Văn học nước ngoài THỊ TRẤN PHÙ DUNG (Tiểu thuyết - Cổ Hoa)

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi hoi_ls, 23/3/23.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    Chương III
    CHỖ SÂU TRONG NGÕ HẺM
    (Năm 1969)


    TỤC XẤU TRONG GIÓ MỚI


    SAU KHI PHONG TRÀO “BỐN THANH TRA” KẾT THÚC, thị trấn Phù Dung từ chỗ là “Cái hang tối của chủ nghĩa tư bản” trở thành “Cái lô cốt chiến đấu của chủ nghĩa xã hội”. Sự biến hóa sâu sắc được chiềng ra trên mặt phố Đá Xanh chật hẹp. Tất cả các cửa hàng gỗ hai bên đường phố, trước đây chỉ có một màu đen xỉn, nay đã được quét nước vôi trắng từ mặt đất lên cao hai mét, và viền quanh bằng một đường sơn đỏ. Cứ cách hai cửa hàng lại có một khẩu hiệu viết theo kiểu chữ đời Tống như: “Vô sản nổi dậy diệt tư bản”, “Nông nghiệp học tập Đại Trại”, “Bảo vệ thành quả của BỐN THANH TRA”, “Cách mạng phải liều mạng, liều mạng làm cách mạng”. Đầu phố, cuối phố còn thêm những “muôn năm”, xa gần hưởng ứng lẫn nhau. Trên cánh cửa mỗi nhà, đều có dán một câu đối cùng một quy cách, cùng một kiểu chữ: “Đi theo con đường Đại Trại”, và “Học cờ hồng Đại Trại”. Cho nên cái phố Đá Xanh trở thành một phố khẩu hiệu, một phố câu đối nền trắng chữ đỏ, khiến cho nhà nào cũng giống nhà nào. Biến một cái phố trước đây, vào những ngày nắng ráo, đầy những chiếc sào tre thò ra trên tầng cao mặt phố, phơi phóng mùng màn, chăn đệm cùng quần áo xanh xanh đỏ đỏ, phấp phới như cờ vạn quốc, thì nay đã bị thủ tiêu và cấm chỉ, để thu dọn chỉnh trang lại bộ mặt đường phố, và cũng có thể coi như một nét mới của thị trấn. Vào những ngày lễ ngày tết, hoặc có cấp trên đến thị sát, hoặc các xã, các đội sản xuất anh em, đến thỉnh kinh học tập, mỗi nhà lấy lá cờ màu đã chuẩn bị sẵn, đem ra cắm nghiêng nghiêng trên tầng gác mặt tiền, khi không có gió, nó rũ xuống, khi có gió, nó phật phờ tung bay, tạo thêm không khí thắng lợi, cùng kết quả to lớn của phong trào vận động. Còn thêm một quy định nữa, tất cả mọi nhà trong thị trấn, nhất luật không nuôi chó, mèo, gà, thỏ, ong, gọi tắt là “năm không” để bảo đảm vệ sinh và an toàn của phố xá. Mỗi hộ chỉ được nuôi ba con gà mái là cùng. Đối với cách thức sử dụng ba con gà mái này như thế nào, lại không thấy quy định, nhưng có lẽ là góp cổ phần vào “ngân hàng gà”, rút tiền ra mua mắm muối, và cốt là để khi có cán bộ cấp trên về xã, ăn bữa cơm thết ở thị trấn cũng có được hai cái trứng gà tráng. Trên phố cấm mở quán bán hàng, tất cả những người buôn bán cũ đều thôi buôn, chuyển sang làm ruộng.

    Trên đây mới là cách mạng hóa bộ mặt đường phố. Song còn điều sâu sắc hơn là chính trị hóa quan hệ giữa người với người. Thị trấn cũng đặt ra “chế độ bảo vệ an ninh”, khách đến phải đăng ký, đi xa phải xin phép, đêm tối các dân quân cốt cán đi tuần tra, kiểm soát. Đồng thời đặt ba hòm “thư phát giác” ở đầu phố, giữa phố và cuối phố. Tất cả mọi người đều được bỏ vào đấy những thư từ tố giác và tài liệu tố cáo. Những người hàng xóm láng giềng tố cáo nhau có thể không cần ký tên, đồng thời người tố cáo được giữ bí mật và bảo vệ.

    Những người biết sự việc mà không tố cáo, có tội ngang với người phạm tội. Những người có công trạng trong tố giác sẽ được ghi vào “lý lịch công dân”, đồng thời có phần thưởng xứng đáng về vật chất cũng như về tinh thần. Hòm “thư phát giác” có người chuyên trách, mở hòm, khóa hòm theo đúng định kỳ. Sau khi thiết lập được chế độ tố giác, đã có được những hiệu quả thật rõ ràng. Hàng ngày cứ vào lúc chạng vạng tối, nhà nào nhà nấy thi nhau đóng cửa sớm, lên giường ngủ, tiết kiệm được dầu đèn, thị trấn được yên tĩnh. Còn giữa ban ngày ban mặt hàng xóm láng giềng bỏ hẳn cái lệ nhà nọ đến nhà kia, tránh cái vạ trống mồm, trống miệng, bị người tố cáo, gây nên những chuyện rắc rối, rách việc. Trước kia trong thị trấn vốn có cái lệ đem biếu, đem cho nhau những thức ăn uống để giữ tình, giữ nghĩa, đến nay đã phê phán cái tình người, tính người của giai cấp tư sản, nên chỉ đành có cách là dỏng đôi tai giác ngộ lên với nhau, mở to đôi mắt sáng láng, cảnh giác đề phòng mọi sự động tĩnh của hàng xóm láng giềng. Trước kia là: “Tôi vì mọi người, mọi người vì tôi”. Nay là: “Mọi người phòng tôi, tôi phòng mọi người”.

    Lại nữa, nay trận tuyến giai cấp ở thị trấn đã được phân định rõ ràng. Sau vô số những đại hội, trung hội, tiểu hội, vai kề vai, mặt đối mặt và các kiểu xóc xách lại đội ngũ chính trị, mọi người đều hiểu được rằng: Địa vị của cố nông hơn bần nông, địa vị của bần nông hơn trung nông lớp dưới, địa vị của trung nông lớp dưới hơn trung nông lớp trên, cứ như thế phân chia thành ba loại, chín cấp. Cư dân phố phường có tranh chấp, cãi cọ nhau, trước hết phải xem xét thứ bậc giai cấp của đôi phương ra làm sao, và sự cao thấp về thành phần của mình. Chỉ có lũ nhóc con trên dưới mười tuổi không phân biệt được lợi hại, nên không tính gì đến chuyện này. Nhưng sau một vài lần được những bài học sứt đầu mẻ trán, mới biết được rằng, chúng không thể manh động, xem thường, vượt qua cấp bậc xã hội của cha mẹ chúng. Mới tí tuổi đầu chúng đã biết than vãn:

    - Thật khổ khi phải sinh ra trong một gia đình trung nông lớp trên, vừa mở miệng ra là đã bị người ta nhiếc móc là bố mẹ mày thích chủ nghĩa tư bản, muốn vươn lên làm địa chủ phú nông!

    - Mày có thấy không? Con cái những nhà địa chủ, phú nông, từ bé đã khổ như những con chó con, lúc nào cũng co vòi, rụt cổ như những con ba ba!

    - Đời tổ tiên ăn mặn, đời con cháu khát nước! Thật đáng đời!

    - Mày còn chưa biết đấy, ngay trong giai cấp bần nông với trung nông lớp dưới, cũng còn nhiều thứ khác nhau lắm, nào lịch sử chính trị có rõ ràng trong sạch hay không, nào quan hệ xã hội có phức tạp hay không, rồi ông tổ ba đời, năm đời đã được kiểm tra chưa...

    - Giá mà bố tao làm bần nông hay trung nông lớp dưới có phải hay biết bao nhiêu không, lần này tuyển quân, chắc chắn anh tao sẽ trúng.

    Nếu như “lý lịch cán bộ minh bạch rõ ràng” thật là điều sung sướng vô cùng. Trong cuộc vận động, tổ công tác đã từng có một quy định: Mỗi cán bộ đều phải kiểm điểm, bộc lộ thành khẩn với tổ chức Đảng và quần chúng cách mạng trong đơn vị mình, gọi là “vượt cửa quan xã hội chủ nghĩa”. Thí dụ như, trước đây mọi người thường rất tôn trọng, kính mến ông trưởng trạm thuế vụ, vì ông là một lão đồng chí, đã từng tham gia đánh du kích. Nhưng khi ông thành khẩn bộc lộ rằng: Mình vốn xuất thân từ một gia đình quan liêu địa chủ, trước khi gia nhập du kích, đã từng thông dâm với một cô người ở trong nhà, nhưng từ khi tham gia cách mạng không còn phạm vào cái sai lầm ấy nữa... Trời đất ơi, thì ra ông trạm trưởng trạm thuế vụ vốn là một thằng cha hư hỏng đến thế, cái bộ mặt thực thà xưa nay là giả dối, còn chơi gái, dâm ô mới thực là căn cốt! Sau đó mỗi khi ông đôn đốc thuế, thì trước hết bị các ông các bà hãy chửi cho một trận là “đồ dê cụ” cái đã. Lại ví dụ, ông chủ nhiệm hợp tác xã cung tiêu của thị trấn, trong đại hội tố khổ, đã dằn vặt, khóc lóc, bộc lộ rằng: bản thân mình xuất thân từ giai cấp nghèo khổ, tổ tiên, cha mẹ đều đi làm thuê, làm mướn, sống kiếp ngựa trâu, nhưng khi được vươn mình, đã quên gốc quên rễ, nên hồi mới giải phóng, đi rước ngay một cô tiểu thư con nhà tư sản làm vợ, không giữ được bản sắc dân nghèo, khiến cho quan hệ xã hội ngày càng thêm phức tạp, rồi về sau, cứ bậm bạch như người lùn leo thang, tuôn ra một loạt năm đứa con, nên có muốn ly hôn cũng không ly hôn được nữa... Ôi chao! Thì ra cái lão chủ nhiệm hợp tác xã cung tiêu cũng chẳng phải là cái của tốt đẹp gì, đâm ra lại là con rể của nhà tư sản, vậy mà lại được quản cửa hàng cửa họ trong thị trấn cơ đấy! Về sau, mỗi khi có điều gì phải to tiếng một chút đã bị chỉ mặt nhiếc móc ngay là đại diện của bọn tư sản, là đồ chó săn! Lại ví như ông kế toán của hợp tác xã tín dụng trong thị trấn đã thành khẩn bộc lộ ở hội trường rằng mình tuy là dân nghèo thành thị xuất thân, nhưng trước khi giải phóng đã bị bắt động viên đi làm lính ngụy ba năm. Về sau những người trong thị trấn đặt cho ông cái biệt hiệu: “Kế toán xỏ nhầm giầy”... đại khái là như thế... Có người trong thị trấn đã làm một bài vè:

    Mặt nạ cán bộ lột đi,
    Mấy ai ra cái thá gì đâu anh!
    Địa chủ chết, nông dân canh,
    Còn địa chủ sống, lại hành nông dân...


    Ngày phiên chợ của thị trấn Phù Dung cũng có thay đổi, từ năm ngày một phiên, chuyển thành tuần lễ một phiên, họp vào ngày chủ nhật, tiện cho việc sắp xếp thời gian của cán bộ công nhân trong thị trấn lẫn những xí nghiệp mỏ quanh vùng, còn như tại sao lại định vào ngày Chúa Nhật ấy, nó có phù hợp với sự đòi hỏi của cách mạng hay không, thì trước kia dân thị trấn chỉ tin vào Phật kinh, mà không hề biết có Thánh kinh, do vậy chẳng có ai để tâm nghiên cứu cả. Nhưng có người lại cho rằng, ngày chủ nhật là ngày thông dụng trên toàn thế giới, chọn ngày phiên chợ vào ngày đó, sẽ có lợi cho việc đại đồng thế giới sau này. Thị trấn cũng thành lập một ban quản lý, trật tự chợ, do Vương Thu Xá, vào Đảng hồi “bốn thanh tra”, bí thư chi bộ đại đội sản xuất của thị trấn kiêm nhiệm chức trưởng ban. Ban quản lý trật tự chợ lấy Hồ Ngọc Âm, phần tử phú nông mới do bán canh bánh tráng mà thành giàu sụ làm điển hình đen, để tuyên truyền giáo dục và nghiêm khắc kiểm tra, chú ý tới mọi động tĩnh của chủ nghĩa tư bản. Bên dưới ban quản lý trật tự chợ có mười nhân viên trật tự đeo băng vàng trên ống tay áo chuyên trị những kẻ đầu cơ lừa đảo, kiểm tra bắt những tư nhân bán các loại nông sản phụ, bán thủ sản, lâm sản theo giá cao, và những vật tư thuộc loại một, loại hai, loại ba do nhà nước thống nhất quản lý cấm không được buôn bán trên thị trường. Như vậy là, cứ mỗi phiên chợ trong trụ sở của ban quản lý trật tự chợ xếp đầy những hàng hóa bị thu hồi và tịch thu như nấm tươi, cá tươi, ếch núi, và thịt thú rừng vân vân... Các loại hàng hóa này, không thể nộp lên trên, nhập kho nhà nước, để tăng thêm tổng thu nhập của nền kinh tế quốc dân. Ban đầu, quả thực có để hư hỏng, thối nát mất một ít, rất chi là lãng phí. Về sau mới ngộ ra được một phương pháp: Tất cả những hàng hóa vi phạm bị thu hồi, bị tịch thu nhất loạt coi là thứ phẩm, chất lượng kém, đem giảm giá, xử lý. Cái đó có thể nói là nhất cử tam lợi: Tránh được lãng phí; ban quản lý trật tự chợ có thu nhập để làm kinh phí hoạt động; và mỗi nhân viên quản lý đeo băng vàng trên ống tay áo, sau một ngày phiên chợ bắt bớ, giằng co, đấu khẩu, được phân phối ít nhiều hàng tươi sống, hoặc lâm sản, thủy sản gọi là cải thiện đời sống. Ngày xưa khi làm tuần đinh, còn có tiền mua giầy dép cơ mà. Tất nhiên trưởng ban quản lý Vương Thu Xá chẳng bao giờ quên chọn ít nhiều hàng tươi sống trong số hàng tịch thu được đó đưa về nhà ăn công xã, cho bí thư Lý Quốc Hương cùng cải thiện đời sống, về sau, ban quản lý trật tự chợ đổi tên là “tiểu phân đội dân quân”, uy tín càng được nâng cao, và quyền lực cũng lớn. Những con cá tư bản chủ nghĩa ngóc đầu khỏi mặt nước như bọn buôn bán lâm sản, những người dân chài cá mú cứ trông thấy tiểu đội phân đội dân quân là sợ chẳng khác gì lũ chuột trông thấy lũ mèo, và chỉ mong sao được biến thành Tôn Hành Giả chui tụt xuống lỗ nẻ để tránh cái quả “chuyên chính toàn diện đối với giai cấp tư sản”. Nhưng cũng có lúc các đội viên tiểu phân đội dân quân lại không đeo chiếc băng vàng trên ống tay áo, mà đút giấu trong túi, để vây bắt bọn tư thương, khi đã tóm được hàng hóa đang giấu giếm, mới rút phắt chiếc băng vàng ra huơ huơ trước mặt người bị bắt:

    - Ha ha bọn cầy cáo có ranh khôn đến đâu cũng không lọt được mắt người thợ săn nhá! Bọn tư sản chủ nghĩa có trốn tránh cũng không thoát khỏi bàn tay của tiểu phân đội dân quân đâu nhá!

    Chủ của các “hàng cấm” bị thu hồi, bị tịch thu, nói chung là không dám ho he, nếu tranh cãi lôi thôi, lập tức bị bắt giữ, rồi gọi điện thoại cho đội sản xuất địa phương, cho dân quân đến giải về... Chuyện cứ bùng nhùng như thế mãi, nên một số người ở tít trong bản làng xã, kém giác ngộ, đã vụng trộm đặt cho họ một cái tên là: “Thổ phỉ nhà nước”! Thật đúng là loại cứng đầu cứng cổ.

    Ở thị trấn Phù Dung cũng còn một điểm cách mạng hóa nho nhỏ nữa cần phải đề cập tới, đó là Tần Thư Điền phái hữu, tội phải đội mũ sắt, cùng với Hồ Ngọc Âm phú nông mới, cứ sáng sớm hàng ngày, trước khi quần chúng cách mạng ra khỏi giường, phải đi quét phố Đá Xanh một lượt.

    Tuy lịch sử là nghiêm khắc vô tình: lịch sử không phải là cô gái để cho người ta muốn điểm trang thế nào cũng được. Lịch sử hiện đại Trung Quốc thường có những ngọn bút thần, xuất kỳ bất ý vẽ nên những nét tuyệt vời, thậm chí có khi lại điểm thêm những nét khôi hài cho một nhân vật phong lưu hiện đại.

    Thị trấn Phù Dung được coi là điển hình về cách mạng hóa trong toàn huyện, Lý Quốc Hương được coi là “một người lính xung kích trong việc học tập và vận động chính trị”. Chẳng bao lâu, do đòi hỏi của cách mạng cần phải có những nữ kiện tướng xông xáo, được việc, nên chị ta được đề bạt vào thường vụ huyện ủy, kiêm bí thư công xã. Để củng cố thành quả của “bốn thanh tra” nên đại bộ phận thời gian của chị ta là ném vào hợp tác xã cung tiêu, bên trong bức tường cao ở thị trấn Phù Dung.

    Nhưng chưa được nửa năm, chị ta còn ngồi chưa ấm chỗ trên chiếc ghế của thường vụ huyện ủy, và bí thư công xã, thì lại có một phong trào vận động vĩ đại ào ào ập tới, như một cơn hồng thủy mênh mông trời đất. Lý Quốc Hương cũng bàng hoàng, hoảng hốt mất mấy hôm, rồi chị ta lập tức đứng vào hàng đầu của phong trào vận động mới này, chủ động, tích cực lãnh đạo phong trào. Trước hết là bắt trưởng trạm thuế vụ cùng với mấy tên “Tiểu Đặng Thác” ở thị trấn Phù Dung, bỏ những tên “Tiểu Đặng Thác” này vào chung một giỏ với các phần tử loại 5, và đã nhiều lần dẫn giải đi vòng quanh thị trấn để “đấu tố lưu động bọn đầu trâu mặt ngựa” này. Nhưng khi chị ta còn chưa giữ ổn được cái bánh lái của cuộc vận động công xã này, thị trấn này, đã có người nhẩy bổ ra làm loạn, tạo phản, và viết báo chữ to phê phán chị ta. Chị ta điều tra ra rằng: Chủ nhiệm hợp tác xã cung tiêu, cùng kế toán hợp tác xã tín dụng, là “chỗ dựa đằng sau vũ đài đen”, bèn lập tức tổ chức quần chúng và những cán bộ cách mạng như Vương Thu Xá phản kích lại, bắt luôn mấy tên “thực là phái hữu lại giả vờ làm phái tả”. Thật đúng là cuộc đấu tranh giai cấp, mày chết tao sống, đỏ như lửa, sắc như dao (nguyên văn: trắng như bông lau) vậy, ai tiêu cực do dự, ai mềm lòng nhụt chí, sẽ đánh gục mặt xuống đất cho đáng kiếp, và bị hàng vạn gót chân, giày đạp lên. Nhưng các tiểu tướng hồng vệ binh đã bắt đầu nổi lửa, thổi gió, liên kết từ trên xuống dưới, nơi nơi trong toàn quốc, như thiên binh, thiên tướng đột ngột xuất hiện ở thị trấn Phù Dung. Thật đúng là không còn kỷ cương, giời đất gì hết, chúng cầm cái gậy do thủ trưởng trung ương giao cho, đánh đổ Đảng ủy, làm cách mạng, làm cho cái thị trấn nhỏ Phù Dung cũng nhốn nháo, nhộn nhạo tung lên. Khẩu hiệu là: “Phái hữu không thối, phái tả không thơm”. Bọn chúng cũng đã tiến hành bất chợt khám xét nhà Lý Quốc Hương một lần, không khám xét thì thôi, nhưng đã khám là thành rách việc, lôi thôi, khiến lũ trẻ lác mắt, đỏ mặt. Chúng tìm thấy ở trên giường nữ bí thư chưa từng kết hôn, mấy cái của khỉ chuyên dùng cho nam giới, mà không tiện nhắc tên. Điều đó làm cho các tiểu tướng giận sôi lên sùng sục, chúng lấy một đôi giày rách (1) quàng lên cổ Lý Quốc Hương rồi lôi đi diễu phố để thị uy!

    Ngày hôm đó, cùng bị lôi đi diễu phố với Lý Quốc Hương còn có bọn loại 5 đen, của toàn thị trấn, đeo biển trên ngực. Khi các phần tử loại 5 phát hiện ra Lý Quốc Hương cũng tham gia nhập vào cái hàng ngũ hồn ma bóng quỷ của mình, thế là có giời mới hiểu được những cái đầu cứng như đá hoa cương luôn luôn cúi gục xuống, cùng những con mắt lấm la lấm lét, luôn luôn nhìn xuống mặt đường phố Đá Xanh ở dưới chân, nghĩ ngợi những gì, cùng với những biểu hiện tình cảm của họ ra làm sao. Chỉ có anh phái hữu, đội mũ sắt, Tần Thư Điền ngoảnh đầu lại nhìn Lý Quốc Hương một cái mà thôi. Bốn con mắt gặp nhau, lập tức bật tóe ra những tia lửa vàng lửa xanh. Trong ánh mắt nhìn đó của Tần Thư Điền mang đầy vẻ thách thức, trào lộng, châm biếm. Còn cái nhìn phản kích của Lý Quốc Hương lại là thứ ánh sáng lạnh lùng của một thanh kiếm sắc. Chỉ trong vòng một hai giây đồng hồ, Tần Thư Điền đã phải cụp mắt mình lại, quay người tiếp tục bước về phía trước. Kẻ thù chính thức của giai cấp, một phần tử phái hữu phải chịu xun vòi, bởi chiếc roi gân bò, đầu bịt đầu của hồng vệ binh đã rít lên trong không khí vút tới. Thật khốn khổ cho Lý Quốc Hương, trên cổ ngoài tấm bảng đen, lại còn phải thêm một đôi giầy rách.

    Chị ta đã nhiều lần tìm tới lũ hồng vệ binh để thanh minh, giải thích:

    - Thưa các tiểu tướng hồng vệ binh, các chiến hữu, các đồng chí! Tôi khẳng định rằng ở đây đã có sự nhầm lẫn rồi. Làm sao lại có thể đem tôi trộn lẫn với bọn phần tử loại 5, bọn hồn ma bóng quỷ ấy được? Xưa nay tôi chưa bao giờ là phái hữu. Năm 1957, tôi ở phòng thương nghiệp huyện chuyên môn đi bắt bọn phái hữu. Năm 1959, tôi tham gia huyện ủy chuyên chống hữu khuynh. Hai năm 64, 65, tôi là tổ trưởng tổ công tác, tôi trị bọn phần tử loại 5, bắt lũ phú nông mới, đấu bọn phái hữu cũ... Kể từ khi tôi tham gia công tác cách mạng tới nay, tôi luôn luôn là phái tả, phái tả chân chính! Cho nên thưa các tiểu tướng, thưa các chiến hữu, thưa các đồng chí, các tiểu tướng bắt tôi, tôi khẳng định là có sự nhầm lẫn rồi, thế là phái tả mới, bắt phái tả cũ...

    - Ha ha! Mẹ kiếp! Đồ giầy rách! Đồ mặt dầy! Mày còn dám mở miệng nói đến phái tả cơ à? Bọn tao đấu tố lũ xét lại phản cách mạng, là phái tả mới, bắt nạt phái tả cũ hả? Thật là sự vu cáo độc địa, sự chống trả điên cuồng!

    Hồng vệ binh lỗ mãng, cục cằn, đầu óc rỗng tuếch, nói đặc một giọng miền Bắc, lấy roi gân bò quất, khiến Lý Quốc Hương, tự phong cho mình là “phái tả chân chính”, không còn dám ho he gì nữa, đành thôi không dám thanh minh thêm nửa lời.

    Đó là những năm tháng gì vậy? Đó là những năm tháng mà tất cả những cái chân, cái thiện, cái mỹ, cùng với cái giả, cái ác, cái xấu, và phải trái, trắng đen, điên đảo, đảo điên, nhốn nháo vón thành một cục. Đó là những năm tháng mà gan bồ, phổi lợn, ruột chó, lòng lang, đổ chung vào một vạc, ninh nấu, hầm nhừ. Đó là những năm tháng chính nghĩa phải nếm cứt mà nhịn nhục, thói cẩu thả, bừa bãi nảy sinh, tính bè phái tràn lan phát triển, phong hỏa mịt mù.

    Khi ấy trên sông Phù Dung đang xây một cây cầu bán nguyệt lớn, thế là sắp có đường ô tô đến thị trấn phù Dung. Các phần tử loại 5, lũ hồn ma bóng quỷ, đều bị áp giải đến công trường cầu tham gia nghĩa vụ lao động, khênh đá, sàng cát. Công trường cho ăn một bữa cơm trưa. Lý Quốc Hương có chết cũng không chịu làm chung một việc sàng cát với mụ phú nông mới Hồ Ngọc Âm, và lại càng không chịu chung một chiếc đòn khênh đá với Tần Thư Điền phái hữu. Chị ta nghiến răng lại, một mình cõng những hòn đá lên dàn giáo. Chị ta luôn luôn chú ý tới địa vị, tư cách của mình, nhất định không chịu lẫn lộn vào với đám phần tử xấu, với lũ quỷ đen, bởi vì bản thân mình vốn thuộc lớp người trên. Vì rồi, trước sau, cũng có một ngày, làm rõ được cái ranh giới chính trị, cái phái tả phái hữu của mình.

    Bữa cơm trưa, theo quy định mỗi người được ba lạng, đó là định lượng của hồn ma bóng quỷ. Trời nắng to, cường độ lao động lớn, mồ hôi ra nhiều, ba lạng gạo cùng một môi canh cà với ớt, hoặc một môi canh bí đỏ, làm sao mà đủ no? Công việc buổi chiều cũng không bỏ được, bọn quỷ đen xôn xao nháo nhác xin thêm cơm. Chỉ có Hồ Ngọc Âm xưa nay vốn ăn ít, nên gọi là tạm đủ no. Còn Lý Quốc Hương xưa kia vốn ít tham gia lao động chân tay, nên lượng cơm cũng tăng lên theo sức lao động, ba lạng cơm vào bụng vẫn chưa thấy thấm tháp gì. Những tiểu tướng hồng vệ binh canh gác việc lao động của họ, bèn nghĩ ra một biện pháp để trừng trị bọn cặn bã của xã hội này: Muốn xin thêm cơm cũng được, nhưng có một điều kiện là phải múa một đoạn theo điệu: “điệu múa quỷ đen” trên một đoạn đường dài chừng mười lăm mét từ cửa lều nhà ăn cho đến cửa sổ phát cơm lều nhà bếp, đồng thời giải thích đầy đủ yếu lĩnh của những tư thế, cùng động tác của “điệu múa quỷ đen” một lượt.

    - Tần Thư Điền! Trước khi mày bị xếp vào hàng ngũ phái hữu, mày đã từng làm giáo viên âm nhạc và thể dục ở trường huyện, lại đã từng làm biên đạo của đoàn ca múa. Bây giờ mày hãy làm mẫu cho đồng bọn của mày xem một lần.

    Chàng Tần Thư Điền, phái hữu phải đội mũ sắt sau khi nhận được lệnh của các tiểu tướng, lập tức đứng ngay vào giữa cửa ngôi lều làm nhà ăn. Đối với loại biểu diễn kiểu này, xưa nay chưa bao giờ anh chậm trễ, và thường tỏ rõ sự chủ động tích cực vừa làm cho người ta cười vui, vừa làm cho người ta rất khó chịu. Anh đặt ra những câu hỏi về yếu lĩnh, động tác cơ bản của “điệu múa quỷ đen” một lần và im lặng nghĩ ngợi ở trong lòng một lát, rồi không thèm nhìn ai, bắt đầu nhảy múa: Một tay anh giơ cao chiếc bát, một tay giơ cao đôi đũa, hai tay bắt chéo vào nhau múa may, anh chồm hổm xoạc hai đầu gối, chân trước chân sau, nhảy chồm chồm trên mặt đất, miệng bắt nhịp theo động tác chân tay, hét hên:

    - Thêm cho hồn ma bóng quỷ một bát cơm. Thêm cho hồn ma bóng quỷ một bát cơm. Thêm cho hồn ma bóng quỷ một bát cơm...

    Điệu múa đã làm cho các tiểu tướng hồng vệ binh cười vỡ bụng, vừa vỗ tay vừa hò hét khen hay. Các xã viên vây quanh đó cũng không nhịn được những trận cười như nắc nẻ:

    - Tần Rồ, múa lại đi! Tần Rồ múa lại đi! Mỗi ngày mày nhảy múa ba lần, coi như cải tạo xong, và cho bỏ mũ ra.

    Các phần tử loại 5 lại bị “điệu múa” của Tần Rồ làm cho hết hồn. Có người tái xanh tái xám mặt mày, cứ như vừa chui từ dưới mồ lên. Có người lại cúi đầu, ngoảnh mặt đi, sợ bị các tiểu tướng, hoặc quần chúng cách mạng gọi tên mình, ra múa “điệu múa quỷ đen”. Nhưng không có ai bàng hoàng hoảng hốt, lại càng không có người khóc. Những con người ấy, giống như hòn đá kê trong chuồng xí, vừa cứng vừa thối, và đã quá thích ứng được với các kiểu, các loại sỉ nhục rồi. Họ đâu còn hiểu được, trên đời này, có hai chữ “xấu hổ”!

    Ông đầu bếp trong nhà ăn không cười, mà chỉ lặng đi nhìn. À, à, thì ra “đại cách mạng văn hóa”, ngoài những sách quý bìa đỏ, những bài hát trích lời giảng dạy, những bài kinh mỗi ngày tụng ba lần, phá bốn cái cũ, quật ngã tượng phật, giật đổ đền đài, lục soát cửa, lại còn có “điệu múa quỷ đen” này nữa... Đây có phải chăng là văn hóa mới? Đây có phải chăng là tư tưởng mới, phong tục mới, tập quán mới? Lòng dạ ông đầu bếp hình như còn chưa đông cứng lại, và tư tưởng ông hình như còn chưa “triệt để” vô sản hóa, nên khi xúc cơm vào bát cho Tần Thư Điền, đôi tay ông run rẩy, và mắt ông rơm rớm lệ.

    Hôm đó, quả thật bụng dạ Lý Quốc Hương cũng đang đói cào đói cấu. Chị ta đợi cho các tiểu tướng hồng vệ binh cùng quần chúng cách mạng cười cợt chán chê xong, liền cầm cái bát rỗng của mình đi thẳng tới cửa sổ phát cơm. Hình như chị ta có ý lấy cái hành động đó, cái tư thế đó để chứng minh sự khác biệt giữa mình với những kẻ phái hữu chính cống và những phần tử loại 5 thì phải. Nhưng các tiểu hồng vệ bình đâu có chịu buông tha cho chị ta, và buộc chị ta phải đứng vào hàng ngũ của những hồn ma bóng quỷ:

    - Đứng lại! Con mẹ kia định đi đâu đấy?

    - A, cái con giầy rách này! Đằng sau... quay. Mục tiêu cửa chính, bước nghiêm, bước!

    Một chiếc thắt lưng da to bản trong tay một nữ hồng vệ binh quay vun vút phía sau, buộc chị ta phải thực hiện mệnh lệnh. Chị ta sợ ăn đòn, vội quay lại phía cửa chính, trên mặt còn vương vất một nụ cười:

    - Thưa các tiểu tướng, thưa các chiến hữu, thưa các đồng chí, em no rồi, em không xin thêm cơm nữa!

    - Có ma quỷ là “đồng chí”, là “chiến hữu” của mày!

    - No rồi? Mày no rồi hả? Vừa rồi sao mày có vẻ oai phong thế? Mày định to ve tỏ vẻ với ai thế? Mày định khiêu khích ai vậy? Mày tưởng mày cao quý hơn những hồn ma bóng quỷ khác hả? Bây giờ bất kể là mày có muốn xin thêm cơm hay không, chúng ta bắt buộc mày, phải học thằng phái hữu Tần Rồ nhảy múa một đoạn của “điệu múa quỷ đen” từ cửa này tới cửa sổ phát cơm kia, cho mọi người xem!

    - Đúng! Bắt cái con “chiến hữu” này nhảy múa! Bắt cái con “chiến hữu” này phải nhảy múa!

    - Đấy cứ nhìn kỹ mà xem, nó có khuôn mặt trái xoan, có cái eo rắn nước, tay dài chân dài, thân mình thon thả, ra dáng một nàng vũ nữ lắm!

    Các tiểu tướng hồng vệ binh gào thét ầm ĩ. Không hiểu tại sao, các tiểu tướng từ đẩu từ đâu ấy, kéo tới đây; những “ông con Giời” thích đùa dai ấy, lại đặc biệt khinh bỉ, và cũng đặc biệt thù ghét người đàn bà này.

    - Thưa các tiểu tướng, thưa các chiến hữu, thưa các đồng chí, tôi thực tình không biết nhảy múa, từ xưa tới nay tôi chưa hể nhảy múa bao giờ... Xin các tiểu tướng đừng nổi nóng, đừng đánh bằng thắt lưng da, tôi bò, tôi xin bò, bò đến cái cửa sổ phát cơm.

    Lý Quốc Hương nuốt nước mắt đắng cay, bắt đầu bò, bò bằng cả chân lẫn tay, giống như một con chó.

    Liên tục quay về bên trái, sự vật đi tới mặt sau của mình. Những kẻ lấy việc chỉnh đốn người khác làm vui, cuối cùng chính mình cũng bị chỉnh đốn. Cái đó nhà Phật gọi là “nhân quả báo ứng”, là “vòng luân hồi”.

    Cuối năm 1968, khi ủy ban cách mạng huyện được thành lập, vấn đề Lý Quốc Hương thuộc phái chính trị nào cuối cùng đã được làm sáng tỏ, khôi phục lại cái danh vị phái tả cách mạng xưa nay của chị ta, được cắt cử vào ban thường vụ của ủy ban cách mạng huyện, đồng thời là chủ nhiệm ủy ban cách mạng công xã. Nên ra, chị ta cũng chẳng cần oán trách hoặc thắc mắc gì, bởi, chị ta cũng đã từng nhiều lần động viên chính trị mọi người trên hội trường rằng: Trong thời kỳ đầu của các phong trào vận động khi quần chúng cách mạng vừa mới được phát động lên, cũng khó tránh khỏi những hành động quá tả, vấn đề là ở chỗ ngăn chặn và uốn nắn ra sao. Không thể giội nước lạnh, hoặc thốc gió buốt, vào đó được. Huống hồ, là trong cuộc “Đại cách văn hóa của giai cấp vô sản”, “chưa từng có trong lịch sử” này, cũng khó mà tránh khỏi những sai sót vụn vặt kiểu “phái tả đánh phái tả, người tốt đánh người tốt” như thế được.


