensure he didn’t make me part of some story he might want to write – or, worse, start looking into Cate himself.

    Nhưng càng ngày càng có vẻ như chúng có thể có liên quan, và nếu đúng như vậy, tôi phải đảm bảo rằng Swainswick sẽ không rình rập theo tôi như cái bóng, nên anh ta và tôi nói chuyện thêm chút nữa, chủ yếu là để tôi có thể gieo thêm vào lòng anh ta một vài hạt giống: những ngõ cụt, những điều sẽ đảm bảo rằng anh ta sẽ không biến tôi thành một phần của câu chuyện nào đó mà anh ta có thể muốn viết - hoặc tệ hơn là chính anh ta bắt đầu điều tra về Cate.

    After the call was over, I went back over my notes – and as I did, I felt a flutter of alarm. It wasn’t just that Cate had called Swainswick after not speaking to him for years, and seemed to have fed him what felt like a half-truth about wanting a catch-up. It wasn’t just that she seemed to have used the fact he appeared to like her, had maybe even fancied her, to get what she needed. It was that the whole call might have just been a Trojan Horse.

    Sau khi cuộc gọi kết thúc, tôi xem lại ghi chú của mình – và khi làm vậy, tôi lại cảm thấy lo lắng. Không chỉ là Cate đã gọi điện cho Swainswick sau nhiều năm không nói chuyện với anh ta, và dường như đã khiến anh ta cảm nhận được một nửa sự thật về việc muốn hàn huyên. Không chỉ là cô ấy dường như đã lợi dụng sự thật là anh ta có vẻ thích cô ấy, thậm chí có thể còn cảm mến cô ấy, để đạt được thứ cô ấy cần. Rằng toàn bộ cuộc gọi có thể chỉ như là một Con ngựa thành Troy.

    I wasn’t convinced she had any interest in the other stories he’d written.

    Tôi không tin rằng cô ấy có hứng thú với những câu chuyện khác mà anh ta đã viết.

    It felt like she only cared about the Dune Murders.

    Cảm giác như cô ấy chỉ quan tâm đến Những vụ Giết người ở Cồn cát.

    HẾT CHƯƠNG 19​
     
  5. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    Part Two

    Phần hai


    THE WITNESSES

    NHÂN CHỨNG

    20
    Audrey Calvert lived in a maze of flats off Streatham High Street.

    Audrey Calvert sống trong mê cung những căn hộ ở đường Streatham High.

    I parked up and headed to a concrete spiral of stairs. It was stiflingly hot already, even though it was only mid-morning, but hardly any light or heat made it into the stairwell. Instead, the ascent was dark, cool and enclosed, the sound of leaking water and smell of stale urine keeping me company all the way up.

    Tôi đậu xe và đi thẳng tới một cầu thang xoắn ốc bằng bê tông. Dù mới giữa buổi sáng, trời đã nóng ngột ngạt rồi, nhưng hầu như không có chút ánh sáng hay sức nóng nào lọt vào cầu thang. Thay vào đó, lối đi lên tối tăm, mát mẻ và khép kín, tiếng nước rỉ tong tỏng và mùi nước tiểu khai khai luôn đồng hành theo tôi suốt lối lên.

    Emerging out of the stairs on the fifth floor, I found a long walkway with the doors to the flats on the left. Calvert’s was at the other end. The views out from the walkway were decent: a play park, the next block of flats, identical to this one except for the angle at which it had been built, and then the sprawl of the city.

    Ra khỏi cầu thang tầng năm, tôi thấy một lối đi dài có cửa dẫn vào các căn hộ ở bên trái. Căn hộ của Calvert ở đầu bên kia. Tầm nhìn ra từ lối đi khá đẹp: một công viên vui chơi, tiếp theo là dãy căn hộ, giống hệt dãy căn hộ này chỉ khác vị trí xây dựng mà thôi, và tiếp theo nữa là thành phố trải dài.

    I knocked on Calvert’s door.

    Tôi gõ cửa phòng Calvert.

    A few moments later, I heard a chain slide across.

    Một lúc sau, tôi nghe thấy tiếng dây xích trượt qua.

    The door opened a fraction and a man in his early fifties appeared, bald, unshaven, in a white vest and blue shorts. He had some scarring near his shoulder, but it had faded over time.

    Cánh cửa hé mở và một người đàn ông khoảng ngoài năm mươi xuất hiện, đầu hói, râu không cạo, mặc áo vest trắng và quần đùi xanh. Ông ta có một vài vết sẹo gần vai, nhưng nó đã mờ dần theo thời gian.

    ‘Yeah?’ he said.

    “Sao?” ông ta nói.

    ‘I was looking for Audrey.’

    “Tôi đang tìm Audrey.”

    There was a blank expression on his face.

    Trên mặt ông ta có một biểu cảm trống rỗng.

    ‘Audrey Calvert,’ I said.

    “Audrey Calvert,” tôi nói.

    ‘Yeah, I know who she is. Why you looking for her?’

    “Ừ, tôi biết bà ấy. Tại sao anh lại kiếm bà ấy?”

    I held out a business card. He reached through the gap in the door with a thin arm, his skin mottled with a parade of pale bruises, and took the card. After eyeing it for a second, he looked at me again, his eyes moving between the card and my face, and said, ‘Missing persons investigator. What would one of those want with her?’

    Tôi chìa ra một tấm danh thiếp. Ông ta thò một cánh tay gầy guộc qua khe cửa, làn da lốm đốm những hàng vết bầm tím nhạt và cầm lấy tấm thẻ. Sau khi xem xét một giây, ông ta lại nhìn tôi, cặp mắt ông ta di chuyển giữa tấm thẻ và mặt tôi rồi nói, “Điều tra viên tìm người mất tích à. Anh muốn biết gì ở bà ấy?”

    ‘That’s what I plan to tell Audrey.’

    “Đó là điều tôi định nói chuyện với Audrey.”

    ‘Oh, you plan to tell her, do you?’

    “Ồ, anh định nói chuyện với bà ấy phải không?”

    He seemed to revel in my confusion.

    Ông ta có vẻ khoái chí với sự bối rối của tôi.

    ‘You’re a bit late, pal.’ He finally pulled the door open, revealing more of himself and the flat behind him. The smell of cigarette smoke and fried food drifted out to the walkway. ‘Audrey left two years ago.’

    “Anh đến hơi trễ rồi đấy, anh bạn ơi.” Cuối cùng ông ta cũng mở được cánh cửa, để lộ nhiều hơn về thân thể và căn hộ phía sau. Mùi khói thuốc lá và đồ chiên xào bay ra lối đi. “Audrey đã rời chỗ này hai năm trước rồi.”

    Shit. ‘This is still listed as her address.’

    Móa. “Vậy mà đây vẫn được liệt kê là địa chỉ của bà ấy.”

    In response he just shrugged.

    Đáp lại, ông ta chỉ nhún vai.

    ‘Have you got any idea where I could find her now?’

    “Anh biết bây giờ tôi có thể tìm bà ấy ở đâu không?”

    ‘Nope.’

    “Không.”

    ‘She never mentioned where she was going?’

    “Bà ấy chưa bao giờ đề cập đến việc bà ấy sẽ đi đâu à?”

    ‘No.’

    “Không.”

    ‘But you two were living together?’

    “Nhưng hai người đã sống cùng nhau à?”

    He nodded. ‘Yeah.’

    Ông ta gật đầu. “Vâng.”

    ‘For how long?’

    “Trong bao lâu vậy?”

    ‘Eight months.’

    “Tám tháng.”

    ‘So one day she just – what? – ups and leaves?’

    “Vậy rồi, một ngày đẹp trời nào đó bà ấy chỉ – cái gì nhỉ? – đứng dậy và rời đi à?”

    ‘Pretty much,’ he muttered. ‘I went to work one morning, kissed her goodbye; I got home later in the day and she was gone. She hadn’t even cleared her stuff out.’

    “Gần như là thế,” ông ta lẩm bẩm. “Một buổi sáng tôi đi làm, hôn tạm biệt bà ấy xong; Tôi trở về nhà hơi trễ hơn một chút và bà ấy đã biến mất rồi. Bà ấy thậm chí còn chưa dọn đồ mang theo nữa cơ.”

    ‘She’d left all her belongings here?’

    “Bà ấy đã để lại tất cả đồ đạc của mình ở đây à?”

    ‘Everything. Even her phone.’

    “Mọi thứ luôn. Kể cả điện thoại.”

    I felt the first stirring of disquiet.

    Tôi cảm nhận được mối bất an đầu tiên đang được nhen nhóm.

    There was something else too, written plainly in the man’s face: whatever had gone on between him and Audrey Calvert, it lingered, hurt, even two years on.

    Ngoài ra còn có thêm điều gì đó khác nữa hằn rõ trên khuôn mặt người đàn ông này: bất kể điều gì đã xảy ra giữa ông ta và Audrey Calvert, thì nó vẫn còn đọng lại, tổn thương, thậm chí đã hai năm trôi qua.

    ‘Can I take your name?’ I asked.

    “Tôi có thể biết tên của anh được không?” tôi hỏi.

    ‘No.’

    “Không.”

    I looked at him, staring him down. ‘I was just being polite. If you choose not to give me your name, it’s inconvenient, but it won’t prevent me from finding it.’

    Tôi nhìn ông ta, nhìn chằm chằm. “Tôi chỉ lịch sự nên hỏi thế thôi. Nếu anh chọn cách không cho tôi biết tên thì hơi bất tiện một chút, nhưng sẽ không giấu được tôi đâu.”

    He must have seen I wasn’t playing him.

    Chắc hẳn ông ta đã thấy rằng tôi không nói chơi.

