Tuỳ bút - Biên khảo NC-17 Thi ca bình dân Việt Nam - Tòa lâu đài văn hóa dân tộc - Quyển I <Phan Canh – Nguyễn Tấn Long>

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi 4DHN, 15/7/15.

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Phần tuyển tập ca dao tiêu biểu cho

    BIẾN THÁI CỦA TÌNH YÊU

    1. Ai làm cho đó xa đây,

    Cho chim minh liễu xa cây ngô đồng.

    2. Ai xui, ai khiến bất nhơn,

    Tôi nay gặp bạn thương hơn vợ nhà.

    5. Anh về tìm vợ con anh,

    Lá rụng về cội bỏ nhành bơ vơ.

    4. Anh lo phận anh chưa có vợ,

    Em có chồng rồi duyên nọ lôi thôi.

    Hiu hiu gió thổi lò vôi,

    Ai đem tin cho bạn, đây ta có đôi, bạn buồn.

    5. Anh đi ngang qua cửa sao không vào,

    Hay là anh có chỗ má đào, phụ em.

    6. Anh ơi anh đợi tôi cùng!

    Tôi còn đốt mã cho chồng tôi đây.

    7. Anh đi đàng ấy xa xa,

    Để em ôm bóng trăng tà năm canh.

    Nước non một gánh chung tình,

    Nhớ ai, ai có nhớ mình hay chăng?

    8. Anh đừng ham cái bóng quế, bỏ phí cái bông lài.

    Mai sau quế rụng, bông lài thơm xa.

    9. Anh về tìm vảy cá trê,

    Tìm gan tim thú? tìm mề con lươn.

    Tìm cho con bún có xương,

    Tìm dây tơ hồng có rễ em mà theo không!

    - Em về đánh kiểng la làng,

    Tới đây anh chỉ vảy cá trê vàng em coi.

    Em đừng nói dại, nói khờ,

    Bún làm bằng bột ê hề xương đâu.

    10. Anh tiếc cho ai nuôi, dạy, mong, chờ,

    Một, hai, ba tuổi cho đến bây giờ em lớn khôn.

    Cái vành khăn em vấn đã tròn,

    Câu cười tiếng nói đã dòn, em lại ngoan.

    Sợi tơ hồng để buộc với nhân gian,

    Sao em không chịu khó gánh vác giang san cho chồng.

    Nỡ đang tay em dứt tơ hồng,

    Đứng đầu núi nọ mà trông bên non này.

    Áng phong lưu son phấn đọa đày,

    Thay đen đổi trắng để ai rày yêu thương.

    Dẫu mai ra tán tỉa tàn vàng,

    Mười phương thiên hạ xem thường có vào đâu.

    Tấm thân em chẳng nghĩ mặc dầu,

    Bọn đàn bà còn để tiếng xấu về sau muôn đời.

    Chị em ơi, thế cũng kiếp người!

    Anh có thương thì thương cho chắc,

    Có trục trặc thì trục trặc cho luôn,

    Đừng như con thỏ nọ đứng đầu truông,

    Khi vui giỡn bóng, khi buồn giỡn trăng

    11. Anh về ngoài Huế lâu vô,

    Họa bức tranh đồ để lại cho em.

    12. Anh buồn có chốn thở than,

    Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya.

    13. Anh đi đâu bỏ nhện giăng mùng,

    Bỏ đôi chiếu lạnh, bỏ phòng quạnh hiu.

    14. Áo rách vai vá hoài vá hủy,

    Sao em có chồng chẳng nghĩ đến anh!

    15. Áo em đang khô, không ngờ áo em ướt,

    Bởi hiềm vì anh chậm bước,

    Nên thày mẹ bán gả em đi.

    16. Bao giờ cho chuối có cành,

    Cho sung có nụ, cho hành có hoa.

    Bao giờ trạch đẻ ngọn đa,

    Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình!

    Bao giờ cây cải làm đình,

    Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta,

    Bao giờ đá nổi, rong chìm,

    Muối chua, chanh mặn mới tìm được em.

    18. Bắc Nam lòng chẳng thương tình,

    Để tôi đứng lại một mình sao đang.

    19. Bắc thang hỏi thử ông trời!

    Tiền mà cho gái có đòi được không?

    20. Bần gie đóm đậu sáng ngời,

    Lỡ duyên tại bậu, trách trời sao đang.

    21. Bận này tôi thác tại em,

    Hồn về chín suối để cho em có chồng.

    22. Bậu có chồng rồi như con cá vô lờ,

    Tôi tương tư nhớ bậu, dật dờ đêm thanh.

    25. Bậu nói với qua bậu không hái lựu bẻ đào,

    Đào đâu bậu bọc, lựu nào bậu cầm tay?

    26. Bây giờ hỏi thiệt cô ba,

    Còn thương như cũ hay là hết thương?

    Ban ngày đang nắng, tối lại dầm sương.

    Công tôi lao khổ, mình thương không mình!

    25. Bây giờ anh bắt tay nàng,

    Hỏi sao lá ngọc cành vàng xa nhau?

    Xa nhau, ta mới xa nhau,

    Khi xưa ta vẫn ăn trầu một cơi.

    26. Bây giờ gạo hết tiền không,

    Anh ơi trở lại mà trông lấy hòm.

    Bao giờ tiền có gạo còn,

    Bây giờ tôi lại giữ hòm cho anh.

    27. Bướm bay nửa biển bướm ngừng,

    Căn duyên trời định nửa chừng mà thôi.

    28. Cam ngon quít ngọt đã từng,

    Còn quả khế ngọt trên rừng chưa ăn.

    29. Canh khuya trăng khóc trên đồi,

    Khóc cho chiếc bóng hết ngồi lại đi.

    Nhớ chàng lắm lắm chàng ôi,

    sao chàng không tới để thiếp tôi một mình lẻ loi.

    30. Canh một cho chí canh hai,

    Có ai vui thay như cá nước, bạn xa nhau rồi, bạn không nói trước cho em hay,

    Qua chuyến đò này nhớ nghĩa đó thay,

    Huống chi đôi lứa mình ơn trung nghĩa trọng ba bốn tháng rày nhớ thương.

    31. Cau khô mà bỏ hộp đồng,

    Mặt mi không xứng làm chồng tao mô.

    32. Căn duyên sáng tợ trăng rằm,

    Bây giờ mình để tôi nằm phòng không.

    33. Cầu Trường-tiền sáu vạy, mười hai nhịp,

    Anh qua không kịp tội lắm em ơi,

    Nghĩa Tào-khang ai mà vội dứt, đêm nằm tấm tức lụy nhỏ tuôn rơi.

    Biết bao giờ lạc được bóng người,

    Để đêm khuya cảnh vắng vui cười giải khuây.

    34. Cây quằn vì bởi trái sai,

    Anh xa em vì bởi ông mai ít lời.

    35. Cây đa là cây đa bến cũ, bến cũ là bến cũ đò xưa,

    Ôi thôi rồi người khác sang đưa,

    Thiếp nhìn chàng lưng lẻo, nước sa xuống như mưa hỡi chàng,

    36. Cây cao bị gió khó trèo,

    Mình thấy đây vận bĩ, lâm nghèo mình xa,

    37. Cây đa trốc gốc trôi rồi,

    Đò đưa bên khác anh ngồi trông ai?

    38. Có vả mà phụ lòng sung,

    Mình về chốn cũ vấn vương nơi nào.

    39. Có mặt tôi, mình nói mình thương,

    Mình về chốn cũ vấn vương nơi nào.

    40. Có chả em phụ tình xôi,

    Có cam phụ quít, có người phụ ta.

    Có quán tình phụ cây đa.

    Ba năm quán đổ, cây đa hãy còn.

    Có mực anh phụ tình son,

    Có kẻ đẹp dòn em phụ nhân duyên.

    Có bạc em tính phụ tiền,

    Có nhân ngãi mới quên người tình xưa.

    Trách người quân tử vụng suy,

    Giàn hoa thiên lý chẳng chê mành mành.

    Đêm thổn thức ngồi khêu đèn phụng,

    Canh sang năm gần rụng khúc rồng.

    Trách ai ở chẳng hết lòng,

    Phụ tình gần gũi có chồng xa xôi.

    41. Con ai đem bỏ chùa này.

    Nam-Mô-A Di-Đà-Phật con thầy, thầy nuôi.

    42. Con quạ đen lông xuống lòng nó tắm,

    Chồng bậu ở nhà khó lắm bậu ơi.

    43. Con chim nhỏ nhà cái mỏ hắn vàng,

    Hắn đứng trước cửa tam quan hắn kêu hỏi bác lính khố vàng.

    Chớ có ham nơi giàu sang sắc mắc mà phụ phàng duyên em

    44. Con chim quyên nó đậu dựa cành dâu,

    Sao mình bỏ thảm bỏ sầu cho tôi?

    45. Con dao vàng cắt giải y môn,

    Thiếp tôi đần dại lấy chàng khôn mà nhờ.

    Không ai ngờ trăng gió mập mờ,

    Gao đoan tình phụ thiếp nhờ vào đâu.

    Vì chàng chẳng tại thiếp đâu,

    Chàng xe chỉ mảnh, thiếp khâu sao bền?

    46. Còn ba miếng thuốc thiếp thiếp chàng chàng,

    Hết ba miếng thuốc cứ đàng em dong.

    47. Còn tiền còn bạc, còn vợ còn chồng

    Hết tiền hết bạc, tơ hồng hết xe.

    48. Cô mình ơi! anh quyết với cô mình,

    Công anh dan díu, chẳng có thành thì thôi.

    Con sông bên kia lở, bên bồi,

    Bên lở thì đục, bên bồi thì trong.

    Con sông kia nước chảy đôi dòng,

    Biết rằng bên đục, bên trong bên nào?

    49. Công trình ân ái biết bao,

    Gặp nhau lại thẹn, toan chào lại thôi.

    50. Công anh chẻ nứa đan bồ,

    Con chị đi mất, anh vồ con em.

    Công anh rọc lá gói nem,

    Con chị đi mất, con em trốn chồng.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/1/16
    Ban Tang Du Tử thích bài này.
  2. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    51. Công anh đắp đất rào phên,

    Phải người ngắt ngọn còn nên công gì.

    Công anh đánh đá xây tường,

    Để ai đóng oản dâng hương chùa này.

    52. Cởi áo ra lựa sáo mà bận, anh ra về,

    Cho em dặn làm ri. Ví dầu em có lâm nguy

    Cũng theo nhau cho trọn, chớ dứt nghĩa em đi mà tồi tàn.

    55. Củi đậu nấu đậu ra dầu,

    Lấy mình không đặng, đây qua cạo đầu đi tu.

    54. Cha đời con gái xứ Đông,

    Ăn trộm tiền chồng mua khố cho trai.

    Cha đời con gái xứ Đoài,

    Ăn trộm tiền mẹ mua khoai cho chồng.

    55. Chàng đừng có lóng trong gạn đục,

    Thiếp giao tình bằng phẳng như cưa.

    Giữ cho tròn tình nghĩa sau xưa,

    Cũng như anh thợ mộc liệu vừa rập khuôn.

    56. Chàng về Vạn-hoạch chàng ơi!

    Con thơ bỏ đói ai nuôi cho chàng?

    57. Chàng ơi phụ thiếp làm chi,

    Thiếp như cơm nguội để khi đói lòng.

    58. Chẳng ưa dưa khú bầu già,

    Trước còn đằm thắm, sau ra nhạt nhùng.

    59. Chém cha cái thói lần khần,

    Thấy chồng yêu xỏ chân lỗ mũi,

    Chửa chết đã thối,

    Chửa giàu đã lấy.

    B... làm then cửa.

    Thôi đừng bắc bực làm cao,

    Phèn chua, anh đánh nước nào cũng trong.

    60. Chê anh, lấy đấy sao đành,

    Em chê cam sành, lấy phải quít hôi.

    Quít hôi bán một đồng mười,

    Cam ba đồng một, quít ngồi trơ trơ.

    61. Chỉ tơ đứt mối thình lình,

    Thương chưa phỉ dạ mà tính dứt xa.

    62. Chiều chiều mây phủ đá bia,

    Đá bia mây phủ, chị kia mất chồng.

    Mất chồng đây chẳng có lo,

    Sợ có mất vợ nằm co một mình.

    63. Chiều nay người nghĩa xa anh,

    Chim sa cá lụy, kiểng đương xanh vội tàn.

    64. Chiều nay tôi cắt cổ gà vàng,

    Để chi khuya nó gáy, hai đàng biệt ly.

    65. Chim kêu chíp chíp trên mái nhà,

    Đây ta không muốn sao đó đà cứ xuống lên.

    66. Chín con chưa gọi rằng chồng,

    Cơm chẳng lành, canh chẳng ngon.

    Dẫu cho chín đụn, mười con cũng lìa.

    67. Chồng gì anh, vợ gì tôi,

    Chẳng qua là cái nợ đời chi đây.

    Mỗi người một nợ cầm tay.

    Đời xưa nợ vợ, đời nay nợ chồng.

    68. Chợ chiều nhiều khế ế chanh,

    Nhiều cô gái lạ nên anh chàng ràng.

    69. Chợ Sài-gòn cẩn đá,

    Chợ Rạch-giá cẩn xi-moong.

    Chúc em ở lại vuông tròn,

    Anh về xứ sở chắc không còn trở vô.

    70. Chơi hoa cho biết mùi hoa,

    Khi tươi thì hái, thì tàn quẳng đi.

    71. Chúa tàu mở hội bên Ngô,

    Cớ sao bóng phướn sang chùa An-nam.

    Thà rằng chẳng biết cho cam,

    Biết ra kẻ Bắc, người Nam thêm sầu.

    Cột buồm mà nghĩ cây cau,

    Thấy thuyền thúng nát, nghĩ tàu thằng Ngô.

    Còn tàu, tàu bán vải sô,

    Tàu về mới biết xi xô bạc tình.

    72. Chung quanh những chị em người,

    Giữa chùa Non-nước một tôi với chàng.

    Dù chàng mà có yêu đương,

    Thì chàng đắp điếm trăm đường để cho.

    Yêu chán, sợ chàng lại no,

    Rồi khi ngúng ngẩy biết nhờ cậy ai.

    73. Chữ trinh đáng giá ngàn vàng,

    Từ anh chồng cũ đến chàng là năm.

    Còn như yêu vụng nhớ thầm,

    Họp chợ trên bụng đến trăm con người.

    74. Chữ đề vô đá lâu phai,

    Đêm nằm nghĩ lại coi ai bạc tình.

    75. Chưa quen, đi lại cho quen,

    Tuy rằng cửa đóng mà then không cài.

    Kẻ khinh, người trọng vãng lai,

    Song le cũng chửa có ai bằng lòng.

    76. Dậm chân đấm ngực kêu trời,

    Vợ chồng chưa mấy năm trời lại xa.

    77. Dẫu rằng đá nát vàng phai,

    Ba sinh phải giữ lấy lời ba sinh.

    Duyên kia có phụ chì tình,

    Mà toan xẻ gánh chung tình làm hai.

    Bây giờ người đã nghe ai,

    Thả chông đường nghĩa, rắc gai lối tình.

    Nhớ lời hẹn ước đinh ninh,

    Xa xôi ai có thấu tình chăng ai!

    78. Ốm tương tư uống thuốc bạc trăm,

    Không thấy người nghĩa tới thăm chút nào.

    79. Đất láng quyên tự nhiên cỏ mọc,

    Bởi mang chữ nghèo bạn ngọc có đôi.

    80. Đầu đường có một cây dúi,

    Cuối đường có một cây đa,

    Làm chi tội nghiệp, bỏ qua sao đành?

    81. Đem em ra bỏ xuống gành,

    Kéo neo mà chạy sao đành anh ơi!

    82. Đêm khuya hoài vọng chờ ai,

    Bạn lang dứt mối bao giờ không hay.

    83. Đêm qua vật đổi sao dời.

    Tiếc công gắn bó, tiếc lời giao đoan.

    Đêm qua rót đọi dầu đầy,

    Bấc non chẳng cháy, oan mày dầu ơi!

    Đêm qua rót đọi dầu vơi,

    Bấc non chẳng cháy, dầu ơi oan mày!

    84. Đèn nào cao bằng đèn ông Chánh.

    Bánh nào trắng bằng bánh bò bông.

    Anh thương em từ thuở mẹ bồng.

    Bây giờ khôn lớn lấy chồng bỏ anh.

    85. Đó gắn tình, tôi lại gắn công

    Mình có chồng, tôi tức quá, uổng công tôi chờ.

    86. Đố ai đốt cháy ao bèo,

    Để ta gánh đá Đông-triều về ngâm.

    Bao giờ cho đá mọc mầm,

    Thì ta kết nghĩa tri âm với nàng.

    87. Đôi chim se sẻ ăn rẽ đường cày,

    Đôi đứa ta thương vội ít ngày rồi thôi.

    88. Đồng tiền Vạn-lịch thích bốn chữ vàng.

    Anh tiếc công anh gắn bó với cô nàng bấy lâu,

    Bây giờ cô lấy chồng đâu?

    Để anh giúp đỡ trăm cau, ngàn vàng.

    Năm trăm anh đốt cho nàng,

    Còn năm trăm nữa giải oan lời thề,

    Xưa kia nói nói, thề thề,

    Bây giờ bẻ khóa, trao chìa cho ai?

    Bây giờ nàng đã nghe ai,

    Gặp anh ghé nón chạm vai chẳng chào!

    89. Đồng tiền, chiếc đũa phân ly,

    Xa anh vì bởi sợi chỉ điều xe lơi,

    90. Đứng gần bên anh đôi chuỗi lên màu,

    Trách lòng người nghĩa ham giàu bỏ em.

    91. Dứt dây nên gỗ mới chìm,

    Bởi anh ở bạc em tìm nơi xa.

    92. Em là con gái Đường Trong,

    Em đi thuyền dưới, mất lòng thuyền trên.

    Ba năm ăn ở thuyền trên.

    Bởi anh hàng muối cho nên mặn mà.

    Xuống thuyền dịp bảy, dịp ba.

    Trách anh hàng trứng ở ra đôi lòng.

    Con sông Thương nước chảy giữa dòng,

    Đèn khêu đôi ngọn, anh trông ngọn nào?

    Muốn tắm mát thì lên ngọn con sông Đào,

    Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh,

    Đôi tay vít cả đôi cành,

    Quả chín thì hái, quả xanh thì đừng.

    Ba bốn năm nay ăn ở trên rừng,

    Chim kêu, vượn hú, nửa mừng, nửa lo.

    Trót sa chân lỡ bước xuống đò,

    Gieo mình xuống sập những lo cùng phiền.

    Chợ tình Đông một tháng sáu phiên,

    Gặp cô hàng xén kết nhân duyên vừa rồi.

    Cái gánh hàng đây, những quế cùng hồi,

    Có mẹt bồ kếp, có nồi phèn chua.

    Bó hương thơm xếp để lên bồ,

    Trần bì, cam thảo, sài hồ, bàng liên,

    Hàng em đáng giá bao nhiêu tiền?

    Để ta xếp vốn, ta liền buôn chung.

    Buôn chung, ta lại bán chung,

    Được bao nhiêu lãi ta cùng chia nhau.

    93. Em đương bắc nước sôi sôi,

    Nghe anh có vợ, quăng nồi đá vung.

    94. Em nhớ ngày nào bên ao cá lội,

    Anh chỉ, anh thề không lỗi nghĩa keo sơn,

    Mà giờ đây anh đã sang giàu,

    Quên đi lời hứa buổi ban đầu cùng em.

    95. Em đi đâu, đào liễu một mình,

    Để ai nặng khối chung tình trong tâm!

    Đêm qua vắng khách tri âm,

    Vắng hoa luống những âm thầm cỗi cây.

    Đêm đêm ngồi tựa cành cây,

    Than thân với bóng, bóng rày bóng chẳng có thương.

    96. Em một khuyên anh bớt thảm,

    Hai khuyên đó giảm sầu.

    Ba khuyên anh bớt buồn rầu,

    Hãy kiếm nơi cầm sắt nối cơ cầu về sau.

    97. Em đương dệt chiếu hồi văn,

    Nghe anh có vợ, em quăng con chuồi.

    98. Gánh nặng mà đi đường dài,

    Để anh gánh đỡ một mai nên chồng.

    - Gánh thời chị lại trả công,

    Mặt em chả đáng làm chồng chị đâu.

    99. Gặp nhau từ bên Phú-nhi,

    Chẳng đi thì nhớ, đi thì uổng công.

    Gặp nhau từ bên Đại-đồng,

    Quên nhau hay đã có chồng mà quên?

    100. Gặp mặt anh đây, em quên hỏi, quên chào,

    Hay là em có nơi nào bỏ anh?

    Thỏ giỡn trăng như sơn băng thủy kiệt,

    Anh bỏ nàng nhật nguyệt xét soi.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/1/16
    Ban Tang Du Tử thích bài này.
  3. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    101. Gặp tôi không hỏi, không chào,

    Hay là bạn có chốn nào phụ anh?

    102. Gió đưa ngọn cỏ phất phơ,

    Ngọn cỏ phơ phất,

    Nồi đồng sôi, nồi đất cũng sôi,

    Đũa bếp có đôi, chìa vôi lẻ bạn,

    Mà anh sao đành đoạn bỏ em!

    103. Gió nam non thổi lòn hang chuột,

    Nghe em có chồng anh đứt ruột, đứt gan.

    Gió vàng hiu hắt đêm thanh,

    Đường xa dặm vắng, xin anh đừng về.

    Mảnh trăng đã trót lời thề,

    Làm chi để gánh nặng nề riêng ai.

    104. Gió chiều thổi héo ngọn dừa.

    Dứt tình tại bạn em chưa tiếng gì.

    105. Gió đưa trăng, trăng thanh vằng vặc,

    Trăng đưa gió, gió mát hiu hiu.

    Ngày rày anh được chỗ tân yêu,

    Nghĩa nhơn hồi trước em kêu thấu trời!

    Uổng công em cặn kẽ mấy lời.

    Uổng công trao thuốc, trao trầu,

    Uổng công nóng lạnh nhức đầu em thăm.

    Uổng công mang tiếng mang tăm,

    Uổng công lụm cụm ba bốn năm với chàng.

    Hồi nào ngăn ngả đón đàng,

    Bây giờ hỏi thiệt bạn vàng thương ai?

    106. Hai đứa mình dứt diệu tình thương!

    Giả như Kim trọng dứt tình thương Thúy Kiều.

    107. Hai tay cầm hai quả hồng,

    Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai.

    Nằm đêm vuốt bụng thở dài,

    Thương chồng thì ít, nhớ trai thì nhiều.

    108. Hồi nào một gói đôi dầu,

    Bây giờ bỏ thảm, bỏ sầu cho anh.

    109. Hồi nào một gói kề lưng,

    Bây giờ khác thể người dưng sao đành.

    110. Hỡi thằng cu bé! hỡi thằng cu lớn!

    Cu tí, cu tị, cu tì ơi!

    Con dậy, con ăn, con ở với ông.

    Để mẹ đi lấy chồng kiếm lấy em con.

    111. Hỡi thằng cu lớn!Hỡi thằng em bé!

    Cu tí, cu tị, cu tỉ, cu tì ơi!

    Con dậy, con ăn, con ở với bà,

    Để mẹ đi kiếm một vài con thêm.

    Bố con chết đi, trong bụng mẹ đây, nó hãy còn thèm,

    Mẹ xem quẻ bói, vẫn còn đàn em trong bụng này.

    Con ra gọi chú vào đây,

    Để mẹ giao trả cái cơ nghiệp này mẹ bước đi.

    112. Hỡi cô! Vết chiếu rành rành,

    Chén son chưa cạn mà tình đã vơi.

    113. Kẻ chồng còn đó trơ trơ.

    Cùng người khác đã đợi chờ tình chung.

    Kẻ thời mới khuất mặt chồng,

    Chưa xanh ngọn cỏ cải dong biến nghì.

    114. Khăn anh nàng lấy vá vai,

    Bây giờ nàng đã nghe ai dỗ dành?

    Chẳng nên ra, tháo chỉ lấy mụn trả anh.

    Để anh đem bán lấy hai trăm vàng.

    Một trăm anh đưa cho nàng,

    Còn một trăm nữa để chàng treo ngọn cây đa.

    Chớ em không nhớ lời nguyện cùng ta,

    Sông có Nhị-hà, núi có Tản-viên.

    Còn bây giờ nàng ở thế sao nên,

    Tôi khấn quan Nam-tào, Bắc-đẩu biên tên dành rành.

    115. Khi xưa anh ở cùng ai,

    Bây giờ đặng chiếc thuyền hai phụ đò.

    Khi xưa anh ở cùng đò,

    Bây giờ đò lủng, anh mò thuyền nguyên!

    116. Khi xưa nói nói, thề thề,

    Bây giờ bẻ khóa lộn chìa sao đang.

    117. La hời, la hỡi, la hơi,

    Ai lên nhắn khách nguồn đào,

    Nghĩa xưa còn nhớ mà nào hay chăng?

    La hời, la hỡi, la hơi,

    Bây giờ tiên cảnh Đào-nguyên,

    Bao nhiêu là một con thuyền tiễn đưa.

    La hời, la hỡi, la hơi,

    118. Lạ lùng anh mới tới đây,

    Lạ thung, lạ thổ, anh nay lạ nàng.

    119. Lắm con thêm bận nhà hàng,

    Lắm nơi lịch sự hơn chàng, chàng ơi!

    Chàng thôi, thiếp cũng xin thôi,

    Hồ sen tát cạn, ta hôi mặc chàng.

    120. Lầu nào cao bằng lầu ông Chính,

    Bánh nào trắng bằng bánh bò bông,

    Thương em từ thuở má hồng,

    Bây giờ em lớn có chồng bỏ anh.

    121. Liệu bề thương đặng thời thương.

    Đừng trao gánh nặng giữa đường cho anh.

    122. Lòng anh còn đợi còn chờ,

    Sao em dứt nghĩa bao giờ không hay.

