Tuỳ bút - Biên khảo NC-17 Thi ca bình dân Việt Nam - Tòa lâu đài văn hóa dân tộc - Quyển I <Phan Canh – Nguyễn Tấn Long>

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi 4DHN, 15/7/15.

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    c. TÂM Tư CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NGOẠI VẬT:

    Từ ngàn xưa, các nhà văn bác học đều quan niệm rằng tâm hồn người bình dân hầu hết gắn liền với mây ngàn cỏ nội, ruộng lúa nương dâu. Bởi lẽ cuộc sống của họ không tách rời những cảnh vật ấy.

    Nhận xét trên không sai! Cảnh vật đối với tâm tư con người có liên hệ mật thiết. Những buồn, vui, hờn, giận, đau đớn, thích thú... trong bản năng con người không bao giờ độc lập với vũ trụ cả.

    Chính người bình dân thời xưa đã quan niệm như vậy, và họ đã nói lên tiếng nói của quan niệm họ:

    Người vui thì cảnh cũng vui,

    Người buồn cánh có vui đâu bao giờ.

    Hoặc:

    Khi vui non nước cũng vui,

    Khi buồn sáo thổi, kèn đôi cũng buồn.

    Họ đã thấy tâm tư gắn liền với ngoại vật, vì ngoại vật là tấm gương phản ảnh của tâm tư, mà cũng là nơi chứa đựng tình cảm con người. Họ đem tình cảm phủ lên cảnh vật, và gởi vào cảnh vật những tâm tư trong cuộc sống.

    Như vậy, đối với họ, cái vui buồn của ngoại vật chỉ là sản phẩm của tâm tư.

    Không, tuy họ thấy cảnh vật diễn biến theo tâm tư họ, nhưng rồi họ lại thấy tâm tư họ bị ảnh hưởng rất mạnh ở ngoại vật:

    Ngồi buồn khuấy nước giỡn trăng,

    Nước xao trăng lặn, buồn chăng hỡi buồn,

    Tâm tư con người không thể tách rời ngoại cảnh, thì cũng không thể nào độc lập được với ngoại cảnh. Nếu vũ trụ vì sự mâu thuẫn chung của tạo vật, phát sinh cảnh nắng mưa, gió bão. Thì chính tâm tư con người cũng vì mâu thuẫn chung trong cuộc sống mà diễn biến qua nhiều trạng thái của tâm tư. Tâm giới và ngoại giới đều là sản phẩm của vũ trụ. Con người không có gì cả. Con người với vũ trụ cũng chỉ là một. Hay nói cách khác, con người là một bộ phận của vũ trụ không thể đứng riêng ra ngoài qui luật thiên nhiên để tạo thành vũ trụ, trong đó có con người.

    Xưa nay người ta quan trọng hóa con người, cho tâm giới con người là một đối tượng của vũ trụ. Thành thử họ phân tích giữa tâm và vật, nhưng nếu chúng ta quan niệm con người với vũ trụ là một, thì vấn đề tâm và vật cũng chỉ là của vũ trụ, và sự diễn biến ngoài vũ trụ với sự diễn biến trong tâm tư cũng chỉ là một sợi dây chằn chịt có liên hệ mật thiết với nhau, do yếu tố mâu thuẫn chung trong qui luật sinh diệt mà thôi.

    Bởi vậy, nếu chúng ta cho cảm giới người bình dân gần gũi với cảnh vật hơn những lớp người khác thì cũng chỉ mới đứng trên quan điểm cá biệt, mà chưa đứng trên quan điểm duy nhất.

    Trên quan điểm cá biệt chúng ta thấy người bình dân Việt-nam sống về nông nghiệp, cảnh sắc của núi sông hun đúc họ có một tình cảm bao la hơn, từ cái vui, cái buồn của họ đều phảng phất qua cảnh vật, và mọi diễn biến của cảnh vật được tâm tư họ tiếp nhận làm thành cái buồn, cái vui của tâm tư họ.

    Nhưng nếu chúng ta đứng trên quan điểm duy nhất của cảm giới con người, thì chúng ta lại thấy không những chỉ có người bình dân mới đem tâm tư hòa vào cảnh vật và thu nhận những trạng thái của cảnh vật gói vào tâm tư mà tất cả mọi người không ai tránh khỏi sự liên hệ giữa tâm tư và ngoại cảnh.

    Một cô gái phòng khuê sống trong phong lưu đài các, cảm giới của họ không thể vì bốn bức tường ngăn cách thân phận họ mà tâm tư họ tách ra khỏi ngoại vật. Bởi vì, khi nói đến tổ chức xã hội loài người, chúng ta thấy có sự phân chia giai cấp, nhưng khi nói đến con người, chúng ta lại thấy nó chỉ là một. Con người của phòng khuê cũng như con người của đồng nội, trong phạm vi thiên tánh, tức là trạng thái biến động của vũ trụ, thì họ vẫn như nhau.

    Ai dám bảo cô gái phòng khuê không mang những ưu tư trước mây ngàn cỏ nội? Ai dám bảo cô gái khuê phòng không thể thu nhận ở cõi lòng mình những sắc thái của thiên nhiên! Tâm tư con người đều giống nhau trước qui luật biến động của vạn hữu, chỉ khác nhau ở lãnh vực giao cảm, nghĩa là trạng thái đúc kết của tâm tư do sinh hoạt xã hội phân hóa mà thôi.

    Bởi vậy, trong phạm vi cảm giới và ngoại giới, chúng ta không thể nào phân biệt giai cấp bình dân hay quí tộc, mà chúng ta thấy tất cả đều con người, và cùng chung một vũ trụ.

    Cái buồn của cô gái phòng khuê có thể không giống cái buồn của cô thôn nữ, cái vui của cô thôn nữ không giống cái vui của cô gái phòng khuê, nhưng tác động của tình cảm, nghĩa là sự gắn bó giữa cái vui và cái buồn của hai cô gái đối với ngoại cảnh thì vẫn như nhau. Cả hai cô đều nhận được cái vui, cái buồn từ tâm tư mình diễn biến ở ngoại cảnh, vì sự diễn biến ngoại cảnh tác động vào cái buồn cái vui trong tâm tư mình.

    Do đó từ một anh chàng nghệ sĩ, một cô gái lầu xanh, một nàng khuê phụ, một gã nông dân, cho đến các bậc vua chúa không ai tách rời được tâm tư với cảnh vật, và tất cả đều phải dùng mọi diễn biến của tâm tư, bởi vì cảnh vật và tâm tư đều là trạng thái của vũ trụ.

    Nói như thế cũng có nghĩa là không phải chỉ có người bình dân sống gần gũi với thiên nhiên mới đem tình cảm mình hòa vào thiên nhiên, gắn liền với cảnh vật những sắc thái của tâm tư, mà tất cả mọi người, dù trong từng lớp nào, cũng đem tâm tư đi tìm cảnh vật, và thu nhận những trạng thái biến động của cảnh vật làm yếu tố giao cảm của tâm tư mình.

    Đây, một nàng chinh phụ đã đem tâm tư mình giao cảm với cảnh vật trong cái buồn nhớ nhung của cô gái phòng khuê:

    Hoa đãi nguyệt, nguyệt in một tấm,

    Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,

    Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,

    Trên hoa dưới nguyệt, trong lòng xiết đau.

    (Chinh phụ ngâm)

    Như vậy, đủ thấy dù phải sống trong bốn vách tường của xã hội duy lý, người chinh phụ vẫn không bị bốn bức tường ấy làm ngăn cách giữa tâm tư và ngoại cảnh.

    Còn đối với người thôn nữ, sống giữa cõi bao la, trời mây bát ngát, trong cái buồn nhớ nhung luyến ái, tâm tư họ cũng chỉ hòa vào cảnh vật, không khác gì cô gái phòng khuê:

    Gió đưa trăng thì trăng đưa gió,

    Trăng lặn rồi, gió biết đưa ai?

    Tình cảm của cô gái phòng khuê và cô gái đồng ruộng đối với ngoại cảnh quả không khác gì nhau cả.

    Cho đến một cô gái lầu xanh, khi buồn đã đem tâm tư gieo vào cảnh vật:

    Buồn trông cửa bể chiều hôm,

    Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

    Buồn trông ngọn nước mới sa,

    Hoa trôi man mác biết là về đâu?

    Buồn trông nội cỏ rầu rầu.

    Chân mây mặt đất một mầu xanh xanh.

    Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

    Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

    (Kim Vân Kiều)

    Thì đối với cái buồn của một cô thôn nữ sông trong thửa ruộng nương dâu, vẫn không khác mấy:

    Đêm quề ra đứng bờ ao,

    Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ.

    Buồn trông con nhện giăng tơ.

    Nhện ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai?

    Buôn trông chênh chếch sao mai,

    Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?

    Đêm đêm tưởng dãi ngân hà.

    Chuôi sao tinh đẩu đã ba năm tròn.

    Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,

    Tào-khê nước chảy hãy còn trơ trơ…!

    Đã không một bầu tâm tư nào không chứa đựng cảnh vật, thì cũng không có cảnh vật nào thoát ra ngoài tâm tư. Diễn biến của cảnh vật và tâm tư vẫn là diễn biến chung của vạn hữu.

    Tuy nhiên, nếu chúng ta thừa nhận trạng thái diễn biến vạn hữu là trạng thái cố định, thì chúng ta lại cũng phải thừa nhận tính chất đổi thay của vạn hữu qua thời gian và không gian.

    Tâm tư con người cũng vậy. Sự diễn biến của tâm tư và cảnh vật tuy cố định, nghĩa là bất kỳ thời gian và không gian nào, tâm tư con người cũng không thể nào tách rời cảnh vật, nhưng trong cái không thể tách rời ấy lại có chỗ khác nhau, qua thời gian, không gian, và qua sự biến thiên của mọi chế độ xã hội.

    Như vậy có nghĩa là con người không khác nhau trong lãnh vực duy nhất của vũ trụ, và không giống nhau trong lãnh vực biến dịch. Tính chất vũ trụ đối với con người là tính chất nhất thể, còn tính chất biến dịch đối với vạn hữu là tính chất đa thể, lệ thuộc vào cá biệt.

    Buồn vui là trạng thái của tâm tư, dù cho người ngàn xưa, hay người của muôn nghìn thế hệ về sau vẫn không thay đổi. Tiền nhân chúng ta đi có buồn, có vui, và chúng ta ngày nay cũng có buồn, có vui. Trạng thái tâm tư có khác gì đâu?

    Tiền nhân chúng ta da đem cái buồn vui ấy gởi gắm vào cảnh vật, và thu nhận ở cảnh vật những diễn biến làm tình cảm cho tâm tư, thì ngày nay chúng ta cùng đem những buồn vui của chúng ta trao đổi với ngoại cảnh. Cũng chẳng có gì khác nữa.

    Nhưng cái khác biệt của tiền nhân đối với chúng ta là tính chất của cái buồn, cái vui ấy.

    Tính chất của cái buồn, cái vui giữa tiền nhân và chúng ta không thể giống nhau được. Đó chính là yếu tố biến dịch của thời gian và không gian. Cho nên khi chúng ta đem con người trở về với con người thì mọi người đều giống nhau, và khi chúng ta đem con người trở về với cuộc sống thì mọi cái lại khác nhau.

    Ở đây chúng ta không đi tìm con người trong tính chất vũ trụ mà đi tìm con người trong tính chất biến dịch. Chúng tôi muốn nói đến cuộc sống bình dân, nên chúng ta lại phải cứu xét đến tính chất của tâm tư họ khi đã bị hòa vào cuộc sống.

    Cuộc sống chi phối tình cảm con người, và gieo vào cảm giới con người một tính chất riêng rẽ, mà chúng ta gọi là tâm trạng.

    Người bình dân đem tâm trạng hòa với ngoại vật, tìm ở ngoại vật những buồn vui đang phát khởi trong lòng họ, và coi ngoại vật cũng chính là lòng họ.

    Quan niệm ngoại vật, nội tâm đồng nhất như vậy, chính người bình dân đã gần với lẽ sống thiên nhiên.

    Đấy, chúng ta thử tìm vào cảm giới của họ khi đứng trước thiên nhiên:

    Chim bay về núi tối rồi,

    Không cây nó đậu, không mồi nó ăn!

    Một cảnh chim lạc loài trong hoàng hôn tận cuối trời đã làm cho họ nghĩ đến cảnh cô đơn, đói khát vi không nơi nương tựa. Họ cảm thấy thân phận con chim cũng như thân phận con người, và tất cả mnôn loài trong vũ trụ đều chịu chung số phận như nhau. Sự thương xót bản thân đi đến sự thương xót ngoại vật, vì cảm giác của họ là cảm giác bình đẳng trước cuộc sống.

    Không những họ mang ý thức bình đẳng giữa con người và con người, mà tính chất bình đẳng của họ còn bao trùm cả muôn loài vạn vật nữa. Cho nên cảm nghĩ họ khi hòa vào ngoại vật đã vượt quá giới hạn con người.

    Bởi vậy, lúc nào họ cũng nhân cách hóa ngoại vật như:

    Cá lý ngư sầu tư biếng lội,

    Con chim trên cành sầu cội biếng bay!

    Nhân cách hóa sự vật không với mục đích bắt sự vật phục vụ cho cảm giới con người, mà để diễn tả tính chất độc lập, bình đẳng của ngoại vật.

    Khác với tính chất bình dân, các nhà văn bác học trong giai cấp quí tộc cũng nhân cách hóa sự vật, nhưng họ nhân cách hóa không phải với tinh thần bình đẳng, độc lập trước cuộc sống, mà họ nhân cách hóa với dụng ý để phục vụ cảm giới cá nhân họ.

    Ví dụ khi cần diễn tả một sắc đẹp tuyệt mỹ của nàng Phi-Tần, Ôn-như Hầu đã mượn chim cá để nói lên:

    Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn,

    Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa!

    Chim sa cá lặn vì nhìn thấy sắc đẹp của nàng Phi-Tần, vậy cảm giác của tác giả đối với ngoại vật chỉ là gán ép và điều khiển. Con cá, con chim với tác giả cũng là loại cá chim phong lưu và không sống được ngoài vòng phong tỏa của ý thức con người.

    Nguyễn-Du, tác giả truyện Kiều đối với ngoại vật cũng thế. Ngoại vật chỉ xoay quanh cảm giới con người để phục vụ cho lẽ sống con nguời.

    Khi tả sắc đẹp của nàng Kiều, ông viết:

    Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh?

    Sự ghen của hoa, của liễu là chỉ để phục vụ cho sắc đẹp càng Kiều mà thôi.

    Đối với người bình dân ngoại vật không cần phải phục vụ cho cảm giới con người, mặc dù vẫn được họ nhân cách hóa:

    Chú mèo trèo lên cây cau,

    Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà.

    Chú chuột đi chợ đàng xa,

    Mua mắm mua muối, giỗ cha chú mèo.

    Mèo chuột vẫn sống tự do, vẫn bình đẳng và độc lập với cuộc sống loài người, không bị sự bắt buộc hiện diện của nó để phục vụ cho mục đích nào trong cảm giác con người cả.

    Sự sống con người càng phức tạp, tâm tư chiếm đoạt của con người càng gay gắt thì cảm giới con người càng đi lần vào chỗ độc tài, ý thức con người đi lần đến chỗ ngự trị ngoại vật. Bởi vậy tâm tư của chúng ta ngày nay nếu nói đến ngoại vật thì đó chỉ là ý thức bắt buộc ngoại vật phục vụ cho cảm giới chúng ta mà thôi.

    Nếu chúng ta được nghe một thi nhân tả mùa thu:

    Con nai vàng ngơ ngác,

    Đạp trên lá vàng khô.

    (LTL)

    Thì con nai vàng và chiếc lá khô kia chính là sở hữu trong cảm giới mà tác giả bắt buộc nó phục vụ cho hình ảnh của mùa thu.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/1/16
    Ban Tang Du Tử and teacher.anh like this.
  2. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Người bình dân trái lại không dùng tính chất bắt buộc ấy đặt ngoại vật độc lập với cảm giới.

    Chiều chiều vịt lội cò bay,

    Con voi bẻ mía chạy ngay vô rừng.

    Con vịt, con cò, con voi, cây mía xuất hiện trong cảm giới họ không chịu sự điều khiển ý thức của họ, mà chỉ hoạt động theo hệ thống thiên nhiên, cũng như họ đi cắt cỏ, gánh phân... thế thôi. Cảm nghĩ của họ đối với ngoại vật là độc lập, bình đẳng và tương quan. Cho nên, chúng ta không lấy làm lạ khi trong ca dao bình dân đầy dẫy những câu hát, như:

    Cái cò là cái cò con,

    Mẹ đi xúc tép để con ở nhà.

    Mẹ đi một quãng đường xa,

    Mẹ sa chân xuống phải mà anh lươn.

    Ông kia có cái thuyền nan,

    Chỉ vào ao rậm xem lươn bắt cò,

    Ông kia chống gậy lò cò,

    Con lươn tụt xuống, con bay lên.

    Chúng ta đừng tưởng những bài hát như thế đối với họ không có ý nghĩa. Tâm tư chúng ta ngày nay bị thời gian đúc kết do không biết bao nhiêu phức tạp của cuộc sống, khiến chúng ta không còn giữ được bản chất hồn nhiên nữa, thì làm sao thu nhận và hòa hợp nổi cảm giới của người xưa?

    Ngày nay mỗi ý nghĩ, mỗi cảm giác chúng ta khi hòa vào ngoại vật, nếu không rên rỉ kêu than thì cũng bắt ép hình bóng của ngoại vật phải phụng sự cho cuộc sống tinh thần của chúng ta. Đó là kết quả của một chuỗi thời gian mà loài người đã dùng lý trí đưa xã hội loài người trải qua những cuộc chém giết, xâu xé đến tận cùng.

    Tâm tư người xưa không phải như tâm tư của chúng ta. Họ không biết lợi dụng, họ không bắt những cánh én phải dệt cho họ những mùa xuân để họ thưởng thức. Họ không bắt rặng liễu phải rủ tóc buồn đứng chịu tang để tô điểm một mùa thu trong cảm giới của một thi nhân. Họ không bắt mặt nước hồ thu phải cau mày lại để diễn tả cái giận dữ của một cô gái đẹp khi họ thích. Họ không lấy màu sắc đậm đà trên đỉnh núi mùa xuân để diễn tả bộ ngực đẹp của giai nhân mà các nhà thơ ca tụng... Không, hình ảnh ngoại vật đi vào tình cảm của họ không bị lợi dụng, không bị nô lệ cho cảm giác họ, không bị bắt ép phục vụ cho tham vọng họ của một tâm hồn. Tính chất người bình dân không muốn lợi dụng ai, không muốn bắt ai nô lệ cho mình, nên họ cũng không thể nào bắt hình bóng ngoại vật phải phụng sự cho tham vọng cảm giác họ được. Họ xem sự sống của ngoại vật cùng độc lập và bình đẳng như sự sống của họ.

    Trạng thái ấy đã biểu lộ rõ rệt qua các câu hát hồn nhiên và vô tư như:

    Con mèo con chó lông.

    Cây tre có mắc, nồi đồng có quai!

    Chúng ta cho là vô lý, thiếu ý nghĩa! phải! Nó vô lý đối với chúng ta, bởi vì chúng ta đòi hỏi ngoại vật lúc nào cũng phục vụ cho cảm giới chúng ta cả, nếu nó tách rời nhiệm vụ ấy thì trở thành vô lý, thiếu ý nghĩa. Tuy nhiên, ý nghĩa của người bình dân thời xưa sống trong tâm tư hồn nhiên, không đem tình cảm chinh phục ngoại cảnh, thì đối với họ không là vô lý!

    Mà, tại sao vô lý? Tại sao chúng ta lại bắt họ phải tưởng tượng con mèo con chó không có lông? Hoặc, chúng ta bắt họ tưởng tượng lông con mèo con chó bóng láng và óng ả như những giọt sương đọng trên suối tóc giai nhân? Không, tâm hồn người bình dân không như tâm hồn của chúng ta ngày nay. Họ cũng muốn ngoại vật được sống độc lập, tự do như tâm hồn của họ, không bị áp chế và lợi dụng.

    Khi mà tâm hồn của họ đối với cuộc sống còn hồn nhiên, chất phác như:

    Rủ nhau xuống biển bắt cua,

    Lên non bắn nhạn, lên chùa nghe kinh.

    Thì cảm giới của họ đối với ngoại vật cũng phải hồn nhiên và chất phác như:

    Ngó lên đám bắp trổ cờ,

    Đám dưa trổ nụ, đám cà trổ bông.

    Hoặc:

    Chiều chiều én liệng trên trời

    Rùa bò dưới đất, khỉ ngồi trên cây.

    Tâm tư hồn nhiên, chất phác của người bình dân trước ngoại vật như vậy, chúng ta tưởng không lấy gì làm lạ.

    Trong quyển “Phong tục miền Nam”, Ông Đào-văn- Hội đã nghe lời một cụ già sửa lại câu hát:

    Con mèo con chó có lông,

    Cây tre có mắc, nồi đồng có quai.

    Chúng tôi xin trích lại đoạn ấy:

    “Đây, tôi xin mở dấu ngoặc, và nhắc lại câu ta thường nghe hát:

    Con mèo con chó có lông,

    Ống tre có mắc, nồi đồng có quai.

    Thật hiển nhiên quá! Có gì lạ đâu! Nhưng một cụ già mà chúng tôi được hầu chuyện cho biết rằng câu ấy truyền tụng sai, chính ra phải như sau mới đúng:

    Con gà con vịt cũng không.

    Bóng tre có mát, ngoài đồng không ai.

    Ấy là cảnh đồng buổi trưa vắng vẻ nông phu đã về nhà, gà vịt tìm nơi tránh nắng. chỉ có khóm tre bóng mát, giữa cánh đồng rộng rãi bao la...”.

    Thật ra chúng tôi không đồng ý với sự sửa chữa bằng cách suy nghiệm như vậy. Nếu bảo câu hát “con mèo con chuột có lông” là vô lý, không có gì lạ, thì những câu như:

    Ngó tên đám bắp trổ cờ,

    Đám dưa trổ nụ, đám cà trổ bông.

    Hoặc:

    Chiều chiều én liệng trên trời,

    Rùa bò dưới đất, khỉ ngồi trên cây.

    Lại có gì lạ, hoặc hữu lý đâu! Chúng tôi tưởng cái lạ, cái hữu lý chính là trạng thái tâm hồn của người xưa, trạng thái tâm hồn khác biệt với trạng thái tâm hồn chúng ta ngày nay. Cho nên những vết tích tâm tư, lưu lại với thời gian, chúng tôi thiết tưởng không nên cố gắng tìm hiểu hơn là thay đổi.

    Vì tâm tư người bình dân thời xưa mang tính chất hồn nhiên, vô tư, phản ánh ngoại vật, cho nên ngoại vật cũng hồn nhiên, vô tư như tâm trạng họ. Cũng chính vì thế mà tâm giới họ đã đưa ngoại vật hòa hợp vào cuộc sống thực tiễn của họ đến nỗi chúng ta thấy tâm giới và ngoại canh hình như muốn lẫn lộn cùng một sinh hoạt xã hội.

    Trạng thái ấy biểu lộ rất rõ rệt qua những bài hát sau đây:

    Cái cò chết tối hôm qua,

    Có hai hạt gạo với ba đồng tiền.

    Một đồng mua trống mua kèn,

    Một đồng mua mỡ đốt đèn thờ vong.

    Một đồng mua mớ rau rong,

    Đem về thái nhỏ thờ vong con cò.

    Tâm tư họ hòa vào ngoại vật đưa sức sống của ngoại vật vào cảm giới con người với tính chất tương đồng, không riêng rẽ. Nếu họ có những đau buồn, băn khoăn, mến tiếc trước cái chết của người thân, thì họ cảm thấy ngoại vật cũng biết đau buồn, mến tiếc trước cái mắt mắt ấy.

    Bởi vậy, tình cảm họ bàng bạc trước mọi sinh vật, như:

    Cái cò đi đón cơn mưa,

    Tối tăm mù mịt ai đưa cò về!

    Cò về thăm gốc cây đa

    Giương cung anh bắn cò về làm chi?

    Cò về thăm bác thăm dì,

    Thăm tổ xứ Bắc, thăm dì xứ Đông.

    Tình cảm đối với ngoại vật cũng như tình cảm con người và con người. Nhưng giữa con người về con con người có những mâu thuẫn vì lẽ sống, còn tình cảm họ với ngoại vật chỉ chứa đựng tính chất thương yêu mà thôi.

    Ví dụ:

    Cóc chết để nhái mồ côi,

    Chẫu ngồi chẫu khóc: chàng ôi là chàng!

    Ễnh ương đánh lệnh đã vang,

    Tiền đâu mà trả nợ làng ngoé ơi!

    Từ con cóc, con nhái, con cò, con vịt... đến muốn loài vạn vật, đối với tâm tư người bình dân trước lẽ sống như bình đẳng.

    Nhưng tại sao tâm hồn họ đối với vạn vật muôn loài lại có sự bình đẳng như vậy? Dĩ nhiên đó là trạng thái thiên nhiên. Tâm tư họ chưa bị lịch sử tranh đấu của loài người làm biến chất.

    Đã sẵn có tình thương đối với muôn loài vạn vật như vậy cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi một anh nông phu dắt trâu ra đồng hát vang lên:

    Trâu ơi ta bảo trâu này,

    Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta.

    Hoặc họ đặt địa vị con trâu ngang với con người:

    Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,

    Chồng cầy vợ cấy, con trâu đi bừa.

    Nhà đạo đức học thường nói: “Muốn biết trình độ văn minh của một dân tộc cao hay thấp người ta có thể xét ngay ở cách dân tộc ấy đối đãi với loài vật.”

    Thật vậy, nếu những hành động chặt đuôi chó, cắt đuôi mèo không phải là những hành động văn minh thì chính người bình dân Việt-nam ta thời xưa cũng không đến nói man rợ.

    Đây, chúng tôi xin lược trích một vài hình ảnh đã in trên những làng quê đất Việt thuở xưa, được ông Hoa-Bằng ghi lại trong quyển “Dân tộc tính trong ca dao Việt-nam”, xuất bản tại Hà-nội năm 1952:

    “...Một cô bé độ 12,13 tuổi, chĩnh chệ ngồi trên lưng con bò mẹ dưới bóng hoàng hôn.

    Đàng xa xa, con bò con mà cô thường gọi quen nó bằng tiếng nựng nịu là “Mế” đang mải miết ăn hết đám cỏ nọ lại ngoạm đến chòm cỏ kia. Nó ăn mãi… rồi lại la cà, quên cả đường về.

    Cô bé ngồi trên lưng mẹ “Mế” cất tiếng thương yêu gọi Mế:

    Mế ơi là con bò Mế,

    Mế hương, Mế hoa,

    Mế cà, Mế rợ,

    Mề ờ ba mùa,

    Ai mua chẳng bán,

    Ai hoạn chẳng cho,

    Cắt cỏ ăn no.

    Cầy bừa cho dỡ mẹ Mế,

    Mế ơi là con bò Mế,

    Mế! Mế! Mế!

    Giọng ca lanh lảnh, rung động cả bầu không khí phẳng lặng êm đềm… người ta ngẫm nghĩ mãi về bài ca “gọi Mế” của cô mới hiểu tình thương của cô đối với con bò con. Cô cắt cỏ nuôi cho nó ăn, ai muốn mua nó cô cũng chẳng bán, ai hoạn nó cô cũng chẳng cho, cô hy vọng trong vài ba năm nữa Mế lớn lên sẽ giúp đỡ mẹ Mế trong công việc cầy bừa, khiến mẹ Mế khỏi phải một mình vất vả...

    Cùng một chiều, trên sườn đồi đi về mấy chiếc nhà tranh lẻ tẻ dưới rặng sim, những tàu lá thô sơ, nhuộm đẫm ánh tà vàng lợt, mấy cô gái thơ ngây mộc mạc ngất ngưởng trên lưng trâu, véo von hát:

    Nghé ơi là nghé!

    Nghé khôn theo mẹ,

    Nghé dại theo đàn.

    Nghé chớ ăn càn,

    Người ta đánh nghé!

    ………………………

    Một nhát đến tai

    Hai nhát đến đầu,

    Lấy tiền đâu, của đâu,

    Chuộc lấy đầu lâu

    Mang về trả mẹ Nghé!

    Đó là mấy bài ca mục đồng đầy ý nghĩa thương yêu loài vật. Đó cũng là những nét biểu hiện lòng bác ái bao la, man mác của dân tộc Việt-nam...”

    Bản chất người bình dân ngày xưa bắt nguồn từ tâm tư hồn nhiên, tạo cho cảm giới họ có một đặc tính vô tư, bình đẳng và độc lập trước cuộc sống ngoại vật. Tuy nhiên, xã hội loài người không đứng yên, dòng thời gian trôi mãi, mỗi bóng mặt trời khi đi qua là mỗi vết tích ghi lại trên lịch sử xã hội loài người. Bởi vậy, những gì chất phác hồn nhiên trong cảm giới cũng không thể bảo tồn được. Tâm tư người bình dân cũng theo lịch sử thời gian biến thiên. Từ những câu hát vô tư, mộc mạc chuyển sang ý thức đau buồn, khắc khoải, như:

    Vì mây cho núi lên trời,

    Vì chưng gió thổi, hoa cười với trăng.

    Vì sương, cho núi bạc đầu,

    Vì đâu mưa nắng cho rầu rĩ hoa.

    Tâm tư đau buồn của họ phát xuất từ cuộc sống xã hội loài người chuyên vào cảnh vật, vì chính cảnh vật đối với họ cũng chịu một thân phận đau khổ như họ:

    Thương cho thân thể quả dừa,

    Non thì khoét mắt, già cưa lấy đầu.

    Hoặc:

    Thương thay thân phận con rùa,

    Lên đình đội, hạc, xuống chùa đội bia.

    Tuy nhiên, càng đau đớn trước những biến thái của xã hội loài người, người bình dân càng đem đến tình thương gắn vào ngoại vật. Chỉ có những kẻ bị mất tình thương trước cuộc sống loài người mới thấy tình thương là quí giá. Họ muốn nói lên cái quí giá ấy bằng cách chia xẻ nỗi khổ đau của muôn loài vạn vật xung quanh họ.

    Một tiếng dế kêu giữa đêm trường cũng đủ làm cho tâm tư đau khổ của họ nổi dậy hòa lẫn với tiếng dế ấy! Ví như:

    Lòng thương con dế ở hang,

    Nắng mưa phải chịu sõi sàng tiếng kêu!

    Một luồng gió thổi qua, một chiếc lá vàng rơi, họ cùng cảm thấy xót xa cho thân phận của cây cối.

    Đố ai quét sạch lá rừng,

    Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.

    Chính họ cảm thấy chẳng những loài người tạo cho mình một cuộc sống khổ đau. mà muôn loài vạn vật trong vũ trụ cũng bị sức mâu thuẫn của thiên nhiên tạo cho chúng những đau khổ chẳng kém loài người.

    Chỉ có kẻ đau khổ mới thấy được đau khổ! Người bình dân là lớp người thấp thỏi nhất trong xã hội nên thấy khổ đau nhiều hơn ai hết. Bởi vậy lòng nhân đạo dễ kích động đối với họ.

    Tính chất ấy đã biểu lộ qua các câu ca dao rất cảm động như:

    Chiều chiều bắt nhái cắm câu,

    Nhái kêu cái ẹo, thảm sầu nhái ơi!

    Móc một con nhái vào lưỡi câu, tiếng kêu đau đớn của con nhái đã làm cho họ liên tưởng đến thân phận đau đớn của họ trước cuộc sống loài người!

    Hỡi những bậc vua chúa thời xưa trong cung vàng điện ngọc! Bên tai các ngài lúc nào cũng bị tiếng đờn, tiếng tiêu du dương mãi, chắc các ngài chưa bao giờ được nghe tiếng đau đớn của một con nhái bị mắc vào lưỡi câu, để xem thử lòng mình có nhói lên một cảm giác thương hại như người bình dân chăng?

    Nhưng thôi! Chúng ta hãy trở lại với người bình dân!

    Cuộc sống của người bình dân càng đau khổ, thì tâm tư của họ lại đi lần vào tình thương cho nên cảm giới của họ đối với ngoại vật rất gần gũi và khăng khít. Họ gắn liền tâm tư họ với cảnh vật.

    Một lỗ chân trâu, một chiếc gàu tát nước, một con đường mòn, một tiếng gà gáy ban mai... Tất cả những gì có liên hệ đến đời sống họ đều được họ xem như tình bạn. Đây, chúng ta nghe một cô gái giãi bày tâm tư họ đối với ngoại vật:

    Giã ơn cái cối cái chày,

    Nửa đêm gà gáy, có mày có ta.

    Giã ơn cái cọc bờ ao,

    Nửa đêm gà gáy, có tao có mầy!

    Thì không còn tình cảm nào thống thiết hơn.

    Cuộc sống đã đưa lớp người bình dân đi lần vào trạng thái khổ đau, nên tâm tư họ đối với ngoại vật cũng lần lần tiến tới trạng thái ấy. Cảnh vật trở thành nơi chứa đựng những khắc khoải ưu tư của họ.

    *

    Tóm lại, nếu chúng ta thừa nhận tâm tư và ngoại giới là hai lãnh vực ảnh hưởng mật thiết với nhau thì chúng ta có thể gọi đó là hai người bạn.

    Khi đã là bạn, tất nhiên phải có những tâm hồn gần gũi nhau.