    ‘Stanley Gray,’ he said quietly. ‘Stan.’

    “Stanley Gray,” ông ta nói thì thào. “Stan.”

    ‘Okay, Stan. So, just to be clear, Audrey left when?’

    “Được rồi, anh Stan. Vì vậy, để cho rõ ràng, anh cho tôi biết Audrey rời đi khi nào?”

    ‘The middle of June 2020.’

    “Giữa tháng 6 năm 2020.”

    Mid June was nearly six months after the crash.

    Giữa tháng Sáu là gần sáu tháng sau vụ tai nạn.

    ‘And you haven’t seen her at all since?’

    “Và anh đã không gặp bà ấy kể từ đó chứ?”

    ‘No.’

    “Không.”

    ‘Did you report her disappearance to the police?’

    “Anh có báo cảnh sát về sự biến mất của bà ấy không?”

    ‘I don’t know if she disappeared.’

    “Tôi không biết liệu có phải bà ấy có mất tích hay không.”

    ‘She walked out and didn’t even take her phone with her.’

    “Bà ấy đã bỏ đi và thậm chí còn không mang theo điện thoại cơ mà.”

    But he shook his head, as if I didn’t understand.

    Nhưng ông ta lắc đầu, như thể tôi không hiểu gì.

    ‘She was complicated,’ he said.

    “Bà ấy phức tạp lắm thôi,” ông ta nói.

    ‘In what way?’

    “Theo kiểu nào?”

    ‘I don’t even know you. Why would I get into all this shit with a total stranger?’

    “Tôi thậm chí còn không biết anh là ai. Tại sao tôi lại phải nói ba thứ chuyện linh tinh này với một người hoàn toàn xa lạ?”

    It was a fair enough point, but I wasn’t leaving without answers, so I gave him a moment and tried to imagine why Audrey would up and leave a guy she’d been dating for eight months. Not even a goodbye. If she’d taken her stuff with her, maybe it could have been explained away – she could have been unhappy with him, had maybe met someone else, or it could have been something to do with her son. She’d mentioned him in the police interview, when she’d given this flat as her home address, and had said he was twenty-seven at the time of the crash. Kids, however old they were, were a pretty powerful incentive to make quick life-changing decisions. Maybe her son had been in trouble. Maybe he’d been sick, or was in a desperate situation somewhere. Except she hadn’t taken any of her stuff, even her phone, and never got in touch again.

    Đó là một quan điểm khá công bằng, nhưng tôi sẽ không rời đi mà không có câu trả lời, vì vậy tôi cho ông ta một chút thời gian và cố gắng tưởng tượng tại sao Audrey lại rũ áo và rời bỏ một người đàn ông mà bà ta đã hẹn hò được tám tháng. Thậm chí không một lời từ biệt. Nếu bà ta mang theo đồ đạc của mình, có lẽ điều đó đã có thể giải thích được - bà ta có thể không hài lòng với ông ta, có thể đã gặp được người khác, hoặc có thể là có chuyện gì đó liên quan đến con trai bà ta. Bà ta đã nhắc đến con trai trong cuộc phỏng vấn của cảnh sát, khi bà cho biết căn hộ này là địa chỉ nhà của mình và đã nói rằng con trai hai mươi bảy tuổi vào thời điểm xảy ra vụ tai nạn. Trẻ em, dù ở độ tuổi nào, vẫn là động lực khá mạnh mẽ để đưa ra những quyết định nhanh chóng thay đổi cuộc đời. Có lẽ con trai bà đã gặp rắc rối. Có lẽ anh con trai đã bị ốm, hoặc đang ở trong tình thế tuyệt vọng ở nơi nào đó. Ngoại trừ việc bà ta đã không lấy đi bất kỳ thứ gì của mình, kể cả điện thoại và không bao giờ liên lạc lại.

    I asked him again: ‘You said she was complicated?’

    Tôi hỏi lại ông ta: “Anh nói bà ấy phức tạp à?”

    He eyed me and didn’t say anything.

    Ông ta nhìn tôi và không nói gì.

    ‘In what ways was she complicated?’

    “Bà ấy phức tạp ở điểm nào?”

    Again, he didn’t answer. Was it possible that Gray himself had something to do with her going missing? I couldn’t write it off, but the look in his face as he’d talked about her leaving seemed to be one marked with a genuine anguish. So, if he was confused and had questions about where Audrey went, why not go to the cops?

    Một lần nữa, ông ta không trả lời. Phải chăng chính Gray có liên quan gì đó đến việc bà ấy mất tích? Tôi không thể bỏ qua khả năng này, nhưng vẻ mặt của ông ta khi nói về việc bà ấy ra đi dường như thể hiện sự đau khổ thực sự. Vì vậy, nếu ông ta bối rối và thắc mắc về việc Audrey đã đi đâu, tại sao không đến gặp cảnh sát?

    ‘Have you heard of Cate and Aiden Gascoigne?’ I asked, changing tack.

    “Anh đã nghe nói về Cate và Aiden Gascoigne chưa?” Tôi hỏi, thay đổi chiến thuật.

    He squinted, the sun coming into his flat from over my right shoulder. Shifting to his left, he looked at my card again and said, ‘That was the car-crash couple, right?’

    Ông ta nheo mắt, ánh nắng chiếu vào căn hộ từ vai phải của tôi. Chuyển sang bên trái của ông ta, ông ta nhìn vào danh thiếp của tôi một lần nữa và nói, “Đó là cặp đôi bị tai nạn xe hơi phải không nhỉ?”

    ‘That’s right.’

    “Đúng rồi đấy.”

    ‘That happened a couple of months after we started going out.’

    “Vụ tai nạn đó xảy ra vài tháng sau khi chúng tôi bắt đầu hẹn hò.”

    ‘Do you remember what Audrey said about that day?’

    “Anh có nhớ Audrey đã nói gì về ngày hôm đó không?”

    ‘Not really.’

    “Không hẳn.”

    But then he paused, his gaze suddenly distant. When he finally looked at me again, I saw the same thing I’d glimpsed earlier: he was hurting. And even though it was obvious he was still conflicted about sharing his life with the total stranger on his doorstep, the hurt had been festering since the day Audrey left without any explanation – and after so long, a part of him desperately needed to let it out.

    Nhưng rồi ông ta bỗng khựng lại, ánh mắt chợt xa xăm. Cuối cùng khi ông ta nhìn tôi lần nữa, tôi thoáng thấy điều tương tự như tôi đã thấy trước đó: ông ta đang đau khổ. Và mặc dù rõ ràng là ông ta vẫn còn mâu thuẫn với việc chia sẻ chuyện của mình với người hoàn toàn xa lạ ngay trước cửa nhà mình, nhưng nỗi đau vẫn ngày càng nhức nhối kể từ ngày Audrey rời đi mà không một lời giải thích – và sau một thời gian dài, một phần nỗi tuyệt vọng trong ông ta rất cần được giải tỏa.

    ‘She got quiet after that crash,’ he said softly.

    “Bà ấy đã im lặng sau vụ tai nạn đó,” ông ta nói yếu ớt.

    I took a step closer. ‘What do you mean?’

    Tôi tiến thêm một bước gần hơn. “Ý anh là gì?”

    ‘I mean, she changed after that car went off the road.’

    “Ý tôi là, bà ấy đã thay đổi sau khi thấy chiếc xe đó lao ra khỏi đường.”

    I thought of Zoe Simmons, of what her mother had told me.

    Tôi nghĩ đến Zoe Simmons, đến những gì mẹ cô ấy đã kể với tôi.

    ‘How did she change?’

    “Bà ấy đã thay đổi như thế nào?”

    He shrugged. ‘Before, she always had an opinion about something. You could wind her up really easily, which I loved. Aud always hated being wrong. Sometimes if you decided to bring her up on something you knew she was wrong about … well, all hell would break loose.’ He was chuckling, though. These were good memories for him. ‘I didn’t mind. Actually, I liked it. She was fun. We always had a laugh about it.’

    Ông ta nhún vai. “Trước đây, bà ấy thường hay ý kiến về mọi thứ. Anh có thể dễ dàng chọc giận bà ấy, đây là điều mà tôi rất thích. Aud luôn ghét việc mình bị sai. Đôi khi, nếu anh quyết định nhắc đến việc gì đó mà anh biết bà ấy đã sai... à, thì mọi chuyện sẽ náo loạn lên hết cho xem.” Tuy nhiên, ông ta đang nén cười. Đây là những kỷ niệm đẹp đối với ông ta. “Tôi không bận tâm. Thực ra, tôi thích điều đó. Bà ấy rất vui. Chúng tôi luôn cười đùa về chuyện đó.”

    ‘But not after the crash?’

    “Nhưng sau vụ tai nạn thì không còn như thế nữa phải không?”

    ‘You had to work harder at everything. She didn’t smile as much, or as often. When you tried to wind her up, she didn’t rise to the bait. There was a …’ He paused. ‘I don’t know, a sadness, I guess. Like I say, she got quiet. Maybe it was watching that car burn, thinking those people were being barbecued inside. Aud was like that; deep down, she was a kind person. What she saw that day, that sort of shit would have stayed with her. That’s why I say she changed.’

    “Anh phải cố gắng hơn trong mọi thứ. Bà ấy không cười nhiều hay thường xuyên như trước. Khi anh cố chọc giận bà ấy, bà ấy không mắc lừa nữa. Có một...,” ông ta dừng lại. “Tôi không biết, có lẽ là nỗi buồn, tôi đoán vậy. Như tôi đã nói, bà ấy trở nên trầm lặng. Có thể là do bà ấy đã chứng kiến chiếc xe đó cháy rụi, nghĩ rằng những người bên trong đang bị thiêu sống. Aud là như vậy đấy; sâu thẳm bên trong, bà ấy là một người tốt bụng. Những gì bà ấy thấy ngày hôm đó, loại chuyện kinh khủng như vậy chắc chắn sẽ ám ảnh bà ấy. Đó là lý do tại sao tôi nói bà ấy đã thay đổi.”