    (1) Người Trung Quốc lấy chiếc giầy rách làm tượng trưng cho người đàn bà có quan hệ sinh lý bừa bãi. (N.D.).

     
    vinhhoa and Narga like this.
  2. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    GIAI THOẠI THỈNH KINH


    Những năm tháng không bình thường mới có được những câu chuyện lạ lùng. Nhưng những chuyện này rõ ràng là đã xảy ra khắp trời nam biển bắc trên đất Thần Châu, hơn thế, nó còn mang đầy sự nghiêm trang, nghiêm túc và thần thánh nữa kia. Những độc giả mới sinh ra trong thòi đại mới khó có thể tưởng tượng ra được, thậm chí còn có thể coi như tà thuyết, dị đoan, với lại đây chính là dòng chảy cuối cùng trong trang lịch sử đau thương của đất nước chúng ta.

    Bí thư chi bộ đại đội sản xuất thị trấn Phù Dung, có chân trong đoàn đại biểu nông nghiệp địa phương và huyện đi tham quan; từ phương Bắc, nơi xa xôi ngàn dặm thỉnh kinh trở về, đối với một nơi hẻo lánh của vùng sơn cước Ngũ Lĩnh này đã có thể gọi là chuyện kinh thiên động địa. Nghe nói đoàn tham quan từ nơi xuất phát của huyện đến nơi tập trung đi toàn bằng chuyên xa, có cắm cờ, kết hoa, suốt trên dọc đường đểu có pháo nổ, và phèng trống tiễn đưa. Từ nơi tập trung ở ga xe lửa, lễ tiễn đưa lại càng long trọng hơn. Lượt đi, lượt về đều ngồi xe lửa, gọi là chuyên xa. Chuyên xa là gì? Đối với những dân miền núi chưa từng đi ra khỏi cửa nhà mình, đành phải đi hỏi tên phái hữu, đội mũ sắt, Tần Thư Điền. Tên phái hữu đội mũ sắt ấy, đã uống mồ hôi và nước mắt của nhân dân lao động nên mớiđọc được nhiều sách vở như thế, mới được hiểu nhiều sự đời đến thế, và hầu như cái quái gì cũng hiểu biết. Hắn có nghĩa vụ, có trách nhiệm phải trả lời cho mọi người vấn đề này. Hắn nói: Chuyên xa nói chung, là một loại xe có giường ngủ, chuyên để dành riêng cho một vị thủ trưởng nằm ngồi, nói rộng ra là kể cả các loại ô tô lớn mà các hội nghị quan trọng thuê riêng. Ngày xưa muốn biết ông lớn nào đó, to đến mức độ nào, chỉ việc nhìn cái kiệu ông ta ngồi, cái kiệu cũng có tước vị và phẩm trật của nó, từ kiệu long phượng của nhà vua, ngự giá, đến các quan nhất phẩm triều đình, cho tới quan huyện vào hàng thất phẩm, đều có những đặc điểm riêng khác nhau. Ngày nay muốn biết các vị thủ trưởng to lớn tới mức nào, chỉ cần nhìn chiếc ô tô ông ta đi là biết, nó cũng có ba bảy hăm mốt loại. Loại lãnh đạo chóp bu ở huyện thì ngồi những chiếc com măng ca với khung vải bạt, vàng khè...

    - Đó đó, cái thằng cha này, cái hòn đá kê trong chuồng xí vừa cứng vừa thối! Hỏi nó việc này, nó lại đem kiến thức kia ra lòe đời, và không quên công kích chủ nghĩa xã hội!

    Có người đã kịp thời ngăn chặn và tố cáo Tần Rồ như vậy. Tần Rồ nhăn mặt nhăn mũi, làm ra bộ mặt thật thiểu não:

    - Đã không hiểu, các ông lại hay hỏi, vậy mà hễ tôi cứ nói ra, là lại y như rằng vu cáo đả kích. Thôi, thôi, từ nay về sau, tốt nhất là các ông không biết thì đừng có hỏi, để tránh được cái vạ miệng.

    Tuy vậy vẫn có người hỏi tiếp:

    - Thế nào gọi là toa dành riêng? Thế nào gọi là chuyên xa?

    Tần Thư Điền lại đành phải trả lời:

    - Chuyên xa là cả một đoàn tàu, gồm mười một toa xe, vốn là có thể chở được hơn một ngàn hành khách. Nhưng để bảo đảm cho những con người vĩ đại như phó thống soái Lâm Bưu làm việc được thuận tiện và an toàn, nên cả đoàn tàu hỏa ấy chỉ dành riêng cho thủ trưởng, cùng với những nhân viên công tác, nhân viên y tế, nhân viên bảo vệ ngồi. Ở trên xe lửa, có thể làm việc, hội họp, ăn uống. Khi đoàn tàu vào ga, qua những giao lộ, lên cầu, vào đường hầm, đều phải bật đèn xanh ưu tiên cho nó; tất cả các tàu đi, tàu đến, xuôi ngược, ngược xuôi, đều phải nhường đường và né tránh... Về sau, tất cả những đoàn tham quan quan trọng, những đại biểu hội nghị, thuê riêng một đoàn tàu, cũng đều gọi nó là chuyên xa, hoặc đoàn tàu riêng. Cho nên, lần này, bí thư chi bộ đại đội sản xuất đi lên phương Bắc thỉnh nông nghiệp chân kinh, ngồi ô tô riêng, xe lửa riêng, không phải là chuyện bình thường đâu, vì đã được hưởng sự đãi ngộ của các quan đầu tỉnh trong ủy ban cách mạng tỉnh đó.

    Cư dân trong thị trấn Phù Dung còn nghe nói, bí thư Vương Thu Xá về đến địa phương, vừa bước chân xuống sân ga, đã thấy quần chúng cách mạng, xếp hàng hoan nghênh đoàn tham quan đi thỉnh kinh trở về, cùng với cờ xí, trống phách và pháo nổ thì Vương Thu Xá, tay cầm cuốn sách quý bìa đỏ, loại bỏ túi, giơ ngang lên đầu vẫy vẫy liên hồi. Cái động tác ấy của bí thư, mọi người mới nhìn đã biết ngay rằng, lão ta học mót của phó thống soái, trong phim ảnh. Và miệng lão thì ta thì oang oang, hô khẩu hiệu rất đúng nhịp:

    - Mặt trời đỏ, muôn năm! Mặt trời đỏ, muôn năm! Mặt trời đỏ, muôn năm!...

    Nghe nói ủy ban cách mạng huyện còn cho xe ô tô riêng ra tận ga đón đoàn. Sau khi lão ta ngồi lên chiếc xe com măng ca, và trên hơn một trăm dặm đường trở về vẫn không ngớt hô “Muôn năm, muôn muôn năm”. Khi xe tiến vào sân trụ sở của ủy ban cách mạng huyện, các ông chủ nhiệm, phó chủ nhiệm thân ra đón tiếp, bắt tay, trong miệng lão vẫn khe khẽ hô “Muôn năm, muôn muôn năm”. Sau bữa cơm trưa ở ủy ban cách mạng huyện, chiếc com măng ca, lại trực tiếp đưa thẳng lão về tới thị trấn Phù Dung, và trong miệng vẫn lảm nhảm “muôn năm, muôn muôn năm”. Chỉ có điều là giọng lão ta khản đặc lại, và bị trúng phong.

    Ngày mùa đông ngắn; khi trời vừa tối, đèn đuốc trong ngôi nhà sàn đã bật sáng trưng. Các cán bộ và xã viên trong đại đội sản xuất, có người đến hỏi thăm sức khỏe, có người đến báo cáo tình hình công tác, và xin chỉ thị, và cũng có người chỉ thuần túy đến góp vui, để xem xem sự thể nó ra làm sao. Cứ hết đoàn kia đi, đoàn này đến. Lại có nhà có con gái đang đợi đại đội giới thiệu đi công nhân đã đem đến cả một vò rượu khoai lang vừa cất xong, cùng với một số đồ nhắm tới, bày lên trên bàn, trong gian bếp của ngôi nhà sàn, để cho bí Vương uống rượu tẩy trần. Bí thư Vương cũng vô cùng cao hứng, quên hẳn cả nỗi mệt nhọc đường xa, cho nên kể tất cả từ cán bộ, đến anh em bần nông và trung lớp dưới đến thăm hỏi, lão nhất định mời bằng được uống với lão một chén nhỏ rượu khoai. Còn như đối với trung nông và trung nông lớp trên, lão chỉ cười cười, rồi gật đầu, coi như một lời chào. Thế là tất cả những người đủ tư cách uống một chén rượu khoai, đều vui vẻ nâng chén rượu của người phúc ta, nhiệt liệt chúc mừng bí thư Vương đi thỉnh kinh từ miền Bắc thắng lợi trở về:

    - Thưa bí thư Vương, nghe nói ông được ngồi chuyên xa ô tô, lại ngồi cả chuyên xa xe lửa, lại được ăn cơm đặc táo, đi về mấy ngàn dặm, tham quan một tháng trời... chỉ còn thiếu mỗi một nước là đi máy bay thôi!

    - Đúng thế, đúng thế! Lần này chỉ còn thiếu nước ngồi máy bay. Nhưng nghe nói rằng, ngồi máy bay không được an toàn, sợ ba cái bánh xe không thò ra được. Bây giờ các nhà lãnh đạo đều thích ngồi chuyên xa ô tô, xe lửa...

    - Lần này ông ra khỏi nhà, đi xa, được hiểu biết nhiều về thế giới bên ngoài. Đi thỉnh kinh, thu được của báu, ông phổ biến cho anh em chúng tôi nghe ké với!

    - Người ta là lá cờ đỏ của ngành nông nghiệp, toàn quốc phải học tập, kinh nghiệm từng đống, từng đống. Tôi đi học tập trở về, tất nhiên là phải phổ biến lại, truyền những của báu đó lại cho bà con, để đưa thị trấn Phù Dung của chúng ta cũng trở thành một điển hình!

    - Mỗi thời một khác, ngày xưa Đường Tăng cưỡi ngựa bạch đi Tây Trúc thỉnh kinh, chỉ đem theo có Tôn Ngộ Không, Chư Ngộ Năng, Sa Ngộ Tĩnh, ba người đồ đệ, và phải trải qua chín chín tám mốt sự gian nan... Còn như bây giờ Vương bí thư đi thỉnh kinh ở phương Bắc đường sá đã được cơ giới hóa, hơn thế nữa, lại có hàng ngàn hàng vạn người cùng đi, tất cả người của năm hồ, bốn biển một dòng...

    - Cái gì? Cái gì? Đúng là anh uống rượu, nên rượu nó nói thay anh rồi, làm sao lại lấy chuyện Đường Tăng đi Tây Trúc thỉnh kinh ra mà so sánh được, đó là phong kiến, mê tín, còn chúng ta đây là nông nghiệp cách mạng! Cái kiểu cách nói của anh như vậy, nếu để cấp trên nghe thấy thì thì... Hừ hừ...

    - Thưa bí thư Vương, thiên hạ rộng lớn như thế, còn như thị trấn Phù Dung của ta đây, chỉ bé bằng cái móng tay...

    - Thiên hạ rộng lớn, nhưng thị trấn Phù Dung ta cũng chẳng bé lắm đâu, hơn thế, nó còn rất trọng yếu là khác. Trong số người của toàn huyện đi thỉnh kinh kỳ này, chỉ có ba lãnh đạo của đại đội sản xuất cấp một.

    Đối với những người nhiệt tình khen ngợi và thăm hỏi, Vương Thu Xá cười tít mắt, thưởng thức chén rượu khoai, nhai những hạt lạc chao dầu thơm phức, và trả lời lần lượt mọi người bằng cái giọng đã khản đặc của mình.

    Khi đó có cậu thanh niên choai choai đến gần, lên tiếng hỏi:

    - Thưa bí thư Vương, mỗi ngày có hàng trên vạn người từ khắp các địa phương trong toàn quốc tới đó tham quan học tập phải không ạ?

    - Đúng vậy! Trời Nam biển Bắc, kể cả những dân tộc thiểu số ở Vân Nam, ở Tân Cương, ở Tây Tạng đều đến học tập. Trường học, hội trường rồi nhà khách, lúc nào cũng chật cứng những người. Chỉ riêng cái nhà khách thôi, có lẽ cũng phải dài bằng cái phố Đá Xanh của thị trấn Phù Dung chúng ta rồi - Vương Thu Xá đáp.

    Cậu thanh niên choai choai lại hỏi:

    - Thế họ có phải dùng đến phân hóa học không ạ?

    Vương Thu Xá không hiểu được cái ý ngầm trong câu hỏi này, nên đáp:

    - Họ là lá cờ đầu, là điển hình của toàn quốc, đương nhiên là được bảo đảm cung ứng thật đầy đủ rồi. Nhưng nói cho cùng, người ta, phần lớn là dựa vào tự lực cánh sinh.

    - Cháu thử tính xem nhé, mỗi ngày có một vạn người tham quan, thỉnh kinh, học tập. Cứ tính là một người ngủ lại một đêm, và mỗi người ỉa một đống, đái hai bãi, một vạn con người sẽ để lại bao nhiêu cứt đái? Mà cái đại đội ấy chỉ có tám, chín nghìn mẫu ruộng, sợ rằng lúa lốp ngập đầu, chỉ một cơn gió nhẹ cũng đổ rạp, không trổ bông, không đậu hạt mất, thế thì còn cần gì đến phân hóa học nữa!

    Lời nói của cậu thanh niên choai choai, làm cho tất cả những người có mặt trong ngôi nhà sàn cười ầm ĩ cả lên.

    Bí thư Vương đang định nghiêm sắc mặt chỉnh đốn cho cái tay thanh niên, tuy xuất thân thuộc thành phần tốt, nhưng tư tưởng lại lệch lạc này một trận, thì thư ký đội Lê Mãn Canh bước lên sàn.

    Những sai lầm của Lê Mãn Canh trong phong trào “bốn thanh tra”, đáng lý bị tổ công tác khai trừ ra khỏi Đảng, sau vì đã chủ động đem nộp số tiền một ngàn năm trăm đồng của mụ phú nông mới Hồ Ngọc Âm gửi, nhờ cất giấu hộ, và thái độ nhận thiếu sót, nhận sai lầm rất thành khẩn, nên được xử lý khoan hồng, giữ nguyên đảng tịch, nhưng hạ xuống làm thư ký đội.

    - Ồ, anh Lê! Sao bây giờ mới tới? Lại bị con vợ nó túm không dứt ra được phải không? Nếu anh không đến, tôi sẽ cho người đi tìm đấy! - Vương Thu Xá mặt đỏ tưng bừng, vẫn ngồi nguyên tại chỗ, làm điệu làm bộ nói vậy. Hắn chỉ vào chiếc ghế bên cạnh rót một cốc rượu khoai lang nói tiếp: - Thế nào, tôi lên Bắc một tháng, trong thị trấn không có sự gì chứ?

    Lê Mãn Canh nay đã thành cấp dưới của Vương Thu Xá. Nhưng từ xưa tới nay anh vẫn thường vô cùng khinh bỉ tên chủ ngôi nhà sàn Vương Thu Xá này. Cho nên sự thay bậc đổi ngôi, một trên một dưới này, vẫn làm anh khó chịu, không thích ứng được. Anh bây giờ, đầu óc không còn đơn thuần như anh lính phục viên hơn 10 năm về trước nữa, mà là một người có gia thất. Anh nói sơ lược tình hình của đại đội sản xuất trong thị trấn gần một tháng nay cho Vương bí thư nghe, ví dụ như việc “ngày nào cũng đọc” đã được tiến hành trong đội sản xuất, có bao nhiêu xã viên đọc thuộc lòng được “ba bài cần đọc”, rồi ở đầu làng cuối phố đã viết thêm bao nhiêu những “chỉ thị tối cao”, vẽ thêm được bao nhiêu bức hình tượng huy hoàng, vân vân.

    - Nhưng tôi thấy tư tưởng của quần chúng trong thị trấn ta có phần nào rối loạn rồi đấy. - Vương Thu Xá nhìn Lê Mãn Canh bằng cặp mắt nghiêm nghị - Nắm khâu chính trị còn chưa chắc, như vừa mới rồi, ở đây này, có người đã đem việc tôi đi thỉnh kinh ở phương Bắc ví với Đường Tăng đi thỉnh kinh ở Tây Trúc, thế có bực mình không chứ lỵ? Lại còn có người bảo lá cờ hồng của nông nghiệp toàn quốc không cần phải mua phân hóa học nữa, vì mỗi ngày có hơn một vạn người tham quan, học tập, thì chỉ riêng cứt với nước đái của họ cũng đủ để cho ngô, lúa lốp đến đổ kềnh ra rồi, thế có buồn cười không chứ lỵ? Những lời nói đó tuy đều được nói từ miệng của bần nông và trung nông lớp dưới ra thật, nhưng liệu đằng sau nó có những phần tử loại 5, với những kẻ thù giai cấp xúi bẩy không? Đây là chiều hướng phát triển mới của cuộc đấu tranh giai cấp! Nếu chúng ta không đấu tranh giai cấp thù địch, thì giai cấp thù địch sẽ đấu lại ta.

    Vương Thu Xá nói câu nào, Lê Mãn Canh gật đầu câu đó. Những người ngồi hóng chuyện của họ cũng gật đầu theo, có người đưa mắt tủm tỉm cười thầm.

    Lê Mãn Canh cuối cùng không chịu đựng nổi bài ca giai cấp đấu tranh của Vương Thu Xá, bèn bẻ quặt câu chuyện đi:

    - Thưa Vương bí thư, ông đi lần này đã lấy được những kinh nghiệm quý báu gì về ạ?

    - Kinh ấy à? Vô cùng phong phú, đủ để cho những người ở đây dùng đến mấy đời. Trong đó có một chuyện mà từ xưa tới nay mọi người chưa từng nhìn thấy, chưa từng nghe thấy! Mà nếu như chuyến này tôi không đi mở rộng tầm mắt ra, đúng là có nằm mơ cũng không ra thật!

    Vương Thu Xá lại tợp một tợp rượu.

    Lê Mãn Canh cũng nhấc cốc của mình lên theo, nhấm hai hạt lạc:

    - Á à, nếu thế bí thư Vương hãy mau mau kể cho mọi người cùng nghe đi.

    - Cái đó gọi là “ba trung thành”, “bốn vô hạn” trọn một lệ bộ.

    Nói xong Vương Thu Xá đứng bật dậy, đôi mắt long lanh rực sáng, hứng khởi ngập tràn, tay phải rút từ trong túi ra một cuốn sách in, bìa đỏ, áp sát lên ngực mình, và lập tức như đi vào một thế giới thần thánh, và hình như ngay trên đầu hắn cũng hiện ra một vòng hào quang linh thiêng:

    - Kinh nghiệm của con người có hàng ngàn điều, hàng vạn điều, điều thứ nhất là chính trị dẫn đầu, cái nghi thức làm vào mỗi sáng mỗi tối, gọi là “sớm thỉnh thị”, “tối báo cáo”. Trên xe lửa, trên ô tô trong cơ quan, trong trường học, đều làm...

    Câu chuyện của Vương Thu Xá đã lôi cuốn được tất cả mọi người trong nhà. Điều đó, đối với người miền núi quả thật, chưa từng nghe, từng thấy bao giờ.

    Lê Mãn Canh hỏi, đầy háo hức:

    - Cái bản chân kinh này của ông, ông dự tính đến bao giờ thì truyền đạt và quán triệt cho cán bộ, quần chúng?

    - Cách mạng không đợi ai, đau đẻ không chờ sáng trăng! Theo tôi kỳ này không làm theo cái kiểu “trong Đảng trước, ngoài Đảng sau”, “cán bộ trước, quần chúng sau” như ngày xưa nữa. - Vương Thu Xá mặc dù bị khản giọng nhưng ngay lập tức đã bố trí công việc cho Lê Mãn Canh - Chú Lê, chú đến đại đội bộ phát thanh ngay, lập tức triệu tập đại hội quần chúng tại khu bãi rộng trong chợ, xã viên, quần chúng đều phải mang theo sách quý bìa đỏ, tất cả lũ phần tử loại 5 cùng con em gia đình chúng, nhất luật không được tham gia!

    Lê Mãn Canh còn trù trừ chưa muốn bước đi:

    - Ông vừa mới đi đường sá xa xôi về, lại vừa uống rượu, hay là để hôm khác...

    Vương Thu Xá trợn mắt nhìn Lê Mãn Canh, uy nghiêm nhắc lại mệnh lệnh của mình:

    - Anh thư ký, chính trị là lớn hơn hết thảy, là hàng đầu hết thảy! Lệnh không đợi đến sáng mới truyền. Báo cho tất cả mọi người đều phải mang sách quý bìa đỏ!

    Hơn một tiếng đồng hồ sau, trên sàn sân khấu cũ kỹ trong chợ, một chiếc đèn măng sông sáng trắng được treo lên. Trên bãi đất phẳng trước sân khấu là một khối đầu người đen ngòm, lốm đốm những chấm lửa đỏ. Đó là đám xã viên, quần chúng đang hút thuốc tẩu, thuốc điếu và thuốc quấn tổ sâu. Gần mười năm nay, người dân miền núi cũng đã quen với tập quán chạy theo chiều gió, bất kể ngày trắng đêm đen, triệu tập là đến, tham gia mọi cuộc đại hội quần chúng khẩn cấp, quan trọng, hoặc các cuộc hoan nghênh nhiệt liệt, hết lòng ủng hộ cùng một bài xã luận in trên hai báo hoặc những cuộc diễu hành chào mừng một cái “chỉ thị mới nhất” vừa truyền xuống...

    Bí thư Vương Thu Xá bước lên sân khấu cùng với mấy vị cán bộ tháp tùng, rồi chia ra ngồi trên hai hàng ghế dài. Đó là quy cách trên lễ đài của đại đội sản xuất cấp một. Thư ký Lê Mãn Canh đứng dưới ngọn đèn măng sông lần lượt gọi tên từng đội trưởng đội sản xuất một, để kiểm số người và các đội sản xuất tham gia đại hội, cho đến khi số nhân mã của đại đội xa nhất đều đã vào đủ trong bãi hội trường, thư ký Lê Mãn Canh mới tuyên bố đại hội khai mạc, nội dung hội nghị là: Bí thư đại đội sản xuất, Vương Thu Xá, có chân trong đoàn tham quan nông nghiệp huyện truyền kinh cho bần nông, trung nông lớp dưới cùng với quần chúng cách mạng để mọi người học lấy những điều quý báu.

    Giữa tràng vỗ tay nhiệt liệt, Vương Thu Xá trang trọng, nghiêm chỉnh đứng ra trước sân khấu, hắn lúng túng gật đầu và vẫy vẫy tay về phía mọi người, chờ cho trắng vỗ tay chấm dứt, hắn mới mở miệng nói bằng cái giọng khàn khàn:

    - Thưa các đồng chí bần nông và trung nông lớp dưới! Thưa các đồng chí cách mạng. Sau khi thông báo trên đài, tất cả mọi người đã đến dự đại hội, các đồng chí đểu mang theo sách quý bìa đỏ đấy chứ?

    Quả là lời nói có đầy sức mạnh, lập tức phía dưới vang lên những tiếng loạt xoạt trên miệng túi áo. Sau đó là tiếng trả lời rất vang dội của rất nhiều người:

    - Có đấy ạ! Có đấy ạ! Bản của chúng tôi là những bản ngữ lục khổ rộng. Nhiệt liệt đề nghị đại đội cung cấp cho mỗi xã viên một bản loại bỏ túi!

    - Tốt lắm! Bây giờ, những người đem theo sách quý bìa đỏ, hãy giơ cao tất cả lên!

    Ánh mắt Vương Thu Xá quét một lượt khắp lượt hội trường. Tất cả các xã viên đều giơ cao sách đỏ lên quá đỉnh đầu:

    - Tốt lắm! Đây là một hải dương đỏ! Từ nay về sau, chúng ta phải dưỡng thành một thói quen là bất kể ra đồng hay về đồng, bất kể là trong đại hội lớn hay đại hội nhỏ, sách quý đỏ cần phải luôn luôn mang theo bên mình! Cái đó gọi là: Sách đỏ bất ly thân, lòng không rời mặt trời hồng! Nếu có hát, phải hát bài ca ngữ lục, nếu đọc sách, phải đọc sách quý bìa đỏ!

    Mấy lời khơi mào của bí thư Vương, ngay lập tức làm tất cả hội trường lặng hẳn đi, và xuất hiện bầu không khí trang nghiêm cung kính.

    - Lần này, tôi đã được vinh dự tham gia đoàn nông nghiệp huyện đi tham quan, lên phương Bắc thỉnh kinh, vừa đi vừa về có tới vài ngàn dặm, và mất hơn một tháng. Người ta là lá cờ hồng của toàn quốc, là bản mẫu của nông nghiệp, năm hồ bốn biển, trong nước, ngoài nước đều đến học tập. Kinh nghiệm quý báu của người có hàng đống, hàng loạt, hàng ngàn vạn điều. Thí dụ như ghi công điểm chính trị, mở trường chính trị ban đêm. Thí dụ như bần nông và trung nông lớp dưới phụ trách trường học, phụ trách cung tiêu, phụ trách vệ sinh, phụ trách văn hóa, phụ trách thể dục thể thao, hủy bỏ đất phần trăm, hủy bỏ chợ búa thị trường, vân vân. Nghìn điều, vạn điều nhưng điều thứ nhất là chính trị đứng hàng đầu! Đấu tranh giai cấp là căn bản; ngày nào cũng đọc “ba bài cần đọc” là then chốt; trung thành với lãnh tụ là tiêu chuẩn. Trong những kinh nghiệm này, điều tối, tối ư quan trọng là sáu chữ: “ba trung thành”, “bốn vô hạn”. Thế nào gọi là “ba trung thành”, “bốn vô hạn”? Thị trấn Phù Dung chúng ta là một vùng núi rộng lớn sâu hun hút, mọi người đều chưa từng được nghe qua, lại càng chưa từng được thấy qua. Cho nên lần này tôi đi thỉnh kinh về, có thể giảng cho mọi người nghe, làm cho mọi người thấy, mọi người đều phải học tập. Học biết rồi, đều phải theo đó mà làm, cần phải thực hiện “sớm thỉnh thị”, “chiều báo cáo”.

    Xã viên càng nghe càng thấy mới lạ, và càng nghe càng thấy ly kỳ. Vương Thu Xá nói tới đây, hơi dừng lại. Hắn ngoái đầu nhìn vào bức tường bên sân khấu, không thấy có bất cứ một vật gì, nên vô cùng bực bội, hạch Lê Mãn Canh:

    - Anh làm ăn thế nào thế hở? Tại sao trên sân khấu lại không treo hình tượng huy hoàng? Nhanh nhanh đi lấy một bức hình tượng huy hoàng về đây! Trong trường tiểu học tất phải có, nhanh lên, càng nhanh càng tốt! Là một người thư ký những việc quan trọng nhưthế mà chẳng chịu chuẩn bị gì cả!

    Lê Mãn Canh biết đó quả là một sự việc trọng đại, bèn nhảy vọt xuống khỏi sân khấu, lao đầu về phía trường tiểu học. Vương Thu Xá vẫn bằng cái giọng khàn khàn khản đặc của mình, giảng giải cho mọi người nghe về nội dung của “ba trung thành”, “bốn vô hạn”, giảng giải về nghi thức, trình tự của “sớm thỉnh thị”, “tối báo cáo”. Chỉ một lát sau, Lê Mãn Canh người đầy bụi bặm, đầu đẫm mồ hôi, thở hổn hển, hai tay mangmột bức hình tượng huy hoàng trở về. Vì hội trường cần phải có ngay, nhưng lúc đó lại chẳng tìm đâu ra hồ, ra đinh, Vương Thu Xá bèn ra lệnh cho Lê Mãn Canh hai tay dâng cao hình tượng huy hoàng hết sức nghiêm túc, cung kính đứng giữa trung tâm sân khấu.

    - Bây giờ, mời các đồng chí giơ cao cuốn sách bìa đỏ lên, mặt hướng về phía mặt trời hồng, và tất cả cùng đứng dậy.

    Vương Thu Xá lớn tiếng tuyên bố, tất cả hội trường đều theo lời cùng đứng cả lên.

    Vương Thu Xá bắt đầu làm mẫu các tư thế động tác. Hắn đứng nghiêm, thẳng người, ưỡn ngực, ngẩng đầu, đôi mắt nhìn thẳng về nơi xa xôi, tay trái buông thẳng, khuỷu tay phải gập lại, cầm cuốn sách bìa đỏ áp vào tim, sau đó quay người bốn lăm độ, nhìn chéo vào hình tượng huy hoàng, miệng bắt đầu tụng:

    - Trước hết, xin kính chúc lãnh tụ vĩ đại, người thầy vĩ đại, thống soái vĩ đại, người cầm lái vĩ đại, vô cùng, vô cùng kính yêu của chúng tôi, vầng mặt trời hồng, hồng nhất, hồng nhất trong tim chúng tôi, vạn thọ vô cương! Vạn thọ vô cương! Xin kính chúc phó thống soái Lâm Bưu thân thể khỏe mạnh! Vĩnh viễn khỏe mạnh! Vĩnh viễn khỏe mạnh!

    Khi Vương Thu Xá xa tụng tới “vạn thọ vô cương, vạn thọ vô cương”, “vĩnh viễn khỏe mạnh, vĩnh viễn khỏe mạnh” thì tay cầm cuốn sách quý bìa đỏ giơ lên ngang đầu, và vung lên, hạ xuống, vung lên hạ xuống, rất nhịp nhàng...

    Sau khi Vương Thu Xá truyền thụ cho quần chúng toàn bộ nghi thức đó xong, quả là tình cảm của hắn bùng nổ, kích động vạn phần, cổ họng khản đặc, nước mắt lưng tròng. Hắn cảm thấy mình vô cùng cao cả, vô cùng tự hào, vô cùng mạnh mẽ. Hắn như một thánh đồ sau nghìn năm tu luyện, nay đột ngột đắc đạo, đắm chìm vào trong một niềm hạnh phúc cùng với một niềm vui không có gì so sánh nổi. Trong giờ phút ấy nếu bạn bảo hắn xông vào rừng gươm, nhảy xuống biển lửa, chặt đầu, uống máu hắn cũng sẽ chẳng từ nan... Tiếp đó hắn lại tiếp tục bài diễn giảng hừng hực của mình, kêu gọi bần nông, trung nông lớp dưới, cùng quần chúng cách mạng và cán bộ phải hành động ngay, nhà nào cũng phải làm bài vị có chữ trung, đặt bàn thờ, sách quý. Mỗi đội sản xuất đều phải thực hiện sớm thỉnh thị, tối báo cáo, cố gắng biến thị trấn Phù Dung thành một trường đại học văn hóa cách mạng sáng chói và đỏ thẫm. Khi đó khốn khổ nhất là Lê Mãn Canh, anh nâng cao bức hình tượng huy hoàng đến tê dại cả cánh tay, và mỏi dừ cả đôi chân, mà không dám động cựa gì, trung hay nghịch, đều trông cả vào hành động.

    Bản chân kinh và Vương Thu Xá bí thư đại đội sản xuất ở thị trấn Phù Dung đi thỉnh được từ phương Bắc về, chỉ ít hôm sau đã được tổ trù bị cải cách của công xã báo cáo lên lãnh đạo tổ trù bị cải cách của huyện. Người lãnh đạo tổ trù bị cải cách của huyện là người có khứu chính trị rất nhạy bén, hiểu được rằng đấy là sự mới nhất vừa xuất hiện trong cuộc “cải cách văn hóa vĩđại của giai cấp vô sản”, nếu ai không biết nắm bắt ngay lấy nó, người đó sẽ bị thiệt thòi lớn và rước vạ. Thế là tổ trù bị cải cách của huyện lập tức ra quyết định, đề bạt Vương Thu Xá lên làm người lính xung kích trong việc linh hoạt học tập, vận dụng đường lối của toàn huyện, mà đầu tiên là mời Vương Thu Xá lên cơ quan trù bị cải cách của huyện giảng dạy và truyền thụ nghi thức “sớm thỉnh kinh”, “tối báo cáo”. Sau đó điều hẳn một chiếc xe com măng ca, cùng với máy móc tăng âm đi các khu các xã và các chiến tuyến trong toàn huyện để giảng dạy và truyền kinh cho nơi nơi học được cái hay. Thế là vọt một cái Vương Thu Xá trở thành một nhân vật mà đàn bà, trẻ con đều biết mặt biết tên... Nhưng khi đó đầu óc hắn rỗng tuếch, chẳng biết gì, thêm vào đó là trình độ văn hóa thấp, sự từng trải về chính trị có hạn, đánh giá sai lầm tình thế, trong khi đì diễn giảng ở các nơi, như con vẹt học nói, công khai lên án phái này phái nọ, rồi mượn gió bẻ măng, phê phán luôn cả những người đang bị đứng ra rìa như nguyên bí thư huyện ủy Dương Dân Cao và nguyên bí thư công xã Lý Quốc Hương... Nước cờ đó, sau này đối với chủ nhân ngôi nhà sàn đã gây ra những hậu quả xấu trong việc sinh nhai bằng chính trị. Nhưng đấy là chuyện sau này.