    Cho nên, nếu nguồn văn chương bác học đã chọn trong cảnh vật một người bạn hào hoa, phong nhã, bóng bẩy, lả lướt... để hợp với tâm hồn họ, thì chính người bình dân lại chọn trong cảnh vật một người bạn cần cù, chất phác, đau khổ, xót thương... để hợp với cảm giới họ.

    Cũng chính vì vậy mà chúng ta ngày nay có hai dòng văn chương: Bác học và Bình dân.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/1/16
    Ban Tang Du Tử thích bài này.
  3. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Phần tuyển tập ca dao tiêu biểu cho:


    TÂM TƯ CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NGOẠI VẬT.


    1. Ai về tôi gởi bức thư,

    Cô Tám ở lại, cô Tư lấy chồng.

    2. Ai mua con quạ bán cho.

    Đen lông, đen cánh, bộ giò cũng đen.

    3. Ai đem con sáo sang sông,

    Để cho con sáo sổ lồng nó bay.

    4. Ai nhất thì tôi thứ nhì,

    Ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba.

    5. Ai lên nhắn chị hàng cau,

    Chiều buồn rấp nước giữ mầu cho tươi.

    6. Anh mong gởi cá cho chim,

    Chim bay ngàn dặm cá tìm biển đông.

    7. Ao to ta thả cá chơi,

    Hồ rộng nuôi vịt, vườn khơi nuôi gà.

    Quanh năm khách khứa trong nhà,

    Ao vườn sẵn có, lọ là tìm đâu.

    8. Ba cô đi chăn bò vàng,

    Để bò ăn lúa, ba nàng hái hoa.

    Hái được cành bổng, cành la,

    Cành nào tươi tốt cho ta một cành.

    9. Ba đời bảy họ nhà tre,

    Hễ cắt lấy gánh nó đè lên vai.

    10. Ba bà đi bán lợn con,

    Bán thì chẳng được bon bon chạy về.

    Ba bà đi bán lợn sề,

    Bán thì chẳng được, chạy về bon bon.

    12. Bao giờ cho chuối có cành,

    Cho sung có nụ, cho hành có hoa.

    13. Bắc thang lên gọi ông Trăng,

    Hỏi rằng chị Nguyệt đi chừng mấy con.

    14. Bắc thang lên hỏi cung mây,

    Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời?

    Cuội nghe thấy nói, Cuội cười,

    Bởi hay nói dối phải ngồi gốc cây.

    15. Bắc thang lên đến tận trời,

    Thấy ông Nguyệt-lão đương ngồi xe tơ.

    16. Bể sâu con cá lớn vẫy vùng,

    Trời cao muôn trượng cánh chim hồng cao bay

    17. Sá chi đồi cát, vũng lầy,

    Những loài tôm tép biết ngày nào khôn

    18. Biểu về nói với ông câu,

    Cá ăn thì giật, để lâu mất mồi.

    19. Bồng bồng mà nấu canh tôm,

    Ăn vào mát ruột, đến hôm lại bồng.

    Bồng bồng mà nấu canh khoai,

    Ăn vào mát ruột, đến mai lại bồng.

    20. Bồng thơm, thơm lẹ, thơm làng,

    Thơm cây, thơm rễ, người trồng cũng thơm.

    21. Bước sang tháng sáu giá chân,

    Tháng một nằm trần bức đổ mồ hôi,

    Con chuột kéo cày lồi lồi,

    Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong. 

    Vườn rộng thì thả rau rong,

    Ao sâu giữa đồng, vãi cải lấy ngồng làm dưa.

    Một đàn con cò đi tắm đến trưa,

    Một đàn con vịt đi bừa ruộng nương.

    Voi kia nằm ở gậm giường,

    Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn.

    Chuồn kia thấy cám liền ăn,

    Lợn sề thấy cám nhọc nhằn bay qua.

    Trời mưa cho mối bắt gà,

    Đòng đong cân cấn đuổi cò xao xao.

    Lươn nằm cho trúm bò vào,

    Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.

    Thóc giống cắn chuột trong bồ,

    Một trăm lá mạ đuổi vồ con trâu.

    Chim chích cắn cổ diều hâu,

    Con gà tha quạ biết đâu mà tìm.

    Bong bóng thì chìm, gỗ lim thì nổi,

    Đào ao bằng chổi, quét nhà bằng mai.

    Hòn đá dẻo dai, hòn xôi rắn chắc.

    Gan lợn thì đắng, bồ hòn thì bùi,

    Hương hoa thì hôi, nhất thơm thì cú.

    Đàn ông to vú, đàn bà rậm râu.

    Hay cắn thì trâu, hay cày thì chó.

    22. Bướm già thì bướm có râu,

    Thấy bông hoa nở, cúi đầu bướm châm.

    Bướm châm mà bướm lại nhầm,

    Có bông hoa nở ong châm mất rồi.

    23. Cá buồn cá lội thung thăng,

    Người buồn người biết dãi dằng cùng ai.

    Phương đông chưa rạng sao mai,

    Đồng hồ chưa cạn biết ai bạn cùng. 

    24. Cái bống đi chợ cầu canh,

    Cái tôm đi trước, củ hành theo sau.

    Con cua lạch đạch theo sau.

    Cái chầy rơi xuống vỡ đầu con cua.

    25. Cái kiến mày ở trong nhà,

    Tao đóng cửa lại, mày ra đằng nào,

    Con cá mày ở dưới ao,

    Tao tát nước vào, mày sống được chăng.

    26. Cái bống cõng chồng đi chơi,

    Đi đến chỗ lội, đánh rơi mất chồng.

    Chú lái ơi! tôi mượn chú cái cỗ gàu sòng.

    Tôi tát, tôi múc cho chồng tôi lên.

    27. Cái cáo mặc áo em tao,

    Làm tổ cây cà,

    Làm nhà cây chanh,

    Dọc canh bờ giếng.

    Mỏi miệng tiếng kèn,

    Hỡi cô trồng sen!

    Cho anh hái lá,

    Hỡi cô trồng bưởi!

    Cho chàng hái hoa.

    Một cụm cà là ba cụm lý,

    Con nhà ông lý, mặc áo tía tô.

    Con nhà thằng Ngô, mặc áo lang khách.

    Hai con chim khách đánh nhau trên cây.

    Hai cái bánh giày đánh nhau mâm cỗ.

    Hai hạt đỗ đánh nổ nồi rang,

    Hai con kiến vàng đánh nhau lọ mật.

    Hai hòn đất đánh vật bờ ao,

    Mầy tát chuôm tao, tao tát chuôm mầy.

    Mầy dầy rổ cá, tao đầy rổ tôm,

    Mày đi chợ Cầu-nôm, tao đi chợ Cầu-rền.

    Mày bán cửa đền, tao bán cửa vua.

    Mày làm mắm chua, tao làm mắm thình.

    Mày con ông Chính, tao con ông Xã.

    Mày là cái ả, tao là cái hai,

    Mày đội bồ dài, tao đội nón méo.

    Mày cầm cái kéo, tao cầm con dao,

    Mày làm sao, tao làm vậy.

    Mày đi buôn cậy, tao đi buôn hồng,

    Mày đi lấy chồng, tao đi lấy vợ.

    Mày lên kẻ chợ, tao về nhà quê,

    28. Cái kiến mầy đậu cành đào,

    Leo phải cành cọc leo vào leo ra.

    Cái kiến mày đậu cành đa.

    Leo phải cành cọc leo ra leo vào.

    29. Cái cò là cái cò con,

    Mẹ nó yêu nó, nó còn làm thơ.

    Cái cò bay bổng, bay bơ,

    Lại đây anh gởi xôi khô cho nàng.

    Đem về nàng nấu nàng rang,

    Nàng ăn có dẻo thời nàng lấy ta,

    30. Cái cóc mầy lặn ao chà,

    Bay lên rũ cánh làm nhà chị nương.

    Yếm thắm mà nhuộm hoa nương,

    Cái răng hạt đỗ làm tương anh đồ.

    Yếm thắm mà vã nước hồ,

    Vã đi, vã lại, anh đồ yêu đương.

    31. Cái bống là cái bống bang,

    Ăn cơm bằng sàng, bốc muối bằng vung.

    Mẹ giận mẹ đẩy xuống sông,

    Con ra đường biển lấy chồng lái buôn.

    Khát nước thì uống nước nguồn,

    Lạc đường thì bảo lái buôn đưa về.

    32. Cái kiến mày kiện củ khoai,

    Chê em tao khó, lấy ai cho giàu.

    Nhà tao chín đụn, mười trâu,

    Lại thêm ao cá bắc cầu rửa chân.

    Câu này là cầu ái ân,

    Một trăm cô gái rửa chân cầu nầy.

    Có rửa thì rửa chân tay,

    Chớ rửa lông mày, chết cá ao anh.

    33. Cái ngủ mày ngủ cho sâu,

    Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về.

    Bắt được mười tám mười chín con trê,

    Cầm cổ lôi về cho cái ngủ ăn.

    Cái ngủ ăn chẳng hết, để dành đến Tết mùng ba,

    Mèo già ăn trộm, mèo con phải đòn.

    Mèo con phải vạ, con quạ đứt đuôi,

    Con ruồi đứt cánh, đòn gánh có mấu,

    Củ ấu có sừng, bánh chưng có lá,

    Con cá có vẩy, ông thầy có sách,

    Đào ngạch có dao, thợ rào có búa,

    Xay lúa có giành, việc làng có mõ.

    Cắt cỏ có liềm, câu liêm có lưỡi,

    Cây bưởi có hoa, cây cà có trái.

    Con gái có chồng, đàn ông có vợ,

    Kẻ chợ có vua, trên chùa có Bụt,

    Cái bút có ngòi, con voi có quản.

    34. Cánh hồng bay bổng trời thu,

    Thương con chim gáy cúc cu trong lồng.

    Duyên may, tay bế, tay bồng,

    Thương ai vò võ trong phòng chiếc thân.

    35. Có ông bốn vợ,

    Một vợ rửa bát cầu ao,

    Chăng may gió cả rạt vào bụi tre.

    Một vợ thì đi buôn bè,

    Chẳng may gió cả nó đè xuống sông.

    Một vợ thì đi buôn bông,

    Chẳng may gió cả nó bồng lên cây.

    Một vợ thì đi buôn mây,

    Chẳng may gió cả nó bay lên trời.

    36. Con kiến mày chạy trong nhà,

    Ta đóng cửa lại, mày ra đằng nào.

    Con cá mày ở dưới ao,

    Ta tát nước vào, mày chạy đàng mô?

    37. Con mèo lành sao kêu mèo vá,

    Con cá không thờ sao gọi cá linh.

    38. Con quạ nó đứng đầu cầu,

    Nó kêu bớ má têm trầu khách ăn.

    39. Con quốc kêu réo rắt trên ngàn,

    Gà rừng táo tác gọi con tha mồi.

    Lạnh lùng thay láng diềng ôi!

    Láng diềng lạnh ít, sao tôi lạnh nhiều?

    40. Con chó chê khỉ lắm lông,

    Khỉ lại chê chó ăn dong, ăn dài.

    Lươn ngắn lại chê trạch dài,

    Thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm.

    41. Con cò chết rũ trên cây,

    Cò con mở sách xem ngày làm ma.

    Cà cuống uống rượu la đà,

    Chim ri ríu rít bò ra lấy phần.

    42. Con gà cục tác lá chanh,

    Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi.

    Con chó khóc đứng, khóc ngồi,

    Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.

    43. Con chim chìa vôi bay ngang đám thuốc,

    Con cá bã trầu lội tuốt vô mương.

    44. Con chim sáo sậu,

    Ăn cơm nhà cậu,

    Uống nước nhà cô,

    Đánh vỡ bát Ngô,

    Bà cô phải đền.

    45. Con quạ tha lá lợp nhà,

    Con cu chẻ lạt, con gà đóng phên.

    46. Con mèo, con méo, con meo,

    Vồ con chuột béo nhảy leo xà nhà.

    47 Con ai mà chẳng con cha,

    Cháu ai mà chẳng cháu bà, cháu ông.

    48. Con chim mầy ở trên cây,

    Tao đứng dưới gốc, mầy bay đàng nào.

    49. Con cá lý ngư sầu tư biếng lội,

    Con chim trên nhành sầu cội biếng bay.

    50. Con quạ nó đứng chuồng heo,

    Nó kêu bớ má, bánh bèo chín chưa.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/1/16
    Ban Tang Du Tử thích bài này.
  4. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    51. Con mèo, con mẻo, con meo,

    Ai dạy mầy trèo, mày chẳng dậy tao.

    Mắt mi xanh sáng như sao,

    Móng mi bén ngót, tiếng ngao dậy trời.

    52. Con mèo mày trèo cây cau,

    Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà?

    Chú chuột đi chợ đàng xa,.

    Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo.

    53. Con cóc là cậu ông trời,

    Hễ ai đánh nó thì trời đánh cho.

    Con cóc là cậu thầy nho,

    Hễ ai đánh chết trời cho quan tiền.

    54. Cô thỉ, cô thi,

    Cô đang đương thì cô kẹo với ai.

    Cô tú kẽo kẹt cô cai,

    Vợ chồng thuyền chài kẽo kẹt dưới sông.

    Mâm cốm kẽo kẹt mâm hồng,

    Bát bịt, mâm đồng kẽo kẹt một nơi.

    Mâm thịt kẽo với mâm xôi,

    Thịt bùi, xôi dẻo kẽo nơi bà già.

    Cùi dừa kẽo kẹt bánh đa,

    Cái đĩa thịt gà kẽo kẹt lá chanh.

    Nồi cơm kẽo với nồi canh,

    Quả bí trên nhành kẽo với tôm he.

    Bánh rán kẽo với nước chè,

    Cô kia cò kè kẽo với anh đây.

    Bà cốt kẽo với ông thầy.

    Con chim loan phượng kẽo cây ngô đồng.

    55. Cô kia tát nước bên đàng,

    Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.

    56. Có kia gánh nước quang mây!

    Cho xin một gáo tưới cây ngô đồng.

    Ngô đồng thêm tốt, thêm xanh,

    Để chim phượng đo đầu cành so le.

    57. Chiều chiều vịt lội cò bay,

    Ông voi bẻ mía chạy ngay vô rừng!

    Vô rừng bứt một sợi mây,

    Đem về thắt gióng cho nàng đi buôn.

    58. Đàn ai khéo gẩy tinh tinh,

    Một đàn con cá nước lặn ghềnh nó nghe.

    59. Đào khoe tươi, liễu khoe mềm,

    Cây khô nảy nhị, cành thêm ấm chồi.

    Chữ rằng: “Thiên hữu tứ thời”.

    Ngày thời hoa nở, tối thời hoa thơm.

    60. Đen đen là con quạ, bạc bạc là con cò,

    Đi lò dò là con ông lão.

    61. Đêm qua kẻ trộm vào nhà,

    Làm thinh chợp mắt để mà mất trâu.

    62. Đêm qua ra đứng bờ ao,

    Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ.

    Buồn trông con nhện giăng tơ,

    Nhện ơi nhện hơi nhện chờ mối ai?

    Buồn trông chênh chếch sao mai,

    Sao ơi, sao hơi nhớ ai sao mờ.

    Đêm đêm hướng dải Ngân hà,

    Chuôi sao tinh đẩu đã ba năm tròn.

    Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,

    Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ.

    63. Đêm khuya ra đứng giữa trời,

    Giơ tay ngoắt nguyệt, nguyệt dời phương nao.

    - Đêm khuya thức dậy xem trời,

    Thấy sao bên Bắc đã rời bến Nam.

    64. Đi đâu la cả la cà,

    Như chim lạc tổ, như ma lạc mồ.

    Đi đâu la cả la cà,

    Ông tầm phất lại gặp bà tầm phơ.

    65. Đố ai lượm đá vá trời,

    Đan gàu tát biển, ghẹo người cung trăng,

    60. Đố ai quét sạch lá rừng,

    Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.

    67. Gà về bới nát cỏ sân,

    Mèo buồn lại chạy kiếm ăn ngõ ngoài.

    Chó nằm hè gặm vỏ khoai,

    Lợn ngồi ủi đất ngậm hơi gầy gò.

    68. Gió đánh cành tre, gió đập cành tre,

    Chiếc thuyền anh vẫn le te đợi nàng.

    Gió đánh cành bàng, gió đập cành bàng,

    Dừng chèo anh hát, cô nàng anh nghe.

    69. Gió đưa cành trúc la đà,

    Tiếng chuông Thiên-mụ, canh gà Thọ-xương.

    70. Gió đưa trăng thì trăng đưa gió,

    Quạt nọ đưa đèn, đèn có đưa ai.

    71. Gió đưa trăng thì trăng đưa gió,

    Trăng lặn rồi gió biết đưa ai.

    72. Hoài tiền mua thuốc nhuộm răng,

    Để tiền mua mía đánh khăng vào mồm.

    Hoài tiền mua mía đánh khăng.

    Để tiền mua thuốc nhuộm răng cho vàng.

    73. Khá khen con bướm khôn ngoan,

    Hoa thơm bướm đậu, hoa tàn bướm bay.

    74. Khi đi trúc mọc le te,

    Khi về trúc đã kết bè giữa sông.

    75. Lác đác mưa ngâu,

    Sình sịch mưa ngâu.

    Lá ngâu rụng xuống,

    Bông lau phất cờ,

    Nước trong xanh, lặng ngắt như tờ.

    Một đàn cá lớn nhấp nhô đầu ghềnh.

    Kìa ai đứng ở đầu ghềnh.

    76. Lạy trời đừng nắng chớ mưa,

    Êm êm dịu dịu cho vừa lòng em.

    77. Lạy trời cho cả mưa dào,

    Cho sen chìm xuống, cho bèo nổi lên.

    78. Lúa ngô là cô đậu nành,

    Đậu nành là anh dưa chuột,

    Dưa chuột là ruột dưa gang,

    Dưa gang là nàng dưa hấu,

    Dưa hấu là cậu lúa ngô,

    Lúa ngô là cô đậu nành.

    79. Má ơi! đừng đánh con hoài,

    Để con đi câu cá nấu xoài má ăn.

    80. Má ơi con vịt chết chìm,

    Thò tay vớt nó, cá kìm cắn con.

    81. Mẹ em đi chợ đường ngoài,

    Mua em cây mía vừa dài vừa cong.

    Mẹ em đi chợ đường trong,

    Mua em cây mía vừa cong vừa dài.

    82. Mẹ em khéo đ em ra,

    Đẻ em mười bốn, đẻ ta hôm rằm

    Đi đâu mà vội mà nhầm,

    Sao em chẳng đợi trăng rằm cho trong.

    83. Nằm đây, chớ chẳng ngủ lâu,

    Thức mà giữ lấy con trâu, con bò.

    Nằm đây nào đã ngủ cho,

    Thức mà giữ lấy con bò, con trâu.

    84. Nó ra, rồi nó lại vô,

    Chớ nào nó có vác vồ đuổi ai?

    Nó ra, rồi nó lại vào,

    Chớ nào nó có phá cũi, dỡ rào nhà ai?

    85. Non cao ai đắp mà cao,

    Sông sâu ai bới, ai đào mà sâu?

    Sông sâu ai đắp ai đào,

    Non cao ai đắp đá vào mà cao!

    86. Nửa đêm trở dậy trông trời,

    Ông sao bên Bắc đã dời bên Đông.

    Bờ hồ lai láng mênh mông.

    87. Nước không chưn sao rằng con nước đứng,

    Chén uống một mình sao gọi chén chung.

    88. Nước sông cuồn cuộn chảy xuôi,

    Có con cá diếc đỏ đuôi theo mồi.

    89. Ngồi buồn trách lẫn ông xanh,

    Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.

    Kiếp sau nên chớ làm người.

    Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.

    Giữa trời vách đá cheo leo,

    Ai mà chịu rét thì trèo với thông,

    90. Ngồi buồn may túi đựng trời,

    Đan xề sau đá, giết voi xem giờ.

    Ngồi buồn đem thước đi đo,

    Đo từ núi Sở, núi Soi chùa Thầy.

    91. Ra về thấy kiểng thảm thương,

    Nhành mai ủ dột, vách tường nhện giăng.

    92. Rủ nhau lên núi hái chè,

    Hái năm ba ngọn xuống khe ta ngồi.

    Ta ngồi ta bắt con ốc lặn,

    Bắt con ốc lội, ta đem lên bờ.

    Ta đập đánh chát, là hút đánh chụt.

    Ta lên trên ngàn hái nắm rau mơ,

    Ta leo trên bờ hái lá rau răm.

    95. Sáng trăng sáng cả đêm rằm,

    Nửa đêm về sáng trăng nằm ngọn cây.

    94. Tạnh trời mưa cuốn về non,

    Hẹn cùng cây cỏ chớ còn trông mưa.

    95. Tình tính tang, tang tình tang.

    Súng vác vai, hỏa mai tọng nạp,

    Gươm tuốt trần, giáo cắp, mộc mang.

    Tang tình tang,

    Con cốc nó lội, con cò nó bay.

    Tình tình tang, tang tình tang.

    96. Tí hâu mày liệng cho tròn,

    Đến mai ta gả gà con cho mày.

    Gà con ta để ta nuôi,

    Đến mai ta gả con chó cụt đuôi cho mày.

    Tình tính tang.

    Bắt con kiến càng, buộc chỉ ngang lưng.

    Bên thời lấy giấy mà bưng,

    Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang.

    Tình tính tang.

    97. Tò vò mầy nuôi con nhện,

    Đến khi nó lớn nó quện nhau đi.

    Tò vò ngồi khóc tỉ ti,

    Nhện ơi! nhện hỡi! Mày đi đằng nào?

    98. Trăm thức hoa đua nở về tiết tháng giêng?

    Có bông hoa cải nở riêng tháng mười.

    Trăm cành hoa cười, trăm nụ hoa nở mùa xuân sang.

    Đàn con yến trắng, dập dìu đàn ong.

    Con chim kia sao khéo não nùng,

    Cuốc kêu gióng giả như nung dạ sầu.

    Gió nam hây nẩy lúc ban chiều,

    Một đàn bướm trắng dập dìu trên non.

    Đêm đông trường nghe vượn ru con,

    Vượn hót ru con, cá khe lẩn bóng, chim luồn cỗi cây.

    Con ve kêu ỏng ảnh tiếng chày,

    Kìa quân tử trúc dạ này bâng khuâng.

    Em như hoa thơm mà mọc góc rừng,

    Thơm cay ai biết, ngát lừng ai hay.

    99. Trăng bao nhiêu tuổi trăng già?

    Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non?

    Trăng bao nhiêu tuổi trăng tròn?

    Núi bao nhiên tuổi núi còn trơ trơ?

    100. Trong đầm gì đẹp bằng sen,

    Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.

    Nhị vàng, bông trắng lá xanh,

    Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

    101. Trời mưa trong núi mưa ra,

    Bồ câu gáy giục, đa đa gáy dồn.

    102. Vào vườn xem vượn hái hoa,

    Xem voi đi guốc, xem gà nhuộm răng.

    Xuống sông xem cá đấu roi,

    Xem tôm quần thảo, xem trai giở mình.

    103. Ví dầu cầu ván đóng đinh.

    Câu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi.

    104. Ví dầu cá bống hai mang,

    Cá trê hai ngạnh, tôm càng hai râu.

    105. Ví dầu con cá nấu canh,

    Bỏ tiêu cho ngọt bỏ hành cho thơm.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/1/16
    Ban Tang Du Tử thích bài này.
  5. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    II. LIÊN HỆ GIỮA ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT VÀ TINH THẦN.

    Tinh thần, vật chất tuy là hai lãnh vực, song luôn luôn khắng khít nhau như một. Xưa nay nhiều triết gia đã phân tích mà vẫn chưa đạt một chân lý, ở đây không phải chỗ chúng ta bàn đến.

    Tuy nhiên, vì muốn khảo sát quan niệm nhân sinh của người bình dân thời xưa, chúng ta không thể tách rời những cảm nghĩ của họ có liên quan giữa đời sống vật chất và tinh thần. Vì vậy chúng ta chỉ bàn đến phạm vi ảnh hưởng mà không đi sâu vào những triết thuyết.

    Trong mục thứ nhất, chúng ta đã nói đến bản năng tự tại, tức là phân tích cái bản chất của người bình dân thời xưa xuyên qua thi ca, thì ở mục này chúng tôi lại tiếp lục khảo sát bản chất con người khi họ nhìn vào thực trạng. Nói cách khác, chúng tôi muốn nêu lên sự hòa hợp tinh thần của con người bình dân thời xưa trong lãnh vực đối ngoại.

    Muốn làm được việc này, chúng tôi thiết tưởng phải quan niệm họ qua từng mục.
     
    Ban Tang Du Tử thích bài này.
  6. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    A. Ý THỨC VỀ CÁI ĐẸP, CÁI XẤU.

    Thế nào là đẹp? Thế nào là xấu?

    Tại sao đẹp? Tại sao xấu?

    Một vấn đề rất thông thường, và mỗi chúng ta đầu nói đến hằng ngày. Tuy nhiên, từ xưa đến nay chưa một ai tìm ra chân tướng của nó.

    Bạn đi cùng tôi vào một phòng triển lãm tranh ảnh, tôi chỉ một bức tranh bảo là đẹp; bạn lắc đầu, chỉ một bức khác mà tôi không thích.

    Một chiều thu, tôi và bạn ngồi trên bờ hồ. Tôi say sưa nhìn những áng mây vàng trôi trên mặt nước; nhưng bạn lại hững hờ, tâm hồn bạn lại thả theo những cánh bướm chập chờn trên các đóa hoa.

    Ở một đầu phổ kia, hai cô gái đang hơ hớ xuân thì, tóc mây buông xõa trên bờ vai, đôi môi đỏ mọng dười làn son thắm, chiếc áo với kỹ thuật tân thời làm nổi lên những đường cong khêu gợi và để lộ ra một phần da ngực nõn nà. Tôi bấm vào tay bạn tỏ ý tán thưởng, nhưng đôi mắt bạn thờ ơ trước vẻ đẹp của họ. Bạn lại đăm chiêu nhìn vào một cô gánh nước ở ven đường, với thân hình nảy nở như tiết ra một sinh lực tiềm ẩn dưới làn da ngâm ngâm, và những bắp thịt rắn rỏi như đang vươn lên tìm ý sống.

    Tại sao lại có sự khác biệt như thế?

    Dĩ nhiên, tôi và bạn không cùng một quan điểm về cái đẹp, cái xấu!

    Nhưng không phải chỉ có tôi và bạn không hợp ý nnau, mà hầu như mỗi người trong chúng ta đều không bao giờ có quan niệm thẩm mỹ đồng nhất. Bởi vậy, cái đẹp, cái xấu chỉ là nguồn mỹ cảm của cá nhân, chỉ có cảm giác cá nhân, mới nói lên được, mới mô tả được thế nào là đẹp, thế nào là xấu. Đã không đồng nhất, mà nhiều lúc, mỹ cảm của chúng ta lại tương phản nhau nữa.

    Cái đẹp của Đông-phương không phải như cái đẹp của Tây-phương. Cái đẹp của người xưa không như cái đẹp của người nay. Mỹ cảm chẳng những chia cách giữa con người mà còn chia cách giữa thời gian, không gian nữa.

    Vậy chúng ta muốn đi tìm chân tướng cái đẹp, cái xấu, không thể không đi tìm nguồn gốc của mỹ cảm.

    Mà, mỹ cảm là gì?

    Nói một cách giản dị, thì mỹ cảm là sự ưa thích của cảm giác con người khi hòa vào ngoại vật. Trước đây, chúng ta đã có dịp đề cập lãnh vực cảm giác của con người, và xác định rằng cảm giác là cơ quan truyền thụ đưa ngoại hình vào tâm tư. Ở địa hạt tâm tư, chúng ta thấy sự thèm muốn, ưa thích, nó chính là cái dục vọng con người. Khi phần dục vọng này hòa lẫn với cảm giác thì đó là nguồn mỹ cảm.

    Cho nên, mỹ cảm chúng ta có thể nói là nguồn lạc thú của dục vọng khi được giao tiếp với ngoại vật. Nó là một khả năng đòi hỏi để hưởng thụ, mà dục vọng con người là bản tính thiên nhiên luôn luôn vươn đến ý sống.

    Khi nói đến bản tính thiên nhiên thì con người không khác nhau, nhưng về mỹ cảm đã nằm vào lãnh vực tâm tư, ảnh hưởng ở cuộc đời, nên mỹ cảm dần dần trở thành cá biệt, lệ thuộc vào hoàn cảnh xã hội hơn là tính chất thiên nhiên.

    Tính chất cá biệt trong mỹ cảm đã dẫn đến cá tính con người. Trạng thái thương, yêu, hờn, giận cũng chính bất nguồn từ mỹ cảm mà ra. Thương, ghét là gì, nếu không phải là sự ưa thích hay đố kỵ do cảm giác con người giao tiếp với ngoại vật? Khi ưa thích thì cảm giác dễ chịu, khi đố kỵ thì cảm giác bực dọc, chống đối.

    Ngoại vật luôn luôn giữ tính chất khách quan, mà tâm tư con người thì hay biến đổi theo trạng thái xã hội, cho nên mỹ cảm con người cũng theo tâm tư mà biến chuyển không ngừng.

    Trước đây một trăm năm, người Việt-nam mặc chiếc áo cổ kiềng, nhưng sau đó, họ cho cổ kiềng là quê mùa, lạc hậu, họ thay đổi mặc kiểu áo cổ bâu. Thế rồi đúng một trăm năm sau người Việt-nam trở lại mặc áo cổ kiềng mà họ cho là đẹp, là tân tiến. Vậy ngoại vật không có cái đẹp, cái xấu gì cả, chỉ có tâm tư con người gắn vào ngoại vật những cảm giác ưa thích, hoặc ghét bỏ mà thôi.

    Người bình dân thuở xưa cũng đã nhìn thấy khía cạnh chân tướng của tình cảm con người, nên đã nói lên cảm nghĩ của họ:

    Khi thương trái ấu cũng tròn,

    Khi ghét bồ hòn cũng méo.

    Tử cái méo trở thành cái tròn, và từ cái tròn biến sang cái méo đều do tâm tư con người tạo ra cả. Vậy thì cái đẹp và cái xấu chỉ có ở tâm tư con người chứ không nằm ở ngoại vật.

    Nói như thế cũng có nghĩa là người thời xưa đã thừa nhận sự khác biệt trong lãnh vực mỹ cảm con người, và phủ nhận cái đẹp tất nhiên của ngoại vật.

    Quan niệm này người bình dân thời xưa còn cho chúng ta thấy rõ ràng hơn nữa ở những câu ca dao như:

    Lỗ mũi thì tám gánh lông.

    Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.

    Đêm nằm thì ngáy pho pho,

    Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.

    Đi chợ thì hay ăn quà,

    Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.

    Trên đầu những rác cùng rơm.

    Chồng yêu chồng bảo hoa thơm cài đầu.

    Cũng như chúng ta ngày nay, người xưa quan niệm cái đẹp cái xấu không là cố định. Nguồn gốc của mỹ cảm nằm trong lãnh vực tâm tư, và diễn biến theo trạng thái sinh hoạt của mỗi người. Chính sự thương, ghét trong tâm tư con người đã đánh giá ngoại vật.

    Ví dụ như:

    Thương nhau thương cả đường đi,

    Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng.

    Cũng con đường ấy, cũng những lùm cây phất phơ dưới nắng chiều, tại sao lúc thương nhau chúng ta lại tìm thấy con đường ấy chứa đầy tình cảm, mà đến lúc ghét nhau chúng ta lại thấy chán ngắt vì con đường.

    Một nhà thơ bảo chúng ta: “Tôi ca tụng cái đẹp của loài người, cái đẹp thiên nhiên mà loài người dù thế hệ nào cũng phải công nhận.”

    Nói thế cũng không có nghĩa là ngoại vật sẵn có cái đẹp để con người thụ hưởng. Cái đẹp mà nhà thơ vừa nói cũng chỉ là cái đẹp ở trong tâm tư con người mà thôi. Tâm tư con người từ dục vọng đi lần đến cá biệt do ảnh hưởng xã hội, nếu có cái đẹp nào tồn tại với thời gian, không gian chẳng qua là do bản năng dục vọng con người giữ được ý thức ấy. Bản năng dục vọng con người lúc nào cũng vươn đến ý sống, mà thời gian, không gian không thay đổi được ý sống ấy; nên tâm tư con người gặp nhau ở lãnh vực đó, thế mà nhà nghệ sĩ lại tưởng mình tìm thấy ở thiên nhiên một cái đẹp bất diệt đối với tâm tư con người. Thực ra, không có cái đẹp nào ở ngoài tâm tư cả.

    Trước đây nghìn năm, cổ nhân đã ca tụng:

    Nước trong ai chẳng rửa chân.

    Cái má trắng ngần ai chẳng muốn hôn.

    Và, đến ngày nay, chúng ta vẫn ca tụng dòng nước trong, vẫn tán tụng làn da trắng mịn trên đôi má, như vậy cũng không có nghĩa dòng nước trong và đôi má trắng mịn tự nó có cái đẹp độc lập đối với tâm tư con người, sở dĩ dòng nước trong và đôi má trắng mịn được tồn tại trong mỹ cảm con người chỉ vì nó biểu dương cho sức sống, nên mặc dù thời gian không gian có đổi khác mà ý sống con người vẫn là qui luật tất yếu của vạn hữu, nên vẫn giữ được bản chất của nó.