    Except this behaviour was exactly what had happened with Zoe Simmons, and it was too convenient that both witnesses were different after the crash, too convenient they both became quieter, sadder, more insular, as if part of them had become lost.

    Chỉ có điều hành vi này lại đúng như những gì đã xảy ra với Zoe Simmons, và thật quá trùng hợp khi cả hai nhân chứng đều đổi khác sau vụ tai nạn, quá trùng hợp khi cả hai đều trở nên trầm lặng hơn, buồn bã hơn, khép kín hơn, như thể họ đã bị mất đi một thứ gì đó.

    Something had got to them.

    Có điều gì đó đã xảy ra với họ.

    Or someone.

    Hoặc ai đó.

    If I’d had worries about Audrey Calvert before, those worries were even more intense now. Because she and Zoe Simmons didn’t feel like suspects any more.

    Nếu trước đây tôi từng lo lắng về Audrey Calvert thì giờ đây những lo lắng đó thậm chí còn dữ dội hơn. Bởi vì bà ấy và Zoe Simmons hình như không còn là nghi phạm nữa.

    They felt more like victims.

    Họ hình như giống nạn nhân hơn.

    I felt another stir of disquiet.

    Tôi lại cảm thấy trỗi lên một nỗi lo lắng khác.

    ‘Would you have a picture of Audrey in there, Stan?’

    “Anh có bức ảnh nào của Audrey trong nhà không, Stan?”

    He lingered, as if he wasn’t sure whether this was a trap or not, and then told me to give him a minute. He disappeared back inside the flat and then returned with a photograph.

    Ông ta chần chừ, như thể không chắc đây có phải là một cái bẫy hay không, rồi bảo tôi chờ ông ta một phút. Ông ta biến mất vào trong căn hộ và sau đó quay lại với một bức ảnh.

    I took it from him and got my first look at Audrey Calvert. It was a shot of her and Gray, taken in a pub garden. She was attractive, a little overweight, and had shoulder-length hair that she’d dyed white blonde, a fork of black roots showing through. Faint age lines formed like a mesh around the arc of her eyes, which were blue-grey. And, although it had faded over time, I could see that she had a tattoo on her upper right arm. It was small, but it looked like two written lines.

    Tôi nhận lấy bức ảnh từ tay ông ta và lần đầu tiên nhìn thấy Audrey Calvert. Đó là một bức ảnh của bà và Gray, được chụp trong khu vườn của một quán rượu. Bà ta trông hấp dẫn, hơi thừa cân chút xíu, và có mái tóc dài ngang vai được nhuộm móc lai màu vàng bạch kim, với những chân tóc đen lộ ra ngoài. Những nếp nhăn mờ mờ do tuổi tác tạo thành một mạng lưới quanh khóe mắt màu xanh xám của bà. Và mặc dù đã phai nhạt theo thời gian, tôi vẫn có thể thấy bà ta có một hình xăm ở phía trên cánh tay phải. Hình xăm nhỏ, nhưng trông giống như hai hàng chữ viết.

    I took a camera-phone picture of the photo.

    Tôi đã chụp lại bức ảnh bằng điện thoại.

    ‘What’s her tattoo of?’ I asked, pointing to it on the photo.

    “Hình xăm của bà ấy là gì?” Tôi hỏi và chỉ vào nó trên bức ảnh.

    ‘It was her son’s first and middle names.’

    “Đó là tên và tên đệm của con trai bà ấy.”

    I made a note of it. ‘Which are what?’

    Tôi đã ghi chú về điều này. “Cái nào là tên và cái nào là tên đệm?”

    ‘Well, Michael was his first name,’ he said straight away. ‘His middle name …’ He stopped, trying to cast his mind back two years. ‘Pretty sure it was Christopher.’

    “Chà, Michael là tên của nó,” ông ta nói ngay. “Tên đệm của nó…” Ông ta dừng lại, cố nhớ lại hai năm trước. “Khá chắc chắn đó là Christopher.”

    ‘Did you get in touch with Michael after Audrey went missing?’

    “Anh có liên lạc với Michael sau khi Audrey mất tích không?”

    ‘Yeah, of course I did. He never heard from her again, same as me.’

    “Ừ, tất nhiên là tôi đã liên lạc. Cũng giống tôi, nó không bao giờ nghe được tin gì từ bà ấy nữa.”

    Now it wasn’t disquiet I was feeling.

    Bây giờ tôi không còn cảm thấy lo lắng nữa.

    It was genuine alarm.

    Mà đó thực sự là báo động.

    ‘And did Michael report her missing?’

    “Và Michael có trình báo việc bà ấy mất tích không?”

    ‘No.’

    “Không.”

    ‘Why the hell not?’

    “Khỉ thiệt, tại sao lại không chứ?”

    Gray’s eyes flicked away from me.

    Ánh mắt Gray rời khỏi tôi.

    ‘Stan?’

    “Ông Stan?”

    ‘We tried to find her ourselves. Especially him. I used to phone him sometimes to see if he’d heard anything from her or found anything. He never had. But he was still looking for her earlier this year.’

    “Chúng tôi đã cố gắng tự tìm kiếm bà ấy. Đặc biệt là nó. Thỉnh thoảng tôi gọi điện cho nó để xem nó có nghe được tin gì từ bà ấy hay tìm thấy gì không. Nó chưa bao giờ nghe được tin gì cả. Nhưng đầu năm nay nó vẫn còn đang tìm kiếm bà ấy.”

    ‘Why not just get the cops to look for her?’

    “Sao không nhờ cảnh sát đi tìm bà ấy?”

    He took a long breath. ‘Because Audrey was a drug addict.’

    Ông ta hít một hơi dài. “Bởi vì Audrey là một người nghiện ma túy.”

    I looked at him, completely thrown. I’d had no idea. That information hadn’t been anywhere in the paperwork I’d already seen.

    Tôi nhìn ông ta, hoàn toàn bất ngờ. Tôi không hề biết điều đó. Thông tin đó không có trong bất kỳ tài liệu nào mà tôi đã xem.

    And then I spotted something else.

    Và sau đó tôi phát hiện ra một điều khác.

    A ripple in his expression.

    Biểu hiện của ông ta có chút gợn sóng.

    ‘Was she using before the crash?’

    “Có phải bà ấy đã dùng ma túy trước vụ tai nạn không?”

    He shook his head. ‘I asked Michael if he’d ever seen her doing drugs growing up and he said no. Not ever. I guess she’d been clean for so long he didn’t even remember that his mum used to be into that shit. Or she hid it from him so well he never noticed. But that’s hard to do, hard to hide – even from kids – and she told me that wasn’t how it was. She said it was an old problem. “Old demons”, she called it. “Old demons coming back to haunt me”.’

    Ông ta lắc đầu. “Tôi đã hỏi Michael rằng từ nhỏ tới lớn nó có bao giờ thấy mẹ mình dùng ma túy không và nó nói không. Chưa bao giờ. Tôi đoán là bà ấy đã cai nghiện lâu đến nỗi nó thậm chí còn không nhớ rằng mẹ đã từng dính vào thứ khỉ gió đó. Hoặc bà ấy đã che giấu quá giỏi đến nỗi nó không hề nhận ra. Nhưng điều đó rất khó, khó để che giấu – ngay cả với trẻ con – và bà ấy đã nói với tôi rằng chuyện không phải như tôi thấy đâu. Bà ấy nói đó là một vấn đề trước đây. ‘Những con quỷ trước đây’, bà ấy gọi như thế. ‘Những con quỷ trước đây đã quay lại ám ảnh tôi’.”

    ‘But she was definitely using after the crash?’

    “Nhưng bà ấy chắc chắn đã sử dụng ma túy sau vụ tai nạn chứ?”

    He nodded. ‘I found her gear hidden in the flat.’

    Ông ta gật đầu. “Tôi tìm thấy dụng cụ dùng ma túy của bà ấy được giấu trong căn hộ.”

    ‘When?’

    “Khi nào?”

    ‘I don’t know. Couple of months before she left me.’

    “Tôi không nhớ rõ. Hình như vài tháng trước khi bà ấy bỏ đi.”

    ‘When did you tell Michael?’

    “Ông đã cho Michael biết việc này khi nào?”

    ‘After she left. She told me not to mention it to him when I found the gear; said she needed to tell him herself. But I guess she never did, because he didn’t know.’

    “Sau khi bà ấy bỏ đi. Bà ấy bảo tôi đừng mách chuyện đó với nó khi tôi tìm thấy dụng cụ; nói rằng bà ấy cần phải đích thân nói với nó. Nhưng tôi đoán bà ấy chưa bao giờ nói, bởi vì nó không biết.”

    I rubbed at my face, trying to let the new information bed in. They didn’t call the cops because neither of them trusted the police to take Audrey’s disappearance seriously. And now, two years later, it was too late. She was long gone.

    Tôi xoa mặt, cố gắng tiếp thu thông tin mới. Họ không gọi cảnh sát vì cả hai đều không tin tưởng cảnh sát sẽ xem xét vụ mất tích của Audrey một cách nghiêm túc. Và bây giờ, hai năm sau, thì đã quá muộn. Bà ấy đã đi lâu rồi.

    ‘You said you confronted Audrey about her drug use?’

    “Anh nói anh đã chất vấn Audrey về việc bà ấy sử dụng ma túy à?”

    ‘Yeah. I asked her why she’d started putting that crap in her veins again.’