    123. Lỡ khi ăn miếng trầu xanh,

    Đêm lo ngày sợ, mặt xanh như chàm.

    124. Lửa vùi cho ấm lòng lư,

    Bậu nghe lời thả, bậu từ nghĩa anh.

    125. Mình đừng ham phú phụ bần,

    Tiền tài ăn hết, nghĩa châu trần còn thương.

    126. Mình đừng đặng cá quên nơm,

    Đôi ta gá nghĩa danh thơm ở đời.

    Cóc nghiến răng còn động lòng trời,

    Sao mình chẳng tưởng mấy lời tôi than?

    Đờn tranh dây xế, dây xang,

    Anh còn thương bạn, bạn khoan lấy chồng.

    127. Một tấm thanh tre là nghĩa,

    Một chiếc chiếu là tình,

    Bấy lâu nay em thương bóng nhớ hình,

    Bây giờ em hỏi thiệt anh có thương mình hay không?

    128. Muốn người ta, người ta không muốn,

    Xách lồng đèn đi xuống đi lên.

    129. Nào khi gánh nặng em chờ,

    Qua truông em đợi, bây giờ phụ em.

    130. Nào em phụ nghĩa bỏ chồng,

    Bởi chưng Nguyệt lão mối chỉ hồng xe lơi.

    131. Nay chừ anh đã nghe ai,

    Bỏ em giữa chốn non đoài thảm chưa?

    132. Nói ra té lẽ anh bày,

    Em thương chồng hai mươi chín bữa để một ngày thương anh.

    133. Nói thương mà ở chẳng thương,

    Đi đâu nỡ bỏ buồng hương lạnh lùng.

    134. Nước ròng bỏ bãi xa cừ,

    Gặp em hỏi thử sao từ ngỡi nhân!

    Ngỡi nhân mỏng dính tợ như cánh chuồn chuồn.

    Khi vui nó đậu, khi buồn nó bay.

    135. Nước sông còn đỏ như vang,

    Nhiều nơi lịch sự hơn chàng, chàng ơi!

    136. Nước sông còn đỏ như vang,

    Nhiều nơi lịch sự hơn nàng, nàng ơi,

    Nước sông cuồn cuộn chảy xuôi,

    Có con cá diếc đỏ đuôi theo mồi.

    137. Nước lên khỏi bực tràn bờ,

    Thương thì nói vậy, biết chờ đặng không?

    Đặng không tôi cùng gắng công,

    Chừng nào ao cá hóa rồng sẽ bay.

    138. Nước mắm chanh dành ăn bánh hỏi,

    Qua thương nàng theo dõi mấy năm.

    Cớ sao vắng bặt tin thăm,

    Hay là thục nữ có tầm nơi nao?

    139. Ngày nay hỏi gấp con bạn mình,

    Còn thương như cũ, hay là hết thương?

    140. Nghĩ con cá lý ngư cũng như thân thiếp,

    Chờ cho mãn kiếp tu được hóa rồng.

    Thôi anh đừng mong vợ mong chồng.

    Để cho em xa lánh bụi hồng gió trăng.

    141. Nghiêng tai hỏi nhà con bạn vàng,

    Còn thương như cũ hay nàng hết thương.

    142. Nhớ lời nguyện ước ba sinh,

    Xa xôi ai có biết tình chăng ai?

    Khi về nhắn liễu chương đài,

    Cành xuân đã bẻ cho ai một cành,

    Có yêu anh thì bẻ quách cho anh.

    143. Nhức đầu đặt lá tiền sanh,

    Tội trời tôi chịu, thương anh hơn chồng.

    144. Nhứt ngôn trùng, vạn ngôn dung.

    Nhứt ngôn bất trúng, vạn sự bất thành.

    Em không có dạ gạt anh,

    Nỡ nào em trao thảm cho đành dạ em.

    145. Oan ức tấm tức đánh ngực kêu thừng,

    Người thương tôi trở dạ, khổ vô chừng bạn ơi!

    146. Ông Tô-tử lên chơi đỉnh núi,

    Thấy hai vợ chồng con chim chích!

    Chín tháng mười ngày, đủ cánh mọc long.

    Vợ để con cho chồng, bay đi kiếm chác,

    Lụ thung thổ, mồi thời không được,

    Bước chân ra về thấy nhện giăng tơ.

    Mừng vui chơi bắt nhện, nào ngờ,

    Khí âm tối, hoa sen cụp lại.

    Chồng thì mong, con thì bỏ đói,

    Hết dỗ đứng dỗ ngồi, ra ngõ liền trông.

    Kìa kìa gái bốn năm con,

    Ở chửa thực lòng chồng.

    Hãy còn đang say đắm về bên huê nguyệt.

    Tôi thề trời xanh nước biếc,

    Núi non thề với nước non,

    Nào ai phụ rẫy chồng con đã trời.

    147. Ới anh ơi! anh có xa thì xa cho mất,

    Anh có lại gần thì cho thành thất thành gia.

    Em khuyên anh đừng lại lại qua qua.

    Một mai kia thầy mẹ biết đặng đánh la tụi mình.

    148. Phải chi lên được trên trời,

    Mượn gươm Hoàng-đế giết người bạc ân.

    149. Phải gần năm ngoái cũng gần,

    Năm nay vái miếu cúng thần cũng xa,

    150. Qua cầu, cầu yếu phải nương.

    Ta nghe bạn cũ hết thương mình rồi.

    Ta nghe bạn cũ có đôi.

    Trong mình nóng nảy như vôi mới hầm.

    Nắm tay bạn cũ khóc thầm,

    Ngày rày quế nọ xa trầm, trầm ơi!
     
    Last edited by a moderator: 6/9/15
    Ban Tang Du Tử thích bài này.
  4. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    151. Ra về răng dứt mà về,

    Bỏ non, bỏ nước, bỏ lời thề cho ai.

    152. Ra về nguyệt lặn sao thưa,

    Dứt tình tại bậu, qua chưa tiếng gì.

    155. Ra đường trông thấy tơ người,

    Về nhà trông thấy chỉ tôi, tôi buồn.

    Buồn thì cất gánh đi buôn,

    Một vốn bốn lãi, anh buồn làm chi,

    154. Rau muống bắt cuống rau răm,

    Làm chi đến nỗi chàng cầm cổ tay.

    Xin chàng hãy bỏ tay ra,

    Đến mai về cửa, về nhà sẽ hay.

    Chẳng đừng cầm lấy cổ tay,

    Khi xưa cành mận, khi nay cành đào.

    155. Rắn đứt đầu, rắn sầu không chạy,

    Chim đứt cánh, chim chẳng biết bay.

    Từ ngày anh xa con bạn đến nay,

    Cơm ăn chẳng đặng, áo gài hở bâu.

    156. Rút gươm linh đâm họng máu trào,

    Để cho mình kiếm chỗ sang giàu kết đôi.

    157. Sáng ngày ra đứng cửa Đông,

    Bói xem một quẻ lộn chồng được chăng?

    Ông thầy gieo quẻ nói rằng:

    “Lộn thì lộn được, nhưng năng phải đòn”.

    - Mồ cha đứa có sợ đòn,

    Miễn rằng lấy được chồng dòn thì thôi.

    158. Sáng trăng suông vằng vặc cái đêm hôm rằm,

    Nửa đêm và sáng trăng bằng ngọn tre.

    Êm trót yêu anh cho trọn một bề,

    Để anh thấp thoáng ngồi kề bóng trăng.

    Cái sự tình này ai thấu cho chăng,

    Để anh ngồi tựa bóng ông trăng chịu sầu.

    Gánh tương tư một nhịp đôi ba cầu,

    Bắc nam đôi ba ngả chịu sầu đôi ba nơi.,

    Con chim khôn chết mệt về mồi,

    Nó kêu réo rắt ghẹo người tình chung.

    Hai chúng ta vấn vít sợi tơ hồng.

    159. Sông sâu sào vắn khó dò,

    Muốn qua thăm bậu sợ đò không đưa.

    160. Sông Mơ sông Mận, sông Đào,

    Ba ngọn sông ấy chảy vào tuần ti.

    Tôi trót yêu anh bụng dạ phát phì,

    Thuốc thang đâu khỏi anh thì bảo tôi.

    161. Sông bên này anh lập chùa Tân-thiện,

    Sông bên kia anh lập cái huyện Hà-Đông,

    Huyện Hà-đông để cho Bao-Công xử kiện.

    Cái chùa Tân-thiện nhiều kẻ tu hành,

    Bạn mình ơi, chim kêu dưới suối trên nhành.

    Qua không bỏ bậu, bậu đành bỏ qua.

    164. Sông sâu cá lặn mất tăm,

    Chín tháng cũng đợi, một năm cũng chờ.

    Sông sâu cá lặn vào bờ,

    Lấy ai thì lấy, đợi chờ ta chi.

    163. Sông Thương nước chảy đôi dòng,

    Trai quên vợ, gái quên chồng, thì lên.

    164. Sớm mai ra đứng ngõ sau,

    Hai tay dủi xuống như tàu te.

    Tiếc công vun quét cây mè,

    Mè chưa ra trái, chim hòe đậu lên.

    Tiếc công lên xuống, xuống lên,

    Mòn đàng chết cỏ không nên sự tình.

    165. Tay em cầm đôi đũa nhỏ,

    Gắp than lửa đốt bỏ bộ hài qui.

    Chuyện cũ rồi anh nhắc lại làm chi?

    Anh thấy em nghèo khổ lênh đi tìm giàu.

    Đói cơm, no bữa cơm rau,

    Nghèo thời có nghĩa hơn giàu bạc ơn.

    166. Tiếc công chuốt ná lau tên,

    Nhạn bay về đền công uổng danh hư.

    167. Tiếc công đóng giá chờ gàu,

    Đó đà phụ khó tham giàu thì thôi.

    168. Tiếc công anh chẻ nứa đan lờ,

    Để cho con cá vượt bờ nó đi.

    169. Tiếc công lao đào ao thả cá,

    Ba bốn năm trời người lạ tới câu.

    170. Tiếc công lao đào ao thả cá,

    Năm bảy tháng trường người lạ đến câu.

    171. Tiếc công xe nhợ uốn cây cần,

    Xe rồi sợi nhợ, con cá lần ra khơi.

    172. Tìm em như thể tìm chim,

    Em đi phương Bắc, anh tìm phương Nam.

    175. Tiết Nhơn Quí lấy Ma-thiên-lãnh,

    Lấy Bạch-giáp, Bạch-bào,

    Em gặp mặt anh không hỏi không chào,

    Hay là em có chốn sang giàu hơn anh.

    174. Tôi ở cùng mẹ cùng cha,

    Mẹ cha nâng giấc như hoa trên cành.

    Bây giờ tôi ở cùng anh,

    Anh tham nhan sắc anh đành phụ tôi.

    175. Từ phen ra tới giang tân,

    Sớm theo dặm tuyết, đêm lần ngàn mưa.

    Tiếc công anh chứa nước đan lờ,

    Để cho con cá vượt bờ nó đi!

    176. Từ đây anh ôm chịu thất tình,

    Dựa mai mai gãy, dựa huỳnh huỳnh xiêu.

    177. Từ khi anh thọ lãnh chữ vàng.

    Giao cha cùng mẹ cho nàng dưỡng nuôi.

    178. Tưởng rằng khăn trắng mà xinh,

    Ai ngờ khăn trắng có tình với trai.

    179. Thấy em chữ nghĩa văn chương,

    Buộc lời hỏi bạn lộ dương ai trồng.

    - Mình không thương hỏi việc bao đồng,

    Lộ dương ông Chánh biểu dân trồng chờ ai.

    180. Thề thì thề gái thề trai,

    Thề đâu chết đó mà ai dám thề.

    181. Thiếp liền đòn gánh đôi quang,

    Bán buôn nuôi mẹ, chàng sang mặc chàng.

    182. Thương nhau cau sáu bổ ba,

    Ghét nhau cau sáu bổ ra thành mười.

    183. Trách ai đem lửa đốt nguồn,

    Cho tro buông xuống, cho buồn dạ em.

    184. Trách ai biên giấy bỏ bìa,

    Khi thương, thương vội, khi lìa lìa xa.

    185. Trách người quân tử bia danh,

    Chơi hoa rồi lại bẻ nhành bán rao.

    186. Trăng thanh nguyệt rặng mái đình,

    Chén son chưa cạn, sao tình dễ quên.

    187. Trăng lên khỏi núi,

    Trăng mắc bụi duối con trăng lờ.

    Em biết anh mấy tuổi đợi chờ thất công.

    188. Trăng lu vì bởi áng mây,

    Đôi ta cách trở vì dây tơ hồng,

    189. Trèo lên cây khế nửa ngày.

    Ai làm chua xót lòng này khế ơi!

    190. Trèo lên cây khế nửa ngày.

    Ai làm chua xót lòng này khế ơi!

    Mặt trăng sánh với mặt trời,

    Sao hôm sánh với sao mai chằng chằng.

    Mình ơi! có nhớ ta chăng,

    Ta như sao Vược chờ trăng giữa trời.

    191. Trên cây lê dưới vịn cây đào,

    Ba bốn nơi người nghĩa, bên nào cũng thương.

    192. Trên trăng dưới nước anh giao ước một lời,

    Đầu trăng lờ nước cạn, anh mấy đời phụ em.

    193. Trời sanh đầu tóc gá nghĩa với móc tai,

    Mình xa tôi, tôi gì nghĩa với ai bây giờ?

    194. Trời cao lộng lộng, đất rộng thinh thinh,

    Tôi không có dạ phụ mình,

    Bởi anh trước bạc phụ tình ngãi xưa.

    195. Trời mưa vần vũ,

    Tình cũ xa rồi,

    Biết ai nương dựa lần hồi tấm thân.

    196. Trông ra bụi chuối lá tre,

    Em nghe ai dụ đánh qué duyên anh.

    198. Trống sang canh giờ này sao vội điểm,

    Lệ lưng tròng chàng hỡi có biết không?

    199. Trước sao đằm thắm muôn phần.

    Nay sao đểnh đoảng như cần nấu xuông.

    200. - Ước gì anh hóa được con kiến vàng,

    Bò lên cổ bậu dạo đàn lê viên.

    - Ước gì em hóa được con kiến hôi,

    Bò lên đái xuống cho trôi kiến vàng.
     
    Last edited by a moderator: 6/9/15
    Ban Tang Du Tử thích bài này.
  5. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    201. Vàng mười vô lửa nào phai,

    Anh nằm đêm anh nghĩ lại coi ai bội tình.

    Chuông nhà thờ nghe đổ tiếng mười,

    Rạng mai đây phân rẽ, em cười nỗi chi.

    Vật bạc tình bất thủ, nhơn phi ngãi bất giao,

    202. Anh nguyền thưởng bậu một dao,

    Răn người lòng mận, dạ đào liễu lăng.

    205. Vắng sao hôm, có sao mai,

    Vắng chàng thiếp đã có trai ở nhà.

    204. Vắng trăng thì đã có sao,

    Vắng hoa thiên lý, có đào nhị tiên.

    205. Vì ai nước mắt sụt sùi,

    Khăn lau không ráo, áo chùi không khô.

    206. Vì đâu tình bậu muốn thôi,

    Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra.

    Bậu ra cho khỏi tay ta,

    Cái xương bậu nát cái da bậu bầm.

    207. Vì đâu tình bậu muốn thôi,

    Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra.

    Bậu ra bậu lấy ông câu,

    Bậu câu cá bống chặt đầu kho tiêu.

    Kho tiêu bỏ ớt bỏ hành,

    Kho ba lượng thịt để dành em ăn.

    208. Vị gì một bát cháo lòng,

    Làm cho thiên hạ bỏ chồng theo trai.

    209. Vô duyên mua phải gương mờ,

    Bao giờ gương vỡ mà mua gương lành.

    210. Vợ chồng như bát nước tràn đầy,

    Trách ai nghiêng đổ để sầu tây cho mình.

    211. Vợ anh như ngọc như ngà,

    Anh còn tình phụ, nữa là thân tôi.

    Vợ anh như thể dĩa xôi,

    Anh còn phụ bạc, nữa tôi cơm đùm.

    212. Xa xôi còn gởi thơ về,

    Huống chi đây đó không hề viếng thăm.

    215. Yêu nhau yêu cả bàn chân,

    Ghét nhau ghét cả tông nhân họ hàng.

    214. Yêu nhau xé lụa may quần,

    Ghét nhau kể nợ kể nần nhau ra.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/1/16
    Ban Tang Du Tử thích bài này.
  6. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    III. PHẢN ỨNG GIỮA CON NGƯỜI VỚI LẼ SỐNG

    Qua hai phần trên (Bản năng tự tại và Liên quan giữa đời sống vật chất, tinh thần) mặc dù chúng ta đã xuyên qua mọi ảnh hưởng từ nội thức đến ngoại năng, nghĩa là chúng ta đã đem tâm tư con người đặt trước mọi biến chuyển của ngoại vật. Tuy nhiên, chiều hướng khảo sát của chúng ta chưa đặt nặng về trạng thái phản ứng. Trong phần này chúng ta mới phân tích rõ ràng hơn để tìm một định hướng trong quan niệm nhân sinh của người bình dân.

    Trạng thái phản ứng là gì?

    Nó là sự khắc khoải, ưu tư, hằn học, bất mãn của tâm hồn chúng ta trước lẽ sống xã hội loài người.

    Thế hệ chúng ta ngày nay cũng như những thế hệ tự nghìn xưa, cuộc sống loài người chẳng bao giờ đem đến cho chúng ta những thỏa mãn. Vì vậy trải qua dòng lịch sử của loài người, chẳng lúc nào tâm hồn con người không có những trạng thái phản ứng.

    Trạng thái phản ứng lại không giống nhau, tùy thuộc vào tính chất mâu thuẫn của từng thế hệ. Nếu tự ngàn xưa chúng ta đã nghe tiếng rên than của lớp người chân lấm tay bùn sống trong đầu non hốc núi, tiếng hằn học nơi cửa các lầu son của những bậc phong lưu vì công đanh chẳng đạt được, giọng sầu bi của những nhà thơ vì chán đời xem cuộc sống như một vũng bùn lầy... Thì đó là những trạng thái phản ứng của con người trước lẽ sống. Họ phản ứng vì cuộc sống không đem lại những ước mơ của lòng họ. Họ phản ứng vì họ thấy cuộc sống đã đem đến cho họ những mất mát.

    Chúng ta có thể tìm thấy trong đó hai trạng thái: tích cực và tiêu cực. Trạng thái tiêu cực là trạng thái ép mình chịu đựng trong những tiếng rên than, khắc khoải, ưu tư.

    Trạng thái tích cực là trạng thái phá phách chống đối, gây xáo trộn trong bánh xe lịch sử của xã hội loài người.

    Thế hệ chúng ta, thế kỷ hai mươi, trước mắt, chúng ta đã chứng kiến mọi tiềm năng phản ứng, khủng khiếp của con người đối với cuộc sống. Tiềm năng phản ứng ấy là kết tinh của một khúc quanh lịch sử mà bên trong chứa đầy bất công mâu thuẫn trong guồng máy xã hội.

    Chúng tôi xin trích những đoạn văn đối thoại giữa hai lớp trẻ và già đã sống và đang sống trên mảnh đất Việt-nam để chứng minh điều đó. Hai đoạn văn này cũng là hai trạng thái tâm tư đúc kết thành một tiềm năng phản ứng trước cuộc sống đương thời.

    ....Cũng như những người trong lớp tuổi các anh, các anh trách chúng tôi, lứa tuổi đôi mươi, là những con thiêu thân của xã hội.

    Các anh, nói chung, đã không tiếc lời nhục mạ với đủ danh từ: cao bồi, du thủ du thực, đàng điếm, mất dại, không lý tưởng, non nớt, không tương lai. v.v...

    Phải, chúng tôi là những người đó, và chúng tôi bằng lòng chấp nhận với nụ cười, không bào chữa.

    Không hãnh diện sao được khi chúng tôi biết sống cho chúng tôi, sống với thế hệ trẻ trung, để toàn nhựa sống vào lẽ sống?

    Ô! Các anh tự hào là lớp người lớn tuổi, mang một mớ kinh nghiệm, hiểu đời, khôn ngoan, nhìn chúng tôi như những ung nhọt.

    Được, các anh cừ nhìn chúng tôi với đôi mắt khinh bỉ đi. Chúng tôi không cần các anh nói đến chúng tôi, không cần những cái mà các anh gọi là “kinh nghiệm, khôn ngoan, hiểu đời.... Những cái đó không quan hệ gì cho lẽ sống chúng tôi cả.

    Các anh đừng bắt chúng tôi phải sống cho các anh. Chúng tôi là tuổi trẻ, là tự do, là hồn nhiên, chúng tôi có quyền sống cho chúng tôi, sống với tất cả nghĩa sống của nó.

    Các anh bảo chúng tôi phải học theo khuôn sáo khôn ngoan, kinh nghiệm, hiểu đời của các anh ư? Để làm gì? Nếu không phải để cúi đầu, ép mình làm nô lệ, đúc kết thành cái vỏ đạo đức bề ngoài, mà bên trong chứa đầy thối tha mục nát...

    Chúng tôi xin nhắc lại: “Tuổi trẻ chúng tôi không cần những cái đó”. Các anh cứ để cho chúng tôi được sống. Trả lại hồn nhiên cho chúng tôi! Các anh là những người đã chết. Thế giới các anh là thế giới nghĩa địa. Chúng tôi không buộc người chết phải sống lại, thì các anh cũng đừng buộc người sống phải chết theo mình.

    Cảe anh “đã chết” vì các anh không còn “sức sống”. Chỉ có chúng tôi là kẻ đang sống. Và chỉ có người sống mới hòa vào xã hội những nguồn sinh lực mới lạ, vui tươi, dồi dào, mãnh liệt.

    Còn nói đến lý tưởng... Thì lý tưởng là gì? Có phải cúi mình khép nép để bảo vệ lấy thân hình thấp thỏi, nhỏ bé, để chịu nô lệ cho chén cơm manh áo nhục nhã.

    Chúng tôi không cần lý tưởng không cần đặt một ảo vọng giả dối để tự lừa gạt mình. Chúng tôi sống cô đơn thật, nhưng lẽ sống chúng tôi hồn nhiên, trọn vẹn. Con người hồn nhiên không cần lý tưởng.

    Mái nhà Việt-nam đang sụp đổ, đất nước Việt-nam đang ngửa nghiêng, mang đầy thương tích. Nơi rừng hoang núi thẳm và khắp nơi, máu của tuổi hai mươi đang chảy. Các bạn chúng tôi đang thay nhau ngã gục. Những mái đầu xanh biến thành những nấm mồ trên khắp bãi tha ma.

    Hỡi Mẹ Việt-nam thiêng liêng! Mẹ khóc đi! Máu chúng con đang hòa trong lòng đất Mẹ! Xương thịt chúng con đang đắp vào những vết tích thương đau của Mẹ do lớp người trước, lớp người hiện tại gây nên!

    Các anh! Các anh tự hào khôn ngoan, kinh nghiệm, hiểu đời, lý tưởng, các anh đã làm được gì trong dĩ vãng và hiện tại?

    Dĩ vãng các anh đã gây đau thương người Mẹ. để lại cho tuổi trẻ chúng tôi một điêu tàn! Hiện tại, các anh thu mình vào nghĩa địa ma quái, trố mắt nhìn chúng tôi như những sinh vật lạ thối tha, lạc lõng, nếu chúng tôi không đắp thêm ngôi nghĩa địa ma quái của các anh.

    Lễ giáo, phong tục, đạo đức là gì mà các anh bắt chúng tôi phải theo? Phải chăng những thứ ấy là một cỗ áo quan dùng để liệm người chết.

    Chúng tôi đang sống! Các anh đừng đem liệm chúng tôi! Các anh đã nằm vào trong đó, và chúng tôi đưa các anh đến nghĩa địa rồi..

    Chúng tôi không muốn nhìn ngôi nghĩa địa của các anh, cũng như các anh khinh bỉ không nhìn đến chúng tôi đang chập chững trong mưa gió. Chúng tôi phải sống và giành quyền sống. Ngôi nhà đổ nát phải được dựng lại. Đồng cỏ xanh, bóng mát dịu, bướm đẹp hoa tươi phải có trong lòng đất Mẹ.

    Chúng tôi phải đòi hỏi, phải xây dựng, phải tự mình đứng ra gánh vác với đôi vai mềm yếu, cô đơn, không mong ở các anh!

    Các anh là những người chết! Phải, chúng tôi đã lầm lạc, dại khờ hy vọng người chết xây đắp thế giới người sống! Chúng tôi không đòi hỏi ý các anh một nghĩa vụ, thì các anh cũng đừng bắt đứng lôi phải chia một trách nhiệm nào.

    Chúng tôi sống cho chúng tôi!

    Ngoài kia, khắp nơi, máu của tuổi chúng tôi đang đổ, đỏ ngòm và xối xả! Tôi lại ngồi đây nói chuyện với người chết sao?”.

    Trên đây là lời trách móc, hằn học, phản đối của lớp người trẻ, trong lứa tuổi hai mươi, và cũng là trạng thái phản ứng của họ khi họ đặt tâm tư trước cuộc sống. Họ oán trách lớp người đàn anh của họ, trong lứa tuổi bốn mươi, đã đem đến cho họ một cuộc sống điêu tàn, một xã hội đổ nát, một thảm trạng ê chề, trái ngược với ý muốn của họ.

    Và dưới đây là lời đối thoại của lớp người đàn anh của họ, những người của lứa tuổi bốn mươi. Chính họ cũng là nạn nhân của lẽ sống, và lẽ sống cũng là yếu tố đưa tâm tư họ đến trạng thái khắc khoải, đau buồn:

    “… Phải, chúng tôi là những người đã chết trong các em

    Tuổi các em lẽ ra phải yên hưởng hạnh phúc trên lòng đất Mẹ. Bàn tay chúng tôi, những người anh, lẽ ra phải tạo những dòng suối ngọt, những bóng mát dậm dài, những vườn hoa tươi, những con bướm thắm để các em hòa mình, nhởn nhơ trong nắng ấm, thì trái lại, các em phải đón những khổ đau, bi đát, hãi hùng! Máu các em chưa phai mùi sữa đã phải đổ xuống! Tuổi hồn nhiên các em đã rơi rớt từ thuở ngây thơ!