    Tuy nhiên sức sống của ngoại vật cũng chỉ có giá trị đối với mỹ cảm con người khi tâm tư con người biết cảm giác được sức sống ấy. Cho nên, một kẻ đang hấp hối trên giường bệnh dù có nhìn thấy đôi má trắng hồng cũng không thể nào cảm giác được cái đẹp ấy, bởi lẽ cá nhân người bệnh đang lâm vào hoàn cảnh sắp bị tiêu diệt.

    Một nhà nghệ sĩ khi đứng trước bầu trời thu. Thưởng thức cái đẹp của thiên nhiên, tự cho rằng dù con người sống trong hoàn cảnh nào, với tâm trạng nào cũng không thể không cảm khoái.

    Quan niệm như vậy, họ đã gắn ở ngoại vật một cái đẹp ngoài tâm tư, và chối bỏ qui luật ảnh hưởng giữa cuộc sống với tâm tư. Thực ra, tâm tư cá nhân chỉ gặp nhau ở tính chất bản năng và không thể gặp nhau ở trạng thái cá biệt.

    Con người khi lao mình vào cuộc sống thì trạng thái cá biệt bao trùm cả tâm tư, tính chất bản năng thiên nhiên chỉ còn lại với vạn hữu một phần nhỏ.

    Tính chất cá biệt là trạng thái phân hóa giữa con người và con người, do cuộc sống xã hội tạo nên. Nếu chúng ta đã thừa nhận mỹ cảm con người ảnh hưởng ở tâm tư, mà tâm tư con người do cuộc sống chi phối, thì chúng ta cũng phải đi đến kết luận là mỹ cảm con người do sinh hoạt xã hội đúc kết. Mỹ cảm lệ thuộc vào thời gian, không gian và trạng thái xã hội.

    Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là chúng tôi phủ nhận hoàn toàn sự giống nhau về tâm tư trong tập thể, cũng không phải chúng tôi cho rằng tâm tư con người khi đã bước vào lãnh vực cá biệt, chịu ảnh hưởng sinh hoạt xã hội thì mỹ cảm không còn thể nào gặp nhau trong lãnh vực tập thể nữa.

    Không! Chúng tôi vẫn tìm thấy có sự giống nhau của tâm tư khi trạng thái sinh hoạt của con người giống nhau.

    Một nghệ sĩ bên trời Âu tâm trạng gần giống với một nghệ sĩ ở chân trời Á. Một ý tưởng của người thời xưa có thể thông cảm được với người thời nay. Và nói rộng hơn nữa. Tâm tư của mỗi lớp người trong xã hội đều gần gũi với nhau chỉ vì hoàn cảnh sinh hoạt của họ tương tợ.

    Mỹ cảm của một chàng nông dân chân lấm tay bùn, sống trong nghèo đói ở miền này sẽ gần gũi với mỹ cảm của một chàng nông dân chân lấm tay bùn, sống trong nghèo đói ở vùng khác. Đó là chuyện tất nhiên, vì mỹ cảm phát xuất ở tâm tư, mà tâm tư là sản phẩm sinh hoạt xã hội.

    Điều mà chúng ta không thể nào phân định được một cách chính xác là hoàn cảnh sinh hoạt xã hội loài người rất phức tạp. Tuy cùng sống trong một giai cấp xã hội, cùng một cảnh nghèo đói, nhưng họ không hoàn toàn giống nhau về tính chất, do đó, đứng về mặt cá biệt mà nói thì trong cái giống nhau lại có chỗ khác nhau, ngược lại trong cái khác nhau lại có chỗ giống nhau. Chính vì vậy mà nguồn mỹ cảm con người phát sinh lắm chiều hướng dị đồng.

    Ở đây, chúng ta đi vào cảm giới của người thời xưa, để tìm hiểu quan niệm về cái xấu, cái đẹp của họ, dĩ nhiên chúng ta không tránh khỏi về tính chất dị đồng. Tuy nhiên, nếu trong lãnh vực cá biệt, chúng ta không thể nào quan niệm từng cá nhân, thì trong tập thể chúng ta lại rất dễ nhìn thấy chiều hướng tâm tư của một lớp người, của một thế hệ nổi bật lên trên ý thức sinh hoạt của họ.

    Ý thức sinh hoạt làm tấm gương phản chiếu cảm quan của một lớp người trong mỗi thế hệ. Nó tạo thành những phong trào, những khuynh hướng, mà chúng ta gọi là nếp sống. Vậy, nếp sống cũng chính là bộ mặt của tâm tư trong đó có phần mỹ cảm chung của tập thể.

    Một du khách muốn tìm hiểu mỹ cảm của một nước nào, một dân tộc nào, một tầng lớp nào, chỉ cần nhìn vào nếp sống của họ cũng có thể nhận định được. Do đó, chúng ta đi tìm nguồn mỹ cảm của người bình dân thời xưa cũng không khó lắm. Nguồn mỹ cảm của họ tuy đã vùi sâu trong dĩ vãng, nhưng vết tích vẫn còn lưu lại với chúng ta trong tục ngữ, phong dao, chúng ta có thể dùng những vết tích ấy tìm hiểu tâm tư mà không sợ sai lạc mấy trên quan điểm chung của tập thể.

    Để việc khảo sát được dễ dàng chúng ta tuần tự đi vào từng phần của nguồn mỹ cảm thời xưa.

    Nói đến mỹ cảm tức là nói chung mọi lạc thú của cảm giác con người trong sinh hoạt xã hội. Nhưng trong mục khảo luận này chúng ta không đi vào cõi bao la ấy, mà chỉ hạn chế trong phạm vi sắc đẹp, nghĩa là chúng ta chỉ khảo sát quan niệm người xưa đối với nhan sắc con người mà thôi. Quan niệm về nhan sắc đối với nhan sắc, xưa cũng như nay, người ta chú trọng ở nữ giới hơn là nam giới.

    Chính người xưa cũng đã minh định ý thức ấy bằng câu tục ngữ “Trai tham sắc, gái tham tài”. Bởi vậy, người đàn ông muốn được lòng nữ giới phải có tạo cho mình một tài năng, ngược lại, người đàn bà muốn chinh phục nam giới phải gò gẫm cho mình có một sắc đẹp.

    Quan niệm trai tài gái sắc trở thành một giá trị tương đương trong lẽ sống mà người xưa đã từng so sánh như:

    Trai anh hùng, gái thuyền quyên.

    Hoặc:

    Bên tài bên sắc lấy nhau cũng vừa.

    Vì lẽ đó, khi nói đến nhan sắc, người ta chỉ nghĩ đến đàn bà, và chỉ người đàn bà mới cần có nhan sắc. Còn người đàn ông, miễn về thể chất đừng tật nguyền, cái đẹp, cái xấu của họ trước mắt nữ giới chỉ có ở tính tình và sự khôn dại mà thôi.

    Vậy chúng ta khảo sát nhan sắc nữ giới cũng chính là khảo cứu về mỹ cảm của nam giới. Đồng thời, nguồn mỹ cảm cũng là nguồn mỹ cảm chung cho nếp sống sinh hoạt đương thời.

    Dù ở trong thời gian, không gian nào, một cô gái đương thì cũng được mọi chàng trai chú ý tới. Sự chú ý của những chàng trai đối với những cô gái đang xuân là quy luật tất nhiên trong lãnh vực luyến ái, nhưng nó lại có một trạng thái ràng buộc về mỹ cảm. Khi được nhiều người chú ý tới, cô gái dù muốn dù không cũng phải đặt mình vào ảnh hưởng của sự ràng buộc ấy. Một khi thấy mình trở thành mục tiêu giữa tầm mắt phán xét của mọi người, cô gái không có quyền từ chối ý thức tranh đua trong lãnh vực thẩm mỹ. Do đó, người xưa đã có những câu hát vừa châm biếm, vừa hóm hỉnh:

    Gái chưa chồng trông mong đi chợ,

    Trai chưa vợ thơ thẩn ngoài đường.

    Nhận xét như vậy người xưa cũng đã đạt được tâm lý chung trong trạng thái ganh đua về thẩm mỹ. Trông mong đi chợ là chính các cô muốn đem nhan sắc mình dò xét mỹ cảm chung của mọi người, và những chàng trai chưa vợ thơ thẩn ngoài đường cũng không ngoài mục đích đem mỹ cảm mình hòa vào mỹ cảm chung để hun đúc cho thế hệ đương thời một chiều hướng về cảm quan. Cho nên, không ai bảo ai, mà định luật chung của xã hội đã âm thầm đẩy nếp sống con người vào một ràng buộc, tạo cho thế hệ, mỗi giai cấp có một chiều hướng về thẩm mỹ.

    Nhưng, quan niệm “trai tham sắc, gái tham tài” do đâu mà có? Phải chăng là định luật tất yếu của thiên nhiên?

    Khi nói đến tiếng “tham” tức là nói đến dục vọng con người, mà dục vọng con người nằm trong ý thức vươn lên của lẽ sống. Nhà kinh tế học dựa vào lẽ sống giải thích bản chất “tham tài” của nữ giới là ý thức thực tiễn của sinh hoạt xã hội. Người đàn bà tay yếu chân mềm, lấy chồng mong được sự bảo vệ của người đàn ông, nên tham vọng của họ là muốn gởi thân vào một kẻ có đủ khả năng bảo vệ họ. Nhà tâm lý học cũng đi đến kết luận không khác mấy, nhưng vì tính chất căn bản thì không dựa vào yếu tố kinh tế, mà cho đó chỉ là uy lực thiên nhiên. Vũ trụ đã sinh người đàn bà với thể chất mềm yếu, nên sự thiếu thốn của họ là cái mạnh, trong lúc người đàn ông đã có cái mạnh ở bản thể rồi thì phải đi tìm cái yếu để bù trừ. Từ chỗ đi tìm cái yếu, người đàn ông đi tìm nhan sắc; từ chỗ đi tìm cái mạnh, người đàn bà đi tìm tài năng. Giải thích hiện tượng trên, các thuyết gia đều có những quan điểm riêng biệt, nhưng cuối cùng vẫn gặp nhau trong dục vọng, tức là ý sống: ý sống của bản năng trong ý sống của xã hội.

    Khi đã nhận thức mình là phái yếu và cũng là phái đẹp, người đàn bà mặc nhiên đặt mình vào một trách nhiệm đối với nhan sắc. Nhan sắc họ trước mắt người đàn ông, chúng ta có thể chia làm hai phần dung nhan và phục sức.
     
    Ban Tang Du Tử thích bài này.
  7. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    I) DUNG NHAN:

    Dung nhan bao gồm cái đẹp của thể chất. Trước nhất chúng ta thấy người thời xưa chuộng hàm răng và mái tóc. Họ bảo:

    Cái răng cái tóc là góc con người.

    Vậy thì hàm răng thế nào là đẹp? Mái tóc thế nào là đẹp?

    a) Hàm răng:

    Hàm răng đẹp của người thời xưa là hàm răng nhuộm đen hoặc nhuộm vàng. Họ cho răng trắng là xấu cho nên những người để răng trắng hay bị châm biếm:

    Những người má đỏ hồng hồng,

    Răng đen rưng rức mà chồng chẳng yêu.

    Những người mặt lọ như niêu,

    Cái răng trăng ởn, chồng yêu cợt cờ.

    Tại sao răng nhuộm lại đẹp? Răng trắng lại xấu?

    Thật khó giải thích được, vì nó là một phong tục, một mỹ cảm chung của một thời đại. Cũng như có một vài sắc tộc thượng do lấy việc “cà răng căng tai” làm đẹp. Bắt trai gái khi lớn lên đều phải cà răng sát đến nướu, không còn thấy hàm răng đâu nữa. Giã sử nếu có kẻ nào không cà răng họ cho là quái trạng. Như vậy mỹ cảm của họ phát xuất là một phong tục, và phong tục trở thành mỹ cảm. Người Việt-nam chúng ta thời xưa đối với nhuộm răng không ngoài ảnh hưởng phong tục. Dĩ nhiên một phong tục nào phát sinh cũng phải có nguyên do, chẳng hạn vì sự tín ngưỡng nào đó mà ngày nay chúng ta không thể tìm hiểu nổi.

    Trong Phụ nữ tân văn số 15 ra ngày 8-8-1929, ông Phan Khôi nói về cách nhuộm răng của người đàn bà xứ Bắc thuở xưa. Ông viết:

    “Ở Bắc-kỳ thuở xưa, đàn bà nhuộm răng có hai cách: nhuộm vàng, nhuộm đen. Nhuộm vàng thì nhuộm bằng cánh kiến, rồi sau nhuộm đen. Có người không nhuộm đen thì để màu vàng nên gọi là răng vàng…”

    Trong phong dao Việt-nam lại cũng có nhiều câu ca tụng răng vàng là đẹp, như:

    Thấy em đẹp nói đẹp cười,

    Đẹp quần, đẹp áo lại tươi răng vàng.

    Hoặc:

    Em đã xinh em lại nhuộm cái bộ răng vàng,

    Mảnh gương Tư-Mã thiếp với chàng soi chung.

    Và họ cũng ca tụng cái đẹp của răng đen như:

    Tấm áo đào sao em khéo giữ màu,.

    Răng đen rưng rức, mái tóc đầu em hãy còn xanh.

    Hay:

    Mình về mình nhớ ta chăng,

    Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.

    Năm quan mua lấy miệng cười,

    Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen.


    Hoặc:

    Cái răng đen ai khéo nhuộm cho mình,

    Để duyên mình đẹp, để tình anh yêu.

    Ngày nay trong thế hệ chúng ta, nếu cô gái nào còn nhuộm răng đen chắc sẽ làm trò cười cho thiên hệ. Tuy nhiên, chúng ta phải quan niệm rằng cái đẹp, cái xấu không phải ở ngoại vật. Cũng như răng đen, răng trắng không có cái nào là đẹp, là xấu cả, chỉ có cảm quan của con người ý thức là xấu, là đẹp mà thôi. Thời gian, không gian đã làm thay đổi mỹ cảm con người. Nếu ở thế hệ này, chúng ta cho răng trắng là đẹp, nhưng biết đâu một nghìn năm sau, cái đẹp của răng trắng hôm nay lại trở thành trò cười của hậu thế!

    Răng đen đối với người xưa là cái đẹp chung của phong tục, nhưng răng đen muốn được mọi người lưu ý cần phải óng ánh nữa. Đây, họ đã nói lên cảm nghĩ ấy trong bài ca dao “Mười thương”:

    Ba thương má núng đồng tiền,

    Bốn thương răng lánh hạt huyền kém thua.

    Như vậy thẩm mỹ của người xưa không phải đơn giản như chúng ta tưởng. Họ cũng rất tế nhị. Nếu chúng ta ngày nay so sánh hàm răng chói ngời như những hạt ngọc thì người xưa cũng có mỹ cảm ấy.

    Họ bảo:

    Yếm thắm nhuộm hoa nương,

    Cái răng hạt đậu làm tương anh đồ.

    Anh đồ, biểu tượng cho giai cấp quý phái mà trông thấy cái răng hạt đậu còn phải mềm lòng thì những chàng trai chân lấm tay bùn phải thế nào trước hàm răng đều đặn như hạt đậu? 

    Cảm giác được hàm răng đều đặn là đẹp, họ chê những hàm răng khấp khểnh:

    Mặt rỗ như tổ ong bầu,

    Hàm răng khấp khểnh như cầu rửa chân.

    Nếu ngày nay chúng ta thấy xa cách với tiền nhân vì hàm răng đen, thì chúng ta cảm thấy gần gũi với tiền nhân ở một hàm răng đều đặn và óng ánh.

    b) Mái tóc:

    Về mái tóc đẹp, người xưa chuộng mái tóc dài về đen. Da trắng tóc dài là cái đẹp thiên nhiên, mà nay chúng ta vẫn còn ca tụng.

    Người xưa đã thưởng thức vẻ đẹp ấy trong những câu ca dao như:

    Tiếc thay con người da trắng tóc dài,

    Bác mẹ gả bán cho người đần ngu.

    Hoặc:

    Tóc em dài, em cài hoa lý,

    Miệng em cười hữu ý, anh thương.

    Hình bóng một suổi tóc huyền chảy xuống giữa đôi bờ vai quả là một thần tượng vượt hẳn thời gian, không gian. Ngày nay thần tượng ấy tuy đối với thế hệ chúng ta vẫn còn trọng vọng, tuy nhiên sự trọng vọng ấy đã bắt đầu phai nhạt bằng những mái quăn theo kiểu Âu-Mỹ. Đối với người xưa, tóc quăn là một điều đáng chê.

    Họ châm biếm:

    Tóc quăn chài lược đồi mồi,

    Chải đứng chải ngồi, quăn vẫn hoàn quăn.

    Chẳng những tóc quăn đã không đẹp mà còn tỏ ra là kẻ xấu tánh nữa:

    Tôi đã biết vợ anh rồi.

    Quăn quăn tóc trán là người hay ghen.

    Bởi vậy, ngày nay nếu chúng ta còn giữ được mỹ cảm của người thời xưa trong hình bóng của suối tóc huyền, thì chúng ta lại khác ở họ những mái tóc quăn.

    Vì cho mái tóc huyền là tha thướt ngây thơ, duyên dáng nên người xưa cũng chọn những lối bới tóc có liên hệ đến cái đẹp ấy. Ví dụ họ đã khen kiểu tóc đuôi gà như:

    Chị kia bới tóc đuôi gà,

    Nắm đuôi chị lại, hỏi nhà chị đâu?

    Nắm tóc giữ lại hỏi nhà để làm gì nếu không phải vì say mê tính cách duyên dáng của mái tóc ấy? Thật vậy, một mái tóc huyền khéo trang điểm cũng có thể tạo thành duyên nợ.

    Chị kia bới tóc cánh tiên,

    Chồng chị đi cưới một thiên cá mòi.

    Tuy hài hước nhưng trong cái hài hước ấy không ai không cảm thấy chứa đựng bên trong một tính chất ca ngợi về cái đẹp của mái tóc.

    Nhưng không phải tóc dài trong trường hợp nào cũng đẹp! Cái đẹp tóc dài da trắng chi dành riêng cho đàn bà thôi còn đối với đàn ông tuy ngày xưa vẫn để tóc dài, không phải là hình bóng của thẩm mỹ.

    Họ bảo:

    Đàn bà tốt tóc thì sang.

    Đàn ông tốt tóc thì mang nặng đầu.

    Như vậy chúng ta không thể chê người xưa thiếu thẩm mỹ được. Bởi vì tóc dài biểu tượng cho một hình bóng lả lướt, mảnh mai, nó chỉ thích hợp với thân hình kiều diễm của người đàn bà, còn đối người đàn ông, mang tấm thân hùng tráng, mái tóc dài đối với họ còn có giá trị thẩm mỹ nào nữa đâu. Con suối chỉ đẹp khi còn ở trên sườn đồi, róc rách bên khe đá, uốn khúc qua rặng cây, mà nó sẽ trơ trẽn khi chảy xuống đồng bằng, trở thành mương rạch. Suối tóc huyền cũng thế! Nó không thể là một con suối trên thân hình người đàn ông.

    Việc nhuộm răng để tóc dài, đối với người xưa chính là một phong tục. Tuy cả đàn ông lẫn đàn bà đều giống nhau, nghĩa là cùng nhuộm răng, để tóc dài nhưng về phương diện thẩm mỹ người đàn ông đã lộ vẻ tách rời ra khỏi quan niệm cái đẹp của thể xác.

    Ngoài việc nhuộm răng, để tóc dài, theo phong tục người Việt-nam thuở xưa tổ tiên chúng ta cho là quan trọng, thì về phương diện thẩm mỹ, người bình dân cũng còn có rất nhiều cảm khoái khác nữa đối với dung nhan nữ giới.

    c) Thân mình:

    Nếu chúng ta ngày nay đi tìm cái đẹp trên bóng dáng mảnh mai của người đàn bà, và vì người đàn bà đẹp như cành mai, cây liễu, thì chính mỹ cảm của người xưa cũng không khác mấy. Họ cũng quan niệm thân hình người đàn bà đẹp phải mảnh mai, ẻo lả. Họ ví người đàn bà với cây trúc:

    Trúc xinh trúc mọc bờ ao,

    Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh.

    Cây trúc là một loài cây mảnh khảnh và rất dịu dàng trước gió. Nhưng cây trúc muốn cho mọi người thấy cái đẹp thì phải là cây trúc mọc ở bờ ao mới có giá trị. Còn người đàn bà mảnh mai không cần lệ thuộc vào cảnh vật, bất kỳ họ đứng nơi nào cũng vẫn thấy đẹp. Như vậy người đàn bà mảnh mai có giá trị tuyệt đối mà người bình dân thời xưa đã muốn nói lên điều đó.

    Trong truyện Kiều, Nguyễn-Du tả sắc đẹp của nàng Kiều như:

    Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

    Thì cũng không ngoài cái ý tưởng của người bình dân đã có từ ngàn xưa.

    Cho thân hình mảnh mai, ẻo lả là đẹp, nên họ tán thưởng những cô gái lưng ong:

    Những người thắt đáy lưng ong.

    Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con.

    Thật ngộ nghĩnh. Tại sao những cô gái có thân hình ẻo lả lại khéo chiều chồng? Chiều chồng bằng cách nào? Chúng ta rất khó truy cứu, vì đó chỉ là một kinh nghiệm của tiền nhân, họ không sống với lý luận mà sống với thực nghiệm.

    Người con gái lưng ong chẳng những là nguồn mỹ cảm đối với lớp người bình dân, mà cả đến những anh đồ nho cùng đem lòng luyến ái. Bằng chứng anh đồ nho làm thơ mơ ước cô gái lưng ong:

    Con gái nhà ai ấy vậy mà…

    Lại đây ta hỏi có hay là...

    Môi son má phấn hình như thể…

    Mắt phượng lưng ong ấy cũng là…

    Ăn mặc ra tuồng người ở chốn...

    Nói năng phải lẽ giống con nhà…

    Phải chi ta được mà ta để...

    Ta để làm chi để nữa ta…

    Phải chăng các anh đồ nho cũng đã đạt được yếu tố thực nghiệm của người bình dân, cho cô gái lưng ong là hạng người khéo chiều chồng, suôi con?

    Ngày nay, với thế hệ chúng ta, nguồn mỹ cảm ấy vẫn chưa phai mờ, các chàng trai vẫn còn xem lưng ong là một thần tượng của thẩm mỹ, và chính các cô gái đương thời dù đã có nhiều thay đổi vẫn còn giữ được nguồn thẩm mỹ của ngàn xưa!

    Tiền nhân của chúng ta vì thích cái đẹp của thân hình ẻo lả nên đã bất mãn với những người đàn bà có thân xác không được mảnh mai.

    Họ bảo:

    Những người béo trục, béo tròn,

    Ăn vụng như chớp, đánh con cả ngày!

    Thực ra dù ngày nay có một nhà tâm lý học nào uyên bác đến đâu, cũng khó giãi bày được tại sao người đàn bà béo tròn lại hay ăn vụng và đánh con? Tuy nhiên, chúng ta đừng tưởng lời nói của tiền nhân là vu vơ. Khi một kinh nghiệm đã được di lưu hàng bao nhiêu thế hệ, dù không tìm được nguyên nhân chúng ta cũng không thể nào phủ nhận giá trị của nó.

    Quan niệm mảnh mai, ẻo lả của người thời xưa cũng không có nghĩa là ốm yếu. Theo họ thân hình mảnh mai phải là thân hình cân đối, không ốm, không mập, không cao, không thấp. Bởi vậy rất ít người đạt được tiêu chuẩn về thẩm mỹ của họ, khiến nhiều cô gái đã phải bực mình, bất mãn:

    Cao chê ngỏng, thấp chê lùn,

    Lớn chê béo trục béo tròn.

    Gầy chê xương sống xương sườn bày ra!

    Thật khắt khe! Nhưng đây là nguồn mỹ cảm chung cho một lớp người của một thế hệ, nó không có tính cách cá nhân. Nếu là quan niệm cá nhân thì không thể đóng khung cái đẹp vào một quy luật nào cả. Nếu có người chê mập thì lại có kẻ tìm trong cái mập ấy những cái đẹp riêng biệt của nó. Hoặc có người chê ốm thì lại có kẻ tìm cái đẹp riêng trong cái ốm ấy. Ở đây, chúng ta không đi tìm mỹ cảm cá nhân mà đứng trước quan niệm của tập thể đại da số viết thành qui luật chung cho cái đẹp của dân tộc trong dĩ vãng.
     
    Ban Tang Du Tử and teacher.anh like this.
  8. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    d) Khuôn mặt:

    Khuôn mặt đẹp thường là khuôn mặt sáng sủa và đầy đặn. Ngày nay chúng ta ca tụng khuôn mặt trái soan, nhưng người xưa lại không thích. Họ cho khuôn mặt chữ điền (vuông) mới là đẹp.

    Họ bảo:

    Má miếng bầu coi lâu muốn chửi,

    Mặt chữ điền tiền rưỡi cũng mua.

    Tại sao mặt chữ điền lại đẹp? Điều đó thật khó giải thích. Có lẽ người xưa thích những gì ngay thẳng, hồn nhiên nên quan niệm vuông vắn là đẹp chăng?

    Vì cho khuôn mặt vuông vẫn là đẹp, nên họ không thích má miếng bầu, vì má miếng bầu tuy mới nhìn có vẻ hấp dẫn, song nhìn lâu lại thấy không có vẻ thành thực, đứng đắn.

    Từ chỗ không thích cái má miếng bầu đi đến chỗ họ chê những khuôn mặt phục phịch mà họ cho là mặt mo (dày như cái mo can),

    Mấy người phúng phính mặt mo,

    Chân đi chữ bát dẫu cho không màng.

    Mặt mo quả không đẹp tí nào! Đã không đẹp mà còn biểu lộ tính nết điêu ngoa nữa.

    Trong truyện Kiều, Nguyễn-Du cũng đã gắn cho anh chàng điêu ngoa Sở Khanh một khuôn mặt mo. Vậy tác giả truyện Kiều có chịu ảnh hưởng quan niệm về thẩm mỹ của người bình dân chăng?

    Tục ngữ có câu: “Mặt dày mày dạn” cũng để chỉ cho những khuôn mặt lì lợm, điêu ngoa. Vì mặt dày đây cũng có nghĩa là mặt mo.

    Chẳng những họ không thích những khuôn mặt mập tròn và phúng phính, mà họ còn chê những khuôn mặt không cân đối nữa.

    Họ bảo:

    Thà rằng chịu lạnh nằm không,

    Còn hơn lấy gái lẹm cằm răng hô.

    Như vậy chỉ có mặt chữ điền là khuôn mặt lý tưởng nhất đối với họ, nên họ có những tình cảm thiết tha:

    Chân em đi dép quai ngang,

    Mặt vuông chữ điền liền vành cá chôi.

    Ta thương mình lắm mình ơi!

    Cá chết vì mồi, khốn nạn vì ta.

    Hoặc:

    Cổ tay em vừa trắng vừa tròn,

    Một mũi vuông vức, chồng con thế nào?

    Tuy nhiên, khuôn mặt chữ điền chỉ mới là cái đẹp khái quát, mà trên đôi má vuông vức của khuôn mặt ấy cũng còn điểm thêm hai đồng tiền nữa thì mới hoàn mỹ.

    Má núng đồng tiền, đối với họ, sẽ làm khuôn mặt thêm duyên mỗi khi vừa nói.

    Người bình dân thời xưa đã xem đôi má có núng đồng tiền như là một hấp lực đáng kể của nữ giới, mà người đàn ông không thể nào không lưu ở đây một ít cảm tình.

    Chúng ta tìm thấy tâm trạng của họ qua các câu ca dao như:

    Một thương tóc bỏ đuôi gà,

    Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.

    Ba thương má núng đồng tiền,

    Bốn thương răng lánh hạt huyền kém thua.

    Hoặc:

    Vào vườn trẩy quả cau non,

    Anh thấy em dòn muốn kết nhân duyên.

    Hai má có hai đồng tiền.

    Càng nom càng đẹp, càng nhìn càng ưa.

    Như vậy, má núng đồng tiền không phải không quan trọng đối với thẩm mỹ của người thời xưa.

    c) Làn da:

    Trên đây chúng ta đã thấy da trắng tóc dài là nguồn mỹ cảm của người bình dân rồi. Họ đã ca tụng:

    Nước trong ai chẳng rửa chân,

    Cái má trắng ngần ai chẳng muốn hôn.

    Và, họ rất thích những cổ tay tròn trịa, trắng mịn như:

    Cổ tay em trăng như ngà,

    Con mắt em liếc như là dao cau.

    Tuy nhiên, da trắng đối với họ là tính chất tự nhiên, không vì điểm tô son phấn. Đó là một quan niệm khác hẳn với lớp người quí tộc. Trong lúc những cô gái quí tộc mượn phấn son để làm màu cho sắc đẹp, thì người bình dân lại chống đối.

    Họ bảo:

    Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.

    Họ quan niệm sắc đẹp là do thực chất của mỗi người, không phải vì điểm tô mà lừa dối ai được. Cho nên từ chỗ chuộng làn da trắng họ lại châm biếm những kẻ đem son phấn để phỉnh phờ:

    kia đen thủi đen thui,

    Phấn đánh hồi, đen vẫn hoàn đen.

    Đối với họ, phấn son không cải biến được con người. Chỉ có cái đẹp thiên nhiên mới là cái đẹp có giá trị. Bởi vậy, người bình dân dù là họ không trắng bằng da phấn, họ vẫn tự phụ với giá trị thực chất của nó.

    Họ bảo:

    Trắng da bởi phấn dồi,

    Đen da bởi em ngồi chợ trưa.

    Nói như thế có nghĩa là họ, đánh giá giữa thực chất và giả tạo. Họ cho những cái giả tạo không xứng đáng để so sánh với thực chất.

    Một cô gái nghèo khổ phải dầm dãi nắng mưa, da họ có đen đủi thật, nhưng cái đen đủi ấy là cái đen đủi do hoàn cảnh sinh hoạt tạo nên, vì nếu họ được rảnh rang ngồi trong mát, chưa chắc những kẻ phấn son đã đẹp hơn họ. Như vậy, cái trắng của phấn son và cái đen đủi của sương giỏ đều là những cái giả tạo cả, không phải là cái đẹp hay cái xấu của thực chất, phải vượt ra ngoài sự giả tạo ấy, nghĩa là không da phấn son, vẫn dầm mưa dãi nắng mà vẫn giữ được màu da trắng, thì đó mới là cái đẹp của thiên nhiên, của thẩm mỹ.

    Người bình dân không ưa phấn son, nhưng chuộng da trắng tức là thẩm mỹ của họ gắn liền với cái đẹp thiên nhiên ấy.

    Xét như thế không phải chúng ta bênh vực lớp người bình dân, bởi vì người bình dân là những anh nông phu, những cô thôn nữ đầu tắt mặt tối, có bao giờ được ăn không ngồi rồi đâu. Thế thì cái đẹp mà họ ca tụng không phải là cái đẹp của ăn không ngồi rồi là cái đẹp xuất sắc trong lớp người chân lấm tay bùn ấy.

    Cho nên, nếu họ không thừa nhận cái đẹp của phấn son thì họ cũng không thừa nhận ai đẹp của kẻ ăn không ngồi rồi.

    Họ bảo:

    Trắng da nhờ bởi má cưng?

    Đen da vì bởi lội bưng vớt bèo.

    Cái đẹp của người bình dân phải là cái đẹp trong sức lao động thì mới có giá trị, và mới được họ trọng vọng.

    Cũng như hoa sen, tuy mọc trong bùn mà không vấy bùn, đó mới là điều xuất sắc của loài hoa.

    Dù vậy, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng nắng mưa, sương gió đã làm phai nhạt biết bao nhiêu sắc đẹp của lớp người cần cù chất phác kia, đến nỗi tâm tư họ cảm thấy chứa chan đau khổ:

    Thân em như quả ấu gai,

    Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.

    Ai ơi nếm thử mà xem,

    Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi!

    Tuy là lời than thở, song cũng là tiếng nói uất hận đối với đời sống kham khổ của họ.

    g) Đôi mắt:

    Nếu đôi mắt là giác quan tế nhị nhất của con người dùng để xét đoán ngoại vật, thì đôi mắt cũng là nguồn giao cảm sâu sắc nhất giữa con người và con người. Con mắt diễn đạt tình cảm con người không bằng lời nói mà bằng những đường nét riêng của nó khiến tâm tư con người có thể trao đổi nhau một cách trầm lặng. Chính vì vậy mà xưa nay về phương diện thẩm mỹ, loài người đã để ý nhiều nhất trên cái đẹp của đôi mắt. Người ta đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực để diễn tả cái đẹp huyền diệu của đôi mắt, nhưng họ vẫn chưa hài lòng, vì tiếng nói loài người không đủ để diễn tả những kỳ quan chứa đựng trong đôi mắt, mà chỉ có tâm tư con người mới tìm thấy được trọn vẹn. Một vài nét buồn đọng trên khóe mắt, một vài tia sáng lóe qua rèm mi... chỉ chút ít hiện tượng nhỏ nhặt và thông thường như vậy, ngôn ngữ loài người cũng đã không sao nói lên hết những bí ẩn của nó, huống hồ đôi mắt là một bầu vũ-trụ của tâm tư, tuy bé nhỏ, nhưng lại mênh mông trong địa hạt biến ảo, đến nỗi con người phải ngộp thở khi lạc vào cõi huyền diệu ấy…

    Họ đã gào thét, rên rỉ rất nhiều, để mong cho tiếng gào thét của họ có thể thay thế được ngôn ngữ, nói lên ít nhiều sự bí ẩn của cái đẹp trong đôi mắt, nhưng cuối cùng cũng thất bại, vì tiếng nói của loài người có một cộng đồng hữu hạn, mà sự huyền diệu trong cái đẹp của đôi mắt là vô biên, cho nên muốn diễn tả cái đẹp của đôi mắt người ta chỉ còn có cách dùng tâm tư để diễn tả tâm tư, tức là cái đẹp tiềm tàng của vũ-trụ diễn tả cái đẹp huyền điệu của đôi mắt.