    “Vâng. Tôi hỏi bà ấy tại sao bà ấy lại bắt đầu tiêm thứ rác rưởi đó vào huyết quản.”

    ‘And what did she say?’

    “Và bà ấy đã nói gì?”

    That same ripple in his expression. ‘She said it was the only way she could escape.’

    Biểu cảm của ông ta lại gợn sóng như lúc nãy. “Bà ấy nói đó là cách duy nhất bà ấy có thể trốn thoát.”

    HẾT CHƯƠNG 20​
     
    Chỉnh sửa cuối: 31/5/24
    machine thích bài này.
  6. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    Em lên song song cả Anh lẫn Việt để mong các bác ai rảnh thì hỗ trợ em về mặt dịch thuật, nhưng đến nay, em đã đi qua được 1/3 chặng đường rồi, mà cũng chưa nhận được nhiều ý kiến đóng góp. Nên bắt đầu từ chương 21 trở đi em sẽ lên mỗi tiếng Việt các bác nhé. Nếu bác nào có ý kiến gì đóng góp thì comment mạnh vào dùm em.
     
    machine thích bài này.
  7. vinaguy

    vinaguy Lớp 11


    21

    Tôi tìm được chỗ trống trong bãi đậu xe ở Tooting Common rồi lên tàu điện ngầm từ Tooting Bec. Đi tuyến phía Bắc đến Quảng trường Leicester, tôi ngồi đúng phải toa xe quá nóng và tranh thủ thời gian để xem lại tất cả những gì Stanley Gray đã kể về Audrey Calvert.

    Cảm giác hoảng sợ vẫn còn lảng vảng trong tôi.

    Audrey đã bắt đầu dùng lại ma túy để trốn tránh - nhưng trốn tránh điều gì? Gray không biết, nhưng ông ta - và có lẽ là con trai của Audrey, Michael - dường như tin rằng điều đó liên quan đến những gì bà ta đã thấy vào ngày xảy ra vụ tai nạn, bị sang chấn từ cảnh tượng đó. Nhưng nhỡ không phải thế thì sao? Nhỡ có ai đó đang dựa vào bà ta thì sao? Nhỡ có ai đó đang đe dọa bà ta thì sao?

    Nhỡ điều đó chính là điều bà ta đang trốn tránh thì sao?

    Cũng dựa vào cách Zoe Simmons đã hành xử sau vụ tai nạn, tự thu mình vào vỏ bọc, trở nên đối lập với cô gái tuổi hai mươi sôi nổi mà cô đã từng trước đây, không khó để thấy cách một người nghiện đang phục hồi, luôn trong trạng thái chông chênh như đi trên dây, có thể gục ngã và tái nghiện bất cứ lúc nào. Simmons đã trở thành cái bóng của chính mình; Audrey Calvert đã trở về với điều duy nhất mà bà nghĩ có thể mang lại niềm an ủi cho bà.

    Tôi ra khỏi tàu điện ngầm tại Quảng trường Leicester và len lỏi qua đám đông đến phòng trưng bày Đồ tưởng niệm, đi theo những con hẻm nhỏ để có thể tránh được du khách.

    Bên trong, có điều hòa, thật là một sự nhẹ nhõm sau cái nóng của thành phố, và tôi đứng đó một lúc dưới ống thông gió, để không khí lạnh thổi vào mình trong khi quan sát bố cục của gian phòng. Đó là một phòng dài chia thành ba lối đi, các bức tranh - treo từ các móc hình cánh tay bằng đồng trên trần - hoạt động như những bức tường phân chia. Ở phía trước, bên phải tôi, là một quầy máy tính tiền có ngăn kéo và một cái gì đó trông giống như sổ ghi khách tham quan. Ở phía sau - bên kia các bức tranh - là một cánh cửa khác dẫn vào một nơi có vẻ là không gian tổ chức sự kiện.

    “Tôi có thể giúp gì cho anh không?” một người đàn ông vừa nói vừa bước ra từ cánh cửa. Ông ta ăn nói lịch sự, tầm đầu sáu mươi, tóc xám lơ thơ, bộ râu muối tiêu dày và, mặc dù bên ngoài trời nóng nực, ông ta vẫn mặc một bộ vest thanh lịch màu nâu vàng.

    “Tôi hy vọng vậy,” tôi đáp. “Tôi là một điều tra viên.”

    Ông ta khựng ngay lại. Nếu chúng ta nói với mọi người rằng chúng ta là điều tra viên, một số người sẽ nhảy dựng lên và cho rằng điều đó có nghĩa chúng ta là cảnh sát. Tôi không đính chính.

    “Tôi là Toby Platt,” ông ta nói.

    “Ông Platt, tôi hy vọng ông có thể giúp tôi. Tôi đang điều tra về sự mất tích của Cate Gascoigne.”

    Platt ngay lập tức nhận ra cái tên đó. “Anh đang mở lại vụ án à?”

    “Tôi đang tiếp tục tìm kiếm.” Đó chính xác không phải là lời nói dối - mặc dù, có lẽ ông ta nghĩ tôi thuộc lực lượng cảnh sát, điều đó cũng không hoàn toàn là sự thật. “Tôi có thể hỏi ông vài câu không?”

    Ông ta gật đầu. “Chắc chắn rồi.”

    Ông ta dẫn tôi qua cửa vào phòng sự kiện. Nó nhỏ hơn nhiều so với tôi tưởng tượng, mặc dù ông ta đã xếp một số ghế thành hàng hai chiếc một sát vào nhau. Ba cửa sổ nhỏ nhìn ra một khu trại nuôi ngựa xinh đẹp. Ông ta mời tôi ngồi vào một trong những chiếc ghế, và rồi tôi lấy ra cuốn sổ và lật lại các ghi chép tốc ký về cuộc phỏng vấn tôi đã thực hiện với Martin và Sue. “Vậy, ông Platt…”

    “Gọi tôi là Toby.”

    “Ông Toby. Tôi được nghe từ bố mẹ của Cate rằng cô ấy đã tổ chức triển lãm ở đây vào tháng Sáu năm 2019 – tức là, gì nhỉ, khoảng hơn sáu tháng trước khi cô ấy biến mất?”

    Mắt Platt sáng lên. “Vâng, đúng vậy.”

    “‘Tragic, Drawn’.” (‘Bi kịch, U sầu’)

    “Một bộ sưu tập tuyệt vời. Chúng tôi đã làm việc với Cate trước đây - có lẽ cuối năm 2017 hoặc đầu 2018; tôi có thể kiểm tra lại hồ sơ nếu anh cần biết - trên một loạt các bức ảnh cô ấy chụp về các cuộc biểu tình. Cái mà cô ấy gọi là ‘All the Days Say the Same’ (‘Suốt Ngày Nói Chỉ Nói Một Câu). Những thứ đó cũng hay, nhưng ‘Tragic, Drawn’, cái đó mới thực sự rất hay. Đó cũng là công việc quan trọng về mặt xã hội.”

    “Theo cách nào?”

    “À, nó cho thấy công việc của cảnh sát, hệ thống tòa án, cách các nhà tù hoạt động - đơn giản nhất, đó là một biên niên sử về cách mà công lý diễn ra ở đất nước này. Nhưng đây là Cate, vì vậy rõ ràng nó tinh tế hơn thế. Điều mà tôi luôn yêu thích về công việc của cô ấy - một trong những lý do mà tôi phá vỡ truyền thống và quyết định để một nhiếp ảnh gia triển lãm ở đây - là vì trong các bức ảnh của cô ấy luôn có nhiều cung bậc. Nó giống như một bức tranh nhìn theo nhiều cách. Với hầu hết các bức ảnh, khi chúng ta nhìn chúng và chúng kể ngay một câu chuyện cho chúng ta. Đó là nhiệm vụ của chúng, đúng không? Chúng phải rõ ràng, chúng cần truyền tải một thông điệp trong sáng như pha lê vì chúng sẽ được chạy trên trang nhất của các tờ báo hoặc trên một bảng quảng cáo ở đâu đó. Với Cate, luôn có sự hấp dẫn ngay lập tức, ngay từ đầu câu chuyện, đó là lý do tại sao cô ấy cũng luôn xuất hiện trên trang nhất và bảng quảng cáo - nhưng luôn có một điều gì đó khác diễn ra. Một khoảnh khắc tuyệt vời nào đó mà chỉ đến với chúng ta sau khi chúng ta dành thời gian làm việc trong một hãng film ảnh.” Ông ta nhún vai. “Cate rất tài năng.”

    “Ông nói rằng ‘Tragic, Drawn’ nói về hệ thống luật pháp và thực thi pháp luật?”

    “Nói chung là có,” ông ta đáp. “Cô ấy đã đi khắp đất nước, chụp ảnh những người liên quan đến tội phạm ở mọi cấp độ: cảnh sát, nạn nhân, kẻ phạm tội; và rồi cô ấy theo dõi một số người đó trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày - trong nhà của họ, tại tòa án.”

    “Ông có biết cô ấy đã từng đến Northumberland cũng là một phần của chuyện này không?”

    Platt cân nhắc. “Tôi không nghĩ vậy, không.”

    Những cuộc gọi của Cate tới Leon Coetzer và Tom Swainswick xảy ra năm tháng sau khi cô ấy mở cuộc triển lãm tại phòng trưng bày này. Tôi không tìm thấy gì để chứng tỏ cô ấy đã đến Northumberland trước tháng Mười Một - vì vậy có vẻ như loạt ảnh về công lý mà cô ấy chụp cho triển lãm ‘Tragic, Drawn’ và sự quan tâm của cô ấy đối với Vụ án Giết người trên Cồn cát là hai việc riêng biệt. Nhưng tôi cũng thắc mắc liệu loạt ảnh về công lý kia có khơi mào cho sự quan tâm đó không. Liệu có phải cô ấy đã có thể phát hiện thấy điều gì xảy ra với ba người phụ nữ kia trong quá trình chụp loạt hình ‘Tragic, Drawn’ không?