    Viết đến đây, tác giả cần có một điều thanh minh rằng: Cơn lũ mê tín hiện đại này xuất hiện trên đại địa Trung Hoa, là sản phẩm của lịch sử, đó là biến thái, biến chủng của mấy ngàn năm trong phong kiến ngu muội. Không thể giản đơn mà quy trách nhiệm vào một vị lãnh tụ cách mạng nào. Không nên vượt qua những đặc điểm của hoàn cảnh lịch sử để làm hưng thịnh lại phong tục thời Ngụy Tấn, rồi cao đàm khoát luận, bàn chuyện cao siêu. Cái quan trọng là cần phải đi sâu vào những điều tinh tế, nghiên cứu một cách bình tĩnh khách quan, tìm ra cái căn cốt của bệnh, mới có thể trị tận gốc được. Còn như các loại hình thức của sự mê tín hiện đại, đã khởi thủy tự năm nào, tháng nào, ở châu nào, phủ nào, lại chẳng cần truy tìm chứng cứ lôi thôi làm gì. Cái trò nửa dơi nửa chuột mà Vương Thu Xá chủ nhân ngôi nhà sàn ở thị trấn Phù Dung đã trình diễn, xin tạm thời hãy để tồn nghi.
     
    vinhhoa thích bài này.
  3. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    NHÌN ĐỜI BẰNG CẶP MẮT SAY


    CỐC YẾN SƠN “ĐẠI BINH PHƯƠNG BẮC” đã trở thành một “Lão say” nổi tiếng ở thị trấn Phù Dung. Bởi lẽ, năm đó cần phải tra xét cho rõ ràng động cơ phạm tội bán trộm hàng vạn cân lương thực trong kho nhà nước của ông, và cũng là để chứng minh liệu có phải ông đã lòng thòng, tư thông từ lâu với phần tử phú nông mới, Hồ Ngọc Âm hay không, tổ công tác sau khi đã thỉnh thị, và được các cơ quan hữu quan đồng ý, đã cho kiểm tra sức khỏe toàn diện của ông ở bệnh viện nhân dân huyện. Điều đó chẳng khác gì một lần chịu tội hình. Bao nhiêu năm nay, ước vọng thành lập một gia đình, để được hưởng niềm lạc thú trời cho, ông cũng chưa phải trả một cái giá cao như thế. Hồi ấy, ông mất tự do, số phận đó thật khó tránh. Trong một gian phòng trắng lốp, một gian phòng mà hầu như tất cả ánh sáng trên thế gian này đều đổ dồn về đây, sáng đến chói chang, khiến mắt không làm sao mà mở ra nổi, họ đã ra lệnh cho ông cởi truồng ra, “trần trụi dưới cái ánh sáng rõ như ban ngày”. Rồi một đám đông những người mặc áo choàng trắng, đeo những chiếc khẩu trang lớn (sau này ông mới nghe nói, còn có cả những học sinh trường y tế đến thực tập) rồi lần lượt ông bị từng người đến nhìn nhìn, nắn nắn, bóp bóp, sau đó họ trao đổi với nhau bằng ánh mắt (đủ các kiểu, các loại ánh mắt đấy)… Ông nằm đó bất động như một con ngựa đực vừa bị thiến, toàn thân ông nổi da gà, toát mồ hôi lạnh và run cầm cập. Ông nhắm mắt như người bị hôn mê, đầu óc ông chỉ còn là một khoảng trống, rỗng tuếch... Ở vùng gần Thiên Tân, trong chiến dịch Bình Tân, ông bị bộ hạ của Phó Tác Nghĩa bắn trúng, đùi non chảy đầy máu, ướt đẫm cả chiếc quần bông, ông tưởng rằng mình sắp chết và phải vĩnh biệt vùng đất đai mới giải phóng trong khi chiến dịch sắp kết thúc thắng lợi, thì đầu óc ông cũng trống rỗng, lạnh ngắt như thế... Lần ấy ông đã được đồng đội cứu sống, không chết. Ông đã nằm điều trị vết thương bốn mươi mấy ngày trong nhà một lão bà già, rồi lại trở lại quân ngũ. Lần này tất nhiên cũng không thể chết được... Nhưng lần này bị đạn của ai bắn trúng? Đạn của ai? Và là chiến trường nào đây? Để phòng chống xét lại, tiêu diệt tư bản xây dựng vô sản, để Đảng không biến thành xét lại, để đất nước khỏi đổi màu, để hàng trăm, hàng triệu đầu người không lìa khỏi cổ, cho nên người người phải vượt qua quan ải, người người phải kiểm tra từ linh hồn đến thể xác, từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong. Trên cái chiến trường ấy, so với khi cầm súng đánh địch, nó còn sâu rộng, phức tạp và huyền diệu hơn nhiều...

    Không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua, một người y tá nam đi về phía ông, bảo ông ra phòng ngoài mặc quần áo. Cánh cửa mở toang. Ông nghe thấy những người mặc áo choàng trắng đó đưa ra một kết luận khoa học: “Người này đã mất công năng của đàn ông”. Có một giọng nói non trẻ khẽ hỏi (có thể là một thực tập sinh của trường y tế, miệng còn hơi sữa):

    - Có phải ông ấy là người ái nam ái nữ, (nguyên văn: người âm dương), khi biến thành đàn bà, khi biến thành đàn ông?

    Những người mặc áo choàng trắng, bỗng cười lên khằng khặc, giống như nghe được một lời đài từ của một vở kịch vui, không thể nào khôi hài tuyệt diệu hơn được nữa. Tiếng cười làm cho những tấm cửa kính rung lên bần bật. Cốc Yến Sơn hận ông trời già làm sao lúc này không giáng xuống một trận động đất thật to để hủy diệt luôn những tiếng cười cùng với ông, trong cùng một lúc.

    Tổ công tác đã trình với huyện ủy: Xét thấy: Cốc Yến Sơn đã mất lập trường giai cấp cực kỳ nghiêm trọng, trường kỳ bao che cho các thế lực tư bản ở thị trấn, vô cùng nguy hiểm, ảnh hưởng xấu cực lớn. Đề nghị khai trừ đảng tịch, cách chức chuyên môn, trả về quê cũ lao động. Nhưng có một số đồng chí già ở huyện ủy cho rằng, ông là một cán bộ Nam tiến, trước đó chưa từng mắc một sai phạm nào, lần này tuy nhận sai lầm, khuyết điểm chưa thành khẩn, kiểm điểm chưa sâu sắc, nhưng hãy dành cho ông ta một con đường sống, nên quyết định: Nghiêm khắc cảnh cáo trong nội bộ Đảng, giảm một bậc lương, tiếp tục theo dõi về sau.

    Chẳng bao lâu sau, cấp trên đã cử tới cửa hàng lương thực thị trấn Phù Dung một “tay lái” mới. Cốc Yến Sơn tuy chưa bị tuyên bố bãi chức, nhưng trên thực tế vẫn còn chưa được “xuống thang”. May mà ông vẫn được ở trong gian phòng cũ quen thuộc trên gác, nên không tìm cách tự sát nữa.

    Không làm quan, nhẹ xác. Năm sau lại ập đến một trận dông tố bão bùng nữa, đó là lớp sóng lũ cuồn cuộn “đại cách mạng văn hóa”. Cốc Yến Sơn chẳng chú ý tới bất cứ việc gì, ông lấy rượu giải sầu, tiêu diêu ngày tháng bên ngoài cuộc đại cách mạng. Ông thường uống chuếnh choáng nửa say nửa tỉnh, rồi kể chuyện cổ tích cho lũ trẻ trong thị trấn nghe, nhưng tất cả đều là “giọng rượu”. Nào là mơ xanh, hâm rượu, luận anh hùng, nào là ly rượu Quan Công chém Hoa Hùng, nào là Hoa hòa thượng say, đánh Sơn Môn, cầm chiếc đùi chó ăn thừa di di vào miệng chú tiểu, nào là Võ Tòng say, nằm ở Cảnh Dương Cương, rồi gặp ông kễnh trán trắng, nào là Ngô Dụng dùng mưu lấy được Sinh Thần Cương là do bỏ thuốc mê vào rượu, nào là Tống Giang uống rượu ray rồi họa thơ chống đối trên lầu Tầm Dương v.v... Nhưng câu chuyện lạ về những người anh hùng thuở xưa phần lớn là khó tách ra khỏi chữ rượu, cho nên ông kể mãi vẫn không hết, và lũ trẻ nghe mãi vẫn không biết chán, và cũng không bao giờ tố cáo là ông đã “rao bán những món hàng đen của phong kiến, tự bản và xét lại”.

    Mùa đông năm đó, ông nghe nói “Ớt phật thủ”, vợ Lê Mãn Canh cất được một vò rượu ngô mà cứ hễ lửa vào là bùng ngay lên ngọn lửa xanh, lại nuôi con chó đen, béo, nặng đến mười mấy cân, và trong một đêm tuyết rơi man mác, ông lần đến nhà Lê Mãn Canh, một tay chìa ra sáu chục đồng bạc, đòi mua cả vò rượu cùng với con chó đen ấy, rồi ngay trong đêm, ngay tại nhà Lê Mãn Canh uống một bữa rượu thoải mái, mát lòng hởi dạ, uống đến túy lúy càn khôn. Hơn nữa, bữa rượu lại do ông làm chủ, còn Lê Mãn Canh là khách, ngồi bồi ẩm. Mấy năm gần đây, Lê Mãn Canh cũng vô cùng đen đủi, giữ một chân thư ký dưới quyền của Vương Thu Xá chủ ngôi nhà sàn, chạy vạy công việc, nghe sai bảo mà phát bực. Thế là hai người bắt tay ngay vào việc, họ lấy một chiếc bao tải cũ, nhét con chó đen vào, mang ra chỗ nước nông trên sông Phù Dung, dìm xuống, làm con chó bị dìm chết tươi, sau đó mới xách lên nhà, lấy vôi sống vò sát đến tận chân lông của nó, chỉ một lát sau, con chó đen đã biến thành một conchó thịt trắng bông. Lập tức bắc nồi, nhóm bếp, đem chó chặt thành những miếng to bằng ba đầu ngón tay một, trước hết đem xào cho ăn mắm muối rồi sau mới cho ngũ vị hương, hoa hồi ninh nhừ...

    Thịt chó trong những ngày có tuyết, đó là một việc tuyệt vời của những sống ở miền núi Ngũ Lĩnh từ xưa tới nay, từ người lớn đến trẻ con không ai là không tán thành và khuyến khích. Cũng may là tối hôm đó “Ớt phật thủ” lại đưa bốn cô con gái về nhà bà ngoại, tha hồ cho hai vị hảo hán làm mưa làm gió, mà không bị ai ngăn cản. Cốc Yến Sơn và Lê Mãn Canh ngồi đối diện với nhau ăn uống lai rai, vô cùng hào hứng. Một người bảo: Ông anh cựu binh, hôm nay nhất định phải đổ cho cái vò rượu của ông lăn chiêng. Một người nói: Này chú em, hôm nay anh không đập vỡ cái bình rượu của chú là không xong. Bắt đầu keo rượu, họ uống bằng chén mắt trâu, nhưng không thấy đã, nên đổi thành tách uống nước, nhưng vẫn chưa đã, họ dứt khoát thay bằng bát ăn cơm.

    - Nào, uống! Mẹ kiếp, uống! Già nửa đời, thằng này chưa bao giờ biết say là cái gì. Cho nên chính mình cũng không biết tửu lượng của mình là đâu!

    Ông Cốc nhấc bát rượu của mình lên, cụng bát với Lê Mãn Canh, rồi ngửa cổ ừng ực, ừng ực, uống cạn đến đáy bát.

    Lê Mãn Canh cũng uống cạn, rồi dằn mạnh cái bát không xuống bàn:

    - Đúng! Uống! Uống! Trong mười năm nay cái thằng Lê Mãn Canh tôi, đi sai một nước cờ, thế là những nước sau hỏng bét... Tất cả chỉ vì một mụ đàn bà... Một mụ đàn bà lòng lang dạ thú... Uống! Cái vò rượu này, coi như thằng này đãi khách.

    Cốc Yến Sơn chìa cái bát không ra:

    - Đàn bà? Đàn bà cũng có nhiều loại, nhiều giống. Nên nói như thế này này: Trong giời đất này, người tử tế nhất, là đàn bà, người độc ác nhất, cũng lại là đàn bà... Chú đừng có vơ đũa cả nắm, chân chó tính ba cân, đùi trâu cũng tính ba cân, rồi đến cái cẳng gà, cũng lại ba cân nốt! Nào! Rót! Rót!

    Thực ra, lúc ấy cả hai người vẫn còn nửa say nửa tỉnh, Lê Mãn Canh cảm thấy: chỉ một suýt nữa là mình nói láo lếu bậy bạ rồi, nên thôi không nói gì nữa. Cốc Yến Sơn nhìn anh, cười thầm trong bụng, thằng ôn này bốc đồng, ăn nói ba hoa. Rõ ràng là nó đã cầm của mình sáu chục đồng bạc, thế mà lại khoác lác rằng: “Cái vò này, coi như thằng này đãi khách”! Đồ chết dẫm, hôm nay là cụ Cốc đãi mày, cụ Cốc mới là cái thằng bố mày!

    Hai người, mỗi người một bát, mời mọc thúc giục, thi nhau uống. Dần dần, cả hai người đều cảm thấy người như nhẹ bẫng hẳn đi, nhưng lại có đầy mình sức mạnh, hứng khởi lạ thường, tự tin cực lớn, hình như cả cái thế giới này đang bị họ dẫm đạp dưới chân, đang bị họ chiếm hữu. Họ bắt đầu múa đũa, gắp những miếng thịt chó béo nhờn, nhồi nhét vào miệng nhau:

    - Ông Cốc! Ông anh lính tráng của tôi! Miếng này ấy mà, mả mẹ nó, là miếng thịt người, để... để... cho con mả mẹ nó ăn, nhậu dô!

    - Mãn Canh! Chú em của anh! Bây giờ ấy, có người, lòng dạ rắn như thép, chân tay ấy, còn sắc nhọn hơn vuốt cọp! Lũ chúng nó ăn cả thịt người đấy... Vậy mà... vậy mà... cái cấp trên ấy, lại tin tưởng vào cái lũ này... Ngươi vô lương tâm, trứng không có xương cốt... Thế mà gọi là cách mạng? Thế mà gọi là đấu tranh ư?

    - Cách mạng cách mệnh, họ hàng không nhận, tranh đấu, đấu tranh, lòng không ân hận...

    - Ha ha ha! Hay hay hay! Cạn chén! Cạn chén!

    Hai ngươi càng uống càng ngọt giọng, càng uống càng mềm môi.

    - Mãn Canh! Cậu thử nói nghe coi, con mẹ Lý Quốc Hương là hàng thật hay hàng dởm? Một con mẹ cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống, lắc người một cái, biến thành tổ trưởng tổ công tác, biến cái thị trấn Phù Dung đang yên lành, tốt đẹp như thế thành cái nơi mèo gào, chó nhảy, người, vật bất yên! Thế rồi mụ lại lắc ngươi một cái, làm nên thường vụ huyện ủy, bí thư công xã, chẳng biết cái miếng thịt nào trên người mụ ta lại được ưa chuộng đến thế... Thế rồi vớ phải cái lũ hồng vệ binh vô pháp vô thiên, nó đeo lên cổ cho đôi giầy rách, dẫn đi diễu phố bêu riếu...

    Cốc Yến Sơn bị rượu vật, nổi giận đùng đùng, đứng bật dậy, lảo đảo người mấy cái, rồi vừa chửi bới, vừa giáng nắm đấm xuống bàn thình thình, khiến cho đĩa, chén, bát đũa trên bàn nhảy cỡn cả lên.

    Lê Mãn Canh nhổ phì miếng xương chó trong miệng xuống đất, ha hả cười lớn:

    - Mụ đàn bà ấy không biết múa “điệu múa quỷ đen”, nhưng lại học được điệu chó bò... ha ha ha, người ngợm mụ cũng chẳng đến nỗi xấu xí, chỉ phải mỗi một tội đanh đá, nhưng nghĩ được, nói được, làm được... Hồi đầu khi tôi làm cán sự dân chính trên ủy ban tiểu khu, thằng cậu nó, đang làm bí thư khu ủy đứng ra làm mối, định gán cái của lẳng lơ ấy cho tôi... Khi ấy tôi cũng thật là ngu... nếu không, mụ ta bây giờ, bây giờ... chắc đang nằm bên dưới tôi rồi. Còn tôi, bây giờ, tồi nhất, tôi cũng đã vớ... đã vớ được cái chân công xã loại một...

    - Mày! Mày đường đường làm một đấng nam nhi mà không biết xấu hổ, trong các triều đại, những con mẹ lẳng lơ, cưỡi đầu cưỡi cổ, đái ỉa lên trên cổ bọn đàn ông không có nhiều đâu, cái thằng Tần Rồ trong đại đội sản suất của mày ấy nó đã nói... nói rằng, đời nhà Hán, có Lã Trĩ, đời nhà Đường, có Võ Tắc Thiên, đời nhà Minh, có Tây Thái hậu... Này thằng em, hãy nói một câu thực lòng xem nào, có phải cái thằng Tần Rồ phần tử phái hữu ấy, nó không độc ác và đáng giận như những đứa phần tử loại 5 khác không...

    - Này ông Cốc ơi! Ông là một nhà cách mạng lão thành, là cán bộ Nam tiến, ông còn nói với tôi những lời lẽ như thế sao? Cái tính lính tráng của ông ấy, ông cóc sợ đại hội nọ tiểu hội kia, phê phán này phê phán khác... Còn tôi, vì cái thằng Tần Rồ ấy mà kiểm thảo lên kiểm thảo xuống, rồi những bản kiểm điểm, chữ nào chữ ấy to như ngón tay, viết đi viết lại, đều chưa sâu sắc, chưa thành khẩn. Chỉ một suýt nữa thôi tổ công tác bắt tôi phải quỳ lên gạch vụn ngói vỡ đấy... Mả mẹ cái thằng tôi ấy, từ nay về sau, tôi cứ kệ cái mả mẹ chúng nó, đành phải nhẫn tâm một tý, cay độc một tý, mặc cái mả mẹ lũ phần tử loại 5 biến thành chó, thành lợn, sống chết mặc bay... Cái quan trọng là chính cái thằng tôi đây này, là cái con mẹ “Ớt phật thủ” của tôi ấy, lũ vịt giời của tôi không muốn chết, chúng cần sống...

    - Mãn Canh! Con người dù sao cũng phải biết sống cho tử tế một chút chứ. Ở thị trấn Phù Dung, bây... bây giờ chỉ có một người quả phụ trẻ là sống khốn khổ khốn nạn nhất. Mày không nhìn thấy gì sao? Con mắt mày có phải là đã bị cái đũng quần của con mụ “Ớt phật thủ” nó che kín rồi phải không?

    Rượu say lòng tỉnh. Rượu say lòng cũng say. Đôi mắt Cốc Yến Sơn đỏ đọc lên, không biết là do những bát rượu ngô, hay do những giọt lệ đắng cay.

    Nghe ông Cốc nhắc tới Hồ Ngọc Âm, mắt Lê Mãn Canh đờ đẫn ra, thái độ thẫn thờ, im lặng, lâu lắm không nói...

    - Cô em nuôi! Không, không, nếu như cô ấy là phú nông thật, tôi sớm đã rạch ròi, dứt khoát với cô ấy... Người đàn bà số phận hẩm hiu... Tôi ngu ngốc quá, ngu ngốc quá! Ha ha ha...

    Lê Mãn Canh bật lên cười lớn, sau mấy tiếng cười chợt lấy hai lòng bàn tay xoa lên mặt, và anh đã xóa sạch hình dáng những nụ cười trên đó. Thái độ trở nên đỡ đẫn, ngơ ngác:

    - Tôi ngu ngốc quá... ngu ngốc quá, khi ấy tôi còn trẻ, còn rất trẻ, tôi cứ tưởng mọi sự trên đời đều là thật... Tôi không lấy được cô ấy vì trong Đảng không đồng ý... Thực ra... chỉ cần...

    - Thực ra cái gì? Trong khi nói thì đừng có ngậm cái xương chó ở trong miệng ấy.

    Ông Cốc trợn tròn mắt nhìn anh, đầy vẻ thôi thúc.

    - Thực ra, thực ra, tôi xin nói một câu thực lòng với ông anh lính tráng, tôi cứ nghĩ đến cô ấy là lòng tôi lại xót thương...

    - Chú mày vẫn còn xót thương cô ấy? Vậy mà sao lương tâm chú mày đen tối thế, thấy người ngã xuống giếng còn quẳng đá theo... Chú mày, chú mày muốn cho mình thoát tội, nên lòng cần độc, tay cần cứng phải không? Người ta coi chú mày như anh ruột, giao cho chú mày một ngàn năm trăm đồng bạc nhờ giữ hộ, thế mà chú mày lại đem nộp cho tổ công tác, coi như món tiền buôn lừa bán đảo phân tán tài sản, vực cho chủ nghĩa tư bản ngóc đầu dậy... “Huynh muội hảo tỷ đồng lâm điểu. Đại nan lai thời các tự phi”. (Anh trai, em gái chim trong cùng cánh rừng. Khi hoạn nạn tới, con nào, con nấy tự bay đi một mình).

    - Ông Cốc! Ông Cốc! Tôi van ông... đừng nói nữa - Lê Mãn Canh chợt gục đầu xuống ngực, bắt đầu khóc hai hàng nước mắt ròng ròng, - Những lời nói của ông anh, câu nào cũng đau như dao cắt ấy... Tôi không còn cách nào khác, không còn cách nào khác nữa! Trước mặt quân địch, thằng họ Lê này có thể nghiến răng lại, không sợ chết, không phản bội... Nhưng trước mặt tổ chức Đảng, trước mặt tổ công tác của huyện ủy, ông bảo tôi phải làm thế nào? Tôi sợ bị khai trừ đảng tịch. Ôi! Trời đất ơi, tôi cần phải theo Đảng, phải là là đảng viên...

    - Ha ha ha! Lê Mãn Canh! Tối hôm nay, tao bỏ ra sáu mươi đồng bạc, mua một hũ rượu, mua một con chó, còn mua thêm được những câu nói của mày nữa!

    Cốc Yến Sơn thấy tiếng khóc của người tiền nhiệm bí thư đại đội sản xuất, càng ngày càng thảm thiết, ông lại thấy vui, ông cười, ông hét to lên:

    - Xem ra lòng dạ mày vẫn chưa hoàn toàn đen tối hẳn, vẫn chưa khô cứng hẳn! Những người ở thị trấn Phù Dung, không phải ai ai cũng lòng sắt dạ đá cả...

    - Ông anh lúc nào cũng vẫn là chàng “Đại Binh phương Bắc” ngày xưa, là người được cả thị trấn ngưỡng mộ, sống ngang tàng, nhưng lại có trái tim Bồ Tát...

    - Còn chú em, bao giờ cũng là người thông hiểu nhân tình! Ha ha ha! Thông hiểu nhân tình...

    Hai người, kẻ khóc cứ khóc, người cười cứ cười. Họ ầm ĩ, om sòm cho đến tận gà gáy canh năm.

    Cả hai người đem bát đến rót rượu cùng một lúc, vò rượu đã cạn tới đáy. Họ quăng bát, rồi cùng bật cười lớn Bây giờ mới thật là lúc họ cười ngả cười nghiêng:

    - Mả mẹ nó, cái vò rượu để đây, đợi mai làm chầu nữa!

    - Mả mẹ nó, uống say mặt đỏ như ông Quan Công. Ông mang cái đùi chó này về, tối mai lên gác nhà ông uống nữa!

    - Mãn Canh! Cái đùi chó sống ấy để lại đây, để lại đây... Tao... tao phải về bên thị trấn, phải về ngay cái gác của cửa hàng lương thực. Tao còn chưa được “xuống thang”... Chưa xuống thì bố mày ở trên gác, kệ mẹ nó “leo thang” hay “xuống thang”!

    Tuyết rơi, cứ rơi âm thầm lặng lẽ. Hình như cái mặt đất này bẩn thỉu quá, nó cần phải vùi lấp đi nhưng đống rác lớn, rác bé vung vãi khắp nơi. Trận tuyết lớn sẽ che phủ lên tất cả, đậy điệm lên những rác rến, bùn dơ lưu cữu... Một ánh đèn pin vàng khè, rọi trên những vết chân xiêu vẹo bước về phía phố Đá Xanh, may mà chiếc cầu trên công lộ đã bắc xong, nếu không vào canh năm, thời tiết này sẽ không gọi được đò.

    Cốc Yến Sơn về đến thị trấn, gió bấc ù ù thổi, men rượu ngấm lên đầu. Ông say khướt, say đến lệch đất nghiêng trời. Ông dừng lại ở giữa phố, bỗng nhiên ông bật lên những lời chửi bới:

    - Mày hãy nghe đây, đồ con đĩ rạc đĩ rầy, đồ lẳng lơ, đanh đá! Mày, mày biến cái thị trấn thành cái quỷ gì thế hử? Cái quỷ gì thế hử? Trên phố đã biến sạch bóng vịt bóng gà, bóng chó! Người lớn trẻ con đều phải câm họng không dám ho he gì! Đồ đĩ rạc đĩ rầy, đồ lẳng lơ, đanh đá! Mày có gan, mày hãy ra đứng ở giữa phố này với thằng bố mày, thằng bố mày sẽ liều với mày!...

    Những người ở hai bên đường phố đều bị ông làm tỉnh giấc, và đều hiểu được, ông “Đại Binh phương Bắc” đang chửi rủa ai. Trời rét như cắt da cắt thịt, nên chẳng có ai trở dậy để xem ông, và cũng chẳng có ai can ngăn ông cả. Chỉ có các gia đình và công nhân viên chức của hợp tác xã cung tiêu là thấy tiếc rẻ, vi Lý Quốc Hương đã về họp ở ủy ban cách mạng huyện, nên không được nghe trận chửi bới này.

    Vào cái buổi sớm tuyết rơi gió thổi ấy, ông Cốc Yến Sơn không tự kiềm chế được, nên khi đứng ở đầu phố, lúc đứng ở cuối phố, khi lại trở về giữa phố chửi bới um sùm. Về sau, có lẽ chửi bới đã mệt, và rượu say túy lúy, nên ông ngã gục xuống mép đường ngay trước cửa hợp tác xã cung tiêu. Ông nôn ngay trên mặt tuyết một đống những thịt chó và rượu. Có hai con chó không biết từ đâu chạy đến, chúng liếm láp hết sạch đống thức ăn trên mặt tuyết bên người ông. Ông hắt hơi liền mấy cái, cánh tay ông vung vung lên trong cơn mộng mị:

    - Thằng bí thư Vương Thu Xá, con chủ nhiệm Lý Quốc Hương, trật tự nào! Hắt xì hơi, hắt xì hơi, chúng mày chỉ biết ăn lấy một mình, uống lấy một mình, thằng... thằng bố mày say, ngủ đây... hắt xì hơi, hắt xì hơi, chúng mày chỉ biết ăn lấy một mình, uống lấy một mình.

    Cốc Yến Sơn không bị chết cóng và thật kỳ lạ, ông không bị cảm hàn. Khi trời còn chưa sáng, nhà hai bên phố Đá Xanh còn chưa mở cửa, ông đã được người đưa về trên gác cửa hàng lương thực. Ai đưa? Không biết.
     
    vinhhoa and Narga like this.
  4. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    PHƯỢNG VÀ GÀ


    VƯƠNG THU XÁ ĐI LÒNG VÒNG KHẮP huyện để giảng giải, truyền thụ trình tự và nghi thức “sớm thỉnh thị”, “tối báo cáo”, đã được hoan nghênh nhiệt liệt. Những nơi hắn đến không nơi nào là không phèng trống, đốt pháo đón đưa. Tinh thần biến thành vật chất, vật chất biến thành tinh thần, không ngày nào là không chè rượu, tiệc tùng, cả đời hắn, chưa bao giờ được tọng nhiều gà vịt thịt cá đến thế. Nước trơn mỡ nhờn, thức ăn béo bổ, hắn thực đã được nếm vị ngọt bùi kiểu học tập và vận dụng linh hoạt chính sách kèm thêm gà sống cá tươi. Chả thế mà trong tục ngữ có câu: “Ăn gà kêu, ăn cá giãy”. Trong khi đi giảng dạy truyền kinh, hắn cũng bám thật sát phong trào phê phán, lên án, tố cáo tội trạng của bọn xét lại phản cách mạng đang cầm quyền trong toàn huyện mà tên đầu sỏ là Dương Dân Cao và bí thư công xã là Lý Quốc Hương. Khi đó Lý Quốc Hương đang “gặp nạn” đang chịu sự giáo dục phê phán của quần chúng cách mạng. Chủ nhân ngôi nhà sàn, đã lật mặt, phản nhau, khiến cho nữ bí thư nghiến răng kèn kẹt, hối hận rằng mình mờ mắt, phí công, bồi dưỡng ra một thằng chó đểu. Lý Quốc Hương tự xỉ vả mình: “Đáng kiếp! Bê đá nện vào chân mình”, “Chính mày đã chọn nó làm rễ, giới thiệu nó vào đảng, đề bạt nó làm bí thư đại đội sản xuất, lại còn định tiến thêm một bước, bồi dưỡng nó thành cán bộ nhà nước, thậm chí lại có tình cảm quá thân mật với thằng cha độc thân chẳng hơn mình bao nhiêu tuổi ấy... Thật đúng là yêu chó, chó liếm mặt! Hắn không những chỉ vong ân bội nghĩa, mà lại còn lấy oán trả ân, qua sông dỡ cầu, nhân lúc người ta gặp nạn, hắn đã đi khắp nơi tố cáo mình và cả ông cậu mình nữa. Vương Thu Xá đúng là một con rắn, một con rắn vừa chui vào tổ ngủ đông”.

    Khi ấy trong những người cán bộ bị ra rìa đang bị thẩm tra, có lưu truyền một câu ca dao như thế này:

    Phượng hoàng đứng lẫn với gà
    Lông đuôi, cánh, rụng, thành ra thấp hèn
    Bao giờ lông mọc đủ lên
    Phượng lại là phượng, gà nguyên là gà.


    Câu ca dao ấy Lý Quốc Hương luôn lẩm nhẩm trong miệng, ghi nhớ ở trong đầu, nó đã đem lại sức mạnh và niềm tin cho chị ta. Khoảng chừng mất một năm, bài ca dao ấy quả đã ứng nghiệm với Lý Quốc Hương. Ban cải cách huyện được thành lập, Dương Dân Cao được làm phó chủ nhiệm ban cải cách huyện, còn Lý Quốc Hương có chân trong ban thường vụ, đồng thời kiêm nhiệm luôn chức chủ nhiệm ban cải cách công xã. Bộ lông đẹp đẽ trên mình con phượng hoàng đã mọc đủ, khôi phục được ngôi vương trong các loài chim trên rừng.

    Vương Thu Xá thì sao đây? Xin lỗi, những vết bùn nhơ trên ống chân còn chưa rửa sạch, không đủ sức để trở thành cán bộ chuyên đi giảng dạy ngồi ô tô nhà nước, lĩnh lương nhà nước, ăn gạo nhà nước. Anh ta “vào cầu son” được một vài năm mùi hương của một loài hoa đánh thức mùi hương của trăm loại hoa. Trong toàn huyện, khắp các công xã, các đội sản xuất, khắp các hang cùng ngõ hẻm đều tiến hành rầm rộ phong trào “sớm thỉnh thị”, “tối báo cáo” của “ba trung thành” và đã xuất hiện những tay xung kích mới. Khi họ đọc các “lời thề” toàn dùng tiếng phổ thông, không kèm giọng địa phương vào đấy, cái tư thế vung cao cuốn sách quý bìa đỏ lên, đẹp hơn tư thế của hắn nhiều, họ còn biết làm những bài biểu diễn thể thao về ngữ lục, biết nhảy múa, xếp chữ trung. Nếu tính kỹ ra, anh ta là người lính xung kích đầu tiên trong việc truyền thụ những nghi thức sùng bái, và khi kết thúc sứ mạng lịch sử của mình, cũng thấy có phần yếu kém. Vì thế, trong con mắt của cán bộ và quần chúng cách mạng nói chung, không còn là của quý, của hiếm như hồi trước kia nữa. Chẳng bao lâu sau, khi cấp trên kêu gọi “ba kết hợp”, đại biểu của quần chúng trong các ban lãnh đạo, đều phải thực hiện “ba không thoát ly”, nên trả về đơn vị cũ đốc thúc sản xuất, nắm cách mạng. Hắn ta cũng trở về thị trấn Phù Dung, giữ chức chủ nhiệm ban cải cách đại đội sản xuất của thị trấn. Thành ra, anh ta lại là cấp dưới của Lý Quốc Hương. Phượng lại là phượng, gà nguyên là gà.

    Con người thường sợ uống bát thuốc hối hận. Đấy là thứ quả đắng trong cuộc sống. Lý Quốc Hương đã phải ân hận vì đã bồi dưỡng chủ nhân ngôi nhà sàn một năm về trước. Một năm sau, chủ nhân ngôi nhà sàn lại phải đau khô hối hận vì đã phê phán công khai Lý Quốc Hương ở một số nơi. Điều đó chẳng trách ai được, trong gió mưa, mưa gió của các phong trào, đảo đi lật lại, khiến cho thần dân bách tính cũng phải chạy theo tình thế mà lật giở chiếc bánh chính trị của mình... Đã có lúc Vương Thu Xá ân hận rằng, sao mình không cắn đứt được cái đầu lưỡi của mình đi! Và không biết đã bao lần, tay mình đã vả vào cái miệng mình:

    - Đồ ngu xuẩn! Đồ thối thây! Đồ tiểu nhân đắc chí! Thịt chó không đặt lên bàn thờ được! Ai là người cho mày làm rễ, ai là người cho mày vào Đảng, ai là người cho mày đi tham quan thỉnh kinh tận phương Bắc? Người ta nuôi một con chó, nó còn biết vẫy đuôi, còn mày, mày lại cắn lại chủ, cắn lại ân nhân...

    Vương Thu Xá suy nghĩ một cách đau đớn, khổ sở, và hiểu ra điều đó trong niềm hổ thẹn. Từ nay về sau giả như có tiến bộ về chính trị, đòi sổng có được nâng cao, dứt khoát phải gần gụi Lý Quốc Hương, dựa vào Dương Dân Cao. Đó là bảo bối, là cấp nào dựa vào cấp ấy, cấp nào quản lý cấp ấy. Đầu óc hắn không phải là bằng gỗ, tuy có phải uống liều thuốc hối hận đắng ngắt, nhưng so với những kẻ đầu óc cứng như đá hoa cương, không chịu hối cải, còn tốt hơn nhiều.

    Lại nói, Lý Quốc Hương ở trên gác cửa hàng của hợp tác xã cung tiêu trong thị trấn Phù Dung, đó là một chỗ ở yên tĩnh. Nhà có hai gian, gian ngoài vừa làm việc vừa tiếp khách, ở đó kê một chiếc bàn làm việc, một chiếc ghế tựa bằng mây, mấy chiếc ghế đẩu. Trên tường treo ảnh lãnh tụ, dán những tờ ngữ lục trích dẫn viết chữ kim nhũ, trên nền giấy đỏ và toàn văn “ba bài cần đọc”, còn có cả tủ sách quý, bài vị chữ trung cùng với một máy điện thoại. Toàn bộ gian phòng lấy màu đỏ làm chủ, biểu thị tính người và phong độ của chủ nhân. Còn phòng ngủ bên trong, không tiện kể ở đây. Chúng ta không phải là lũ chíp hồng vệ binh ngây thơ, hiếu kỳ, xông vào lục lọi những chỗ riêng tư của người đàn bà độc thân ba mươi mấy tuổi, như vậy sao đành lòng được. Gian phòng ấy, cứ đến sáu giờ chiều, khi cửa hàng ở tầng dưới đóng cửa, và nhân viên hợp tác xã đã về hết ở khu nhà ngủ phía sân sau, thì yên tĩnh đến mức ma quỷ có thể vật chết người được.

    Vương Thu Xá bắt đầu tìm đến “phòng ngủ của chủ nhiệm” để báo cáo và thỉnh thị công tác, và lần nào cũng đều dừng lại ngay trước cửa, vuốt vuốt tóc, hắng lại giọng và run run rẩy rẩy. Lý Quốc Hương không muốn tiếp anh ta ở chỗ riêng tư, nên chưa lần nào anh ta được bước chân vào nhà. Anh ta cũng không nản, và tin tưởng rằng nếu mình thành tâm, thế nào rồi cũng có một ngày làm cho chủ nhiệm mềm lòng. Có vững chãi như lô cốt cũng bị lật đổ.

    Hôm đó, anh ta nhè nhẹ gõ cửa:

    - Lý chủ nhiệm, Lý bí thư...

    Không biết Lý Quốc Hương đang cười cợt với ai trong phòng:

    - Ai đó?

    - Tôi, tôi... Vương Thu Xá.

    Giọng hắn hơi lúng búng và có họng hình như khô đi.

    - Có việc gì thế?