    Thưởng thức cái đẹp của đôi mắt, và diễn tả cái đẹp không bằng ngôn ngữ mà bằng tâm tư, chính người bình dân thời xưa cũng đã dùng đến phương pháp ấy.

    Chúng ta thấy các câu ca dao như:

    Cổ tay em trắng như ngà,

    Con mắt em liếc như là dao cau.

    Thì quả người bình dân đã dùng một hiện tượng để cắt nghĩa một hiện tượng. Ngôn ngữ con người không có tiếng nói nào để diễn tả được cái tầm mức sắc sảo của cái liếc mắt, chỉ có chiếc dao cau mới nói lên phần nào sự sắc sảo ấy. Chiếc dao cau, sang láng và bén nhất trong các loại dao, mà chỉ có người bình dân sống trong thực tế mới phát sinh những ý tưởng so sánh như vậy.

    Một nhà văn không phải trong giới bình dân, cũng đã dùng phương pháp đem hiện tượng giải thích một hiện tượng để ca tụng cái đẹp trong đôi mắt:

    Người đẹp từ hai khoé mắt

    Làm mờ những ánh ngọc trân châu

    Làm phai mặt nước hồ thu thẳm

    Làm nhạt bao nhiêu ánh nhuộm màu.

    Khác với người bình dân, nhà văn bác học không đem chiếc dao cau sánh với đôi mắt, mà đem sự sáng chói của châu ngọc, đem sức trong trẻo của hồ thu để diễn tả.

    Đi xa hơn nữa, những nhà văn học còn đưa cái đẹp của đôi mắt vào lãnh vực siêu tưởng, tượng trưng, để thần thánh hóa sự huyền diệu ấy ra ngoài sức sống hiện tại của con người.

    Đây, chúng ta thử dọc một đoạn trong bài thơ “Đôi mắt” của Bích-Khê:

    Hỡi đôi mắt! Nơi người là ngọc thạch

    Nơi giếng người phản chiếu ánh thiên thần

    Nơi suối nguồn giữ kín tiếng châu ngân

    Nơi triển lãm cả một bầu tiên động

    Nơi rung rinh cả mặt trời thơ mộng

    Người là ai? Người hỡi! Người là ai?

    Tuy nhiên, các nhà thơ bác học dù có đi đến lãnh vực tượng trưng, siêu tưởng hay thế nào đi nữa cũng không thoát ra ngoài phương pháp dùng hiện tượng giải thích một hiện tượng thay cho ngôn ngữ, mà chính người xưa cũng đã đạt đến bước đầu của phương pháp ấy.

    Thưởng thức cái đẹp trên đôi mắt người bình dân thời xưa không có những cảm giác thần tượng hóa như những nghệ sĩ trong thế hệ chúng ta ngày nay. Tuy tiếng nói của họ mộc mạc, không đủ để nói lên mỹ cảm của mình song họ vẫn xem cái đẹp của đôi mắt là cái đẹp của con người. Họ nhận xét:

    Người khôn con mắt đen sì,

    Người dại con mắt nửa chì, nửa thau.

    Không cần phân tích nhiều, không cần đem tâm tư mình đến một thế giới nào xa xôi, chỉ cần một vài so sánh giữa cái đẹp và cái xấu, người bình dân đã cho chúng ta thấy rõ mỹ cảm của họ không phải kém tinh vi. Nếu Nguyễn Du tả đôi mắt đẹp của giai nhân như một “làn thu thủy”, thì cũng chỉ để nói lên sự trong suốt của đôi mắt mà thôi. Người bình dân nhìn màu đen trong đôi mắt là hiện tượng của sự minh mẫn, sắc sảo, khôn ngoan. Cái đẹp phát lộ từ màu đen ấy. Sự nhận xét của họ tuy thông thường nhưng thực tế dễ hiểu hơn chúng ta.

    Nhưng, đối với họ, đôi mắt đẹp có những yếu tố như sắc sảo, lanh lẹ, đen nhánh chưa đủ, mà phải tròn trĩnh nữa. Bởi vậy họ chê những người mắt hí:

    Những người ti hí mắt lươn,

    Trai thì ăn cướp, gái buôn chồng người.

    Ti hí mắt lươn có nghĩa là mắt dài mà không mở rộng ra được. Đối với họ mắt lươn đã không đẹp, mà còn biểu lộ tính dâm đãng, hoang đàng nữa.

    Không thích mắt lươn, nhưng họ cũng không thích mắt lồi. Loại mắt này họ cho là mắt ốc, đã không hợp với mỹ cảm mà còn xấu xa, hung hăng:

    Họ bảo:

    Mấy người con mắt ốc nhồi,

    Có tài đánh vợ, đập nồi đập niêu.

    Nhưng con mắt lá răm thì họ lại cho là đẹp:

    Mấy người con mắt lá răm,

    Chân mày lá liễu đáng năm quan tiền.

    Lá răm có hình một đầu to, đầu nhỏ. Quan niệm mất lá răm là đẹp chính họ đã chú trọng đến hai khóe mắt và tìm thấy đó là nơi diễn biến tình cảm con người một cách độc đáo. Xưa nay sử sách đã ghi lại biết bao thành nghiêng nước đổ vì đôi khóe mắt của giai nhân!

    Cùng với quan niệm cho đôi mắt lá răm là đẹp, người bình dân thời xưa cũng còn dành rất nhiều mỹ cảm với đôi mắt bồ câu.

    Mắt bồ câu tuy tròn trĩnh, không có đôi khóe sắc sảo, song đối với họ, mắt bồ câu lại chứa đựng nhiều cảm tình! Tâm tư của họ được gắn liền với đôi mắt bồ câu trong các da ca dao như:

    Cầm vàng ném xuống vực sâu,

    Mất vàng không tiếc, tiếc đôi mắt bồ câu hữu tình.

    Như vậy nguồn thẩm mỹ của người bình dân thời xưa đối với đôi mắt cũng không phải là lãnh đạm lắm.

    h) Làn môi:

    Nếu đôi mắt là bầu vũ trụ của tâm tư, chứa đựng tính chất biến ảo mà cảm giác con người không thể nào đón bắt, thì làn môi lại là một vườn hoa muôn sắc, tô điểm cho bầu vũ trụ biến ảo của tâm tư thêm linh động hơn.

    Một nụ cười thoáng đọng trên môi, khi khóe mắt long lanh vài tia sáng thì chính đó là một mùa xuân đầy ám áp. Nhưng nếu khi rèm mi đẫm lệ, đôi môi hồng khép kín thì đó chính lại là một mùa đông lạnh lẽo, u buồn. Và rèm mi không đến nỗi quá ẩm ưới, khóe mắt thoáng đọng hơi sương, sắc hoa trên môi không được tươi thắm, thì đó lại là một mùa thu chứa đầy thơ mộng... Chúng tôi không muốn nói đến mùa hạ, cái mùa mà đôi mắt nảy lửa tàn phá mọi cánh hoa đẹp trên sắc môi hồng, làm cho cảm giác con người bị nóng bỏng, khó chịu...

    Người bình dân thời xưa nếu đã đem tâm tư gắn liền với cảnh vật thiên nhiên, lấy thiên nhiên làm nguồn cảm hứng, dĩ nhiên không thể tách rời nguồn thầm mỹ của mình đối với mọi diễn biến của tâm tư, mà làn môi con người là vườn hoa muôn sắc.

    Thưởng thức cái đẹp trên làn môi ví với các cánh hoa, như:

    Nụ cười như thể hoa ngâu,

    Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.

    Cái đẹp của thiên nhiên được họ gắn liền với cái đẹp của con người.

    Nguồn thẩm mỹ của chúng ta ngày nay cũng không khác gì nguồn thẩm mỹ của người bình dân thời xưa, chúng ta cũng chỉ có thể diễn tả cái đẹp trên làn môi bằng những cái đẹp của các đóa hoa mà thôi.

    Đây, một nhà thơ hôm nay đã diễn tả cái đẹp của làn môi qua nụ cười:

    Một cười héo cả trăm hoa nở,

    Say cả con sông, đắm cả trời.

    Đuổi cả mối sầu muôn vạn kiếp,

    Bẽ bàng tất cả những màu tươi!

    Tuy nhiên, nếu ngày nay chúng ta chỉ chú trọng cái đẹp trên hai bờ môi bằng nụ cười, bằng tính chất khát vọng của yêu đương, thì người xưa lại còn một tầm quan sát tế nhị hơn chúng ta nữa. Theo họ làn môi muốn cho đẹp, ngoài việc đỏ mọng, còn phải đều đặn, không mỏng, không đầy, không cong, không quặp. Điều đó biểu lộ tinh thần thực tiễn của họ. Họ đã đem mỹ quan nhìn thẳng vào sự vật để phân tách cái đẹp của thực tế ấy.

    Vì vậy, họ đã có những nhặn xét như sau:

    Mỏng môi ăn vụng nhà trong,

    Dày môi nói láo, cong môi ăn hàng.

    Môi mỏng, môi dày, môi cong đối với họ đều không phải những làn môi gợi cảm mà còn chứa đựng những tánh nết xấu xa.

    Tầm mắt họ chẳng những chỉ nhìn vào cái đẹp, cái xấu trên hai làn môi, mà còn nhìn chung cả cái miệng nữa.

    Miệng rộng đối với người đàn bà không được họ tin tưởng.

    Họ châm biếm:

    Đàn ông miệng rộng thì sang,

    Đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà.

    Hoặc:

    Đàn ông rộng miệng tài,

    Đàn bà miệng rộng điếc tai láng giềng.

    Rộng miệng ở đây tuy họ dùng nghĩa bóng (rộng họng lớn tiếng) nhưng không phải vì thế mà cái miệng rộng không bị họ chê bai.

    i) Chân mày:

    Chân mày là đường nét điểm trang cho khuôn mặt, đồng thời cùng biểu lộ những tình cảm con người qua trạng thái tâm tư.

    Cũng như chúng ta ngày nay, người xưa đã phân biệt nhiều kiểu chân mày như chân mày vòng nguyệt, chân mày lá liễu, chân mày rô, chân mày ngài.

    Tuy nhiên, dù loại chân mày nào, cái đẹp vẫn có chỗ sắc sảo. Người ta đã ví đường chân mày vòng nguyệt, một nét vẽ trên đỉnh núi mùa xuân, hoặc một làn sóng uốn cong trên mặt nước... Tất cả hình bóng ấy cũng chỉ để diễn tả cái sắc sảo của nó mà thôi.

    Theo ca dao thì người xưa thích nhất là hai loại chân mày: chân mày lá liễu và chân mày vòng nguyệt.

    Họ ca tụng chân mày lá liễu như:

    Những người con mắt lá răm,

    Chân mày lá liễu đáng trăm quan tiền.

    Cũng như lá răm, lá liễu hình thon, có một cái đuôi rất nhọn. Cái nhọn của lá liễu chứa đựng một hiện tượng sắc bén phù hợp với đôi khóe mắt lá răm. Chính nhờ hai mũi nhọn ở khóe mắt đuôi mày mà vẻ mặt con người trở nên sắc sảo. Nhiều giai nhân đã dùng nó sát hại không biết bao nhiêu anh hùng háo sắc. Cho đến người nông phu, chân lấm tay bùn cũng mê mệt vì nó, và cũng sợ hãi đến nỗi phải than thở:

    Nhà anh chín đụn mười trâu,

    Lại thêm ao cá bắc cầu rửa chân.

    Cầu này cầu ái cầu ân,

    Một trăm con gái rửa chân cầu này.

    Có rửa thì rửa chân tay,

    Chớ rửa lông mày chết cá ao anh.

    Thật là hài hước, châm biếm! Tuy nhiên, trong cái hài hước, châm biếm ấy lại nói lên được tính chất độc địa của đôi chân mày sắc sảo ấy. Cái sắc sảo đến nỗi cá dưới ao còn phải lăn đùng ra chết, huống hồ con người, một sinh vật biết háo sắc!

    Trong “Cung oán ngâm khúc” chính Ôn-như-Hầu cũng đã nhân cách hóa sự vật đã nói lên cái đẹp của nàng Phi Tần:

    Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn,

    Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa,

    Cái đẹp “chim sa cá lặn. Thiết tưởng không còn cái đẹp nào hơn. Xem thì, cảm giác của một nông phu và một trí thức đôi lúc cũng có chỗ gặp nhau.

    Nếu họ đã thấy đôi mắt lá răm phù hợp với đôi mày lá liễu, thì họ cũng thấy đôi mắt bồ câu phải đi đôi với đôi mày vòng nguyệt

    Đôi mày vòng nguyệt không có đuôi nhọn như đôi mày lá liễu, song lại chứa đựng nhiều tình cảm, cái tình cảm ủy mị, quyến rũ hơn là cái đẹp sắc sảo.

    Họ bảo:

    Chân mày vòng nguyệt thì thương,

    Chân mày mũi mác là phường dâm ô!

    Chân mày mũi mác cũng có cái nhọn nhưng cái nhọn trực trần bộc lộ tính nết dâm dật, họ không thích.

    k) Đôi vú:

    Theo bài khảo luận về “Văn học bình dân nữ giới” trong Phụ nữ tân văn số 15 ngày 8.8.1929. ông Phan-Khôi có viết:

    “Ở Trung-kỳ và Bắc-kỳ vẫn có phong tục nịt vú cho nhỏ tại. Tục này hình như ở Nam-kỳ không có. Bên Tàu cũng có tục này, nhưng gần đây người ta cho là hại sức khỏe, nên có cuộc cổ động cho đàn bà không nịt vú nữa. Đó là cuộc đấu tranh giải phóng bộ ngực đàn bà mà họ gọi là “Nữ tử hung bộ chí giải phóng”. Cuộc đấu tranh này cũng công phu lắm, chẳng khác cuộc đấu tranh bài trừ phong tục bó chân của người Mãn-thanh”.

    Xem thế, chúng ta thấy rằng nguồn mỹ cảm của chúng, ta ngày nay đã đổi khác và đi đến chỗ ngược lại.

    Nếu người xưa vì thích vú nhỏ phải nịt lại cho hợp với thẩm mỹ, thì ngày nay chúng ta lại cho vú to là là đẹp; nên phải độn thêm. Nịt lại hay độn thêm đều là những hành động ràng buộc, có hại đến sức khỏe cả. Nhưng việc đó thuộc phạm vi nghiên cứu của những nhà y học, đây chúng ta không bàn đến.

    Lãnh vực chúng ta cần bàn đến là nguồn gốc của cái đẹp. Tại sao người xưa cho vú nhỏ là đẹp, trái với thẩm mỹ của chúng ta ngày nay!

    Thực ra phong tục nịt vú là phong tục ảnh hưởng do nền văn hóa Trung-quốc. Người Trung quốc thuở xưa vì chú trọng đến đạo học, nên quan niệm cái đẹp phải trong kín đáo, không phô bày, lộ liễu ra ngoài. Nguồn mỹ cảm của họ thoát thai trong một xã hội, do đó cảm tính con người bị đóng khuôn vào lý trí, do lý trí điều khiển. Mọi hiện tượng sỗ sàng đều bị coi là bất chính cả. Nền đạo lý Trung-quốc du nhập sang nước ta, quan niệm thẩm mỹ vẫn ảnh hưởng vào lớp người quí tộc, và chỉ có lớp người quí tộc mới chịu ảnh hưởng về phong tục nịt vú ma thôi. Người bình dân Việt-nam không hề chịu ảnh hưởng ấy.

    Trong bài khảo luận về “Văn học bình dân nữ giới”, ở báo Phụ nữ tân văn số 15 ngày 8.8.1929, ông Phan-Khôi đã căn cứ vào câu ca dao:

    Trên đầu em đội khăn vuông,

    Trông xuống dưới ngực cau buồng còn non.

    Cổ tay em vừa trắng vừa tròn,

    Mặt mũi vuông vắn, chồng con thế nào?

    Và kết luận rằng: “Cau buồng còn non là cái nhỏ. Người bình dân vẫn cho đôi nhỏ là đẹp”.

    Theo chúng tôi, nếu Phan tiên sinh chỉ căn cứ vào một câu ca dao như vậy mà xác định một quan niệm thẩm mỹ của người bình dân thời xưa là không chính xác.

    Nếu quan niệm vú nhỏ là đẹp thì tất nhiên thị hiếu quần chúng bắt buộc các cô thôn nữ đều phải nịt vú hết, và quan niệm người bình dân sẽ đồng hóa với quan niệm duy lý của lớp người quí lộc, và cả quan niệm duy lý của người Trung-hoa nữa. Ở đây, chúng tôi thấy trái lại.

    Trước hết, chúng tôi không đồng ý với Phan tiên sinh về lời giải thích câu ca dao trên. Theo chúng tôi, “cau buồng còn non” không có nghĩa là tán thưởng cái vú nhỏ, mà có ý ca tụng tuổi dậy thì của cô gái mới bước vào vườn xuân. Vậy, câu ca dao trên không có nghĩa là người bình dân thời xưa vú nhỏ. Nếu họ có thích là thích cái tuổi dậy thì của cô gái ấy.

    Mặt khác, người bình dân là người đầu tắt mặt tối, sắc đẹp của họ bao giờ cũng phó thác cho thiên nhiên, đẻ con ra phải cho bú có lúc nơi xó bếp, có lúc trên mặt đê có lúc banh ngực ra trước cửa nhà. Lối sinh hoạt như vậy chứng tỏ họ không bị ràng buộc vào nguồn thẩm mỹ của duy lý. Trái lạ, họ cũng không có ý phô trương để khêu gợi dục tình như những cô gái thế hệ chúng ta ngày nay. Nguồn mỹ cảm của họ dựa vào qui luật đang lên của sức sống không chịu ràng buộc, cũng không chịu giả tạo, họ chỉ tán thưởng những gì tự nhiên của tạo hóa. Vậy chúng ta không thể gắn cho họ một mỹ cảm nào khác hơn là thích cái đẹp tự nhiên của tuổi xuân thời.

    Chính họ đã nói lên cái quan niệm ấy trong các câu ca dao như:

    Nước sông Ba chảy qua sông Cú,

    Thấy dáng em chèo hai cái vú nơ nơ.

    Một bộ ngực tròn trịa của cô gái chèo thuyền trên sông đã làm cho các chàng trai đồng nghiệp tán thưởng như vậy, chúng ta không thể nào bảo họ thích vú nhỏ được.

    Và đây, một thôn nữ than thở với chồng:

    Một ngày ba bận trèo đèo,

    Vì đâu vú xếch lưng eo hỡi chàng.

    Thì rõ ràng chúng ta thấy họ mến tiếc cái đẹp tròn trịa của tuổi xuân thì.

    i) Giọng nói:

    Giọng nói tuy bên ngoài sắc diện, song đối với mỹ cảm con người không phải không quan trọng. Xưa nay người ta đã cho hai yếu tố thanh và sắc đều có tác động đi vào cảm giới con người.

    Thời xưa, người bình dân tuy cần cù, chất phác, lời nói của họ không văn hoa, bay bướm, song không vì thế mà cảm giới họ không thú nhận nổi hấp lực trong địa hạt âm thanh.

    Một giọng hát vắt vẻo trên lưng đồi, ngân vang trong ngàn cây nội cỏ. Một giọng hò lả lướt mông lung theo ánh trăng hòa lẫn với tiếng chày khua, chính đó là hoàn cảnh đưa giá trị của âm thanh vào nghệ thuật. Người bình dân suốt đời sống trong ruộng lúa nương dâu, vui với câu hò, tiếng hát, dĩ nhiên không thể không có một nguồn mỹ cảm đối với âm thanh được.

    Từ cái trong trẻo của giọng hò tiếng hát đi dần đến giọng nói thanh tao của con người trong lúc tình, dĩ nhiên đó là chuyện tất yếu. Đành rằng họ không cần đến lời nói hoa mỹ, khuôn phép, họ chỉ cần những câu nói hồn nhiên, chân thật, song trong cái hồn nhiên, chân thật ấy họ lại thích có được giọng nói quyến rũ của con người.

    Lời nói hoa mỹ là do khả năng của con người tạo nên, nhưng giọng nói thanh tao là do thiên nhiên đúc kết. Không phải vì tính chất cần cù, mộc mạc mà người bình dân không có được giọng nói thanh tao.

    Đối với họ giọng nói thanh tao là do thiên phú. Bởi vậy, trong ca dao bình dân chúng ta thấy rất nhiều chỗ phân tích cái đẹp trong giọng nói con người.

    Thí dụ:

    Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,

    Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.

    Giọng nói lại thường đi đôi với hình dung. Cho nên người đẹp nói tiếng không thanh tao thì cái đẹp ấy cũng giảm mất giá trị, ngược lại người đẹp mà nói tiếng thanh tao thì cái đẹp ấy cũng tăng giá trị.

    Vì chuộng giọng nói thanh tao, trong trẻo, họ đã đem tiếng nói con người ví với tiếng chuông ngân:

    Người thanh tiếng nói cũng thanh,

    Chuông kêu sẽ đánh bên thành cũng kêu.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/1/16
    Ban Tang Du Tử and teacher.anh like this.
  9. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    2) PHỤC SỨC

    Về phục sức đối với người phụ nữ bình dân thuở xưa có lẽ nhiều điểm khác biệt với thế hệ chúng ta ngày nay.

    Thời xưa, nói đến đàn bà là nói đến khăn và yếm. Có lẽ hai món trang phục ấy là căn bản cho nguồn thẩm mỹ của họ.

    Vậy trước nhất, chúng ta thử tìm hiểu cái đẹp của khăn và yếm:

    a) Cái khăn:

    Cái khăn ta dùng để đội đầu trùm tóc, giữ cho mái tóc duyên dáng khỏi bị rối rắm. Đó là công dụng chính yếu mà người phụ nữ bình dân ưa chuộng. Với công dụng ấy, cái khăn đội đầu dần dần trở thành vật trang sức mang tính chất thẩm mỹ của nữ giới.

    Người bình dân đã để ý đến chiếc khăn đội đầu của phụ nữ như một vật bất ly thân, thiếu nó, người phụ nữ không còn vẻ đứng đắn, mỹ miều nữa

    Trong ca dao, họ đã có nhiều câu ca tụng cái khăn đội đầu như:

    Nụ cười như thể hoa ngâu,

    Cái khăn dội đầu như thể hoa sen.

    Dĩ nhiên, trang sức để làm tăng vẻ đẹp của người đàn bà, nhưng mục đích của nó cũng còn phải hợp với tính chất sinh hoạt hàng ngày nữa. Người đàn bà Việt-nam sống về nghề nông, phần nhiều làm lụng vất vả, bởi vậy, lối trang sức phải gọn gàng, ít vướng bận.

    b) Cái yếm:

    Có lẽ cái yếm là vật được lưu ý nhất trong lối phục sức của người đàn bà thời xưa, nên trong ca dao đã nói rất nhiều đến cái yếm!

    Thực ra, cái yếm chỉ là một vật lót mình, một mảnh vải để che ngực, nó bị khuất dưới lớp áo ngoài chỉ còn chừa hở một phần ở cổ áo. Tuy nhiên, sở dĩ nó làm tăng duyên dáng cho người đàn bà cũng chỉ vì tánh tò mò về mỹ cảm của người đàn ông.

    Sự tò mò về thẩm mỹ ấy, đã đẩy nữ giới vào quĩ dạo đua tranh, và chính nữ giới lại dùng nó để thu hút cảm quan của nam giới.

    Bởi vậy, chúng ta thấy có những câu ca dao dí dỏm như:

    Yếm thắm mà nhuộm hoa nương,

    Cái răng hạt đậu làm tương anh đồ.

    Yếm thắm mà vã nước hồ,

    Vã đi vã lại anh đồ yêu đương.

    Chỉ cần nhuộm cái yếm cho tươi, vã nước hồ cho bóng cũng có thể lung lạc được tình yêu, đủ biết tầm quan trọng của cái yếm đến bực nào rồi! Cho nên các cô không dại gì không thi nhau sắm sửa cái yếm cho đẹp, để các chàng trai lưu ý.

    Và đây, chính các chàng cũng đã mê mệt trước những chiếc yếm đẹp ấy:

    Hỡi cô yếm thắm lòa xòa,

    Yếm nhiễu yếm vóc hay là trúc bâu?

    Hay là lụa bạch bên Tàu?

    Người cắt cũng khéo, người khâu cũng tài.

    Chẳng những đua nhau sắm những chiếc yếm đắt tiền mà các cô còn bày vẽ thêu chim, thêu hoa trên mặt yếm nữa để chiếc yếm thêm phần giá trị:

    Một đàng em thêu nên nhạn,

    Một tiền em mạng nên hoa,

    Yếm em nay để trong nhà,

    Khen thay thầy mẹ mở khóa đưa ra cho nàng.

    Thẩm mỹ của người bình dân đã đặt rất nhiều trên chiếc yếm. Bởi vậy, người con gái nào lúc đi lấy chồng cũng có xin cha mẹ một chiếc yếm thật đẹp để khỏi mất mặt với nhà chồng:

    Lạy cha ba lạy một quì.

    Lạy mẹ bốn lạy con đi lấy chồng.

    Mẹ sắm cho con cái yếm nhất phẩm hồng,

    Trước là đắc nghĩa cùng chồng,

    Sau là họ mạc cũng không chê cười!

    Yếm đẹp chẳng những làm mê một người thế tục, mà còn làm điêu đứng các nhà tu hành nữa:

    Ba cô đội gạo lên chùa,

    Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư.

    Sư về sư âm tương tư,

    Ốm lăn, ốm lóc cho sư trọc đầu.

    Ai làm cho dạ sư sầu,

    Cho ruột sư héo, cho bầu đứt dây!

    Như vậy, thử hỏi làm sao các cô gái thời xưa không xem trọng cái yếm và không xem cái yếm là vật trang sức đứng vào hàng đầu.

    Ngoài cái khăn và cái yếm, người đàn bà thời xưa còn để ý đến cái nón nữa.

    Cái nón tuy là vật che nắng che mưa, song không phải đứng ngoài tầm thẩm mỹ. Các cô đã dùng cái nón làm vật trang sức:

    Ba cô cùng ở một nhà,

    Cùng đội nón thúng, cùng ra thăm đồng.

    Cái nón người bình dân thời xưa không phải như chiếc nón lá chúng ta hiện dùng, mà là loại nón thúng (có chỗ gọi nón thượng, có chỗ gọi nón cụ) cột quai thao:

    Ai làm cái nón quai thao.

    Để cho anh thấy cô nào cùng xinh!

    Cái nón nhỏ,

    Quai vàng chí ngực.

    Em ham chi cái chỗ sang giàu sau cực đừng than,

    Nón cụ quai tơ,

    Có tờ giấy đỏ

    Anh ở khác tổng khác làng nào rõ bên em!

    Ngoài ba món trang sức căn bản trên, người phụ nữ bình dân thời xưa cũng có đeo hoa tai, vòng vàng. Hoa tai được xem như vật quan trọng của hôn lễ, còn vòng vàng thì ít được nói đến. Cái đẹp trong lối đeo hoa tai, vòng vàng chỉ còn lưu lại một ít trong các câu ca dao như:

    Một mai thiếp có xa chàng

    Đôi bông thiếp trả, đôi vòng thiếp xin.

    Tai nghe lệnh cấm hoa tai.

    Em đeo hoa lý, hoa lài cũng xinh.

    Về phương điện ăn mặc của người đàn bà bình dân thời xưa, chúng ta có thể gom vào mấy câu sau đây:

    Con gái đương thời đã nên con gái,

    Cái áo em mặc chải chải hoa hồng.

    Trong yếm dại đồng, chuỗi xe con toán,

    Cái quai dâu chạm em đội trên đầu.

    Cái nhôi dâu gấp quấn vào đỏ chói,

    Lỗ miệng em nói có hai đồng tiền.

    Như cánh hoa sen những ngày mới nở,

    Khi em đi chợ, có kẻ gánh gồng.

    Anh đứng anh trông, má hồng đỏ thắm,

    Anh đứng anh ngắm, đẹp đẽ làm sao!
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/1/16
    Ban Tang Du Tử and teacher.anh like this.
  10. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    3. CÁI ĐẸP TINH THẦN

    Trên đây, chúng ta chỉ mới xét qua nguồn thẩm mỹ của người bình dân thời xưa trên hai phương diện nhan sắc và phục sức nghĩa là chúng ta chỉ mới nói đến quan niệm về cái đẹp vật chất của họ mà thôi. Ngoài cái đẹp vật chất người bình dân còn có cái đẹp tinh thần. Chính ở lãnh vực nầy mới là căn bản thẩm mỹ của họ.

    Người bình dân đã cân nhắc giữa hai cái đẹp vật chất và tinh thần.

    Họ bảo:

    Tốt gỗ hơn tốt nước sơn,

    Xấu người đẹp nét còn hơn đẹp người.

    Cái đẹp vật chất tuy họ cũng trọng, song nếu đem so sánh với cái đẹp tinh thần thì cái đẹp vật chất lại ở vào hàng thứ yếu.

    Bởi vậy theo họ:

    Cái nết đánh chết cái đẹp!

    Cái nết mới là cái quan trọng đối với mỹ cảm. Vậy, cái nết đối với họ là gì? Đó là tính tình, là sự đối xử, là quan điểm và lẽ sống, là sự ràng buộc giữa con người và con người, v.v… Nói tóm lại là quan niệm nhân sinh.

    Nhưng, nếu chúng ta đã xét thấy người bình dân đem cái đẹp tinh thần đặt lên trên cái đẹp vật chất như vậy, quan niệm nhân sinh của người bình dân có nhằm vào quan niệm nhân sinh duy lý của Nho giáo không?

    Chúng tôi mạnh dạn trả lời là không. Quan niệm nhân sinh duy lý của Nho giáo đặt căn bản phụ hệ trên tổ chức gia đình, uốn nắn cái đẹp của tâm hồn người đàn bà phải phục tùng dưới quyền hạn của người đàn ông, lấy tứ đức tam tòng làm khuôn thước, trong lúc cái nết mà người bình dân dành cho người đàn bà không phải như thế. Nó phát xuất ở căn bản bình đẳng hôn nhân, ở tâm hồn chung thủy, ở tình tương thân tương ái, trong hoàn cảnh sinh sống, mà chúng ta đã đề cập đến trong mục “Quan niệm hôn nhân” và mục “Tính chất cần cù, nhẫn nại, chất phác” của người bình dân!

    Căn bản nhân sinh đã không giống nhau, thì cái đẹp tinh thần trong quan niệm của người bình dân cũng không nằm trong cái đẹp duy lý của Nho giáo được. Chính vì thế, mà lúc guồng máy đô hộ của người Trung-hoa du nhập vào Việt-nam, lấy nền tảng đạo đức duy lý của Khổng Mạnh áp dụng, liền bị lớp người bình dân Việt-nam chống đối tạo thành sức phản ứng trong lãnh vực gia đình và hôn nhân mà chúng tôi gọi là những biến thái của tình yêu.

    Vậy trong mục “Biến thái của tình yêu” chúng tôi sẽ phân tích kỹ về điểm này.

    Ở đây, trong mục “Quan niệm về cái đẹp và cái xấu” của người bình dân, sau khi đã phân tích, chúng tôi thấy ý thức của họ về vật chất cũng như về tinh thần bao gồm trong bài hát “Mười thương” sau đây:

    Một thương tóc bỏ đuôi gà,

    Hai thương ăn nói mặn mà có duyên,

    Ba thương má núng đồng tiền,

    Bốn thương răng lánh hạt huyền kém thua.

    Năm thương cổ yếm thêu thùa,

    Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng.

    Bảy thương nết ở khôn ngoan,

    Tám thương ăn mặc lại càng thêm xinh.

    Chín thương cô ở một mình,

    Mười thương con mắt hữu tình với ai!

    *

    Tóm lại, nguồn thẩm mỹ của người bình dân thời xưa phát xuất từ nhân sinh quan của họ. Họ chuộng cái đẹp tự nhiên, cái đẹp của thiên tánh, không bị gò bó không bị giả tạo, cái đẹp phát xuất từ tình thương, từ nguồn sống trong bản chất giữa con người với con người. Cho nên, cảm giới của họ gần gũi với chúng ta trong địa hạt thiên nhiên hơn là trong địa hạt văn minh vật chất.

    Nếu cảm giới của xã hội văn minh vật chất đi sâu vào quan niệm duy mỹ, tạo cho tâm hồn con người một ý thức lãng mạn, thì chính quan niệm người bình dân lại khác hẳn. Họ đem cái đẹp của tâm tư hòa vào cái đẹp của bản năng.

    Ngược lại, nếu cảm giới của xã hội văn minh về tinh thần lấy quan niệm duy lý làm nền tảng, dùng cái đẹp của của lý trí trấn áp cái đẹp của bản năng, thì chính quan niệm người bình dân lại cũng khác hẳn. Họ vượt ra ngoài cái đẹp gò bó của lý trí, chan hòa giữa hai nguồn mỹ cảm vật chất và tinh thần.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/1/16
    Ban Tang Du Tử and teacher.anh like this.
  11. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Phần tuyển tập ca dao tiêu biểu cho Ý THỨC VỀ CÁI ĐẸP, CÁI XẤU

    1. Ai xui má đỏ hồng hồng,

    Để anh nhác thấy đem lòng thương yêu.