    “Cate có bao giờ nói về những gì cô ấy sẽ làm tiếp theo không?”

    “Không,” Platt lắc đầu. “Tôi không nhớ.”

    Tôi ghi chú lại để hỏi Martin, Sue và Georgia cùng câu hỏi đó. Vào tháng Sáu, Cate đã triển lãm ở đây. Vào tháng Bảy, rất có thể cô ấy đã bắt đầu nghĩ về dự án tiếp theo của mình, và có thể đã chia sẻ ý tưởng ban đầu với chồng. Có phải tình cờ mà tháng Bảy cũng là thời điểm cô và Aiden có mâu thuẫn, và Aiden đã tìm kiếm địa chỉ của đồn cảnh sát gần nhất trên Google không?

    Một cảm giác phấn khích tràn qua tôi.

    Tôi cảm thấy chắc chắn hơn bao giờ hết rằng tôi đã khám phá ra điều gì đó. Nhưng Cate và Aiden đã tranh cãi về điều gì? Trong vụ Giết người trên Cồn cát, điều gì có thể là nguồn cơn mâu thuẫn giữa họ? Cate muốn chụp gì? Và tại sao điều đó lại khiến Aiden tìm kiếm đồn công an trên Google?

    Một giây sau, điện thoại tôi rung lên trong tay. Đó là tin nhắn từ một số điện thoại lạ. Nhưng, mặc dù tôi không biết số, tin nhắn là điều mà tôi đang chờ đợi.

    Là Zoe đây. Becky đã cho tôi số của anh.

    Tôi sẽ gặp anh ở Covent Garden lúc 4:30.

    HẾT CHƯƠNG 21
     
  8. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    Nơi ẩn náu
    30 Năm Trước

    Bốn mươi lăm phút sau Amelia bước ra khỏi bệnh viện.

    Cô cảm thấy hoảng loạn khi cố nhớ lại tất cả những gì cô vừa được chỉ bảo. Có quá nhiều thông tin để tiếp nhận, cô không chắc bắt đầu từ đâu. Khi cô tâm sự với người phụ nữ đang làm siêu âm rằng cô chưa thông báo với bố mẹ mình, người phụ nữ nhăn mặt - chỉ thoáng qua, nhưng như thể Amelia thực sự nên làm thế.

    “Bố mẹ sẽ phát điên lên mất chị ơi,” cô cố giải thích.

    “Tùy em thôi, nhé cưng,” người phụ nữ nói. Chị ta nói như thể chị thấy và nghe điều này mỗi ngày trong tuần, mà Amelia đoán đã đúng. Nhưng sau đó chị nhìn Amelia lần nữa, và nói, “Em sẽ cần nói với ai đó, tuy nhiên.” Chị ta di chuyển đầu dò và gel quanh bụng Amelia.

    “Vì sao ạ?” Amelia đã hỏi. “Mọi thứ đều ổn chứ ạ?”

    “Ừ. Đều tốt hết.”

    Rồi chị ta cho Amelia xem hình ảnh trên màn hình.

    Tiếng động cơ rít lên, và đỗ xịch lại trong bãi đậu xe bệnh viện, đưa cô trở lại hiện tại, và - trong trạng thái như bị thôi miên - Amelia đi đến trạm xe buýt bên ngoài cổng chính. Suốt thời gian đó, trong đầu cô cứ tua đi tua lại hình ảnh trên màn hình: những màu xám và đen méo mó của em bé đang di chuyển, sau đó kỹ thuật viên đặt ngón tay lên màn hình và nói, “Nhìn này.” Người phụ nữ nói rằng còn quá sớm để biết giới tính - thật ra là còn quá sớm để biết nhiều thứ - nhưng Amelia đã có thể thấy một thứ, nhấp nháy như một tia sáng nhỏ.

    Một nhịp tim.

    Nó gần như đã làm cô rơi nước mắt.

    Khi cô ngồi xuống băng ghế, bên trong mái che của trạm xe buýt, mưa bắt đầu nhỏ xuống kính. Đó là khi cô đưa ra quyết định.

    Cô sẽ nói với mẹ khi về nhà.

    “Ồ, thật là đúng lúc.”

    Amelia ngước lên khi một phụ nữ tầm ba mươi hoặc bốn mươi tuổi - Amelia không bao giờ giỏi đoán tuổi – chui vào dưới mái che của trạm xe buýt và ngồi lên đầu kia của băng ghế. Chị ta nhìn Amelia, mỉm cười, rồi bắt đầu phủi nước mưa lấm tấm khỏi tay áo. “Thời tiết này,” người phụ nữ nói, đảo mắt.

    Amelia mỉm cười lịch sự đáp lại và trở lại suy nghĩ về cách cô sẽ nói sao với mẹ. Trong đầu cô bắt đầu lên kế hoạch về những gì cô sẽ nói, tưởng tượng những điều mẹ cô có thể trả lời. Cô tưởng tượng bố cô đi vào cắt ngang giữa cuộc trò chuyện, và cách ông có thể phản ứng.

    “Em vừa từ bệnh viện ra à?”

    Những suy nghĩ của Amelia lại bị người phụ nữ làm gián đoạn. Cô nhìn chị ta. Chị ta đeo kính có tròng tròn to và đủ gần để Amelia có thể thấy bóng mờ của mình phản chiếu trên đó: tóc đen, da nhợt nhạt, mắt như những mảnh gỗ.

    Thực sự không phải việc của chị, Amelia nghĩ.

    Nhưng cô chỉ mỉm cười và nói, “Vâng.”

    “Bản thân chị không thích bệnh viện,” người phụ nữ đáp.

    “Em nghĩ cũng ít người thích lắm.”

    “Cả hai bố mẹ chị đều chết ở đó, vì vậy bệnh viện này chị đặc biệt không ưa.” Nhưng chị ta nói điều đó với một chút hài hước. “Xin lỗi. Đó là thói quen xấu của chị. Chị luôn là người chia sẻ quá nhiều chuyện.”

    Amelia mỉm cười lần nữa, lần này chân thành hơn - và khi lần đầu tiên cô nhìn người phụ nữ kỹ hơn - cô có một cảm giác quen thuộc mơ hồ.

    “Liệu em có biết chị không nhỉ?” cô hỏi.

    Người phụ nữ nhíu mày. “Chắc không đâu, cưng, chị không nghĩ vậy.”

    “Chúng ta chưa từng gặp nhau trước đây à?”

    “Không. Chị nghĩ chị sẽ nhớ một gương mặt như em nếu gặp rồi,” người phụ nữ thêm vào. “Vậy, em đến bệnh viện một mình à?”

    “Gì cơ ạ?”

    “Ý chị là, bố mẹ em đâu?” Người phụ nữ nghiêng người về phía trước một chút và nhìn qua Amelia, dọc theo băng ghế, như thể bố mẹ của Amelia có thể đang trốn ở đó. “Em bao nhiêu tuổi rồi? Mười sáu à? Hay mười bảy?”

    “Mười chín chị ạ.”

    Người phụ nữ rõ ràng ngạc nhiên. Chị ta quan sát Amelia một lúc, ánh mắt nhìn chăm chú, thắt lại chiếc khăn quàng mà chị ta đang quấn quanh cổ. “Chị không có ý xúc phạm gì đâu.”

    Amelia chọn cách không nói gì.

    “Chị chỉ là ghen tị, chỉ có thế thôi.”

    Chiếc xe buýt màu đỏ bầm đâu rồi nhỉ?

    “Em có làn da thật đẹp.”

    Lần này Amelia nhìn lại.

    “Khoan, chị nói nghe hơi kỳ.” Người phụ nữ nhíu mày và trở nên nghiêm túc hơn. “Thật ra, nghe hơi kỳ và rùng rợn. Chị chỉ muốn nói điều đó như một lời khen thôi.”

    Amelia không biết nói gì.

    “Đó là thứ khác mà chị không giỏi nữa,” người phụ nữ nói. “Khen người khác đó. Nhưng ý chị là vậy. Da của em thực sự rất đẹp. Chị chắc là trước đây em đã làm tan chảy vài trái tim rồi.”

    Cô chưa từng làm tan chảy trái tim nào cả, hầu như không ghi dấu ấn gì với hầu hết đám con trai. Amelia nhìn người phụ nữ lần nữa và, lần thứ hai, cô thoáng nhận ra. Có một vẻ quen thuộc nào đó trên gương mặt người phụ nữ mà nhất thời Amelia không thể nhớ ra. Chị ta chỉ trông giống ai đó mà Amelia đã gặp trước đây thôi sao?

    Người phụ nữ này khiến Amelia nhớ đến ai nhỉ?

    “Chắc em chưa từng thì phải nhỉ?” người phụ nữ nói.

    “Xin lỗi, sao cơ?”

    “Làm tan vỡ vài trái tim ai đó đó. Chị phải nói, chị ngạc nhiên đấy.”

    Amelia nhún vai. “Em nghĩ chị cần sắm lại cặp kính tốt hơn rồi.”

    Điều đó khiến người phụ nữ cười lớn.

    Sau đó, hai người ngồi im lặng một lúc, rồi mắt người phụ nữ hướng đến bụng của Amelia và cô nhớ rằng mình vẫn đang cầm vài tờ rơi mà người ta đã đưa cho cô ở phòng khám. Cô đã cuộn chúng lại thành ống khi rời bệnh viện, nhưng khi ngồi trên băng ghế trong mái che, chúng từ từ bung ra trong tay cô. Bây giờ có thể nhìn thấy một số chữ.