    Các em hằn học, trách móc, gào thét, và tâm hồn các em “nổi loạn”! Các em không muốn nói chuyện với chúng tôi, không cần tiếp xúc với những người anh của các em nữa! Nhưng, các em ạ! Hãy bình tĩnh! Ngồi lại gần đây! Tôi đã cảm thông sự giận dữ của các em rồi! Tôi không buộc các em nghe những giáo điều, không dụ dỗ các em chui vào cỗ áo quan đâu.

    Các em ạ! Tôi rất sung sướng khi nhận thấy rằng các em còn thương Mẹ, còn nhận chúng tôi là anh, mặc dù các em không muốn nói chuyện với chúng tôi.

    Các em không ngang ngạnh, bướng bỉnh, không hư hèn, hủ hóa. Các em với chúng tôi là dòng máu cùng một mẹ sinh ra, dù các em có ngửnh mặt đi, chúng tôi vẫn nhận được thực trạng tâm hồn và chân tướng của các em mà!

    Nếu là hư hèn, thối hóa, các em không bao giờ nghĩ đến vết đau người Mẹ. Mà đã nghĩ đến Mẹ, các em không bao giờ từ bỏ chúng tôi, những người anh đã cùng ngậm chung một dòng sữa. Sở dĩ các em hủy hoại thân các em, làm cho tâm hồn các em trác táng, cuồng loạn, cũng chỉ để đã nư giận, cho vơi những hằn học đang nung đốt tâm can các em.

    Thực chất các em không muốn thế! Hình bóng các em chỉ là hình bóng giả tạo, các em cố gây ra những vết tích để oán ghét chúng tôi, những lớp người lớn tuổi đã bất tài, thiếu trí.

    Nhưng, chúng tôi đã đau đớn lắm rồi! Các em đừng trách phạt chúng tôi nữa. Đừng hủy hoại những gì của Mẹ đã sinh thành, ký thác vào tâm hồn, thể xác các em. Mẹ đang cần sức sống của các em để hàn gắn lại vết thương, trả lại những gì đã mất mát.

    Hỡi các em! các em là những mầm non đất nước. Trong người các em chứa đầy máu nóng. Sức sống rào rạt trong người các em là một nguồn sinh lực Việt-nam.

    Dòng máu đang chảy trong huyết quản các em là dòng máu của Mẹ, của tiền nhân, của chúng tôi, của các em, của tương lai dân tộc. Nó là một tài sản, một sinh lực quí báu! Người ta muốn hủy hoại, hoặc chiếm đoạt nó đi. Nhà tan cửa nát không quan ngại, chỉ ngại chúng ta bị tiêu diệt sức sống. Còn sức sống là còn xây dựng.

    Chúng ta có thì chịu đau đớn, khổ cực đủ điều, nhưng không thì đánh mất nguồn sống của Việt-nam.

    Chúng tôi đã cằn cỗi, bao nhiêu sinh lực đổ dồn về các em. Các em như người đang nắm giữ lấy mạch sống của dân tộc, không nên lơ đãng để bị chiếm đoạt.

    Chúng tôi rất đau đớn khi thấy các em bị mất mát; vì các em là của chúng tôi. Tài sản của các em là tài sản của chúng tôi. Nguồn sống của các em là nguồn sống Việt-nam. Chúng ta có nhiệm vụ bảo vệ trước kẻ cướp đoạt.

    Nhưng, cái gì đã làm các em mất mát, cưỡng đoạt của các em?

    Nó là sự đồi trụy:

    Đáng lẽ sức lực các an phải được đâm chồi, nảy hoa, kết trái để tô điểm cho giang sơn gấm vóc, đem lại những dòng suối ngọt, những bóng mát rợp đường, những vườn hoa thơm ngát, thì các em đã tự hủy hoại nó đi bằng cách lao mình vào các cuộc truy hoan. Vì các em không thể sống trong cằn cỗi, trong cõi chết. Các em tự tìm cho nguồn tinh lực một lối thoát, nhưng có một lối thoát hiểm nghèo! Các em đã sống trong cõi chết rồi! Thể chất các em sớm tàn tạ, tinh thần các em bạc nhược, đôi mắt trong của các em không còn mơ màng, suối tóc xanh các em vàng úa! Hình bóng ấy đâu phải hình bóng của các em, hình bóng đích thực của Mẹ sinh ra các em. Đó là dấu vết thương tích do kẻ cướp đã hủy hoạt thân xác các em để đoạt lấy nguồn sinh lực quí báu, phá vỡ tiềm năng sinh lực của tổ quốc thân yêu.

    Nó là xa hoa, phung phí:

    Loài người cần có những phương tiện để sống, nhưng không phải sống để làm nô lệ cho các phương tiện ấy.

    Không, các em đừng nghĩ rằng chúng tôi đưa ra giáo điều buộc các em vào cái vỏ đạo đức muôn đời.

    Chính cuộc sống hào nhoáng, giả dối bên ngoài đã cướp đoạt tuổi hồn nhiên, trong trắng của các em, đưa các em vào thế giới ma quái, độc ác, mà chính các em đã phải khổ đau, hờn trách. Nó là liều thuốc độc, nhưng rất quyến rũ, làm cho tâm hồn các em không còn tự chủ nữa, lý trí không còn là của các em mà trở thành sản phẩm nô lệ của vật chất. Các em bị nó lôi vào vòng xâu xé, biến các em thành những tên lính của đoàn quân ma.

    Là tên lính của đoàn quân ma tất cả các em phải chiến đấu cho thế giới ma quái, hòa mình trong hỗn loạn, ảo ảnh và làm bất cứ điều gì để chiến thắng. Và, sau những cơn vật lộn, các em chỉ thấy toàn là chiến bại, vì thế giới xa hoa là thế giới ảo ảnh, các em không thể nào bỏ vào túi những chiếc bóng đẹp không phải là vật thực.

    Khi các em đã sa vào cõi ma quái ấy, các em càng chạy xa càng thấy mất gốc, và cho đến ngày các em kiệt sức, không còn biết mình là ai nữa, thì lúc đó các em đang sống trong cõi chết, mà lý trí các em cứ tưởng như mình đang tranh thủ, tìm một cuộc sống tươi đẹp.

    Phải! Ý sống bao giờ cũng vươn đến chỗ tươi đẹp. Nhưng tươi đẹp mà chúng ta đi tìm không phải là cái tươi đẹp giả dối bề ngoài. Nếu các em trông thấy cái đẹp hào nhoáng của đô thị phồn hoa thì các em cũng không thể từ chối cái đẹp hồn nhiên, mộc mạc của ngôi nhà lá, của dòng suối trong, của vườn cây sum trái, của đồng ruộng bao la. Các em thích ngửi mùi rượu hoa tối tân thì các em cũng không thể không thoải mái hít thở luồng gió mát trong lành, khoáng đãng, đượm mùi đất nước thân yêu. Các em say sưa trước một bản nhạc tân kỳ thì các em cũng không thể không cảm động khi nghe tiếng hát của người mẹ ru con bên chiếc nôi nhỏ, những tiếng chim lảnh lót nơi khung trời quê! Thế thì những cái tươi đẹp cần cho cuộc sống loài người đâu phải tuyệt đối. Các em vẫn sống xa mùi phung phí mà vẫn đủ phương tiện để sống, không phải giành giựt của ai, hay bị ai giành giựt.

    Nói như thế không có nghĩa là kéo lui các em trở về thế giới lạc hậu. Chúng ta không chủ trương như thế. Chúng ta cần phải vươn lên, sáng tạo, kiến thiết, và hưởng thụ những gì chúng ta đã tạo được. Chúng ta chỉ hưởng thụ những công trình do chúng ta làm nên, không ngửa tay xin bố thí của kẻ khác. Chúng ta không làm những con thiêu thân trước ánh đèn, làm nô lệ của thế giới xa hoa, làm những con diều hâu độc ác lượn quanh đống xác chết đang nằm gục trên khung nghĩa địa của thế giới ma mị.

    Nó là ý thức tiêu cực:

    Không ai đem đến chúng ta một công trình, một sự nghiệp, một vinh dự, nếu không tự tay chúng ta xây dựng. Là tuổi xanh, tất nhiên các em có rất nhiều hoài vọng đối với non sông, tổ quốc. Nhưng ác nghiệt thay là guồng máy xã hội, cái mà con người tạo ra để làm phương châm cho xã hội, thì chính nó trở lại khống chế con người. Con người bắt buộc chui vào khuôn khổ ấy để rồi phải bất mãn, từ chối bản ngã chân thật của mình. Guồng máy xã hội sẽ đập vào lưng những ai bước ra ngoài vòng của nó. Thân phận con người đã bi thảm lại càng bi thảm hơn, đã không đủ sức phá vỡ áp lực của guồng máy còn bị nó gây nên thương tích, điêu đứng và diệt vong. Vậy muốn an thân, con người phải cúi đầu khuất phục mệnh lệnh của số phận,

    Đứng trước những đe dọa tiêu diệt nhân tính của guồng máy xã hội, những vết tích thương đau đổ vỡ, và mọi thảm kịch của cuộc sống, người trẻ tuổi hôm nay vừa bàng hoàng vừa phẫn nộ, vừa khủng khiếp vừa xót xa.

    Các em tự thấy mình quá yếu đuối. Yếu đuôi đến nỗi không còn đủ sức vươn lên nữa. Và ý thức tiêu cực, cầu an, len lỏi vào đầu óc các em.

    Các em phải làm những gì các em không thích, yêu chuộng những cái các em không ưa. Các em phải học đòi những giả dối của cuộc đời mà hàng ngày đem đến cho các em niềm ngao ngán, buồn tẻ. Các em đã kẹt vào guồng máy xã hội, và ý chí đấu tranh, xây dựng, sáng tạo, tìm tòi, phát triển trong thể chất trẻ trung của các em bị cằn cỗi dần, tiêu diệt dần cho đến lúc kiệt sức. Nguồn sinh lực các em không còn bồi đắp được cho tổ quốc, non sông nữa.

    Ý thức tiêu cực, cầu an là kẻ thù của tuổi trẻ. Nó đoạt mất năng lực hoạt động trong bản ngã chân thật của các em.

    Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa là khuyến khích các em nên hỗn loạn, vì hỗn loạn sẽ bị thương tích, tiêu diệt. Mà những thương tích, tiêu diệt là nguyên nhân của tiêu cực, cầu an. Các em cần phải chiến đấu, xây đời, cải tạo xã hội, vươn mình lên thế giới tươi đẹp hơn. Chiến đấu, cải tạo không có nghĩa là tự mình nổi loạn, đập phá, hủy hoại, mà là cải tạo từ cái nhỏ đến cái lớn, từ cá nhân đến đoàn thể, từ gia đình đến xã hội với đức tính kiên trì, có đường lối, có tổ chức. Đó là việc làm khó khăn đối với tuổi trẻ. Các em là lớp người nóng nảy, bồn chồn, liều lĩnh, có thể gặp nhiều lầm lỗi, thất bại, nhưng nếu các em không để cho ý thức mình chìm vào lãnh vực cầu an, tiêu cực thì rồi các em sẽ trở thành những con người giàu khả năng kinh nghiệm trên đấu trường...

    Trên đây là tiếng kêu than của lớp người đương thời, lớp người của thế hệ chúng ta. Họ đã kẹt vào bánh xe xã hội, guồng máy độc ác của loài người. Họ đã sống và mang những vết tích trong tâm tư họ, để dần dần đi đến hủy hoại, tiêu diệt trong lúc đó bánh xe xã hội vẫn lăn đều, giam hãm con người vào định luật.

    Tiếng kêu than của nạn nhân xã hội không ngớt. Nó đã phát xuất tự ngàn xưa và kéo dài đến hiện tại, tương lai và mãi mãi.

    Tiếng kêu than đó là gì?

    Là những mảnh tâm hồn tan vỡ, những thể chất bị diệt vong trên đấu trường, những yếu đuối của con người trước guồng máy xã hội. Nói chung, là mọi phản ứng của con người trước lẽ sống.

    Trích hai đoạn văn đối thoại trên đây để chứng minh trạng thái phản ứng của con người trong thế hệ chúng ta, gần gũi với chúng ta, để lấy nó làm nền tảng đi tìm những phản ứng trong tâm tư của người xưa đối với lẽ sống, chúng tôi tưởng rằng không phải vô ích.

    Chung tôi cũng thừa nhận rằng trạng thái phản ứng của tâm tư đối với cuộc sống qua mỗi thời mỗi khác, không thể giống nhau. Tuy nhiên, dù trạng thái có đổi khác, tính chất vẫn là một. Tính chất ấy là sự mâu thuẫn giữa tâm tư và cuộc sống, sự mâu thuẫn giữa con người và con người, để sau cùng đem những thực tiễn trong lẽ sống đúc kết thành một nhân sinh quan, cải tiến xã hội.

    Bây giờ chúng ta trở lại thế giới bình dân thời xưa trên ba tính chất ấy.


    A. MÂU THUẪN GIỮA TÂM TƯ VÀ CUỘC SỐNG:

    Nếu chúng ta đã thấy tâm tư con người trước lẽ sống là một sự mâu thuẫn kéo dài trong bất diệt, thì tự nghìn xưa xã hội Việt-nam vẫn không tránh khỏi.

    Cuộc sống bắt buộc con người phải tổ chức xã hội, nhưng tổ chức xã hội cũng chỉ là cái khuôn thước giam hãm con người, bắt con người phải tuân nên theo, để rồi con người lại bất mãn với cái do mình tạo ra.

    Đó chính là một mâu thuẫn! Mà có lẽ mâu thuẫn là yếu có căn bản của mọi vật sinh tồn trong vũ trụ. Xã hội loài người dù tổ chức ra sao, sắp xếp thế nào cũng không thể chối bỏ đi được.

    Bằng chứng là từ trước đến nay, loài người đã bỏ không biết bao nhiêu công phu để đi tìm một định hướng cho lẽ sống, nghĩa là đem mọi suy tư của khối óc bỏ vào việc nghiên cứu một tổ chức xã hội làm thế nào cho công bằng, hợp lý, hoặc giúp cho loài người rời bỏ những ưu tư, buồn phiền của họ khi đã bước vào cuộc đời. Tuy nhiên, cho đến nay, loài người càng bồi đắp cho lẽ sống bao nhiêu thì lẽ sống càng đi đến chỗ lầm than bấy nhiêu.

    Nhà tu hành càng đem năng lực phụng sự cho đạo đức thì đạo đức ngày càng bị sa lầy. Thử hỏi thế giới loài người đã bao giờ đồi trụy như lúc này chưa? Những gì gọi là lý tưởng, là chân thiện mỹ đáng phụng thờ thì ngày nay thực tế chỉ còn là một thần tượng lờ mờ trên chiếc ngai cũ kỹ.

    Nhà chính trị càng cố gắng chiết lập xã hội, với hy vọng ổn định trật tự cho con người thì xã hội loài người càng biến loạn thêm. Những cuộc chiến tranh đẫm máu. những cuộc cướp đoạt lẽ sống, những mưu mô thâm hiểm luôn luôn diễn ra tạo thành những xáo trộn trên thế giới loài người chẳng bao giờ dứt.

    Nhà khoa học càng tận dụng lý trí, nghiên cứu kỹ thuật, phát minh, sáng chế, chinh phục thiên nhiên, càng đưa loài người đến gần nguy cơ diệt vong. Nghĩa là văn minh cơ giới phụng sự cho loài người thì văn minh cơ giới cũng lại đe dọa cuộc sống loài người.

    Nhà kinh tế học đem năng lực điều hòa guồng máy sản xuất biến năng lực con người thành áo, thành cơm, thành tất cả mọi thứ cần dùng cho cuộc sống, nhưng loài người cũng không thoát khỏi cảnh lầm than, cơ cực, và cảnh thiếu thốn vẫn là động cơ thúc đẩy con người đi vào đường cướp giựt để tự tồn, tự diệt.

    Nhà văn học góp nhặt những suy tư làm nền tảng cho tinh thần nhân loại, nhưng càng góp nhặt, bồi đắp càng thấy khủng hoảng, đổ vỡ, không thể dùng cho việc xây đắp một ngôi nhà lý tưởng của loài người.

    Vậy thì lẽ sống con người là gì? Và ở đâu?

    Thì đây, chính người bình dân thời xưa đã cho chúng ta thấy. Đó là một trạng thái mâu thuẫn bất diệt do tính chất căn bản của vạn hữu.

    Quan niệm ấy hàm chứa trong các câu ca dao như:

    Buồn về một nỗi tháng giêng,

    Con chim cái cú nằm nghiêng thở dài.

    Buồn về một nỗi tháng hai,

    Đêm ngắn ngày dài thua thiệt người ta.

    Buồn về một nỗi tháng ba,

    Mưa dầu, nắng lửa người ta lừ đừ.

    Buồn về một nỗi tháng tư,

    Con mắt lừ dừ, cơm chẳng muốn ăn.

    Buồn về một nỗi tháng năm,

    Chưa đặt mình nằm, gà gáy chim kêu.

    …………………………………………..
     
  7. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Một năm có mười hai tháng, nhưng không tháng nào có thể làm cho lòng người thỏa mãn cả. Đối với thiên nhiên, tâm trạng con người đã vậy, thì đối với tổ chức xã hội, tâm trạng con người làm sao thỏa mãn được! Sự mâu thuẫn chứa đựng trong tâm tư con người cũng như mọi hiện hữu trong vũ trụ là chuyện tất yếu, mà bộ óc con người dù tinh vi đến đâu cũng không thể nào biến cải qui luật ấy!

    Hỡi những nhà trí thức! Các người đừng tưởng tâm tư người bình dân không cảm thông được với qui luật vũ trụ! Họ vẫn có những ưu tư như chúng ta đối với cuộc sống, và chính những ưu tư của họ cũng đã đúc kết thành những nhận xét trong quan niệm nhân sinh, mà ngày này có nhiều vấn đề chúng ta cứ tưởng chúng ta vừa tìm được trong sự khám phá mới mẻ, nhưng ngược tại, người thời xưa cũng đã tìm thấy rồi.

    Cho nên, nếu chúng ta ngày nay, khi đem tâm tư nhận xét xã hội, cho xã hội là một trường giả dối, một trò dâu bể, hoặc cho là bể khổ trầm luân, rồi hằn học, bất mãn, chán ngán, thì chính người xưa cũng đã có những tâm trạng như chúng ta. Họ cũng than vãn trước cuộc sống, và có lúc cũng như chúng ta, họ muốn nổi loạn phá phách.

    Thí dụ, khi họ chán nản:

    Khi vui thì muốn sống dai,

    Khi buồn thì muốn thác mai cho rồi.

    và khi họ muốn vùng lên nổi loạn, phá phách:

    Ra tay cầm lửa đốt trời,

    Chẳng may lửa cháy, lửa rơi xuống đầu.

    Hai trạng thái trên đây, chính là sự hằn học, bất mãn của tâm tư con người đối với lẽ sống.

    Lẽ sống đã gieo vào tâm tư họ những cảm giác phản ứng ấy. Và nếu chúng ta đi sâu vào cảm giới họ thì chúng ra còn tìm thấy quan điểm của họ đối với lẽ sống nữa. Cũng như chúng ta ngày nay, khi bất mãn với lẽ sống, chúng ta đi tìm nguyên nhân của nó, thì người bình dân thời xưa cùng vậy. Qua phản ứng của tâm tư họ, chúng ta có thể tìm thấy quan điểm của họ đối với lẽ sống gồm bốn tính chất sau đây:

    1) Chênh lệch và bất công:

    Họ quan niệm lẽ sống con người hàm chứa những bất công, chênh lệch, mà con người là nạn nhân của xã hội.

    Họ bảo:

    Sự đời lắm chuyện lăng nhăng,

    Trăm năm để nỗi bất bằng cho ai?

    Không có một người nào từ lúc bước chân vào ngưỡng cửa đời mình đến lúc bị hủy diệt mà tâm hồn được thỏa mãn. Vậy, theo họ, chênh lệch bất công là việc tất yếu của lẽ sống con người. Chẳng những chỉ có tổ chức xã hội loài người đã mang đến cho tâm tư con người những chênh lệch bất công, mà ngay cả vũ trụ, bộ máy đã sinh ra loài người, cũng đem đến cho loài người những bất công nữa.

    Đây, họ đã rên than qua sự bất bình đối với tạo vật:

    Mưa xuân lác đác vườn đào,

    Công anh đắp đất ngăn rào trồng hoa.

    Ai làm gió táp mưa sa,

    Cho cây anh đổ, cho hoa anh tàn.

    Hoặc:

    Ngồi buồn trách lẫn ông xanh,

    Khi vui muốn khóc, buồn tanh lại cười.

    Kiếp sau xin chớ làm người,

    Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.

    Vũ trụ không bao giờ chiều lòng người! Vũ trụ đã đem đến cho lòng người những hờn trách, vậy thì con người có nên hờn trách xã hội loài người, hoặc nổi loạn để biến cải xã hội loài người chăng?

    Đó chính là công việc của nhà tư tưởng học từ xưa đến nay đã bàn cãi rất nhiều.

    Các nhà tư tưởng học đã đem đến cho nhân loại những ngọn đuốc soi đường, rọi vào những nẻo u minh của vũ trụ để dắt nhân loại ra khỏi cái hố thẳm ấy.

    Tuy nhiên, càng thăm dò vũ trụ, càng cải biến xã hội, loài người vẫn chưa sao thoát khỏi ra ngoài guồng máy chi phối của vũ trụ được.

    Chúng ta than thở cho rằng xã hội loài người mang đầy chênh lệch và bất công chăng? Nếu không, tại sao chúng ta lại hờn trách vũ trụ?

    Thực ra, tâm tư con người là cái thước đo. Mọi chênh lệch bất công đều phản ứng về tâm tư con người. Tiếng rên than của con người chính là biểu hiệu của trạng thái ấy. Con người đã rên than vũ trụ, tất nhiên vũ trụ đã có sự chênh lệch bất công đối với họ!

    Nhưng tại sao vũ trụ lại chênh lệch bất công với loài người? Điều này, nếu chúng ta xét về năng lực tạo hóa thì chúng ta có một quan điểm khác. Tạo hóa không phải chênh lệch, bất công riêng với loài người mà chung cho cả vạn hữu, vạn hữu cần có sự chênh lệch ấy để biến động, tạo thành không gian thời gian, tác thành qui luật thiên nhiên. Nếu không có cái nắng dữ dội của mùa hạ làm gì có cái mưa dầm lạnh lẽo của mùa đông nếu không có những cảnh trời đêm tịch mịch, làm gì có cảnh vui nhộn lúc ban ngày. Vậy thì cái chênh lệch của thiên nhiên chỉ là những qui luật cấu tạo những yếu tố biến động vạn hữu. Nó phát xuất tự nhiên do sức mâu thuẫn thăng bằng của vạn hữu.

    Nếu đặt những biến động này ra ngoài tư tưởng con người thì vũ trụ không có gì chênh lệch bất công cả, bởi vì mọi chệnh lệch ấy chỉ là hiện tượng để tiến đến chỗ dung hòa. Nếu chúng ta có những ngày mưa rào, khô khan. Nếu chúng ta nhìn thấy những cơn giông tố hãi hùng, thì chúng ta cũng lại được chiêm ngưỡng những ánh bình minh của khung trời bao la bát ngát. Nếu chúng ta mến tiếc những cánh hoa tàn rời rã, thì chúng ta cũng cảm khoái trước những mầm non hơ hớ đang vươn lên. Vậy, cái chênh lệch của vũ trụ không phải là cái bất công.

    Những gì chúng ta gọi là bất công chẳng qua do tư tưởng con người mà có. Tâm tư chúng ta khi hòa hợp với cảnh giới, ý thức cá nhân len lỏi vào, gợi cho lòng chúng ta những cảm giác đau buồn, thì ngoại cảnh không làm cho chúng ta thỏa mãn những tham vọng riêng tư.

    Vì vậy, cái bất công của vũ trụ đối với con người chỉ là cảm giác cá nhân trong tâm tư con người mà thôi.

    Những câu ca dao của người bình dân thời xưa được chúng ta ghi nhận sau đây đều nằm trong tính chất ấy:

    Anh tiếc thay hạt mưa trong rơi xuống đống bùn,

    Anh tiếc thay tờ giấy trắng bị thằng bé cỏn còn con nó vẽ xằng!

    Tiếc thay cây quê giữa rừng,

    Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo.

    Ong làm mật mà không được ăn,

    Yến làm tổ mà không được ở.

    Những tâm tư ấy phát xuất từ bất công của xã hội loài người liên tưởng đến tính chất bất công của vũ trụ. Thực ra, tự chênh lệch của vũ trụ không phải là bất công, bởi vì mọi chênh lệch ấy bao giờ cũng tìm đến chỗ dung hòa.

    Nhưng đối với xã hội loài người thì sao? Con người phiền trách xã hội có phải vì tham vọng cá nhân như đã phiền trách vũ trụ chăng?