    2. Áo anh đứt cúc đứt khuy,

    Quần anh đứt đũng lấy chi hoa hòe.

    3. Ba đồng một bát nước chè,

    Tuy rằng em đẹp nhưng què một chân.

    4. Cái nết đánh chết cái đẹp,

    Con cóc lắc lẻo lại đòi trèo thang.

    5. Cái cổ yếm em có thõng thòng thòng,

    Tay em đeo vòng như bắp chuối non,

    Em khoe em đẹp em tròn,

    Anh trông nhan sắc em còn kém xuân.

    6. Cau già dao sắc lại non,

    Người già trang điểm phấn son vẫn già.

    7. Cau già dao sắc lại non,

    Nạ dòng trang điểm lại giòn hơn xưa.

    8. Con mắt lá răm,

    Lông mày lá liễu, đáng trăm quan tiền.

    9. Con gái đang thời đã nên con gái,

    Cái áo em mặc chãi chãi hoa hồng,

    Trong yếm dại hồng, chuỗi xé con toán.

    Cái quai dâu chạm em đội trên đầu,

    Cài nhôi đầu gấp quăn vào đỏ chói,

    Lỗ miệng em nói có hai đồng tiền.

    Như cánh hoa sen những ngày mới nở,

    Khi em đi chợ, có kẻ gánh gồng.

    Anh đứng anh trông má hồng để thăm.

    Anh đứng anh ngắm, đẹp đẽ làm sao,

    Con cháu ông nao chân đi đẹp đẽ,

    Anh có vợ rồi chẳng lẽ anh xiêu.

    10. Con người mặt hoa da phấn,

    Con mình mặt cú da lươn.

    11. Cô kia má phấn môi son,

    Nắng dầu mưa dãi càng giòn càng ưa.

    Cô kia mặt trẽn mày trơ,

    Vàng đeo, bạc quấn cũng dơ dáng người.

    12. Chân mày vòng nguyệt có duyên,

    Tóc mây dợn sóng đẹp duyên tơ hồng.

    13. Chợ Bến-thành mới,

    Kẻ lui người tới,

    Xem tứ diện rất xinh,

    Thấy em tốt dạng, tốt hình.

    Chẳng hay em có chốn duyên tình hay chưa.

    14. Đàn ông đóng khố đuôi lươn,

    Đàn bà mặc yếm hở luờn mới xinh.

    15. Đàn ông cao cẳng có tài,

    Đàn bà cao cẳng l... dài thước năm!

    16. Đôi ba, đôi ba,

    Tuổi cô mình còn chừng độ đôi ba,

    Em vận cái quần trứng sáo, cái áo thêu hoa phất phơ nhuộm màu

    Em đã xinh em lại có nhiễu đội đầu,

    Em đội cái nón xứ Nghệ ra màu điểm trang.

    Em đã xinh em lại nhuộm cái bộ răng vàng,

    Mảnh gương Tư-mã thiếp với chàng càng soi chung.

    17. Đấy vàng đây cũng đồng đen,

    Đây hoa sói trắng, đây sen Tây-hồ.

    Đây em như tượng mới tô,

    Đây anh như người ngọc họa đồ trong tranh.

    18. Hoa tươi trong độ gió đông,

    Gái xinh, xinh đến có chồng thì thôi.

    19. Hoa thơm ai chả muốn theo,

    Người đẹp ai chả muốn theo về nhà.

    20. Hoài tiền mua mía đánh khăng,

    Để tiền mua thuốc nhuộm răng cho nàng,

    20. Mẹ ơi con mẹ hư rồi,

    Dẫu mà trang điểm phấn dồi cũng hư.

    22. Mỏng môi ăn vụng nhà trong,

    Dầy môi nói láo, cong môi ăn hàng.

    23. Một mình lo bảy lo ba,

    Lo cau trổ muộn, lo già hết duyên.

    24. Người xấu duyên lặn vào trong,

    Bao nhiêu người đẹp duyên bông ra ngoài.

    25. Người xinh cái bóng cũng xinh,

    Người giòn cái tỉnh tình tinh cũng giòn.

    26. Những người mặt nạc đen dày,

    Mo nang trời đất biết ngày nào khôn.

    27. Những người chép miệng thở dài,

    Chỉ là sầu khổ bằng ai bao giờ.

    28. Những người lỗ mũi hểnh lên,

    Của xe chất lại một bên cũng nghèo.

    29. Răng đen mà đổ hột cườm,

    Giả như trái lựu chín lườm trên cây.

    30. Tai nghe lịnh cấm hoa tai,

    Em đeo hoa tý, hoa lài cũng xinh.

    31. Tốt đẹp chi mà anh mơ màng,

    Như con cá lẹp thưa sàng lọt đi.

    32. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn,

    Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.

    55. Tuổi cô mình còn chừng độ đôi ba,

    Em bận cái quần trứng sáo,

    Cái áo thêu hoa phất phơ nhuộm màu.

    Em đã xinh em lại có nhiễu đội đầu,

    Em đội cái nón xứ Nghệ ra màu điểm trang.

    Em đã xinh lại nhuộm cái bộ răng vàng.

    Mảnh gương Tư-mã thiếp với chàng soi chung.

    54. Tưởng rằng khăn trắng có duyên,

    Ai ngờ khăn trắng không tiền mua nâu.

    35. Thân em như thể trái chanh,

    Lắt lẻo trên cành nhiều kẻ ước mơ.

    36. Thân em như cái bông quì,

    Ngó thì tốt dạng, ngửi thì không thơm.

    37. Thấy em dồi phấn anh phải lòng,

    Bớ em ơi, biết làm sao gá ngỡi bá tòng cùng em.

    38. Thấy em nhỏ thó lại có hường nhan,

    Chân mày lân, con mắt lộ,

    Nội xứ này không ai ngộ bằng em.

    39. Thương em anh biết chở mấy tàu,

    Răng đeo lổ đổ tợ dăm bào em ơi!

    40. Trúc xinh trúc đứng đầu đình,

    Em xinh em đứng một mình cũng xinh.

    47. Vào rừng chẳng biết lối ra,

    Thấy dây nhúc nhác ngỡ là vàng tâm,

    Anh trông em, anh cũng yêu thầm,

    Sợ mẹ bằng bể, scha bằng trời.

    Thấy em đẹp nói đẹp cười,

    Đẹp quần đẹp áo lại tươi răng vàng.

    Chân em đi dép quai ngang,

    Mặt vuông chữ điền, liền vành cá chôi.

    Ta thương mình lắm mình ơi,

    Cá chết về mồi, khốn nạn đôi ta.

    Ngồi buồn trách mẹ cùng cha,

    Trách anh thầy bói rẽ ra đôi đường,

    Ở đây đồng đất phố phường,

    Để anh mua cốm mua hồng sang sêu.

    Sêu em mối lái làm đều,

    Để cốm anh mốc, để hồng long tai.

    Hồng long tai như quạt long nhài,

    Cầu Ô long nhịp, cửa cài không then.

    Anh tiếc cô mình má phấn răng đen.

    Để cốm anh mốc, để hồng nứt ra.

    Bao giờ cho đến tháng ba,

    Gió thu lại thổi xuân ra cõi ngoài.

    42. Vô duyên chưa nói đã cười,

    Chưa đi đã chạy là người vô duyên!

    45. Xưa kia em cũng lượt là.

    Bây giờ nó rách, nó ra thân tàn.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/1/16
    Ban Tang Du Tử thích bài này.
  12. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    B. Ý THỨC CHÂM BIẾM VÀ HÀI HƯỚC CỦA BẢN NĂNG CON NGƯỜI GIỮA TÌNH CẢM VÀ THỰC TẾ

    Dù trong xã hội nào, thời đại nào, ý thức châm biếm và hài hước của con người vẫn đi đôi với cuộc sống.

    Nếu chúng ta có thể nói rằng lịch sử tâm tư của loài người là những tiếng khóc lóc, tiếng rên than chồng chất lên nhau, đúc kết thành chuỗi khổ đau miên miên trên dòng thời gian, thì chúng ta cũng có thể thấy bên cạnh tiếng rên than, khóc lóc ấy, lịch sử tâm tư loài người cũng là một chuỗi cười dài, dài đến vô tận. Chuỗi cười ấy tiếp nối nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác, và không ai có thể tưởng tượng được đến bao giờ mới dứt.

    Như vậy, con người sống để mà khóc, và cũng để mà cười, cười trên bất luận hình thái nào. Khóc khi thấy cuộc đời gieo vào tâm tư những thổn thức, buồn đau. Cười khi thấy cuộc đời đã diễn qua trước mặc họ những trò mỉa mai, chua chát.

    Ý thức châm biếm, hài hước của con người thoát thai từ những chuỗi cười ấy.

    Ở đây, chúng ta không nói đến tiếng cười của một cá nhân, cũng không nói đến tiếng cười của một thế hệ, mà nói đến một chuỗi cười miên man bất tận của một dân tộc, của lớp người bình dân đã trải qua từ vạn kỷ. Tiếng cười là biểu tượng một sức sống, một tiềm lực vươn lên chống lại mọi mâu thuẫn của con người trong ý sống.

    Xưa nay đã có nhiều người phân định cái cười có hai tính chất: tính chất nô đùa để thích thú thì gọi là hài hước; tính chất châm biếm để răn đời thì gọi là trào phúng.

    Nhà văn Lê-Thanh khi phê bình tập thơ “Tú Mỡ” do nhà sách Cộng-lực xuất bản năm 1942, đã cố gắng phân định cái khác biệt giữa hai tính chất khôi hài và trào phúng như sau:

    “Từ trước đến nay, ít nhất trong văn chương, người ta không phân biệt hai thể thơ khôi hài và trào phúng, vì đặc sắc của thể thơ này thường lẫn vào thể khác.

    Đặc sắc của thể thơ khôi hài là cái vui, một cái vui phần nhiều thẳng thắn, không phạm sâu đến đối tượng của cái cười.

    ... Nhà thơ khôi hài tìm tài liệu ở cái ngu xuẩn, cái vô ý thức, cái ngông của người đời. Mà còn nhà thơ trào phúng tìm tài liệu ngoài những nguồn trên, còn ở những thói xấu, những cái rởm của người.

    Nhà thơ khôi hài cười để mà cười. Nhà thơ trào phúng cười để mà sửa chữa. Vì cái mục đích sau này khó đạt hơn, nên những phương tiện nhà thơ dùng phải chặt chẽ hơn.

    Lời lẽ khi chua cay, khi mỉa mai. Một chữ dùng không phải là một cỗ xe chở chất cười mà còn là cái bao gói chất độc...

    … Tôi nhắc lại sự phân biệt hai thể thơ khôi hài và trào phúng thường không rõ rệt lắm...”

    Tuy phần định một ranh giới, nhưng ông Lê-Thanh không dám quả quyết có sự tách biệt rõ ràng.

    Theo chúng tôi thì tính chất khôi hài và trào phúng (tức hài hước và châm biếm) đều nằm ở trạng thái bất mãn vì những mâu thuẫn trong ý sống. Cả hai đều là năng lực chống đối, chỉ khác nhau ở chỗ tích cực và tiêu cực.

    Không có cái cười nào không mang một ý nghĩa - trừ cái cười của những kẻ mất trí.

    Khi cái cười đã mang một ý nghĩa nào đó thì không thể bảo là hồn nhiên, là vô tư được. Chúng ta không thể tự nhiên mà cười, nếu không bị một kích thích nào bên ngoài.

    Sự kích thích ấy chính là nền tảng của một nhân sinh quan, một ý thức về lẽ sống của cá nhân chúng ta. Ý thức ấy được hòa vào ý thức của kẻ khác. Nếu là thích hợp, chúng ta cảm thấy thích thú. Chúng ta nở một nụ cười tương đắc.

    Vậy cái cười là trạng thái biểu lộ sự đồng tình của một nguồn giao cảm, phát xuất từ ý niệm về lẽ sống.

    Trên sân khấu, một anh hề đem những cái ngớ ngẩn chọc chúng ta cười. Chúng ta bảo đấy là cái cười hồn nhiên ư? Không! Chính cái ngớ ngẩn ấy đã đem đến một ý nghĩa châm biếm nào đó làm thỏa mãn ý thức nhân sinh của chúng ta, vì cái cười của chúng ta biểu lộ sự đồng tình với ý nghĩa châm biếm ấy.

    Một người say rượu chân đi loạng choạng, thỉnh thoảng vấp ngã gây cho chúng ta một nụ cười. Chúng ta bảo là cái cười của chúng ta hồn nhiên? Không! Nụ cười ấy đã nảy từ trong ý thức so sánh giữa cái đẹp của người tỉnh và cái xấu của người say mà bộc lộ ra ngoài.

    Cho nên không có cái cười nào thoát ra ngoài ý sống cả. Đã không thoát ra ngoài ý sống tất nhiên nó phải vì lẽ sống mà có.

    Với quan niệm trên, chúng ta có thể kết luận rằng ý thức hài hước châm biếm (khôi hài và trào phúng) cũng chỉ là một, với mục đích bảo vệ nhân sinh quan của cá nhân mình, tức là chống lại mọi hành động, mọi hiện tượng trái với ý muốn của mình, mà mình tự cho là không hợp với lẽ sống. Ý thức ấy đi từ tiêu cực đến tích cực. Tiêu cực khi nó còn ở trong phạm vi hòa hợp với ý thích bên ngoài, tích cực khi nó vượt ra ngoài khuôn khổ thụ động, trở thành chủ động.

    Thụ động là tính chất tiêu cực mà chúng ta thường gọi là khôi hài. Chủ động là tính chất tích cực mà được chúng ta gọt là trào phúng.

    Trên đây, chúng ta đã xác định tính chất của ý thức hài hước và châm biếm. Nó là hiện tượng của năng lực đấu tranh trong đời sống con người.

    Xã hội loài người chứa đầy phức tạp. Nếu chúng đã thừa nhận lẽ sống con người ta bao gồm mọi thắc mắc mâu thuẫn, mà lịch sử loài người phải luôn luôn giải quyết bằng đấu tranh thì ý thức hài hước châm biếm là hình thức đấu tranh thấp nhất và dần dần đi đến hình thức đấu tranh bằng vũ lực là hình thức cao nhất.

    Chiến tranh loài người có thể tạm chấm dứt trong một giai đoạn nào đó, nhưng trạng thái châm biếm, hài hước vẫn nối tiếp nhau như một sông dài, chảy mãi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cho nên chúng ta có thể gọi trạng thái châm biếm, hài hước là trạng thái đấu tranh về ý thức, nằm trong sức mạnh tiềm tàng của xã hội loài người, đánh dấu sức sống trong xã hội loài người, và đưa xã hội loài người luôn luôn tiến tới.

    Nếu xét về lãnh vực hài hước, châm biếm thì có lẽ sức đấu tranh này phát khởi mạnh nhất trong giới bình dân. Đó là một đặc tính không ai có thể phủ nhận được.

    Nhưng tại sao người bình dân lại mang ý thức châm biếm, hài hước?

    Trước nhất, chúng ta thấy mọi cử chỉ chống đối bao giờ cũng bắt nguồn từ ý thức bất mãn, mà người bình dân là lớp người có nhiều bất mãn nhất.

    Mặc khác, dù thời đại nào, chế độ nào, luật pháp cũng không thể cấm đoán được cái cười của con người. Khi cái cười của con người tự do biểu lộ thì nguồn gốc của hài hước, châm biếm vẫn được tồn tại và phát sinh. Người bình dân vốn là kẻ dễ bị uy hiếp, nên họ rất thích cái phương thức chống đối mà sự tự do tối thiểu con người chưa bị mất.

    Với hai yếu tố trên, địa hạt bình dân chính là mảnh đất tốt nhất để cho ý thức châm biếm, hài hước nảy nở.

    Chẳng những trên đất nước Việt-nam, người bình dân đến thời xưa đã phát huy một truyền thống chống đối vời ý thức con người bằng cái cười, mà hầu hết mọi quốc gia, dân tộc cũng đều lấy cái cười làm tiêu biểu cho nguồn sống của mình. Bởi vậy, cái cười được con người diễn tả như một năng lực biến ảo của tâm tư, tác động vào cuộc sống loài người không thua gì những vũ khí sắc bén nhất để phá hoại, hoặc chinh phục.

    Người ta thường bảo cái khóc và cái cười là hai trạng thái buồn vui trái ngược. Tuy nhiên, đó chỉ là quan niệm thông thường, tách rời trạng thái của tâm tư. Nếu xét về nguồn gốc của tâm tư thì khóc và cười lại là trang thái hòa hợp. Cả hai đều là biểu tượng của ý thức về nhân sinh mà mục tiêu duy nhất là chống lại mọi bất mãn của lẽ sống con người.

    Cho nên, cái cười và cái khóc đôi lúc cùng chung một ý nghĩa, mà người bình dân thời xưa cũng đã xác nhận quan niệm ấy.

    Ví dụ:

    Ngồi buồn trách lẫn ông xanh,

    Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.

    Như vậy, tiếng cười có thể thay tiếng khóc, và ngược lại tiếng khóc có thể thay tiếng cười trong phạm vi tâm tư diễn biến một cách chua chát, đắng cay.

    Tiếng cười trong lãnh vực hài hước, châm biếm của con người thoát thai từ nguồn gốc ấy, cho nên có một tác dụng hòa hợp giữa cái khóc về cái cười, hay nói cách khác, khóc cười vẫn nằm trong một mục đích chung là chống lại mọi bất mãn của mình trước cuộc sống xã hội.

    Chúng ta khóc khi buồn rầu và chúng ta cười khi thích thú. Như vậy, buồn rầu và thích thú nằm trong ý thức của cá nhân chúng ta đối với lẽ sống cả.

    Trên đây, chúng ta đã thừa nhận đặc tính của người bình dân trong ý thức hài hước, châm biếm, và ý thức ấy phát sinh từ một nhân sinh quan, vậy chúng ta bất đầu khảo sát từng quan niệm một của người bình dân thời xưa trong địa hạt ấy.

    I) Quan niệm sinh lý:

    Sinh lý là đời sống, là dục vọng con người. Trong lãnh vực này xã hội loài người chứa đựng nhiều phức tạp.

    Những phức tạp ấy đều là sản phẩm của xã hội, do cuộc sống tạo nên, đưa con người đến một tham vọng, rồi cũng chính con người từ cảm thấy bất mãn khi tham vọng bị chênh lệch trở thành những bất công trong xã hội.

    Vậy bất công là gì? Nó là sự mất thăng bằng, là trạng thái cực đoan, mà trong mọi chế độ xã hội con người luôn luôn chống lại để đòi hỏi sự quân bình.

    Cũng như mọi hiện tượng trong vũ trụ, mỗi cá thể đều vươn lên để tranh đoạt sự sinh tồn, và tạo cho vạn hữu một sức mâu thuẫn, thì trong cuộc sống loài người cũng thế. Dục vọng con người cũng luôn luôn vươn lên tranh đoạt cho lẽ sống cá nhân, tạo cho xã hội loài người những hiện tượng chênh lệch mà loài người thường gọi là những bất công xã hội. Cho nên, nếu mọi biến động vũ trụ là trạng thái điều hòa những mâu thuẫn của vạn hữu, khí nóng điều hòa được khí lạnh trở thành sức ấm áp; như vậy ta thấy rằng mọi ý thức tranh đấu của con người trong cuộc sống cũng chỉ để san bằng mọi chênh lệch bất công mà thôi. Mục tiêu của vũ trụ cũng như của con người đều tiến tới chỗ thăng bằng, và chỉ có thăng bằng mới tồn tại.

    Tự nghìn xưa, ý thức con người cũng đã nhìn thấy yếu tố thăng bằng chính là yếu tố của đạo lý. Và công bằng chính là mục tiêu của lẽ sống mà con người muốn tồn tại cần phải tranh đấu.

    Bởi vậy, người bình dân thời xưa đã biểu lộ quan niệm nhân sinh của họ qua các câu hát như:

    Công bằng đạo người ta đời.

    Lấy công bằng làm tầm mức cho lẽ sống, dĩ nhiên ý thức họ phải chóng lại những gì mất công bằng, tức là chống lại mọi chênh lệch.

    Để chứng minh điều này, trong địa hạt hài hước châm biếm, chúng ta không lấy làm lạ khi họ lôi những ông già, bà già ra đã làm trò cười trong cuộc sống.

    Đây, chúng ta thử nhìn những ông già dưới con mắt khắc nghiệt của họ về phương diện luyến ái:

    Già thì bế cháu ẵm con,

    Già đâu lại muốn cau non trái mùa.

    Hoặc:

    Ông già đầu bạc răng long,

    Cưới cô con gái còn măng tuổi đào.

    Tại sao lại chỉ cười khi một ông già lấy một cô gái? Có phải đó là do ảnh hưởng của giáo lý Khổng Mạnh chăng?

    Thực ra, nếu quan niệm này có trùng hợp với giáo lý Khổng Mạnh thì cũng chỉ là phương diện ngẫu nhiên. Bởi vì các nước Tây Âu thời xưa không bị ảnh hưởng Nho giáo, tại sao họ cũng có những quan niệm châm biếm về cô gái lấy ông già.

    Vả lại Nho giáo không chủ trương bình đẳng hôn nhân, địa vị của người đàn bà đối với Nho giáo không được coi trọng trong xã hội thì việc ông già lấy gái tơ, Nho giáo không cho là chuyện trái với lẽ sống. Bằng chứng Nho giáo đã bênh vực các bậc đế vương chọn cung phi mỹ nữ vào cung hàng loạt mà không bị giáo lý ngăn cấm.

    Cho nên quan niệm ông già lấy gái tơ chỉ bị châm biếm trong giai cấp bình dân, quan niệm ấy phát nguồn từ ý thức bình đẳng. Họ đả phá những gì chênh lệch, mất thăng bằng. Mọi bất công trong xã hội loài người chỉ là những chênh lệch chồng chất. Những sự giàu sang áp chế là những bất công đã biểu lộ ra thực trạng, họ chống đối đã đành, mà đến những ý thức dục vọng chênh lệch cũng bị họ chống đối nữa. Tinh thần bình đẳng của họ là tinh thần tất yếu hòa hợp với thiên nhiên, vạn vật. Lúc nào họ cũng tìm đến chỗ thăng bằng, đả phá những cực đoan.

    Dục vọng con người thường chịu ảnh hưởng vào cuộc sống. Bởi vậy xã hội phát sanh những chênh lệch như:

    Áo dài cũng nệ quần thưa,

    Bảy mươi có của cũng vừa mười lăm.

    Bảy mươi mười bảy bao xa,

    Bảy mươi có của mười ba cũng vừa.

    Dưới mắt người bình dân, dù bị cuộc sống xã hội lôi cuốn thế nào đi nữa, họ vẫn cho đó là chuyện khôi hài, nếu không làm đúng với ý thức thăng bằng của họ. Mà ý thức thăng bằng là nguồn gốc của bình đẳng. Sự bất công phát xuất từ trạng thái mất thăng bằng ấy. Cho nên, chúng ta thấy ý thức khắc nghiệt của họ trong lãnh vực luyến ái không phải không duyên cớ.

    Dù cho những ông già có đem lý luận về sức khỏe để bào chữa như:

    Càng già, càng dẻo, càng dai,

    Càng gãy chong chóng, càng sai chân giường.

    thì đối với họ cũng là chuyện ngụy biện. Thời gian không bao giờ dừng lại, không gian không giữ mãi trạng thái bất di bất dịch, thì làm sao chúng ta lại bắt mùa xuân phải đứng yên một chỗ? Mùa xuân hôm nay không phải là mùa xuân của năm qua. Mặt trăng hôm nay không là mặt trăng của tháng trước. Dòng nước đang chảy không phải dòng nước chúng ta đã tắm vừa rồi. Thế thì khi họ là một ông già, dù trạng thái nào đi nữa, họ vẫn là một ông già và đang đi kề bên cái chết.

    Người bình dân đã thấy rõ điều đó, nên cô thôn nữ đã châm biếm thái độ ngụy biện của họ:

    Ông ơi, tôi chẳng lấy đâu,

    Ông đừng cạo mặt nhổ râu tốn tiền.

    Nhổ râu, cạo mặt không làm cho con người trẻ lại. Đó là hình thức miễn cưỡng chống lại cái già nua, một sự phỉnh phờ đối với thực chất cằn cỗi. Cũng như hiện tại chúng ta không thể đi ngược thời gian để sống trong dĩ vãng được vậy.

    Nếu ông già lấy gái tơ bị họ châm biếm thì bà già lấy trai tơ họ cũng không tha. Ý thức châm biếm ấy lại cùng nhằm vào một mục tiêu:

    Ví như:

    Rung rinh nước chảy qua đèo,

    Bà già lật đật mua heo cưới chồng.

    Bà già đã tám mươi tư,

    Ngồi bên cửa sổ viết thư tìm chồng.

    Bà già đi chợ Cầu Đông,

    Bói xem một quẻ có chồng được chăng?

    Ông thày gieo quẻ bói rằng:

    Lợi thì có lợi nhưng răng không còn.

    Chàng bao nhiêu tuổi năm nay,

    Chàng rày mười tám, thiếp rày bốn ba.

    Mồ cha đứa chê thiếp già.

    Thiếp còn gánh nổi một vài trăm kim.

    Trăm kim đổi lấy lạng vàng,

    Mua gương Tư Mã thiếp với chàng soi chung.

    Chàng về sắm sửa loan phòng,

    Thiếp xỉn điểm phấn tô hồng thiếp theo!

    Họ đưa ra những trạng huống ngược đời để trút vào đấy những nụ cười hài hước. Tuy nhiên, chúng ta đừng tưởng ý thức họ không sâu sắc. Nếu trong lớp người quí tộc đã dùng những ngôn từ hoa mỹ, những giọt nước mắt thâu đêm khóc lóc, oán than cho cuộc đời bất công của họ, thì chính người bình dân lại dùng tiếng nói mộc mạc, nụ cười mỉa mai để làm vơi đi những bất mãn đang lắng đọng trong tâm tư. Nhưng dù trạng thái bất mãn nào, trong tầng lớp nào, chúng ta cũng thấy mục tiêu của ý thức con người ta đả phá cực đoan, tức là sự chênh lệch, và tìm về với trạng thái thăng bằng.

    Sự thăng bằng trong quan niệm người bình dân đối với lẽ sống rất mạnh mẽ. Cho nên, chẳng những họ châm biếm mỉa mai những trạng thái cực đoan như ông già, bà già lấy gái tơ, trai tơ, mà họ còn đả phá luôn những trạng thái chênh lệch nhỏ nhen như:

    Trai tơ ơi hỡi trai tơ!

    Đi đâu mà vội mà vơ nạ dòng?

    Nạ dòng lấy được trai tơ,

    Đêm nằm hí hửng như Ngô được vàng.

    Trai tơ vớ phải nạ dòng,

    Như nước mắm thúi chấm lòng lợn thiu.

    Trai tơ lấy gái có một đời chồng cũng bị họ châm biếm. Sở dĩ họ có quan niệm khắc nghiệt như vậy cũng chỉ vì ý thức thăng bằng của họ quá mạnh. Cái gì chênh lệch trước mắt đều bị họ đả kích. Bởi vậy những trạng thái yêu đương không tương xứng như chồng thấp vợ cao, chồng nhỏ vợ lớn đều bị họ cho là xấu!

    Ví như:

    Chồng thấp mà lấy vợ cao,

    Qua sông nước lớn, công tao bớ mày,

    Em đừng thấy anh nhỏ mà rầu,

    Con ong kia bao lớn nó chích cái bầu cũng teo!

    Anh đừng chê em nhỏ mà lầm,

    Hòn đá đập nằm dưới, hòn đá cầm nằm trên!

    Chẳng những họ chú trọng về hình thức, mà còn chú trong đến cả trạng thái thăng bằng về tâm hồn nữa, cho nên đối với những cô gái lẳng lơ, nhiều dục tính, làm mất trạng thái thăng bằng trong con người cũng bị họ chế riễu:

    Ở đây có đứa lấy trai,

    Cho nên trời hạn nắng hoài không mưa.

    Lấy trai ở đây có nghĩa là lang chạ, đa dâm. Khi tâm hồn con người đã đi vào trạng thái đa tình thì sẽ bất chính. Quan niệm bất chính của người bình dân lại không phải như quan niệm tứ đức tam tòng của Nho giáo. Bất chính đối với họ có nghĩa là thiếu chung thủy, làm mất lẽ sống công bằng do tham vọng của con người. Khi đã chủ trương thăng bằng cuộc sống, dĩ nhiên họ chống lại khắt khe, và cũng không đồng ý với thái độ buông xả. Cả hai thái cực ấy đối với họ đều không hợp với le sống con người. Cho nên, nếu họ đã mạnh dạn đứng ra phản đối quan niệm chính chuyên để tôn thờ nam giới do giáo lý Khổng Mạnh chủ trương thì họ cũng không tha thứ đối với những cô gái đầy dục tình.

    Ví dụ:

    Hỡi cô mặc yếm hoa tâm,

    Chồng cô đi lính, cô nằm với ai?

    Cô nằm cô đẻ thằng bé con trai,

    Chồng cô về hỏi con ai thế này!

    - Con tôi đi kiếm về đây,

    Có cho nó gọi bằng thầy thì cho.

    Sông Mơ, sông Mận, sông Đào,

    Ba ngọn sông ấy chảy vào tuần ty.

    Em trót yêu anh, bụng dạ phát phì,

    Thuốc thang dẫu khỏi anh thì báo tôi!

    Trót yêu anh dễ đứng khó ngồi,

    Rủ nhau đi cấy xứ Đoài,

    Công lênh chẳng được, được vài mụn con.

    Đem về bế bế hôn hôn,

    Đánh tiếng ứ hự rằng con xứ Đoài.

    Đêm đêm vuốt bụng thở dài,

    Thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều!

    Nếu sự đam mê vì giàu sang đã đưa xã hội loài người vào con đường bất công, tàn bạo, thì tự đam mê dục vọng của con người cũng không tránh khỏi tâm trạng ấy. Người bình dân đã có ý thức tự do luyến ái, bình đẳng hôn nhân, nhưng sự tự do và bình đẳng ấy phải ở trong khuôn khổ không chênh lệch, tức đả phá dục vọng. Bởi vậy, khi chê trách những cô gái lang chạ thì họ cũng không bênh vực những chàng trai si tình.

    Ví như:

    Bươm bướm mà đậu cành hồng,

    Đã yêu con chị lại bồng con em.

    Thôi thôi xếp sách ra về,

    Học hành chi nữa chúng chê bạn cười.

    - Bạn cười thì mặc bạn cười,

    Tháng năm đi cưới, tháng mười có con.

    Văn chương chữ nghĩa bỏ bê,

    Thần l… ám ảnh cũng mê mẩn người.

    Thuyền than lại đậu bến than,

    Gặp cô yếm thắm ôm quàng ngang lưng.

    - Thôi thôi, tôi van cậu rằng đừng,

    Tuổi tôi còn bé chưa từng nguyệt hoa,

    Tôi về tôi gọi chị tôi ra,

    Chị tôi đã lớn, nguyệt hoa đã từng.

    Ý thức châm biếm của họ không ngoài xây dựng một cuộc sống thăng bằng.

    Trong lãnh vực sinh lý, ngoài quan niệm luyến ái, dục vọng con người còn ảnh hưởng nhiều mặt khác nữa, như ham giàu phụ khó, ham địa vị vứt bỏ nghĩa nhân. Tất cả hành động ấy đều bị người bình dân cho là xấu xa bỉ ổi.

    Tham vàng lấy phải thằng Ngô,

    Đêm nằm hú hí như vồ đập bông.

    Trăm năm trăm tuổi trăm chồng,

    Hễ ai có bạc thì bồng lên trên.

    Lúc khó thì chẳng ai màng,

    Lúc lên quan cả chán vàn người yêu.

    Như vậy, ý thức đả kích của họ cùng chỉ nhằm vào trạng thái cực đoan. Người bình dân không phải là những kẻ không quí trọng đồng tiền, không thiết tha với vinh dự. nhưng đồng tiền của họ phải là do sức mình làm ra, không phải do tham vọng: vinh dự đối với họ là vinh dự do đích thân mình làm nên, không phải do cậy thế cậy thần mà có.

    Nói chung thì ý thức tự lực tự cường của họ rất mạnh, nên bao giờ họ cũng đứng trên lập trường ấy mà xác định nhân sinh quan. Ý thức tự lực tự cường của họ lại đi đôi với quan niệm thăng bằng trong lẽ sống, để giữ cho lẽ sống được công bình, khi đã công bình tức là có bình đẳng, và xã hội loài người bớt đi những xáo trộn tai hại.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/1/16
    Ban Tang Du Tử thích bài này.
  13. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    2) Quan niệm tâm lý:

    Nếu trong địa hạt sinh lý con người bị dục vọng cá nhân ràng buộc đưa họ vào tham lam, tạo những hành động chênh lệch trên cán cân xã hội thì địa hạt tâm lý, con người lại nuôi dưỡng trong ý thức mình những ý hướng để đạt đến kết quả do khả năng dục vọng thúc đẩy. Vậy tâm lý là nguồn ý thức, là khả năng bảo vệ mọi hành động của người.