    Và một từ đặc biệt.

    Thai kỳ.

    “Chúc mừng em,” người phụ nữ nói.

    Amelia nắm chặt các tờ rơi, cố giấu chúng. Cô không muốn người đầu tiên cô thảo luận về việc mang thai của mình là một người phụ nữ xa lạ ở trạm xe buýt.

    “Em không cần phải xấu hổ đâu,” người phụ nữ nói.

    “Em không đâu,” Amelia đáp.

    “Chị cũng tầm tuổi em khi chị có đứa con đầu lòng.” Điều đó làm Amelia khựng lại. Cô quay sang băng ghế, nhìn người phụ nữ. “Chị biết. Chị có vẻ rất già đối với em, nhưng chị hứa: khi em đến tầm tuổi chị, nó sẽ dường như không còn già chút nào nữa đâu.”

    Amelia không biết nói gì.

    “Chỉ cần đừng phạm sai lầm như chị là được,” người phụ nữ nói.

    “Sai lầm gì ạ?”

    “Chị đã bỏ đứa con của mình đi.” Lần đầu tiên một nỗi buồn hiện lên trên mặt người phụ nữ, một sự thay đổi trong ánh mắt. Chị ta nhìn xa xăm một lúc, rồi dường như nhận ra tâm hồn mình đã trôi đi quá xa khỏi nơi đây. “Xin lỗi. Đúng là một kẻ giết chết tâm trạng.”

    “Chị có ổn không?” Amelia hỏi, không biết nói gì khác.

    “Ồ, Chúa ban phước cho em nhé, em yêu. Vâng, chị ổn. Nhưng khi chị lần đầu biết mình mang thai, chị đã thấy mình như thứ vứt đi. Thực ra, chị lo lắng về việc mang thai, hoặc những gì sẽ xảy ra sau khi sinh thì ít– em biết đấy, chị biết chị sẽ phải làm gì - và lo lắng về việc nói gì với bố mẹ, đặc biệt là bố chị thì nhiều.”

    “Em cũng đang lo lắng về việc sẽ nói gì với bố đây.”

    “Chị đoán là em lo. Nhưng em biết đấy, các ông bố luôn bảo vệ các cô con gái bé bỏng của mình - và chúng ta cũng luôn muốn thế, đúng không?” Chị ta nháy mắt với Amelia. “Em sẽ ổn thôi, em yêu. Chị hứa. Nói chuyện với bố có vẻ đáng sợ, chị biết, nhưng nếu chị có thể vượt qua được, thì em cũng có thể lắm chứ. Chỉ cần hứa với chị: đừng bỏ đứa bé đó. Hãy giữ nó, và yêu thương nó. Chỉ cần dành cho nó tất cả tình yêu thương của em, và chắc chắn bố nó cũng làm thế thôi.”

    “Em thậm chí còn không…” Nhưng rồi Amelia dừng lại.

    “Em thậm chí còn không gì nữa cơ?”

    Cô định nói với người phụ nữ rằng cô thậm chí còn không biết cha đứa bé là ai. Như thể cô đột nhiên cảm thấy bị thu hút bởi người lạ này. “Em không biết nói gì. Ý em là với bố mẹ ấy.”

    “Em sẽ tìm ra cách nói thôi, chị hứa.” Người phụ nữ vươn tay ra và nhẹ nhàng vỗ lên đùi Amelia. “Chị biết chị có thể là một kẻ rắc rối, nhưng đôi khi chị cũng nói được những điều đúng đắn - và từ kinh nghiệm chị có thể nói rằng, trong khoảnh khắc đó, em chắc chắn sẽ tìm được những từ ngữ phù hợp để nói với bố.”

    Amelia mỉm cười. “Cảm ơn chị.”

    Người phụ nữ đáp lại bằng một nụ cười.

    Mắt họ nhìn nhau trong một giây, rồi người phụ nữ thò tay vào túi trong của áo khoác. Chị ta lấy ra một cái ví nhỏ và mở nó ra.

    “Đây nè,” chị ta nói.

    Chị ta đưa cho cô một tấm danh thiếp.

    “Chị biết em không biết chị từ đâu ra,” người phụ nữ nói, “nhưng nếu em từng gặp khó khăn, em luôn có thể gọi cho chị. Chị không hoàn hảo, chị rắc rối, và chị chia sẻ quá nhiều chuyện - nhưng là một người biết lắng nghe.”

    Amelia nhìn vào tấm danh thiếp. “Chị làm việc cho cảnh sát à?”

    “Đúng rồi,” người phụ nữ nói. “Nhưng đừng để điều đó làm em nản lòng. Chị thực sự rất tốt, chị hứa.” Chị ta lại cười. “Em không cần phải gọi chị bằng chức danh chính thức của chị đâu.”

    Amelia nhìn vào tấm danh thiếp lần thứ hai.

    Nhìn vào tên của người phụ nữ.

    “Em chỉ cần gọi chị là Makayla là được rồi,” người phụ nữ nói.

    HẾT CHƯƠNG NƠI ẨN NÁU​
     
    machine thích bài này.
  9. vinaguy

    vinaguy Lớp 11



    22

    Tôi chờ Zoe Simmons tại một quán rượu ở Covent Garden.

    Mặt trời chiếu xuống làm không khí trở nên đặc quánh, khó chịu – thành phố bị ngột ngạt bởi sức nóng và khói xe – nhưng tôi cũng tìm được một cái bàn phía trước, dưới bóng râm.

    Vừa ngồi xuống, điện thoại tôi bắt đầu rung. Là Ewan Tasker. Tôi đã gọi cho anh ấy sau khi rời phòng trưng bày, gửi cho anh ấy bức ảnh của Audrey Calvert và nhờ anh ấy liên hệ với Tổ chức chuyên Xử lý các Vụ Người Mất tích. Đó là cơ quan chính của Vương quốc Anh tiếp nhận tất cả các thi thể và hài cốt chưa xác định danh tính.

    “Tôi hy vọng tôi được trả lương làm thêm giờ cho việc này,” anh nói khi tôi trả lời.

    “Bữa cơm trưa hôm qua vẫn chưa đủ à?”

    “Còn lâu mới đủ. Dù sao thì, chúng ta sẽ giải quyết món nợ của cậu sau.” Anh ngừng lại một lúc, và tôi nghe thấy tiếng lật giấy sột soạt. “Được rồi, phòng khi thiếu sót, tôi đã kiểm tra lại một lần nữa nhưng, như cậu đã nói, không có báo cáo mất tích nào được đệ trình cho Audrey Calvert cả. Tôi đã tìm hiểu thêm và địa chỉ cuối cùng của bà ấy trong hệ thống vẫn là căn hộ mà cậu đã đến, thuộc sở hữu của Stanley Gray. Bà ấy không có xe – chiếc cuối cùng của bà ấy, Fiat 500, bà đã bán vào tháng 2 năm 2020 – và hồ sơ của bà ấy sạch sẽ kể từ vụ tai nạn. Trước đó cũng rất sạch. Về cơ bản, không có bất kỳ dấu hiệu bất thường nào về bà ấy.”

    “Tất cả đều hợp lý. Vậy anh tìm thấy gì ở Tổ chức chuyên Xử lý các Vụ Người Mất tích?”

    “Tôi đã nói chuyện với người quen ở đó và gửi anh ấy bức ảnh của Calvert mà cậu đã nhắn cho tôi. Anh ấy nhập thông tin cá nhân của bà ấy – hoặc nhiều như chúng ta biết – và mô tả ngoại hình vào hệ thống.” Tasker dừng lại. “Chúng ta có thể có manh mối.”

    “Anh có phát hiện ra gì à?”

    “Có thể. Cậu biết Công viên Ruskin ở đâu không?”

    “Có, phía nam London.”

    Chỉ cách căn hộ ở Streatham khoảng bốn dặm.

    “Có một loạt các mái vòm đường sắt ở đó, ngay góc tây bắc của công viên. Thi thể thường hay được tìm thấy ở khu vực này. Có rất nhiều doanh nghiệp bị bỏ hoang dưới những mái vòm kia, và người vô gia cư thường vào đó để ngủ.”

    “Một xác chết được tìm thấy ở đó à?”

    “Ừ.”

    “Khi nào?”

    “Gần hai năm trước: cuối tháng 7 năm 2020.”

    Một tháng rưỡi sau khi Audrey bỏ Stanley Gray ra đi.

    “Rõ ràng là thế,” Tasker nói, “tôi phải lưu ý rằng có thể không phải là bà ấy – đặc biệt là vì thi thể không còn nguyên vẹn. Tôi đã tra cứu cho cậu, và tuần đó ở London nóng như thiêu như đốt.”

    Nhiệt độ đã làm tăng tốc quá trình phân hủy. Thi thể sẽ bị phân hủy nhanh chóng và trương phềnh lên, sau đó bị nổ tung. “Có còn lại nhiều không?”

    “Cũng đủ,” Tasker trả lời. “Tôi sẽ gửi cho cậu bức ảnh ngay đây. Tóc của cô ấy đã bắt đầu rớt rụng ra, nhưng vẫn còn nhiều: chắc chắn là tóc nhuộm màu vàng, và chắc chắn có gốc đen như Calvert. Mắt cũng vậy – màu xanh xám, cùng hình dạng. Ý tôi là, chỉ có một bức ảnh để so sánh, nhưng chúng rất giống nhau. Thêm vào đó, thi thể có cùng kích thước, cùng trọng lượng – hoặc ước tính là như vậy, vì rõ ràng là thi thể đã bắt đầu dẹt ra do phân hủy – nên đó là một sự trùng khớp tiềm năng. Và cô ấy cũng ở khoảng tuổi của Calvert – cuối năm mươi, đầu sáu mươi.”