    Xã hội loài người cũng là một cá thể trong vũ trụ, và mọi cá thể đều biến động theo qui luật của thiên nhiên, nghĩa là bên trong cũng hàm chứa mọi chênh lệch và mâu thuẫn để diễn biến. Tuy nhiên, khác với sự cấu tạo của vũ trụ, nếu vũ trụ cấu tạo bằng một qui luật chung cho muôn loài vạn vật, thì xã hội loài người lại cấu tạo riêng do ý thức con người tạo thành. Bởi vậy xã hội loài người là sản phẩm của ý thức con người nằm trong qui luật chung của vũ trụ. Khi đã cộng phần ý thức con người vào đấy, tất nhiên không tránh khỏi những tham vọng cá nhân, biến tổ chức xã hội thành công cụ bảo vệ quyền lợi cho một lớp người. Do đó mà xã hội loài người có những bất công, đàn áp khác với mọi chênh lệch trong vũ trụ. Mọi chênh lệch của vũ trụ luôn luôn hướng vào trạng thái dung hòa để giải quyết mâu thuẫn, thì mọi chênh lệch của xã hội, vì ý thức tham vọng của con người, nên đi ngược lại qui luật của vũ trụ, cản trở sức dung hòa mâu thuẫn, tạo cho xã hội cán cân chênh lệch mỗi ngày một nghiêng thêm, do đó ý thức tranh chấp mỗi ngày một khốc liệt, tàn ác

    Tâm tư đau khổ của con người, của lớp người bình dân chính là phản ứng của tính chất chênh lệch, bất công ấy.

    Đây chúng ta nghe họ than thở:

    Cha đời cái áo rách này,

    Mất chúng, mất bạn vì mày, áo ơi!

    Còn gì đau khổ hơn, khi xã hội loài người đem đạo lý ra bảo vệ nhân cách con người bảo vệ đời sống con người, nhưng rồi cũng do tổ chức xã hội ấy lại biến con người thành một hố sâu chia rẽ, mà tình thương không còn là thần tượng của lẽ sống nữa.

    Em thời trướng gấm quần là,

    Chị thời tan tác như hoa giữa đường.

    Em ngã thì chị phải nưng,

    Đến khi chị ngã em bưng miệng cười!

    Chính những chênh lệch bất công như vậy đã gieo vào tâm tư con người những đau khổ, mà sự đau khổ chính là ý thức phản đối để tìm đến trạng thái dung hợp, thăng bằng theo qui luật thiên nhiên trong vũ trụ.

    Phần nhiều sự chênh lệch phát xuất do trạng thái giàu nghèo. Bởi vậy trong ca dao Việt-nam phản ảnh nhiều nhất về tính chất ấy. Ví dụ:

    Hên mà làm bạn với sang,

    Chỗ ngồi chỗ đứng có ngang bao giờ.

    Có của thì có mẹ nàng,

    Có bạc có vàng thì có kết giao.

    Chị là con gái nhà giàu,

    Ăn mặc tốt đẹp vào chầu tòa sen.

    Em là con gái nhà hèn,

    Ăn mặc rách rưới mon men ngoài hè.

    Vai mang túi bạc kè kè,

    Nói quấy, nói quá, người nghe ầm ầm!

    Sự chênh lệnh bao giờ cũng đưa đến bất công bởi vì xã hội loài người mang tính chất ảnh hưởng rất nặng mà chúng ta gọi là tính chất ràng buộc và mâu thuẫn.

    2) Ràng buộc và mâu thuẫn:

    Chúng ta đã thấy sự chênh lệch là nền móng của bất công thì ràng buộc và mâu thuẫn chính lại là trạng thái phát xuất do sự bất công ấy. Tại sao trong cuộc sống loài người lại có sự ràng buộc? Bởi vì khi xã hội loài người đã chệnh lệch thì ý thức tìm đến cái sống là ý thức tranh đấu, vươn lên! Kẻ hèn tìm đến chỗ sang, kẻ đói tìm đến chỗ no, cái rách tìm đến cái lành… Mọi ràng buộc ấy ảnh hưởng vào tâm tư con người, thúc đẩy họ phải tranh đấu, cướp đoạt để tự tồn. Cho nên, khi đã bước vào dòng đời, tâm tư con người lúc nào cũng nom nớp lo âu, mà chúng ta thấy những tâm tư ấy phải xuất nhiều nhất trong lớp người bình dân, bởi vì họ là người bị thiệt thòi nhất trong cán cân chênh lệch của xã hội, họ cần phải lo lắng để tự bảo vệ lấy cuộc sống họ:

    Một là đứng cửa trông ra,

    Hai lo đi lấy chồng xa nước người.

    Ba lo sợ chị em cười,

    Bốn lo đi ngược về xuôi sao đành.

    Năm lo lúc tử lúc sinh,

    Sáu lo con gái một mình đường xa.

    Bảy lo nhớ cửa nhớ nhà,

    Tám lo còn chút mẹ già ai nuôi.

    Chín lo em thiệt cả mười,

    Để em kiếm lối tìm nơi đi về.

    Nếu bảo rằng trong đời sống chỉ có lớp người bình dân mới nhiều lo lắng ưu tư thì cũng không đúng. Bất kỳ trong giai cấp nào, mỗi người đều chịu một sự ưu tư, lo lắng trong hoàn cảnh sinh sống của mình. Cái khác nhau ở chỗ tính chất của sự ưu tư, lo lắng ấy mà thôi. Sở dĩ người đời cảm thấy nỗi lo lắng của lớp người bình dân đáng thương hại hơn là vì cái lo lắng của họ trực tiếp cái đói khổ, rách rưới, trong lúc cái lo lắng, ưu tư của người trong giai cấp thượng lưu thường là những cái lo lắng, ưu tư vì tham vọng cá nhân hơn là bản chất tự tồn.

    Tuy nhiên dù với tính chất nào, mọi ưu tư, lo lắng của con người trong xã hội vẫn đưa đến một ảnh hưởng tất yếu là tranh đoạt, mà kẻ ưu tư là kẻ bị thất thế, thiếu sức tranh đoạt ấy.

    Đây, trong ca dao bình dân đã chứng minh ý thức tranh đoạt của họ:

    Xưa kia ngọc ở tay ta,

    Bởi ta chểnh mảng ngọc qua tay người.

    và nếu họ có phải than phiền như:

    Đem thân vào chốn cát lầm,

    Cho thân tắm táp như mầm ngó sen.

    Đêm đêm ngồi tựa ánh đèn,

    Thở than với bóng, giải phiền với hoa.

    Thì cũng chính vì họ đã mệt lừ trong trạng thái tranh đoạt cuộc sống.

    Cho nên, chúng ta không lấy làm lạ khi yếu tố tranh đoạt tự tồn lôi kéo con người như một ràng buộc, chằng chịt với nhau không sao tháo gỡ ra nổi. Và cũng yếu tố tranh đoạt ấy đưa lẽ sống con người vào trạng thái mâu thuẫn chống đối nhau.

    3) Biến động và hỗn loạn:

    Tuy nhiên guồng máy xã hội là sản phẩm của khối óc con người. Nếu tâm tư con người luôn chống đối trạng thái chênh lệch và bất công đã đưa đến trạng thái ràng buộc ra mâu thuẫn trong xã hội, thì khối óc con người luôn luôn tìm kiếm những mánh khóe thăng bằng giả tạo để phỉnh phờ và duy trì sự bất công ấy. Nhưng bất công càng được duy trì thì sức mâu thuẫn chất chứa càng nhiều vì xã hội loài người tiến dần đến chỗ biến động và hỗn loạn.

    Trạng thái biến động trong xã hội lại đi từ tiệm tiến đến bột phát.

    Tiệm tiến là khi mâu thuẫn của lẽ sống còn nằm trong tâm tư con người và phát lộ bằng những ưu tư, thắc mắc. Ví dụ như:

    Thế tình chuộng lạ tham thanh,

    Bên khinh bên trọng ra hình xấu chơi.

    Hay:

    Khi vui thì vỗ tay vào,

    Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.

    Hoặc:

    Khó khăn thì chẳng ai nhìn,

    Đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em.

    Những thắc mắc trong tâm tư con người chính là ý thức biến động. Nó đi từ bất mãn cá nhân chất chứa vào lòng xã hội để hun đúc trong xã hội một năng lực phản ứng bằng tính chất bột phát. Cho nên, các nhà chính trị học lỗi lạc muốn nghiên cứu một thể chế xã hội ấy tồn tại lâu hay mau, đều căn cứ vào trạng thái biến động của tâm tư người dân trong thể chế ấy. Khi trạng thái biến động của tâm lư người dân đã dung nạp vào lòng xã hội một dung lượng khả dĩ chống lại cơ cấu tổ chức chính trị thì xã hội bắt đầu chuyển mình vào thời kỳ hỗn loạn.

    Trở lại trạng thái biến động của tâm tư người bình dân thời xưa, chúng ta thấy mọi thắc mắc của họ đối với cuộc sống chỉ nhằm vào mục tiêu san bằng mọi chênh lệch, bất công trong nền chính trị vi kinh tế phong kiến. Bởi vậy, chúng ta thấy họ đả kích những trạng thái xu nịnh, ham giầu và ỷ thần cậy thế.

    Ví dụ:

    Chớ thấy em bé nhà nghèo,

    Đến khi nước lụt bèo trèo lên trên.

    Trời làm một trận lăng nhăng,

    Ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông.

    Nhà giàu trồng lau ra mía,

    Nhà nghèo trồng củ tía ra củ nâu.

    Điều đặc biệt, người bình dân thời xưa tuy ở vào thế hệ bán khai, nhưng tâm tư họ đã nhận thức được xã hội loài người như mọi hiện tượng trong vũ trụ đều là những trạng thái biến động, luôn luôn đổi dời, không phải đứng yên một chỗ.

    Quan niệm ấy biểu lộ trong nhiều câu ca dao như:

    Ngồi đêm trông bóng trăng tàn,

    Muốn đoan với Nguyệt mà than một lời.

    Nguyệt rằng vật đổi sao dời,

    Thân này vẫn để cho người soi chung. 

    Căn cứ vào trạng thái đổi đời của vũ trụ, họ quan niệm con người và xã hội loài người cũng thế. Họ bảo:

    Trời còn khi nắng khi mưa,

    Ngày còn khi sớm, khi trưa nữa người.

    Hôm nay tụm bảy tụm mười,

    Ngày mai tan tác mỗi người một nơi.

    Khi bé đùm bọc lấy nhau,

    Đến khi cả lớn ai giàu nấy ăn.

    Nhìn đời là mặt hiện tượng tạm bợ, người bình dân đã dùng quan niệm ấy để an ủi cuộc sống khổ cực của mình. Họ cho rằng những khổ cực trước mắt chẳng qua là chuyện tạm thời. Mọi vật sẽ đổi thay, và sự đổi thay ấy sẽ đưa kiếp sống của họ đến chỗ huy hoàng. Bởi vậy họ thường an ủi cảnh khổ của họ trong những ý niệm như:

    Mấy ai giàu ba họ?

    Mấy ai khó ba đời?

    Và có khi họ lại bằng lòng với cảnh ngộ rày đây mai đó của họ trong việc làm ăn khổ cực, như:

    Chồng chài, vợ lưới, con câu,

    Sống Ngô bể Sở biết đâu là nhà!

    Hoặc:

    Măng chua nấu với ngạnh nguồn,

    Sự đời đắp đổi khi buồn khi vui.

    Ý thức cho đời là một trạng thái đổi thay, chẳng thững là nguồn an ủi đối với người bình dân trong cảnh sống kham khổ mà còn đem cho họ một niềm tin để họ vững lòng tranh đấu, cải tiến xã hội nữa

    4) Tác thành và hủy diệt.

    Những mẫu thuẫn của tâm tư con người đối với xã hội khi đã chất chứa một dung lượng khi đã làm nền tảng cho một ý thức hệ, thì ý thức hệ ấy tự nó trở thành sức mạnh để phá vỡ những chênh lệch, bất công do tổ chức xã hội đương thời gây nên. Đó là những bước tiến của xã hội loài người. Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh điều đó qua các cuộc phế hưng, các cuộc cách mạng, mà cho đến ngày nay chúng ta nhìn lại đoạn đường đã qua thì thấy hình bóng của cuộc sống loài người chỉ là một chuỗi thời gian của tác thành và hủy diệt nối tiếp nhau chẳng bao giờ dứt.

    *

    Tóm lại, tâm tư con người và cuộc sống là trạng thái chênh lệch, mâu thuẫn, biến động và sinh diệt. Tâm tư con người là thể tích mà cuộc sống là dung tíchễ. Thể tích luôn luôn ảnh hưởng vào dung tích, nhưng lại luôn luôn tìm cách phá vỡ để tràn ra ngoài. Nói cách khác, guồng máy xã hội loài người, tượng trưng cho cuộc sống, là sản phẩm của khối óc nằm trong qui luật biến động chung của vạn hữu, còn tâm tư con người, tượng trưng cho tình cảm, luôn luôn tìm cách phá vỡ những qui tắc chênh lệch, bất công của tham vọng con người. Mọi biến động của tâm tư luôn luôn tìm đến chỗ dung hợp, tranh đấu cho mọi sống còn của muôn loài, vạn vật, mà đó cũng là qui luật tất yếu của vạn hữu.

    Người bình dân thời xưa trong cuộc sống hồn nhiên chất phác, tâm tư của họ đã phản ảnh trạng thái ấy. Họ bất mãn với lẽ sống chỉ vì lẽ sống đã tạo ra những chênh lệch bất công. Họ có tranh đấu để tìm đến chỗ san bằng mâu thuẫn do tham vọng con người gây nên. San bằng mâu thuẫn không phải là tiêu diệt mâu thuẫn, bởi vì họ đã thừa nhận qui luật mâu thuẫn là qui luật tất yếu của vũ trụ san bằng mâu thuẫn đối với họ chỉ có nghĩa là đem lại sự công bình do tham vọng cá nhân con người đi ra đi ngoài khuôn khổ của vũ trụ, gây cho xã hội loài người một cảnh sống tang tóc, nghiệt ngã, khổ đau.

    Đó cũng là nhân sinh quan của người bình dân thời xưa mà chúng ta có thể đúc kết trong câu ca dao:

    Ở cho phải phải phân phân,

    Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa.
     
  8. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    PHẦN TUYỂN TẬP CA DAO TIÊU BIỂU CHO MÂU THUẪN GIỮA TÂM TƯ VÀ CUỘC SỐNG

    1. Ai làm cho bướm lìa hoa.

    Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng.

    Ai đi muôn dặm non sông,

    Để ai chứa chất sầu đong vơi đầy.

    2. Ai làm cho cái tôi ngồng,

    Cho dưa tôi khú, cho chồng tôi chê!

    - Chồng chê, thì mặc chồng chê,

    Dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ.

    3. Ai chẳng muốn đẹp, muốn giòn,

    Muốn đi tháo dạ cho mòn lỗ trôn.

    4. Ai về, em gởi bức tranh,

    Tô con chim sáo đậu nhành lan chi,

    Ai làm nên bước phân ly,

    Cám công mưa nắng, kẻ đi người về.

    5. Ai xui ai khiến trong long,

    Mau chân nhạy miệng mắc vòng thế gian.

    6. Ai mà phụ nghĩa quên công,

    Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.

    7. Ai cho sen muống một bồn,

    Ai từng chanh khế sánh cùng lựu lê.

    8. Ai về đường ấy hôm nay,

    Ngựa hồng ai cưỡi, để tay ai cầm.

    - Ngựa hồng đã có tri âm,

    Dù tay đã có người cầm thì thôi.

    9. Anh tiếc thay hạt mưa trong rơi xuống đống bùn,

    Anh tiếc thay tờ giấy trắng để thằng bé cỏn còn con nó vẽ xằng.

    Sự đời lắm chuyện lăng nhăng,

    Trăm năm để nỗi bất bằng cho ai.

    10. Áo đen năm nút con rồng,

    Ở xa con phụng lại gần con qui.

    11. Ăn sung ngồi gốc cây sung,

    Ăn rồilại ném tứ tung ngũ hoành.

    12. Ăn sao cho được mà mời,

    Thương sao cho được vợ người mà thương.

    13. Ba cô cùng ở một nhà,

    Cùng đội nón thúng, cùng ra thăm đồng.

    Ba cô cùng chửa có chồng,

    Để anh mua cốm, mua hồng sang chơi.

    Sang đến nơi, cô đã chồng rồi,

    Để cốm anh mốc, để hồng long tai.

    Ai làm cái quạt long nhài,

    Câu ô long dịp, cửa cài long then.

    14. Ba cô vác gậy chòi đào,

    Có một quả chín biết vào tay ai?

    Trên cây có quả chín mồi,

    Anh trông mới mắt, anh chòi mỏi tay.

    15. Bà già đeo bị hạt tiêu,

    Sống bao nhiên tuổi nhiều điều đắng cay.

    Đời người được mấy gang tay,

    Ai hay ngủ ngày thì được nửa gang.

    16. Bao giờ cho đến tháng ba,

    Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng.

    Dao nằm cho lợn cạo lông,

    Ba bốn quả hồng nuốt bà tám mươi.

    Chuối tiêu nuốt trẻ lên mười,

    Ba bốn bình rượu nuốt người xôn xao.

    Cào cào bắt đuổi cá rô,

    Cỏ lang, cỏ nát lại vồ bắt trâu.

    Gà con đuổi bắt diều hâu,

    Trứng gà tha quạ biết đâu mà tìm.

    17. Bao giờ rồng đến nhà tôm,

    Bồng leo cây ngải, thì ôm rồng vàng.

    18. Bảy với ba anh tính ra một chục,

    Tam tứ lục anh tính lại cửu chương.

    Liệu bề đát được thì đươn,

    Đừng gầy mà bỏ thế thường khó coi.

    19. Bẩy mươi chống gậy ra đi,

    Than thân rằng thuở đương thì chẳng chơi.

    20. Bần cùng bất dắc dĩ,

    Loài tỉ mới phải dịt lá vông.

    21. Bầu dục đâu đến bàn năm,

    Chè đâu đến chú, chú lăm ăn chè.

    22. Bầu già thì ở trên cây.

    Bầu non bứt xuống, làm dây kéo thuyền.

    25. Bậu chê qua ở rẫy ăn còng,

    Bậu về ở chợ ăn ròng mắm nêm.

    24. Bây giờ mới ra thân hèn,

    Khi xưa tôi cũng cầm đèn hai tay.

    25. Biết đâu là tổ chuồn chuồn,

    Biết đâu cú đậu, biết đâu lươn nằm.

    26. Bỗ dĩ giàu, bố đĩ tiên,

    Ông tổng không tiền, ông tổng tểnh.

    27. Buổi chợ đông con cá hồng em chê lạt,

    Buổi chợ tan rồi con tép bạc em khen ngon.

    28. Buổi xuân xanh thiếp chẳng gặp chàng,

    Bây giờ năm con bảy cái ra đàng gặp nhau.

    29. Buồn chẳng muốn nói,

    Gọi chẳng muốn trông.

    Tưởng sự lấy chồng, tỉnh như con sáo.

    50. Buồn ngủ buồn nghê, .

    Bán bò tậu ruộng, mua dê về cày.

    Đồn rằng dê đực khỏe thay,

    Bắt ách lên cày, nó lại phá ngang.

    31. Buồn tênh cháu rể khóc đưa bà,

    Một tiếng khóc lề ba tiếng à.

    32. Bướm già thì bướm có râu,

    Thấy bông hoa nở cúi dầu bướm châm.

    Bướm châm mà bướm lại nhầm,

    Có bông hoa nở, ong châm mất rồi.

    33. Cá nục nấu với dưa hồng,

    Lờ đờ có kẻ mất chồng như chơi.

    34. Cá bống đi tu,

    Cá thu nó khóc,

    Cá lóc nó rầu,

    Phải chi ngoài biển có cầu,

    Anh ra đến đó giải đoạn sầu cho em.

    35. Cách sông nên phải lụy đò,

    Tối trời nên phải lụy o bán dầu. 

    36. Cách bức chẳng được nói luôn,

    Những người bên ấy có buồn cùng chăng?

    37. Cái cò, cái vạc, cái nông,

    Cùng ăn một đồng nói chuyện giăng ca.

    Muối kia đổ ruột con gà,

    Mẹ mình chẳng xót bằng ta xót mình.

    38. Cái cò cái vạc, cái nông,

    Ba cái cùng béo, vặt lông cái nào?

    Vặt lông cái vạc cho tao,

    Hành răm nước mắm bỏ vào mà thuôn.

    39. Cả giận mất khôn,

    Bây giờ cắn rốn lại còn được ru.

    40. Cái cò là cái cò kỳ,

    Ăn cơm nhà dì, uống nước nhà cô,

    Đêm nằm thì ngáy o o,

    Chửa đi đến chợ đã lo ăn quà.

    Hàng bánh, hàng bún bày ra,

    Con mắt sắc sảo đi qua món hàng.

    Bánh đúc có lắm bánh dàng.

    Củ từ khoai nước lẫn hàng cháo kê.

    Ăn rồi cắp đít ra về,

    Thấy hàng chả chó, lại lê trôn vào.

    Chả nầy bà bán làm sao?

    Ba đồng một gắp lẽ nào chẳng mua.

    Nói dối rằng mua cho chồng,

    Đi đến quãng đồng, ngả nón ra ăn,

    Về nhà đau quằn đau quắn dạ này,

    Đem tiền đi bói ông thầy,

    Bói ra quẻ nầy những chả cùng nem.

    Ông thầy nói dối đã quen,

    Nào tôi ăn chả, ăn nem bao giờ...

    41. Canh xuông khéo nấu thì ngon,

    Mẹ già khéo tán thì con đắt chồng,

    42. Căn nợ đâu xe thấu tới bên Tàu,

    Hay là mình thấy chệc giàu mình mê.

    43. Cậu lậu cây bàng,

    Bao giờ cậu chết cả làng đi khiêng.

    44. Cậu lậu tình vôi,

    Bao giờ cậu chết cho tôi ăn phần.

    45. Cây cao, quả chín đồi mồi,

    Anh trông mỏi mắt, anh chòi mỏi tay.

    46. Cây bần ơi hỡi cây bần,

    Lá xanh bông thắm lại gần không thơm.

    47. Cây cao bóng mát không ngồi,

    Ra ngồi chỗ nắng trách trời không râm.

    48. Có tiền mua tiên cũng được,

    Không tiền mua lược cũng không.

    49. Có đỏ mà chẳng có thơm,

    Như hoa dâm bụt nên cơm cháo gì?

    50. Có cô thì chợ cũng đông,

    Cô đi lấy chồng thì chợ cũng qua.

    Có cứ thì dượng cũng già,

    Vắng cô thì dượng cũng qua một thì.
     
  9. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    51. Có của thì vạn người hầu,

    Có bấc có dầu thì vạn người khêu.

    52. Có của thì khôn như mại,

    Không của thì dại như lú.

    53. Có ai nước cũng đứng bờ,

    Không ai nước cũng đứng cơ mực này.

    54. Có răng thì lấy răng nhai,

    Không răng lợi gặm chẳng sai miếng nào.

    Có cô thì chợ cũng đông,

    Cô đi lấy chồng thì chợ cũng qua.

    Có cô thì dượng cũng già,

    Không cô thì dượng cũng qua một thì.

    55. Có tiền vợ vợ chồng chồng,

    Hết tiền chồng đồng vợ đoài.

    56. Có trầu mà chẳng có cau,

    Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm.

    57. Con rắn không chưn chạy năm rừng bảy rú,

    Con gà không vú nuôi chín mười con,

    Phải chi nhan sắc em còn,

    Anh lăn vô đó chịu lòn cũng ưng.

    58. Con cò đậu cọc bờ ao,

    Ăn sung sung chát, ăn đào đào chua.

    Ngày ngày ra đứng cổng chùa,

    Trông lên Hà-nội xem vua đúc tiền.

    Ruộng tư điền không ai cày cấy,

    Liệu cô mình đứng vậy được chăng?

    Mười hai cửa bể anh đã cắm đăng,

    Cửa nào lắm cá thì quăng chài vào.

    59. Con gái là con người ta,

    Con dâu mới thật mẹ cha mua về.

    60. Con cóc nằm ép bờ ao,

    Lăm le tại muốn đớp sao trên trời.

    61. Con cò chết rũ trên cây,

    Cò con giở sách xem ngày ra ma.

    Cà cuống uống rượu la đà.

    Chim di ríu rít bò ra lấy phần. 

    62. Con mèo đập bể nồi rang,

    Con chó chạy lại phải mang lấy đòn.

    65. Con quạ đen lông kêu bằng con ô thước,

    Thấy em có chồng vô phước anh thương.

    64. Con dòng thì bỏ xuống đất,

    Con vất thì đem lên sàng.

    65. Con ơi! chớ khỏe mẹ rầu,

    Bữa mai, bữa mốt ghe bầu tới nơi.

    66. Con quạ nó đứng bờ sông,

    Nó kêu bớ má lấy chồng cho con.

    Con quạ nó đứng đầu non,

    Nó kêu bớ má thương con trở về.

    67. Con gà béo bán bên Ngô,

    Con gà khô bán láng giềng.

    68. Con quan đô đốc đô đài,

    Lấy thằng thuyền chài cũng phải lụy mui.

    69. Con lành con ở cùng bà,

    Vang mình sốt mẩy con ra ngoài đường.

    70. Cố công sống mấy nghìn năm,

    Thử xem thửa ruộng mấy trăm người cày.

    71. Cố đấm ăn xôi,

    Đấm thì vô hồi, xôi chẳng được ăn.

    72. Công anh đánh đất trồng chanh,

    Ăn quả chẳng được vin cành cho cam.

    73. Cơm sôi cả lửa thì khê,

    Việc làm hay hỏng là lề thế gian.

    74. Của mình thì giữ bo bo,

    Của người thì để cho bò liếm đi.

    75. Cũng thì con mẹ con cha,

    Cành cao vun tới, cành la bỏ liều.

    76. Cũng thì làm lẽ,

    Người ăn bát mẻ, nằm chiếu manh,

    Người ăn bát Đại-thanh, nằm chiếu miến.

    77. Cực lòng nên phải biến dời,

    Biến dời lại gặp phải nơi cực lòng.

    78. Chàng xa, thiếp cách, tội đách gì rầu,

    Thác như Lữ-Vọng té xuống cầu non Tiên.

    Ngửa tay em trao cho một đồng tiền,

    Phận sao, chịu vậy đừng phiền mà hư.

    79. Chồng xinh cũng thể đôi ta,

    Chẳng thơm cũng thể là hoa ngâu Tàu.

    80. Chẳng vui cũng thể Hội Thầy,

    Chẳng trong cũng thể Hồ Tây xứ Đoài.