    Người bình dân chẳng những chống lại hành động bất bình đẳng, mà còn chống cả những ý thức bất bình đẳng nữa. Vì vậy mọi hiện tượng phát xuất trong lãnh vực tâm tư con người cũng được họ chú ý đến một cách khắc nghiệt:

    Người thì chẳng đáng đồng chì,

    Ba hồn chín vía, đòi đi võng đào.

    Hoặc:

    Chích chòe mà đậu cành sòi,

    Chuột chù trong ống dài soi gương Tàu.

    Họ châm biếm tất cả mọi ý tưởng chênh lệch, thiếu thực tế. Sở dĩ con người hiểu được lẽ sống là biết và chịu nhìn thẳng vào thực tế. Thường thường dục tính làm cho ý thức con người mù quáng không nhận ra chủ quan và đối vật. Khi đã không thấy rõ chân tướng của giá trị tất phải lầm lạc, lao mình vào ảo vọng.

    Cũng như họ bảo:

    Mèo lành ai nỡ cắt tai,

    Gái hư chồng bỏ, khoe tài nỗi chi.

    Tâm lý con người chẳng mấy khi chịu nhìn vào sự thực. Dù có hư hèn đến đâu chẳng bao giờ họ chịu nhìn nhận. Họ thích những cái tốt, mà không chịu cái xấu. Đó cũng chính là lòng tham lam, là trạng thái hão huyền. Xã hội loài người sở dĩ đưa đến chỗ bất công là đo bắt nguồn ở ý thức ham chuộng sự hão huyền ấy. Người bình dân là kẻ thực thà, mộc mạc, họ thấy rõ lòng họ hơn những lớp người khác. Chính vì vậy mà họ chống đối lại mọi tâm tư phù phiếm, trái với thực tế.

    Thật ra, không phải họ an phận, thiếu tinh thận đấu tranh để cầu tiến bộ. Nhưng ý thức đấu tranh để tiến bộ không phải dựa trên ảo vọng mà phải bằng thực tế. Bởi vậy, đối với những kẻ hư hèn vẫn bị họ châm biếm như:

    Cô kia má tợ hòn than,

    Nằm đâu ngủ đấy lại toan chê chồng.

    Hoặc:

    Chè la chè lẩy,

    Con gái bẩy nghề.

    Ăn vụng là một,

    Dựa cột là hai,

    Giỡn trai là ba,

    Ăn quà là bốn,

    Trốn việc là năm,

    Hay nằm là sáu,

    Láu táu là bảy.

    Thì rõ ràng chúng ta thấy quan điểm nhân sinh của họ không phải tiêu cực, không cầu tiến. Họ chỉ bất mãn đối với cái gì không thực tiễn, giả dối, lừa bịp, phỉnh phờ, gieo vào cuộc sống xã hội một ý thức giả tạo. Đáng lẽ phải tự đấu tranh cho bản thân, thì lại không làm, mà đi đổ lỗi cho kẻ khác:

    Múa vụng chê đất lệch,

    Chân đi lệch thệch lại chê đất thấp cao.

    Chính ý thức dùng cái nhược điểm của kẻ khác bào chữa cái nhược điểm của mình mới là ý thức tiêu cực, mà người bình dân thời xưa đã chê trách.

    Người bình dân thích cái gì thực tế, không khoe khoang. Vì thế những hành động se sua, ý nghĩ bướng bỉnh, lời nói khoác lác đều bị họ đưa ra làm trò cười trong cuộc sống cả.

    Chì khoe chì nặng hơn đồng,

    Sao chì chăng đúc nên cồng nên chuông?

    Trăng rằng trăng chẳng nguyệt hoa,

    Sao trăng chứa Cuội trong nhà hỡi trăng?

    Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn,

    Cớ sao trăng phải chịu luồn đám mây?

    Thúi tai, hôi nách rình rình,

    Chẳng ai hỏi đến cậy mình chính chuyên.

    Nhưng, nếu họ đem những ý thức khoác lác làm trò cười cho cuộc sống thì họ cũng không từ bỏ châm biếm những kẻ lừ đừ, khờ khạo dễ bị lừa phỉnh hoặc những kẻ tự ép mình an phận dưới mọi áp bức của xã hội.

    Chê tôm ăn cá lù đù,

    Chê thằng ỏng bụng, lấy thằng gù lưng.

    Chuột chê xó bếp không ăn,

    Chó chê nhà dột ra nằm bụi tre.

    Ngẩn ngơ như chú bán gà,

    Tiền rưỡi không bán, bán ba mươi đồng.

    Bắc thang lên hỏi ông trời.

    Tiền đem cho gái có đòi được không?

    Tóm lại, trong lãnh vực tâm lý, người bình dân vẫn chống lại mọi ý hướng cực đoan. Quan niệm nhân sinh của họ đi vào trung đạo, nghĩa là muốn cho cuộc sống con người bao giờ cũng với mức thăng bằng không thiên lệch. Ý thức đấu tranh của họ hướng vào mục tiêu ấy.

    3) Quan niệm đạo lý:

    Nếu ở hai mục sinh lý và tâm lý chúng ta đã nhận thấy ý thức người bình dân chống đối với năng lực nội tại, tức là lục vọng phát sinh do bản năng con người làm mất thăng bằng trong lẽ sống, thì ở mục này chúng ta lại thấy họ đem tâm tư chống lại mọi chênh lệch trong guồng máy xã hội.

    Tổ chức xã hội loài người bao giờ cũng dựa trên một nguyên tắc, và dùng một tư tưởng xã hội làm mẫu mực cho mọi người noi theo để bảo vệ chế độ xã hội. Mẫu mực ấy chúng ta gọi là đạo lý.

    Vậy đạo lý là lẽ sống chung của một tổ chức xã hội phù hợp với một chế độ.

    Nước Việt-nam chúng ta thời xưa trải mấy ngàn năm dưới chế độ phong kiến, chịu ảnh hưởng cả Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo. Ba nền giáo lý ấy đều dựa trên đạo học, nghĩa là dùng tư tưởng làm kim chỉ nam cho hành động.

    Người bình dân không chống lại nguyên tắc đạo học, họ rất tin tưởng ở Trời Phật, và kính trọng vua chúa, kẻ cai trị họ, song lòng tin tưởng và kính trọng của họ không có nghĩa là thiên lệch. Họ không tôn thờ một cách mù quáng, mà chỉ căn cứ vào lẽ phải. Lẽ phải của họ là công bằng, chân chất, không cực đoan.

    Vì vậy, tuy họ bị các từng lớp người khác cho họ những ngu dân, song thực ra trong cái ngu của họ hàm chứa một ý niệm về lẽ sống mà các lớp người khác không có được. Do đó, đối với họ, chúng ta thấy cái kính trọng lại phảng phất cái bất kính, trong cái tin tưởng lại biểu lộ cái mất tin tưởng. Thái độ thiếu dứt khoát ấy là do cuộc sống loài người đã đưa đến cho họ. Nguyên tắc của tổ chức xã hội loài người buộc họ phải đi vào cực đoan. Khi kính trọng vua chúa thì bắt họ phải nhắm mắt chịu sự điều khiển tuyệt đối (quân sử thần tử), khi tin tưởng thì bắt họ phải cúi đầu tùng phục vào một ý hướng nào đó, trong lúc tâm hồn họ mang một quan niệm chất phác, thực tế và thích cuộc sống thăng bằng, không cực đoan. Đã vậy, cuộc sống loài người lại đội lốt nghĩa nhân đã gạt gẫm họ, làm sao họ không bất mãn được. Chính cái yếu tố trên đã hun đúc người bình dân có một thái độ xấc xược, ngạo nghễ, chống lại những gì họ vừa kính trọng vừa tin tưởng.

    Đây, chúng ta thử tìm trong ý thức hài hước, châm biếm của họ những trạng thái ấy.

    Sống thời con chẳng cho ăn,

    Chết thời xôi thịt lànt văn tế ruồi.

    Sống thì chẳng cho ăn nào,

    Chết thì cúng, giỗ mâm cao, cỗ đầy.

    Đạo đức không phải phô trương bề ngoài mà có, nó phải phát hiện trong ý thức chân thật của con người! Người bình dân thời xưa là kẻ thấy bề trái xã hội nhiều nhất, vì họ cũng là kẻ bị đời lừa phỉnh nhiều nhất. Sự lừa phỉnh ấy đã đem đến cho họ lòng nghi ngờ đạo lý.

    Họ bảo:

    Khác nào quạ mượn lông công,

    Hình ngoài xinh đẹp, trong lòng xấu xa.

    Đạo lý bao giờ cũng tốt, nhưng những kẻ khoác màu đạo lý để lừa dối lại rất nhiều. Thái độ châm biếm của người bình dân là thái độ đả kích hành động vay mượn ấy, mà chúng ta thấy bàng bạc trong ca dao tục ngữ Việt-nam.

    Mặt khác, chúng ta cũng lại thấy tính chất đặc biệt của người bình dân là mặc dù tôn trọng đạo lý, mặc dù sùng kính Trời, Phật, Thánh, Thần, song trong sự sùng kính ấy đối với họ hàm chứa một tinh thần “bình dị”, không sợ sệt. Tinh thần ấy biểu lộ qua những câu ca dao hài hước như:

    Ngồi buồn đốt một đống rơm.

    Khói lên nghi ngút chẳng thơm tí nào.

    Khói lên thấu đến Thiên-tào,

    Ngọc Hoàng phán hỏi: Đứa nào đốt rơm?

    Địa vị Ngọc-Hoàng đối với họ là trọng đại, song lại như có cái gì thân mật, cởi mở và rất đơn giản như tâm hồn họ trước cuộc sống bình dân.

    Cho nên, có lúc họ châm biếm:

    Hiu hiu gió thổi đầu non.

    Mấy người uống rượu là con Ngọc Hoàng,

    Ngọc Hoàng ngồi tựa ngai vàng,

    Thấy con uống rượu hai hàng lệ rơi.

    Tưởng đâu con uống con chơi,

    Ai dè con uống con rơi xuống sình.

    Quan niệm đối với Trời thì như vậy, còn đối với Phật thì ý thức cũng chẳng khác gì. Họ kính trọng nhưng không sợ sệt. Cho nên, chúng ta vẫn thường thấy trong ca dao bình dân rất nhiều câu hài hước như:

    Nghiêng tai hỏi nhỏ ông Phật đồng,

    Trai tơ lấy gái có chồng được chăng?

    Hoặc:

    Lên chùa thấy tiểu mười ba,

    Thấy sư mười bốn, vãi già mười lăm.

    Ước gì một tháng đôi rằm.

    Trước là lễ Phật, sau thăm vãi già.

    Tai sao tính chất người bình dân lại bình dị trước những bậc mà hộ tôn thờ? Điều đó chắc chắn không ngoài nhân sinh quan của họ. Chúng ta đã thấy người bình dân quan niệm lẽ sống phải bình đẳng. Họ rất khát khao được bình đẳng, ý thức ấy đã khiến họ có cảm giác rằng nhưng người được họ tôn thờ vẫn có ý thức bình dân như họ, không vì địa vị tôn nghiêm mà khắt khe, đe dọa.

    Mặt khác, người bình dân vốn sống bằng tinh thần tự lực, tự cường, không có thói quen cầu cạnh bề trên, đem lại quyền lợi cho họ. Tinh thần ấy đã làm cho họ trở nên bình dị, vô tư, ý nghĩ họ không bị ràng buộc vì lẽ sống.

    Tuy nhiên, tinh thần đó chỉ còn là tính chất căn bản. Đến nay, ý thức đó đã biến dần do cuộc sống tranh đấu của loài người mỗi lúc một ác liệt, đưa đến những cái tai bay vạ gió bất ngờ, khiến họ không biết dựa vào đâu, lần lần đi vào mê tín.

    Trở lại với quan niệm nhân sinh của người bình dân thời xưa chúng ta thấy tinh thần bình dị của họ đã vượt lên ý sống, thì tất nhiên đạo lý cũng không thể ràng buộc vào một khuôn khổ cưỡng ép được.

    Ví như xã hội phong kiến thời xưa, cấu tạo trên nền giáo lý Khổng Mạnh, trong đó những gì giả dối bất công đều bị họ lôi ra đả phá một cách tàn nhẫn. Thái độ châm biếm của họ chẳng những đầy dẫy trong ca dao tục ngữ, mà còn nổi bật lên trong những mẩu chuyện tiếu lâm lưu lại từ ngàn đời mà đến nay chúng ta đọc lên cũng không thể nhịn cười được.

    Sau đây, chúng tôi xin trích thuật một vài chuyện điển hình:

    Chuyện gà gáy

    “Xưa, có một anh chàng vợ đẻ, nhà đơn chiếc, được cô em vợ đến giúp. Nửa đêm anh ta muốn mò cô em vợ, lén bò gần đến bên giường. Cô em vợ hay được, nhưng sợ người chị biết thì xấu hổ, giả vờ hát ru cháu để cảnh cáo anh ta:

    Nửa đêm gà gáy o o.

    Của dì, dì giữ ai bò mặc ai.

    Anh chàng biết cô em vợ không bằng lòng, xấu hổ vội hát chữa thẹn:

    Nửa đêm gà gáy o, o.

    Tao ngủ không được, tao bò tao chơi.”

    Đem cái xấu xa của người đàn ông ra châm biếm, chính người bình dân thời xưa đã chống lại giáo lý nam quyền của chế độ phong kiến. Họ muốn nói lên tự bất công ấy.

    Trong ca dao, chúng ta lại cũng nghe họ hát:

    Cái cò là cái cò quăm,

    Mầy hay đánh vợ mầy nằm với ai?

    Có đánh thì đánh sớm mai,

    Chớ đánh chập tối chẳng ai cho nằm.

    Đôi lúc họ còn hạ nhục nữa:

    Đàn ông rửa bát quét nhà,

    Vợ kêu thì dạ, thưa bà có đây.

    *

    Chuyện thầy phù thủy sợ ma

    “Xưa có một anh chàng làm nghề phù thủy, người ta thường rước đi cúng trừ ma, ếm tà. Cứ mỗi lần cúng xong, thầy được chủ nhà tạ lễ xôi bánh. Nhưng thầy có tính tham ăn đem về giấu một chỗ kín, chờ lúc vợ vắng nhà, lấy ra ăn một mình. Chị vợ biết được. Một hôm tối trời, thầy đi cúng về, chị gắp một hòn than lửa đỏ, chặn đường thầy nhát ma. Thầy tưởng ma thật, bắt ấn hét lên:

    “Yếm thiên lý thu lai, vạn lý thu lai.”

    Nhìn thấy ma không chạy, lại cứ lập lòe mãi, thầy sợ quá bỏ cả xôi bánh, cắm đầu chạy về nhà. Chị vợ lượm xôi bánh của thầy đem về cất.

    Sáng hôm sau, chị vợ dọn xôi bánh lên, mới thầy ăn. Thầy trồng thấy, lấy làm lạ, lẩm bẩm:

    “Xôi sao giống xôi... bánh sao giống bánh...”

    Chị vợ bật cười:

    - Xôi không giống xôi, bánh không giống bánh thì giống cái gì? Hay giống con ma trơi tối hôm qua?

    Thầy biết mắc mưu vợ, xấu hổ ngồi cắm đầu xuống, không dám ngẩng lên.

    Bởi thế, người ta có câu giễu thầy:

    Thầy về nửa đường,

    Thầy gặp đom đóm,

    Thầv tưởng ma trơi,

    Thầy chạy hụit hơi,

    Đổ xôi đổ bánh.

    Về nhà réo vợ,

    Ma bắt thầy đi,

    Kim nhật kim thì,

    Kim dương thỉnh giải”.

    Đã làm thày phù thủy trừ ma bắt quái, chữa bệnh cho người ta mà lại sợ ma đến khiếp vía như vậy thì còn gì đáng buồn cười hơn. Đưa câu chuyện này ra châm biếm, người bình dân muốn chửi vào cuộc đời giả dối, phỉnh phờ, mượn cái uy danh của thần thánh, dùng hình thức ngụy tạo bên ngoài lừa gạt thiên hạ.

    Trong ca dao, chúng ta cùng thấy họ châm biếm các ông thầy bói như:

    Tử vi xem số cho người,

    Số thầy thì để cho ruồi nó bâu.

    *

    Chuyện thơ con cóc:

    “Có ba anh học trò, học hành chẳng bao nhiêu, nhưng lại tự phụ là thơ hay nhất đời, họ thường than thở với nhau vì sợ chết non, bởi họ nghe nói “Tài mạng tương đố” kẻ có tài thường chết non.

    Bữa nọ, cả ba họp mặt nhau, cùng lấy rượu ra uống. Trong lúc thích thú thì có một con cóc từ trong hang nhảy ra.

    Anh thứ nhất mở đầu:

    “Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra”

    Anh thứ nhì tiếp:

    “Con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đấy.”

    Anh thứ ba tiếp luôn:

    “Con cóc ngồi đấy, con cóc nhảy đi.”

    Làm xong bài thơ con cóc, cả ba đứa lăn ra khóc, sợ thơ mình hay quá trời ghen ghét, sẽ bắt họ chết non.

    Rồi họ sai tên tiểu đồng đi mua ba cái áo quan, đề phòng lúc chết có sẵn mà chôn. Tên tiểu đồng chạy đi, vì gấp rút nên mệt quá, ghé vào một quán nước. Chủ quán thấy vậy hỏi nguyên do. Tiểu đồng thuật lại câu chuyện và đọc bài thơ con cóc cho chủ quán nghe.

    Chủ quán nghe xong cười nôn ruột, vội móc túi lấy tiền đưa cho tên tiểu đồng, bảo:

    - Nhân tiện mày mua cho tao một cái hòm luôn.

    Tiểu đồng ngơ ngác, hỏi tại sao? Chủ quán đáp:

    - Tao nghe thơ của mấy ông thầy mày. Tao tức cười quá. Không sớm thì muộn chắc tao bị bể bụng ra mà chết.”

    Đem những cái dốt nát, ngớ ngẩn của mấy anh đồ nho ra làm trò cười, người bình dân thời xưa đã nhìn vào giai cấp quan lại để hạ nhục. Họ chống đối giai cấp quan lại vì giai cấp này phần nhiều là những kẻ gian manh, dốt nát, dựa vào thế lực nào đó để đạt lấy địa vị cai trị.

    Châm biếm học trò không phải họ ghét học trò, chỉ vì học trò là tượng trưng cho khoa bảng, cho địa vị xã hội. Vì ghét những kẻ cậy địa vị xã hội làm điều xằng bậy, nên họ lôi bọn học trò ra chửi xéo.

    Trong ca dao, chúng ta cũng thấy những lời đay nghiến, mỉa mai của họ đối với học trò như:

    Học trò cao cẳng dài giò,

    Chân đi ngoài ngõ miệng thò trong treo.

    Học trò, học trỏ, học tro,

    Chửa lo ba chữ đã lo vét nồi.

    Học trò ăn vụng càng cua,

    Bà thầy bắt được... “Tui mua tui đền.”

    Bao nhiêu thói hư tật xấu họ đổ vào đầu học trò, chỉ vì họ muốn châm biếm chế độ khoa cử là chỗ xuất thân của giai cấp thống trị, lớp người đã đàn áp họ.

    Cho nên, nếu họ có những câu ca dao hài hước như:

    Nhơn chi sơ: tay rờ cơm nguội,

    Tánh bổn thiện: cái miệng đòi ăn.

    Tóm lại, tinh thần hài hước, châm biếm là đặc tính của lớp người bình dân từ xưa tới nay. Tinh thần ấy là thái độ bất mãn của tâm tư họ trước cuộc sống, mà cũng là thái độ bày tỏ quan niệm nhân sinh của họ.

    Theo sự khảo sát vừa rồi, chúng ta có thể xác định quan niệm nhân sinh của họ dựa vào ý thức thăng bằng, chống mọi cực đoan, và tìm sự tự do, bình đẳng trong ý thức thăng bằng ấy.
     
  14. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Phần tuyển tập ca dao tiêu biểu cho

    Ý THỨC CHÂM BIẾM VÀ HÀI HƯỚC

    1. Ai người áo vải quần dương

    Mu soa lau mặt có thường hay không?

    2. Ai ù cạc cạc ta chơi,

    Thú ta ta biết, việc trời trời hay.

    3. Ai lên Phố-cát Đại-đồng

    Hỏi thăm cô tú có chồng hay chưa?

    “Có chồng năm ngoái năm xưa,

    Năm nay chồng để như chưa có chồng.

    4. Anh hùng rấp phải khúc lươn,

    Khi gấp thì ngắn, khi vươn thì dài.

    5. Anh hùng gì, anh hùng rơm,

    Cho một bó lửa, hết cơn anh hùng.

    6. Anh nhất thì tôi thứ nhì,

    Ai mà hơn nửa, tôi thì thứ ba.

    7. Ăn sao cho được mà mời,

    Thương sao cho được vợ người mà thương.

    8. Áo anh đứt nút đứt khuy,

    Quần anh đứt đũng lấy chi hoa hòe.

    9. Áo dài chẳng nệ quần thưa,

    Tám mươi có của cũng vừa mười lăm.

    10. Ba bà đi chợ đường quai,

    Vừa đi vừa tỉa lá khoai bưng l….

    Ba bè đi chợ đường cồn,

    Vừa đi vừa tỉa lông l... bán trăm.

    11. Ba đờ bẩy họ nhà khoai,

    Dù ngọt dù bùi cũng phải lăn tăn.

    12. Ba bà đi chợ với nhau,

    Một bà đi trước kể chuyện nàng dâu.

    Một bà đi sau tu tu lên khóc:

    Nhà bà có phúc lấy được dâu hiền,

    Nhà tôi vô duyên, phải lấy đâu dại.

    Việc làm thì rái, chỉ tướng những ăn,

    Hễ bảo quét sân, đánh chết ba gà.

    Bảo đi quét nhà, đánh chết ba chó.

    Có mâm cỗ họ, miếng vào miếng ra,

    Rửa bát cầu ao, liếm dĩa quèn quẹt.

    Đi chợ quên thúng, quên tiền.

    Về nhà quên ngõ, đâm xiên vào chùa,

    Vào chùa thấy hai ông Hộ-pháp mới tô,

    Nó nghĩ khách đến, đây nhà nhà tôi.

    Trở ra về nó mỉm miệng nó cười,

    Thằng chồng nó đánh nó một hồi cẳng chân.

    Bà đi giữa nghe chuyện phân vân,

    Rằng: Dâu tôi cũng không đần, không khôn.

    Mẹ chồng có nói đến con,

    Thì con tôi chỉ cười dòn nói đưa...

    15. Bà già đi chợ cầu Đông,

    Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng?

    Ông thấy xem quẻ nói rằng:

    Lợi thì có lợi, nhưng răng không còn!

    14. Bà già đã tám mươi tư,

    Ngồi bên cửa sổ viết thư tìm chồng.

    15. Bà đội cho chí bà cai,

    Bi nào hay đố chữ cũng l… ngoài váy trong.

    16. Bạc ba quan, tha hồ mở bát,

    Cháo ba đồng, chê đắt chẳng ăn.

    17. Bảy mươi, mười bảy bao xa,

    Bảy mươi có của mười ba cũng vừa.

    18. Bắc thang lên hỏi ông Trời.

    Những tiền cho gái có đòi được không?

    19. Bắt giồng trồng mía cò ke,

    Ai dè điền chủ mà ve tá điền.

    20. Bên sông có bụi dành dành,

    Dượng mà lấy cháu sao đành dượng ơi!

    21. Bên Tàu ăn ở ngược xuôi,

    Cho nên chú Chệc mọc đuôi trên đầu.

    22. Bì phấn với vôi,

    Bì l... con đĩ với môi thợ kèn.

    23. Buổi chợ đông sao em chẳng bán hàng,

    Để tan buổi chợt em dạo làng bán duyên!

    24. Bươm bướm mà đậu cành hồng,

    Đã yêu con chị, lại bồng con em.

    25. Bướm bay bướm cũng bạc đầu,

    Thấy hoa thiên lý, cúi đầu làm tôi.

    26. Cà thâm bỏ góc chạn,

    Đến khi hoạn nạn, lại hỏi cà thâm.

    27. Cái cò lặn lội bờ ao,

    Hỡi cô yếm đằo lấy chú tôi chăng?

    Chú tôi hay tửu, hay tăm,

    Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.

    28. Cây kia chưa đẵn đã đo,

    Anh kia chưa cưới đã lo làm chồng.

    29. Có đ... thì có có chồng,

    Có chim sáo sậu, có lồng sơn son.

    30. Có ông mới gọi là bà,

    Không ông thì gọi là da cái d...

    31. Có tiền chán vạn người hầu,

    Có bấc, có dầu chán vạn người khêu.

    32. Có của thì có mẹ nàng,

    Có bạc, có vàng thì có kể ưa.

    33. Có trăng tình phụ lồng đèn,

    Ba mươi mồng một đi tìm lấy trăng.

    34. Con ơi ở lại với bà,

    Mẹ đi chịu đực, tháng ba mẹ về.

    Mẹ về, mẹ chẳng về không,

    Mẹ mang một ruột thằng hong mẹ về.

    35. Con cò nó mổ con lươn,

    Bớ chị ghe lườn muốn tía tôi không?

    Tía tôi lịch sự quá chừng,

    Cái lưng mốc thít, cái đầu chơm bơm.

    36. Con ơi ở lại với bì,

    Má đi làm mắm tháng ba má về,

    Má về có mắm con ăn,

    Có khô con nướng, có em con bồng.

    37. Con công tố hộ trên rừng,

    Đã được con chị, thì đừng con em.

    - Lòng yêu vô giá quá chừng,

    Con công tố hộ trên rừng mặc công.

    38. Con cóc ăn trầu đỏ môi,

    Có ai lấy lẽ thầy tôi thì vào.

    39. Con cò mà mổ con trai,

    U ơi, u lấy vợ hai cho thầy.

    40. Con cậu cho học chữ nho,

    Cháu cậu, cậu bắt chăn bò, chăn trâu.

    41. Cô kia mà hát ghẹo ai,

    Cái mồm méo xệch như quai chèo đò.

    Lại đây anh nắn lại cho,

    Ngày mai chèo đò, ăn bạt cơm thiu.

    42. Cô kia má đỏ hồng hồng,

    Cô chửa lấy chồng, còn đợi chờ ai?

    Buồng không lần lữa hôm mai,

    Đầu xanh mấy lúc da mồi tóc sương.

    43. Cô kia cắt cỏ bên sông,

    Cái váy thì cộc, cái lông thì dài.

    Thuyền chài nó trả quan hai,

    - Thưa rằng: Chẳng bán để dài quét sân.

    44. Cô kia má tựa hòn than,

    Nằm đâu ngủ đấy, lại toan chê chồng.

    45. Cổ tay em trắng lại vừa tròn,

    Để cho ai gối đến mòn một bên.

    Nghiêng tai hỏi nhỏ ông Phật rằng:

    “Trai thanh lấy gái có chồng được không?”

    46. Cồng cọc bắt cá bầu eo,

    Chị chê tôi nhỏ, tôi trèo chị coi.

    47. Cơm ăn chẳng hết thì treo,

    Việc làm chẳng hết thì kêu láng giềng.

    48. Cơm ăn mỗi bữa mỗi niêu,

    Tội gì bắt ốc cho rêu bám l...

    49. Cụ ơi, đầu bạc răng long,

    Cưới cô con gái còn măng tuổi đào.

    50. Củi mục thì để trong rương,

    Hễ ai hỏi đến: trầm hương của bà.

     
  15. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    51. Cha đời con gái xứ Đông,

    Ăn trộm tiền chồng mua khố cho trai.

    - Cha đời com gái xứ Đoài,

    Ăn trộm tiền mẹ mua khoai cho chồng.

    52. Chàng về thiếp cũng xin về,

    Chàng Hồ Bắc, thiếp về Hồ Tây.

    Chàng bao nhiêu tuổi năm nay?

    Chàng rày mười tám, thiếp rày bốn ba.

    Mồ cha đứa chê thiếp già,

    Thiếp còn gánh nổi một vài trăm kim.

    Trăm kim đổi lấy lạng vàng,

    Mua gương Tư-mã để thiếp với chàng soi chung.

    Chàng về sắm sửa loan phòng,

    Thiếp xin điểm phấn, tô hồng thiếp theo.

    55. Chẳng ăn, chẳng mặc, chẳng chơi,

    Bo bo giữ lấy của trời làm chi!

    54. Chè lo, chè lẩy, con gái bẩy nghề,

    Ngồi lê là một, dựa cột là hai.

    Giỡn trai là ba, ăn quà là bốn,

    Trốn việc là năm, hay nằm là sáu,

    Hay ăn đẽn cháu là bảy.

    55. Chê thằng mòng hóng.

    Đụng thằng đen thui,

    Chê thằng ghẻ ruồi.

    Đụng thằng ghẻ phỏng.

    56. Chê tôm ăn cá lù đù,

    Chê thằng ỏng bụng, lấy thằng gù lưng.

    57. Chì khoe chì nặng hơn đồng,

    Sao chì chẳng đúc nên cồng nên chuông.

    58. Chỉ đâu mà buộc ngang trời,

    Thuốc đâu mà chữa con người lẳng lơ?

    59. Chị giàu, chị đánh cá mè,

    Chúng em tôi khó, buôn bè gỗ lim.

    60. Chị kia có quan tiền dài,

    Có bị gạo nặng, coi ai ra gì.

    61. Chim chích chòe mà đậu cành sòi,

    Chuột chù trong ống đòi soi gương Tàu.

    62. Chính chuyên lấy được chín chồng,

    Ba chồng Thành Lạng, ba chồng Thành Cao.

    Ba chồng để ngọn sông Đào,

    Trở về đóng cả làm cao chưa chồng.

    63. Chính chuyên lấy được chín chồng,

    Vê viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi.

    Không ngờ quang đứt, lọ rơi,

    Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng.

    64. Chồng hen mà lấy vợ hen,

    Đêm nằm cò cử như kèn thổi đôi.

    65. Chồng què, vợ lại khiễng chân,

    Nuôi được thằng ở đứt gân lại què.

    66. Chồng thấp mà lấy vợ cao,

    Nồi tròn, vung méo, úp sao cho vừa.

    67. Chồng còng lấy vợ cũng còng.

    Năm phản thì chật, nằm nong thì vừa.

    68. Chuối khoe rằng chuối đồng trinh.

    Chuối à một mình sao chuối có con?

    69, Chuột chê xó bếp chẳng ăn,

    Chó chê nhà dột, ra nằm bụi tre.

    70. Dậy đĩ vén xống,

    Dạy ông cống vào tràng.

    Dạy bà lang bốc thuốc.

    71. Đãi cứt sáo lấy hạt đa,

    Đài cứt gà lấy tấm.

    72. Đàn bà yếu chân mềm tay,

    Làm ăn chả được mà hay nỏ mồm.

    73. Đau bụng lấy bụng mà chườm,

    Nhược bằng không khỏi, hắc hương với gừng.

    74. Đầu tôm nấu với ruột bầu,

    Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon.

    75. Đẻ con khôn mát như nước,

    Đẻ con dại thì rát như hơ.

    76. Đem về bế bế hôn hôn,

    Đánh tiếng ứ hự rằng con xứ Đoài.

    77. Đeo bầu mang tiếng thị phi,

    Bầu không có rượu lấy gì mà say.

    78. Đi ra đàng soi gương đánh sáp,

    Khi về nhà liếm láp nồi niêu.

    79. Đi chợ thì bỏ quên tiền,

    Về nhà quên ngõ đâm xiên vào chùa.

    80. Đói lòng ăn trái khổ qua,

    Nuốt vô thì đắng, nhổ ra bậu cười.

    91. Có ai ngồi võng không đưa,

    Ru em không hát, anh chừa rượu tăm.

    82. Được mùa thì chê cơm hẩm,

    Mất mùa thì lẩm cơm thiu.

    83. Em đừng khinh quân tử nhỏ nhoị,

    Con lươn bao lớn nó xoi lủng bờ,

    84. Em đừng cậy sắc, khoe hay,

    Khéo thay nồi thủng về tay thợ hàn.

    85. Em ơi anh bịnh nhức đầu,

    Hay đi đái rát, lại đau ngọc hành.

    Thuốc gì mà nuốt với chanh,

    Thì em đi lấy cho anh một liều.

    86. Em mất chồng em chả có lo,

    Sợ anh mất vợ, nằm co một mình.

    87. Em đây là gái năm con,

    Chồng em rộng lượng em còn chơi xuân.

    88. Gái sao chồng đánh chẳng chừa,

    Đi chợ vẫn giữ cùi dừa, bánh đa.

    89. Gái đâu có gái lạ đời,

    Chỉ thiếu ông trời là gái không chim.

    90. Gáo đồng múc nước giếng tây,

    Khôn ngoan cho lắm tớ thầy người ta.

    91. Gẫm trong thế sự nực cười,

    Thấy con cá lội hai người muốn câu.

    92. Gió đưa ông đội về Tàu,

    Bà đội ở lại xuồng bàu bắt cua.

    Bắt cua làm mắm cho chua,

    Gởi về ông đội khỏi mua tốn tiền.

    93. Gió chiều nào bay theo chiều nấy,

    Trước em nói em lấy chồng quan,

    Sao bây giờ em chẳng hưởng giàu sang?

    Mà đi phơi nắng bán than đen sì.

    94. Gió đưa ông đội về kinh,

    Bà đội thất tình xách nón chạy theo.