    Giọng Lý Quốc Hương đang từ chỗ dịu dàng bỗng trở thành lạnh lùng khô khốc!

    - Tôi có chút việc... - Hắn đáp.

    - Việc để khi khác. Tôi đang bận nghiên cứu tài liệu. Không rỗi!

    Vương Thu Xá nuốt hận trở về ngôi nhà sàn của mình, chẳng buồn ăn uống gì nữa. May mà hắn cũng là “người cầm lái” của cái đại đội sản xuất này. Ngày nào cũng từ sáng đến tối, nào cán bộ đại đội đến tìm hắn để thỉnh thị, báo cáo công tác, nào các xã viên đến phản ảnh tình hình các loại. Rồi những “chỉ thị mới nhất”, “những văn kiện quan trọng” từ trên đưa xuống cũng nhiều, nên chẳng đến nỗi quá buồn. Vào một buổi chiều sau đó mấy ngày, hắn cố ý trang điểm lại mình, ra hiệu cắt tóc của thị trấn cắt tóc cạo râu, cạo mặt. Mặc ra ngoài chiếc áo sơ mi trắng là chiếc “vét pha lon” và chiếc quần mới được giặt bằng nước gội đầu, đôi giầy vẫn là đôi giầy da lợn nhãn hiệu công nông, bốn mùa không thay đổi. Chờ cho đến khi mọi gia đình ở thị trấn vào bữa ăn tối, và ánh đèn đã lấp lóa bên các khung cửa sổ, hắn mới đi về phía căn gác của hợp tác xã cung tiêu, chuyến đi này hắn đã quyết rằng, nếu không diện kiến được với chủ nhiệm Lý, nói được những lời cần phải nói, hắn nhất định không chịu quay trở về ngôi nhà sàn.

    Có quỷ thần mới hiểu tại sao rằng khi hắn theo lối của ngách bên bức tường cao của hợp tác xã cung tiêu vào bên trong, mà tim hắn lại đập thình thình, lén lén lút lút cứ y như người đang định làm một việc gì đó mất mặt với thiên hạ. May sao, hắn không gặp một ai cả. Hắn dừng lại trước cửa “phòng ngủ” của chủ nhiệm một lát, rồi mới giơ tay lên gõ gõ cửa:

    - Lý chủ nhiệm, Lý bí thư...

    Tiếng trong phòng vang ra rất dịu dàng:

    - Ai đấy? Xin mời vào!

    Vương Thu Xá đẩy cửa bước vào nhà. Lý Quốc Hương đang ngồi ăn một con gà hầm:

    - À anh? Có việc gì vậy? Hình như gần đây anh có đến mấy lần, phải không? Có việc gì thì nói đi. Chiều hôm nay lắm khách quá, toàn những người như ở vùng hạn hán đến, nên đã uống hết cả ba bình nước lọc.

    Lý Quốc Hương chỉ lướt qua hắn một cái rồi lại quay ra tập trung mọi chú ý vào congà hầm. Nhưng cái nhìn lướt ấy đã để lại cho Vương Thu Xá một ấn tượng thật sâu, hắn cảm thấy hết sức rõ ràng rằng đó là cái nhìn của người chủ nhiệm từ trên cao nhìn xuống, với cặp mắt đầy lạnh lùng, chế giễu mà vẫn không làm mất đi sự thoải mái đầy hạ cố của một cán bộ cấp trên đối với thuộc hạ của mình.

    - Thưa Lý chủ nhiệm, tôi... tôi muốn báo cáo và kiểm thảo về tư tưởng của mình với lãnh đạo...

    Trong những giờ phút then chốt, đầu lưỡi của Vương Thu Xá bỗng mất vẻ linh hoạt đi một chút và trở thành lắp bắp.

    - Kiểm thảo Báo cáo về tư tưởng? Anh là một mũi nhọn xung kích nổi tiếng toàn huyện, đi giảng dạy ở khắp nơi, rất tốt kia mà!

    Lý Quốc Hương tỏ vẻ hơi ngạc nhiên, nhìn lại Vương Thu Xá một cái. Niềm oán hận tích lũy từ lâu bỗng như một dòng nước ớt, lập tức tràn ngập trong tim, không kìm nén nổi nữa, nên bật ra đầy ắp những đắng cay:

    - Anh bí thư Vương, anh chả nên nhún nhường, và quá đề cao tôi lên như thế làm gì. Tục ngữ có câu: Rồng mạnh cũng không đánh nổi lũ rắn độc địa phương. Tôi chỉ lo rằng làm một người cán bộ công xã như tôi, có muốn nịnh bợ các anh cũng nịnh bợ không được ấy chứ! Số phận chiếc mũ bằng sa đen, nho nhỏ trên đầu tôi đây, vẫn còn nằm trong tay các anh, lúc nào có lệnh bỏ xuống mới bỏ được!

    - Thưa Lý chủ nhiệm! Thưa Lý bí thư!... Chị cứ chế giễu tôi đi, mắng mỏ tôi đi, tôi còn mặt mũi nào mà dàn mặt mọi người, đặc biệt là dàn mặt chị... Tôi là một thằng súc sinh, mới mở mày mở mặt được dăm ngày đã quên mất ân nhân...

    Đầu của Vương Thu Xá gục xuống, giống như một bông lúa chín già, hắn tự khom mình, kéo một chiếc ghế đẩu ngồi xuống hai đầu gối khép lại với nhau, hai tay úp trên đầu gối, ngồi ngay ngắn, khép nép.

    - Đã thế, anh còn đến đây tìm tôi làm gì? Như vậy là không biết tự trọng, tự ái.

    Khi ấy hình như Lý Quốc Hương nẩy ra sự tò mò, vừa nghiêng mặt gặm cái đùi gà, vừa hỏi với vẻ đầy khoan dung. Là một người lãnh đạo, chị ta quen thói buộc những người trước mặt mình phải khúm núm, hạ mình.

    Vương Thu Xá chưa biết nông sâu thế nào, nên thử thăm dò, và chú ý xem những biểu hiện trên mặt chị ta ra sao:

    - Tôi, tôi... văn hóa thấp, trình độ kém, nhìn tình thế thiếu sáng suốt... mà chỉ biết hô khẩu hiệu theo người ta, như một con khiếu học nói nhưng lại không được.

    Lý Quốc Hương lại nhìn hắn. Bà nữ chủ nhiệm chợt nhận ra rằng tối hôm nay, diện mạo, quần áo anh ta cũng gọi là ưa nhìn, không đến nỗi đáng ghét:

    - Anh muốn nói gì thì nói đi. Từ xưa tới nay, tôi vẫn cho rằng người nói không có tội, cứ ấp úng mãi như thế làm gì.

    - Tôi xin nhận tội trước chủ nhiệm, tôi là một thằng súc sinh, một thằng súc sinh vong ân phụ nghĩa! Tôi có lỗi với chủ nhiệm, có lỗi với bí thư Dương Dân Cao ở huyện... Chính chủ nhiệm và Dương bí thư nâng đỡ tôi, tôi mới được vào Đảng, làm bí thư, được ra một con người... Vậy mà tôi... vậy mà tôi... đi học thói người ta... Khi đi nói chuyện lại thối mồm thối miệng phê phán bí thư Dương và chị chủ nhiệm bởi vì tôi xu thời, theo gió... Bây giờ, không ngày nào là tôi không thấy ân hận, tôi chỉ giận tôi không tự trói được mình để đến nhận sự xử lý của lãnh đạo...

    Vương Thu Xá giông như một chỗ đập vỡ, nước trong, nước đục cuồn cuộn chảy. Khi nhắc tới chuyện cũ, những giọt nước mắt nóng hổi chua cay ứa ra, rơi lộp bộp xuống ván sàn.

    - Tôi đã phụ lại sự hết lòng dìu dắt của chủ nhiệm, tôi thật có lỗi với thượng cấp. Lần vấp ngã này của tôi, thật quá nặng nề. Bây giờ, tôi chỉ nghĩ làm sao mà nhận được tội, chuộc được tội với chị và với bí thư Dương Dân Cao. Tôi thật muốn tự tay mình vả vào miệng mình một nghìn vả...

    Lý Quốc Hương ngồi nghe, ban đầu chỉ hơi cau mày lại rồi sau đó nét mặt trở thành buồn rười rượi. Sự khóc lóc đau khổ của Vương Thu Xá, hình như đã làm rung động sợi thần kinh đơn côi, buồn tẻ nào đó tận trong đáy tâm hồn chị ta, đã đánh thức dậy những tình cảm êm ấm, ngọt ngào... làm nét mặt chị ta trở nên ủ rũ. Lấy khăn lau mỡ nhầy nhụa trên đôi tay, ngả người trên ghế tựa mây với vẻ yếu đuối, bất lực. Tâm tư chị ta rối loạn... Nhưng sự rối loạn chỉ xảy ra trong mấy giây đồng hồ, chị ta lại ngồi ngay ngắn lại trên ghế, giương đôi mày, đầy vẻ lạnh nhạt, khinh bỉ, nhìn thẳng vào Vương Thu Xá:

    - Đó là chuyện đã qua, đã qua thì cho nó qua đi. Anh là người có trí nhớ, chứ tôi có một số việc chẳng còn nhớ được hết... và cũng chẳng để ý đến nó làm gì. Dăm câu chửi, đôi câu phê phán, đối với tôi là giáo dục là giúp đỡ. Phần anh, cứ nhắc đi nhắc lại mãi chuyện ấy, rồi lại bảo là kiểm thảo, là nhận lỗi, nhưng tôi đâu có buộc anh phải làm như vậy. Anh uống hay không uống cái thứ thuốc gọi là hối hận ấy, tôi chẳng thấy thích thú gì...

    - Thưa Lý chủ nhiệm, tôi rất thành khẩn thực lòng... Tôi hiểu chị là một người rất tốt bụng, biết tha thứ.

    Vương Thu Xá chú ý rằng, nữ chủ nhiệm vẫn lên giọng quan cách, còn cách biệt với hắn hàng ngàn dặm, nên tim hắn đập thình thịch, hai tay toát mồ hôi lạnh, vì đau khổ và thất vọng. Nhưng hắn không chịu dừng lại ở đây, và thấy khó mà lui bước. Hắn nhất thiết phải nói ra được một điều gì đó có tính hấp dẫn, cho nữ chủ nhiệm thấy rằng, mình vẫn còn một chút giá trị sử dụng nào đó. Trong giờ phút ấy, trái lại, đầu óc hắn lại vô cùng tỉnh táo. Hắn chợt nhớ tới, trước đây ít hôm, hắn được nghe người ta nói, thư ký đội sản xuất Lê Mãn Canh, cùng với cán bộ bị đánh đổ hồi “bốn thanh tra” Cốc Yến Sơn, giữa đêm hôm khuya khoắt tụ vạ làm thịt chó, uống đến say mềm người, và nói toàn những câu phản động, “Đại Binh phương Bắc”, còn đứng giữa phố trời tuyết mà lớn tiếng chửi đổng... Đúng rồi, cần phải bẩm “vấn đề” này lên. Nếu không trong những năm tháng như thế này, mình không tố cáo họ, họ cũng tố cáo mình:

    - Thưa Lý chủ nhiệm, nhân đây, tôi muốn phản ánh với chủ nhiệm một xu thế mới của thị trấn chúng ta.

    - Xu thế mới? Xu thế mới cái gì?

    Quả nhiên, vừa nghe nói, Lý Quốc Hương vội xoay người, ngoảnh mặt lại, đôi mắt sáng ngời lên.

    - Tần Thư Điền, cái tên phần tử loại 5 này, gần đây lại thiếu thành khẩn. - Lời nói ưa sự quanh co chứ không thích sự thẳng băng, Vương Thu Xá cố ý đi đường vòng cho những lời bẩm báo của mình - Đại đội sản xuất ra lệnh cho chúng sáng sáng phải đến nhận tội, tối tối phải đến hối lỗi, vậy mà bao giờ hắn cũng đến chậm hơn bà con bần nông và trung nông lớp dưới! Bây giờ có đến tám mươi phần trăm số người trong đại đội sản xuất tham gia tập bài thể dục chữ trung và nhảy múa điệu chữ trung. Chỉ có mấy lão già, bà già ngoan cố là không chịu tập tành, nhảy múa. Họ thà chịu vái lạy trước hình tượng huy hoàng, chứ...

    - Thôi anh đừng có nói đông nói tây lung tung nữa đi. Lũ phần tử loại 5 là những con hổ chết, rắn chết. Vấn đề là ở chỗ những con hổ sống, rắn sống kia cơ.

    Lý Quốc Hương nheo mắt lại, chăm chú nhìn Vương Thu Xá. Cái nhìn sắc lạnh ấy, làm Vương Thu Xá thấy run run trong bụng, lạnh toát người. Lý Quốc Hương đột nhiên thấy hứng khởi, quyết định quăng ra một miếng mồi, để nhử cái con “thu xà”, rắn mùa thu này:

    - Là một cán bộ cách mạng, con mắt không thể dính vào những thành phần đã được quy định, được đội ngũ, điều quan trọng nhất là phải dính con mắt vào những kẻ lấp lửng, chưa được đội mũ, lộn sòng vào trong quần chúng... Mấy nhân vật trước đây của thị trấn, như bọn Cốc Yến Sơn có hành động gì mới không hả?

    Vương Thu Xá bất chợt giật mình, có thể là nữ chủ nhiệm đã nắm được tài liệu về việc bọn Cốc Yến Sơn, Lê Mãn Canh đánh chén thịt chó, chửi đổng rồi cũng nên, nếu mình báo cáo lại, nó có đáng giá một đồng xu thối không? Hắn nghiến răng lại, cố kiết đánh liều, đem những điều mình đã biết về “Đại Binh phương Bắc” cùng với người tiền nhiệm bí thư đổng giả đêm ấy, rồi thêm mắm thêm muối vào, nói ra hết. Hắn còn nói thêm rằng ngay cái chức thư ký đại đội sản xuất mà Lê Mãn Canh được tiếp tục đảm nhiệm là điều không thích hợp.

    - Nào anh Vương! Anh ngồi với tôi sang chiếc bàn tròn này, tôi tiếp anh, uống một chén rượu! - Đúng là vượt ra ngoài tưởng tượng của Vương Thu Xá, Lý Quốc Hương tỏ ra vô cùng thích thú với những lời trình báo của hắn, lập tức coi trọng anh ta hơn trước nhiều, chị ta quay người lại phía tủ, lấy từ trong tủ ra một chai rượu, hai chiếc cốc thủy tinh, một đĩa lạc chao dầu, nói tiếp: - Anh đừng tưởng rằng chỉ đàn ông các anh mới biết uống rượu, nào nào, tôi với anh thi, xem ai đỏ mặt trước.

    Đối với sự “đột biến” này, quả có làm cho Vương Thu Xá thấy choáng váng và bối rối giật mình vì sự ưu ái ấy. Hắn lập tức tiếp lấy chai rượu từ tay Lý Quốc Hương, ồng ộc, ồng ộc rót đầy rượu vào hai cốc thủy tinh, rồi mới nghiêng người ngồi xuống bên mép chiếc bàn tròn, kính cẩn nhìn nữ chủ nhiệm bằng đôi mắt đăm đăm không chớp.

    - Nào! Chúng ta cùng cạn cốc này!

    Lý Quốc Hương rất thành thạo, nâng cốc rượu lên cao ngang mày, và nhìn Vương Thu Xá từ bên dưới đáy cốc. Chủ nhiệm ngôi nhà sàn cũng nâng cốc lên, cũng nhìn đáp lại Lý Quốc Hương qua đường đáy cốc. Sau đó hai chiếc cốc chạm nhau, rồi cùng uống cạn một cách khoan khoái.

    - Này, anh ăn chiếc đùi gà này. Răng anh khỏe, gặm sạch đi.

    Để bầy tỏ lòng tin cẩn và thân thiết, Lý Quốc Hương gắp chiếc đùi gà mình đang gặm dở, cho Vương Thu Xá. Vương Thu Xá khom người, đưa cả hai tay ra nhận lấy.

    Nữ chủ nhiệm khoan khoái và thưởng thức cái kiểu gặm xương gà một cách ngấu nghiến của Vương Thu Xá vừa hỏi:

    - Ở thị trấn còn có động tĩnh và manh mối gì khác không?

    - Ở thị trấn ta, tuy là cái miếu nhỏ nhưng ma quỷ lại nhiều. Đặc biệt là trong mấy năm mở rộng dân chủ gần đây, cả tôm tép lẫn cá chép, cá mương đều ngóc đầu lên hết, chắc chị chủ nhiệm chưa biết, chứ cái năm bắt “Tiểu Đặng Thác” ấy, tay trưởng trạm thuế bị thải hồi về nhà, đến nay còn kiện cáo lung tung ở cả tỉnh lẫn địa phương, đòi phải sửa sai cho hắn. - Vương Thu Xá vừa hạ giọng thấp xuống nói, vừa liếc nhìn ra cửa.

    Lý Quốc Hương sắc mặt lạnh lùng, giơ một ngón tay ra:

    - Đấy mới là một: Tên trưởng trạm thuế xuất thân từ gia đình quan lại phong kiến, bị lật đổ hồi “bốn thanh tra” đòi sửa sai.

    - Phố Đá Xanh thành lập một binh đoàn tạo phản, rồi lập doanh trại... Nghe nói, chính chủ nhiệm hợp tác xã cung tiêu bí mật cầm đầu, họ còn định mời Cốc Yến Sơn ra làm cố vấn, nhưng Cốc Yến Sơn suốt ngày bét nhè, chẳng thấy hứng thú gì.

    - Đó là hai: tình hình mới, binh đoàn tạo phản, chủ mưu là chủ nhiệm hợp tác xã cung tiêu, Cốc Yến Sơn chè rượu bét nhè chẳng thấy thích thú gì.

    Lý Quốc Hương đã lấy cuốn sổ ghi chép luôn giữ bên người, ghi chép lại tất cả.

    - Một cậu ở xưởng xay xát...

    - Sao?

    - ... Nhìn trộm bà vợ ông kế toán hợp tác xã tín dụng!

    - Hừ hừ! Bố tiên sư anh rắm thối! Ai bảo anh báo cáo cái chuyện khỉ đó!

    Lý Quốc Hương ngả người ra phía sau như né tránh, mặt bỗng đỏ bừng lên, và tóc cũng rối bù.

    - Không, không, ấy là: Một cậu ở xưởng xay xát nhìn trộm bà vợ ông kế toán hợp tác xã tín dụng, thấy có một lá đơn của ông ta tố cáo những tội trạng của chính chủ nhiệm lên trên huyện đấy ạ...

    - Ờ ờ, đấy là điểm thứ ba. Chuyện mới đấy, chuyện mới đấy.

    Lý Quốc Hương không thay đổi sắc diện nói tiếp:

    - Đấy anh xem xem, một người cán bộ lãnh đạo, nếu không đi đường lối quần chúng, không có thêm những cặp mắt, những đôi tai, thì khó mà đối phó được với tình hình... Anh còn nắm được những tình hình nào khác nữa, nói hết ra đi, để lãnh đạo trù tính, giải quyết.

    - Tạm thời như thế đã.

    Đến đây Vương Thu Xá đã ăn nói được trơn tru hơn, uống rượu, gắp thức nhắm cũng tự nhiên hơn, không còn lập cập, run rẩy, khép nép, khúm núm như lúc đầu nữa. Hình như anh ta đã chiếm được một vị trí ngang hàng trước mặt nữ chủ nhiệm rồi.

    Nữ chủ nhiệm bỗng nhiên nghiêm sắc mặt, mày chau, mắt trợn, nghiêm giọng quát:

    - Vương Thu Xá...

    Vương Thu Xá giật thót người, đôi chân run rẩy cầm cập, vội vã đứng dậy, ngay lập tức trỏ lại vẻ sợ sệt, co ro cúm rúm:

    - Thưa chủ nhiệm... tôi... tôi...

    - Ngồi xuống, ngồi xuống... Anh không có gì sai cả, không có gì sai phạm cả.

    Lý Quốc Hương rời khỏi chiếc ghế tựa mây, đi đi lại lại bên cạnh Vương Thu Xá, như đang suy nghĩ một quyết sách trọng yếu:

    - Tôi sẽ xử lý từng tên một. Những dân binh cốt cán, cơ sở của anh có bao nhiêu khẩu súng?

    Vương Thu Xá vò đầu, và cảm thấy sự việc nghiêm trọng.

    - Một trung đội vũ trang.

    Lý Quốc Hương lại hỏi:

    - Anh nắm chắc được trung đội này chứ?

    - Đó là cái chắc. Tôi còn là bí thư chi bộ đại đội!

    Vừa nói Vương Thu Xá vừa vỗ tay lên ngực mình.

    - Tốt! Không thể để bọn xấu cướp trắng đi được. Từ nay về sau, nếu không có lệnh của tôi, không người nào được phép hành động gì hết!

    - Tôi xin lấy cái đầu tôi ra bảo đảm. Tôi chỉ chịu trách nhiệm trước một mình chủ nhiệm, và nghe sự chỉ huy của một mình chủ nhiệm mà thôi.

    - Ngồi xuống, ngồi xuống đi, chúng ta cũng chưa đến nỗi phải gấp gáp lắm đâu.

    Đôi tay của Lý Quốc Hương ấn lên trên đôi vai của Vương Thu Xá. Vương Thu Xá vâng lời ngồi xuống. Anh ta bất chợt cảm thấy bối rối trước bàn tay vô cùng mềm mại và mịn màng của nữ chủ nhiệm. Lý Quốc Hương nói:

    - Quyền lực ở trong tay chúng ta, nên chúng ta phải đấu mưu trước, (nguyên văn: đấu văn). Chỉ có những người trong tay không có quyền hành gì, mới nghĩ tới chuyện đấu võ. Cái ý đó của tôi, anh có hiểu không? Động dao, động súng là hạ sách, vạn bất đắc dĩ mới phải dùng... Còn Lê Mãn Canh chúng ta phải lôi kéo bằng được và nắm cho chặt, cho nên hãy cứ để nó làm thư ký đội, dưới sự điều khiển của anh. Nhiệm vụ trung tâm của cách mạng hiện nay là ngăn chặn không cho bọn Cốc Yến Sơn ngóc đầu dậy, nắm lại quyền hành trong thị trấn, chúng sẽ điều hòa giai cấp, thi hành sản xuất thuần túy, giở những trò tình người, tính người ra... Ý của tôi, anh hiểu chứ?

    Đối với lòng can đảm cùng sự hiểu biết và những kiến giải của Lý Quốc Hương, Vương Thu Xá chỉ còn biết kính phục sát đất và gật đầu lia lịa như chim gõ kiến.

    Lý Quốc Hương quay trở lại ngồi xuống chiếc ghế bành mây đối diện với chiếc bàn tròn. Hai tay đặt trên thành ghế, mắt đăm đắm nhìn vị chủ nhân ngôi nhà sàn không chớp, như có đo phần chuếnh choáng:

    - Chúng ta nói thực lòng thực dạ với nhau, anh Vương ạ, sự hối cải của anh, sự bộc lộ của anh, làm tôi rất vui lòng. Từ nay về sau ta không nhắc lại nữa nhé. Tục ngữ có câu: Một mảnh giậu cần ba chiếc cọc, một hảo hán cần ba người bạn. Tôi không phải là hảo hán, nhưng tôi cần phải có mấy người đắc lực trong tay. Bây giờ tôi thử thách anh, nhưng tôi không hứa trước điều gì, chỉ cần anh vượt qua được những thử thách này, và trong hoàn cảnh thích đáng nào đấy, tôi sẽ đề xuất với chủ nhiệm ban cách mạng huyện, Dương Dân Cao, xem xem có thể để anh thoát ly sản xuất, làm phó chủ nhiệm ban cách mạng công xã được không...

    Thật đúng là một tiếng sấm mùa xuân. Vương Thu Xá run hết cả người lên. Mẹ ơi! Đừng bao giờ để lỡ mất cơ hội này, đừng bao giờ để lỡ mối duyên trời cho, nó sẽ quyết định cả số phận của nửa cuối cuộc đời này. Để tỏ rõ lòng quyết tâm của mình, hắn đứng dậy, và quỳ phịch xuống trước mặt Lý Quốc Hương:

    - Thưa Lý chủ nhiệm, thưa Lý chủ nhiệm! Tôi... tôi từ nay về sau, tôi xin một lòng một dạ vì chủ nhiệm... dù rằng người ta có bảo tôi là một con... tôi vẫn một mực trung thành...

    Lúc đầu, Lý Quốc Hương cũng hơi lấy làm kinh ngạc, nhưng ngay sau đấy chị ta mỉm cười vừa đắc ý, vừa cảm động, và trong giọng nói không tránh khỏi một chút õng ẹo ngất ngây:

    - Đứng lên, đứng lên! Chớ có quá đáng thế, anh là một người cán bộ, làm sao lại mềm yếu thế, để người ta trông thấy thì...

    Vương Thu Xá không đứng dậy mà chỉ ngửa mặt lên. Mặt hắn loang lổ nhoèn nước mắt trông giống như một con mèo đốm. Nữ chủ nhiệm xúc động, không kìm nén nổi mình, nên đã cúi xuống xoa xoa đầu tóc hắn:

    - Đứng lên nào, đứng lên. Một người đàn ông... Mới cắt tóc đấy à? Toàn mùi xà phòng thơm. Sao mà mặt anh nóng thế? Tối nay tôi cũng hơi chuếnh choáng đấy. Ngày tháng còn dài, thôi anh cũng về nhà đi...

    Vương Thu Xá đứng dậy, giương đôi mắt si mê, đăm đăm nhìn nữ chủ nhiệm, không muốn về, giống như người đang chờ đợi một tín hiệu hoặc một mệnh lệnh gì đó.
     
    vinhhoa thích bài này.
  5. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    TIN MẬT VỀ NHỮNG NGƯỜI QUÉT ĐƯỜNG


    TẦN THƯ ĐIỂN VÀ HỒ NGỌC ÂM LÀ HAI PHẦN TỬ loại 5 bị phạt, phải đi quét đường vào mỗi sớm hàng ngày đến nay cũng đã được hai, ba năm rồi. Hai người đều dậy từ rất sớm. Thông thường, họ bắt đầu quét từ giữa phố rồi toả dần ra hai đầu, mỗi người quét nửa phố. Cũng có khi họ quét từ hai đầu phố ập vào, cho đến khi gặp nhau ở giữa phố. May mà đường phố Đá Xanh không rộng, và chỉ dài chừng ngót ba trăm mét. Mỗi năm có ba trăm sáu nhăm ngày, năm nhuận có ba trăm sáu sáu ngày, khi người dân thị trấn còn nằm trong chăn, ngủ giấc ngủ “ban mai” quý giá, thì họ đã vung chiếc chổi tre lên, lầm lũi quét. Bất kể là mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông, chiếc chổi tre của họ cứ liên tục một nhát đi, rồi lại một nhát về.

    Tần Thư Điền quét đường, thường chú ý tới tư thế và bước đi của mình, điều đó, có lẽ có liên quan tới việc trước đấy anh đã từng làm biên đạo trong đoàn ca múa. Anh buộc chiếc chổi cho cao bằng người, với cái cán thật thẳng, tay phải đặt trên, tay trái đặt dưới, anh cầm cái chổi y như người diễn viên cầm chiếc mái chèo trên sân khấu vậy, và vung cái chổi lên như múa, đôi chân anh, một trước một sau thay nhau chuyển dịch, và bao giờ ngón chân cũng chạm đất trước, cũng lại giống như bước chân trên sân khấu theo nhịp trống nhịp phách. Do cái nhịp bước đều đặn và nhanh nhẹn như múa ấy nên công việc quét tước của anh bao giò cũng vừa nhanh vừa gọn, ít tốn mồ hôi. Vì thế mà hôm nào anh cũng quét đỡ cho Hồ Ngọc Âm một đoạn dài. Còn Hồ Ngọc Âm hầu như sáng nào cũng đầm đìa mồ hôi, nhìn cung cách vung chổi của anh Tần Rồ mà cô thấy thèm. Đó là một thứ lao động chân tay, đáng ra, người đàn bà phải làm giỏi hơn người đàn ông.

    Nói đến việc biểu diễn như thế của Tần Rồ trong mấy năm gần đây cũng đủ khối chuyện, chuyện vừa thương tâm, vừa buồn cười. Trong phong trào “bốn thanh tra”, anh là người bị đấu tố nhiều nhất trong số những phần tử loại 5 của thị trấn.

    Tiếp đó, sau khi cải tổ, đồng chí bí thư chi bộ đại đội, được sự đồng ý của tổ công tác, vẫn cho anh tiếp tục đảm nhiệm chức tiểu đầu mục của phần tử loại 5. Cái đó gọi là lấy độc trị độc. Có điều là anh bị thêm hai chữ “mũ sắt” vào bên cạnh chữ “phái hữu” để chứng tỏ rằng cái mũ ấy không thể bị mối mọt làm hỏng được, khẳng định là anh phải đội nó theo, khi chui vào quan tài. Thứ văn vật đó, ngàn vạn năm sau sẽ được khai quật lên, mời các nhà sử học khảo nhiệm, nghiên cứu, chọn lựa viết lấy một luận văn học thuật về giai cấp đấu tranh ở nông thôn Trung Quốc vào cuối thế kỷ XX. May mà Tần Rồ không lấy vợ, không có người nối dõi, nếu không, cái món di sản chính trị này, còn phải lưu truyền từ đời nọ sang đời kia. Riêng anh Tần Rồ cũng hiểu được một điều rằng: Trong phong trào nào đó đều cần phải có đối tượng, và trong đấu tranh đều cần phải có kẻ địch. Mỗi thôn mỗi trấn đều phải có lấy mấy con hổ chết, mấy cái bia sống, nếu không, về sau, mỗi cuộc vận động quần chúng, đấu tranh giai cấp, sẽ phát động ra sao, và lấy ai ra mà khai đao làm lễ tế cờ. Cứ mỗi lần cấp trên kêu gọi giữ vững đấu tranh giai cấp, nhưng cán bộ cơ sở phải mở đi mở lại các cuộc đại hội, họ lại lôi các phần tử loại 5 lên sân khấu vừa vạch tội, vừa phê phán, vừa đấu tranh, sau đó mới có cái báo cáo lên trên rằng, trong cuộc vận động, đã đấu tố kẻ địch của giai cấp được bao nhiêu lần (người), cùng với thăm nghèo hỏi khổ, rồi ngọt bùi nhớ lúc đắng cay, để giáo dục quần chúng, nâng cao giác ngộ, vân vân. Có những phần tử loại 5 trong đội sản xuất đã chết ngóm, thì bắt con cái chúng lên thế vị; tiếp tục những chức trách mà thằng cha phản động của chúng còn bỏ dở. Nếu không, làm thế nào cho cán bộ cơ sở, cùng những bần nông và trung nông lớp dưới hiểu được toàn bộ lịch sử giai đoạn xã hội chủ nghĩa, vẫn còn tồn tại giai cấp, cùng mâu thuẫn giai cấp, và đấu tranh giai cấp được? Không hiểu được, biết được cái đó, làm sao có thể nắm được sứ mệnh lịch sử trọng đại hàng đầu này? Trong khi các cán bộ ở khắp các thôn xã chỉ được tính công điểm mà không biết mặt đồng tiền, thì không thể nói gì được về bọn “buôn lậu” cùng bọn “đại diện cho giai cấp tư sản”. Chỉ có trông vào lũ phần tử loại 5, cùng con cái chúng, cán bộ cơ sở và quần chúng xã viên mới đối phó được, nhận thức được tính liên tục lịch sử của giai cấp và giai cấp đấu tranh, để năm năm ca hát, tháng tháng giảng dạy, ngày ngày tâm niệm. Nếu không rồi ra sẽ nói năng ra sao? Và ai nói được cho thật rõ ràng về sự liên quan của cái đó đối với đại kế hoạch trăm năm, đại kế hoạch vạn năm trong “tiền đồ, vận mệnh của Đảng và đất nước”.

    Trời đất ơi! Quả nhiên rằng, sau cải cách ruộng đất, trong cuộc vận động chưa từng có trong lịch sử, được tiến hành khắp các nơi trong nông thôn rộng lớn, cũng đã từng quy định lại thành phần giai cấp. Khi tư liệu sản xuất đã công hữu, và không còn tồn tại vấn đề người bóc lột người của chế độ tư hữu nữa thì người ta phải lấy thái độ chính trị, với tính co giãn cực đại để làm căn cứ vậy. Nhưng vẫn còn tồn tại vấn đề kế thừa các di sản, ví dụ như vấn đề thành phần giai cấp cha truyền con nối của các giai cấp sẽ tính sao? Ôi chao, vấn đề của con cháu, hãy cứ mặc cho cháu con nó giải quyết lấy. Nếu như cha ông giải quyết hết mọi vấn đề của con cháu đời sau, thì chẳng hoá ra là ta đã làm cho đầu óc cháu con mình quá đơn giản đi, và chúng sẽ trở thành những kẻ đần độn, chẳng biết làm việc gì sao? Những chuyện giật gân ấy, khó mà tưởng tượng ra được. Thôi, ta hãy quay về câu chuyện chính của chúng ta, để xem các kiểu biểu diễn, các cách trình bày trong mấy năm gần đây của anh chàng Tần Rồ phái hữu, đội mũ sắt thôi.

    Năm 1967, trong cuộc tranh đua màu đỏ, vào đúng lúc cuộc đấu tranh của “phái tả” đang lên như diều gặp gió, không biết từ đâu ập đến một ngọn trào: Trước cửa các nhà của các phần tử loại 5, đều phải đắp một bức tượng chó bằng đất, để phân biệt với các nhà của quần chúng cách mạng nói chung, và cũng là để tiện cho quần chúng thi hành chuyên chính. Cũng giống như cái hồi con cái của các phần tử đỏ loại 5, đeo băng đỏ lên ống tay áo đi làm hồng vệ binh, con cái của những bậc cha mẹ có vấn đề lý lịch chung chung, đeo băng vàng trên ông tay áo làm “hồng ngoại vi”, con cái của các phần tử đen loại 8, đeo phù hiệu trắng làm lũ “cún con” vậy. Trong đại đội sản xuất của thị trấn này có tất cả hai mươi hai tên phần tử loại 5 cần phải đắp hai mươi hai bức tượng chó. Đây là một loại công tác nghĩa vụ, không được chấm công điểm bồi dưỡng, tất nhiên rằng, công việc đó lại đổ lên đầu anh chàng Tần Rồ, vừa viết vừa vẽ được kia. Sau khi Tần Rồ nhận nhiệm vụ, bèn moi ở dưới ruộng lên từng gánh, từng gánh đất sét, đổ ở trước mỗi nhà phần tử loại 5 một gánh. Việc ấy có thể coi như một loại lao động mang tính nghệ thuật. Ngày nào cũng có rất nhiều người vây quanh xem xét, bình phẩm và mách nước, anh cần cù, lao động gian khổ, làm thêm giờ, thêm ca. Không đầy một tháng, trước cửa nhà hai mươi hai hộ phần tử loại 5 đã có hai mươi hai pho tượng đất. Có đực có cái, có cao có thấp, có béo có gầy. Bên dưới đế mỗi pho tượng đất, đều có tên và chức vụ của mỗi tên quỷ đen, và tất cả đều có ít nhiều nét đặc trưng giông giống với nét mặt của phần tử ấy. Cái đó, đã thành những tin tức kỳ lạ trong đại đội sản xuất của thị trấn một thời. Người lớn, trẻ con đã tự động thành lập những tổ đánh giá, nghiệm thu và xét thưởng. Mọi người đều nhất trí rằng: Pho tượng chó ở chính trước cửa nhà Tần Rồ, là pho tượng sinh động nhất, và giống hình dạng của anh nhất.