    Rửa chân đi hán, đi hài,

    Rừa chân đi đất, chớ hoài rửa chân.

    81. Chẳng đi thì dạ chẳng đành,

    Đi ra mang tiếng dỗ dành nhau đi.

    82. Chẳng tham vựa lúa anh đầy,

    Tham năm ba chữ cho tầy thế gian.

    83. Chẳng thơm cũng thể hoa nhài,

    Chẳng lịch cũng thể là người Trường-an.

    84. Chẳng chua cũng thể là chanh,

    Chẳng ngọt cũng thể cam sành chín cây.

    85. Chẳng thơm cũng thể hương tàn,

    Chẳng ngọt cũng thể nước sông Hàn chảy ra.

    Chẳng thơm cũng thể hoa nhài,

    Chẳng lịch cũng thể con người thượng kinh.

    86. Chê tôm lại phải ăn tôm,

    Chê rau muống héo lại ôm dưa già.

    87. Chỉ đâu mà buộc ngang trời.

    Tay đâu mà đậy miệng người thế gian.

    Giàu sang nhiều kẻ tới nhà.

    Khó khăn nên nỗi ruột rà xa nhau.

    88. Chim ham trái chín ăn xa,

    Buồn tình nhớ lại góc đa muốn về.

    89. Chim quyên dại lắm không khôn.

    Nhành mai không đậu, đậu cồn cỏ may.

    90. Chim quyên xuống đất ăn trùng,

    Anh hùng lỡ vận lên rừng đốt than.

    91. Chồng yêu cái tóc nên dài,

    Cái duyên nên đẹp, cái tài nên khôn.

    92. Chớ chê em xấu, em đen,

    Em như nước đục, đánh phèn lại trong.

    93. Chớ quen bán chó, mua dê,

    Vui cùng hạc nội ham chi gà lồng.

    Sá chi điều ấy như không,

    Xác ve luống chịu tiếng trong cõi đời.

    94. Chơi cho thủng trống, long bồng,

    Rồi ra ta sẽ lấy chồng lập nghiêm.

    Chơi cho thủng trống, long chiêng!

    Rồi ra ta sẽ lập nghiêm lấy chồng.

    95. Chuối cậy mình là chuối đồng trinh,

    Chuối ở một mình sao chuối có con?

    96. Chửa được thì hứng bằng rá,

    Đã được thì đá bằng chân.

    97. Dù anh buôn đâu bán đâu,

    Cũng không tránh khỏi tuần Châu, Vân Sàng.

    98. Dù ai sang cả mặc ai,

    Thân này nước chảy hoa trôi xá gì.

    99. Duyên sao cắc cớ lỡ làng,

    Cầm gương gương tối, cầm vàng vàng phai.

    100. Đã từng xem què bói rùa,

    Còn toan bói hạc xem cho mới đành.
     
  10. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    101. Đã gian lại ngoan,

    Đã đi làm dĩ lại toan cáo làng.

    102. Đãi bôi kia hỡi đãi bôi,

    Có một đấu tấm đãi mười khúc sông.

    105. Đàn ông nông nổi giếng khơi,

    Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.

    104. Đấng trượng phu đừng thù mới đáng,

    Đấng anh hùng đừng oán mới hay.

    105. Đau bụng thì uống nước sông,

    Đau mắt lấy nhựa xương rồng mà bôi.

    106. Đất bục mà ném chim trời,

    Chim thời bay mất, đất rơi xuống đầu.

    107. Đẻ chết mà nết không chừa,

    Đến mai đi chợ, chồ dừa lại ăn.

    108. Đẻ con khôn, mát l... rời rợi,

    Đẻ con dại, thảm hại cái l...

    109. Đeo bầu mang tiếng thị phi,

    Bầu không có rượu lấy gì mà say.

    110. Đêm qua ngỏ cửa chờ chồng,

    Đêm nay ngỏ cửa gió đông lọt vào.

    111. Đêm qua rủ rỉ rù rì,

    Tiếng nặng bằng bấc, tiếng chì bằng bông.

    Chì khoe chì nặng hơn đồng,

    Sao chì chẳng đúc nên cồng, nên chuông?

    112. Đêm khuya dưới đất trên trời,

    Một mình cô đứng, cô ngồi, cô nghe.

    Cô nghe hết giọng con ve,

    Đến lời con quốc gọi hè, tiếc xuân.

    115. Đêm đêm vuốt bụng thở dài,

    Thở ngắn bằng trạch, thở dài bằng lươn.

    114. Đi sau, ăn nhau bà đẻ,

    Ăn giẻ chùi trôn, ăn l… chấm muối.

    115. Đi ỉa không biết đường lại,

    Đi đái không biết đường về.

    116. Đi đâu mà chẳng ăn re,

    Đến khi hết của, thì rè chẳng ra.

    117. Đi đâu mà vội mà vàng,

    Mà bỏ túi bạc, mà mang túi chì.

    118. Đi đã ba bảy chín chu,

    Trở về đến ngõ, chuột chù gặm chân.

    119. Đói thì nặng mặt sa mày,

    No thời tức bụng trời hay chăng trời.

    120. Đói lòng ăn trái khổ qua,

    Nuốt vô thì đắng, nhổ ra bạn cười.

    121. Đố ai tát bể Đông-khê,

    Tát sông Bồ đề nhổ mạ cấy chiêm.

    122. Đố ai biết lúa mấy cây,

    Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng.

    Đố ai quét sạch lá rừng,

    Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.

    123. Đôi ta như bộ chén chung,

    Giấu kín như mùng còn lậu tiếng ra.

    124. Đồn rằng ngoài tỉnh Hưng-yên,

    Có cô con gái trái nhân duyên cô lỡ chồng.

    Trống cơm ai khéo vỗ nên vông,

    Một đàn con vịt lặn sông đi tìm.

    Rạng ngày mai con mắt lim dim,

    Chân đi thất thểu như chim tha mồi.

    125. Đồng tiền đi trước đồng tiền khôn.

    Đồng tiền đi sau đồng tiền dại.

    126. Đồng tiền không phấn không hồ,

    Đồng tiền khéo điểm, khéo tô mặt người,

    127. Đưa anh ra tới làng Hồ,

    Em mua trái mít, em vồ trái thơm.

    Anh về, em nọ dám đưa,

    Hai hàng châu lệ như mưa tháng mười.

    128. Đừng chê tôi xấu, lôi già,

    Tôi đi bán thị, mọi bà, mọi hôn.

    129. Được mùa chớ phụ môn khoai,

    Đến năm thân dậu không ai bạn cùng.

    130. Em nghiêng tai dưới gió,

    Qua kể nhỏ cho em rành.

    Đôi ta còn vướng tơ mành,

    Đó chẳng dành, đây anh cũng gắng.

    Sóng ba đào, mưa nắng chẳng sao.

    131. Em ơi, anh bảo em này,

    Trứng chọi với đá có ngày vỡ tan.

    132. Em là con gái kẻ đăng,

    Bên Tề, bên Sở biết rằng theo ai.

    133. Em trông thấy anh, em cũng muốn theo,

    Sợ mẹ anh nghèo bán váy em đi.

    134. Em ngoan lấy phải chồng đần,

    Cho giỏi mười phần ai biết rằng ngoan.

    135. Gà lôi đội lốt con công,

    Tưởng rằng mình ngộ đi dong đi dài.

    Gặp công xốc lại nhập bầy,

    Công đá xể mặt trầy mày đuổi đi.

    156. Gái chê chồng đến Bông trở lại,

    Trai chê vợ đến Ngái trở về.

    137. Gái liệt nữ dám đâu hai dạ,

    Đấng thuyền quyên đâu dám hai lòng.

    Nợ duyên em giữ vẹn, khỏi vòng cười chê.

    138. Gáo đồng múc nước giếng Tây,

    Khôn ngoan cho lắm tớ thầy người ta.

    139. Gần nhà giàu đau răng ăn cốm,

    Gần nhà kẻ trộm ốm lưng đau đòn,

    740. Gập ghềnh nước chảy qua đèo,

    Ngựa ô xuống bến, thuyền chèo lên non.

    141. Giàu sang nhiều kẻ tới nhà,

    Khó khăn nên nỗi ruột rà xa nhau.

    142. Giẻ cùi tốt mã dài đuôi,

    Hay ăn cứt chó, ai nuôi giẻ cùi.

    143. Gió đưa cây cải về trời,

    Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.

    144. Gió nồm là gió nồm đông,

    Trách chàng quân tử có mồm không ăn.

    145. Giúp lời không ai giúp của.

    Giúp đũa không ai giúp cơm,

    146. Giương cung sắp bắn phượng hoàng,

    Chẳng may lại phải một đàn chim ri.

    Lấy sào mà đuổi nó đi,

    Nó kêu ríu rít kẻo thì điếc tai.

    147. Gỗ trắc đem lát ván cầu,

    Yến sào đem nấu với đầu tôm khô.

    148. Hò không đi, rì không đứng,

    Nhủ đi đằng rì, nó đi đằng tắc.

    149. Hoa sen mọc bãi cát lầm,

    Tuy rằng lấm láp vẫn mầm hoa sen.

    150. Hoài hồng ngâm cho chuột vọc,

    Hoài hòn ngọc cho ngâu vầy.

    Hoài bánh giầy cho thằng méo miệng ăn.
     
  11. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    151. Hồng nhan nào kém ai đâu,

    Kẻ xe chỉ thắm, người xe hạt vàng.

    152. Hữu tật thì bái tứ phương,

    Vô tật đồng hương chẳng mất.

    155. Kinh đô cũng có người rồ,

    Man-di cũng có sinh đồ trạng nguyên.

    154. Khen ai khéo đúc chuông chì,

    Đụng thì có đụng, đánh thì không kêu.

    155. Khế rụng bờ ao, thanh tao anh lượm,

    Ngọt như cam sành, héo cuống anh cũng chê.

    156. Khi vui thì miệng lép bép,

    Khi buồn ruồi đậu bên mép không đòi. 

    157. Khi vui non nước cũng vui,

    Khi buồn sáo thổi, kèn đôi cũng buồn.

    158. Khi xưa ước những chân mây,

    Bây giờ rơi xuống giữa dây bìm bìm.

    159. Khi nóng, bắt lấy tai,

    Khi nguội chẳng biết tai là gì.

    160. Khó khăn đắp đổi lần hồi,

    Giàu thì chưa đẻ em ngồi em ăn.

    161. Khó khăn thì chăng ai nhìn.

    Đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em.

    162. Khoan khoan quần tía xuống màu.

    Dây lưng mua chịu khoe giàu với ai?

    163. Khôn ngoan cũng thể đàn bà,

    Dẫu rằng vụng dại cũng là đàn ông.

    164. Khôn ngoan quỉ quyệt chết lao chết tù,

    Lủ khủ lù khù chết già chết rũ.

    165. Không thương đoái lại chút tình,

    Lẽ nào có lẽ bất bình cả hai.

    166. La hò, hồ khoan,

    Ta chèo cất mái hồ khoan,

    Thuyền rồng chúa ngự khoan khoan mái chèo.

    Lênh đênh duyên nổi phận bèo,

    Đã dành khi nước thủy triều đầy vơi.

    Lộ đồ giao viễn ra khơi,

    Thuyền tình chở một mình tôi nặng gì.

    Chẳng giậm, thì thuyền chẳng đi,

    Giậm ra mắc tiếng thị phi với tình.

    Khách tình lại nhớ thuyền tình,

    Thuyền tình lại nhớ khách tình là duyên.

    IMG_5933 (Copy).jpg
    Chàng đi thiếp cũng xin theo,

    Cùng làm cùng hưởng, giàu nghèo có nhau.

    167. Lá vàng còn ở trên cây,

    Lá xanh rụng xuống, trời hay chăng trời!

    168. Làm dàn cho bí leo chơi,

    Chẳng may bí dột, mùng tơi leo cùng.

    169. Lạy ông nắng lên cho ấm trẻ ông ơi,

    Già thì cháy rận chớ tôi được gì.

    170. Lênh đênh duyên nổi phận bèo,

    Tránh sao cho khỏi nước triều dầy vơi.

    171. Linh đinh một chiếc thuyền tình,

    Mười hai bến nước gởi mình vào đâu.

    172. Lộ diên tri mã lực,

    Sự cửu kiến nhân tâm.

    Bởi anh nghe vậy mới lầm,

    Vàng rơi khó kiếm châu trầm khôn theo.

    175. Lỡ quan, lỡ lính, lỡ làng,

    Lỡ bề dân giả, lỡ hàng công khanh.

    174. Lụa mười lăm anh chê lụa vụng,

    Mắc phải lụa hồ đành bụng bậu chưa?

    175. Lúc làm thì chẳng có ai,

    Lúc thì ông xã, ông cai đầy nhà.

    176. Lúc nghèo thì chẳng ai nhìn,

    Đến khi đỗ Trạng chín nghìn anh em.

    177. Luồn cửa tiền cửa hậu.

    Chẳng thèm luồn bờ giậu chó chui.

    178. Mạnh về gạo, bạo về tiền,

    Lắm tiền nhiều gạo là tiên trên đời.

    179. Máu gà thì tẩm xương gà,

    Máu gà đem tẩm xương ta sao đành.

    180. Mặc đời cua máy, cáy đào,

    Gai kia ai mứt, quả nào ai vo.

    181. Măng giang nấu cá ngạnh nguồn,

    Đến đây em phải bán buồn mua vui.

    182. Mặt mũi méo mó thì có đồng tiền,

    Mặt vuông chữ điền thì tiền không có.

    Mất vải thì phải đi đo,

    Mất tiền đi đò, lại phải kéo dây.

    184. Mất tiền rồi lại thua thâm,

    Mất tiền rồi lại tri âm bạn cười.

    185. Mẹ thời già, nhà thời khó,

    Tôi muốn lấy nó, nó chẳng lấy tôi.

    186. Mẹ già ở chốn lều tranh,

    Đói no chẳng biết, rách lành chẳng hay.

    187. Mẹ cha bú mớm nưng niu,

    Tội trời thì chịu không yêu bằng chồng.

    188. Me già lo bảy lo ba,

    Lo cau trổ muộn, lo già hết duyên,

    189. Mèo tha miếng thịt thì đòi,

    Kễnh tha con lợn mắt coi chừng chừng.

    190. Mênh mông góc bể chân trời,

    Những người thiên hạ nào người tri âm?

    Buồn riêng thôi lại tủi thầm,

    Một duyên, hai nợ, ba nhầm lấy nhau.

    191. Miếng đất láng nguyên, tự nhiên cây cỏ mọc,

    Anh mảng lo nghèo, bạn ngọc có đôi.

    192. Miệng kẻ sang có gang có thép,

    Đồ nhà khó vừa nhọ vừa tham.

    193. Miếng ăn là miếng tồi tàn,

    Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu.

    194. Mồ cha đứa có sợ đòn,

    Quí hồ kiếm được chồng dòn thì thôi.

    195. Mồ cha cái áo rách nầy,

    Mất chúng, mất bạn, vì mày áo ơi!

    196. Mồ cha ai dốn cây bần,

    Chẳng cho ghe cá đậu gần ghe tôm.

    197. Một mẹ nuôi được mười con,

    Mười con không nuôi được một mẹ.

    198. Một năm là mấy tháng xuân,

    Một đời người được mấy lần vinh hoa.

    199. Một thuyền một lái chẳng xong,

    Một chĩnh hai gáo còn nong tay vào.

    200. Người làm nên, cả họ được cậy,

    Một người làm bậy, cả họ mất nhờ.
     
  12. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    201. Một người làm xấu, cả bọn mang nhơ,

    Một người làm tốt, cả bọn được nhờ.

    202. Một mình đứng giữa trung ương,

    Bên tình, bên nghĩa biết thương bên nào?

    203. Một vũng nước trong, năm bảy dòng nước đục.

    Một trăm người tục, không được chục người thanh.

    204. Một lần cho tởn tới già,

    Đừng đi nước mặn mà hà ăn chưn.

    205. Một đời phú quý vinh hoa,

    Một đời đói rách cũng qua một đời.

    206. Mơ mang, mang chạy lên rừng,

    Ta hay mang chạy thì đừng mơ mang.

    207. Mụ gia ba bảy mụ gia,

    Mụ thì tiền rưỡi, mụ ba mươi đồng.

    208. Muốn ăn măng trúc, măng giang.

    Măng tre, măng nứa, chè bàng cơm lam.

    Muốn ăn sim chín đi tìm.

    Đố ai tìm được đem lên hầu nàng.

    Chim kêu, vượn hót trên ngàn,

    Bây giờ đã đến trăng tàn canh ba.

    209. Muốn sao tháng đôi tuần trăng,

    Muốn sao đây ở cho bằng lòng đây.

    210. No thì ra Bụt, đói ra ma,

    Chẳng lạ nhân tình đất kẻ ta.

    211. Nửa về nửa muốn ở đây,

    Về nhà nhớ bạn, ở đây nhớ nhà.

    212. Nửa về nửa muốn ở đây,

    Nửa thơm như quế, nửa cay như gừng.

    215. Nực cười châu chấu chống xe,

    Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng.

    214. Nực cười chữ “nãi” là bèn,

    Mất tiền mà có ai khen chi mình.

    215. Nước giữa dòng chê trong chê đục.

    Vũng nước trâu đầm hì hục khen ngon.

    216. Nước triều ai tát, ai khơi,

    Khi lên thời thế, cơn rồi như không.

    217. Nước non lận đận một mình,

    Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

    Ai làm cho bể kia đầy,

    Cho ao kia cạn, cho gầy cò con.

    218. Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần,

    Làm thân con nhện mấy lần vương tơ.

    Biết về đâu trong đục mà chờ,

    Hương thơm mất tuyết biết nương nhờ vào ai?

    219. Nghĩ ngán cho ai nhành mai đang thắm,

    Chẳng xứng tay cầm uổng nhánh mai tươi.

    220. Nghĩ em đáng lạng vàng mười,

    Đem ra kẻ chợ kém người trăm phân.

    Trông xa cứ tưởng là tiên,

    Đến gần cú đậu ở bên cạnh sườn,

    Kìa ai lào lạo ngoài da,

    Mà trong rỗng tuếch như hoa muống rừng.

    221. Ngọc sa xuống giống ngọc trầm,

    Anh đi tìm ngọc, tìm lầm hột châu.

    222. Ngồi buồn xe chỉ uốn cần,

    Chỉ xe chưa đặng, cá lần ra khơi.

    225. Ngờ đâu quá giận mất khôn,

    Khi vui đã vậy, khi buồn làm sao?

    224. Ngỡ rằng cây cả bóng cao,

    Thiếp lăn mình vào phơi nắng cùng mưa.

    225. Ngũn ngỡn như con thuyền chài,

    Áo ngắn mặc ngoài, áo dài mặc trong.

    Người gian thì sợ người ngay,

    Người ngay chẳng sợ đường cày khúc khiu.

    226. Người dưng ơi hỡi người dưng!

    Bánh dày phải lửa thì sưng phồng phồng.

    227. Người trên ở chẳng kỳ cương,

    Khiến cho kẻ dưới lập trường mây mưa.

    228. Người ta con trước con sau,

    Thân anh không vợ như cau không buồng.

    Cau không buồng ra tuồng cau đực,

    Trai không vợ cực lắm em ơi.

    Người ta đi đón về đôi,

    Thân anh đi lẻ về loi một mình.

    229. Người ta năm bảy chị em,

    Tôi đây khác thể chiếc nem lột trần.

    230. Nhác trông ngỡ tượng tô vàng,

    Nhìn lâu mới biết chẫu chàng trời mưa.

    231. Nhạn đậu cành sung, giương cung bắn nhạn,

    Con nhạn chết rồi, biết làm bạn với ai!

    232. Nhọc nhằn ăn nọ được khoai,

    Nấu một nồi bộng, lựa hai củ sùng.

    235. Những người gót đỏ như son,

    Xưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùn.

    234. Ô hô chậu rã, cúc ngã, sen tàn,

    Tiếc công anh lận đận với nàng bấy lâu.

    255. Ông thầy khoe ông thầy tốt,

    Bà cốt cậy bà cốt hay.

    236. Ở đời Kiệt Trụ sướng sao,

    Có rừng nem béo, có ao rượu đầy.

    Ở đời Nghiêu, Thuấn khổ thay,

    Giếng đào mà uống, ruộng cày mà ăn.

    237. Ở nhà nhất mẹ, nhì con,

    Ra đường lắm kẻ còn dòn hơn ta.

    238. Ở đời chẳng biết sợ ai,

    Sợ thằng say rượu nói dai tối ngày.

    239. Ở xa không biết nên lầm,

    Bây giờ rõ lại vàng cầm cũng buông.

    240. Phản Trụ đầu Châu,

    Ăn cơm nhà Phật, đốt râu nhà chùa.

    241. Phận em liễu yếu vâng lịnh nghiêm làng,

    Em kết duyên với khách, ngỡ ngàng nước non.

    242. Phềnh phềnh lớn giữa lớn ra,

    Mẹ ơi, con chẳng ở nhà được đâu.

    Ở nhà, làng bắt mất trâu,

    Cho nên con phải đâm đầu ra đi.

    245. Phượng hoàng chặt cánh đuổi đi,

    Bắt con bìm bịp đem về mà nuôi.

    244. Phượng hoàng đậu chốn cheo leo,

    Sa chân lỡ bước phải theo đàn gà.

    Bây giờ mưa thuận gió hòa,

    Thay lông đổi cánh lại ra phượng hoàng.

    245. Quạ mà đã biết quạ đen,

    Có đâu quạ dám mon men với cò.

    246. Quân sử thần tử, thần bất tử bất trung,

    Phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu.

    247. Ra đường thấy cánh hoa rơi,

    Hai chân dậm xuống chẳng chơi hoa thừa.

    248. Ra đường vui những cảnh người,

    Về nhà tôi thấy cảnh tôi, tôi buồn.

    249. Ra đường gió mát thảnh thơi,

    Thương người nằm võng nắng nôi ở nhà.

    250. Ra đường ông tú, ông chiêu,

    Về nhà móng tay mỏ sẻ, cậy niêu đã mòn.
     
  13. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    251. Ra đường chẳng biết ai nói thế nào,

    Về nhà lấy thớt, lấy dao băm l...

    252. Roi song đánh đoạn thì thôi,

    Một lời xiết cạnh muôn đời chửa quên.

    255. Ru con, con ngủ cho rồi,

    Mẹ ra chỗ vắng, mẹ ngồi than thân.

    254. Rủ nhau đánh cá Đồng-nai,

    Cá kia chẳng được, âm thầm lòng anh.

    Cây vàng, lá rụng chung quanh,

    Rủ nhau đánh cá Đồng-nai,

    Cá kia chẳng được, một ngày đến trưa.

    Sầu em nước mắt như mưa.

    255. Ruộng gần bỏ cỏ không cày,

    Chợ xa quà rẻ, mấy ngày cũng đi.

    256. Rửa chân đi hán đi hài,

    Rửa chân đi đất chớ hoài rửa chân.

    251. Sá chi một nải chuối xanh,

    Năm bảy người giành cho mủ dính tay.

    258. Sáng mưa trưa nắng, chiều nồm,

    Trời còn thay đổi huống mồm thế gian.

    259. Sáng trăng suông, em nghĩ tối trời,

    Em ngồi em để cái sự đời em ra.

    Sự đời bằng cái lá đa,

    Đen như mõm chó, chém cha tự đời.

    260. Sầu đông trong héo, ngoài tươi,

    Vui là vui gượng, cười là cười khuây.

    261. Soi gương còn mặt mũi nào,

    Đã dở lại xấu soi vào sao đang.

    262. Sóng ba đào khi không mà đậy,

    Em bậu có chồng rồi nửa chừng đứt gióng lại dòn triêng.

    Anh vô thay lời đổi mặt cầm quyền cho con em.

    265. Sông con gặp lúc sóng cồn,

    Hỡi ai ham kẻ anh hùng làm chi!

    264. Sông dài mà tìm đò ngang,

    Em nhiều nhân ngãi, em mang oán thù.

    265. Sống thì chẳng cho ăn no,

    Chết thì cúng giỗ mâm cao, cỗ đầy.

    266. Sự đời nghĩ cũng nực cười,

    Một con cá lội mấy người buông câu.

    267. Tay em cầm gáo nước tưới cả ba cây,

    Tưới cây lựu, bỏ cây đào, tưới cây đào, bỏ cây lê,

    Có ai ở trong nhà cho em mượn đôi gióng bứng về cả ba cây.

    268. Tay mang túi bạc kè kè,

    Nói quấy nói quá người nghe ầm ầm.

    269. Tay tiên rót chén rượu đào,

    Đổ đi thì tiếc, uống vào thì say.

    270. Tấn thối nan cực khổ trăm bề,

    Ở đây khó ở, ra về khó ra.

    271. Tết đã đuổi đến sau lưng,

    Ông vải thì mừng, con cháu thì lo.

    272. Tậu voi chung với đức ông,

    Vừa phải đánh cồng, vừa phải hốt phân.

    273. Tiếc công xúc tép nuôi cò.

    Cò ăn, cò mổ, cò mò lên cây.

    274. Tiếc công vãi mẳn cho cu,

    Cu ăn, cu lớn, cu gù nhau đi.

    275. Tiếc công anh vun quén cây tùng,

    Anh săm soi trên ngọn dưới gốc cây sùng không hay.

    276. Tiếc thay cái chậu nước trong,

    Để cho bèo tấm, bèo ong rạt vào.

    277. Tiếc thay hột gạo trắng ngần,

    Đã vo nước đục lại vần than rơm.

    278. Tiếc công lao anh đào ao thả cá,

    Năm bảy tháng trường người lạ đến câu.

    270. Tiền chì mua được cá tươi,

    Mua rau mới hái, mua người nỏ nang.

    Tiền trinh mua vội mua vàng,

    Mua phải rau héo, mua nàng ngẩn ngơ.

    280. Tiền Bần, lụa bạc, vải Đồng than,

    Đã mua thì chớ phàn nàn làm chi.