    95. Gió đưa bụi chuối sau hè,

    Chồng lết vợ què, đầy tớ quẹo tay.

    96. Hà tiện mà ăn cháo hoa.

    Đồng đường, đồng đậu cũng ra ba đồng.

    97. Hát cho chó cắn, bò lồng,

    Hát cho con gái bỏ chồng mà theo.

    Hát cho chó cắn, bò kêu,

    Hát cho ông lão trong lều bò ra.

    98. Hiu hiu gió thổi đầu non,

    Mấy người uống rượu là con Ngọc-Hoàng,

    Ngọc-Hoàng ngồi tựa ngai vàng,

    Thấy con uống rượu hai hàng lệ rơi.

    Tưởng đâu con uống con chơi,

    Ai dè con uống con rơi xuống sình.

    99. Học hành ba chữ lem nhem,

    Thấy gái thì thèm như chửa thèm chua.

    100. Hòn đất mà biết nói năng,

    Thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn.

     
  16. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    101. Hỡi cô mặc yếm hoa tầm,

    Chồng có đi lính, cô nằm với ai?

    Cô nằm cô đẻ thằng bé con trai,

    Chồng cô về hỏi: Con ai thế này?

    - Con tôi đi kiếm về đây,

    Có cho nó gọi bằng thầy thì cho.

    102. Hỡi cô yếm thắm bùa đeo!

    Chồng cô, cô bỏ, cô theo chồng người.

    103. Hỡi nàng mặt đỏ hồng hồng,

    Cổ cao, rộng miệng, lộn chồng theo trai.

    104. Kim đâm vào thịt thì đau,

    Thịt đâm vào thịt nhớ nhau cả đời.

    105. Khác nào quạ mượn lông công,

    Ngoài nhìn xinh đẹp, trong lòng xấu xa.

    106. Khéo liệu, khéo lo,

    Khéo bán con bò, tậu lấy ễnh ương.

    107. Khen ai khéo nấu chè này,

    Đã ngon lại ngọt, có mùi khê khê.

    108. Khi xưa ăn những gạo vay,

    Bây giờ mó đến cái chày giã hơi.

    109. Khó thì hết thảo, hết ngay.

    Công cha cũng bỏ, nghĩa thầy cũng quên.

    110. Khó hèn thì chẳng ai nhìn,

    Đến khi đỗ Trạng chính nghìn nhân duyên.

    111. Không chồng mà chửa mới ngoan,

    Có chồng mà chửa, thế gian sự thường.

    112. Làm chi lăng líu hỡi Ba,

    Bậu ham đồng bạc trắng, bậu bán hoa cho Chà.

    115. Làm trai rứa bát quét nhà,

    Vợ gọi thì dạ: Bẩm bà tôi đây.

    114. Làm trai có chí thì hơn.

    Lấy vợ hay hờn, nhiều bữa đánh no.

    115. Làm trai cho đáng nên trai,

    Ăn cơm với vợ lại nài vét niêu.

    116. Làm chẳng nên lại trách trời cao,

    Đã vụng múa, lại chê đất lệch.

    117. Lẳng lơ đeo nhẫn không chừa,

    Nhẫn thì rơi mất, lẳng lơ hãy còn.

    118. Lấy chồng từ thuở mười lăm,

    Chồng chê tôi bé, chẳng nằm cùng tôi,

    Đến năm mười tám đôi mươi,

    Tôi nằm dưới đất, chồng lôi lên giường.

    Một rằng thương, hai rằng thương,

    Có bốn chân giường, gãy một còn ba,

    Ai về nhắn nhủ mẹ cha.

    Chồng tôi nay đã giao hòa cùng tôi.

    119. Lấy chồng chẳng biết mặt chồng,

    Đêm nằm tơ tưởng nghĩ ông láng diềng.

    120. Lấy chồng ông cống, ông nghè,

    Lấy chồng ông phỗng cũng khoe lấy chồng.

    121. Lỗ mũi em thì tám gánh lông.

    Chồng yêu, chồng bảo râu rồng trời cho.

    Đêm nằm thì ngáy o, o...

    Chồng yêu, chồng bảo ngáy cho vui nhà.

    Đi chợ thì hay ăn quà,

    Chồng yêu, chồng bảo về nhà đỡ cơm.

    Trên đầu những rác cùng rơm,

    Chồng yêu chồng bảo hoa thơm cài đầu.

    122. Lúc khó thì chẳng ai màng,

    Làm nên quan cả chán vàn người iêu.

    123. Má khoe con má chính chuyên,

    Chính chuyên với má, nó liền với trai.

    124. Mảng coi con hạc nó tắm suối vàng,

    Cây cao vội ngã rắp đàng ngãi nhân.

    Ngãi nhân mỏng dính tợ như cánh con chuồn chuồn,

    Khi vui nó đậu, khi buồn nó bay.

    125. Mày ăn cơm hay ăn khoai,

    Có một câu hát, hát hai ba lần.

    126. Mặt rỗ như tổ ong bầu,

    Cái răng khấp khểnh như cầu rửa chân.

    127. Mèo tha miếng thịt thì đòi,

    Kễnh tha con lợn mắt coi chừng chừng.

    128. Mèo lành ai nỡ cắt tai,

    Gái hư, chồng bỏ, khoe tài nữa chi.

    129. Mèo đàng lại gặp chó hoang,

    Anh đi ăn trộm gặp nàng xới khoai.

    130. Mồ cha không khóc, khóc đống mối.

    Mồ mẹ không khóc, khóc bối bòng bong.

    131. Một trăng được mấy Cuội ngồi?

    Một thuyền chở được mấy người tình chung?

    132. Một mình lo bảy lo ba,

    Lo cau trổ muộn, lo già hết duyên.

    Còn duyên kẻ đón, người đưa!

    Hết duyên đi sớm, về trưa một mình.

    133. Một mình ăn hết bao nhiêu,

    Mò cua, bắt ốc cho rêu dính đùi.

    134. Một trăm ông chú không lo,

    Lo về một nỗi mụ o nỏ mồm.

    135. Muốn ăn đậu phụ, tương Tàu,

    Mài dao đánh kéo gọt đầu đi tu.

    136. Nêu đẹp đã có tiếng đồn,

    Lọ là nhí nhảnh như trôn chích chòe.

    137. No cơm ấm cật, dậm dật khắp nơi,

    Quần áo tơi tả, mọi nơi chẳng dật.

    138. Nực cười thầy bói soi gương,

    Thầy tu chải lược, người thương bực mình.

    139. nực cười cơm nguội có hơi,

    Cạnh buồm kẽ tố, áo tơi viền tà.

    140. Nước sông cuồn cuộn chảy xuôi,

    Có con cá diếc đỏ đuôi theo mời.

    141. Ngẩn ngơ như chú bán gà,

    Tiền rưỡi chẳng bán, bán ba mươi đồng.

    142. Nghe đồn cha mẹ anh hiền,

    Cắn cơm không bể, cắn tiền bể hai.

    145 Nghe tin anh nói nhọc nhằn,

    Mẹ cho trái mít, anh mần cả sơ.

    144. Ngồi trong cửa sổ chạm rồng,

    Chăn loan gối phụng, không chồng cũng hư.

    145. Ngồi buồn vuốt bụng thở dài,

    Nhớ chồng thì ít, nhớ trai thì nhiều.

    146. Người thì chẳng đáng đồng chì,

    Ba hồn chín vía đòi đi võng đào.

    147. Nhác trông ngỡ tượng tô vàng,

    Nhìn lâu mới biết chẫu chàng trời mưa.

    148. Nhất hào,

    Nhị hào, tam hào…

    Chó chạy bờ ao,

    Chuột chạy bờ rào,

    Quẻ này nói động,

    Nhà này có quái,

    Trong nhà có con chó đực,

    Cắn ra đằng mồm,

    Nhà bà có con chó đen,

    Người lạ nó cắn, người quen nó mừng.

    Nhà bà có cái cối xay,

    Bốn chân xuống đất, ngõng ngay lên trời.

    149. O ni coi dáng nhu mì,

    Cứt dê bỏ bị mà đi khắp làng.

    Quần hồ áo cánh làm chi,

    Quần hồ áo cánh có khi ăn mày.

    150. Ông già ông đội nón cời,

    Ông ve con nít ông trời đánh ông.
     
  17. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    151. Ông ơi tôi chẳng lấy đâu,

    Ông đừng cạo mặt nhổ râu tốn tiền.

    152. Ở đây có đứa lấy trai,

    Cho nên trời hạn nắng hoài không mưa.

    155. Phượng hoàng chặt cánh đuổi đi,

    Bắt con bìm bịp đem về mà nuôi.

    154. Quả chuông treo mấy cửa chùa,

    Làm thân con gái bán mua mấy lần.

    155. Rập rềnh nước chảy qua đèo.

    Bà già tập tễnh mua heo cưới chồng.

    156. Rõ ràng giấy trắng, mực đen,

    Duyên ai phận ấy chớ ghen mà già.

    157. Rủ nhau đi cấy xứ Đoài,

    Công lênh chẳng được, được vài chút con.

    158. Rung rinh nước chảy trên đèo,

    Bà già lật đật mua heo cưới chồng.

    159. Rừng xanh con cọp nó gầm,

    Hỡi cô chồng đánh la rầm xóm kia.

    Đầu đuôi bởi tại chuyện chi,

    Hay là bởi chuyện cô mi ve ông lái mành.

    160. Số thầy là số lôi thôi,

    Quanh năm chỉ những chùi nỗi cả năm.

    161. Sông Mơ, sông Mận, sông Đào,

    Ba ngọn sông ấy chảy vào tuần ty.

    Em trót yêu anh bụng dạ phát phì,

    Thuốc thang đâu khỏi anh thì bảo tôit,

    Trót yêu anh dễ đứng, khó ngồi.

    162. Sống thì chẳng cho ăn nào,

    Chết thì cúng giỗ mâm cao cỗ đầy.

    163. Sống thời con chẳng cho ăn,

    Chết thời xôi thịt, làm văn tế ruồi.

    164. Sớm mai đi chợ Gò-vấp,

    Mua một xẩp vải.

    Đem về cho con hai nó cắt,

    Con ba nó mayt,

    Con tư nó đột,

    Con năm nó viền,

    Con sáu đơm nút,

    Con bảy vắt khuy,

    Anh bước cẳng ra đi,

    Con tám níu, con chín trì.

    Ớ mười ơi, sao em để vậy còn gì áo anh?

    165. Tam hoàng ngũ đế chi thư,

    Có anh mất vợ ngồi thừ mặt ra.

    166. Tay cầm tiền quí bo bo.

    Đưa cho thầy bói thêm lo vào mình.

    167. Tâm thành đốt một đống rơm.

    Khói lên nghi ngút chẳng thơm chút nào.

    Khói lên đến tận thiên tào,

    Ngọc-hoàng phán hỏi: Đứa nào đốt rơm?

    167. Tiếc thay hột gạo trắng ngần,

    Đã vo nước đục, lại vần lửa rơm.

    169. Tiếc thay gạo dé trắng ngần,

    Thổi nồi đồng điếu lại vần than rơm.

    170. Tiếc thay hạt gạo tám xoan,

    Thổi nồi đồng điếu lại chan nước cà.

    171. Tiếc cây mía ngọt lại sầu,

    Tiếc con gái tốt trọc đầu khó coi.

    172. Tiếc thay con ngựa bạch mà thắt cái dây cương thừng,

    Tiếc thay con người thế ấy mà ôm lưng ông lão già.

    173. Tiếc thay con chim Phượng-hoàng còn dại chửa có khôn,

    Núi Tam-sơn chẳng đậu, lại đi đậu ngàn cỏ may.

    174. Tiếc thay cây quế giữa rừng.

    Để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo.

    175. Tiếc thay con gái mười ba,

    Liều thân mà lấy ông già sao đang.

    176. Tiếc con gái khôn lấy thằng chồng dại,

    Cũng như cái bông hoa lài cặm bãi cứt trâu.

    177. Tóc ngắn thì tóc lại dài,

    Ba tuồng mặt rỗ đá mài không trơn.

    178. Tóc quăn chải lược đồi mồi,

    Chải đứng, chải ngồi, quăn vẫn hoàn quăn.

    179. Tóc vắn còn có khi dài,

    Mấy đời mặt rỗ mà mài cho ra.

    180. Tổ đánh mà chẳng biết thân,

    Mặt như điếu vạn chơi xuân nỗi gì!

    181. Tối trời bắt xẩm trông sao,

    Xẩm rằng có thấy sao nào xẩm đui.

    182. Tử vi xem số cho ngườit,

    Số thầy thì để cho ruồi nó bâu.

    183. Tưởng rằng khăn trắng mà xinh,

    Ai ngờ khăn trắng có rình với trai.

    184. Tưởng rằng khăn trắng có tang,

    Ai ngờ khăn trắng ra đàng ve trai.

    185. Tưởng rằng khăn trắng có duyên,

    Ai ngờ khăn trắng không tiền mua nâu.

    186. Thài lài mọc cạnh bờ sông,

    Thay dáng, thay thấp nhưng người không thay.

    187. Tham tiền, tham bạc thì giàu,

    Chớ tham gánh nặng mà đau xương sườn.

    188. Tham giàu lấy phải thằng Ngô,

    Đêm nằm như thể cành khô chọc vào.

    189. Tham giàu phụ khó ai khen.

    Giả như con châu chấu rạng mặt bóng đèn bay vô.

    190. Thằng Ngô lắm nhẫn nhiêu vòng,

    Làm cho cái ả phải lòng thằng Ngô.

    191. Thầy dốt mà đọc canh khôn,

    Đến khi đọc dồn ỷ a ỳ a.

    192. Thầy thiếp là thầy thiếp ơi,

    Nay chuông mai trống cho tôi động lòng.

    Bốn con tôi bỏ cho chồng.

    Tôi theo thầy thiếp cực lòng tôi thay.

    193. Thấy đua, thì cũng đua đòi,

    Thấy tỉa lông nách, cũng xoi lông l...

    194. Thế gian lắm kẻ mơ mòng.

    Thấy hòn sơn thắm ngỡ vàng trời cho.

    195. Thế gian còn dại chưa khôn,

    Sống mặc áo rách, chết chôn áo lành.

    196. Thế gian một vợ, một chồng,

    Chẳng như vua bếp hai ông một bà.

    197. Thiếu chi rau mà ăn rau é,

    Thiếu chi chồng, làm bé người ta.

    198. Thôi thôi xếp sách ra về.

    Học hành chi nữa chúng chê bạn cười.

    - Bạn cười thì mặc bạn cười,

    Tháng năm đi cưới, tháng mười có con.

    199. Thối tai, hôi nách rình rình,

    Chẳng ai hỏi đến, cậy mình chính chuyên.

    200. Thú vị tình thâm,

    Lấy phải con vợ đái dầm, thú vị tình khai.

     
  18. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    201. Thua kiện mười bốn quan năm,

    Được kiện mười lăm quan chẵn.

    202. Thuyền than lại đậu bến than.

    Gặp cô yếm thắm, ông quàng ngang lưng.

    - Thôi thôi, tôi van cậu rằng đừng, tôi lạy cậu rằng đừng.

    Tuổi tôi còn bé, chưa từng nguyệt hoa.

    Tôi về gọi chị tôi ra,

    Chị tôi đã lớn, nguyệt hoa đã từng.

    203. Trai anh hùng mắc nạn,

    Giả như quốc trạng bị vây,

    Ới mấy chị em mình ơi,

    Lập cơ mưu đồ trận,

    Ra biển hồ Tây cứu chàng.

    204. Trai tơ, ơi hỡi trai tơ!

    Đi đâu mà vội mà vơ nạ dòng,

    Nạ dòng lấy được trai tơ,

    Đêm nằm hí hửng như Ngô được vàng.

    205. Trai tơ nằm với nạ dòng,

    Như nước mắm thối chấm lòng lợn thiu.

    206. Trăm năm trăm tuổi trăm chồng,

    Hễ ai có bạc thì bồng lên tay.

    207. Trăng khuyết, rồi trăng lại tròn,

    Mụ già kén rể con còn góa lâu.

    208. Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn,

    Cớ sao trăng phải chịu luồn áng mây.

    209. Trăng rằng trăng chẳng nguyệt hoa,

    Sao trăng chứa Cuội trong nhà hở trăng?

    210. Trèo lên cây khế giữa ngày.

    Váy thì chụt mất, lưỡi cày thò ra.

    Lưỡi cày ba góc chẻ ba,

    Muốn đem đòn gánh mà va lưỡi cày.

    211. Trèo lên trái núi mà coi,

    Kìa kìa Ngô khách mọc đuôi đàng đầu.

    Em ơi, anh dại tiếng Tàu,

    “Tỉu na má nị” đâm đầu lấy Ngô.

    212. Trèo lên cây khế mà rung,

    Khế rụng đùng đùng không biết khế ai.

    Khế này khế của ông cai,

    Khi chưa có trái, chị hai có chồng.

    Có chồng năm ngoái năm xưa,

    Năm nay chồng chết như chưa có chồng.

    215. Trên trời có ông sáo dâu,

    Hạ giới cô đầu có cái lưỡi gà con.

    Nhà nho có cái đục cùn.

    214. Trên thì gián nhấm vứt đi,

    Dưới thì chuột cẵn, giữa gì gì xuân.

    215. Trong nhà đã có đồ chơi,

    Song le còn muốn của người thêm xinh.

    216. Trong nhà dễ có hoàng cầm,

    Song le còn muốn nhân sâm nước người.

    217. Tròng trành như nón không quai,

    Như thuyền không lái như ai không chồng.

    218. Trồng tre trở gốc trên trời,

    Con chị qua đời rồi đến com em.

    219. Trống chùa ai vỗ thì thùng,

    Của chung ai khéo vẫy vùng nên riêng.

    220. Trời mưa thì mặc trời mưa,

    Tôi không có nón, trời chừa tôi ra.

    221. Văn chương chữ nghĩa bề bề,

    Thần l... ám ảnh cũng mê mẩn người.

    222. Ví ví von von,

    Anh cho một cái cõng con về nhà.

    225. Vợ anh đen lắm anh ơi,

    Đem ra chỗ nắng mà phơi cho dòn.

    Thóc phơi ba nắng thì dòn,

    Vợ anh ba nắng sắp đòn mà khiêng.

    224. Vốn khi xưa anh ở trên trời,

    Đứt dây rơi xuống tìm người trần gian.

    Vốn khi xưa anh vẫn đi hàn,

    Anh hàn nồi bẩy, nồi ba.

    Bắt cô con gái mười tám đem ra anh cũng hàn,

    Cô này to lỗ, tốn than,

    Đồng đâu mà đổ cho dàn lỗ ni.

    Hết đồng anh lại pha chì,

    Anh hàn chín tháng cô dì mình thụ thai.

    Sinh được thằng bé con trai,

    Về sau giống bố, gặp ai nó cũng hàn.

    225. Vụng múa chê đất lệch,

    Chân đi lệch dệch lại chê đất thấp cao.

    226. Vừa khôn mà lại vừa ngoan,

    Đã vừa làm đĩ, lại toan cáo làng.

    227. Xem cung nô bộc số này,

    Ăn no rồi phản cả thầy mà đi.

    228. Xót lòng mẹ góa con côi,

    Kiến ăn lần hồi, i… lớn bằng mo.

    229. Xống thâm vắt ngọn cành hồng,

    Loạn trôn từ thuở vắng chồng đến nơi.

    230 Xung xăng như thằng mới đến,

    Trụn trện như đứa ở đầy mùa.

    251. Xưa nay ăn những của chồng,

    Kiếm được một đồng đỏng đảnh ăn riêng.

    252 Xưa kia có thế này đâu.

    Bởi vì sợ vợ nên râu quặp vào.
     
  19. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    c. BIẾN THÁI CỦA TÌNH YÊU

    Tại sao chúng ta phải đặt ở đây vấn đề “biến thái của tình yêu”?

    Khi nói đến biến thái của tình yêu tức là trong ý thức chúng ta cảm thấy có một tình yêu “nguyên trạng”. Bởi vì không có nguyên trạng thì không có biến thái.

    Vậy tình yêu thế nào là nguyên trạng? Thế nào là biến thái?

    Đó là một vấn đề phức tạp, khó khăn trong lãnh vực ái tình mà khi chúng ta đứng trước dòng lịch sử tâm tư đã phơi bày qua các thế hệ, tạo thành những chứng tích của thời gian, chúng ta không có quyền chối bỏ không suy cứu.

    Chúng ta không thể làm một nhà nghệ sĩ, đem cảm giác rung theo mọi tác động trong nhịp điệu yêu đương. Công việc chúng ta ở đây là phải soát xét lại tính chất của những hiện tượng đã phát sinh tự ngàn xưa, tìm trong biện tượng ấy những nguyên nhân đưa tâm tư con người từ chỗ đơn thuần đến chỗ phức tạp bằng trạng thái xã hội.

    Khi nói đơn thuần và phức tạp chúng ta cũng lại nói đến tính chất diễn biến của sự vật, và cũng có nghĩa là chúng ta xác định tình yêu cũng như mọi hiện tượng khác, đều phát sinh bởi một nguồn gốc vi chịu ảnh hưởng qua trạng thái tâm tư diễn biến thành một hệ thống lịch sử song hành với diễn biến sinh hoạt loài người.

    Tình yêu! Chúng ta đừng tưởng là vấn đề muôn thuở. Đành rằng nó là yếu tố sinh tồn trong vũ trụ, mang qui luật tất yếu của thiên nhiên, song cái bất di bất dịch của nó chỉ có nghĩa trên phương diện căn bản mà không có nghĩa trên phương diện tính chất. Xưa nay, loài người không ngớt ca tụng và nguuyền rủa ái tình cũng chỉ vì trạng thái biến địch của nó.

    Trạng thái biến dịch được chúng tôi gọi ở đây bằng danh từ “biến thái”.

    Nếu xã hội loài người thoát thai từ bản chất cá nhân đi vào bản chất tập thể, gây thành một chuỗi mâu thuẫn chứa dựng qua thời gian, nối tiếp nhau không ngừng, thì tình yêu con người cũng thoát thai từ bản chất thiên nhiên trong lãnh vực cá nhân đi lần vào bản chất mâu thuẫn tập thể, và chịu mọi ảnh hưởng trước cuộc sống. Sự diễn biến ấy là nguồn gốc của biến thái, và đồng thời cũng có nghĩa là nguồn gốc của qui luật ảnh hưởng và mâu thuẫn.

    Vậy thế nào là ảnh hưởng? Thế nào là mâu thuẫn?

    Qui luật ảnh hưởng là qui luật của chiều xuôi, do sức sống chung của xã hội loài người lôi cuốn, bắt buộc tâm tư con người phải họa theo để bảo tồn sinh lực cá nhân trong sinh lực của tập thể. Còn qui luật mâu thuẫn là qui luật của chiều ngược. Nếu năng lực tiềm tàng, có tính cách phá hoại những gì đã thành hình để biến đổi, canh cãi. Do đó, đời sống loài người cũng như trạng thái tâm tư luôn luôn tiến tới, tạo thành dòng lịch sử nhân loại.

    Lãnh vực tình yêu cũng thế. Nếu chúng ta chỉ sống một chiều theo qui luật ảnh hưởng, nghĩa là tạo cho xã hội một khuôn khổ, rồi bắt luyến ái quan chúng ta khép vào nguyên tắc ấy thì tình yêu của loài người coi như đứng yên một chỗ, và bị tiêu diệt, vì nó thiếu sức mâu thuẫn để tự tồn, và không có năng lực phát triển. Cho nên sức mâu thuẫn ấy chúng ta có thể gọi là sức phá hoại, đồng thời cũng có thể gọi là sức kiến thiết. Bởi vì trong lúc lẽ sống của tập thể luôn luôn hình thành những khuôn khổ, thì chính sức mâu thuẫn tiềm tàng trong mỗi cá nhân chúng ta lại luôn luôn hướng đến chỗ phá hoại những khuôn khổ ấy, để rồi tập thể lại hình thành những khuôn khổ khác, và cứ thế tiếp diễn mãi trên dòng thời gian. Cho nên, sự diễn biến của xã hội loài người nằm trong qui luật ảnh hưởng và mâu thuẫn, mà sự tiến bộ của loài người chỉ là sự nối tiếp những khuôn khổ được hình thành và bị phá vỡ, chồng chất lên nhau.

    Lịch sử tình yêu của loài người đã bắt đầu tự ngàn xưa, và qui luật ảnh hưởng và mâu thuẫn trong tình yêu cũng bắt đầu tượng hình khi loài người đem tình yêu hòa vào cuộc sống. Bởi vậy, dù ở xã hội nào, thời đại nào, trạng thái tình yêu trong tâm tư con người cũng gồm vào ba tính chất: tính chất nguyên trạng, tính chất ảnh hưởng và tính chất mâu thuẫn.

    1) Tính chất nguyên trạng là tính chất của tình yêu nguyên thủy, phát nguyên từ qui luật sinh tồn nòi giống, nó biệt lập với cuộc đời, riêng rẽ với sinh hoạt xã hội, không bị thời gian, không gian chi phối. Một cô gái đến tuổi cập kê, một chàng trai đến tuổi xuân thì, dù ở một thời đại nào, của một dân tộc nào vẫn cảm thấy lòng tha thiết yêu đương. Họ cần yêu, và phải sống trong yêu đương do bản năng tự tại.

    Cho nên, trong thi ca bình dân Việt-nam, chúng ta thấy những tâm tư ấy xuất hiện bàng bạc:

    Anh về sương gió lạnh lùng,

    Ở đây chung gối, chung mùng với em.

    Hoặc:

    Gái thưa chồng trông mong đi chợ,

    Trai chưa vợ thơ thẩn ngoài đường.

    Thì đó chính là tính chất thuần túy của yêu đương. Tâm tư họ chỉ hướng về mục tiêu đáp ứng những khát vọng trong người họ chứ không liên hệ gì đến cuộc sống bên ngoài.

    Trong lãnh vực này, chúng ta thấy tình yêu chỉ là một hiện tượng đơn thuần, bất di bất dịch. Nhưng khi hiện tượng đơn thuẫn ấy phát lộ ra ngoài, và được sự đáp ứng của ngoại năng của hiện tượng ấy không còn đơn thuần nữa, mà bắt đầu đi vào lãnh vực biến thái trên hai tính chất ảnh hưởng và mâu thuẫn.

    2) Tính chất ảnh hưởng là tính chất hòa hợp giữa nội cảm và ngoại năng. Nói cách khác thì cảm giác yêu đương trong con người bị hòa vào cuộc sống.

    Mọi hiện tượng khi đã hòa vào cuộc sống thì không còn giữ được đơn thuần nữa. Với tình yêu cũng thế. Sự rạo rực yêu đương khi đã được tình yêu bên ngoài đáp ứng thì chúng ta cảm thấy có sự chi phối trước nhất về thời gian và không gian.

    Thời gian, không gian đem lại cho tình yêu những khắc khoải đợi chờ, ngăn cách.

    Ví như:

    Núi cao chỉ lắm núi ơi,

    Núi che mặt trời không thấy người thương.

    Hoặc:

    Anh về để áo lại đây,

    Đêm khuya em đắp, kẻo gió tây lạnh lùng.

    Tâm tư ấy chính yêu đương đã đi vào không gian, và bị không gian chi phối. Cảm giác tình yêu bị chia cách bởi núi sông, gieo vào lòng người một mối buồn, thì cũng có nghĩa là tình yêu không còn độc lập với thiên nhiên nữa.

    Một dòng sông chảy lững lờ, một con đò nằm trên bến, một nhịp cầu tre bắc ngang gành suối... đó là những biểu tượng ngăn cách không gian, nên khi tình yêu đã chịu ảnh hưởng vào không gian thì những biểu tượng ấy cũng mang những dấu vết của yêu đương.

    Ví như:

    Không đi thì nhớ thì sầu,

    Có đi thì mắc cái cầu cái mương.

    Không đi thì thảm thì thương,

    Có đi thì mắc cái mương cái cầu.

    Hoặc:

    Trăm năm dù lỗi hẹn hò,

    Cây đa bến cũ con đò năm xưa.

    Hay:

    Qua cầu than thở cùng cầu,

    Cầu bao nhiêu nhịp, dạ em sầu bấy nhiêu.

    Trạng thái đơn thuần của tình yêu không còn nữa. Không gian đã ảnh hưởng vào tình yêu, tạo cho tâm tư con người có một cảm giác liên hệ giữa tình yêu với khoảng cách của ngoại vật.

    Và, chính khoảng cách ấy có lúc lại làm chủ trong lãnh vực hôn nhân. Dưới đây là điển hình chứng cớ ấy:

    Ăn cam ngồi gốc cây cam,

    Lấy anh thì lấy, về Nam không về.

    Hoặc:

    Có con mà gả chồng gần,

    Nửa đêm gà gáy, mang phần đến cho.

    Có con mà gả chồng xa,

    Ba sào ruộng tréo chẳng ma nào cày.

    Như vậy, chúng ta thấy rõ rằng không gian đã chi phối tình yêu, đưa tình yêu vào trạng thái biến đổi của vạn hữu.

    Bản năng tình yêu đã phải khổ cực để chiến thắng ảnh hưởng của Khổng giáo như:

    Thương nhau mấy núi cũng trèo,

    Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.

    Và chúng ta cũng lại thấy bản năng tình yêu đã phải đầu hàng trước mãnh lực chi phối của không giau như:

    Tiếng ai than khóc nỉ non,

    Như vợ chú lính trèo hòn Cù-mông!

    Thì chúng ta không thể đặt tình yêu ngoài ảnh hưởng của không gian được.

    Tuy nhiên, không gian cũng chỉ ảnh hưởng một phần nào thôi. Tình yêu còn phải chịu ảnh hưởng rất nặng trước thời gian.

    Một bóng mặt trời qua thiên đỉnh, một tờ lịch rơi xuống, một tiếng tíc tắc đồng hồ đều ảnh hưởng đối với thân phận con người và vạn vật. Nó đánh dấu mọi biến chuyển, thay đổi trong vũ trụ.

    Chúng ta thường được nghe tiền nhân hát lên những câu như:

    Còn duyên như tượng tô vàng,

    Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa.

    Còn duyên kẻ đón người đưa,

    Hết duyên đi sớm ví trưa một mình.

    Hoặc:

    Ngồi buồn lo bảy lo ba,

    Lo cau trổ muộn, lo già hết duyên.

    Thì thấy rõ ràng thời gian đã đi vào tâm tư con người, tạo thành sức mạnh, ảnh hưởng vào lãnh vực tình yêu, khiến cho tình yêu phải lệ thuộc vào thời gian.

    Tại sao người con gái phải lo lắng khi đến tuổi xuân thì? Tại sao khi nói đến tình yêu chúng ta phải nói đến sắc đẹp? Đó chính là tâm tư chúng ta đã chịu sự chi phối của thời gian, và cũng có nghĩa là chúng ta nhìn nhận tác động của thời gian cũng là tác động của tâm tư con người và mọi biến chuyển của thời gian là mọi biến chuyển của cuộc sống.

    Trước ảnh hưởng mạnh mẽ ấy, người xưa đã băn khoăn, để rồi tự mình đem tình yêu hòa hợp với biến chuyển thời gian, như:

    Liệu cơm mà gắp mắm ra,

    Liệu cửa, liệu nhà mà lấy chồng đi.

    Kẻo mai qui lứa lỡ thì,

    Cao thì chẳng tới, thấp thì không thông.

    Ỹ thức hối hả, vội vàng, chính là ý thức của thời gian, nó nằm trong trạng thái biến đổi của sự vật. Chỉ có thời gian mới làm cho sự vật biển đổi, và tâm tư con người cùng không thể đứng yên trước mọi biến đổi của sự vật.

    Bởi vậy, chúng ta không lấy làm lạ khi trong xã hội phong kiến, tính chất duy lý của nền giáo dục Khổng Mạnh bị rạn nứt, những biến thái của tình yêu âm thầm phá vỡ những ràng buộc của giáo lý. Vì chính trong lớp người bình dân cũng đã nhận định được khả năng lý trí không thể đặt tâm tư con người ra ngoài vòng ảnh hưởng của vũ trụ, nên họ đã mạnh dạn nói lên:

    Ai ơi! chơi lấy kèo già,

    Măng mọc có lứa, người ta có thì.

    Chơi xuân kẻo hết xuân đi,

    Cái già xồng xộc nó thì theo sau.

    Tiếng nói liều lĩnh của họ chính là trạng thái biến động của tâm tư trong lãnh vực tình yêu đối với ảnh hưởng của thời gian.

    Trên đây chúng ta mới đặt tình yêu con người qua hai ảnh hưởng của thời gian, không gian, mà trên thực tế, tình yêu con người lại không chỉ ảnh hưởng vào thời gian, không gian. Nó còn chịu ảnh hưởng trực tiếp vào lẽ sống con người nữa.

    Chúng tôi muốn nói đến guồng máy tổ chức xã hội. Đó là những định luật, những khuôn khổ bảo tồn quyền sống chung trong tập thể con người.

    Xã hội loài người thành hình đã bảo vệ trật tự cho cuộc sống thì áo cơm lại chi phối mọi tình cảm con người. Tình yêu con người không thoát ra ngoài làm ảnh hưởng của cơm áo. Do đó, lẽ sống chi phối cho tình yêu, làm cho tình yêu con người biến đổi qua nhiều trạng thái.