    - Này, anh bạn Tần Rồ! Cái nhà anh là rất tự tư tự lợi, đấy nhé, anh đã đổ hết sức vào việc nặn pho tượng chó của chính mình!

    - Hây! Hây! Không phải là tự tư tự lợi đâu... chỉ thị tối cao đã nói, đời sống là ngọn nguồn duy nhất của văn học nghệ thuật, đương nhiên là tôi thuộc bản thân tôi hơn cả, nên đã nặn ra được pho tượng giống hơn tất cả.

    Trong “lao động mang tính nghệ thuật” của Tần Rồ, có một thiếu sót nghiêm trọng, đó là anh đả quên không nặn một pho tượng chó, ở trước cửa nhà trọ Hồ Ký, nay đã được thay thế bằng cô phú nông, quả phụ trẻ măng Hồ Ngọc Âm. Cái “âm mưu” ấy mãi rất lâu về sau này mới bị phát giác, lập tức anh bị lôi ra đấu tố, và thẩm vấn: Tại sao lại đi bao che, và đã câu kết với Hồ Ngọc Âm những gì? Anh vỗ tay vào gáy một cái và lập tức cúi đầu nhận tội, với lý do là anh ta chỉ nhớ những tên phần tử loại 5 có tuổi trong đại đội sản xuất, và quên mất tên phú nông mới được quy định thành phần trong phong trào “bốn thanh tra”. Anh hứa miệng rằng sẽ lấy hành động thực tế để sửa chữa sai lầm nhưng rồi cũng kéo dài ra không biết bao nhiêu ngày. Ít lâu sau, cấp trên đã truyền đạt tinh thần xuống, nói: Trong việc đấu tranh, cần phải chú ý đến chất lượng và chính sách, đối với các phần tử loại 5, cần phải phê phán về tư tưởng cho sâu sắc và thấu suốt, kỹ càng, phê cho thôi hẳn, đổ hẳn, nhưng không nên vụ vào hình thức. Vì thế mà trước cửa nhà trọ Hồ Ký vẫn không thấy xuất hiện pho tượng đất. Hồ Ngọc Âm rất biết ơn Tần Thư Điền về việc này. Nghe đâu vào cái đêm Tần Thư Điền bị đấu tố, cô đã rúc vào buồng khóc đến sưng cả mắt. Anh Tần đã chịu tội thay cho cô, cứu được mạng sống cho cô. Nếu không, khi cô nhìn thấy lũ trẻ con, vạch quần đái vào pho tượng đất trước cửa nhà mình, có lẽ cô phải tự tử mất.

    Mặt dù văn kiện của cấp trên yêu cầu không nên vụ vào hình thức, nhưng mỗi khi phần tử loại 5 bị lôi đi diễu hành bêu riếu, bảng đen vẫn phải đeo, mũ cao vẫn phải đội. Thị trấn Phù Dung là địa phương bé nhỏ, lại là nơi tỉnh giới, xa xôi hẻo lánh, chứ ở Bắc Kinh mỗi khi mở đại hội đấu tranh, người ta còn bắt những dôi tượng bị đấu tố đeo bảng đen, rồi cắm cọc đem trói giật cách khỉ vào đấy nữa kia. Có một số đối tượng bị đấu tố vốn là cán bộ to, với những người là cách mạng lão thành cả. Bắc Kinh là đâu, thị trấn Phù Dung là đâu, so sánh làm sao được? Trên bức bản đồ to bằng nửa bức tường, mà còn tìm chẳng ra cái chấm đen to bằng đầu que diêm của thị trấn, còn nói gì đến cái bảng đen của hai mươi ba phần tử loại 5, đều do một tay cao thủ Tần Rồ viết ra. Để thể hiện cái đức đại công vô tư, Tần Rồ đã làm lấy tấm bảng đeo trên cổ mình to hơn của người khác một chút. Trên tấm bảng đen của mỗi phần tử loại 5 đều viết rõ “chức vụ” của từng người, bên dưới “chức vụ” là họ tên, đồng thời dùng bút son gạch chéo lên một chữ “X” biểu thị tội trạng đáng chết đến vạn lần, đáng lý ra mỗi lần đem đi diễu hành bêu riếu về là phải bắn bỏ một lần. Lần này Tần Rồ lại giở cái trò bậy bạ ra, trên tấm bảng đen của “Hồ Ngọc Âm phần tử phú nông mới” anh đã bỏ mất mấy cái gạch chéo bằng son đỏ. Được cái đông người dễ quáng mắt, nên “âm mưu” lần này, không bị đôi mắt sáng suốt của quần chúng cách mạng phát hiện, và anh đã thoát được tội. Hồ Ngọc Âm phần tử phú nông mới, xuất thân từ một cô mở quán bán canh bánh tráng, mỗi lần bị lôi đi diễu hành bêu riếu, lần nào cũng nước mắt lưng tròng, nên cô biết ơn tấm lòng quý hoá ấy của anh rất nhiều. Là người cùng cảnh lâm nạn với nhau, và trong cái thế giới thê thảm này, cô vẫn còn nhận được một chút ấm áp của mùa xuân.

    Mọi người trong thị trấn đều bảo rằng, trong hơn mười năm nay Tần Rồ đã bị đấu tố đến mức độ nhờn đi và chai ra rồi, coi như một vận động viên lão thành. Mỗi lần anh bị dẫn đi đấu tô, đối với anh cũng như chuyện đi làm vậy thôi, mặt chẳng trắng bệch ra và tim không đập mạnh, nghiễm nhiên như một tên đầu mục đen thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt đã được ủy thác:

    - Tần Thư Điền!

    - Có tôi!

    - Tên phái hữu đội mũ sắt!

    - Có mặt!

    - Tần Rồ!

    - Đã có mặt!

    Bao giờ cũng vậy, giọng người gọi hách dịch, giọng người đáp, to tát rõ ràng. Khi phong trào “Một phê hai đấu, làm trong sạch đội ngũ giai cấp” bắt đầu, toàn công xã mở một đại đội hàng vạn người để tiến hành động viên. Những phần tử loại 5 của các đại đội đều bị lôi đến hội trường của đại đội để giáo dục thị uy, từng xâu từng chuỗi giống y như những xâu ếch người ta bán ở chợ. Sau khi bêu riếu xong, họ nhận được lệnh phải đứng dồn vào một góc tường để được giáo dục tiếp về chính sách. Nhưng rồi sau khi đại hội giải tán, mọi người đã ra về hết, nhưng hai mươi ba tên phần tử loại 5 thị trấn Phù Dung đã bị những người dân quân áp giải bỏ quên ở chỗ góc tường. Một trường hợp không nghiêm túc đã xuất hiện trong cuộc đấu tranh giai cấp nghiêm túc. Nhưng chẳng may khi bắt đầu đại hội, đã công bố kỷ luật đại hội, trong đó có một điều: Nếu chưa có lệnh của bí thư chi bộ đại đội sản xuất, các phần tử loại 5 không được phép nói và đi lại lung tung, để tránh những sự phá hoại chương trình của đại hội. Vậy thì làm sao bây giờ, chẳng lẽ cứ đứng chôn chân ở cái góc tường này cho đến năm trâu tháng ngựa nào? Cuối cùng Tần Rồ lại nghĩ ra được một cách. Anh bảo những người đồng loại của mình đứng thành hàng, rồi anh hô khẩu lệnh:

    - Nghiêm! Bên trái nhìn thẳng! Đằng trước thẳng! Báo cáo quân số, nghỉ!

    Rồi anh quay đằng sau, rất đúng yếu lĩnh, bước lên hai bước, chân nọ dập vào chân kia, đứng nghiêm, nhìn thẳng vào trong hội trường trống rỗng, giơ tay phải ngang mày chào, rồi rõ ràng rành mạch thỉnh thị:

    - Báo cáo Lý bí thư! Báo cáo Vương bí thư! Hai mươi ba tên phần tử loại năm ở thị trấn Phù Dung, hôm nay đã đến trước đại hội một vạn người tiếp nhận phê phán, giáo dục xong. Xin cho phép chúng tôi trở lại đội sản xuất để tiếp tục lao động cải tạo, hối lỗi, làm lại cuộc đời mới!

    Anh đã thỉnh thị xong, dừng lại đợi một lát, làm vẻ như đang nghe ai đó trả lời và ra một mệnh lệnh, một chỉ thị nào đó. Sau đó anh nói tiếp:

    - Có! Xin nhận lệnh chỉ thị của thượng cấp, thực thà tuân theo pháp luật... Toàn đội giải tán!

    Như vậy, anh coi như đã hoàn tất mọi thủ tục, cho mọi người quay về nhà.

    Sáng sớm, hơi sương mù mịt. Trên đường phố Đá Xanh của thị trấn Phù Dung, chó không sủa, gà không gáy, người và lục súc còn đang chìm vào giấc ngủ ngon lành, Tần Thư Điền đã kéo lê chiếc chổi tre đi gọi Hồ Ngọc Âm. Hai người đều là người đầu tiên, gặp nhau mỗi sáng sớm. Bao giò cũng vậy, họ đứng lại trước cửa nhà trọ Hồ Ký, đưa mắt nhìn nhau, cùng cười:

    - Anh! Anh dậy sớm thật. Lần nào cũng đến gọi em.

    - Ngọc Âm, em kém anh đến ngót mười tuổi, đang sức ăn sức ngủ.

    - Xem ra đêm qua anh lại mất ngủ phải không?

    - Anh á? Ôi dào, trước đây lao động trí óc, nên đã bị bệnh mất ngủ.

    - Đêm không ngủ được thì anh làm gì?

    - Anh hát những bài trong “sàn hát mừng”.

    Nhắc đến “sàn hát mừng” là họ lại im bặt. “Sàn hát mừng” đó là những bài hát tai vạ, đã đem lại cho họ những bất hạnh và đau khổ. Cuộc gặp gỡ vào sáng sớm mỗi ngày của họ, là một việc không thể thiếu được trong đời sống đáng thương của họ. Ngẫu nhiên vào một sớm nào đó, ai không đến quét phố, trong lòng họ bỗng cuống cuồng lo sợ, và hình như thiếu đi một khoảng rất lớn... và một người âm thầm lặng lẽ đi quét hết cả dãy phố, sau đó mới đi dò hỏi, thăm nhau. Cho đến tận sáng sớm hôm sau, khi gặp lại nhau, nhìn nhau một cái, cùng mỉm cười, khi ấy mới thực là yên lòng yên dạ.

    Sáng sớm hôm đó, trời có sương mù. Họ bắt đầu quét từ giữa phố quét ra. Họ quay lưng vào nhau và bắt đầu động chổi. Tất cả đều tĩnh lặng, cả con phố chỉ vang lên những tiếng sạt sạt sạt... sạt sạt sạt... của chiếc chổi tre, họ quét lê trên mặt đường. Tần Thư Điền quét đến đầu con hẻm kề sát bên cửa hàng của hợp tác xã cung tiêu, thì tựa lưng vào tường nghỉ, bỗng nhiên nghe thấy tiếng cánh cửa ngách của hợp tác xã, trổ trên bức tường chạy sâu vào trong ngõ, có tiếng cọt kẹt mở, anh tò mò, nghiêng người, nhô nửa khuôn mặt mình ra khỏi góc tường nhìn về phía ấy, anh thấy một bóng đen của một thân hình cao lớn, từ trong cửa ngách đi ra, và ngoặt tay lại phía sau, khép chặt cửa lại. Tần Thư Điền giật mình: “trộm”? Nhưng không phải, hai tay người đó trống không, và cũng chẳng thấy trên người có chỗ nào phồng phồng to ra, làm gì có tên trộm nào lại như thế? Trong lòng anh rất lấy làm lạ, mắt anh chăm chú nhìn theo cái bóng đen, đi dọc theo chân tường, xa dần. Anh biết rằng, tất cả cán bộ công nhân viên cửa hàng của hợp tác xã cung tiêu đều tập trung ở cả phía sân sau, trên tầng gác chỉ có một mình nữ chủ nhiệm Lý Quốc Hương ở mà thôi. Bóng dáng người lẻn ra đi này trông rất quen. Anh không ho he, và cũng chẳng dám ho he gì. Buổi trưa hôm đó, anh cố ý lảng vảng qua cửa hàng hợp tác xã cung tiêu, cũng không thấy người của cửa hàng kêu mất thứ gì.

    Mấy hôm sau, một buổi sớm không có sương mù. Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm lại chia tay nhau bắt đầu từ giữa phố, mỗi người quét theo phần mình ra đầu phố, anh quét tới chỗ góc tường chạy vào trong ngõ hẻm, anh lại tựa lưng vào tường nghỉ một lát. Khi đó anh chẳng đợi tiếng cửa ngách cọt kẹt mở, anh đã ghé nửa khuôn mặt mình ra khỏi góc tường, nhìn về phía ấy. Một lát sau, cánh cửa ngách cọt kẹt kêu lên một tiếng cái bóng đen của một thân hình cao lớn, lại từ trong cửa ngách bước ra, lại quặt tay về phía sau khép chặt cánh cửa, vội vã đi dọc theo chân tường trong hẻm biến mất. Nhưng lần này Tần Thư Điền đã nhìn rõ bóng người ấy, anh giật mình kinh ngạc, là hắn, trời ơi, ngày nào cũng lẻn vào bên trong tường làm gì vậy? Việc hệ trọng này Tần Thư Điền không dám hở ra. Nhưng dù sao, anh cũng là một “người còn sống, lòng còn chưa chết”, anh kéo lê chiếc chổi chạy về phía đầu phố đằng kia, gọi Hồ Ngọc Âm đi vào một chỗ kín đáo, ghé sát vào tai người quả phụ trẻ, tiết lộ tin tức “tuyệt mật” ấy. Nói xong anh đâm sợ, dặn đi dặn lại Hồ Ngọc Âm:

    - Tuyệt đối, tuyệt đối không thể nói chuyện này cho người thứ ba biết đâu đấy. Việc này, tất cả dân phố chẳng ai dám động vào đâu, chúng mình cũng chỉ là có mắt mà như mù. Hơn nữa, thân phận của mình lại thế này...

    - Là hắn?

    - Đích thị là hắn!

    - Thị nào?

    - Là thị!

    - Là hắn, là thị, là hắn, anh nói thế có giời mà hiểu được đó là hắn nào, thị nào.

    Hồ Ngọc Âm có vẻ vui vui vì chuyện này, và mặt cô hơi ửng đỏ lên:

    - Khỉ! Anh ghé sát vào tai em mà thì thào. Râu ria lại tua tủa, làm đau hết cả mặt em rồi đây này...

    - À à, râu ria của tôi... tôi sẽ cạo nhẵn nó đi, ngày nào cũng cạo...

    Họ mặt đối mặt, mắt nhìn mắt, đây là lần đầu tiên họ sát vào gần nhau đến thế.

    Lại vào sáng sớm một hôm khác, Tần Thư Điền nghĩ ra một trò ma. Họ gặp nhau ở giữa phố, Tần Thư Điền nói cái trò ma đó ra. Hồ Ngọc Âm chỉ cười cười, nói: “Tùy anh”! Đó là lần đầu tiên họ vi phạm vào lệnh cấm. Họ bỏ chưa quét đường vội, họ đi đến cửa chuồng trâu của đội sản xuất, lấy xẻng xúc lấy một đống thật to, toàn những của nhão nhoét ấy, đem về đổ vào đúng giữa cửa ngách trong hẻm của hợp tác xã cung tiêu, đúng vào cái chỗ mà hễ người nào từ bên trong, mở cửa ngách đi ra, thì bước chân đầu tiên sẽ dẫm lên đó. Sau đấy cả hai người đứng nấp vào chỗ góc tường, chỉ để lộ ra nửa khuôn mặt, nhìn chăm chăm về phía cửa ngách bên tường vây. Thân thể hai người bất chợt như gắn vào nhau, mà họ chẳng chú ý gì. Đợi một lúc lâu lắm, có tiếng chân từ trên gác của cửa hàng hợp tác xã cung tiêu bước xuống thang. Tần Thư Điền người cao, nên anh phải ngồi thấp xuống theo kiểu nửa ngồi nửa quỳ, còn Hồ Ngọc Âm tỳ cằm lên vai anh, cùng nhìn về một hướng. Họ rất thích thú, nhưng đồng thời cũng thấy rất căng thẳng, hình như họ mơ hồ nghe thấy tiếng tim đập của nhau. Hồ Ngọc Âm nhô hẳn cả nửa người ra khỏi góc tường. Tần Thư Điền đứng dậy ôm vai cô kéo lại, rồi không buông tay ra nữa, thậm chí càng ngày ôm càng chặt hơn. Bậy quá! Hồ Ngọc Âm đập hai cái thật mạnh, anh mới chịu buông tay ra. Tiếng cánh cửa ngách trong hẻm cọt kẹt kêu lên, lại vẫn cái bóng đen ấy lẻn ra, dứt khoát bước chân đầu tiên sẽ dẫm phải cái đống nhão nhoét quỷ quái kia, một tiếng bịch vang lên như tiếng một cây gỗ đổ.

    - Đáng đời! Đáng đời! Đáng đời thằng giời đánh!

    Hồ Ngọc Âm vỗ tay vào nhau và cười khanh khách, y như một cô bé con. Tần Thư Điền vội vã bịt miệng cô lại, giữ chặt lấy tay cô, và trợn mắt nhìn cô. Tay của Tần Thư Điền nóng hôi hổi. Bất giác như có một luồng hơi ấm truyền vào người cô, tim cô.

    Hai người quét đường đứng nép vào góc tường theo dõi, thấy người đó ì ạch, hậm hụi lồm cồm bò mãi vẫn không đứng dậy được, xem ra như bị gãy xương ở chỗ nào. Tần Thư Điền sợ hãi giật mình, một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu anh, cảm thấy đây chính là một cơ hội “lập công chuộc tội” anh liền ghé sát vào tai Ngọc Âm nói mấy câu “cứ như thế như thế mà làm”. Trên cằm anh, râu ria đã được cạo nhẵn nên không còn làm cho mặt người ta bị đau nữa. Hồ Ngọc Âm nghe theo lời anh, liền đẩy đôi tay của anh ra, quay người ra đầu phố quét đường.

    Tần Thư Điền nhón chân nhón tay ra giữa phố, sau đó anh bắt đầu quét từng nhát, từng nhát một. Rồi đột nhiên, như phát hiện ra một điều gì đấy, kéo theo chiếc chổi tre chạy vội về phía tường vây có cửa ngách của hợp tác xã cung tiêu, cùng với những câu hỏi liên tục:

    - Đứa nào đấy? Đứa nào đấy?

    Anh đã chạy tới chỗ cửa ngách trong hẻm, làm bộ giật mình nói nho nhỏ:

    - Ôi bí thư Vương, làm sao đi đứng không cẩn thận để ngã ở đây? Thôi dậy đi, dậy đi!

    Vương Thu Xá vẫn ngồi phệt mông xuống đống phân trâu, thối hoăng hoắc không sao chịu đựng nổi. Hắn giận dữ chửi bới, nhưng lại không dám chửi to:

    - Hai cái đứa phần tử loại 5 chúng mày quét phố mà lại để sót cứt trâu làm ngã người ta.

    - Tôi xin nhận tội, tôi xin nhận tội. Nào nào, bí thư Vương tôi, tôi, xin đỡ ông dậy!

    Tần Thư Điền lấy tay, nhấc nhấc một cẳng chân của Vương Thu Xá bị kẹt dưới cống ngầm lên.

    - Ôi ôi! Đau chết mất! Sái mất cái chân này rồi!

    Vương Thu Xá đau đến toát mồ hôi hột.

    Tần Thư Điền vội vã đứng xoạc chân, không sợ bẩn sợ thối, hai tay ôm lấy cặp mông Vương Thu Xá đỡ cho hắn ngồi lên bậc cửa. Tần Thư Điền quan tâm hỏi:

    - Bây giờ tính sao đây ông bí thư Vương? Về nhà! Hay tôi cõng ông đi trạm y tế?

    - Về nhà! Về nhà! Lần này mày có vẻ khá đấy Tần Rồ ạ, cõng tao về nhà thôi. Ái ái! Sau này tao sẽ không quên mày, ối ái...

    Vương Thu Xá đau đớn vô cùng, nhưng vẫn không dám kêu to, sợ làm kinh động phố phường.

    Tần Thư Điền cong người xuống, cõng Vương Thu Xá đi. Anh thấy thằng chủ nhân ngôi nhà sàn, nặng như một con trâu, tất cả là do dầu do mỡ tích tụ lại trong mấy năm sinh hoạt học tập và vận dụng đường lối chính sách. Chả thế mà đêm nào cũng phá chuồng đi liếm sương đêm và ăn cỏ dại.

    - Ông bí thư Vương! Hôm nay ông dậy sớm quá, vận xúi, nên đã gặp con ma xó nào đấy chặn đường vật ngã!

    - Câm cái mồm thối của mày lại! Đi nhanh nhanh lên một tý, đừng để người ta nhìn thấy, một phần tử loại 5 lại cõng ông bí thư, thì ảnh hưởng rất không tốt... rồi, rồi mày lên núi hái cho tao mấy nắm lá chuyên rịt vào những chỗ bị đòn đau ấy.

    Cả trăm ngày đau gân đau cốt. Chủ nhiệm ngôi nhà sàn nằm bẹp trên giường hơn hai tháng trời. Cũng may mà được những ông lang chân đất ở hợp tác xã đông y mang thuốc đến tận nhà cho, đồng thời vực dậy, giúp đỡ cho một vài công việc. Lý Quốc Hương vì bận bịu với công việc, nên tạm thời chưa bố trí thời gian đến thăm viếng được. Tạm thời ròi khỏi “căn gác sái cẳng” về ngồi chết dí trên ban cách mạng huyện.

    Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm vẫn như xưa, dậy thật sớm ra quét phố. Phố Đá Xanh được họ quét sạch như lau như ly. Ban đầu cả hai người đều khoái chí. Hằng ngày vẫn gặp nhau ở cửa nhà trọ Hồ Ký, rồi người nọ nhìn người kia, người kia nhìn người nọ, mặt nóng ran lên, và tim đập thình thình. Sau cái trò chơi khăm Vương Thu Xá, hai người càng ngày càng thân mật với nhau hơn. Và hình như người này không muốn xa rời người kia nữa, trong lòng mỗi người hình như cố kìm nén một nỗi đau khổ khó nói thành lời, một tình cảm day dứt bồi hồi. Có một hôm, vào lúc trời nhá nhem tối, Tần Thư Điền đã mang tới biếu Hồ Ngọc Âm một chiếc áo mặc mùa hè có in hoa chìm, nhạt, đựng trong túi ni lông, bên ngoài buộc một giải lụa đỏ... Trời đất ơi... Cô sợ hết hồn. Từ xưa tới nay cô chưa bao giờ trông thấy chiếc áo vải đẹp tốt như thế. Một người với thân phận như thế này, có xứng đáng mặc nó hay không? Mặc được không? Sau khi Tần Thư Điền ra về, cô rút chiếc áo ra khỏi túi ni lông, mặt vải đẹp, trơn bóng như lụa. Cô không dám mặc thử. Cô ôm chặt tấm áo vào ngực, vùi đầu vào trong chăn khóc suốt cả đêm. Cô ôm chiếc áo như ôm chặt lấy một trái tim nóng bỏng, và có cảm giác rằng mình đang phạm tội. Cô quyết định vào ngày hôm sau, lừa lúc không có ai để ý lẻn ra bãi tha ma, đến phần mộ Lê Quế Quế, thắp cho anh một nén nhang, đốt cho anh mấy tờ giấy tiền, rồi chuyện trò tâm sự với anh, bàn bạc với anh. Sinh tiền, bao giờ Quế Quế cũng nghe theo, làm theo lời cô, yêu cô, chiều cô. Linh hồn Quế Quế chắc cũng phù hộ cho cô, tha thứ và không giận cô, cô mong mỏi ban đêm anh về báo mộng cho cô. Sáng sớm hôm sau khi Tần Thư Điền lại đến gõ cửa, gọi cô đi quét đường, có đến ba bốn lần cô định mặc chiếc áo lên người, rồi cô quyết định mặc vào trong, cho nó dính vào da vào thịt. Ngay cả đến cổ áo cô cũng nhét kín vào trong, để không ai nhìn thấy.

    Họ lặng lẽ quét phố Đá Xanh... và rồi trong lúc đang yên đang lành, Tần Thư Điền bỗng quẳng chiếc chổi trong tay đi, dang cả hai cánh tay, mạnh bạo, ôm chặt lấy cô.

    - Anh điên đấy hả? Trời đất ơi, anh Tần, anh điên rồi sao? Anh Thư Điền...

    Giọng Hồ Ngọc Âm run rẩy, trong mắt tràn đầy lệ... cô thút thít khóc. Cô để Tần Thư Điền ôm cô và vỗ về cô một lúc lâu cô mới gỡ tay anh ra, đẩy anh ra. Cô tiếc nuối, nhưng không thể không đẩy anh ra. Trời đất, thế này là thế nào đây? Cả hai đều là lũ phản cách mạng, là người sống dưới kiếp người, mà còn nói đến chuyện yêu đương được sao, còn có thể có cái tình cảm bình thường của con người được sao? Không được, không được, không được... Cô giận, cô rất giận, cô giận ngọn lửa trong trái tim mình còn chưa tắt hẳn! Tại sao còn chưa dập tắt? Tại sao không biến thành một con người bằng gỗ, một con người bằng đá? Cái ngọn lửa dầy vò con người cô. Cuộc đời đã cướp đi, lột đi của cô tất cả. Cuộc đời đã coi cô như một con hủi, đẩy cô ra khỏi cái vòng của những con người bình thường, đã ghi tên cô vào một danh sách khác, nhưng lại lưu lại cho cô cái ngọn lửa quỷ quái này. Suốt cả buổi sáng, cô vừa quét đường vừa khóc.

    Sau khi xảy ra chuyện đó, có đến nhiều buổi sớm liền, họ chỉ biết lặng lẽ quét phần đường của mình, chẳng ai nhòm ngó ai, và trong lòng họ quặn đau. Họ đều khát vọng được sống một cuộc sống của “con người”. Tần Thư Điền vẫn cứ như mọi khi, mỗi sáng sớm, đều đến chờ chực ở cửa nhà trọ Hồ Ký cũ, cho đến khi Hồ Ngọc Âm ra khỏi giường, mở cửa, anh mới lặng lẽ quay người đi... Thời gian như một thầy thuốc của cuộc sống, nó có thể làm vết thương trong tim khép miệng lại, và tiêu diệt được những nỗi thống khổ tuyệt vọng, làm cho những tình cảm khó chế ngự, được trấn tĩnh lại và quên lãng đi. Mặc dù sự trầm tĩnh và quên lãng đó chỉ là tạm thời, ở bên ngoài mặt. Khoảng độ non nửa tháng sau, hình như Tần Thư Điền đã bình tĩnh lại được. Hồ Ngọc Âm đã cười với anh, và đã gọi là “Anh Tần”. Song trong những nụ cười ấy, những tiếng gọi ấy, so với trước kia, nó tràn đầy những nồng thắm, ngọt ngào. Từ đó, hình như họ đã có được một mật ước với nhau, không bao giờ còn nhắc tới cái trọng tội có thể dẫn người ta lên giàn lửa. Với lại, như thế họ cảm thấy tự nhiên hơn, gần gặn hơn. Cuộc sống quay trở lại quỹ đạo cũ. Họ như hai cỗ máy quét đường phố Đá Xanh và không hiểu tại sao mình vẫn sống. Nhưng rồi cảnh đó không duy trì được lâu. Ít lâu sau, Hồ Ngọc Âm bị cảm hàn, sốt cao, nằm trên giường nói mê nói sảng. Khổ cho Tần Thư Điền ở chỗ, mỗi sáng dậy sớm, phải làm công việc lao dịch của hai người, vung chiếc chổi quét từ đầu phố đến cuối phố. Sau đó lại phải phát cái nhúm kiến thức về y dược của mình, lên núi hái dược thảo, sao sắc cho “đồng phạm” uống. Những người ở thị trấn miền núi này đã từ lâu không thèm quan tâm lắm tới cả hai nhân vật này, nên chẳng ai chú ý tới họ cả. Hồ Ngọc Âm ốm nặng đến nỗi chỉ ngồi ngả được ở trên giường, còn tất cả các việc ăn uống thuốc thang đều trông vào đôi tay của Tần Thư Điển cả. Hàng ngày, Hồ Ngọc Âm mắt rơm rớm lệ, bằng giọng nói run rẩy gọi một tiếng:

    - Anh Thư Điền...

    Người sang có số phận sang, người hèn có số phận hèn. Mất hơn mười ngày Hồ Ngọc Âm mới qua khỏi được, rồi sớm sớm hàng ngày lại đi quét đường.

    Một buổi sớm, vào khoảng năm giờ kém, Tần Thư Điền lại đến gọi, đánh thức Hồ Ngọc Âm và hai người lại đi ra giữa phố. Nhưng lúc ấy bỗng sấm chớp ầm ầm, gió như lốc cuốn, sắp có một trận mưa thật to sập xuống. Mùa xuân năm nay mưa quá nhiều. Và họ vẫn cứ máy móc quét đường phố, có điều khác là bây giờ họ song song với nhau, cùng quét phố, mỗi người một bên. Trận mưa to đã bắt đầu ập xuống, bầu trời đen ngòm giống y như trôn chảo bị rỗ lỗ chỗ, sàng cả một cột nước, thành những mũi tên lao xuống.

    Hồ Ngọc Âm chợt kéo tay Tần Thư Điền chạy mưa. Họ chạy! Chạy về đến nhà trọ Hồ Ký cũ, hai người đã ướt sũng như gà nhúng nước. Trong nhà vẫn còn tối om. Trên khắp người họ không còn chỗ nào khô ráo. Họ cùng cởi hết quần áo ướt. Họ đem vắt cho ráo nước. Hồ Ngọc Âm trong bóng tối, rét run lên răng đánh vào nhau cầm cập:

    - Anh Thư Điền! Anh Thư Điền! Anh lại đây đỡ em một tý, em... em đến chết cóng mất...

    - Trời đất ơi, mới ốm dậy, lại nhiễm lạnh nữa rồi. Anh đỡ em lên giường ngủ, chui vào trong chăn cho ấm...

    Tần Thư Điền lần mò trong bóng tối, tối đến mức có xòe bàn tay ra cũng không nhìn thấy ngón. Khi đôi tay của anh chạm vào người Ngọc Âm, cả hai đều giật thót ngươi, họ đã quên đi rằng, họ đã cởi hết quần áo trên người.

    Mưa to gió lớn, mãnh liệt điên cuồng. Hỡi ông sấm bà sét xin đừng phẫn nộ, xin đừng thét gào... hãy đem màn mây màn mưa, phủ kín lên trên thế gian này. Một đôi tội phạm, một đôi quỷ đen chính trị ởtrên dương gian này, nguồn sống trong con người họ còn chưa bị khô cạn đi, đốm lửa trong linh hồn họ chưa bị tắt ngấm, họ vẫn còn có thể bật ra tia sét tình cảm, họ còn tỏa ra ánh sáng của sinh mệnh. Gốc cây khô của tình yêu, gặp gió gặp mưa vẫn bật lên được những cành non lá nõn, vẫn còn nảy ra được một bông hoa còm cõi, kết ra được trái đắng chát chua.
     
    vinhhoa thích bài này.
  6. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    “EM LÀ CÔ GÁI THÔNG MINH”


    HỒ NGỌC ÂM THƯỜNG LẤY LÀM KINH NGẠC THẤY mình có thể sống được, vượt nổi và lại còn có cả tình yêu với Tần Thư Điền. Mỗi lần đem ra đấu tố, đánh đập lôi đi bêu riếu, giáo dục xong, rồi bị áp giải về nhà trọ Hồ Ký, cô đều cảm thấy rằng, cuộc sống của mình thế là đã chấm dứt rồi, chỉ còn dư lại một hơi thở thoi thóp mà thôi. Nhiều khi ngay cả tấm bảng đen trên cổ cũng không thèm nhấc ra, rồi rơi vào giấc ngủ chập chờn, mệt mỏi với nguyên cả quần áo trên người. Nhưng đến sáng hôm sau khi tỉnh dậy, rồi mở to đôi mắt ngạc nhiên gần như không dám tin rằng: Mình còn sống, lạ thật? Tại sao lại chưa chết nhỉ? Cô đưa tay lên, úp vào ngực mình, thấy trái tim vẫn thình thịch, thình thịch đập đều. Điều đó có nghĩa là, cô phải ra khỏi giường, phải ra đường quét rác. Cô tự đầy ải mình, tự thương xót mình, và cô đã từng toan tính rằng, cô sẽ chọn lấy một ngày tốt, một ngày lành nào đó mà tự tử cho rồi, đó là ngày mồng Một hay ngày Rằm. Đúng vậy, chết là sự việc quan trọng cuối cùng của mình, nhất định phải chọn vào ngày lành, ngày tốt. Mà phải chết làm sao cho đẹp. Không thể lấy thừng mà treo cổ lên, không thể đâm một lưỡi kéo vào tim, không thể đi mua thuốc chuột về mà nuốt. Chết như thế là hung, sẽ bị phá trướng. Tốt nhất là đâm đầu xuống sông.

    Người ta sẽ vớt mình lên, sẽ đặt cho thật thẳng thắn, gọn gàng, sạch sẽ. Rồi để lên tấm cánh cửa, trông như người nằm ngủ, đầu tóc không bị rối. Có điều, như thế khuôn mặt sẽ bệch bạc ra như tờ giấy trắng, người sẽ bị tím tái lại và trương phình lên. Hồ Ngọc Âm đã từng là người được xếp vào hàng Ngọc Nữ trước mặt Quan Âm Bồ Tát, chết đi cũng phải là một Ngọc Nữ. Sau này có biến thành ma thành quỷ, cũng không đến nỗi khó coi, làm người ta phát sợ.