    “Có dấu hiệu nhận dạng nào trên cơ thể không?”

    “Ừ...” Tôi nghe thấy Tasker đang lật dở giấy tờ. “Tôi đoán cậu đang nghĩ về hình xăm.”

    “Trên tay cô ấy, đúng thế.”

    Một khoảng lặng trôi qua và rồi: “Ừ, nó ở đó.”

    Tim tôi chùng xuống.

    Tôi mở bức ảnh của Audrey Calvert trên máy tính xách tay. Tôi nghiên cứu khuôn mặt bà ấy, mái tóc nhuộm vàng, đôi mắt xanh xám, và hình xăm ở phần trên của cánh tay phải.

    Hai tên đầu của con trai bà ấy. Michael Christopher.

    “Phía trên cánh tay phải?” Tôi xác nhận.

    “Đúng rồi, cánh tay phải.”

    “Hai dòng chữ? Hai cái tên?”

    “Hơi khó nói,” Tasker nói, “vì bức ảnh chụp hiện trường của Tổ chức chuyên Xử lý các Vụ Người Mất tích cho thấy cô ấy đang nằm nghiêng về phía đó. Nhưng chắc chắn có một hình xăm ở đó. Trong cuộc khám nghiệm tử thi, trước khi việc này được chuyển cho Tổ chức chuyên Xử lý các Vụ Người Mất tích, nhà nghiên cứu pháp y mô tả nó là ‘một câu trích dẫn hoặc một cái tên,’ mặc dù da đã bị hư hỏng – nhưng nghe có vẻ chúng ta đang đi đúng hướng.”

    “Có gì khác để xác định danh tính bà ấy không?”

    “Không có giấy tờ tùy thân, không có điện thoại.”

    “Bà ấy để lại cả hai thứ đó ở căn hộ.”

    “Vậy là điều đó có thể giải thích được. Nạn nhân có một chiếc vòng tay trên cổ tay trái. Màu xanh lá và xanh dương, dạng dây bện. Giống như một chiếc vòng tình bạn.”

    Tôi lại nhìn Audrey, phóng to những gì tôi có thể thấy ở cổ tay trái của bà ấy, các ngón tay đan vào nhau trong lòng. Nó đó kìa. Một chiếc vòng tay bện màu xanh lá và xanh dương.

    “Chết tiệt,” tôi lẩm bẩm.

    “Bà ấy có đeo một trong những thứ đó à?”

    “Có, bà ấy có.”

    Hồ sơ nha khoa sẽ là cách chắc chắn để xác nhận liệu thi thể đó có phải là Audrey Calvert hay không, ngoại trừ việc Audrey chưa bao giờ được báo mất tích nên Tổ chức chuyên Xử lý các Vụ Người Mất tích chưa bao giờ có thể bắt đầu quá trình lập hồ sơ nha khoa. Điều đó có nghĩa là phải bắt đầu từ đầu, tính từ bây giờ, điều này sẽ không nhanh chóng được. Nhưng, ngay cả khi không có hồ sơ nha khoa, những điểm tương đồng cũng rất thuyết phục rồi.

    Nghe thấy sự im lặng của tôi, Tasker nhận ra. “Cậu đang nghĩ về hồ sơ nha khoa phải không đấy?”

    “Đúng thế, tôi đang nghĩ vậy. Tuy nhiên, tôi không muốn đưa anh vào thế khó.”

    “Tôi có thể giữ mọi thứ trong vòng bí mật, nên về mặt đó thì ổn thôi. Nhưng lấy hồ sơ nha khoa của bà ấy rồi so sánh với thi thể trong những mái vòm đường sắt – tôi đoán cậu đã biết rằng việc này sẽ không nhanh được đâu. Ba hoặc bốn ngày là đã nhanh nhất rồi. Có thể một tuần. Khả năng cao là hai tuần hoặc hơn nữa cơ.”

    “Cứ anh làm được là tốt rồi, anh Task ạ.”

    “Được rồi, để tôi lo liệu việc này cho.”

    “Tôi thực sự cảm kích lắm đấy.”

    “Cậu muốn biết cô ấy chết như thế nào không?”

    Tôi đã biết câu trả lời từ cách anh ấy nêu câu hỏi. “Có phải là chơi ma túy quá liều không?”

    “Đúng vậy.”

    Tôi nghe thấy tiếng loạt soạt lật giở nhiều trang giấy.

    “Họ tìm thấy dụng cụ chơi ma túy bên cạnh cô ấy: dụng cụ dùng để hít, một cái bật lửa, một cái kim tiêm. Kim tiêm có dấu vết của heroin.”

    Tôi nhìn lại Audrey, khuôn mặt bà ấy, nụ cười của bà ấy, chiếc vòng tay và hình xăm tên con trai bà ấy trên tay, rồi tra Google Michael Calvert.

    Không dùng mạng xã hội. Không tìm được gì trên mạng về anh ta cả.

    “Anh có ở bàn làm việc đấy không, anh Task?”

    “Tôi đang ngồi ở bàn làm việc đây.”

    “Anh có thể tra dùm tôi một cái tên được không?”

    Khi tôi nghe Tasker di chuyển giữa các phòng, tôi nhìn quanh để xem có dấu hiệu gì của Zoe Simmons không. Cô ấy đã nói cô ấy sẽ gặp tôi lúc bốn giờ rưỡi.

    Tôi xem đồng hồ.

    Đã bốn giờ bốn mươi.

    “Tên gì?” Tasker hỏi tôi.

    “Michael Christopher Calvert.”

    Tôi nghe thấy Tasker gõ phím. “Michael Calvert. Tên đệm của anh ta không được liệt kê ở đây, nhưng ngày sinh của anh ta là ngày 3 tháng 9 năm 1992. Theo như tôi thấy thì hồ sơ sạch sẽ. Thậm chí cả biên bản phạt tốc độ cũng không thấy luôn.”

    “Có địa chỉ nào đó không?”

    “Có, đó là số 14 Havant Gardens. Ở Camberwell.”

    Đó cũng chính là địa chỉ Stanley Gray đã cho tôi.

    “Anh có bức ảnh nào có thể gửi cho tôi được không?”

    “Chắc chắn rồi,” Tasker nói. “Tôi có một bức từ bằng lái của anh ta. Lát nữa tôi sẽ gửi cho cậu cùng với bức ảnh của thi thể trong các mái vòm.”

    Tôi cảm ơn Tasker và, khi cuộc gọi kết thúc, tôi kiểm tra tin nhắn.

    Không có gì từ Zoe Simmons.

    Tôi nhắn tin cho cô ấy nhưng không có phản hồi, nên vào ứng dụng Tube trên điện thoại để xem có lý do chính nào gây chậm trễ trên tuyến đường cô ấy đi không.

    Không có.

    Các chuyến tàu đều thông suốt.

    Vậy cô ấy đang ở nơi khỉ ho cò gáy nào nhỉ?

    Thời gian trôi qua mà không thấy cô ấy đâu. Sau bốn mươi lăm phút, tôi nhắn tin cho cô ấy lần nữa, nhưng – như trước – không có phản hồi gì. Tôi cố gắng tìm hiểu lý do tại sao cô ấy có thể không đến rồi nhìn ra ngoài đám đông.

    Đó là khi tôi nhìn thấy một người đang nhìn tôi.

    HẾT CHƯƠNG 22​
     
    Chỉnh sửa cuối: 6/6/24
  10. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    23

    Quán rượu nằm ở phía tây của khu chợ, đối diện Nhà thờ St Paul, và người đàn ông đứng trong bóng tối của hiên nhà thờ, nửa mình bị che khuất giữa các cột. Ngay khi ánh mắt của chúng tôi chạm nhau, hắn lùi sâu hơn sau chiếc cột đầu tiên, chỉ để lộ ra một cánh tay.

    Sau đó, hắn không thò ra nữa, không để lộ mặt và càng lâu thì tôi lại càng không chắc chắn.

    Liệu có phải hắn đang nhìn tôi hay không nhỉ?

    Một đám học sinh lóc chóc người Tây Ban Nha bắt đầu tụ tập giữa chúng tôi, tất cả đều đeo balo giống nhau, người dẫn đầu – hét lớn chỉ dẫn – cố gắng sắp xếp chúng vào hàng ngũ. Những cây cột của nhà thờ hiện ra rồi biến mất sau đám trẻ, khiến người đàn ông bây giờ càng khó nhìn thấy hơn, và rồi tôi cảm thấy điện thoại rung lần nữa trong túi.

    Tôi lấy điện thoại ra, hy vọng là Zoe Simmons.

    Nhưng không phải. Tasker đã gửi email cho tôi những bức ảnh của Michael Calvert và thi thể trong các mái vòm. Khi mở hộp thư đến, tôi liếc nhìn về phía người đàn ông một lần nữa. Bây giờ tôi không còn thấy hắn nữa, không phải vì khách du lịch đang che khuất – họ đã bắt đầu di chuyển, đi thành một hàng về phía khu chợ – mà vì hắn không còn ở đó nữa.

    Tôi chờ đợi, đề phòng, mắt dán chặt vào những cây cột, kiểm tra kỹ càng dấu hiệu của người đàn ông đó – nhưng hắn chắc chắn đã biến mất. Khi tôi đã chắc chắn điều đó, tôi chuyển sang tin nhắn từ Tasker và nhấp vào tệp đính kèm đầu tiên. Đó là một tệp ảnh có đuôi mở rộng là .png.