    281. Tiếng anh ăn học bên Tàu,

    Chị dâu té giếng nắm chỗ nào kéo lên?

    Nắm trên đầu thì sợ lỗi trời trên,

    Thò tay nắm áo kéo lên tức thì.

    282. Tổ đánh mà chẳng biết thân,

    Mặt như điếu dạn chơi xuân nỗi gì.

    283. Tôi đi tìm bạn tôi đây,

    Bạn thấy tôi khó chưng nay chẳng chào.

    284. Tôi muốn lên non tìm con chim lạ,

    Ở dưới thị thiền chim chạ thiếu chi.

    285. Tôi đây như thể áo tơi,

    Khi mưa thì dùng, lạnh trời thì thôi.

    286. Tối tăm biết mít là gai,

    Biết quen hay lạ, biết ai mà chào.

    287. Từ rày buộc chỉ cổ tay,

    Chim đậu thì bắt, chim bay thì đừng.

    288. Tới đây đất nước lạ lùng.

    Chim kêu phải sợ, cá vùng phải kiêng.

    289. Tua rua đã xế ngang đầu,

    Em còn đứng lại làm giàu cho cha.

    290. Tưởng giếng sâu nối sợi dây dài,

    Hay đâu giếng cạn, tiếc hoài sợi dây.

    291. Tưởng rằng đá nát thì thôi,

    Hay đâu đá nát đun vôi lại nồng.

    292. Tưởng lấy anh cho lành manh áo,

    Hay đâu lấy anh rồi bán áo nuôi anh.

    293. Tưởng rằng rồng ấp với mây,

    Ai ngờ rồng ấp với cây địa liền.

    294. Tưởng rằng nước chảy đá mòn,

    Ai ngờ nước chảy đá còn trơ trơ.

    295. Thà rằng chẳng biết cho xong,

    Biết ra kẻ bắc. người đông thêm sầu.

    296. Thì ăn bắp bột chà vôi,

    Còn hơn giàu có bồ côi một mình.

    297. Thà rằng chẳng biết cho đừng,

    Biết ra dan díu nửa chừng lại thôi.

    Con sông bên lở bên bồi,

    Một con cá lội mấy người buông câu.

    298. Tham vàng, bỏ ngãi, anh ơi!

    Vàng lại ăn hết, ngãi tôi hãy còn.

    299. Tham vàng bỏ đống gạch dày,

    Vàng thì ăn hết, gạch xây nên thành.

    300. Thành đổ đã có chúa xây,

    Việc gì gái góa lo ngày lo đêm.
     
  14. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    301. Thân em tội nghiệp về đâu,

    Ngày ngày em chổng phao câu lên trời.

    302. Thế gian lắm kẻ mơ mòng,

    Thấy hòn son thắm ngỡ vàng chắt chiu.

    303. Thế tình chuộng lạ tham thanh,

    Bên khinh bên trọng ra tình xấu chơi.

    304. Thế gian còn mặt mũi nào,

    Đã nhổ, lạt liếm làm sao cho dành.

    305. Thế gian nói chi thì mặc nó,

    Miễn là mình không có thì thôi.

    306. Thiếu chi cam rim, hồng rim,

    Bắt anh đi tìm khế rụng bờ ao.

    307. Thôi thôi giụi đuốc đi thầm,

    Còn duyên chi nữa mua trầm bến hương.

    308. Thuở giầu sang nhiều kẻ yêu vì,

    Đến khi khó, rủ nhau gièm sém.

    309. Thuyền đua thì lái cũng đua.

    Thuyền lên trên bờ thì lái chết toi.

    Thuyền câu lơ lửng đã xong,

    Thuyền chài lơ lửng uổng công thuyền chài

    310. Thuận buồm xuôi gió, chén chú chén anh,

    Lên thác xuống ghềnh, mày tao chi tớ.

    Thứ nhất vợ dại trong nhà,

    Thứ hai nhà dột, thứ ba rựa cùn.

    312. Thương miệng thương môi,

    Thương miếng xôi miếng thịt.

    313. Thương miệng thương môi,

    Việc quan anh cứ phép công anh làm.

    314. Thương người khác thể thương thân,

    Ghét người như thể vun phân cho người.

    315. Thương thương, nhớ nhớ, thương thương,

    Nước kia muốn chảy mà mương không đào.

    316. Trách thân chẳng dám giận trời,

    Trách thân lắm lắm. giận trời bao nhiêu.

    317. Trai ba mươi tuổi mà già.

    Gái bốn mươi tuổi đang ra má hồng.

    318. Trăm năm trăm tuổi, trăm chồng.

    Hễ ai có bạc, thì bồng lên tay.

    319. Trăm năm dốc nguyện đá vàng,

    Dè đâu gãy gánh giữa đàng khá toan.

    320. Trăng như thủy tinh,

    Trong như giá lọc,

    Nhún mình đồng đeo,

    Ai ơi chớ nghĩ rằng hèn,

    Kìa như nước đục đánh phèn lại trong.

    321. Trẻ chẳng tha, già chẳng thương,

    Cóc nhái, ễnh ương chấp chi nhặt nhạnh.

    322. Trèo non ước những non cao,

    Anh đi đò dọc, ước ao sông dài.

    323. Trèo lên cây tắt lắt lòng,

    Bước sang cây thị lại hòng thanh yên. 

    324. Trèo lên Ba-dội tôi coi,

    Bốn dội tôi ngồi, năm dội tôi trông.

    Nồi đồng lại úp vung đồng.

    Con gái xứ Huế lấy chồng Đồng-nai.

    Giậm chân xuống đất kêu trời,

    Lấy chồng trong Quảng biết đời nào ra.

    325. Trách bậu sao không dạ lo âu,

    Sao không có phản Trụ đầu Châu cho rồi.

    326. Trộm vàng, trộm bạc cho cam,

    Trộm một nắm cám, cũng mang tiếng đời.

    327. Trong lưng chẳng có một đồng,

    Lời nói như rồng, chúng chẳng thèm nghe.

    Vai mang túi bạc kè kè,

    Nói bậy nói bạ chúng nghe rầm rầm.

    328. Trong ba mươi sáu đường tu,

    Đường nào phú quý phong lưu thì làm

    329. Trong lòng bối rối băn khoăn,

    Chân đi thất thểu, cơm ăn ít nhiều.

    330. Trông trăng mà thẹn với trời,

    Soi gương mà thẹn với người trong gương.

    331. Trống chùa ai đánh thùng thùng,

    Của chung ai khéo vẫy vùng nên riêng.

    332. Trồng tre chẳng dám ăn măng,

    Để cho măng lớn kết bè đưa dâu.

    Đưa dâu thì đưa bằng ghe,

    Đừng đưa bằng bè ướt áo nàng dâu.

    335. Trời mưa ướt bụi ướt bờ,

    Ướt cây ướt lá ai ngờ ướt em.

    334. Trời sanh hùm chẳng có vây,

    Hùm mà có cánh, hùm bay lên trời,

    335. Trời sinh ra kiếp hay chơi,

    Sao trời lại khép vào nơi không tiền.

    336. Trời sao trời chẳng ở công,

    Người bù bốn vợ, người không vợ nào.

    337. Vàng mười chê đắt không mua.

    Mua lấy vàng bảy thiệt thua trăm đường.

    338. Vì sông nên phải lụy thuyền,

    Chớ như đường liền ai phải lụy ai.

    339. Ví dầu nhà dột cột xiêu,

    Muốn đi cưới vợ, sợ nhiều miệng ăn.

    340. Xa sông xách nước bằng chình,

    Sẩy tay rớt xuống gẫm mình vô duyên.

    341. Xa sông cách núi lỡ vời,

    Gởi thơ sợ lậu, gởi lời sợ quên.

    342. Xa xôi chi đó mà lầm,

    Phải hương hương bén, phải trầm trầm thơm.

    343. Xăm xăm bước tới cây chanh,

    Lăm le muốn bẻ sợ nhành chông gai.

    344. Xúp lê ba tàu ra bể bắc,

    Giậm cẳng kêu trời, chồng bắc vợ nam.

    345. Yêu nhau chẳng lấyy được nhau,

    Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ rời.




     
  15. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    B. MÂU THUẪN GIỮA CON NGƯỜI VÀ CON NGƯỜI

    Con người là cá thể của vũ trụ. Mỗi một người đều chất chứa một khả năng tự tồn. Chính khả năng tự tồn ấy đưa con người đến trạng thái vị kỷ, mà xưa nay trong cuộc sống, giữa con người và con người vẫn là những đối tượng mâu thuẫn bất diệt. Đó là điều căn bản không thể tránh được.

    Dựa trên căn bản mâu thuẫn tất yếu ấy, con người bị qui luật tranh đấu tự tồn thúc đẩy đem hết khả năng tinh vi của bộ óc mình cố tranh đoạt lẽ sống, trộn vào năng lực của guồng máy thiên nhiên một năng lực của khối óc tạo ra hỗn loạn, hiềm khích, tranh chấp giữa con người và con người.

    Bởi vậy, khi khảo sát về sự mâu thuẫn giữa con người và con người, ngoài yếu cố tất yếu của thiên nhiên, chúng ta còn phải nói đến yếu tố phát triển của khối óc con người nữa. Chính khối óc con người mới là khả năng phức tạp trong guồng máy xã hội.

    Khối óc đã biến qui luật mâu thuẫn thiên nhiên thành qui luật mâu thuẫn của con người. Bởi vì, nếu con người không có khối óc, không đem khối óc ấy pha trộn vào lẽ sống thì xã hội loài người chẳng qua cũng chỉ như xã hội của muôn loài sinh vật khác, không hơn không kém. Sự khôn ngoan của con người đã đem đến cho họ năng lực bảo tồn lẽ sống, đồng thời cũng đem đến cho họ những nguy hiểm của sự khôn ngoan trong phạm vi tranh đấu tự tồn ấy. Vậy, mâu thuẫn giữa con người và con người mà chúng ta cần nói ở đây là phần đấu tranh của khối óc. Nói cách khác, là sự cọ sát giữa cái khôn ngoan của con người trong phạm vi vị kỷ.

    Vị kỷ? Chỉ hai tiếng ấy chúng ta cũng đủ hình dung một năng lực chất chứa trong xã hội loài người rồi. Nó là nguồn gốc phát sinh và hủy diệt, đưa con người vào quĩ đạo xâu xé, tranh đoạt.

    Các nhà đạo đức học đã đem tình thương và ý thức vị tha chống lại, cố làm giảm bớt cường độ xâu xé và tranh đoạt ấy. Tuy nhiên tham vọng cá nhân con người không cho phép bộ óc họ cởi bỏ những cái khôn ngoan luôn luôn nảy nở không đồng đều.

    Thật vậy, nếu mỗi bộ óc con người đem đến cho mỗi cá nhân một mức độ phát triển tương đương thì có lẽ loài người không đến nỗi dẫn cuộc sống họ vào trạng thái thảm khốc, bi đát. Sự khôn ngoan chênh lệch đã khiến con người phát huy ý thức vị kỷ của mình, mà đạo đức, tôn giáo dù có phổ biến đến đâu cũng không sao kềm hãm nổi.

    Từ xưa đến nay, loài người đã tốn biết bao nhiêu giấy mực, bao nhiêu tâm huyết để tách rời cuộc sống con người ra khỏi ý thức vị kỷ, nhưng công việc làm ấy không đem lại kết quả bao nhiêu chỉ vì loài người không có cách nào làm cho trí khôn con người nảy nở đồng đều. Yếu tố chênh lệch trong sự hiểu biết con người chính là một khó khăn, mà theo chúng tôi nghĩ, muốn cho xã hội loài người đi đến chỗ nhân đạo, tách rời lòng vị kỷ, thì trước nhất phải thăng bằng trình độ hiểu biết đã. Những tính xấu của con người như: ích kỷ, tham lam, giả dối, độc ác, dua nịnh, phản phúc. Sở dĩ được nảy nở cũng chỉ vì trình độ hiểu biết của mỗi cá nhân trong xã hội bị chênh lệch mà thôi.

    Người này bị kẻ kia lừa dối chỉ vì người này kém hiểu biét hơn. Dân tộc này bị dân tộc khác đô hộ chỉ vì dân tộc này kém khôn ngoan hơn. Ngược lại, những kẻ có ý thức tham lam, giả dối, dua nịnh chỉ vì họ cảm thấy họ đủ tài làm những việc ấy mà kẻ khác không đủ khôn ngoan để hiểu biết hành động của họ. Nói cách dễ hiểu, khi ý thức lừa đảo của mình bị kẻ khác khám phá (tức cũng đủ khôn ngoan) thì mình không dám giở thủ đoạn nữa. Đó là luật thăng bằng giữa mâu thuẫn vậy.

    Nhưng, nói chung, mọi tính xấu trong con người ai cũng ghét, mà trái lại, ai cũng làm. Đó là điều mâu thuẫn, mà căn nguyên đều do lòng vị kỷ cả.

    Những tính xấu ấy đã phát hiện từ xã hội ngàn xưa, đưa vào tâm tư con người một bất mãn, cay đắng: bất mãn giữa con người ta con người.

    Ở đây, chúng ta thử đem trạng thái bất mãn ấy chứng minh qua một số ca dao:

    I) Ích kỷ:

    Ích kỷ tức là vị kỷ. Nó nằm trong tính chất tự tồn. Mỗi chúng ta đều cảm thấy nó khi chúng ta bị thiệt thòi. Chúng ta muốn đem lại cho chúng ra nhiều thụ hưởng mà chúng ta bị thiếu thốn. Vậy ích kỷ là lòng thương mình, thương thân phận cá nhân mình hơn thân phận kẻ khác.

    Người bình dân cũng đã thấy trạng thái của nó qua tâm tư họ, như:

    Một mai cúc ngã lan quì,

    Bậu lo thân bậu, lo gì thân qua!

    Khi mỗi cá nhân đứng trước một khả năng thụ hưởng bao giờ cá nhân ấy cũng nghĩ đến quyền lợi của họ trước hết. Chính đó là lòng ích kỷ mà con người cảm thấy như là một tật xấu. Nhưng nếu xét cho cùng thì ích kỷ là năng lực của mỗi cá thể cần phải có để tự bảo vệ cái sống của mình. Chẳng những đối với con người mà đối với vạn hữu cũng vậy, mỗi sinh vật đều chất chứa bên trong một năng lực tự tồn, nhờ năng lực ấy mỗi cá thể tránh được trạng thái tự diệt trong sức tranh đoạt của vạn hữu. Vậy ích kỷ theo đúng nghĩa của nó không phải là xấu. Cái xấu của con người nằm trong ý thức tham vọng, bất công. Bởi vì, con người dùng bộ óc để bảo vệ lẽ sống, thì con người cũng lại dùng bộ óc để mưu đồ tham vọng cá nhân của mình.

    Ví dụ như người bình dân thời xưa đã than thở:

    Tiếc công xúc tép nuôi cò,

    Mai sau cò lớn, cò dò, cò bay.

    Thì đó không phải họ tiếc con cò. mà chính họ hờn trách con cò đã đặt tham vọng vào đời sống của nó. Nó đã được sống ấm no trong tay người nuôi dưỡng, lại còn thèm muốn những cảnh sung sướng khác hơn.

    Cũng như:

    Của mình, mình giữ bo bo,

    Của người thì thả cho bò nó ăn.

    Thì đó cũng do tham vọng của con người tạo ra tánh ích kỷ. Nhưng tánh ích kỷ con người rất phức tạp. Từ chỗ thương thân bảo tồn lẽ sống đi dần đến chỗ mất hẳn tình thương đối với kẻ khác, như:

    Ông chết thì mặc thân ông,

    Bà tôi sắp sửa lấy chồng hôm nay.

    Bà chết thì thiệt thân bà,

    Ông tôi sắp sửa lấy ba nàng hầu.

    Hoặc:

    Thế gian giúp miệng lao xao,

    Ai cho đồng nào mà đỡ khó khăn.

    Từ chỗ thương thân mình, lo lắng cho thân mình, tính ích kỷ của con người dần dần tách rời tình thương giữa cá nhân này đối với cá nhân khác, mà những triết lý vị tha không thể nào kềm hãm nổi.

    Sở dĩ xã hội loài người từ trước đến nay các nhà đạo đức học đem thuyết vị tha làm phương châm cho lẽ sống cũng chỉ vì muốn cởi bỏ tánh vị kỷ của con người. Nhưng khổ thay, phần căn bản của tính ấy lại nằm trong qui luật tất yếu của vạn hữu. Mỗi cá thể trong vũ trụ cần phải có khả năng tự vệ, tự tồn. Chính khả năng ấy tạo thành qui luật biến động và sinh diệt trong vũ trụ. Khi đã là qui luật tất yếu của vũ trụ thì bộ óc con người, sản phẩm của vũ trụ, làm gì có thể cải biến được.

    Từ chỗ căn bản, phát xuất do qui luật thiên nhiên ấy, con người đem bộ óc khôn ngoan của mình phổ biến vào, đưa qui luật vị kỷ của cá thể chui vào một địa hạt mới: địa hạt ích kỷ với tính chất phức tạp của khối óc.

    Xã hội Việt-nam thuở xưa, sống dưới guồng máy phong kiến, quyền lợi vua chúa được tôn trọng tuyệt đối. Thần dân trong chế độ phong kiến được xem như của riêng của nhà vua. Vậy, tổ chức phong kiến là một tổ chức vị kỷ, bắt buộc mọi người phải hy sinh cho một nhóm gia đình vua chúa, mà thuyết Khổng Mạnh cho đó là “sùng thiên mệnh” tức là hợp với lẽ sống thiên nhiên.

    Một mặt Nho giáo hô hào dân chúng phụng sự cho nhóm người vua chúa, một mặt Nho giáo lại bắt dân chúng phải vị tha, tức là hy sinh quyền lợi cá nhân mình để phụng sự cho lẽ sống riêng rẽ của nhóm vua chúa. Như vậy, giáo lý vị tha của Khổng Mạnh, bản chất lại mâu thuẫn, không phù hợp với tác động thăng bằng trong lẽ sống thiên nhiên. Lẽ sống thiên nhiên không bắt buộc một cá thể nào trong vạn hữu phải hy sinh để phụng sự riêng rẽ cho một cá thể nào cả. Nếu mỗi cá thể phải đi đến chỗ diệt vong cũng chỉ vì để thăng bằng guồng máy sinh tồn của vũ trụ mà thôi.

    Bản chất vị tha của Nho giáo vì thế không tồn tại, mặc dù trong thời gian nào đó, sức mạnh của Nho giáo đã chi phối ít nhiều bộ óc con người đương thời và bảo vệ guồng máy phong kiến, song cuộc sống con người không thể kềm hãm mãi trong khuôn khổ bất công. Trạng thái mâu thuẫn trong tính chất vị kỷ bắt buộc bộ óc con người phải tranh đấu và phá vỡ những độc tài, chế ngự, giam hãm, biến guồng máy xã hội thành một vũ trường để đấu nhau bằng những mánh khóe xảo quyệt, khôn ngoan của bộ óc.

    Riêng các tôn giáo, từ xưa đến nay vẫn đem đạo lý phổ theo đời sống xã hội loài người. Không một tôn giáo nào không thấy lòng vị kỷ của con người là nguyên nhân căn bản đưa loài người đến thảm trạng tương tàn tương hại. Tuy nhiên, mọi giáo lý vị tha của các tôn giáo vẫn chỉ giữ được vai trò của một kẻ đồng hành để an ủi những mảnh tâm hồn đau khổ vì bị loại ra khỏi đấu trường. Nói cách khác, chúng ta có thể ví cuộc sống loài người như một cuộc đua xe đạp, họ cố tranh nhau để vượt lên, họ không thương những kẻ vấp ngã, trái lại, họ cần nhiều vấp ngã ấy để họ xây chiến thắng. Thì tôn giáo chính là những chiếc xe Hồng-thập-tự theo dõi vòng đua để chấp nhặt những kẻ chiến bại mà băng bó, vỗ về. Cuộc đua càng gay gắt, con đường càng gồ ghề, khúc khuỷu thì trên xe Hồng-thập-tự càng đông khách.

    Bởi vậy, đời sống con người coi tôn giáo như chiếc xe Hồng-thập-tự chạy kèm theo vòng đua.

    Nếu bộ óc con người sáng chế ra những tài năng, thì lòng ích kỷ của con người cũng không có giới hạn. Lòng ích kỷ ấy bắt đầu từ trạng thái bảo vệ chính đáng đi dần đến chỗ vì thương mình mà không thương người, rồi lại tiến đến chỗ vì quá thương mình mà giết người.

    Ví dụ:

    Yêu nhau yêu cả bàn chân.

    Ghét nhau ghét cả tông nhân họ hàng,

    Khi thương thì ngóng trông làu lạu,

    Khi ghét nhau mặt quạu làm ngơ.

    Yêu nhau thì nói quá ưa,

    Ghét nhau, nói thiếu nói thừa như không.

    Con người tại sao lại có chuyện thương ghét? Thương ghét phát xuất từ lãnh vực tình cảm. Tuy nhiên, không phải tình cảm con người bỗng dưng nổi dậy một cách vô lý. Tình cảm bao giờ cũng bắt nguồn từ một nguyên nhân. Nguyên nhân ấy chính là lòng vị kỷ. Bởi vậy chúng ta không bao giờ thương một kẻ làm hại chúng ta, cũng không bao giờ ghét một kẻ làm lợi chúng ta.

    Lòng vị kỷ con người tiến đến chỗ thương, ghét, nhưng không phải chỉ có thế, nó còn tìm cách làm hại những kẻ bị ghen ghét nữa, mà người xưa đã từng nói “ích kỷ hại nhân”.

    Đó là những hành động phũ phàng của con người, mà trong ca dao thời xưa, người bình dân Việt-nam đã mô tả những đau đớn ấy như những tiếng rên than bất diệt.

    Ví dụ:

    Sông sâu còn có kẻ dò,

    Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.

    Vô duyên ghét kẻ có duyên,

    Không tiền ghét kẻ có tiền cầm tay.

    Cóc chết bao thuở nhái rầu,

    Ễnh ương lớn tiếng nhái bầu dựa hơi,

    Lòng ích kỷ xóa bỏ mọi công bằng trong xã hội. Kẻ ích kỷ bao giờ cũng nhìn thấy cái tốt của mình mà không thấy cái tốt của kẻ khác, cũng như họ chỉ thấy cái xấu của kẻ khác mà không thấy cái xấu của mình.

    Người bình dân thời xưa đã chứng minh:

    Chân mình thì lấm mê mê,

    Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.

    Lươn ngắn mà chê lạch dài,

    Thờn bơn méo miệng, chê trai lệch mồm.

    Nói người chẳng gẫm đến thân,

    Thử rờ lên gáy xem gần hay xa.

    Lòng ích kỷ chẳng những làm cho con người mù quáng trước lẽ phải, trước sự công bằng, mà còn biến con người trở thành những con vật mang nhiều tính nết xấu xa nhất đối với nhân đạo. Những tính xấu như giả dối, tham lam, độc ác, dua nịnh, phản phúc đều do lòng ích kỷ mà ra cả. Nó là biến thái của tính ích kỷ.

    a) Giả dối:

    Tại sao con người lại giả dối?

    Thật chẳng có gì khó hiểu. Nó chỉ là sản phẩm của khối óc, do trí thông minh của con người mà ra. Vũ trụ tạo cho con người một năng lực hiểu biết để làm chủ muôn vật trên quả đất, nhưng vũ trụ lại bắt con người phải sống trong vòng định luật của thiên nhiên, nghĩa là phải tranh đấu tự tồn, do đó, khối óc con người phải lệ thuộc vào cuộc sống con người. Khi đã lệ thuộc vào cuộc sống, khối óc trở nên phức tạp. Nếu có những kẻ dùng trí thông minh hiểu biết của mình để khai phá, tìm hiểu cơ năng vũ trụ, giúp cho đời sống có đủ tiện nghi, sung túc, thì họ lại dùng nó đi lừa gạt đồng loại, tranh đoạt lẽ sống thường ngày. Vậy giả dối là năng lực của khối óc, tranh đấu cho tính chất vị kỷ. Nó cũng là sự cọ xát về khả năng khôn ngoan của bộ óc, biến cuộc sống con người thành đấu trường. Nếu con người không vị kỷ thì chẳng cần giả dối để làm gì. Mà đã có người giả dối tất kẻ khác bắt buộc phải đề phòng. Trình độ giả dối con người lại không đứng yên một chỗ, nó tiến triển theo sự khôn ngoan của khối óc con người tùy từng thời đại.

    Người bình dân thời xưa tuy sống trong hiền lành, chất phác, sự giả dối không sâu sắc như ở thế hệ chúng ta, tuy nhiên, khi bộ óc con người đã lệ thuộc vào lẽ sống, tâm tư con người đã phát khởi từ lòng vị kỷ thì dù thời đại nào, thế hệ nào, tính chất giả dối vẫn là điều đã cho loài người phải xót xa, thống khổ, hờn trách.

    Đây, chúng ta thử nhìn vào trạng thái nghi hoặc của họ:

    Dò sông dò bể dễ dò,

    Nào ai lấy thước mà đo lòng người.

    Lòng người thăm thẳm mù khơi,

    Không bờ không bến biết nơi nào dò.

    Chính người xưa cũng đã tìm thấy trong thâm tâm con người như một đại dương mù mịt. Nhưng đại dương còn có đáy, bộ óc con người còn có thể khám phá được, còn lòng người thì u tối, không biết chiều sâu bao nhiêu, đến nỗi bộ óc con người cũng đành thúc thủ.