    Do đó cô đã từng mấy lần đi ra chỗ cầu Đá Trắng, bắc ngang trên con ngòi Ngọc Diệp, đứng ngây ra nhìn xuống con ngòi, cầu Đá Trắng cao tới ba, bốn trượng, nước ngòi xanh như một tấm gấm xanh, hai bên bờ ngòi là những vách đá lúc nào cũng ướt dầm dề, trên vách bám đầy những cây lưỡi hổ, dây phượng vĩ và những rẻ mây. Nếu đứng từ trên bờ đá nhìn xuống sẽ thấy trên nước dưới nước, có hai chiếc cầu Đá Trắng, một xuôi một ngược và bốn vách núi. Người đứng ở trên cầu nhìn xuống, bóng in rõ trên mặt nước, rõ đến độ nhìn thấy cả lỗ đồng tiền trên mặt. Cầu cao, bờ dốc, nước sâu. Cho nên triều đại nào cũng có những người đàn bà khốn khổ đến cây cầu này tự vẫn. Dần dà những cư dân trong thị trấn đã đặt cho cây cầu này một tên khác: cầu Cô Nữ. Mỗi lần Hồ Ngọc Âm trèo lên chiếc cầu mang tên “Cô gái cô đơn” này, cúi đầu nhìn bóng mình in dưới nước, cô đau lòng, cô khóc: Ngọc Âm ơi Ngọc Âm, đây chính là cô sao? Cô mà là người đàn bà xấu xa sao? Cô đã làm hại ai? Ở trong thị trấn cô có kẻ thù không đội trời chung nào? Làm gì có! Không có! Cô Hồ Ngọc Âm ở thị trấn còn sợ dẫm cả vào con kiến cơ mà, cô ít khi đỏ mặt lên với ai bao giờ, nói năng cô cũng chưa bao giò lên giọng, bọn trẻ con, cô cũng chưa từng hoạnh họe một đứa nào. Với mọi người cô chưa bao giờ cầu lợi, bạc bẽo, và bủn xỉn. Trước kia cô cũng đã từng giúp đỡ khối người... Thế là thế nào nhỉ! Cô không hãm hại ai, không ghét bỏ ai, không cầu lợi của ai, không thù hằn sống chết với ai, vậy mà người ta lại thù hằn cô, chỉnh đốn cô, đấu tố cô, và coi cô như một con người hèn hạ nhất, ty tiện nhất trên cõi đời này. Làm cho cô ra đường không cất nổi đầu lên, không dám chiềng mặt ra trước mọi người, có muốn cười cũng phải lấm lét nhìn bốn xung quanh... Cô đã mắc cái nghiệp chướng nào, mà rơi vào cái số phận khốn khổ như thế, nhận được sự ứng báo như thế? Cái cuộc đời này đối với cô quá bất công, quá tàn nhẫn! Mỗi khi nghĩ tới đây, cô khóc, khóc ròng, cảm thấy oan khuất, cảm thấy bất bình, và cô vụt có dũng khí: “Mình không chết nữa! Không chết nữa! Tại sao phải chết mới được chứ? Mình phạm cái luật gì, cái tội gì? Tại sao mình lại không sống được nhỉ?”. Cô đứng trên cây cầu “Cô gái cô đơn” mấy lần đều không nhảy xuống nước được. Cô không nên nhìn cái bóng mình in trên dòng nước trong xanh kia mới phải...

    Cô cũng đã từng dùng những cách khác để tự hủy hoại đời mình. Đã có lần, ba ngày ba đêm cô không nuốt một tý gì vào bụng. Nhưng mỗi sớm trở dậy cô đều chải đầu, rửa mặt, mỗi tối cô đều tắm táp, thay quần áo. Sáng ngày thứ tư, cô đi quét phố, ngã ngất trên phố Đá Xanh. Lại chính là Tần Thư Điền cõng cô về nhà trọ Hồ Ký, rồi khuyên giải cô như khuyên giải người thân, dỗ dành cô như dỗ dành em gái. Nấu một bát canh trứng bón cho cô ăn. Tần Thư Điền vừa bón cho cô ăn vừa khóc. Chưa bao giờ cô thấy Tần Thư Điền khóc như vậy cả. Con người phái hữu phải đội mũ sắt này dù có phải quỳ trên gạch vỡ để chịu đấu tố, dù có bị đeo bảng đen đem đi bêu riếu, đều cười tít mắt cứ y như đi thăm viếng người thân vậy, như ngồi trong bàn tiệc vậy. Anh lạc quan không biết sầu biết buồn là gì. Thế mà hôm nay, anh đã khóc, vì cô, khiến cho cô lạnh buốt cả con tim, và cảm thấy có một chút ấm áp tình người. Từ nhỏ cô đã là một con người yếu đuối. Cô yếu đuối với người và yếu đuối với mình nữa. Trước kia khi anh Quế Quê còn sống, cô sợ nhất là nhìn thấy, nghe thấy những chuyện đau lòng trong nhà mọi người. Tần Thư Điền, Điền Rồ sớm đã che chở cho cô. Đã có một khoảng thời gian, cô hận Điền Rồ. Cô mơ hồ cảm thấy như nỗi bất hạnh của mình, là do Điền Rồ mang lại. Đó là cái năm cô lập gia đình, Tần Rồ đã đưa lũ yêu tinh ma quái trong đoàn ca múa đến hát ở “sàn hát mừng”, chống phong kiến, làm xúi quẩy lây đến những điều tốt lành trong buổi hôn lễ của cô... Bây giờ hình như muốn chuộc lại, muốn đền bù lại những sai sót của mình. Nhưng sự tổn thất lớn lao như thế, dù có chết đi ba lần, sinh lại ba lần, anh cũng không sao chuộc lại cho được. Thực ra, Tần Thư Điền cũng chỉ là người chung nỗi đau nhân thế, là kẻ tài hoa thương người bạc mệnh, một kẻ oan nghiệt thương một người oan nghiệt vậy thôi. Bên giường bệnh của Hồ Ngọc Âm, Tần Thư Điền còn khe khẽ hát bài “Bài ca tiền đồng” trong “sàn hát mừng” cho cô nghe:

    Cô em có mấy đồng tiền
    Anh ra câu đố, đố em trả lời
    Một đồng có bốn góc thôi
    Hai đồng, mấy góc? Em thời nói nhanh
    Tính cho nhanh, nói cho nhanh
    Em là cô gái thông minh trên đời
    Tiền đồng, bài hát, hát chơi...


    Tần Thư Điền cứ lần lượt hát, từ ba đồng tiền, đến bốn đồng tiền, cho đến hết mười đồng tiền mói thôi. Mỗi khi hát đến câu “Em là cô gái thông minh trên đời, cô gái thông minh trên đời” thì mắt anh lại đẫm nước, lòng quặn đau, chăm chăm nhìn Hồ Ngọc Âm. Đó là có ý gì vậy? “Em là cô gái thông minh”, tại sao em lại đi tự hủy hoại đời mình? Tại sao không tiếp tục sống? Trên thế giới này đâu phải chỉ có một thị trấn Phù Dung. Thế giới này rộng lớn lắm, ngày tháng còn dài lắm em ơi. Hơn nữa sự tồn tại của thế giới này, không thể chỉ dựa vào những phong trào vận động và chuyên làm những việc đấu tranh. Dưới gầm trời này còn có rất nhiều, rất nhiều những sự việc khác. Cô em thông minh, cô gái thông minh ơi, em là cô gái thông minh.

    Những bài dân ca cũ kỹ, lời lời là sự kêu gọi, là sự đặn dò, là bài ca số phận. Có lẽ những bài hát cũ kỹ mà người ta hát từ thuở bé, thuộc từ thuở nhỏ, đã làm thức tỉnh lại niềm khát vọng sống của Hồ Ngọc Âm. Cô bắt đều lưu tâm đến con người Tần Thư Điển này. Làm một phần tử loại 5, làm một con người dưới người, mà sao vẫn vui vẻ, tích cực. Cứ như là trong thế giới quỷ đen của anh không có gì là cơ cầu, là nhục nhã, thê thảm vậy. Đi bêu riếu lưu động, bao giờ anh cũng đàng hoàng đi lên đầu hàng, khi tiếp thu đấu tố, không bao giờ đợi người ta phải quát tháo, hoa chân múa tay, anh đã tự động quỳ phịch xuống, với cái đầu cúi gằm. Người ta tát vào má trái anh, anh đã sẵn sàng đợi nốt cái tát nữa giáng xuống bên má phải. Những cán bộ và quần chúng cách mạng ở đại đội sản xuất của thị trấn này bảo anh ngoan cố không sợ chết, là một vận động viên lão thành chai sạn. Mới đầu Hồ Ngọc Âm thấy khinh anh, tưởng rằng anh hèn, dần dần về sau này, do những điều chính bản thân cô lãnh hội được, cô mới biết rằng cách đối phó đó có thể bớt được nhiều sự đánh đập, và giảm được nhiều nỗi khổ đau. Song cô không sao học tập được điều đó. Người ta túm giật tóc cô, vừa mới buông tay ra, cô đã đưa tay lên vuốt vuốt lại, chải chải lại, không sao nín nhịn được. Người ta ấn vào cổ cô, bắt cô khom lưng xuống 90 độ, nhưng cô vẫn thẳng lưng, xốc lại vạt áo, cài cẩn thận lại khuy áo. Người ta bắt cô quỳ, khi cho đứng dậy, cô lập tức lấy tay phủi thật sạch bụi đất bám trên hai đầu gối. Chính vì cái thói quen,đó mà cô đã bị ăn không ít những trận đòn, muốn sửa nhưng cô không sao sửa được. Có người bảo rằng: “Con mẹ phú nông mới này rất ngoan cố”. Những lúc như thế, cô chỉ muốn chết quách đi cho xong tội nợ, chẳng còn ai nhiếc móc được mình, tố được mình nữa.

    Sở dĩ cô còn sống được, là vì có một sự việc ghê gớm đã giữ chân cô lại. Ấy là cái hồi, bọn nam nữ hồng vệ binh bất chấp giời đất, pháp luật, không biết từ đâu kéo đến, nói giọng Bắc hoặc có pha thêm một ít giọng Trường Sa, cũng túm luôn cả cổ bí thư công xã Lý Quốc Hương, lại còn quàng thêm một đôi giầy rách lên cổ dẫn đi bêu riếu! Thế là thế nào nhỉ? Quả thật là thế giới rộng lớn, nên những chuyện lạ lùng, kỳ quái, chưa từng trông thấy, chưa từng nghe thấy cũng rất nhiều. Thì ra là mày đấu tao, tao đấu mày, đấu tố kẻ khác và đấu tố luôn cả mình nữa... Hôm đó sau khi bị đem đi bêu riếu lưu động trở về, không hiểu sao, tự nhiên lòng cô cảm thấy vui vui. Thật bậy bạ, đi vui mừng trước tai họa của người khác. Cô đi rửa mặt, rồi đi soi gương. Cái gương đó là của mẹ cô để lại cho cô. Hồi “bốn thanh tra” chỉ tịch thu của cô cái nhà lầu, còn cái cửa hàng cũ này vẫn để lại trả cô. Có đến hai ba năm nay cô sợ, không dám soi gương. Cô thấy rằng mình đã già đi rất nhiều, trên trán, rồi khóe mắt, khóe môi, đều đã hiện lên những nếp nhăn chân vịt (nguyên văn: đuôi cá). Nhưng cả khuôn mặt của cô vẫn chưa có gì thay đổi, tóc vẫn đen nhưng nhức, vừa dầy dặn, vừa mềm mại. Đôi mắt vẫn vừa to, vừa sáng, đôi má vẫn đầy đặn, bóng bẩy. Chính cô cũng lấy làm lạ. Thậm chí có lúc cô còn nghĩ lung tung vớ vẩn rằng: Ừnếu Lý Quốc Hương nhấc cái mũ quan cách của mụ ra, và bỏ chiếc mũ phú nông của mình xuống, rồi thử so sánh xem! Cứ cho một trăm người đàn ông, nhắm mắt lại, rồi sờ nắn, chọn lựa thì cái con lắng lơ, đĩ thõa ấy ra rìa...

    Có khi cô đi ngủ sớm, nhưng không ngủ được. Trời rất nóng bức, cô cởi bỏ hết quần áo, nằm thẳng trên giường. Theo thói quen, hai tay cô che mặt như xấu hổ, rồi sau đó, cô từ từ đưa tay sờ lần xuống dưới cho tới ngực thì dừng lại. Ngực đẫy đà, cao vòi vọi, y như hai trái núi con. Cô bực bội, làm sao mà nó vẫn cứ như cô gái vừa mới lấy chồng, ghét quá, cô bực bội vì không biết làm thế nào cho nó phẳng tẹt đi. Nhưng nó vẫn không phẳng tẹt. Như vậy đâu phải phần tử loại 5? Những phần tử loại 5, ai ai cũng phải gấp bụng, khom lưng, chân tay phải như cành củi khô, bộ ngực phải teo tóp, thê lương như bãi cỏ hoang mùa rét. Trông chừng chỉ có cô và Tần Thư Điền là còn ra dáng con người. Từ đó về sau, cô lại bắt đầu soi gương theo thói quen. Đôi khi ngồi soi gương, cô bất chợt thấy buồn tủi và tự dày vò mình, cô khóc rất lâu trước gương. Tại sao cô khóc? Cô khóc vì trong trái tim cô vẫn còn ngọn lửa leo lét cháy, không chịu tắt. Cô mong sao cho ngọn lửa ấy sớm tắt ngấm đi.

    Vào cái sớm sấm sét, mưa to gió lớn ấy, cái buổi sáng, tối om om, đến nỗi xòe tay không trông thấy ngón ấy, cô và Tần Thư Điền ướt sũng, không còn một sợi vải nào khô, và ông trời già đã vo tròn, đã tác thành cho mối oan nghiệt của họ... Ngàn vạn sự việc trên cõi trần thế này, bao giờ cái “đầu tiên” cũng đều đáng quý. Có được cái đầu tiên, không còn phải lo gì đến cái thứ hai. Làm được cái thứ nhất, thì có thể làm được cái thứ mười lăm. Sự cảnh giác của những người ở thị trấn chỉ đổ vào mặt chính trị. Cuộc đấu tranh giai cấp, quả thật là không có gì không sờ mó tới, không có kẽ ngách nào là không thọc vào, nhưng nào có ai nghĩ tới hai kẻ tội vạ “phần tử loại 5” làm công việc quét rác ở phố Đá Xanh lại có thể sinh ra cái sự sung sướng giữa đàn ông và bất cứ lúc nào đều có thể có một bàn tay hộ pháp, tách chẻ họ ra, và suốt đời suốt kiếp sẽ không bao giờ còn được gặp mặt nhau nữa. Họ đang cướp thời gian. Chỉ có những đời sống dị dạng, mới có tình yêu dị dạng. Họ đều hiểu rằng, cái kiểu to gan lớn mật này, là một sự thách thức, một sự phản loạn đối với số phận chính trị và đẳng cấp xã hội của họ. Tối đến, xưa nay họ không bao giờ đốt đèn. Họ đã quen sống như thế, thậm chí còn thấy thích thú khi được sống với nhau trong bóng tối. Hồ Ngọc Âm bao giờ cũng gối đầu tay của Tần Thư Điền mà ngủ. Có khi nằm mê cô còn gọi “Quế Quế, Quế Quế”. Tần Thư Điền không giận cô, mà hình như còn đáp ứng, làm như mình là Quế Quế vậy. Quế Quế còn chưa chết, vẫn chiều chuộng, vẫn thương yêu vợ mình. Linh hồn của Quế Quế đang nhập vào người anh Thư Điền. Anh Thư Điền đôi khi vẫn lẩm nhẩm hát những bài trong “sàn hát mừng” cho Ngọc Âm nghe. Tất cả một trăm linh tám điệu với hai trăm lời thơ, bài nào cũng là chống phong kiến. Bài nào anh cũng nhớ được và hát được hết. Hồ Ngọc Âm rất khâm phục trí nhớ của anh, và giọng hát của anh.

    - Ngọc Âm chính giọng em mới thật là hay. Cái năm ấy, anh đã đưa các diễn viên tới vừa sưu tầm vừa chỉnh lý “sàn hát mừng”, dáng người em thướt tha yểu điệu, giọng trong như ngọc, bọn anh rất muốn lấy em vào đoàn văn công đi biểu diễn. Nhưng mới mười tám tuổi em đã đi lấy chồng, thành gia thất.

    - Tất cả đều là cái số. Nếu có gì đáng trách thì cần trách bọn các anh, đã mượn chuyện cưới xin của người ta để diễn tập tiết mục của mình, tiền đầu ngắt ngọn... Em và anh Quế Quế cái số nó khổ?

    - Lại khóc! Sao em khóc? Ôi, tất cả là tại anh... tại anh hay nhắc lại chuyện cũ, làm cho em khóc.

    - Anh Thư Điền, em chẳng trách anh đâu. Chính là lỗi ở em. Em nặng căn, mệnh bạc. Thôi em không khóc nữa, anh hát một bài trong “sàn hát mừng” cho em nghe đi.

    Tần Thư Điền cất tiếng hát:

    Chị tôi đẹp tựa áng mây,
    Nắng lung linh chiếu, má hây hây hồng.
    Ngày mai chị đi lấy chồng
    Như loan sánh phượng, như rồng sánh mây.
    Chiếu kia hợp với giường này,
    Như sênh hợp phách, như dây hợp đàn.
    Động phòng, chén rượu giao hoan,
    Mà sao chén rượu chứa chan lệ nhòa?
    Chị tôi như áng mây ngà,
    Gió bay, mưa cuốn biết là về đâu?


    Hồ Ngọc Âm bất giác hát theo, hòa theo. Tiếng hát của họ rất nhỏ ngoài đường phố khó mà nghe thấy được. Họ hát, có khi lời bài hát chẳng giống nhau, điệu hát cũng khác nhau. Hồ Ngọc Âm hát là hát lời cũ điệu cũ, còn Tần Thư Điền hát lại là lời là điệu mà anh đã cải biên, chỉnh lý, đúng là đại đồng tiểu dị. Hát tới những chỗ không khớp nhau, họ chỉ hẩy hẩy nhau, nhìn nhìn nhau, mà không ai sửa chữa cho ai. Ai bảo rằng họ chỉ có toàn đau khổ, không có hạnh phúc? Họ giống tất cả những người yêu nhau chân thành trên thế gian. Họ đang được uống dòng sữa ngọt ngào nhất, được uống chén quỳnh tương quý giá nhất trong cõi nhân sinh. Họ thích hát những bài hát của họ:

    Dưới gầm trời, đường đi trăm lối,
    Chín chín đường, lặn lội sẽ qua,
    Một con đường chết phía xa,
    Xin đừng dẫn chị tôi qua đường này.


    Gả cho thằng khoèo tay, ngoẹo cổ,
    Cũng phải theo, đừng có lu loa
    Gả cho gà, phải theo gà
    Gả cho chó, cũng phải ra nằm chuồng...


    Ván kia giờ đã nên thuyền;
    Gạo kia đã thổi thành cơm trong nồi.
    Mẹ cha tám chữ, dưỡng nuôi,
    Nước trong, nước đục lẫn trôi một dòng.
    Khóc thương, tiễn chị theo chồng,
    Làm sao giải được nỗi lòng chị đau?


    Ngày tháng của những con người mang tội, giống như một dải băng đen dài, trải về phía trước không ngừng không nghỉ. Có lẽ là vào khoảng cuối mùa xuân, bước sang đầu mùa hạ, Hồ Ngọc Âm bắt đầu thấy người mỏi mệt, bụng ngâm ngẩm đau, buồn nôn, sợ dầu mỡ, thích ăn những của chua. Lấy củ cải muối, dưa muối, từ mùa đông năm ngoái ra ăn mãi mà không biết chán. Mới đầu cô chẳng hiểu nó ra làm sao. Về sau cô bất chợt nghĩ đến chuyện “bụng to”, “có tin mừng”. Cô suýt nữa ngất đi. Thật là vừa sợ, vừa mừng, muốn cười, lại muốn khóc. Trước kia quá mù ra mưa, đã chẳng còn mong ước hão huyền gì nữa, thì cái “tin mừng” lại im lìm, lặng lẽ, lững thững mà đến muộn, hơn nữa, nó lại rơi đúng vào cái năm tháng, sống dở chết dở, cùng cái quan hệ trái khoáy này. Tại sao nó lại không đến sớm hơn? Giá như, nó đến vào cái lúc bán canh bánh tráng có hơn không. Khi ấy, cứ đẻ lấy ba bốn đứa liền, ngôi nhà lầu cũng sẽ chẳng dựng được lên. Nuôi thêm ba, bốn miệng trẻ, cô sẽ trở thành một hộ khó khăn, lúc ấy còn xin chính phủ trợ cấp, cứu tế là khác. Khi có người nối dõi, anh Quế Quế cũng sẽ không phải bước vào con đường tủi nhục ấy. Một người được làm cha, là phải sống cho lũ con cái mình?... Ông thầy bói đoán rằng cô sẽ “không có con”. Vậy mà nay “con” đã đến, dù rằng đến muộn, đến không đúng lúc. Là họa hay là phúc? Cô bàng hoàng lo sợ. Nhưng cô đã chấp nhận một cách tự nguyện mọi đắng cay tủi nhục đến với cô do chuyện đó sinh ra, thậm chí cô phải trả giá bằng tính mệnh của mình. Vì chuyện không sinh nở, người đời đã hất lên người cô biết bao nhiêu là nước bẩn nước nhơ. Ngay chính bản thân cô, cũng cho rằng việc sinh con đẻ cái, là công việc hàng đầu của ngươi đàn bà. Từ xưa tới nay, bao giờ cũng là “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” (trong ba tội bất hiếu, tội không có con nối dõi là lớn hơn cả).

    Hồ Ngọc Âm không báo ngay cái tin “vui mừng” đó cho Tần Thư Điền biết. Cái chuyện đó là quan trọng lắm, cần phải nắm cho đầy đủ, biết cho chắc chắn, rồi mới nói với anh ấy được. Đối với Tần Thư Điền cô càng ngày càng dịu dàng hơn, việc gì cũng nhất nhất theo lời anh. Cô luôn làm những món ăn ngon cho anh ăn, mời anh ăn, còn mình lại chẳng nỡ ăn, như khen thưởng cho một người anh hùng, lập được công trạng lớn. Tấm lòng si của một người đàn bà là như vậy. Đồng thời Hồ Ngọc Âm lại như một người đón chờ một ngày lễ tôn giáo thần thánh sắp tới, cần phải thật chay tịnh, nên cô không cho Tần Thư Điền ăn nằm với mình nữa, khiến cho Tần Thư Điền thấy mình như bị rơi vào một tầng sương mù dầy đặc. Cô thích được ở một mình ở trong nhà trọ Hồ Ký, yên ổn thoải mái nằm thẳng lên trên giường, không che đắp bất kỳ một thứ gì lên người, rồi với đôi tay nhè nhẹ, xoa xoa lên bụng mình, để xem xem cái sinh mệnh bé bỏng kia đang nằm ở góc nào... Cô sung sướng lắm. Trong cặp mắt cô tràn đầy những giọt nước mắt mừng vui và hạnh phúc. Kể từ khi anh Quế Quế qua đời, cô chưa bao giò thấy mình hoan hỷ đến thế, cô cảm thấy cuộc sống của mình tốt đẹp biết bao nhiêu, có ý nghĩa biết bao nhiêu. Thật là ngu ngốc khi trước kia chỉ nghĩ đến cái chết, chết. “Em là cô gái thông minh”. Quẩn như thế, làm sao mà gọi là “cô gái thông minh” được?

    Qua tròn một tháng, sau khi cô đã biết chắc rằng mình có mang, và đồng thời cũng là cô để cho mình được hưởng thụ cái tin bí mật ngọt ngào đó một mình tròn một tháng xong, rồi vào một buổi sớm mai, cô mới đem việc “có tin mừng” ra nói cho Tần Thư Điền biết. Tần Thư Điền như người chợt tỉnh mộng, lúc ấy anh mới hiểu được cái nguyên do tại sao, cô đối xử với anh vừa gần gũi lại vừa xa xôi đến thế. Anh quẳng phăng cái chổi trong tay, đứng ngay giữa phố mà kêu lên “Trời ơi, trời ơi”, rồi ôm chầm lấy Hồ Ngọc Âm, vừa cười vừa khóc. Hồ Ngọc Âm vội chặn ngay niềm vui điên dại đó của anh lại. Khóc khóc, cười cười mà không xem xem mình đang ở chỗ nào và trong trường hợp nào.

    Tần Thư Điền vùi mặt vào ngực Hồ Ngọc Âm nói như trong cơn mê sảng:

    - Ngọc Âm, anh em mình lên đại đội sản xuất, lên công xã thú tội, rồi xin đăng ký kết hôn. Đây là một việc anh không dám nghĩ tới...

    - Liệu người ta có đồng ý cho không? Hay là rồi tội sẽ chồng lên tội?

    Hồ Ngọc Âm bình tĩnh đáp. Bởi cô đã nghĩ đi nghĩ lại tất cả mọi sự rồi. Cô không sợ và cô rất yên lòng.

    - Anh em mình cũng là người chứ. Thử hỏi có văn kiện nào rồi điều nào, khoản nào, quy định rằng những phần tử loại 5 không được phép kết hôn?

    - Nếu họ cho phép mình đăng ký thì tốt quá còn gì. Nhưng em sợ rằng trong những ngày tháng như thế này, mắt mọi người đỏ đọc lên như những con trâu điên, chỉ biết tính thù, ghi hận... Mặc xác họ. Anh Thư Điền ạ, anh chẳng nên phiền não làm gì. Bất kể rằng họ ra làm sao, đồng ý hay không đồng ý, con vẫn là con mình. Em cần, là em cần, thế thôi!

    Hồ Ngọc Âm vừa nói, vừa gục đầu vào ngực Tần Thư Điền, run rẩy và bắt đầu khóc. Vì hình như ngay lúc đó, có người vươn đôi bàn tay to lớn, khủng khiếp, cướp giật lấy cái thai nhi chưa được chào đời trong lòng cô mang đi mất.

    Tất nhiên rằng, trong cái buổi sáng hôm ấy, phố Đá Xanh chỉ được quét qua loa nham nhở. Và cũng bắt đầu từ sáng hôm đó, Tần Thư Điền, gánh vác cái trách nhiệm của một người làm chồng, cô không phải dậy sớm đi quét đường nữa. Ngọc Âm cũng hơi có chút “làm nũng”, cũng muốn được “ngủ muồn muộn”, giống như tất cả những người “thai nghén” khác, đâm ra “khó tính”, vì sắp sửa sinh con. Tần Thư Điền lại nửa như vô tình, nửa như hữu ý, để cho bà con hàng phố biết rằng: Hồ Ngọc Âm đã là người của nhà họ Tần, và cái phần việc ở ngoài phố, phải do chính anh chàng họ Tần ấy quét tước, đảm nhiệm!
     
  7. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    NGƯỜI VÀ QUỶ


    BÍ THƯ VƯƠNG THU XÁ BỊ QUÈ CẲNG bên dưới bức tường vây của hợp tác xã cung tiêu, nằm dài hai tháng không ra khỏi cửa. Lý Quốc Hương khi đến kiểm tra công tác thị trấn Phù Dung, tiện đường rẽ vào ngôi nhà sàn thăm hắn, nói được vài câu có tính chung chung đại loại như: cứ nghỉ ngơi cho khỏe rồi sẽ khỏi dần, cũng chẳng nên vội vã gì. Với cái chân sưng to như thùng nước nhỏ của hắn, cũng chỉ nhìn qua, không thèm mó tay vào xem xét, chẳng có một chút tình cảm quan tâm thương xót nào:

    - Cái chân anh làm sao thế?

    - Tại sáng sớm tôi đi không cẩn thận.

    Nếu như mụ là người đàn bà khác, chưa biết chừng Vương Thu Xá đã tung ra những lời chửi bới và trách móc mụ là quân vô tình bạc nghĩa, là kẻ tàn nhẫn lạnh lùng rồi cũng nên. Tục ngữ có câu: “Một đêm chồng vợ, trăm ngày nhớ”, mà nào chỉ có một đêm. Còn có lời tục tĩu và cái trò hề nào là không nói, không làm? Nhưng đối với một nữ thượng cấp, hắn lại cảm thấy rằng: Hắn đã được “ban ơn”, cấp trên đã coi trọng hắn và vô hình trung đã nâng cao được giá trị của bản thân mình lên. Nữ thượng cấp đến thăm hắn một lần như thế cũng đủ có ý nghĩa rồi, lẽ nào lại đi đòi hỏi ở cấp trên, một người đường đường chính chính là ủy viên thường vụ ban cách mạng huyện, chủ nhiệm công xã đâu lại giống mấy con mẹ ngoài đường, ngoài phố chưa chi đã chảy nước mắt, nước mũi ra? Nữ thượng cấp bình thường như thế, mới thực nói lên cái phong độ và cái tài trí của mình. Mình cần phải lấy đó làm gương mà học tập, để có được cái bản lĩnh trên dưới chu toàn và trước sau kín kẽ mới hay.

    Hôm đó, trong khi Vương Thu Xá đang chống cái nạng tập tễnh đi đi lại lại ở trước cổng ngôi nhà sàn để hoạt động cái gân cái cốt, cho huyết mạch lưu thông, thì tên phái hữu, đội mũ sắt Tần Thư Điền chạy đến, hai tay nâng tờ giấy “thú tội”, cúc cung chào hắn. Hắn dừng lại, đứng tựa lên chiếc nạng, cầm lấy tờ giấy “thú tội” đọc, và kinh ngạc khiến cái bộ mặt tròn phèn phẹt của hắn trông như quả bí đỏ, miệng hắn há hốc ra mãi không khép lại được, và mắt thì chớp chớp lia lịa:

    - Cái gì? Cái gì? Anh và cái con quả phụ phú nông Hồ Ngọc Âm xin đăng ký kết hôn?

    Tần Thư Điên cúi đầu rất lễ phép nói:

    - Dạ, thưa Vương bí thư, dạ...

    Rồi để tạo ra một không khí hòa hoãn, anh lại cung cung, kính kính hỏi:

    - Dạ, chân của Vương bí thư đã khá lắm rồi phải không ạ? Có còn cần tôi vào núi đào một ít ngưu đằng với điếu mã đôn không ạ?

    Cặp lông mày trên khuôn mặt phì nộn của Vương Thu Xá nhíu lại, còn cặp mắt thôi không chớp nữa mà nhíu lại thành hai hình tam giác nhỏ. Cách nhìn của hắn đối với cái anh “phái hữu đội mũ sắt” này cũng khá là phức tạp. Trong cái buổi sáng sớm xúi quẩy ấy, mình bị ngã ngồi phệt mông vào cái đống phân trâu nhão nhoét kia, chính Tần Thư Điền là người đến cõng mình về nhà, và cũng coi như hắn giữ được bí mật cho mình, mà lại còn nói được những câu hay hay: Bí thư đại đội đi thăm lúa sớm quá, bước lỡ chân, bị thụt xuống cống, nên ông ấy bị đau chân. Vì thế mà đại đội đã chấm cho hắn công nghỉ ốm, thanh toán tiền thuốc men... Nhưng còn Hồ Ngọc Âm, đến nay mà nói, vẫn là một mẹ quả phụ trẻ, cóc cần đời, trong chỗ riêng tự, Vương Thu Xá cũng từng nghĩ đến chuyện tòm tem với Hồ Ngọc Âm, nhưng do có quan hệ lòng thòng với nữ chủ nhiệm, nên , hắn luôn luôn bị bó chân, bó tay, thế rồi sự đổi thay quá lớn, cuộc đời cũng như cái ống kính vạn hoa. Một người con gái sắc nước như thế, từ tay một thằng đồ tể đần thối đần thiu, lại rơi vào những cặp vuốt đen của thằng Tần Thư Điền.

    - Bọn mày, bọn mày... đã sâu nông đến đâu rồi?...

    Chủ nhân ngôi nhà sàn, nhìn Tần Thư Điền bằng cặp mắt ra vẻ biết tỏng mọi việc riêng tư và giấu giếm của họ rồi.

    Tần Thư Điền làm bộ mặt dầy mày dạn, cười cười đầy vẻ bợ đỡ nói:

    - Việc này tất nhiên là không giấu nổi cặp mắt tinh tường của Vương bí thư rồi...

    - Mẹ kiếp... Thế chúng mày bắt đầu với nhau từ bao giờ hử?

    - Cũng không rõ lắm ạ, tôi xin thành khẩn với thượng cấp, cứ mỗi sáng sớm chúng tôi quét đường phố Đá Xanh, quét đi quét lại, cô ấy là một quả phụ, tôi là một người độc thân, nên cũng có những đòi hỏi giống nhau.

    - Thật đúng là sọt rách gặp đòn gánh giập. Thế đã ấy với nhau bao nhiêu lần rồi?

    - Không... không dám ạ, không dám ạ. Thượng cấp chưa cho phép, đâu dám ạ.

    - Đến chết cũng vẫn chối quanh! Cái việc ấy mày giấu được ai? Hơn nữa cái con ấy, lại không biết đẻ đái, người lại nõn nà, mơn mởn, thật đúng là mỡ để miệng mèo?

    Tần Thư Điền nghe tối đó, mặt hơi hơi đỏ lên:

    - Xin thượng cấp đừng chê cười chúng tôi. Nồi tròn vung tròn, nồi méo vung méo (nguyên văn: gà với gà, phượng với phượng), đại đội xem có thể cấp cho chúng tôi một cái giấy chứng nhận để chúng tôi ra công xã đăng ký...

    Vương Thu Xá chống nạng, tập tễnh, đi đến chỗ có khối đá xanh, ngồi xuống, đôi lông mày trên khuôn mặt tròn béo phệ, nhíu lại, cặp mắt nheo nheo thành hai hình tam giác nhỏ. Hắn lại đọc lại tờ giấy “thú tội”, như gặp phải một vấn đề khó khăn trong chính sách:

    - Hai đứa phần tử loại 5, lại xin đăng ký kết hôn... Không biết luật hôn nhân có quy định điều này không? Hình như chỉ nói đến chuyện những công dân đủ mười tám tuổi trở lên, và có quyền lợi chính trị... Nhưng lũ bay đâu có được tính là công dân? Chúng bay là đối tượng của chuyên chính, là cặn bã của xã hội!

    Tần Thư Điền cắn môi, nụ cười nịnh bợ trên môi đã biến mất, và nói những điều cực kỳ khó nghe:

    - Thưa ông Vương bí thư, chúng tôi, chúng tôi vẫn phải được tính là một con người chứ! Dù có xấu, có đen thêm nữa thì vẫn là con người. Dù không tính chúng tôi là người, mà tính là gà mái gà sống, ngỗng đực ngỗng cái, cũng không thể cấm chúng tôi kết hôn được!

    Vương Thu Xá nghe vậy bật cười lên sằng sặc, cười đến chảy cả nước mắt nước mũi ra:

    - Này mẹ kiếp, Tần Rồ, tao đâu có tính chúng mày là lũ súc sinh, trong cả nước Trung Quốc đâu cũng chỉ có một chính sách, mày đừng có nói những lời khó nghe như thế. Thôi, bây giờ thế này nhé. Lần này, ông Vương nới tay cho mày nghe không, tao sẽ cầm giấy “tự thú” này của chúng mày đưa cho ban cách mạng của đại đội nghiên cứu, sau đó sẽ đưa lên công xã xin phê chuẩn. Nhưng tao cũng phải nói cho mày biết trước rằng, trung ương vừa mới gửi công văn về, phong trào “một phê, hai đấu” sắp bắt đầu, để thanh lọc đội ngũ giai cấp, cho nên có được phê chuẩn hay không, là tao không dám hứa chắc đâu đấy!...

    Tần Thư Điền bàng hoàng lo sợ, nài nỉ Vương Thu Xá:

    - Thưa bí thư Vương, việc của bọn chúng tôi, mong cán bộ lãnh đạo, lên công xã nói cho một tiếng... chúng tôi đã có... đã có...