    Bức ảnh của thi thể có chất lượng khá tốt, cho phép tôi phóng to và di chuyển xung quanh, vì ánh sáng trong mái vòm đường sắt khá mờ, nên tôi phải tăng độ sáng trên điện thoại. Người phụ nữ nằm nghiêng bên phải, trong góc, một chiếc kim tiêm gần đó. Một chiếc giày của cô ấy đã rơi ra. Tất cả những điều khác mà Tasker đã đề cập tôi đều thấy đúng: cô ấy có tóc nhuộm vàng, gốc đen, mắt – một mắt mở – khớp với mắt của Audrey Calvert. Cô ấy đã bị dẹt đi trong quá trình phân hủy, lộ ra các xương sườn, nhưng thông qua hông, chân và độ rộng vai, có thể nhận ra kích thước cơ thể của cô ấy trước khi chết, và nó rất giống với Calvert. Tôi có thể thấy chiếc vòng trên cổ tay cô ấy, và mặc dù hình xăm, như Tasker đã nói, bị che một phần – một phần nằm dưới người cô ấy – nó trông giống như mô tả của bác sỹ pháp y: một câu trích dẫn hoặc một cái tên.

    Hoặc hai cái tên.

    Tôi phóng to. Vẫn mờ, nhưng nó rất phù hợp với thiết kế hình xăm mà Audrey Calvert đã xăm trên tay. Và mặc dù có thể không phải là bà ấy trong bức ảnh, nhưng cũng rất có thể là bà ấy.

    Tôi đóng tệp đính kèm này và mở tệp tiếp theo, và hình ảnh của Michael Calvert hiện ra trên màn hình. Đó là bức ảnh từ bằng lái xe của anh ta.

    Anh ta không giống Audrey chút nào. Mẹ anh ta có mắt màu xanh xám và tóc đen dưới lớp nhuộm vàng; Michael có mắt màu xanh lá và tóc nâu vàng. Tôi nhìn tuổi của anh ta: hai mươi chín; bằng lái được cấp khi hai mươi bốn.

    Tôi đóng email và vào bản đồ trên điện thoại, rồi nhập địa chỉ của Michael mà tôi có. Đó là một ngõ cụt nhỏ ở gần Denmark Hill, giữa những ngôi nhà và căn hộ liên kế. Tôi phóng to và thấy rằng nhà của Calvert ở cuối cùng. Nó quay lưng lại một dãy nhà để xe công cộng.

    Tôi đóng bản đồ và xem lại giờ.

    Bây giờ đã năm rưỡi và có vẻ như rõ ràng Zoe Simmons không đến. Cô ấy đã trễ một tiếng.

    Tôi đứng lên, suy nghĩ về những bước tiếp theo của mình.

    Và đó là khi tôi thấy hắn ta một lần nữa.

    Hắn đã di chuyển qua đường, đến lối vào khu chợ. Hắn mặc quần soóc may đo và áo phông trắng trơn, đội một chiếc mũ bóng chày đỏ che mắt, tạo ra bóng đổ trên khuôn mặt.

    Nhưng đó là hắn ta.

    Và, mặc dù tôi chỉ thấy một phần khuôn mặt, tôi biết hắn ta đang nhìn thẳng vào tôi. Hình dáng cơ thể là một dấu hiệu rõ ràng.

    Tôi bắt đầu đi về phía hắn ta và hắn ta lập tức khựng lại.

    Quay gót, hắn ta biến mất vào bên trong khu chợ.

    Tôi bám theo sau hắn.

    HẾT CHƯƠNG 23​
     
  11. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    24

    Trong chốc lát tôi mất dấu hắn ta trong đám đông.

    Tôi nhìn về phía trước, cố gắng tìm ra hắn. Sảnh giữa chợ chật ních, các lối đi bày đầy hàng; quán cà phê ở giữa chợ cũng đông luôn, ranh giới được đánh dấu là các bức tường bằng cao su dẻo trong suốt.

    Hắn đi đâu rồi?

    Tôi tiến lên, mắt đảo khắp nơi. Có quá nhiều lối đi để hắn ta sử dụng, quá nhiều cách để biến mất khỏi tầm mắt tôi. Khi tôi luồn lách qua các nhóm du khách, buộc phải giảm tốc độ, tôi tự hỏi liệu mình có quá trễ không. Có thể hắn ta đã sử dụng một trong những hành lang nhỏ nối với sảnh chợ. Có lẽ hắn ta đã quay lại và trở về theo lộ trình tôi vừa đến.

    Nhưng rồi tôi nhìn thấy hắn.

    Hắn ta thoáng qua rồi biến mất – nhưng tôi đã thấy chiếc mũ đỏ hướng về Quảng trường phía Đông, ra phía bên kia, hướng về đường Russell. Tăng tốc độ, tôi băng qua sảnh chợ để nếu hắn ta nhìn lại, hắn sẽ không thấy tôi ở chỗ mà hắn dự đoán.

    Tôi thấy hắn quay nhìn, khuôn mặt vẫn bị che bởi chiếc mũ bóng chày. Tôi vẫn không thấy đủ rõ để nhận diện hắn nhưng tôi có thể thấy sự hoảng loạn trong các động tác của hắn. Hắn ta không biết tôi đang ở đâu. Hắn ta không biết liệu hắn đã thoát khỏi tôi hay tôi khôn ngoan hơn. Tôi vòng qua một gia đình đang chụp ảnh cho nhau và rồi quay ra bên ngoài chợ, cạnh các cột bên lối vào phía đông – nóng, mặt trời chiếu vào mắt tôi.

    Chiếc mũ đỏ của hắn ta lóe lên rồi biến mất ở rìa tầm nhìn của tôi và tôi tập trung vào hắn. Tôi đã nghĩ rằng hắn sẽ đi dọc theo đường Russell – nơi yên tĩnh hơn và dễ dàng tăng tốc độ hơn – nhưng hắn lại đi về phía nam, qua Bảo tàng Vận tải. Tôi không biết liệu hắn có mục đích gì cụ thể hay chỉ đơn giản là đang cố gắng thoát khỏi tôi trong đám du khách. Một điều tôi biết chắc rằng chiếc mũ đỏ là một ý tưởng tồi: nó có thể che mặt hắn nhưng lại khiến hắn dễ bị nhận ra hơn. Hắn cách tôi khoảng 80 feet và nơi này đang rất đông đúc – nhưng vì hắn cao và nhờ chiếc mũ đỏ nên dễ dàng để theo dõi hắn.

    Tôi thấy hắn liếc nhìn lại hướng tôi nhưng bây giờ hắn không thấy tôi. Có quá nhiều người cản đường. Tôi tiếp tục đi ở rìa sảnh chợ và rồi theo dõi hắn từ xa, đi xuống hướng Strand. Rõ ràng bây giờ hắn chỉ cố gắng thoát khỏi tôi trong đám đông vì hắn đã gần như quay lại và đang hướng về ga tàu điện ngầm Charing Cross.

    Tôi lại giữ khoảng cách, cẩn thận không đến quá gần rồi theo dõi hắn xuống các bậc thang vào ga ngầm. Hắn ta đi thẳng đến tuyến Bakerloo. Tôi không lo lắng lắm về việc hắn tạm thời biến mất khỏi tầm nhìn ở đây vì chỉ có hai cách để đi – hướng bắc hoặc hướng nam.

    Hắn ta đi tới sân ga về hướng bắc.

    Tôi đợi ngoài phòng chờ cho đến khi tàu vào ga, không muốn hắn thấy tôi trên sân ga, rồi nhanh chóng di chuyển khi các toa tàu dừng lại. Hắn ở phía xa nhất của sân ga – như thể hắn sắp nhảy qua rào chắn và xuống đường ray. Hắn ta móc điện thoại từ túi quần và cúi đầu, quay người đi khỏi tôi.

    Ngay khi hắn lên tàu, tôi nhanh chóng đi dọc sân ga và lên toa tiếp theo.

    Tôi đến cuối toa, cạnh sát toa mà hắn đang ngồi và nhìn qua cửa. Hắn đang ở phía xa của toa tiếp theo, dựa vào ô cửa kính, lưng quay về phía tôi. Đầu hắn vẫn cúi vào điện thoại, ngón tay cái lướt qua màn hình, cuộn trang. Tôi cố gắng nhớ lại xem liệu tôi đã gặp hắn ở nơi nào chưa. Tôi thấy hắn có tóc đen, lưa thưa lòi ra từ dưới mũ. Hắn ta gầy, quần short lùng thùng quanh chân, áo phông không vừa, có một vết mồ hôi hình chữ V ngược từ cổ xuống giữa lưng. Tôi đứng đợi khi tàu khởi hành, hy vọng rằng hắn sẽ di chuyển – nhưng hắn vẫn đứng yên, đầu cúi vào màn hình.

    Dù vậy, tôi cảm thấy một chút quen thuộc.

    Đây là lần đầu tiên tôi có thể nhìn thấy hắn rõ ràng và – dù không có góc nhìn tốt lắm – có gì đó về hắn gợi lên một ký ức. Tôi không thể nắm bắt được, không thể mang nó ra ánh sáng nhưng tôi biết tôi đúng.

    Tôi biết hắn.

    Nhưng từ đâu?

    Tôi đổi bên để có thể nhìn hắn từ một góc khác nhưng không có sự khác biệt.

    Hắn là ai?

    Một giây sau tôi có câu trả lời.

    Tàu bắt đầu giảm tốc khi vào ga Piccadilly Circus, phanh kêu, bóng tối chuyển sang ánh sáng khi chúng tôi tiến dần vào sân ga – và khi đó, hắn quay lại và nhìn ra ngoài sân ga.

    Và cuối cùng tôi thấy hắn là ai.

    HẾT CHƯƠNG 24​
     

Chia sẻ trang này