    Nói như thế cũng có nghĩa là người bình dân đã cho ta thấy bộ óc con người có thể khám phá cơ năng vũ trụ, nhưng không thể khám phá cơ năng của khối óc, bởi vì long người chính là hiện tượng cơ năng của khối óc. Đem khối óc khám phá khối óc là điều không thể làm được. Túi khôn của con người là một hiện tượng “ma quái” luôn luôn chui vào bề sâu của “đáy huyệt” vô hình. Ở đấy nó biến hóa thiên hình vạn trạng, mà loài người càng theo đuổi nó thì nó càng tỏ ra một năng lực phi thường, để rồi không còn ai hiểu được nó là cái gì, hình dạng ra sao nữa? Chúng ta chỉ còn thấy ở con người những hình hài giả tượng, mà từ trước đến nay chúng ta phải luôn luôn đi tìm chân tướng đích thực của nó.

    Những gì chúng ta than phiền, trách móc, oán ghét giữa con người và con người cũng chỉ vì chúng ta bị lầm lạc hình hài giả tượng ấy.

    Và đây, là điển hình một lầm lạc:

    Mình nói dối ta mình chửa có chồng,

    Để ta mang cốm mang hồng sang sêu.

    Ta sang mình có chồng rồi,

    Để cốm ta mốc, để hồng long tai.

    Ngỡ là long một long hai,

    Ai ngờ long cả trăm hai quả hồng.

    Cái gì buộc con người phải phỉnh phờ giả dối như vậy nếu không do lòng vị kỷ.

    Lòng vị kỷ không thương đến ai cả, chỉ làm sao thỏa mãn được tham vọng cá nhân. Do đó, dù kẻ khác có thiệt thòi mà đem lại quyền lợi cho họ, họ vẫn làm. Từ chỗ mưu cầu quyền lợi cá nhân họ đi đến chỗ giả dối, lừa gạt.

    Đây là một diễn biến bắt đầu:

    Anh về rẫy vợ anh ra,

    Con anh thơ dại thì đà có tôi.

    Nhưng đến lúc:

    Anh đà rẫy vợ anh rồi.

    Thì:

    Con anh thơ dại, mặc trời với anh.

    Vì mưu cầu quyền lợi cá nhân mà con người sinh ra tính giả dối, lừa đảo như vậy, cho nên trong cuộc sống con người tự mình bắt buộc phải đề phòng. Họ nghi ngờ tất cả hành động của con người trước lẽ sống.

    Họ khuyên:

    Chớ nghe quân tử ỉ òn,

    Mà rồi có lúc ẵm con một mình!

    Làm sao không nghi ngờ được khi trí khôn con người càng điêu luyện thì cái bề ngoài con người càng khác biệt với lòng chân thật của họ. Họ cố tình làm cho kẻ khác lầm lạc để họ hưởng lợi. Hình dáng bên ngoài không còn là hình dáng đích thực của con người mà nó trở thành quái tượng của ý thức đấu tranh cơm áo. Chính người xưa cũng đã trông thấy quái tượng ấy xuất hiện một cách đáng sợ mà họ đã vẽ lại trong những câu ca dao như:

    Khen ai khéo tạc bình phong.

    Bên ngoài long, phụng, trong lòng gạch vôi.

    Cái tốt bên ngoài chỉ để che đậy cái xấu bên trong. Con người càng xấu thì lại càng làm bên ngoài cho thật tốt để kẻ khác lầm lạc không thấy cái xấu của mình. Đó chính là trình độ kỹ thuật của kẻ giả dối dùng để che đậy. Cho nên con người có quyền nghi ngờ và đề phòng:

    Nghe anh được lúc bấy giờ,

    Mai sau trứng nước con thơ ai nhìn?

    Anh đừng rơi nước mắt ớt,

    Mà đừng rớt nước mắt gừng.

    Nhơn duyên ông trời định nửa chừng thì thôi!

    Qua mấy do ca dao ấy chúng ta thấy rõ tâm tư người bình dân thời xưa cũng đã đau đáu với trạng thái giả dối của con người không ít. Bởi vậy, cuộc sống của họ bắt đầu có kinh nghiệm đối phó, như:

    Thức đêm mới biết đêm dài,

    Ở lâu mới biết ai ai bạc tình.

    Thử lòng quân tử mà chơi,

    Thử lòng quân tử xem vơi hay đầy.

    Mình rằng: “Mình muốn lấy ta”.

    Ta đi xuống thợ mua gà xem chân,

    Một chân xem cửa xem nhà,

    Một chân xem lứa bạn ta thế nào?

    Xấu dao cắt chẳng móng gừng,

    Đó thương dối dối, dãy cũng mừng sơ sơ
     
  16. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Trên đây là những ý thức của con người bình dân khi phải đương đầu với mọi giả dối trong cuộc sống. Tuy nhiên, họ đã thấy cái gì bên ngoài của con người chỉ là ảo tưởng thì dù có đem kinh nghiệm hiểu biết của họ để đối phó cũng không thể đưa con người trở về hoàn toàn với chân tướng. Cho nên cuộc sống cứ lần lần đẩy con người vào trạng thái gạt gẫm, vì chính họ phải bất mãn, phỉ nhổ:

    Thói đời hay chọn bề ngoài,

    Nào ai, ai đã biết hơn ai hơn nào.

    Màn treo, chiếu rách cũng treo,

    Hương xông nghi ngút, củi rìu cũng xông.

    Trông anh như thể sao mai,

    Biết rằng trong có như ngoài hay không?

    Ở xa anh tưởng là tiên,

    Đến gần mới biết thuyền quyên lộn chồng.

    Và có lúc họ châm biếm:

    Bắc thang lên tận cung mây.

    Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời.

    Cuội nghe thấy nói Cuội cười,

    Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc cây.

    Hoặc:

    Ai mà phụ nghĩa quên công,

    Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.

    Hay:

    Rồng nằm bể cạn phơi râu,

    Mấy lời anh nót giấu đầu hở đuôi.

    Mướp đắng đã có mạt cưa,

    Bố bây hay lừa đã có mẹ bây.

    Nhìn chung qua ca dao, chúng ta thấy rõ người bình dân thời xưa rất bất mãn với trạng thái giả dối trong xã hội loài người. Họ là những nạn nhân bị cuộc sống đa diện của khối óc con người lôi cuốn, mà họ là kẻ bị nhiều phỉnh phờ nhất.

    3) Độc ác:

    Nếu giả dối là trạng thái biến động của khối óc con người mưu tìm lẽ sống trong phạm vi ích kỷ thì độc ác chính là trạng thái biến động của tình cảm, khi tình cảm bị lẽ sống cám dỗ.

    Lòng vị kỷ đưa con người tè thương đến ghét và liếp tục diễn biến tai hại hơn nữa là độc ác. Vậy độc ác cũng phát xuất từ lòng vị kỷ. Nhưng, khi nói đến độc ác thì chúng ta nghĩ ngay đến lãnh vực tình cảm con người.

    Bởi vì, nếu không đặt vấn đề tình cảm thì độc ác không còn ý nghĩa nữa.

    Vũ trụ sinh ra vạn hữu, nhưng vũ trụ cũng bắt vạn hữu phải gánh chịu những tai ương trong qui luật mâu thuẫn và sinh diệt. Riêng đối với loài người, vũ trụ cũng đem đến những phong ba bão tố, những cảnh chết chóc hãi hùng mà con người phải đem trí óc thông minh để chống lại thiên nhiên, bảo tồn lẽ sống, vậy chúng ta không thể bảo vũ trụ độc ác với loài người, vì đó là qui luật chung cho vạn hữu. Đối với loài vật, các thú dữ lúc nào cũng lăm le tiêu diệt sinh mệnh của loài thú nhỏ hơn để nuôi sống, vậy loài vật cũng không là độc ác, vì đó là qui luật sinh tồn.

    Nhưng, khi loài người giết nhau để cướp giật lẽ sống, tranh đoạt nhau để mưu sinh, chúng ta cảm thấy con người độc ác. Tại sao?

    Đó chỉ vì con người tự cho mình là một sinh vật có khối óc thông minh, có một tình cảm tế nhị hơn muôn loài vạn vật. Lẽ ra chúng ta phải dùng khối óc ấy, tình cảm ấy đã thương yêu đùm bọc lấy nhau, tổ chức một cuộc sống dựa trên tinh thần tương thân tương trợ, thì chúng ta lại dùng sự thông minh hiểu biết của chúng ta để chém giết lẫn nhau, làm hại lẫn nhau. Đó chính là sự độc ác mà loài người nói đến. Bộ óc con người càng khôn ngoan thì trạng thái độc ác của xã hội loài người càng khốc liệt.

    Đem hai cuộc chiến tranh làm ví dụ:

    Ngày xưa tuy con người cổ lổ, dã man, song họ giết nhau chì bằng gậy gộc, tầm sát hại không bao nhiêu. Ngày nay chúng ta văn minh hơn, chế ra tàu bay, bom đạn, một tiếng nổ có thể giết hàng loạt người. Như vậy, cái độc ác của loài người không còn nằm trong qui luật sinh diệt của thiên nhiên, mà nằm trong trạng thái tiến triển của khối óc.

    Không phải đến ngày nay chúng ta mới thấy yếu tố độc ác con người nảy sinh do khối óc mưu đồ việc tranh đoạt mà chính người xưa cũng đã nhận thấy điều đó. Cho nên họ đã phản ảnh qua ca dao:

    Sông sâu còn có kẻ dò.

    Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.

    Nếu sự giả dối của con người diễn biến qua thiên binh vạn trạng, thì lòng độc ác con người cũng phức tạp vô cùng, không phải chỉ đóng khung trong hành động chém giết, mà nó rải rác bàng bạc trong mọi lãnh vực của cuộc sống.

    Ở đây chúng ta thử soát xét qua một số ca dao của người bình dân thời xưa để chứng minh lòng độc ác con người qua mọi lãnh vực ấy.

    Trước hết, trong lãnh vực tình yêu, chúng ta thấy:

    Con của anh không sợ, anh sợ con còng,

    Người du côn anh không sợ, anh sợ gái hai lòng hại anh.

    Lòng độc ác con người không phải lúc nào cũng biểu tượng bằng hung dữ, đôi khi nó ẩn nấp trong những cử chỉ dịu dàng, lả lướt, êm cả, mà con người không sao đề phòng được. Truyện Kiều, Nguyễn Du diễn tả cái độc ác của Hoạn-Thư trong tính chất ghen tuông chính là cái độc ác của trường hợp này. Người bình dân tuy hiền lành, chất phác, song không phải vì hiền lành chất phác mà tâm tư họ không tìm thấy những trạng thái độc ác như vậy:

    Anh thấy em nhan sắc, anh bắt rùng mình,

    Nổi xung gan thì có, thuận nhơn tình thì không.

    Thì rõ ràng họ đã có một nhận xét tinh vi lòng dạ con người. Sự độc ác không thể ẩn núp trong cái đẹp mỹ miều mà làm họ mù quáng được. Ngày nay chúng ta khám phá ra những tư tưởng lạ, như:

    Hồng nào hồng chẳng có gai.

    Hoặc:

    Một hai nghiêng nước nghiêng thành,

    Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.

    (Kiều)

    Mà chúng ta cho là mới mẻ, thì chính người bình dân thời xưa đã tìm thấy rồi.

    Lòng độc ác con người có lúc lại ẩn núp trong cái vỏ đạo đức, mà người bình dân đi khám phá ra được, như:

    Tiếng đồn cha mẹ anh hiền,

    Cắn cơm không bể, cắn tiền bể hai.

    Hoặc:

    Ngoài miệng thì niệm Nam mô,

    Trong lòng thì chứa một bồ dao găm.

    Những tính xấu có lúc lại liên kết với nhau theo trình độ khôn ngoan của bộ óc con người, ví như trên đây là trường hợp sự độc ác liên kết với sự giả dối, lừa gạt.

    Cũng như:

    Đi lên đi xuống bờ dừa,

    Lấy ai có chửa, đổ thừa cho tôi.

    Chúng ta không thể nào kể hết những trạng thái ác độc của con người khi nó uốn nắn theo trí khôn hòa vào lẽ sống.

    Để kết luận, chúng ta có thể tóm lược một cách đại khái là dù tính cách độc ác thế nào cũng đều phát xuất nơi lòng vị kỷ của con người mà ra. Chính lẽ sống con người đã tạo nên nó và biến nó thành sự mâu thuẫn giữa con người và con người.

    4) Tham lam:

    Tính tham lam con người cũng do lòng vị kỷ mà có. Nếu không vị kỷ thì chẳng cần tham lam làm gì! Cuộc sống loài người càng văn minh tiến bộ, lòng vị kỷ càng nhiều. Đáng lẽ phải hưởng thụ theo mức sống bình thường, con người lại đòi hỏi một sự hưởng thụ vượt ngoài khả năng cung cầu giữa con người và cuộc sống. Chúng ta cứ tưởng trí óc con người đem đến cho đời sống con người những phương tiện dồi dào thì lòng vị kỷ con người sẽ giảm thiểu, và ý thức tham lam cũng nhờ đó mà hủy diệt dần.

    Nhưng không, nếu con người đã có trí khôn, biến cải xã hội, thì trí khôn con người cũng lại thúc đẩy con người tìm kiếm những mục tiêu hưởng thụ tuyệt đỉnh, mà mức tham vọng của hưởng thụ chẳng bao giờ được thỏa mãn.

    Thế giới loài người từ lúc sơ khai đến nay trải qua một lớp thời gian dày dặc, trong đó bộ óc con người đã kiến tạo lịch sử xã hội, đưa xã hội loài người từ hoang sơ cổ lỗ đến nếp sống văn minh. Tuy nhiên, trên dòng lịch sử tiến bộ của loài người vẫn nằm trong cái vòng luẩn quẩn.

    Trở về với người xưa, chúng ta thấy mặc dù thế giới hoang sơ của họ không có gì văn minh, song lòng tham vọng của họ không quá quắt như chúng ta ngày nay. Cho nên, lòng tham của con người đi đôi với đà tiến triên của khối óc, mà mỗi thời tính chất mỗi khác.

    Dù vậy, bất kỳ ở thế hệ nào, thời gian nào, tính tham lam của con người cũng là trạng thái gây mâu thuẫn trong lẽ sống giữa con người và con người.

    Người bình dân thời xưa cũng đã thống trách tính chất tham lam của con người qua các câu ca dao, như:

    Một nhà hai chủ không hòa.

    Hai vua một nước ắt không yên.

    Quyền lợi của con người xung đột khởi nguồn từ tham vọng, và tham vọng đã đưa con người vào đường xấu xa, mất cả nhân tính.

    Ví dụ:

    Chim quyên nó đậu bụi riềng,

    Dẫu bà con ruột không tiền cũng xa!

    Lòng tham vọng xuất phát từ ý thức vị kỷ. Đã vị kỷ thì không còn biết nghĩ đến những thiệt thòi, đau đớn của kẻ khác. Cho nên có những hành động sau đây, chúng ta cũng chẳng lấy gì làm lạ:

    Thôi thôi, buông áo em ra,

    Đặng em đi bán kẻo hoa em tàn.

    Có nên thì nói rằng nên,

    Chẳng nên sao để đấy quên đây đừng.

    Làm chi cho dạ ngập ngừng,

    Đã có cà cuống thì đừng hạt tiêu.

    Làm sao bảo họ dừng được khi lòng tham thúc giục hộ phải chiếm đoạt để thụ hưởng, bất chấp những thiệt thòi của kẻ khác.

    Nhưng nếu lòng giả dối, độc ác của con người phát hiện bằng nhiều hình thái thì lòng tham vọng của con người cũng chẳng phải đóng khuôn vào một bộ mặt nào nhất định. Nó cũng biến hóa thiên hình vạn trạng mà người bình dân xưa cũng đã cho chúng ta thấy:

    Giàu sang nhiêu kẻ đến nhà,

    Khó khăn đến phải ruột rà xa nhau.

    Anh em thậm thật là hiền,

    Bởi một đồng tiền làm mất lòng nhau.

    Tham thanh chuộng lạ tham thanh,

    Chè dây quán nát lều tranh không ngồi.

    Lòng tham con người quấy động cuộc sống xã hội, gây mâu thuẫn giữa con người và con người, khiến họ bất mãn, chống đối:

    Chồng ăn chả, vợ ăn nem,

    Đứa tớ có thèm mua thịt mà ăn.

    Chồng đánh bạc, vợ đánh bài,

    Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng!

    Từ ý thức chống đối, người bình dân đã cho tham vọng con người là cái gì xấu xa, nên họ châm biếm:

    Của chua ai thấy chẳng thèm,

    Em cho chị mượn chồng em ít ngày,

    Chồng em nào phải trâu cày,

    Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm!

    Chửa quen đi lại cho quen,

    Tuy rằng cửa đóng mà then không cài.

    Kẻ khinh người trọng vãng lai,

    Song le cũng chửa có ai bằng lòng.

    Thói đời chuộng của chuộng công,

    Nào ai có chuộng người không bao giờ.

    Đĩ dại làm hại thằng tù,

    Nó cho cái kẹo, nó cù cả đêm.

    Mọi ý thức vị kỷ đều gieo vào cuộc sống loài người những mâu thuẫn. Nhưng vì xã hội thời xưa, trí khôn con người chưa đạt đến chỗ tinh vi, xảo quyệt như ngày nay, nên trạng thái mâu thuẫn chưa mấy sâu sắc.

    5) Dua nịnh:

    Dua nịnh cũng phát xuất từ ý thức vị kỷ mà thời nào cũng có. Nếu giả dối chỉ mới là trạng thái thông thường trong lãnh vực xảo quyệt thì dua nịnh chính là hành động tế nhị của óc con người khuynh đảo mọi trí khôn của kẻ khác.

    Trong lãnh vực này, người dua nịnh phải là kẻ có một trình độ tâm lý cao hơn, biết lợi dụng sở thích của kẻ khác đã làm cho họ thỏa mãn.

    Kẻ dua nịnh bao giờ cũng bám vào những người có quyền hành, thế lực, để mưu đồ lợi riêng. Vì vậy, người bình dân, lớp người nhỏ bé nhất trong mọi giai cấp xã hội, rất ghét những phường ấy.

    Trong ca dao Việt-nam, chúng ta thay có rất nhiều câu khinh bỉ. Ví dụ:

    Dạ trước mặt, trổ c… sau lưng,

    Hoặc:

    Khi chưa câu, lụy trăm đàng,

    Được rồi thì lại phụ phàng làm ngơ.

    Tính dua nịnh của con người nếu làm cho kẻ được dua nịnh ưa thích thì trái lại người ngoài cho đó là một ý thức đê hèn. Vì vậy, dua nịnh cũng là trạng thái sinh mâu thuẫn giữa con người và con người trong lẽ sống.

    6) Phản phúc.

    Con người từ dua nịnh đi đến phản phúc. Kẻ phản phúc là kẻ vong ân, bội nghĩa, chối bỏ lòng chung thủy mà tình cảm con người cho đó là trái đạo.

    Sự liên hệ giữa con người trong cuộc sống đem đến những tình thương, những luyến ái, những dây giao cảm. Con người không muốn những yếu tố thiêng liêng ấy bị ruồng rẫy, chối bỏ, khiến cuộc sống loài người trở thành khô khan, vô vị.

    Đời người không những chỉ mưu cầu cho lẽ sống vật chất, mà còn phải chứa đựng những tình cảm về tinh thần. Bởi vậy, trong lúc chúng ta đem bộ óc kiến tạo xã hội. Tìm hiểu cơ năng vũ trụ, sáng chế những phương tiện phục vụ cho cơm áo, thì chúng ta lại cũng đem bộ óc đi tìm ý sống, đem tình cảm rải vào dòng đời, đúc kết thành những chuỗi tâm tư, kiến tạo cho cuộc sống một ngôi nhà tư tưởng. Hai việc làm ấy đi song song với nhau không thể thiếu một.

    Tuy nhiên những mâu thuẫn trong cuộc sống loài người luôn luôn là nguồn gốc đem đến cho con người những xáo trộn. Nếu con người cần đem trí khôn đã kiến tạo xã hội thì con người vì quyền lợi cá nhân lại đem trí khôn phá phách những sự nghiệp do chính mình đã tác thành. Nếu con người cần đem tâm tư gieo vào lòng đời đúc thành một ngôi nhà lý tưởng của nhân loại, bảo vệ những mối giao cảm về tinh thần, thì chính con người lại vì quyền lợi cá nhân dứt bỏ, phá phách ngôi nhà ấy. Sự mâu thuẫn giữa tác thành và phá phách luôn luôn chống đối nhau. Cho nên, nếu đứng về phương diện cá nhân thì những mâu thuẫn ấy là tất yếu, không có gì đáng nói, nhưng nếu đứng về phương diện tập thể trong xã hội, thì những hành động cá nhân, vị kỷ thật đáng trách. Con người khác với muôn vật, không phải chỉ biết có cá nhân, mà trong cá nhân phải có tập thể, trong tinh thần tự tôn phải có tinh thần bảo vệ xã hội.

    Chính vì quan niệm như vậy, người bình dân thời xưa đã chống lại mọi tâm tư và hành động phản phúc, chống lại những kẻ đã vì quyền lợi cá nhân dứt bỏ những cái gì thiêng liêng, cao quý mà đối với tình cảm con người cần phải được bảo tồn trong lẽ sống. Cái thiêng liêng cao quí ấy là tình thương đồng loại.

    Những kẻ thiếu tình thương đều bị lớp người bình dân thống trách, như:

    Uổng công xúc tép nuôi cò,

    Cò ăn mau lớn, cò dò cò bay,

    Lẽ sống của loài người, nếu bứt bỏ tình thương thì xã hội sẽ trống rỗng. Nếu cơm áo đã nuôi dưỡng thể xác con người, thì tình thương, sự chung thủy, chính là những món ăn tinh thần đem đến cho loài người ý nghĩa thanh cao của cuộc sống.

    Ai đã sống trong nghèo nàn, khổ nhục đều thấy rõ nguồn ai ủi của tình thương. Người bình dân rất cần tình thương để mà sống, để chiến đấu với mọi khổ cực. Cho nên họ rất ghét những ý thức phản bội, không chung thủy.

    Tâm tư của họ đã giãi bày qua những câu ca dao như:

    Xưa kia ăn những của chồng,

    Kiếm được một đồng, đủng đỉnh ăn riêng.

    Dây nhờ cây, dây lên cao.

    Lên cao dây lại cười sao cây tàn.

    Từ ý thức bất mãn những kẻ phản phúc, họ đi đến ý thức phản đối, thóa mạ, như:

    Trách người quần tử vô danh,

    Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao.

    Tuy rằng ăn ở chùa này,

    Tiền lưng gạo bị cúng thầy chỗ kia.

    Chưa được, khấn bà một trâu,

    Được rồi thì có trâu đâu cho bà.

    Ý thức bất mãn của người bình dân đối với những kẻ phản phúc, không chung thủy, chính là ý thức bảo vệ tình thương, bảo vệ đạo nghĩa. Đạo nghĩa của họ là đạo nghĩa của con người cần phải có trong phạm vi tình cảm. Bởi vậy, chúng ta không lấy làm lạ, khi tâm hồn họ có những hằn học qua các câu ca dao như:

    Mồ cha con bướm trắng,

    Mẹ đẻ con ong xanh!

    Khen ai uốn lưỡi cho anh nói càn.

    Mồ cha con bướm trắng,

    Mẹ đẻ con ong vàng,

    Khen ai uốn lưỡi cho nàng nói chua.

    Công anh bắt tép nuôi cò,

    Bây giờ cò lớn, cò dò lên cây.

    Biết rằng nông nỗi thế này,

    Thì thà đập chết những ngày cò con.

    Có tiền vợ vợ chồng chồng,

    Hết tiền thì lại chồng đông vợ đoài.

    Mồ cha con bướm khôn ngoan,

    Hoa thơm bướm đậu, hoa tàn bướm bay.

    *

    Tóm lại, ý thức mâu thuẫn giữa con người và con người phát xuất từ trạng thái vị kỷ. Lòng vị kỷ của con người biến sinh mọi tính xấu trong đời sống xã hội mà chúng ta vừa lược khảo trên đây. Những tính xấu ấy khi pha trộn vào trình độ xảo quyệt của khối óc, con người tiến dần đến chỗ tinh vi, phát hiện thiên hình vạn trạng.

    Qua bài khảo luận trên, chúng ta đã thấy người bình dân cực lực phản đối mọi ý thức vị kỷ. Họ cố đem lại cuộc sống xã hội loài người một trạng thái thăng bằng, dùng tình thương làm nòng cốt cho lẽ sống. Cho nên tất cả những gì chênh lệch ra ngoài, làm tổn thương đến tình cảm con người đều bị họ đả kích, chê bai, châm biếm. Mà đó cũng chính là nhân sinh quan của họ.
     
  17. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Phần tuyển tập ca dao tiêu biểu cho MÂU THUẪN GIỮA CON NGƯỜI VÀ CON NGƯỜI

    1. Ai lấy, thì lấy giúp.

    Ai không lấy, thì úp một nơi.

    Ai lấy, thì lấy chơi,

    Ai không lấy, thì phơi đầu hàng,

    2. Ai mà nói dối cùng chồng,

    Thì trời giáng hạ cây hồng bờ ao.

    3. Ai mà nói dối cùng ai,

    Thì trời giáng hạ cây khoai giữa đồng.

    4. Ai đem con sáo qua song,

    Cho nên con sáo sổ lồng bay xa.

    5. Ai đưa em đến chốn này,

    Bên kia thì núi bên này thì sông.

    6. Ai trồng cây sen cho nàng ăn quả,

    Ai trồng cây vả cho nàng hái hoa.

    7. Ai rằng ta chẳng khôn này,

    Đến khi nói dại, mặt ngay cán tàn.

    8. Ai mà phụ nghĩa quên công,

    Thì đeo trăm cánh hoa hồng không thơm.

    9. Ai ơi chớ lấy học trò,

    Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm.

    Dài lưng đã có võng điều,

    Tốn vải đã có áo triều vua ban.

    10. Ai có chồng, nói chồng đừng sợ.

    Ai có vợ nói vợ đừng ghen,

    Tới đây hò hát một đôi phen.

    Rạng ngày mai ai về nhà nấy,

    Khá dễ ngọn đèn hai tim.

    11. Anh tưởng chị có tiền đầy của,

    Chị tưởng anh có bạc đầy cong.