    Vương Thu Xá trợn tròn mắt, dộng dộng cái đầu nạng xuống đất:

    - Có? Chúng mày có cái gì hử?

    Tần Thư Điền cúi đầu xuống. Anh quyết định nói toạc mọi sự ra, tế sớm khỏi ruồi, cho Vương Thu Xá biết trước để liệu đường:

    - Chúng tôi, đã có... chuyện ấy rồi...

    Quả nhiên, khi Vương Thu Xá nghe thấy vậy, hắn bực bội nhổ phì một bãi nước bọt xuống đất:

    - Hai cái đứa dối trá chết tiệt chúng mày! Giang sơn đã khác, mà bản tính vẫn nguyên. Đã là kẻ thù của giai cấp, mà vẫn còn gây chuyện lôi thôi... Cút mẹ mày về đi. Ngày mai tao sẽ cho người mang đến cho mày một đôi câu đối viết trên nền giấy trắng, để chính tay mày phải đem dán ở cửa nhà trọ Hồ Ký!

    Đứng dưới mái hiên thấp, ai chẳng phải cúi đầu? Đời sống đảo lộn, tiền dâm hậu thú, cái tội đó đang đè nặng lên số phận tình yêu của họ. Ngày hôm sau, đại đội bộ đã cho dân quân, đem một đôi câu đối trắng đến giao cho Tần Thư Điền. Anh vui mừng khôn xiết kể như đã tìm được một cơ hội sống, anh đi đến nhà trọ Hồ Ký tìm Hồ Ngọc Âm. Hồ Ngọc Âm đang đun nước ở dưới bếp, nhìn thấy đôi câu đối trắng, cô òa khóc.

    Việc dán câu đối trắng, là một phong tục mới, mới được bắt đầu từ ngày tiến hành phong trào càn quét “bốn cái cũ”. Đó là một cách trị tội, và cảnh cáo những tên trèo tường khoét ngạch, trộm chó trộm gà, đưa công khai những tội lỗi của chúng ra trước dân chúng, coi như một biện pháp thực hiện cách mạng hóa những kẻ thối tha nhơ bẩn trong quần chúng cách mạng.

    - Ngọc Âm, em đừng khóc, hãy xem xem đôi câu đôi này viết những gì đã nào. Nó chỉ có lợi cho chúng ta chứ chẳng có hại gì hết...

    Vừa nói Tần Thư Điền vừa mở đôi câu đối ra:

    - Đây là giấy trắng mực đen của cán bộ đại đội nhé, vô hình trung họ đã công nhận quan hệ của chúng mình rồi. Em xem, vế trước là “Hai con chó đực cái”, vế sau là “Một cặp vợ chồng đen” bức hoành là “Tổ quỷ”, “Một cặp vợ chồng đen”. Kệ mẹ chúng nó, đỏ, trắng, đen, rồi tổ người, tổ quỷ gì gì đó, như vậy có nghĩa là đại đội đã tuyên bố trước bàn dân thiên hạ rằng chúng ta là “vợ chồng”! Đúng thế không?

    Tần Thư Điền đúng là một con người quỷ quái. Hồ Ngọc Âm nín bặt. Đúng thế thật, anh Thư Điền đúng là một con người khôn ngoan.

    Tranh thủ được sự đồng tình của Hồ Ngọc Âm, Tần Thư Điền mới đi múc nửa muôi nước cháo, đem đôi câu đối trắng dán thật ngay ngắn trên cửa ra vào.

    Cái tin cửa nhà trọ Hồ Ký có dán một đôi câu đối trắng lập tức làm rung động thị trấn Phù Dung. Người lớn, trẻ con đều đô xô đến xem, và bàn bạc cái hay cái dở của đôi câu đối:

    - “Hai con chó đực cái”, “Một cặp vợ chồng đen”. Hay! Hay! Rất chi là phù hợp với thực tế.

    - Thì cũng phải thôi. Một đằng là quả phụ hơn ba chục tuổi. Một đằng là một người sống độc thân ngót bốn chục... “Ban ngày xin tý lửa nấu ăn, ban đêm xin ủ chân cho ấm!”.

    - Ơ họ lấy nhau mà không biện bữa chén à?

    - Thử hỏi, có biện bữa chén đi nữa, thời ai dám đến mà đánh chén nào?

    - Ôi dào! Làm người mà phải đến cái bước này, e rằng đó là báo ứng từ kiếp trước mất!

    Người trong thị trấn coi sự kiện này là một loại tin tức đầu hạng khi lên đồng xuống ruộng, lúc trà dư tửu hậu, mọi người bàn bạc xôn xao có tới gần nửa tháng trường. Chỉ riêng Cốc Yến Sơn đang được đeo cái danh hờ là phó chủ nhiệm cửa hàng lương thực, có đến cửa xem đôi câu đối, với bầu rượu ngang hông, là không nói câu nào.

    Những lời bán tán của dân phố giống như một lời nhắc nhở Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm. Vào một buổi tối, khi tất cả mọi nhà ở phố đều sớm đã đóng hết cửa, hai người đã chuẩn bị hai chai rượu nho, một mâm cơm với ngót mười món ăn ngon lành, và bên dưới mỗi chiếc cốc rượu của mỗi người đều có lót một tờ giấy hồng điều, coi như làm lại một nghi lễ chính thức, uống chén rượu hợp hoan. Tuy rằng công xã còn chưa phê chuẩn cái tờ giấy “thú tội” của họ, nhưng họ đã tính rằng người ta cũng chẳng thấy thích thú gì cái sự kết hợp của loại người này. Người cảm thấy thích thú nhất lại là chính họ. Dù thế nào đi nữa thì: Gạo cũng đã thổi thành cơm, nước trong nước đục chảy hỗn độn vào một dòng, cán bộ đại đội, cùng bà con phố phường trong thị trấn đều đã biết cả rồi. Con vật, tụ lại theo đồng loại, con người lại chia ra mà sống. Quỷ đen sống với quỷ đen, cũng chẳng vướng víu gì cho ai.

    Trên mặt Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm cũng đã ửng lên đôi chút màu hồng và tươi tỉnh, họ cũng cung kính trang trọng uống chén rượu hợp hoan... Giữa lúc đó có tiếng gõ cửa cộc cộc. Tiếng cộc cộc gõ cửa vẫn vang lên, nhưng lại không nghe thấy có tiếng người gọi. Tần Thư Điền lấy lại tinh thần, nói nhỏ vào tai Hồ Ngọc Âm:

    - Em có thấy tiếng gõ cửa rất lạ không, nếu là dân quân đến áp giải chúng ta như mọi khi thì chúng réo gọi quát tháo rầm rầm lên ấy chứ, nào là đá chân, nào là nện báng súng, cửa phải rung lên bần bật cơ...

    Lúc ấy Hồ Ngọc Âm cũng đã lấy lại được tinh thần, gật gật đầu. Đàn ông bao giờ cũng là đàn ông, gặp việc là phải đứng ra giải quyết, không hoảng hốt:

    - Để anh ra mở cửa.

    - Vâng.

    Tần Thư Điền cố làm vẻ mạnh dạn, ra mở cửa, và anh đã giật mình kinh ngạc, vì người gõ cửa lại là “Đại Binh phương Bắc” Cốc Yến Sơn! Trên tay ông xách một chiếc hộp giấy, ngang hông đeo một bầu rượu. Điều đó quả thật là quá bất ngờ. Tần Thư Điền vội vã đón ông vào nhà, cài cửa lại, ngồi vào bàn tiệc. Ông Cốc cũng không hề làm khách, phân biệt gì, ông ngồi luôn vào bàn...

    - Cả buổi sáng lẫn buổi chiều, tao cứ thấy chúng mày lén lén lút lút, lúc đi mua cá, lúc đi cân thịt giá cao, tao tự bảo tao phải đến kiếm một chén rượu vui! Bây giờ ở thị trấn, ai ai cũng cho tao là con sâu rượu, lúc nào cũng say khướt... Tao nghĩ, tao nghĩ... chắc chúng mày cũng chẳng đi tố cáo tao, chẳng đi bẩm báo tao... Còn chúng mày, cứ như tao nghĩ, cũng chẳng phải phần tử loại 5 chính hiệu đâu... Chuyện cưới nhau, chuyện cả một đời, mà nhiều nhất cũng chỉ có hai đứa chúng mày...

    Hai vợ chồng đen này nghe nói vậy, đều bất chợt ứa nước mắt, và cùng một lúc, cả hai đều quỳ xuống cúi lạy trước mặt Cốc Yến Sơn. Trong cái thế giới hễ cứ động một tý là “mày chết tao sống” này, vẫn còn có người tử tế. Lòng từ thiện, tình đồng loại vẫn chưa phải là tuyệt tích...

    Cốc Yến Sơn lấy giọng người trên, có pha một chút men la đà:

    - Đứng dậy, đứng dậy! Lũ chúng mày là chúa cũ kỹ, chúa phong kiến. Chúng mày có cần tao là người làm chứng không? Trong vòng mấy năm nay tao nhìn đời bằng cặp mắt say, nhưng càng nhìn lại càng tỉnh. Người làm mối của chúng mày ấy, thực ra là cái chổi tre trong tay, là lớp đá xanh lát trên mặt phố... cũng chẳng sao. Tối hôm nay, tao trà trộn vào đây, thôi thì, nhận lấy cái này...

    Cặp vợ chồng đen lại cùng quỳ xuống, nhưng Cốc Yến Sơn đã túm chặt cả hai người, làm đúng như mình là ông chủ hôn, xếp đặt cho họ ngồi vào chỗ.

    Cốc Yến Sơn mở chiếc hộp giấy:

    - Đây gọi là có cái quà mọn...

    Ông nhấc từ trong hộp ra bốn mảnh vải, một chiếc ô tô con, một chiếc máy bay, và cả một con búp bê nữa, nói tiếp:

    - Đừng có chê! Trong mấy năm gần đây, tất cả mọi nhà ở thị trấn, có con trai con gái dựng vợ gả chồng, tao đều có tý quà tặng như thế này cả, bọn mày cũng thế. Tao chúc chúng mày sớm sinh quý tử... đã là vợ chồng, thì dù đỏ, dù đen, là quân này, lũ nọ, đều phải có người nối dõi.

    Hồ Ngọc Âm thấy trong người hết sức bàng hoàng, choáng váng, gần như bị ngất xỉu đi... nhưng cô vẫn cố gắng gượng lại được. Cô tới trước mắt Cốc Yến Sơn, quỳ hai gối xuống, thút thít nói:

    - Bác Cốc! Xin bác nhận một lễ này của cháu... bác đã vì cháu, vì cái số đầu mày tấm gãy mà bác đã mắc hàm oan... Chính cháu đã làm hại bác, làm bác phải chịu đau khổ... một cán bộ Nam tiến lão thành... Nếu như tất cả những người cán bộ khác, đều được như bác, những người cộng sản đều một kiểu như bác, ngày tháng đã được yên bình... hu hu hu. Bác Cốc ơi, nếu như từ nay về sau Bác không chê cháu hèn, cháu đen... thì suốt cuộc đời này, trên thế gian này, cháu xin làm thân trâu ngựa để đền nghi lại Bác...

    Ông Cốc Yến Sơn lúc này cũng trào nước mắt, nhưng lại làm ra vẻ cứng cỏi:

    - Đứng lên, đứng lên, đang vui vẻ tưng bừng như thế này, làm sao giở những chuyện đó ra? Mình xấu tốt thế nào, bao giờ mình cũng là người hiểu biết rõ nhất... nào nào... uống... uống! Bây giờ ở cửa hàng lương thực nó chẳng cho bác mó vào bất kỳ công việc gì, cho nên tối nay, bác sẽ uống cho ra uống, cho thỏa nỗi vui mừng.

    Tần Thư Điền sắp xếp lại bàn ăn. Hai vợ chồng chúc Cốc Yến Sơn hai cốc rượu nho thật đầy. Sau khi ngửa cổ uống cạn, Cốc Yến Sơn bèn tháo bầu rượu đeo ngang hông mình ra, (Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm lúc này mới hối hận là lúc ban ngày không mua lấy một chai cuốc lủi):

    - Cái thứ nước đỏ này của chúng mày ấy mà, để cho hai vợ chồng mày uống cho ngọt giọng vui vầy. Tao phải uống cái thứ ngang ngang này của tao, nó mới đã, mới ngấm!

    Người này chúc người kia, người kia mời người nọ, cốc này cốc khác, cả ba người đều rất xúc động. Cốc Yến Sơn uống đến đờ cả mắt ra, đột nhiên ông đề nghị:

    - Này cậu Tần, tao nghe nói từ lâu, mày vì cái... cái “sàn hát mừng” gì đó mà trở thành phái hữu ấy, Ngọc Âm cũng tốt giọng, hai chúng mày, tối nay thành vợ thành chồng, nên phải hát lên vài bài, gọi là chúc mừng... chúc mừng tân hôn, cho nó vui vẻ!

    Lời đề nghị của ân nhân, sao lại có thể từ chối được? Cặp vợ chồng mới, không phải bị rượu làm say, mà là say vì hạnh phúc, cùng hát một bài đồng ca “Bài ca của những người phu kiệu”, mang tính khôi hài, vui vui:

    Cô dâu ơi, em khóc cái gì?
    Vai anh khiêng kiệu cho em đi lấy chồng.
    Mắt anh làm ngọn đèn lồng...
    Vai anh làm ngựa nhong nhong cho em ngồi
    Tám chân của bốn con người,
    Đi nhanh như thể con thoi... nhịp nhàng.
    Leo đường dốc, quặt đường ngang...
    Da vai trầy trật... hỏi cô nàng biết chăng?
    Làm sao em chẳng nói năng?
    Cười lên, cho được vui bằng người ta...
    Uống mừng em, chén rượu... la đà...
    Trên đường em gọi... Anh à... anh ơi...


    Sức mạnh của những cái hạt thật vô cùng mạnh mẽ. Trên sườn những dãy núi đá hoa cương của vùng núi Ngũ Lĩnh, không biết từ đâu bay đến một cái hạt, trong đó có mấy cái nhân chỉ to bằng hạt trà dầu, những hạt nhân ấy, rơi vào những kẽ núi, không có lấy một tý đất to bằng cái móng tay, nó chỉ biết dựa vào chút nước ẩm từ trong đá toát ra, mà nó cũng nảy mầm, đâm rễ. Cái bộ rễ ấy thuộc vào hệ nào vậy. Mà nó như vuốt hổ, móng rồng, xuyên núi phá đá bám chắc vào những mạch núi, ăn sâu vào những khe đá, ngậm đắng nuốt cay, muôn vàn gian khổ, tìm kiếm lấy một chút chất sống cho cuộc đời mình. Đâm rễ, nảy lá, cây cành vững chãi, vươn lên ngạo nghễ. Gỗ chắc mà cứng như sắt. Những người trông thấy loài cây này, không thể không kinh ngạc trước những kỳ tích của cuộc sống. Những người đốn gỗ, gặp loại cây này, thì cưa rít, răng mẻ, rìu búa cũng phải quằn.

    Một tháng sau, Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm bị gọi lên công xã. Ban đầu, họ cứ tưởng là họ được gọi lên để làm thủ tục đăng ký kết hôn. Duy chỉ có một mình Tần Thư Điền là có kinh nghiệm, anh nghĩ được xa, nên đã nhét vào chiếc túi vải hai bộ quần áo thay đổi:

    - Tần Thư Điền, cái đồ phái hữu, đội mũ sắt chó má, to gan, dám làm những việc bậy bạ!

    Khi Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm vừa bước vào văn phòng công xã, đã bị Lý Quốc Hương đập bàn, xẵng giọng quát lác. Bí thư đại đội sản xuất Vương Thu Xá ngồi bên, sắc mặt cũng hầm hầm. Quanh đấy còn cả đống cán bộ công xã cũng hùa theo, với cả đống giấy bút bày sẵn trước mặt.

    Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm đứng cúi đầu, xuôi tay.

    Tần Thư Điền chưa rõ đầu đuôi ra sao, nhưng đã nói:

    - Báo cáo với thượng cấp lãnh đạo, tôi có tội, tôi xin nhận tội.

    Nữ chủ nhiệm nói như tuyên án:

    - Trong thời kỳ lao động cải tạo, mà không coi pháp luật ra gì, không coi quần chúng ra gì, dám công nhiên chung sống phi pháp với phần tử phú nông Hồ Ngọc Âm, dám điên cuồng chống đối lại giai cấp vô sản chuyên chính...

    Nguyên do là vì, tối hôm trước, khi Vương Thu Xá báo cáo và thỉnh thị công tác riêng, lúc ấy nữ chủ nhiệm mới hỏi lại tỷ mỷ tường tận việc hắn bị ngã què cẳng. Vương Thu Xá mới kể lại chuyện cái buổi sáng sớm hôm ấy, từ cửa ngách của hợp tác xã cung tiêu đi ra, trượt phải đống phân trâu nhão, rồi được tên phái hữu đội mũ sắt, đi quét đường sớm, trông thấy, mới cõng về ngôi nhà sàn cho. Sau đó hắn còn nói thêm rằng, gần đây Tần Thư Điền đã có nhiều biểu hiện tốt, vân vân.

    - Tôi biết ngay rằng anh rơi vào bẫy của chúng nó mà!

    Nữ chủ nhiệm cười nhạt, vạch tội hắn, rồi nhiếc:

    - Anh là đồ ngu anh có hiểu không. Cái ngõ hẻm bên tường vây của hợp tác xã cung tiêu nó rộng được bao lăm, thường ngày chẳng có ai dắt trâu bò đi qua cái ngõ hẻm ấy làm gì, với lại trâu bò nó ỉa đâu không ỉa, làm sao lại ỉa đúng vào cái cửa ấy, không xa hơn mà cũng không gần hơn? Khi ấy anh hay đến ngủ đêm ở trên gác hợp tác xã cung tiêu... dứt khoát là bị cái thằng phái hữu đội mũ sắt ấy theo dõi, nên mới giăng một cái bẫy. Cái đồ anh ấy, sức lực thì như trâu như ngựa, mà đầu óc lại quá tối tăm, thiếu mất sợi dây đàn đấu tranh giai cấp.

    Vương Thu Xá bị nữ chủ nhiệm nhiếc móc, vạch trần ngay tại trận, không còn chỗ mà chui, chỉ mong sao thụt được cái đầu vào bên trong cổ áo. Đồng thời cũng ngấm ngầm thán phục rằng cái bà cấp trên này của mình quả thật là cao cường, chẳng phải tay vừa.

    - À! Căm thù giai cấp! Ngày mai tôi sẽ cho dân quân đi bắt thằng Tần Rồ về, cho nó ngủ với con lợn sề.

    Vương Thu Xá nghĩ tới chuyện mắc bẫy của tên hữu phái, khốn khổ khốn nạn, mất đứt hai tháng trời, trợn trừng hai con mắt tam giác lên, nổi trận lôi đình, đe dọa vậy.

    Nữ chủ nhiệm, ngược lại, là người có cơ mưu, kế hoạch, nên bình tĩnh nói:

    - Cần phải đấu với nó bằng mưu mẹo, chứ không thể thuần tuý nghĩ đến việc róc xương, lột da nó... Thế nó không làm đơn xin kết hôn với Hồ Ngọc Âm, và đã công nhiên ngủ nghê với nhau rồi đó sao? Trước hết ta hãy lục đến cái tội phạm pháp luật, chung sống với nhau ngoài vòng pháp luật của nó! Cho nó đi cải tạo lao động từ tám năm đến mười năm có khó gì? Chỉ cần nói nhỏ với các bộ môn có liên quan ở huyện một câu là xong. Khi đã tống được nó vào trại cải tạo lao động rồi thử hỏi cái thằng phần tử loại 5 ấy, còn đi mà rình rập ở cái tường cao với tường thấp nữa được không?

    Thế là Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm bị lôi đến văn phòng công xã.

    - Tần Thư Điền! Hồ Ngọc Âm! Chúng mày chung sống với nhau bất hợp pháp, có đúng thế không? - Nữ chủ nhiệm tiếp tục nghiêm giọng hỏi.

    Tần Thư Điền ngẩng đầu lên giải thích:

    - Kính thưa thượng cấp lãnh đạo tôi là kẻ có tội... Chúng tôi đã trình đơn lên cán bộ đại đội rồi, đại đội đã cho chúng tôi đôi câu đối trắng, chấp nhận chúng tôi là “một cặp vợ chồng đen”... Chúng tôi vẫn cứ nghĩ rằng, cô ấy là một quả phụ, tôi là một người độc thân đã ngót bốn chục tuổi, lại cùng là phần tử loại 5, chúng tôi không có trèo tường, khoét ngạch... Lãnh đạo công xã phê chuẩn cho chúng tôi mới phải chứ... ạ?

    - Cứt! - Vương Thu Xá nghe vậy, liền đập mạnh tay lên bàn đứng dậy, vì thấy trong lời nói của Tần Thư Điền có ý móc máy. - Đồ đê tiện bỉ ổi! Mày là đồ hai mang vừa là phái hữu vừa là lưu manh, lại vừa là phản cách mạng vừa là ác ôn. Quỳ xuống! Bố mày bảo mày quỳ xuống! Mày có quỳ xuống không? Đến hôm nay tao mới nhìn thấy cái lòng lang dạ chó của mày! Phì! Quỳ xuống! Mày không chịu quỳ hả?

    Hồ Ngọc Âm kéo kéo Tần Thư Điền. Tần Thư Điền đã làm phái hữu hơn mười năm, đây là lần đầu tiên anh không chịu uốn gối, không chịu quỳ, thậm chí cả đầu cũng không thèm cúi xuống. Trước kia mệnh lệnh bắt anh quỳ xuống là chính trị, còn hôm nay bắt anh quỳ là mệnh lệnh của dâm ô. Hình như Hồ Ngọc Âm cũng hiểu được mặt khác của chuyện này nên cô cũng bạo dạn lên. Vương Thu Xá không nén nổi giận dữ nên nắm hai nắm đấm cứng như sắt, lao tới, vung lên...

    Hồ Ngọc Âm cũng lao tới, cặp mắt nảy lửa nhìn thẳng vào chủ nhân ngôi nhà sàn, nét mặt kiên quyết rắn đanh lại:

    - Vương Thu Xá! Dù có đánh, có giết gì, thì tôi cũng cần phải nói một câu.

    Trước đôi mắt nảy lửa ấy, Vương Thu Xá chợt chết lặng đi.

    - Ta đã biết nhau bao nhiêu năm rồi anh hiểu chứ? Ta đối diện với nhau, đây đâu phải lần đầu? Nhưng tôi chưa từng vạch những chuyện ma quỷ của anh ra... và từ này về sau tôi cũng chẳng thèm vạch mặt anh đâu! Nhưng mà hôm nay tôi muốn hỏi anh một điều, quan hệ của chúng tôi, đều rõ như bay ngày ở cái thị trấn này, ông già bà cả ở phường phố đều biết hết, đều công nhận cả, hơn nữa chúng tôi có đơn xin nhà nước cho đăng ký, như vậy là phạm pháp sao, hay những kẻ ban ngày thì đến báo cáo, đến đêm lại luồn vào bằng cửa ngách là phạm pháp?

    - A! Giỏi, định làm phản hả, định lật đổ hả...? Con mẹ...

    Bà nữ chủ nhiệm, một con người thập thành về mọi phương diện, chưa hề biết lúng túng là gì, nay đột nhiên không giữ nổi bình tĩnh, cũng bật lên, chửi bới như một con mụ đanh đá, chua ngoa...

    - Con mẹ phú nông phản động kia! Cái con đĩ trải chiếu bán dâm ở khắp các đầu đường xó chợ kia, đồ yêu tinh, đồ lẳng lơ đĩ thõa! Để rồi xem bà có rạch mồm mày ra được không? Bà sẽ rạch mồm mày ra cho mày biết mặt... bà!

    Thật chẳng còn ra cái thể thống gì nữa. Lại càng không thể nói đến nghệ thuật đấu tranh, đến tác phong lãnh đạo, đến chính sách chính vở gì nữa. Quả là đã làm ô uế, nhiễm bẩn, sâu đến mấy thước đất nơi văn phòng công xã này rồi. Nhưng rồi Lý Quốc Hương nghiến răng lại, người run lên bần bật, và bấm đến tóe máu mấy đầu ngón tay, mới khỏi xông vào cắn xé Hồ Ngọc Âm. Mụ là người thông minh. Phó thống soái Lâm Bưu đã từng dạy dỗ mụ rằng: Chính quyền tức là quyền trấn áp. Mụ quyết định sử dụng quyền trấn áp ấy:

    - Mấy anh dân quân đâu! Đem dây thép lại đây cho tôi! Lột hết quần áo của con mẹ phú nông này ra cho tôi, rồi lấy dây thép xâu hai bầu vú của mụ ta lại!

    Cặp vú phát triển bình thường của Hồ Ngọc Âm giống như của các bà mẹ, vốn là bầu sữa dùng để nuôi nấng đời sau, liệu có bị người ta dùng dây thép xuyên vào với nhau không? Chắc là độc giả cũng không thể nhẫn tâm mà nhìn cảnh đó được, và tác giả cũng không nhẫn tâm mà viết cảnh đó ra. Những tội hình còn thảm khốc hơn tội hình thời nguyên thuỷ ấy, quả thật cũng đã chính thức xảy ra ở đại địa Trung Quốc vào những năm 60 của cuối thế kỷ XX này!

    Tuân theo sự bố trí và sắp xếp của cấp trên, khi bắt đầu phong trào “một phê hai đấu, thanh lọc đội ngũ giai cấp” của công xã, thì cặp vợ chồng đen Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm, lập tức trở thành tấm bia sông để triển khai phong trào vận động, đồng thời cũng là tội phạm phản cách mạng điển hình. Trong một cuộc đại đội tuyên án trên bãi đất trống, trước cửa sân khấu trong chợ của thị trấn Phù Dung, tên hữu phái phản động, và hiện nay là phần tử phản cách mạng Tần Thư Điền bị phạt mười năm tù giam. Tên phú nông phản động Hồ Ngọc Âm bị xử phạt ba năm tù giam, nhưng vì đang có chửa nên tạm cho hoãn thi hành án. Tất cả những người biết rõ về vụ án này, đều len lét lẩn vào góc tối, gạt thầm nước mắt, trong số những người rơi lệ đó có Lê Mãn Canh và vợ anh là “Ớt phật thủ”. Lập trường của vợ chồng họ không vững vàng, yêu ghét không rõ ràng, không phân biệt được địch ta! Họ không hiểu được, rằng, trong thời kỳ hoà bình, lòng nhân từ đối với bọn Tần Thư Điền những kẻ thù tuy trong tay không có một tấc sắt, cũng chính là tàn ác với nhân dân. Họ không hiểu được rằng, một khi bọn Tần Thư Điền, Hồ Ngọc Âm lật đổ được chính quyền, ngóc được đầu dậy, thì hàng trăm ngàn vạn đầu người cách mạng sẽ rơi xuống đất, và máu sẽ chảy thành sông, thây sẽ phơi đầy đồng. Tần Thư Điền sẽ lại đăng đàn, lại chỉ huy biểu diễn “sàn hát mừng”, sẽ biến chủ nghĩa xã hội thành chủ nghĩa phong kiến, sẽ làm thay đổi màu sắc của cái giang san đỏ au này, thành màu tím, màu lam, màu vàng, màu lục. Hồ Ngọc Âm sẽ cứ năm ngày một phiên chợ, lại bày biện cái quán canh bánh tráng ở thị trấn Phù Dung, bán một hào một bát, bóc lột mồ hôi và xương máu của nhân dân béo tốt, rồi xây dựng lại ngôi lầu mới, làm địa chủ mới, phú nông mới.

    Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm khi bị dẫn giải lên đài lãnh án, thái độ ngoan cố, hung hàng càn rỡ, không khóc lóc. Họ đã bị đấu không còn thiếu một kiểu, một loại nào, đấu thành chai, thành nhờn, thành thối, thành những kẻ ngoan cố, có chết cũng không thay đổi được, và là cơ sở xã hội của đường lối xét lái hiện đại phản cách mạng. Tần Thư Điền không nhận tội, không chịu cúi đầu. Hồ Ngọc Âm ngửa lưng, ưỡn cái bụng phưỡn ra diễu võ dương uy với toàn thể hội trường. Có một cái chết là, khi thẩm phán viên đọc án quyết, dù là lập pháp, hành pháp là một, vì đã được nhất nguyên hóa đến cao độ, nhưng vẫn phải thi hành một loạt những thủ tục, nên dân quân tạm thời không được phép ấn cái đầu chó của họ xuống.

    Hồ Ngọc Âm và Tần Thư Điền, hai người đứng đối diện với nhau. Họ, mắt nhìn mắt, mặt nhìn mặt, nhưng họ không nói và họ cũng không được phép nói. Song, tấm lòng phản động của họ vẫn cảm thông được với nhau, ý tứ của nhau họ đều hiểu rõ:

    - Phải tiếp tục mà sống, dù rằng sống như một con vật cũng vẫn phải sống.

    - Xin hãy yên tâm. Những người tử tế ở thị trấn Phù Dung không thiếu. Nhất định phải sống qua được cái thời buổi này, và sống vì người đời sau của chúng ta.
     
    vinhhoa thích bài này.
  8. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    Chương IV
    DÂN TÌNH XUÂN NAY
    (Năm 1979)



    SÔNG PHÙ DUNG VỚI NGÒI NGỌC DIỆP


    THỜI GIAN LÀ MỘT DÒNG SÔNG, MỘT DÒNG SÔNG chảy trong ký ức con người, một dòng sông cuộc đời.
    Tưởng như nhè nhẹ êm trôi, không một tiếng vang, không long lanh chói mắt. Nhưng bạn đâu có biết, nó đã xuyên qua bao nhiêu kẻ đã ngăn trở, đè nén, chèn ép nó? Ngàn vạn lần uốn khúc, quanh co, không ngừng nghỉ, không bao giờ ngoảnh đầu nhìn lại phía sau. Những mỏm núi cheo leo tàn nhẫn, vô tình, quăng nó xuống vực sâu, xương tan thịt nát, biến thành khói sương, mờ mịt. Trong những khe sâu thăm thẳm, nó lại tìm hợp lại, sắp xếp lại đội ngũ, cờ xí, gầm thét những lời chống đối, quật khởi, khí thế hào hùng. Tiếng gầm gào của ngọn sóng tuyên cáo một cách chính xác rằng: Không có gì ngăn cản được nó. Khỉ vượn có thể đến uống nước, hươu nai có thể đến tắm táp, bạch hạc có thể đến điểm trang, rắn độc có thể đến bơi lội, mãnh thú có thể đến tranh hùng, con người có thể đến buông bè thả mảng, có thể xây dựng những con đập cao như vách núi, chặn dòng nó, đun nó thành năng lượng hơi nước... Tất cả những cái đó đều không thể làm thay đổi chí hướng hội nhập, nhảy ra biển lớn của nó.

    Cuộc sống là một dòng sông, dòng sông chuyên chở cả những niềm vui và cả những nỗi buồn, dòng sông đầy rẫy những hiểm nguy nhưng lại thú vị vô cùng, mọi người đều biểu diễn trên dòng sông này, chầu văn đấu võ, vai trung vai nịnh. Con người đều bộc lộ ra tất cả những diện mạo tôn nhan, gọi chung là “bộ mặt”. Phu nhân tố cáo thủ trưởng. Con ông cháu cha. Thanh mai trúc mã, cho đến những bạn thân trở thành sinh tử đối đầu. Linh hồn thành đĩ điếm. Đạo đức thành dâm ô. Những tính người, tình người của giai cấp tư sản. Phong trào quần chúng, động viên quần chúng. Những người động viên quần chúng, bản thân cũng bị động viên. Trái đất quay theo quỹ đạo, và tự quay, sao không động cho được? Ghi nhớ không quên: mày chết tao sống. Mảnh đất quyền lực chỉ là những nắm đấm, hỏi làm sao mà mọi người sống nổi? Phái hữu không thối, phái tả liệu có thơm không? Ôi, những cuộc chen chân về cái “tả”, chạy đua theo cái “tả”, cái “hữu” lại giống như hồn ma bóng quỷ không nơi nương tựa, tất phải chăng lưới bủa vây bắt giữ chúng. Từ quần áo ăn mặc, nước hoa, kiểu tóc, cho đến răng trắng môi hồng, văn kiện báo cáo, những đại hội tiểu hội không ngừng không nghỉ, những trận hồng thuỷ chính trị đỏ như lửa, trắng như lau, đều nhằm hưng thịnh vô sản, tiêu diệt tư sản. Cho đến ớt xanh trước ngõ, bí đỏ vườn sau của xã viên công xã đều là tư bản chủ nghĩa, cần phải trồng hướng dương, hướng dương có tính tượng trưng, những ai cắn hạt hướng dương là có tội. Ai bảo rằng, không có những nhà tư bản. Những người buôn thúng bán bưng, nhìn theo quan điểm phát triển, đó là những nhà tư bản.

    Những mảnh đất phần trăm, những thị trường tự do chính là giường ấm nệm êm. Cần chủ động tiêu diệt. Tấc đất cũng đòi, tấc quyền cũng đoạt. Phải tiêu diệt chủ nghĩa tư bản từ trong trứng, trong nôi. Lẽ nào để cho chúng rầm rộ phát triển đến thành tai họa? Nhà nhà xô vào trồng ớt, trồng bí đỏ để bán (bí đỏ còn có thể nấu rượu), đồng ruộng tập thể trở thành hoang hoá mất! Và ớt, và bí đỏ trở thành tai họa. Lương thực và tiền tài, giàu và nghèo, có quan hệ biện chứng với nhau. Nếu như mọi người đều có tiền rủng rỉnh, đều giàu có, đời sống được nâng cao, vượt qua cả mức sống của địa chủ, phú nông trước giải phóng, ăn uống no đủ, thừa mứa, còn gì là cách mạng nữa? Cán bộ xuống xã, vận động sản xuất, còn biết dựa vào ai? Đoàn kết với ai? Tranh thủ ai? Cô lập và đả kích ai? Làm sao khi sắp xếp đội ngũ chính trị, mà lại thiếu được những pháp bảo và cây gậy thần này? Bần nông và trung nông lớp dưới vẫn là bần nông và trung nông lớp dưới. Họ phải luôn luôn và vĩnh viễn chiếm đa số. Nếu họ tiến lên thành trung nông, sống no ấm đầy đủ, thiên hạ sẽ đại loạn mất, và thế là cách mạng ô hô ai tai. Những vấn đề của Trung Quốc có hàng bồ, hàng đống, đó là cái bể mênh mông của giai cấp tư sản và tiểu tư sản. Cần phải có một chiếc chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi vấn đề, đó là: Đấu tố. Từ trên xuống dưới, dăm sáu năm một lần, như sấm rền bão giật, đấu tố, đấu tố và đấu tố. Kỳ diệu vô cùng, thành nghiện. Bạn tính xem: Đấu tố có khác gì chiếc chìa khóa mở tung được ổ khóa đồng cũ kỹ? Cái kiểu chữ vuông của Trung Quốc, tuy có đơn giản hóa đi, vẫn cố giữ lấy chút tượng trưng của loại chữ tượng hình, ở cửa thành Sơn Hải Quan, ở cố cung, vườn cấm, ở văn chỉ thờ Khổng Tử, ở những nhà thờ họ thôn quê , ở những kho lẫm hòm tiền của địa chủ, ở những nhà giam của hương thôn công xã, ở cánh cửa sắt của đập nước, tất cả là những ổ khóa đồng giống hệt nhau và một chiếc chìa khóa đồng, đại đồng tiểu dị, ấy là: Đấu tố. Đúng là quốc hồn quốc túy, những kiệt tác truyền đời. Có đấu tố mới có tiền, không đấu tố tất lùi, tất thành xét lại. Đấu tố, đấu tố và đấu tố cho đến năm khỉ, tháng ngựa, cho đến kỳ thống nhất được thiên hạ, cho thế giới đại đồng. Lịch sử có quy luật tự thân, nó quyết định sự chối bỏ, lựa chọn vạn sự vạn vật của xã hội loài người. Nghiêm túc, thản nhiên biết bao nhiêu! Cho đến tháng 10 năm 1976. Lịch sử đã đánh một dấu chấm và một dấu than khổng lồ trên đại địa Thần Châu. Tiếp đó lại xuất hiện một dãy dài những dấu hỏi. Đại hội “toàn quốc lần thứ ba” của Đảng, đã xoay chuyển càn khôn, đẩy lùi muôn vàn gian khó, đập vỡ khối băng dầy, dòng sông của cuộc sống lại tuôn trào, cuồn cuộn.