    Yếu tố ấy không phải ngày nay trong thế hệ chúng ta mới ý thức được, mà ngay người xưa, lớp người bình dân mộc mạc, sống trong thửa ruộng nương dâu. Trong bùn lầy nước đọng vẫn quan niệm như thế. Họ vẫn thấy tình yêu không thể tách rời cuộc sống thực tại, và chính cuộc sống thực tại là cái khuôn khổ uốn nắn tình yêu con người vào trong hình thái của nó. Cho nên, biến tướng của tình yêu cũng là biến tướng của xã hội. Trạng thái xã hội thay đổi thì trạng thái tình yêu cũng thay đổi theo. Chúng ta có thể hình dung mọi tổ chức xã hội như những vật chứa đựng, mà trạng thái tâm tư con người như mực nước. Mực nước lúc nào cũng lan tràn, tìm hình thái của vật chứa đựng để tác thành hình thái của mặt nước.

    Dựa trên quan điểm ấy, chúng ta có thể đi tìm những hiến thái của tình yêu qua các thời đại không khó khăn lắm. Bởi vì biến thái chỉ là hiện tượng của cuộc sống.

    Người bình dân Việt-nam thời xưa sống bằng sức lao động, sự khổ cực ấy đem đến cho họ ý thức tự lực, tự cường, do đó, trạng thái tình yêu đối với họ có vẻ khoan hòa, chân thật, sẽ có những lừa gạt, phỉnh phờ. Tuy nhiên, khuôn khổ của họ là một chế độ chính trị phong kiến, cảnh sống giàu nghèo, sang hèn rất cách biệt, luật pháp không ưu đãi họ. Họ là đối tượng của khinh rẻ, ruồng rẫy, đe dọa... Ảnh hưởng ấy đã lôi cuốn họ vào cuộc sống thực tiễn, muốn thoát ra khỏi lãnh vực bình dân, hòa mình vào cơm áo, vươn lên địa vị giàu sang, tức là tâm tư họ đi vào biến thái. Họ là mặt nước, luôn luôn hình thành trong khuôn khổ của vật chứa. Chính vì vậy nếu cuộc sống biến sinh mâu thuẫn, gây thành xáo trộn đối với tâm tư. Biến thái của tình yêu một phần do ảnh hưởng ấy.

    Với quy luật ảnh hưởng, chúng ta tuần tự đi tìm những biến thái của tình yêu qua từng lãnh vực của chế độ xã hội.

    Trước hết, trong lãnh vực kinh tế, chúng ta phải nhìn nhận rằng tình yêu chịu ảnh hưởng rất mạnh.

    Điều đó đã chứng minh rõ ràng trong ca dao Việt-nam.

    Ví dụ:

    Áo dài chẳng nệ quần thưa,

    Bảy mươi có của, cũng vừa mười lăm.

    Hoặc:

    Em ham giàu em lấy thằng bé tí ti,

    Làng trên xã dưới thiếu gì trai tơ.

    Tiền của đã chế ngự hẳn tình yêu, biến tình yêu thành vật lệ thuộc, nếu có những kẻ lợi dụng tình yêu khai thác cơm áo, biến tình yêu thành cơm, thành áo, thì cũng có kẻ dùng cơm áo mua chuộc tình yêu, biến cơm áo thành duyên, thành nợ.

    Chẳng những tiền của ngự trị trên lãnh vực tâm tư mà còn ngự trị trên cả quan điểm nghệ thuật của con người nữa. Sự kiện ấy đã được mô tả trong tục ngữ, ca dao, như:

    Nhiều phân lúa tốt, nhiều lụa tốt l...

    Hoặc:

    Hơn nhau tấm áo manh quần,

    Cởi ra bóc trần ai cũng như ai.

    Cho nên, cuộc sống càng phức tạp, loài người càng xâu xé nhau thì ảnh hưởng kinh tế càng xâm nhập vào tình yêu, làm cho trạng thái tình yêu biến đổi một cách đột ngột.

    Ảnh hưởng kinh tế và ảnh hưởng chính trị lại đi đôi nhau. Nếu cơ sở kinh tế là nền móng của tổ chức chính trị, thì tổ chức chính trị ngược lợi là để bảo vệ cho nền móng kinh tế.

    Nước Việt-nam thời xưa, nền kinh tế nông nghiệp đã đẻ ra chế độ chính trị phong kiến, hình thành rất nhiều giai cấp phức tạp. Địa vị xã hội trong guồng máy chính trị quyết định tầm mức sinh hoạt của con người. Do đó, chế độ chính trị lại ảnh hưởng vào tâm tư, biến con người lệ thuộc vào ảnh hưởng chính trị. Người ta nhận thấy địa vị xã hội là chiếc chìa khóa mở cửa vào cảnh giới phong lưu, ở đó tạo được nhiều ưu thế đối với lẽ sống bản năng. Yếu tố ấy đưa tình yêu vào hấp lực của guồng máy chính trị. Từ ngàn xưa, chúng ta vẫn thấy địa vị của giai cấp là đối tượng đấu tranh của xã hội loài người. Ca dao Việt-nam đã chứng minh điều đó trong lãnh vực hôn nhân, như:

    Mua heo chọn nái,

    Mua gái chọn nòi!

    Hoặc:

    Trứng rồng lại nở ra rồng,

    Dù sao đi nữa con dòng cũng hơn.

    Dòng giống ở đây có nghĩa là giai cấp quí tộc, những kẻ sinh trưởng trong gia đình có ưu thế về chính trị. Và như vậy cũng có nghĩa là địa vị xã hội đã đi vào bản chất của tình yêu, chi phối mọi tình cảm con người.

    Chúng ta không lấy làm lạ, khi một cô gái đương thì có những tham vọng như:

    Không tham ruộng cả ao liền,

    Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ.

    Hoặc:

    Không tham vựa lúa anh đầy,

    Tham năm ba chữ cho tày thế gian.

    Hay:

    Yếm thắm mà vã nước hồ,

    Vã đi vã lại anh đồ yêu đương.

    Trong chế độ phong kiến, anh đồ tượng trưng cho địa vị xã hội, tượng trưng cho những kẻ được ưu đãi trong guồng máy chính trị, tạo nên ảnh hưởng chính trị đi vào tình yêu bắt đầu bằng những tham vọng ấy.

    Chúng ta cũng lại thấy họ bảo nhau:

    Tai nghe quan huyện đòi hầu,

    Mua chanh mà gội cái đầu cho thơm.

    Thì đó cũng là trạng thái biến động của tình yêu trước ảnh hưởng chính trị mà thôi.

    Ảnh hưởng kinh tế và chính trị đã đưa bản chất tình yêu đến chỗ hy sinh cực độ. Tình cảnh làm lẽ làm mọn của đàn bà cũng chính là do hai ảnh hưởng về kinh tế, chính trị tạo nên. Chế độ chính trị phong kiến đã từ chối địa vị đàn bà trong xã hội, chỉ có người đàn ông mới có địa vị xã hội mà thôi. Người đàn bà muốn đạt được địa vị xã hội không còn cách gì hơn là nương bóng người đàn ông. Cái khuôn khổ bất bình đẳng ấy đã uốn nắn tâm tư người đàn bà phải chui luồn vào trạng thái sinh hoạt xã hội.

    ANH THI CA .jpg

    Ảnh NGUYỄN CAO ĐÀM

    Ruộng cao đóng một gàu dai,

    Ruộng thấp thì phải đóng hai gàu sòng.

    Trên đây chúng ta chỉ mới đặt tình yêu trước áp lực của ngoại năng. Nghĩa là chúng ta cũng mới kiểm điểm trạng thái biến động của tình yêu qua các tác động của thời gian, không gian, và sinh hoạt xã hội. Những các động ấy đều nằm bên ngoài thể xác chúng ta cả. Mà trạng thái biến động của tình yêu nếu chỉ căn cứ vào tác động bên ngoài thì chưa đủ. Chúng ta phải nói đến tác động của nội tính con người nữa. Nội tính con người cũng biến dịch, cũng ảnh hưởng vào tình yêu và bắt tình yêu phải biến động theo chiều hướng của nó.
     
  20. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Vậy nội tính là gì?

    Nó là sự phát triển và tàn tạ của thể chất con người tạo cho tình cảm con người một khả năng biến địch. Tình yêu lệ chuộc vào cảm tính con người nên phải chịu ảnh hưởng ấy.

    Trong quyển Liều thuốc ngoại tình do Sống Mới xuất bản năm 1958, ông Hồng Trung có phân tích về cảm tính con người trong lãnh vực tình yêu.

    Ông viết:

    “Khác với mọi sinh vật khác, con người có một bộ óc tinh vi, có những luồng cảm giác tế nhị, do đó ái tình con người lệ thuộc vào cảm tính nhiều hơn.

    Cảm tính lệ thuộc vào thể chất con người, và nó cũng là sản phẩm của thể chất.

    Nếu thể chất cần phải được ăn uống để bồi dưỡng, thì cảm tính con người cũng đòi hỏi một khả năng cung ứng để thỏa mãn khát vọng của nó.

    Một áng mây chiều trôi qua trước khi tắt nắng, chúng ta đón nhận lấy sắc đẹp ấy. Một điệu nhạc trầm buồn nổi lên, long ta nhận cảm kích, đê mê... Hiện tượng ấy chính là nhu cầu của cảm tính con người. No là sức sống, là đòi hỏi dục vọng của cảm tính. Tình yêu chúng ta cũng xuất phát từ nguồn gốc ấy.

    Tuy nhiên, cảm tính con người lệ thuộc vào thể chất, vào hoàn cảnh xã hội nên phát triển không giống nhau, và không đồng đều. Có kẻ thích cái đẹp lả lướt, có kẻ thích cái đẹp khoan hòa, có kẻ thích cái đẹp mạnh mẽ... còn về âm thanh, có kẻ thích nghe những giọng trầm buồn, có kẻ lại thích nghe những giọng thanh tao mộc mạc... Tóm lại, cảm giới mỗi người trong chúng có một trình độ không ai giống ai, và cũng có một nhu cầu của cảm giác.

    Khi chúng ta thích tức là chúng ta đang thiếu thốn trong người những cảm giác đó, và cảm giác chúng ta đang đòi hỏi được hưởng thụ...

    ... Cảm giác trong mỗi người chúng ta đã khác nhau, lại không cố định. Nó tùy thuộc vào sự pháit triển của thể chất theo thời gian. Cho nên, đôi vợ chồng mới lấy nhau thường khi thương yêu nhau, rồi cách một thời gian sau đó họ lại ghét bỏ nhau. Nguyên do là tại trình độ cảm giác của mỗi người bị chênh lệch, hoặc trái ngược. Nhu cầu cảm giác của hai bên không còn thích hợp để cung ứng nhau nữa. Người ta đâm ra ngoại tình, hoặc có kẻ say mê thầm lén, phá vỡ hạnh phúc gia đình cũng chỉ vì cảm giới của hjọ bị biến thái, mà khả năng cung ứng giữa đôi vợ chồng không còn phù hợp.”

    Với quan điểm trên, chúng ta thấy rằng tình yêu là một trạng thái biến dịch, ảnh hưởng rất nhiều mặt về ngoại năng và nội tình. Qui luật ấy cũng đã ngự trị rất mạnh mẽ vào xã hội bình dân thời xưa, khiến họ đã phải rên siết than van trước mọi biến thái của nó.

    Chúng ta không thể nào khám phá hết mọi trạng thái biến dịch của tình yêu nổi. Ở đây, chúng ta chỉ truy tầm nguồn gốc của nó, và lấy một vài câu ca dao điển hình.

    Ví dụ:

    Tôi ở cùng mẹ cùng cha,

    Mẹ cha nâng giấc như hoa trên cành.

    Bây giờ tôi ở cùng anh,

    Anh tham nhan sắc anh dành phụ tôi.

    Em nhớ ngày nào bên ao cá lội,

    Anh chỉ anh thề không lỗi nghĩa keo sơn.

    Bây giờ anh đã sang giầu,

    Anh quên đi lời hứa buổi ban đầu cùng em.

    Qua cầu, cầu yếu phải nương,

    Ta nghe bạn cõũ hết thương ta rồi.

    Ta nghe bạn cũ có đôi,

    Trong mình nóng nảy như vôi mới hầm,

    Năm tay bạn cũ khóc thầm,

    Ngày rày quê nọ xa trầm, trầm ơi!

    Anh tiếc cho ai nuôi, dạy, mong, chờ,

    Một, hai, ba tuổi đến bây giờ em lớn khôn.

    Cái vành khăn em vấn đã tròn,

    Câu cười tiếng nói đã dòn, em lại ngoan.

    Sợi tơ hồng đã buộc với nhân gian,

    Sao em không chịu khó gánh giang san nhà chồng.

    Nỡ đang tay em dứt tơ hồng,

    Đứng trên núi nọ mà trông non này.

    Ang phong lưu son phấn dọa đày.

    Thay đen đổi trắng dễ ai rày thương yêu.

    Những tâm tư đau khổ vì tình duyên trên đây chính là ý thức bất mãn của con người trước trạng thái biến dịch của ái tình. Sự bất mãn ấy là nguồn gốc của mọi tính chất mâu thuẫn.

    3) Tính chất mâu thuẫn là tính chất của tình yêu phá hoại. Nếu chúng ta quan niệm mọi tổ chức xã hội loài người là những vật chứa, mà tâm tư con người là mặt nước, thì mặt nước luôn luôn hình thành theo vật chứa, đồng thời cũng tạo thành những gợn song, nối tiếp và dồn dập để phá vỡ nhưng khuôn khổ bên ngoài. Thay đổi bằng những khuôn khổ mới để đủ sức dung nạp những biến thái bên trong.

    Sức phá hoại ấy là sức phản ứng của những tâm tư bị xáo trộn trong guồng máy sinh hoạt xã hội, mà cũng là năng lực chiến đấu để vùng lên khi tình yêu của họ bị ảnh hưởng xã hội đè bẹp xuống.

    Bởi vậy, bất kỳ thời đại nào, sự biến thái của tình yêu cũng đưa đến những chống đối, liều lĩnh.

    Xã hội bình dân thời xưa dưới guồng máy phong kiến, ảnh hưởng Nho-giáo thịnh hành, người đàn bà được lấy tiết trinh làm trọng, thế mà chúng ta vẫn thấy những trạng thái liều lĩnh như:

    Chơi cho thủng trống long bồng,

    Rồi ra ta sẽ lấy chồng lập nghiêm.

    Chơi cho thủng trống long chiêng,

    Rồi ra ta sẽ lập nghiêm lấy chồng.

    Dưới con mắt nhà đạo đức học, hoặc những nhà chính trị theo quan niệm duy lý thì đó là những thói hư, tật xấu phản ảnh một cuộc sống đồi trụy. Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn xã hội loài người với con mắt khách quan thì đó là qui luật tất yếu. Diễn biến của xã hội loài người cũng như diễn biến của vũ trụ. Trong chiều xuôi bao giờ cũng có chiều ngược. Nó là sức đối kháng, sức phản ứng tự nhiên. Một đứa trẻ bị đánh đau quá tất phải la, một con chim bị nhốt trong lồng tất phải phá phách, tìm chỗ thoát ra.

    Cái khuôn khổ “tứ đức tam tòng” của giáo lý Khổng Mạnh áp dụng vào chế độ chính trị phong kiến để bảo vệ trật tự gia đình, chẳng những ảnh hưởng vào cuộc sống quí tộc, mà còn chụp lên xã hội bình dân nữa. Người đàn bà bình dân không phải là những kẻ ăn không ngồi rồi như những hạng nữ lưu đài các, chỉ sống bám vào quyền lực của người chồng. Chính họ là những kẻ tay lấm chân bùn, vất vả tối ngày, khổ cực chẳng kém gì người đàn ông. Khi đã chịu chung những khổ cực như vậy, lẽ ra họ phải có một chế độ ưu đãi, bình đẳng, thì xã hội phong kiến lại truất mất quyền hạn của họ trong gia đình, bắt họ phải lệ thuộc hoàn toàn vào nam giới. Tại sao luật pháp không bắt buộc người đàn ông phải giữ gìn trinh tiết với đàn bà, mà chỉ người đàn bà mới phải có bổn phận ấy? Buộc người đàn bà phải bảo vệ trinh tiết trong lúc người đàn ông được quyền đùa giỡn với ái tình, xem ái tình như là của riêng họ, mà người đàn bà chỉ là vật sở hữu:

    Trai năm thê bảy thiếp,

    Gái chính chuyên một chồng.

    Bất công ấy chính là yếu cố mâu thuẫn, đưa nữ giới vào quỹ đạo đấu tranh giải phóng. Những ý thức liều lĩnh trong các câu ca dao trên đây chính là những đau khổ chất chứa trong tâm tư người đàn bà, và sự đau khổ ấy đã buộc họ phải vùng lên phản đối bằng hành động tích cực.

    Dĩ nhiên, sự bất bình đẳng giữa nam nữ dưới chế độ phong kiến thời xưa toàn thể nữ giới đều phải chịu chung, song hành động phản đối nằm trong hai tính chất: tiêu cực và tích cực.

    Hành động tiêu cực chỉ là hành động bất mãn mà người đàn bà cố gắng ép mình chịu đựng trong những tiếng rên than, còn hành động tích cực là hành động được bộc lộ ra ngoài bằng trạng thái phá phách, chống đối.

    Mọi sự chống đối đều bắt nguồn bằng sức áp chế. Nếu không có áp chế thì không có sức chống đối. Cho nên, nếu chế độ phong kiến thời xưa đặt vấn đề trinh tiết của người đàn bà như một bổn phận, thì luật pháp phong kiến cũng lại khắt khe với những ai làm sai bổn phận ấy.

    Chứng minh điều này, chúng ta có thể tìm thấy ở những da ca dao như:

    Tính quen chừa chẳng được lâu,

    Vạ làng, làng bắt mấy trâu mặc lòng.

    Người đàn bà không giữ được tiết trinh, chẳng những xã hội phong kiến gắn cho tiếng xấu, mà luật pháp còn trừng trị họ nữa.

    Nhưng đối với người đàn ông thì sao? Luật pháp không cấm người đàn ông phải chính chuyên với người đàn bà! Cho nên ý thức liều lĩnh trên đây là một hành động tích cực phản đối bất công xã hội trong lãnh vực tình yêu, phá vỡ những khuôn khổ phong kiến đã áp buộc người đàn bà phải chịu.

    Trong khuôn khổ ấy chẳng những giai cấp bình dân tự thấy mình nghẹt thở, mà đối với giai cấp nữ lưu trưởng giả vẫn thấy bực dọc. Tuy nhiên, tinh thần đấu tranh để giải phóng cho mình, người đàn bà thuộc giai cấp quí tộc vẻ yếu đuối, tiêu cực, bởi lẽ họ bị tiêm nhiễm trong đầu óc cốt cách của Nho phong. Con người họ đi trở thành ủy mỵ, họ chỉ đem nước mắt khóc cho đời, đem những lời rên than an ủi cho số phận. Những hành động chống đối Nho phong tự họ xem như trái đạo làm người, mặc dù cái đạo làm người ấy đối với họ là cả một sức nặng đè lên mầm sống của họ.

    Chứng minh điều này, chúng ta thấy trong “Đoạn trường Tân thanh”, nàng Kiều dù phải bị chế độ vua quan hà lạm, áp bức, phải bán mình chuộc cha, đem thân đi làm gái mãi dâm, thế mà tinh thần chống đối của nàng trước thực trạng xã hội vẫn không một chút hờn giận, mà chỉ dùng thuyết “Định mệnh” để tự an ủi mình qua tâm hồn của cụ Nguyễn Du:

    Lạ gì bỉ sắc tư phong,

    Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

    (Kiều)

    Người đàn bà quí tộc nhìn chế độ phong kiến và khuôn khổ Nho giáo như một định mệnh. Cho đến nỗi oán hờn chồng chất cả cuộc đời mình, nàng Kiều cũng chỉ được quyền kêu than với số mạng:

    Chém cha cái số ba đào,

    Mở ra rồi lại buộc vào như chơi.

    (Kiều)

    Họ không dám nhìn thẳng vào thực trạng xã hội. Vì nếu có nhìn vào xã hội, họ vẫn xem những thực trạng ấy như là qui luật tất yếu của tạo hóa đã aa bài.

    Cũng như “Chinh phụ ngâm”, cảnh chiến tranh thời xưa chỉ là những cuộc tranh đoạt quyền lợi của các lãnh chúa. Người chinh phụ khi mỏi mắt trông chồng nơi biên ải đáng lẽ họ nghĩ đến cảnh xâu xé của xã hội loài người mà oán hờn những bất công, tham vọng của chế độ, thì họ lại không nhìn vào thực trạng ấy, mà đổ lỗi cho trời.

    Ví dụ:

    Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,

    Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.

    Xanh kia thăm thẳm từng trên,

    Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?

    Nếu bảo rằng thờ xưa dưới chế độ khắc nghiệt của vua quan, người đàn bà dù oán hờn đến đâu cũng không dám nói thẳng vào thực trạng, thì cũng không đúng. Người bình dân là người thấp nhất trong xã hội, họ vẫn sống dưới chế độ hà khắc của vua chúa, thì tại sao họ dám chống đối quyền lực của quan lại một cách ngang nhiên:

    Ví dụ:

    Em là con gái đồng trinh,

    Em đi bán rượu qua dinh ông Nghè.

    Ông Nghè sai lính ra ve,

    - Trăm lạy ông Nghè tôi đã có con!í

    - Có con thì mặc có con,

    Thắt lưng cho dòn theo võng cho mau.

    Những câu hát châm biếm như vậy rõ ràng người phụ nữ bình dân đã dám nhìn vào thực trạng xấu xa của guồng máy xã hội, và họ dám nói lên bằng ý thức chống đối mạnh mẽ.

    Mặt khác, trong lúc chế độ phong kiến bắt buộc người đàn bà phải tiết hạnh, cái tiết hạnh phục vụ cho quyền lợi đàn ông, thì chính đàn bà bình dân cũng lại đứng ra chống đối mãnh liệt hơn.

    Họ bảo:

    Lẳng lơ chết cũng ra ma,

    Chính chuyên chết cũng chôn ra đầy đồng.

    Họ từ chối giá trị của tiết hạnh. Họ quan niệm giáo lý xã hội phong kiến chỉ là chuyện phỉnh phờ, gạt gẫm. Cái xấu và cái tốt trong đời không ích lợi gì cả, bởi vì khi chết đi, con người ai cũng như ai.

    Xem thế thì thấy rõ người đàn bà bình dân và người đàn bà quí tộc cùng chung một cảnh khổ dưới ách Nho giáo, nhưng người đàn bà bình dân có tinh thần tranh đấu tích cực hơn. Họ dám nhìn vào thực trạng xã hội, và dám nói lên tiếng lòng của họ bằng một đường thẳng, không khiếp nhược.

    Dưới chế độ phụ quyền, người đàn ông được luật pháp bảo vệ cả đến việc bạc đãi người đàn bà, như:

    Vì đâu tình bậu muốn thôi,

    Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra.

    Bậu ra cho khỏi tay ta,

    Cái xương bậu nát, cái da bậu mòn.

    Người đàn ông có quyền hành hạ người đàn bà, mà không sợ luật pháp. Tuy nhiên, khi mà bất công xã hội đã đè nặng trên tâm tư, người đàn bà bình dân có đủ can đám để chống lại sự hành hạ ấy.

    Anh đánh thì tôi chịu đau,

    Tánh tôi hoa nguyệt mười con chẳng chừa.

    Hoặc:

    Đánh tôi thì tôi chịu đau,

    Tánh tôi hoa nguyệt chẳng chừa đặng đâu.

    Tại sao người đàn bà có thể mạnh dạn đưa tánh xấu mình ra để thách đố trước hành động vũ lực của người đàn ông? Xét về mặt tâm lý thì khi phơi bày tánh xấu của mình, người đàn bà vẫn không cho là xấu. Bởi vì họ thấy đối tượng của họ là người đàn ông vẫn còn xấu hơn.

    Trước mắt họ, người đàn ông không phải là thần tượng đáng tôn thờ. Và họ đã xét thấy:

    Đàn ông năm bảy lá gan,

    Lá ở cùng vợ, lá toan cùng người.

    Hoặc:

    Sông bao nhiêu nước cũng vừa,

    Trai bao nhiêu vợ cũng chưa vừa long.

    Như vậy người đàn bà dù có lẳng lơ cũng chưa phải hèn hạ, hư đốn. Cái hèn hạ, hư đốn của họ chỉ do quan niệm bất công của xã hội phong kiến gắn lên họ mà thôi.

    Tuy vậy, sự chống đối của người đàn bà không phải do trạng thái thông thường, nó phát xuất ở khả năng vùng lên của những tâm tư bị áp chế, cho nên chúng ta thấy phảng phất một cái gì uất ức, liều lĩnh!

    Thật vậy, sống trong xã hội từ bậc phong lưu đài các đến hạng khố vải quần thâm, khi đã tạo lập gia đình ai lại không muốn vui trong hạnh phúc? Tuy nhiên, nếu vì lẽ gì hạnh phúc ấy không đạt được, mà con người họ lại bị chìm trong thảm trạng bất công, dĩ nhiên nguồn đau khổ ấy phải đưa họ vào trạng thái liều lĩnh, chống đối.

    Sự chống đối liều lĩnh của họ đã bộc lộ một cách ngang nhiên, bất chấp cả phép vua lệ làng, bất chấp cả quyền lực của người đàn ông được xã hội phong kiến bảo vệ.

    Đây chúng ta nghe họ nói:

    Không chồng mà chửa mới ngoan,

    Có chồng mà chửa, thế gian sự thường.

    Tại sao họ lại đi tìm cái chuyện phi thường như vậy để hành động, mà lại xưng mình như có vẻ anh hùng? Rõ ràng lòng tự đắc của họ dựa trên quan điểm chống đối hơn là đạo lý. Họ tự đắc vì họ dám ngang nhiên chống lại luật lệ và là thói của một xã hội bất công, họ tự đắc vì họ đã dám đi ngược với dòng đời ngang trái. Cho nên trước cái khuôn phép ràng buộc để bảo vệ những giả dối bên ngoài, họ khinh bỉ bằng lối châm biếm như:

    Có chồng càng dễ chơi ngang,

    Đẻ rề con thiếp, con chàng, con ai?

    Luật lệ không thể ngăn cấm lòng người một khi lòng người đã muốn. Với ý thức chống đối, họ khinh thường cả luật lệ. Và đối với họ, chỉ có tình nghĩa mới đem lại con người lòng chân thật.

    Ai cấm được lòng người khi tình yêu trong gia đình không tìm được sức sống của yêu đương. Người đàn ông không yêu vợ, có thể đi tìm những thú vui khác, còn người đàn bà thì phải chính chuyên với kẻ bất nghĩa. Bởi vậy, người đàn bà đã phải phản ứng:

    Hai tay cam lấy quả hồng,

    Quả chát phần chồng, quả chín phần trai.

    Đêm nằm vuốt bụng thở dài,

    Thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều.

    Tuy đó là một tình yêu lang chạ, trái với đạo, nhưng nó cũng bộc lộ cho chúng ta thấy bên trong hàm chứa một sự bất mãn đối với cuộc sống gia đình.

    Không thương chồng mà lại thương trai, người đàn bà đã tách rời bổn phận làm vợ. Đứng về mặt đạo nghĩa, chúng ta thấy đáng chết, nhưng nếu đi sâu vào tâm tưởng của kẻ ngoại tình chúng ta lại thấy thương. Bởi vì chính kẻ ấy là kẻ thiếu hạnh phúc, đang khát vọng một cuộc sống êm đềm, kẻ đang bị đời dành cho họ một thảm cảnh mà tâm hồn họ không thể nào buộc họ ép dần trong một cái chết giữa lúc họ đang sống. Họ phải vươn lên tìm lấy cái sống thầm lén, khổ đau.

    Xã hội tạo cho họ một cuộc sống đau khổ, và luật lệ buộc họ phải đi vào con đường thâm lén để tìm ý sống, thì đó chính là mầm mống tác thành một phần động lực trong tâm tư con người. Phần động lực ấy khi đã chất chứa tất phải bùng nổ. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi thấy trong ca dao bình dân có những ý tưởng táo bạo của người đàn bà, như:

    Chứ tình đáng giá nghìn vàng,

    Từ anh chồng cũ đến chàng là năm.

    Còn như yêu vụng nhớ thầm,

    Họp chợ trên bụng đến trăm con người.

    Họ nguyền rủa chữ trinh, ngạo nghễ với chữ trinh, lôi chữ trinh ra làm trò cười trước xã hội! Ai dám bảo đó không phải ý thức bất mãn bị dồn ép do lẽ sống bất công? Người ta đã bắt kẻ khác phải bảo vệ trinh tiết để phục vụ cho một lớp người mà những kẻ ấy xem như của riêng họ. Bời vậy họ quan niệm rằng những kẻ nêu ra vấn đề trinh tiết chỉ là những kẻ ích kỷ, và họ thóa mạ:

    Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn,

    Chính chuyên cũng chẳng sơn son thếp vàng.

    Thái độ hằn học ấy chính là thái độ chống đối, phá phách trong ý thức bất mãn. Từ chỗ bất mãn họ đi đến liều lĩnh:

    Sáng ngày ra đứng cửa Đông,

    Bói xem một quẻ lộn chồng được chăng?

    Ông thầy gieo quẻ bói rằng:

    Lộn chồng thì được nhưng năng phải đòn.

    - Mồ cha đứa có sợ đòn,

    Miễn là lấy được chồng dòn thì thôi,

    Trạng thái biến động đã đưa lịch sử ái tình loài người vào con đường phiêu lưu, mạo hiểm. Ngày nay, sống trong chế độ tự do luyến ái, bình đẳng hôn nhân, chúng ta vẫn còn thấy những vụ án ngoại tình, những cuộc thảm sát vì tình, những cảnh tượng đau khổ vì tình, thì từ ngàn xưa, dưới chế độ bất bình đẳng hôn nhân của nền phong kiến, những tâm tư liều lĩnh, chống đối ấy cũng chẳng có gì lạ. Nó cũng chỉ là sự biến thái của tình yêu.

    Khi tình yêu đã bị ảnh hưởng vào lẽ sống tất nhiên phải chịu sự phân hóa. Huống chi, người đàn bà thời xưa, sống dưới chế độ duy lý của nền phong kiến, bản năng bị kềm tỏa. Những thảm trạng của lễ giáo như khi người đàn ông chết, người đàn bà phải trực tiết nuôi con (phu tử tùng tử) trong lúc người đàn ông vợ chết vẫn có quyền tục huyền, thì đó cũng là một căn bản mâu thuẫn trong chế độ hôn nhân.

    Mâu mâu thuẫn đã có, dĩ nhiên không thể tránh khỏi những hành động chống đối. Đây, chúng ta hãy nhìn vào tâm tư một góa phụ đã đau đớn, mỉa mai trước một anh chồng ngắn số:

    Giầu thì thịt cá cơm canh,

    Khó thì lưng rau dĩa muối, cúng anh tôi đi lấy chồng.

    Hỡi anh chồng cũ tôi ơi!

    Anh có khôn thiêng xin anh trở dậy ăn xôi nghe kèn.

    Thôi, anh đã về kiếp ấy xin anh đừng ghen.

    Để cho người khác cầm quyền thê nhi.

    Miệng em khóc, tay em bế ẵm cái ông thần vì,

    Tay em gạt nước mắt, tay em thì thắp nén nhang.

    Bởi vì đâu mà em xót nỗi muôn vàn!

    Xem thế, chúng ta phải công nhận rằng ý thức người bình dân thời xưa chống đối thuyết “tam tùng” của Khổng giáo một cách mãnh liệt. Sự chống đối ấy luôn luôn tượng hình trong tâm tư người bình dân, mà ở đây chúng ta không thể nào lược trích cho hết được.

    Cùng với hành động chống đối ấy, chúng ta thử xét qua một tâm trạng nữa của người đàn bà bất mãn với chế độ trực tiết nuôi con, như:

    Hỡi thằng cu lớn, hỡi thằng cu bé,

    Cu tí, cu tị, cu tỉ, cu tì ơi!

    Con dậy con ăn cơm với bà.

    Để mẹ đi kiếm một và con thêm.

    .......................................

    Con ra gọi chú vào đây,

    Để mẹ giao trả cái cơ nghiệp này mẹ bước đi.

    Tiếng gọi của tình yêu đã phá vỡ khuôn khổ ràng buộc của giáo lý Khổng Mạnh.

    Tuy nhiên, trạng thái biến động của ái tình đã bị ảnh hưởng nhiều mặt thì tính chất biến thái ấy cũng phải diễn biến qua nhiều chiều hướng.

    Theo sự phân tích trên đây, chúng ta có thể dồn tất cả những chiều hướng ấy vào hai lãnh vực: ngoại năng và nội tính.

    *

    Tóm lại, tình yêu sở dĩ có sự biến thái là do ảnh hưởng vào guồng máy sinh hoạt xã hội loài người, do qui luật biến động của vạn hữu. Lịch sử diễn biến của tình yêu cũng là lịch sử diễn biến của xã hội loài người qua các chế độ chính trị.

    Ở đây, nếu nói riêng về lớp người bình dân thì chúng ta phải thừa nhận ý thức đấu tranh bình đẳng của họ mạnh mẽ hơn trong lúc họ cũng vẫn phải hòa mình trong mọi ảnh hưởng xã hội.

    Và khi họ đấu tranh cho tình yêu được bình đẳng thì cũng có nghĩa là họ đấu tranh để xóa bỏ một chế độ.
     
Moderators: galaxy, teacher.anh
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này