    12. Anh như tán tía, tán vàng,

    Em như mảnh chiếu rách nhà hàng bỏ quên.

    Lạy trời cho cả gió lên,

    Cho manh chiếu rách lên trên tàn vàng.

    15. Anh về rẫy vợ anh ra,

    Con anh thơ dại, thì đà có tôi.

    Anh đã rẫy vợ anh rồi,

    Con anh thơ dại, mặc trời với anh.

    14. Anh về rẫy vợ anh ra,

    Công nợ em trải mẹ già em nuôi.

    Anh đã rẫy vợ anh rồi,

    Công nợ anh trả, anh nuôi mẹ già.

    15. Anh chê thuyền thúng chẳng đi,

    Anh đi thuyền ván có khi rập rềnh,

    Ba chìm bảy nổi lênh đênh.

    Em chê thuyền ván chẳng đi,

    Em đi thuyền thúng có khi rập rềnh.

    Có khi đổ ngã, đổ nghiêng.

    16. Áo đen không lẽ đen hoài,

    Mưa lâu cũng nhạt, nắng hoài cũng phai.

    17. Áo mặc chẳng qua khỏi đầu,

    Làm sao mày cũng chẳng hầu khỏi ta.

    18. Áo vá vai vợ ai không biết,

    Áo vá quàng chí quyết vợ anh.

    19. Ăn sung ngồi gốc cây sung,

    Lấy anh thì lấy, nằm chung không nằm.

    20. Ăn trầu thì giở trầu ra,

    Một là thuốc độc, hai là mặn vôi.

    21. Ba cô mà đứng thong dong,

    Tôi lấy cô giữa mất lòng cô bên.

    22. Ba đồng một mớ đàn ông,

    Đem về mà bỏ vào lồng cho kiến nó tha.

    Ba trăm một mụ đàn bà,

    Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi.

    25. Bán hàng ăn những chũm cau.

    Chồng con có biết cơ màu này chăng?

    24. Bánh trăng nhãn đường ngon thật là ngon,

    Đến cơn đánh đòn đau thật là đau.

    25. Bà chết thì thiệt thân bà,

    Ông tôi sắp sửa lấy ba nàng hầu.

    26. Bà khoe con bà tốt,

    Đến tháng mười một bà xem con bà.

    27. Bao nhiêu trai tráng giữa làng,

    Ra đây mà vật có nàng đứng coi.

    28. Bao giờ trạch đẻ ngọn đa,

    Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình.

    Bao giờ cây cải làm đình,

    Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta.

    29. Bao giờ cho chuối có cành,

    Cho sung có nụ, cho hành có hoa.

    Bao giờ trạch đẻ ngọn đa.

    Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình.

    30. Bao giờ rau cải làm đình,

    Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta.

    31. Bắc thang lên hỏi cung mây,

    Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời?

    Cuội nghe thấy nói Cuội cười,

    Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc cây.

    32. Bắp non mà nướng lửa lò,

    Đố ai ve đặng con đò Vàm Nao.

    33. Bấy lâu lên ngọn sông Tân,

    Muốn tìm cá nước phải lần trời mưa.

    Tiếc công anh đắp đập coi bờ,

    Để ai quây đó mang lờ đến đơm.

    34. Bí đao non không ngon lại nấu,

    Thiếp xa chàng tại xấu mai dong.

    Ngó vô cửa sổ năm song,

    Thấy đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng,

    Tại cha tại mẹ phía chàng,

    Cho nên đũa ngọc chén vàng xa nhau.

    35. Biết tay ăn mặn thì chừa,

    Đừng trêu mẹ mướp mà sơ có ngày.

    36. Biết rằng chồng ai vợ ai,

    Bao giờ ra bảng, ra bài ai hay.

    37. Biết nhau tự ấy mà thôi,

    Bây giờ kẻ ngược, người xuôi mặc lòng.

    38. Bốn con ngồi bốn chân giường,

    Mẹ ơi! mẹ hỡi! mẹ thương con nào?

    Mẹ thương con bé mẹ thay!

    Thương thì thương vậy chẳng tài trưởng nam.

    Trưởng nam nào có gì đâu,

    Một trăm cái giỗ đổ đầu trưởng nam.

    39. Bực mình chẳng muốn nói ra,

    Muốn đi ăn cỗ chẳng ma nào mời.

    40. Buồn trông chênh chếch sao mai,

    Sao ơi! sao hỡi nhớ ai sao mờ?

    Buồn trông con nhện vương tơ,

    Nhện ơi, nhện hỡi mày chờ mối ai?

    41. Bớ chiếc thuyền lan!

    Khoan khoan ngớt mái,

    Đặng đó đây tỏ một đôi lời phải trái nghe chơi.

    42. Cá rô tháng tám, chẳng dám bảo ai,

    Cá rô tháng hai, bảo ai thì bảo.

    43. Cách sông nên phải lụy thuyền,

    Những như đường liền ai phải lụy ai?

    44. Cái cò, cái vạc, cái nông.

    Sao mầy giẫm lúa nhà ông hỡi cò?

    Không, không, tôi đứng bên bờ,

    Mẹ con cái vạc đổ ngờ cho tôi.

    Chẳng tin thì ông đi đôi,

    Mẹ con nhà nó còn ngồi đây kia.

    45. Cái cò mầy mổ cái tôm,

    Cái tôm quặp lại, lại ôm cái cò.

    Cái cò mầy mổ cái trai;

    Cái trai quặp lại, lại nhai cái cò.

    46. Cái bống là cái bống bang,

    Con đi lấy sàng cho mẹ đổ khoai.

    Con ăn một, mẹ ăn hai,

    Con đi bốc muối thì khoai chẳng còn.

    47. Cái trai mày há miệng ra,

    Cái cò nó mổ muốn tha thịt mày.

    Cái cò mày mổ cái trai,

    Cái trai quặp lại, muốn nhai thịt cò.

    48. Cái cốc lặn lội qua ngòi,

    Ta chưa lấy nó, nó đòi lấy ta.

    49. Cái cò mầy đi ăn đêm,

    Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.

    Ông ơi! ông vớt tôi nao,

    Tôi có lòng nào, ông hãy xáo măng.

    Có xáo thì xáo nước trong,

    Đừng xáo nước đục, đau lòng cò con.

    50. Cao chê ngổng, thấp chê lùn,

    Gầy chê xương sống, xương sườn lòi ra.
     
  18. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    51. Cậy tài cậy khéo, khoe khôn,

    Đừng cậy có của đa ngôn quá lời.

    Của thời mặc của em ơi,

    Đừng cậy có của coi người mà khinh.

    52. Có ăn thiếp ở cùng chàng,

    Không ăn thiếp tếch, cơ hàn thiếp lui.

    53. Có rồi tất phải đuổi ra,

    Lẽ thường trời đất lẵn là chẳng sai.

    54. Có yêu thời nói rằng yêu,

    Chẳng yêu thời nói một điều cho xong.

    Làm chi dở dục, dở trong.

    Lờ đờ nước bến cho lòng chàng thương.

    55. Có lá lốt tình phụ xương song,

    Có chùa bên bắc bỏ miếu bên đông tồi tàn.

    56. Có ai ta cũng thế này,

    Không aì ta cũng như ngày có ai.

    57. Có trăng tính phụ lồng đèn,

    Ba mươi mồng một đi tìm lấy trăng.

    58. Có tiền vợ vợ chồng chồng,

    Hết tiền thì lại chồng đông vợ đoài.

    59. Có trăng tính phụ lồng đèn,

    Tuy rằng tốt đẹp cũng ra chồng người.

    60. Có người mặt nhọ như niêu,

    Cái răng khấp khểnh chồng yêu lạ lùng.

    61. Con cò, con vạc, con nông,

    Cùng ăn một đồng nói chuyện giăng ca.

    Muối kia đổ ruột con gà,

    Mẹ mình không xót bằng ta xót mình.

    62. Con cò, con vạc, con nông,

    Ba con cùng béo vặt lông con nào.

    Vặt lông con vạc cho tao,

    Hành răm nước mắm bỏ vào mà thuôn.

    63. Con đò bậu chớ nghi ngờ,

    Bậu đưa khách bậu, qua chờ bạn qua.

    64. Con ngồi con khóc nỉ non,

    Mẹ giận mẹ đạp, con bon đầu hè.

    Có đánh thì đánh vọt tre,

    Chớ đánh vọt nứa, nữa què chân con.

    65. Con đĩ đỏng đảnh nấu canh rau dừa.

    Chồng đánh chẳng chừa,

    Đi chợ thì giữ cùi dừa bánh đa.

    66. Con mèo nằm bồ lúa vinh râu,

    Thấy con chuột chạy ngóc đầu kêu ngao.

    67. Con mẹ có thương mẹ đâu,

    Để cho chàng rể nàng đâu thương cùng.

    68. Con cậu, cậu nuôi thầy cho,

    Cháu cậu, cậu bắt chăn bò chăn trâu.

    69. Con thì giống mẹ giống cha,

    Con đâu lại giống lân la xóm giềng.

    70. Con cò bay lả bay la,

    Bay ra cửa bể bay về Đồng-đăng,

    Đồng-đăng có phố Kỳ-lừa,

    Có nàng Tô-thị có chùa Tam-thanh.

    Ai lên xứ Lạng cùng anh

    Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em.

    Tay cầm bầu rượu nắm nem,

    Mảng vui quên hết lời em dặn dò.

    71. Còn tiền còn bạc, còn vợ còn chồng,

    Hết tiền hết bạc, tơ hồng hết xe.

    72. Công anh gánh gạch xây thành,

    Thành giữ cho nước, công anh mấy đồng.

    73. Cú lại chê vọ rằng hôi,

    Giẻ cùi chê khách dài đuôi vật vờ.

    74. Của trời, trời lại lấy đi,

    Giương hai mắt ếch làm chi được trời.

    75. Cũng thì con mẹ, con cha,

    Cành cao vun xới cành la bỏ liều.

    76. Cũng thì con mẹ con cha,

    Con thì chín rưỡi, con ba mươi đồng.

    77. Chẳng thương, chẳng nhớ thì đừng,

    Lại còn đem đổ nước gừng cho cay.

    78. Chẳng được miếng thịt miếng xôi,

    Cũng được lời nói cho nguôi tấm lòng.

    79. Chẳng thèm ăn gỏi cá mè.

    Chẳng thèm chơi với những bè tiểu nhân.

    80. Chẳng thương chẳng nhớ thì thôi

    Cũng được lời nói cho nguôi tấm lòng

    81. Chẳng ưa dưa khú bầu già,

    Trước còn đằm thắm sau ra nhạt nhùng.

    82. Chẳng thương chẳng nhớ thì thôi,

    Lại còn đem đò nước vôi cho nồng.

    83. Chẳng nên gia thất thì thôi,

    Ở làm chi nữa chúng chê bạn cười.

    84. Chân mình những lấm (cứt) mê mê,

    Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.

    85 Chê chồng chẳng bõ chồng chê,

    Chê chồng thì ít, chồng chê thì nhiều.

    86. Chê chồng, rồi lại chồng chê,

    Tôi ăn cho béo, tôi về nhà tôi.

    87. Chết tôi chịu

    Mình đừng bận bậu

    Bớ diệu chung tình!

    Nhạn bay cao khó bắn,

    Cá ở ao quỳnh khó câu.

    Cá ở ao quỳnh, cá ở cũng lâu,

    Mồi ngon thả xuống lâu lâu cũng chìm.

    88. Chì khoe chì nặng hơn đồng,

    Sao chì chẳng đúc nên cồng nên chuông!

    89. Chỉ đâu mà buộc ngang trời,

    Thuốc đâu mà buộc con người lửng lơ.

    90. Chim sa, cá nhẩy, chớ chơi,

    Những người lông bụng chớ chơi bạn cùng.

    91. Chim khôn ai nỡ bắn,

    Người khôn ai nỡ nói nặng.

    92. Chim khôn chưa bắt đã bay,

    Người khôn chưa nắm cổ tay đã cười.

    95. Chim trời, gà cú không chơi,

    Những người lỏng bụng chớ chơi bạn cùng.

    Tiếc công vun quén cây tùng,

    Săm soi trên ngọn gốc sùng không hay.

    94. Chị giàu quần lĩnh hoa chanh,

    Chúng em khốn khó, quấn quanh lụa đào.

    Chị giàu chị đánh cá ao,

    Chúng em khốn khó đi trao cá mè.

    Chị giàu chị lấy ông nghè,

    Chúng em khốn khó đi vào lấy vua.

    95. Chị thời quần lĩnh hoa chanh,

    Chúng em tôi khó quấn quanh lụa điều.

    96. Chị lớn, chị lấy đằng đầu.

    Phận em bé mọn, em hầu đằng trôn.

    - Con nầy nó bét, nó khôn,

    Đằng đầu trơ trẽn, đằng trôn có màu.

    97. Chị gì, chị bị cứt trâu,

    Chị ra đầu cầu, chị ỉa chị ăn,

    98. Chị gì bới tóc cánh tiên,

    Chồng chị đi cưới một thiên cá mòi,

    Không tin dở hộp ra coi,

    Rau răm ở dưới, cá mòi ở trên.

    99. Chị kia có quan tiền tài,

    Có bị gạo nặng coi ai ra gì.

    100. Chị em, nắm nem ba đồng.

    Muốn ăn thì trả sáu đồng mà ăn.
     
  19. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    101. Chị chẳng muốn cho em vàng đùi,

    Em đi mua nghệ em bôi cho vàng.

    102. Chổi cùn cắp nách khăng khăng,

    Hễ ai hỏi đến thì văng nghìn vàng.

    105. Chổi tiên quét sạch chùa vàng,

    Sửa sang ông phật cho nàng đi tu.

    104. Chồng giận thì vợ bớt lời,

    Chồng giận, vợ giận thì giùi nó quăng.

    105. Chồng chung chồng chạ ai khéo hầu hạ thì được chồng riêng.

    106. Chớ thấy áo rách mà cười,

    Những giống gà nòi lông nó lơ thơ.

    Chớ thấy áo dài mà sang,

    Bởi không áo ngắn phải mang áo dài.

    107. Chuối non trổ phải mùa đông,

    Biết rằng có chắc hay không mà chờ.

    108. Chuông khánh còn chẳng ăn ai,

    Huống là mảnh chĩnh ném ngoài bụi tre.

    Chuông khánh còn chửa ăn chè,

    Huống chi mảnh chĩnh rò rè ăn xôi.

    109. Chưa đánh được người mặt đỏ như vang,

    Đánh được người mặt vàng như nghệ.

    110. Chưa mua thì nói rằng hèn,

    Đến khi mua được, vừa khen vừa mừng.

    111. Chơi hoa cho biết mùi hoa,

    Khi tươi thì hái, khi tàn thì quăng.

    112. Dã tràng xe cát luống công,

    Tò vò nuôi nhện há mong cậy nhờ.

    115. Dao vàng bỏ dây kim nhung,

    Biết rằng quân tử có dùng ta chăng,

    114. Dầu ai gieo giếng ngọc,

    Dầu ai đọc lời vàng.

    Trớ trêu khúc Phụng-cầu-hoàng,

    Lòng em không giống như nàng Văn Quân.

    115. Dễ ai đội áo qua cầu,

    Sao không nghĩ trước nghĩ sau cho tày.

    116. Dù chàng năm thiếp bảy thê,

    Cũng không tránh khỏi gái sề này đâu.

    Đàn ông chơi với đàn bà,

    Một trăm gánh đồng đúc chẳng nên chuông

    Đàn bà chơi với đàn bà,

    Một đồng tiền gián đúc ra chuông kềnh.

    118. Đàn ông sâu sắc nước đời,

    Đàn bà cạn tới như cơi ăn trầu.

    119. Đàn ông năm bảy đàn ông,

    Vợ dặn mua hồng lại mua quít non.

    Đàn bà năm bảy đàn bà,

    Chồng dặn mua gà lại mua quốc con.

    120. Đàn bầu mà khảy tai trâu.

    Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi. 

    121. Đắt hàng gặp ả cùng anh,

    Ế hàng gặp những thong manh quáng gà.

    122. Đầu gành có con ba ba,

    Kẻ kêu con trạnh, người kêu con rùa.

    123. Đấy sông, đây cũng mây liền,

    Đấy có một tiền đây cũng sáu mươi.

    124. Đấy vàng đây cũng đồng đen.

    Đấy hoa thiên lý, đây sen nhị hồ.

    Đấy em như tượng mới tô,

    Đây anh như người ngọc họa đồ trong tranh.

    125. Đấy quan đây cũng chín tiền,

    Đấy khoa văn giáp, đây điền có chuôi.

    126. Đèn ai leo lét bên bờ,

    Tưởng đèn người nghĩa ai ngờ đèn ma.

    127. Đèn nhà ai rạng nhà ấy,

    Khách đi qua đường biết đấy là đâu.

    128. Đèn trời, trời sáng bốn phương,

    Đèn tôi sáng tỏ đầu giường nhà tôi.

    129. Đèn treo trong quán tỏ rạng bờ kinh,

    Em có thương anh thì nói thiệt tình.

    Để anh lên xuống một mình bơ vơ.

    150. Đêm qua mận mới hỏi đào,

    Vườn xuân đã có ai vào hái hoa?

    Bông đào chênh chếch nở ra,

    Dang tay muốn hỏi, sợ nhà có cây.

    131. Đêm qua ngỏ cửa chờ ai,

    Đêm nay cửa đóng then gài khăng khăng

    132. Đêm qua chớp bể mưa nguồn.

    Hỏi người trí thức có buồn hay chăng,

    153. Đêm qua chung bóng chung hơi,

    Bây giờ kẻ ngược người xuôi mặc lòng.

    134. Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng,

    Cau khô ăn với trầu vàng xứng không?

    135. Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng,

    Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?

    - Đan sàng, thiếp cũng xin vâng,

    Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng.

    136. Đến đây dầu đói giả no,

    Dẫu khôn giả dại đặng dò ý em.

    137. Đi đâu mà chẳng nằm co,

    Để cho nó đút sừng bò vào sau.

    138. Đò sao đò có không đưa?

    Tại người đi sớm về trưa không chừng.

    139. Đôi ta làm bạn thong dong,

    Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng.

    Bởi chưng cha mẹ nói ngang,

    Để cho mâm ngọc đũa vàng cách xa.

    140. Đôi ta như thể con dao,

    Năng liếc thì sắc, năng chào thì quen.

    141. Đừng chê thiếp vụng thiếp về,

    Có tiền thiếp cũng biết thuê mướn người.

    142. Được bạn thì lại bỏ bè,

    Được con trâu trậm, chê me không cày.

    143. Em chớ thấy anh bé mà sầu,

    Kìa con ong bao nhiêu tuổi nó châm bầu, bầu thui?

    144. Em đừng nói vậy ngu si,

    Bịt chơi cho biết, để họ khi bò rừng.

    145. Em về hỏi mẹ cùng cha,

    Có cho em lấy chồng xa hay đừng.

    146. Em là con gái có chồng.

    Mồ cha những đứa đem lòng nọ kia.

    147. Gái nầy là gái chẳng vừa,

    Gái bán vải tấm, gái lừa vải con.

    Gái nầy là gái chả non,

    Gái lường Chợ Quán, gái buôn Chợ Cầu.

    148. Già thì già tóc già tai,

    Già răng già lợi đồ chơi không già.

    149. Già rồi lận cận bỏ liều,

    Sá chi vú ếch lưng eo sồ sề.

    Chẳng ưa cà chín bầu già,

    Tuổi đà dư lạp lịch đà qua niên.

    Có trăng nên nỗi phụ đèn,

    Chẳng non thể sốt thời liền biến hơi.

    150. Giàu sơn lâm lắm kẻ tìm đến,

    Khó giữa chợ chẳng ma nào nhìn.
     
  20. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    151. Giàu cha giàu mẹ thì mừng,

    Giàu cô, giàu bác thì đừng có trông.

    152. Giàu cha giàu mẹ thì ham,

    Giàu anh giàu chị ai làm nấy ăn.

    153. Giả ơn canh cải nấu gừng,

    Chẳng ăn thì chớ, xin đừng mỉa mai.

    154. Giận chồng mà chẳng bế con,

    Cha mầy làm mất cái giòn mẹ đi.

    155. Gió nam non thổi lòn hang dế,

    Tiếng anh học trò mưu kế để đâu?

    - Mưu kế anh để lại nhà,

    Ai dè em hỏi anh mà đem theo.

    156. Gió bay cầu thấp cầu cao,

    Gió bay cầu nào con chỉ mẹ coi.

    157. Gió bên đông, động bên tây,

    Tuy rằng nói đấy, nhưng đây biết rồi.

    158. Gíó đưa bông cúc bông trang,

    Bông búp về nàng, bông nở về anh.

    159. Giốc bồ thương kẻ ăn đong,

    Có chồng thương kẻ nằm không một mình.

    160. Giường rộng thì ghé lưng vào,

    Nghìn năm ai có tơ hào với ai.

    161. Hang hùm ai dám mó tay,

    Chuột nào lại dám cắn dây buộc mèo.

    162. Hay xóc đía ông mời về,

    Gái nầy đang muốn ngứa nghề với ông.

    163. Hãy xin bớt giận làm lành,

    Bắt con rận béo nấu canh rau dền.

    164. Hãy còn bán tín, bán nghi,

    Chưa đem vô dạ, chưa ghi vô lòng.

    165. Hoa thơm, thơm nức cả rừng,

    Ong chưa dám đậu, bướm đừng xôn xao.

    166. Hoài lời kẻ nói vô tri,

    Một trăm gánh chì đúc chẳng nên chuông.

    167. Học chẳng biết chữ cu, chữ cò,

    Nói những chữ như rồng, như rắn.

    168. Họa hổ họa bì nan họa cốt,

    Tri nhơn tri diện bất tri tâm.

    Ở xa chẳng kiết mà lầm,

    Bây giờ rõ đặng vàng cầm cũng buông.

    169. Hôm qua anh đến nhà chơi,

    Thấy mẹ vét chảo, thấy cha vét nồi.

    Thấy em dựa cột liếm môi,

    Anh ngỡ con chó, anh lùi chân ra.

    170. Hồng nhan ai kém ai đâu,

    Kẻ xe chỉ thắm, người xe hạt vàng.

    171. Hơn nhau tấm áo manh quần,

    Thả ra bóc trần, ai cũng như ai.

    172. Kềnh nghê vui thú kềnh nghê,

    Tép tôm thì lại vui bề tép tôm.

    173. Kìa kìa tam tòa đó,

    Nọ nọ khám thắt dây,

    Miệng lằn lưỡi mối, nhiều ngày biết ai.

    174. Kiến bò miệng chén bao lâu.

    Phù du lướt gió, ruồi bu miệng hùm.

    175. Ký mã phùng Bá Nhạc,

    Bàng điểu ngộ tam phong.

    Qua muốn tường dạ đó đục trong,

    Cho hay thuyền bưởi dạ bòng thuyền quyên.

    176. Kim vàng ai nỡ uốn câu,

    Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời.

    177. Khen ai khéo tạo bình phong,

    Ngoài long lân phượng, trong lòng gạch vôi.

    178. Khi lành quạt giấy cũng cho,

    Khi dữ quạt mo cũng đòi.

    179. Khi chưa cầu lụy trăm đàng,

    Được rồi thì lại phụ phàng làm ngơ.

    180. Khi giàu chẳng có đỡ ai,

    Đến khi hoạn nạn chẳng ai đỡ mình.

    181. Khó than, khó thở, lại khó phân trần,

    Tóc không vò tóc rối, ruột không giần ruột đau.

    182. Khó khăn thì chẳng ai nhìn,

    Đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em.

    183. Khôn thì ăn cháo, ăn chè.

    Dại thì ăn đếch, ăn ssác, ăn gh... cái l...

    184. Khôn ngoan ở đất nhà bây,

    Dù che ngựa cỡi đến đây phải luồn.

    185. Khôn ngoan thì bảo rằng ngoa,

    Vụng vại thì bảo người ta rằng đần.

    186. Khôn thế gian, làm quan địa ngục,

    Dại thế gian, làm quan thiên đường.

    187. Khôn ngoan đối đáp người ngoài.

    Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.

    188. Khốn nạn thay nhạn ở với ruồi,

    Tiên ở với cú, người cười với ma.

    189. Không thèm ăn gỏi cá mè,

    Không thèm nói với một bè trẻ ranh.

    Không thèm ăn gỏi cá mương,

    Không thèm nói với một phường trẻ ranh.

    Không thêm ăn gỏi cá chày,

    Không thèm nói với thằng thầy mầy đâu.

    190. Lá khô mà hay treo ngành,

    Giận thì nói vậy sao đành bỏ nhau.

    191. Lác đâm thì lúa cũng đâm,

    Anh nói với em nhiều tiếng thâm trầm,

    Nằm đêm nghĩ lại nát bầm lá gan.

    192. Lập vườn trồng nhãn, trồng hoa,

    Thấy mặt anh đó, không biết nhà anh đâu.

    Khi vui, miếng thuốc miếng trầu,

    Khi buồn đi mất biết đâu mà tìm.

    195. Lấy anh, anh sắm sửa cho,

    Cái bị, cái bát, cái quạt mo đuổi ruồi.

    194. L… rằng l... chẳng sợ ai,

    Sợ thằng say rượu đ... dai đau l...

    195. Lươn nằm trong lỗ trông ra,

    Thấy trạch đi qua hỏi: “Gì dài mấy”.

    196. Lọ là thét mắng, cặp rèn,

    Một lời xiết cạnh bằng nghìn roi xong.

    197. Lưỡi vò độc quá đuôi ong,

    Xui người tan hợp rứt lòng nghĩa nhân.

    198. Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo,

    L... không cạp l... méo làm ba.

    199. May mô may chút nữa em lầm,

    Khoai khô xắt lát em tưởng Cao-ly sâm bên Tàu.

    200. May hay giải cấu tương phùng.

    Biết người biết mặt, biết lòng làm sao.

     
Moderators: galaxy, teacher.anh
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này