    Cần phải nói rằng, dù, trong những tháng năm, con người đã mù quáng, điên cuồng mở những cuộc chạy đua về phía cực tả có tính quy mô toàn quốc, nhưng dòng sông thời gian, dòng sông cuộc sống, vẫn chảy về phía trước, không ngừng không nghỉ, và càng không chảy ngược dòng. Thị trấn Phù Dung ở vùng sơn cước núi Ngũ Lĩnh hẻo lánh xa xôi, cũng vẫn đi lên. Chiếc cầu lớn cho xe chạy, ngựa qua trên sông Phù Dung cũng đã hoàn thành, thông với đường quốc lộ. Ban đầu qua đó chỉ là xe cải tiến, xe cút kít, xe trâu, xe ngựa, tiếp theo là máy kéo, ô tô tải, ô tô khách, đôi khi cũng có gặp một chiếc com măng ca. Khi có một chiếc com măng ca tới lũ trẻ trong thị trấn chạy theo rần rần. Tròn xoe cặp mắt ngắm nghía. Nhất định đó phải là phó bí thư huyện ủy Lý Quốc Hương trở lại “căn cứ địa”, để kiểm tra công tác chỉ đạo. Sau đó nữa, là tất cả các loại ô tô đủ kiểu, bởi vì ở thị trấn đã xây dựng mấy nhà máy xí nghiệp. Đó là một nhà máy giấy, vì ở đó có nguồn nguyên liệu tre nứa vô tận. Một nhà máy rượu, nấu bằng khoai, sắn, và bằng những lương thực phụ khác. Nghe nói nước sông Phù Dung có một hàm lượng khoáng chất gì đó, nên rượu có năng suất cao, vị rượu lại thơm ngon. Một xưởng cơ khí, một nhà máy thủy điện, do vậy số nhân khẩu trong thị trấn cứ như kiến làm tổ, tăng lên gấp mấy lần. Tiếp đó là bến xe, bệnh viện, khách sạn, quán giải khát, tiệm cắt tóc, hợp tác xã may, hiệu sách Tân Hoa, phòng bưu điện, cửa hàng sửa chữa đồng hồ, vân vân, đã tiếp nối nhau ra đời, và trên khoảng đất trống vốn là trung tâm của mỗi phiên chợ ngày xưa, nay đã thành ngã tư của hai đường phố, gọi là Phố Mới. Phố Đá Xanh ngày xưa gọi là Phố Cũ.

    Thị trấn Phù Dung thành lập ủy ban cách mạng thị trấn. Trở thành một cấp chính quyền địa phương, nhưng vẫn nằm chung trong công xã Nhân Dân, cơ cấu thể chế vẫn còn rối rắm. Chủ nhiệm ủy ban cách mạng thị trấn là Vương Thu Xá, nhân dân thị trấn vẫn quen gọi là trưởng thị trấn. Bên dưới ủy ban cách mạng thị trấn còn có đồn công an, có phòng truyền thanh, và một số ban ngành khác. Dù là con chim sẻ thì ngũ tạng của nó vẫn phải tề toàn. Đồn công an quản lý toàn bộ hộ khẩu, dân số, đánh phá bọn đầu cơ lừa đảo, kiêm huấn luyện dân quân vũ trang toàn thị trấn, đánh phá các vụ án “phản động” ngày một nhiều. Phòng phát thanh truyền thanh đặt ở phố Mới, các nơi phố Cũ đều gắn loa loại to, tiếp đó là trên tường mỗi gia đình đều có những chiếc loa vuông hộp gỗ, sớm, trưa, chiều tối ba lần, phát những vở kịch vở tuồng cách mạng, những bài hát cách mạng và các loại thông tri thông báo cùng những nghị quyết quan trọng của ủy ban cách mạng thị trấn. Còn có cả bản tin của thị trấn nữa. Nội dung bản tin thị trấn rất phong phú, thấm đậm màu sắc chính trị. Trước đây mấy năm, luôn luôn bám sát thực tế, phê phán Lâm Bưu, phê phán Khổng Tử, phê phán nho gia, bình luận pháp gia, thực hiện chuyên chính toàn diện với giai cấp tư sản, tuyên truyền thành quả to lớn của cuộc đại cách mạng văn hóa trong thị trấn, tiếp theo nữa là “phê phán Đặng Tiểu Bình phản kích những kẻ định lật lại bản án hữu khuynh”, và “phương châm kịp thời”. Còn nay thì sao? vẫn là cô phát thanh viên ấy, vẫn cái giọng nói tiếng phổ thông pha thêm giọng địa phương, theo nghị quyết đã được thông qua của ủy ban cách mạng thị trấn, đang phê phán cực lực, và bóc trần những tội lỗi của Lâm Bưu và “lũ bốn tên”, phê phán đường lối cực tả, nói về mười năm tàn sát hung bạo, đang tuyên truyền về cương lĩnh mới xây dựng đất nước, nhiệm vụ tổng hợp của thời kỳ mới, đang hiệu triệu một cuộc vạn lý trường chinh mới, bốn hiện đại hóa xây dựng. Những chiếc loa to có công suất rất lớn, chiếm lĩnh, áp đảo trong thế giới âm thanh ngay cả đến những tiếng nổ trên đường phố của máy kéo của ô tô, của tiếng búa máy trong xưởng cơ khí, tiếng máy nghiền trong xưởng giấy cũng nhạt nhòa thanh sắc trước những tiếng loa, phải lui quân đến ba xá. Những bà con lối xóm trên phường phố trong phố Cũ, phố Mới, khi đứng đối diện chuyện trò cũng khó mà nghe được tiếng nói của nhau. Như vậy cũng giảm bớt được những điều to tiếng nhỏ, những chuyện sang tai thì thào, có lợi cho ban quản lý trị an.

    Trên con đường tiến lên, đương nhiên sẽ nảy sinh hàng loạt những vấn đề. Không có đường cái quan sẽ không có ô tô, không có ô tô, tất không làm bốc bụi đường cuồn cuộn. Ô tô, máy kéo chạy trên đường trải cấp phối, lớp bụi đất đỏ bốc lên mờ mịt, hàng tiếng chưa tan hết, gọi là “đường ta” thuộc hệ thống giai thoại “đường Tây” (1). Phố Cũ còn đỡ. Bên phố Mới thì nóc nhà, kẽ ngói, sân thượng, bệ cửa sổ, không đâu là không đóng một lớp bụi dầy. Đợi khi nào trời mưa to, mới có một cuộc rửa ráy thiên nhiên. Ngã tư phố Mới không có cống ngầm, dân phố, cửa hàng đều hắt nước bẩn ra đường cấp phối, ngày nắng ráo còn khá, vì mặt đường cấp phối hút nước rất ghê. Nhưng đến những ngày mưa, đường phố lập tức thành “con đường bùn”, nước chảy ào ào khắp phố, những chàng tài xế thích phóng xe trong mưa, làm cho từng đám nước bẩn đục, từng mảng bùn đất bắn tung, bắn tóe, làm lốm đốm, nham nhở tường vách, và khung cửa kính của nhà cửa hai bên. Cũng hay, như vậy vừa đỡ tiền, lại giảm việc, nhân dân hàng phố đỡ phải đi mua vải làm rèm cửa. Nghe nói trưởng thị trấn Vương Thu Xá và các đồng liêu của mình, đang nghiên cứu xây dựng quy hoạch của thị trấn, đang định đào một con rãnh ở hai bên ngã tư đường, cho nước bẩn được lưu thông. Có người bảo nên đào cống ngầm, nhưng ông Vương, trưởng thị trấn bác lại:

    - Cống ngầm? Cống với rãnh thì có khác gì nhau? Mình không phải là Quảng Châu, Thượng Hải, không làm ăn theo kiểu Tây!

    Vì thế đã đi đến quyết định, cứ theo dự án thiết kế cái rãnh mà vẽ trên giấy rồi đưa ra hội nghị ủy ban cách mạng thị trấn thẩm định, phê chuẩn, giao cho đồn công an thị trấn tập trung toàn bộ những địa chủ, phú nông, phản động, các phần tử xấu, cùng những tay sai, nanh vuốt của bè lũ “bốn tên”, làm nghĩa vụ lao động, và hẹn ngày hẹn tháng phải hoàn thành.

    Giữa các công trường, xí nghiệp cũng thường xảy ra những mâu thuẫn và tranh chấp với nhau luôn. Đã có hai xí nghiệp ẩu đả với nhau. Các xí nghiệp, công xưởng thường xây dựng theo dọc sông Phù Dung cho tiện việc lấy nước và thoát nước thải, còn tiện cả cho việc vận tải đường sông nữa. Nhưng nhà máy giấy lại xây dựng ở phía đầu ngòi Ngọc Diệp, bên trên nhà máy rượu tới bốn dặm. Ban đầu, đương nhiên, chẳng có ai nghĩ tới vấn đề gì sẽ xảy ra. Cách xa nhau tới bốn dặm đường, lại thuộc hai con đường thủy khác nhau, công nhân thanh niên nam nữ của hai nhà máy chim chuột nhau, còn đi dung dăng dung dẻ chán chê mê mỏi với nhau trên bờ sông, nào ai có vướng chân ai đâu? Nhưng khi nhà máy giấy bước vào sản xuất, tống nước thải có chất kiềm ra sông, nổi bọt trắng xóa, lềnh bềnh trôi theo nước chảy xuôi, đổ ra sông Phù Dung, nhưng ai đi quản chuyện giời ơi, xa xôi hàng năm mười dặm đường như thế? Hai mẻ đầu, rượu của nhà máy rượu nấu ra, có vị đăng đắng, chỉ còn biết có kêu giời. Nhà máy rượu đòi nhà máy giấy bồi thường tổn thất, nhà máy giấy đòi nhà máy rượu chuyển địa điểm sản xuất. Các anh coi nước sông là kém, chúng tôi lại coi nó là quý. Kiện cáo nhau lên đến huyện, huyện lại chuyển về cho thị trấn giải quyết. Kiện cáo lại kéo nhau lên cấp cao hơn, cấp cao hơn chuyển về huyện giải quyết, huyện lại chuyển về thị trấn. Vương Thu Xá chủ nhiệm ủy ban cách mạng thị trấn, đâu có ba đầu sáu tay, giải quyết sao nổi? Kinh phí di chuyển địa điểm của nhà máy rượu lên tới trên triệu đồng, mà ủy ban cách mạng của cái thị trấn con con này đâu có quyền in tiền? Vương Thu Xá sợ hai nhà máy đánh nhau, sinh chuyện chết người, bèn chạy lên ủy ban cách mạng huyện khóc lóc, mời được bí thư Dương Dân Cao và phó bí thư Lý Quốc Hương về, tổ chức cho lãnh đạo hai xưởng học tập, nâng cao tư tưởng. Cuối cùng lại chọn “con đường trung dung” của Khổng Tử vốn đã bị phê phán cho đến thối um lên rồi: Nhà máy giấy xuất tiền, nhà máy rượu xuất lực, dùng ống xi măng dẫn nước từ một con suối trong veo trong khe núi cách nhà máy tới hơn ba dặm về dùng, chuyện thế mới yên. Hơn thế, lãnh đạo của hai nhà máy, còn đi đến được một thỏa thuận ngầm, sau lưng huyện ủy là: Từ nay về sau, cán bộ nhà máy giấy, đến nhà máy rượu mua rượu nội bộ, hoặc rượu thứ phẩm, rượu xử lý, được hưởng sự ưu đãi ngang với cán bộ của nhà máy rượu.

    Còn như con sông Phù Dung và con ngòi Ngọc Diệp xanh màu đậu xanh, xưa nay vốn êm đềm với bóng cây mát rượi đôi bờ, và phong cảnh tươi đẹp diễm lệ, nay ra sao? Chuyện ấy, mọi người còn đang xôn xao bàn tán, nhưng vẫn còn tạm gác lại, chưa đưa được vào chương trình nghị sự của ủy ban cách mạng thị trấn vốn đang bận rộn. Do tất cả các nhà máy xí nghiệp đều tống tất cả nước thải chất thải ra sông, nên cây cỏ hai bên bờ không những không mọc được, mà còn đang bị tàn lụi dần, hơn nữa, người ta còn đem đổ các loại rác bẩn ra bờ sông. Nghe nói, lòng sông vốn đã chẳng lớn lao gì để có thể lấn chiếm, mở rộng diện tích đất đai, vậy mà người ta đã đắp bờ tiến sông thành ruộng, biến biển thành đồng. Các loại giấy vụn, hộp giấy, và cả những tờ giấy đã tẩy phèn trắng lôm lốp của nhà máy giấy, đôi khi nghe nói còn có cả những đứa con hoang, còn thiếu tháng, trôi nổi bập bềnh trên mặt sông êm đềm. Một đặc sản của sông, ngòi xưa là “cá chép Phù Dung”, nay đã hết, ngay cả đến con tôm, con cua nay cũng vắng bóng.

    Có người giải thích rằng, nước bẩn và tiếng ồn, là phụ phẩm trong tiến trình hiện đại hóa xã hội. Những nước công nghiệp tiên tiến thuộc thế giới thứ nhất, thứ hai đều thế cả. Cứ theo như sự tuyên truyền của báo chí mấy năm trước đây thì trên bầu trời nước Nhật, nước Mỹ đến bóng một con chim sẻ cũng chẳng tìm thấy. Nước Anh lại phải nhập khẩu dưỡng khí. Nội địa Trung Quốc thuộc thế giới thứ ba, liệu thị trấn Phù Dung thuộc vùng núi, biên viễn xa xôi, có tránh được con đường mòn ấy không? Hơn nữa vẫn còn chưa tới cái bước mà khoảng bầu trời thiếu vắng bóng chim sẻ, và dưỡng khí cũng chả đến nỗi thiếu. Chim sẻ ở vùng thị trấn Phù Dung vẫn là một loài chim có hại, mỗi năm vào đầu mùa hạ, khi mùa lúa mạch chín, các xã viên còn phải cắm những con bù nhìn ở đầu bờ ruộng để xua đuổi chúng kia mà. Nếu như nói khoa học và dân chủ là hai chị em sinh đôi, và phong kiến ngu muội là hai vị Kim Đồng, Ngọc Nữ trước Phật đài, Thánh điện thì đấu tố chủ nghĩa tư bản ròng rã hai mươi mấy năm trời mới rõ được một điều rằng, chủ nghĩa tư bản tiến bộ hơn chủ nghĩa phong kiến. Trên thực tế thì cái chủ nghĩa phong kiến thâm căn cố đế lại đấu tố cái chủ nghĩa xã hội còn non trẻ.


    (1) Ở đây lại gặp lối chơi chữ của tác giả. Trong câu này, tác giả dùng hai từ “Dương khôi lộ” (đóng trong ngoặc kép) đồng âm mà dị nghĩa (với hai chữ “dương” viết khác nhau), một từ có nghĩa là “đường tung bụi”, một từ có nghĩa là “đường vôi Tây”, tức đường xi măng. Vì thế chỉ xin tạm dịch, cho gọi là lọt nghĩa. (N.D.).



     
    vinhhoa thích bài này.
  9. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    SỰ CHÌM NỔI CỦA LÝ QUỐC HƯƠNG


    MẤY NĂM TRƯỚC, MỘT TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÓ TÊN tuổi ở Bắc Kinh, chuẩn bị thành lập “hệ đấu tranh giai cấp”, coi như một hành động vĩ đại chưa từng có trong việc giáo dục lịch sử cách mạng. Thực ra cái đó là thấy cây chẳng thấy rừng, thầy mo nhỏ không biết thầy mo lớn. Giai cấp đấu tranh sớm đã là một môn học chuyên nghiệp phổ cập mang tính toàn quốc, coi là “chính khóa”, mà hình thức đâu phải chỉ có một cách, và phương pháp học tập cũng thật lắm kiểu, lắm loại, người theo học cũng có già có trẻ. Cứ bình tâm mà xét, trong hàng ngàn hàng vạn cán bộ đã chẳng có khối người, được bồi dưỡng, đào tạo từ những trường học kiểu này ra sao? Hoặc như nói rằng đã rèn luyện khắc khổ nghiêm túc, đã qua những ngày tháng đau khổ phản tỉnh, tự bồi dưỡng từ những trường chuyên nghiệp ấy mà ra đó sao?

    Trước đây mấy năm, có một vị nữ thủ trưởng ở Bắc Kinh, chỉ một suýt nữa thôi là lên ngôi hoàng đế, giống như Lã Trĩ, Võ Tắc Thiên, thái hậu Từ Hy. Vị nữ thủ trưởng ấy, trong và cả trước sau khi “phê phán Lâm Bưu, phê phán Khổng Tử” đã dáo dác lên rằng phải bồi dưỡng cho được lớp nữ kế cận, có sừng có mỏ. Bà ta bảo:

    - Lũ đàn ông các anh đã có gì là ghê gớm nào? Có hơn chăng là hơn một con tinh trùng!

    Thật đúng là duy vật chủ nghĩa đến tận cùng. Cái ân đức của vị nữ thủ trưởng quả thực đã ban ra khắp ba hồ bốn biển, và đã được thể hiện ra trong lớp đàn em trong việc lãnh đạo ba kết hợp rồi. Chính vì đó mà Lý Quốc Hương nguyên là bí thư công xã đã vinh thăng lên làm nữ bí thư huyện ủy. Một nữ bí thư huyện ủy có xá gì? Trên đại địa Trung Quốc rộng chín triệu sáu trăm ngàn ki lô mét vuông, có bao nhiêu ngàn huyện thị, cán bộ các ban các ngành của mỗi cấp khác nhau có hàng trăm chục vạn người. Có rất nhiều quý bà vào cái tuổi của mụ, học lực tương đương với mụ, đều đã làm cán bộ lãnh đạo những ủy ban cách mạng địa phương và của tỉnh, tên tuổi thường được quảng bá trên đài, hình ảnh thường được in trên báo, thậm chí có một vị quan bà được đến bái kiến phó thủ tướng, và đã gây ra một chuyện cười trước mặt các bạn bè y tế Nhật Bản qua câu hỏi: “Đồng chí Lý Thời Trân (1) đã được đưa từ trường cải tạo về chưa?”. Các vị cán bộ đó đều từ trường chuyên nghiệp đó bồi dưỡng đào tạo xuất thân ra cả đấy! Thì chả bồi dưỡng theo “chính khóa” là gì? Do nhu cầu của cách mạng, còn trách cứ được ai? Vì Lý Quốc Hương chưa từng được vào Tử Cấm thành, cho nên ai đã dám chắc rằng người bầy ra cái trò cười trước mặt phó thủ tướng lại chẳng phải là chính mụ ta?

    Nói đi cũng cần phải nói lại rằng, những năm gần đây, Lý Quốc Hương cứ như anh lùn leo thang, cũng chẳng phải chuyện dễ dàng gì. Nhiều lần gặp những trận bão chuyển, lốc quặt to lớn mang sắc thái những bước ngoặt của lịch sử, mụ ta đều thích ứng được, chuyển biến thông đồng bén giọt. Mụ ta đã chính thức lấy chồng, chồng là một cán bộ phụ trách cấp tỉnh thuộc tuổi trung niên mà bà vợ đã bị toi mạng trong thời kỳ đầu của cuộc “đại cách mạng văn hóa”. Cưới nhau nhưng họ vẫn tạm thời sống ở hai nơi. Lý Quốc Hương còn muốn tôi luyện ở cơ sở vài năm, để tiến bộ nhanh hơn. Sau khi “bè lũ bốn tên” bị hạ bệ, trong một hội nghị cán bộ mở rộng ba cấp toàn huyện, Lý Quốc Hương đã tố cáo, phê phán những tội ác của đường lối cực tả, cũng như các thế lực bè phái, khiến cho người nghe rơi nước mắt. Ôi một người cán bộ mới hơn ba chục tuổi đầu. Ôi, một nữ bí thư công xã, vậy mà đã bị bắt bố, bị đeo bảng đen, đeo giầy rách rồi bị ném vào chung rọ cùng với các phần tử loại 5, lũ hồn ma bóng quỷ, đem đi diễu hành bêu riếu; rồi bị đưa ra công trường xây dựng cầu bán nguyệt ở thị trấn Phù Dung làm những công việc lao động nhọc nhằn, và chỉ vì muốn xin thêm mấy thìa cơm gạo xay, mà bị bắt buộc phải nhảy múa “điệu múa quỷ đen” dưới áp lực của thắt lưng da bịt đồng, không nhảy múa được đã bị bắt làm chó, bò kiểu chó bò bốn chân... Ai nghe mà chả thấy bầm gan tím ruột? Bọn bè phái táng tận lương tâm, với những móng vuốt đen ngòm đã dày đạp lên người con gái ngoan cường, người cán bộ vững vàng của Đảng... Đương nhiên, cái “phái tả đánh nhầm phái tả” của Lý Quốc Hương - cái phái “tả” mang đầy tính bè phái ấy cần phải để vào trong dấu ngoặc kép và giải thích rằng: Cực tả của phát xít - chứ còn tả của mụ ta là tả của cách mạng chính thống nó hoàn toàn khác nhau về bản chất. Còn nữa, việc Lý Quốc Hương ra lệnh lấy dây thép xuyên buộc hai bầu vú phát triển bình thường của mụ phú nông mới Hồ Ngọc Âm, đấy chỉ là cách trấn áp kẻ thù của giai cấp lúc đó thôi mà, và cũng là xuất phát từ chỗ uất ức cách mạng thôi, không thể nhẹ tay, từ tâm được. Nhân từ với kẻ địch tức là tàn nhẫn với nhân dân mà. Tất nhiên những chuyện đó mụ không tiện tố cáo và vạch tội tại hội nghị các cán bộ mở rộng ba cấp của huyện làm gì, bởi nó không đáng nhắc lại. Nó chẳng có liên quan gì tới cái hệ thống bè phái của “lũ bốn tên” cả. Hơn nữa trong những năm tháng như thế, ai chả có những lời lẽ quá đáng một tý, những hành động nóng nảy một tý? Ngay cả đến bậc thầy của cách mạng cũng chỉ là người, đâu phải là Thánh, huống hồ chị là Lý Quốc Hương. Chị ta cũng là con người trời cho đủ bảy thứ tình cảm và sáu loại dục tình.

    Trước và sau hội nghị lần thứ X của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, thường vụ huyện ủy phân công cho chị ta phụ trách việc giải quyết phục hồi, sửa sai cho những cán bộ bị án oan, án sai, thanh minh phục hồi lại cho các phần tử phái hữu, bỏ mũ và thay đổi thành phần cho địa chủ phú nông trong toàn huyện. Các nữ đồng chí bao giờ cũng là người chu đáo tỷ mỷ, rất thích hợp với công việc này. Vả lại minh oan, sửa lại những vụ án giả, án oan cũng là lẽ đương nhiên. Chị ta không nề hà trong việc minh oan phục hồi danh dự cho những đồng chí chết oan, và thu xếp đời sống cùng công ăn việc làm cho con cái còn sống sót của những người ấy. Đối với việc thanh minh, phục hồi cho những người bị quy oan sang phái hữu hồi năm 1957, cũng chẳng có tội gì gọi là khó khăn cho lắm, bởi vì vốn là cán bộ nhà nước, chỉ nói dăm ba câu phải trái, viết vài ba bài văn nói chuyện đúng sai cũng không phải là giai cấp thù địch gì cả, từ nay về sau rút lấy bài học kinh nghiệm, tăng cường thêm sự cải tạo tư tưởng mà. Chú ý tới sự sắp xếp và tổ chức của Đảng là xong cả thôi! Tiến hành “bốn hiện đại hóa”, đề cao văn hóa khoa học, để sử dụng những tài năng của các phần tử trí thức, có gì mà phải phản đối?

    Chỉ riêng cái khoản bỏ mũ và đổi thành phần cho địa chủ phú nông cùng con cái của họ ở nông thôn là Lý Quốc Hương nghĩ mãi vẫn chẳng thông, và không tiếp nhận nổi. Như vậy, từ nay về sau cách mạng còn có đối tượng nào? Lấy ai ra làm bia sống? Làm bài học phản diện? Ly khai cái cương lĩnh giai cấp đấu tranh này, công việc làm ăn ở nông thôn từ nay về sau sẽ tiến hành ra sao? Rồi sẽ phải báo cáo như thế nào trong những đại hội, tiểu hội? Nói những gì đây? Đấu tranh giai cấp là bảo bối có đầy uy lực, nay vứt cái bảo bối đó đi, khác gì người mù lại vứt chiếc gậy trong tay mình đi vậy? Lẽ nào cả một kho kinh nghiệm, biện pháp, với đầy những đáp số đã học tập được, tích lũy được, trong các hội trường lớn của các phong trào vận động chính trị của cả quãng đời hơn bốn chục năm ròng lại lỗi thời rồi sao? Lại hủy bỏ đi sao? Lại giống như một học trò nhỏ, bắt đầu học tập lại từ đầu, lại quay mặt vào tường mà lẩm nhẩm học thuộc lòng, rồi vắt kiệt đầu óc, lao tâm khổ tứ đọc sách học bài, nghiên cứu kỹ thuật nông nghiệp, học tập quản lý kinh tế ? Đối với riêng vấn đề này, mỗi khi cố gắng nghĩ tới, chị ta lại thấy chán mớ đời, và có một phản ứng bản năng. Một ý nghĩ đáng sợ, mơ hồ khi ẩn khi hiện, luẩn quẩn trong đầu óc chị ta: Lật đổ rồi, xét lại rồi, ngóc đầu dậy rồi. Ban ngày chị ta im hơi lặng tiếng, dường như không có chuyện đó, nhưng đến tối đi ngủ lại mắc cái bệnh nghiến răng kèn kẹt, kèn kẹt.

    Lý Quốc Hương nhìn nhận vấn đề, xem xét vấn đề đều xuất phát từ kinh nghiệm của mình, từ địa vị và từ lợi ích của mình. Phó bí thư vùng, kiêm bí thư huyện Dương Dân Cao là người hiểu đến chân tơ kẽ tóc của vấn đề ấy, và đã kịp thời phát hiện xu hướng không lành mạnh, vô cùng nguy hiểm của đứa cháu gọi mình bằng cậu. Nên trong một đêm khuya, ông đã nói chuyện với cô cháu theo kiểu nước từ trên cao ập xuống:

    - Thế nào? Hoài nghi đường lối và chính sách của Đảng hả? Dao động hả? Lần này, không kéo buồm kịp nữa rồi phải không? Không ổn đâu nhá! Căn cứ vào các bài học lịch sử đấu tranh trong các đường lối của Đảng ta, những cán bộ nào mà không chuyển biến kịp, không thích ứng kịp với mỗi chiến lược vĩ đại của Đảng, người đó sẽ bị Đảng và thời đại đào thải ngay lập tức. Những kẻ ấy, những thí dụ ấy, cháu thấy, còn ít sao? Huyện ủy phân công cháu làm những công tác sửa sai, cháu không thể lấy ý định của mình, lấy tình cảm của mình thay thế cho chính sách của Đảng được. Bất cứ lúc nào cũng cần phục tùng nghị quyết của Đảng. Chúng ta là cấp dưới, là tế bào, chứ không phải là tim, là óc. Vạn nhất chẳng may mà sau này là sai là hỏng, đó là sai là hỏng ở tim, ở óc. Mình còn cách tim cách óc khá xa đấy cháu ạ! Vấn đề đối với cậu cháu ta chỉ là chấp hành, trách nhiệm không phải ở mình. Đối với vấn đề thay đổi thành phần cũng như việc bỏ mũ cho địa chủ, phú nông và con cái họ, thì cứ bỏ, cứ thay, có sao đâu cháu. Nếu vạn nhất sau này bảo lại đội lên, ta lại đội lên cũng có sao đâu nào. Ngày xưa bảo bắt, đó là nhu cầu của cách mạng, bây giờ bảo thả, cũng lại là nhu cầu của cách mạng cả mà. Chúng ta, sống là người của Đảng, chết là ma của Đảng mà...

    Ông cậu là ông cậu, trình độ là trình độ. Đối với quy luật đấu tranh phải thuộc như cháo ở trong lòng. Chỉ có người học được cách bơi lội trong những ao hồ chính trị, mới có được cái tự do ấy. Nếu không, ông cậu làm sao lại làm nên nổi chức vụ phó bí thư vùng, kiêm bí thư huyện ủy? Lý Quốc Hương còn chưa có được cái trình độ đó, nên chưa gặt hái được loại tự do ấy, vẫn còn là loại cán bộ “ương ương” (nguyên văn: “bảy chín, ba sống”). Vì thế mà chị ta mới chỉ là một phó bí thư huyện ủy. Nhưng rồi chị ta sẽ chín hẳn, sẽ học được cái bản lĩnh tuyệt vời, bơi lội tự do trong ao hồ chính trị.

    Bí thư Dương Dân Cao đối với sự không nhạy bén, không kịp thời nắm bắt tình thế, để phục tùng sự chuyển biến đường lối của đồng chí Lý Quốc Hương lần này, khiến ông cảm thấy buồn phiền, lo lắng. Ông có đầu óc khô cứng, không thức thời, kịp vụ, mà cấp tốc đón gió, căng buồm! Làm một cán bộ cấp trên, lại thêm tình cốt nhục, ông nghĩ ngợi được xa, tính toán có phần thấu đáo: Trong cơ quan huyện ủy, gần đây đã bắt đầu có những lời ong tiếng ve, xì xào bàn tán về sự lòng thòng ám muội giữa Vương Thu Xá và cô cháu gái ngoại của ông. Nếu cứ để cái con Lý này với thằng chồng ở tỉnh của nó tiếp tục sống mỗi người một nơi như bây giờ, cũng chẳng phải là kế sách lâu dài. Nên cần phải bàn bạc, cân nhắc lợi hại với “cậu cháu rể ngoại” ở tỉnh, để trên dưới phối hợp hành động, rồi thông qua bộ phận tổ chức nhờ họ điều nó lên tỉnh, kiếm lấy một chỗ chắc ăn, rồi sau đó sẽ lại xuống vùng, xuống huyện chỉ đạo, kiểm tra công tác, như vậy là làm quan ba cấp, sao không vui vẻ mà làm? Bí thư Dương Dân Cao tìm cách vòng vo nói ý kiến đó của mình ra, (vì nó thuộc vào vấn đề nguyên tắc tổ chức) gọi là he hé cho cô cáu gái biết, và cô cháu gái sắc sảo, khôn ngoan đã lĩnh hội được ngay.

    Ngay sáng sớm ngày hôm sau, khi đi làm. Lý Quốc Hương đã lôi từ trong tệp báo cáo về những án giả, án oan của công an trình sang, chờ phê duyệt, mấy bản tài liệu. Bản đầu tiên là bản: “Tài liệu sửa sai phục hồi cho phạm nhân Tần Thư Điền hiện đang bị giam giữ, vì bị quy định nhầm là phái hữu năm 1957” và “Bản báo cáo minh oan cho Hồ Ngọc Âm bị quy nhầm là thành phần phú nông mới năm 1964”. Mụ cảm thấy hai tập tài liệu đó nặng trình trịch, giống như hai tấm chì, phải tốn sức lắm mới cầm lên nổi. Mụ cầm lên rồi lại đặt xuống, đặt xuống rồi lại cầm lên, trù trừ, do dự. Mụ vần vò, lật đảo chiếc bút chì trong tay, chiếc bút chì cũng thật nặng nề, giống như một cây gậy bằng kim loại. Đúng là ngọn bút sức nặng ngàn cân, ngọn bút quyết định sự sinh tử của con người. Tại làm sao có lúc sức mạnh dâng trào, chữ nghĩa tuôn ra như rồng, như rắn, có khi lại yếu đuối, cằn cỗi, muôn phần nặng nề, bế tắc.

    Loay hoay hàng tiếng đồng hồ, Lý Quốc Hương vẫn không bút phê được một chữ nào. Mụ quyết định, trước hết hãy gọi điện cho Vương Thu Xá chủ nhiệm ủy ban cách mạng thị trấn Phù Dung để xả hơi.

    - Cái gì? Phục hồi và minh oan cho chúng?

    Không ngờ rằng, cái của quý Vương Thu Xá ấy vừa nghe xong điện thoại, đã hung hăng nói như quát vào trong điện thoại:

    - Tôi không thông! Tôi không thông! Các vị trên huyện mà thay đổi như thế, chúng tôi ở đây, sẽ bị làm náo loạn lên ngay lập tức cho mà xem!


    (1) Một danh y cổ Trung Hoa đã chết từ lâu (N.D.).

     
    amylee thích bài này.
  10. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    TRƯỞNG THỊ TRẤN VƯƠNG THU XÁ


    MẸ KIẾP! LÀM NHƯ THẾ THÌ CÁI THẰNG họ Vương này người sẽ chẳng ra người, ma sẽ chẳng ra ma mất. Quê hương bản quán ở đây, từ nay về sau còn gì gọi là uy tín với thể diện ở cái thị trấn này nữa chứ?

    Vương Thu Xá đã quen được mọi người gọi là “trưởng thị trấn”, nhưng hắn lại không biết rằng đằng sau hắn, mọi người vẫn gọi hắn là “Vương Thu Rắn” (Vương Thu Xà). Miệng quần chúng khó bịt, tai nghe thoảng qua là xong. Mặc dù là Lý Quốc Hương đã gọi điện thoại báo trước cho hắn biết mọi sự vậy mà khi hắn nhận được hai bản tài liệu theo chính sách sửa sai của huyện về Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm, hắn vẫn nhảy dựng lên quát lác, và lòng dạ cứ cuống cuồng lên như có lửa thiêu đốt. Hắn đóng cửa phòng làm việc lại, một mình đấm thình thình lên bàn làm việc, khiến cho chiếc cốc thủy tinh bật tung, rơi xuống sàn xi măng, vỡ tan tành.

    Thực ra, Vương Thu Xá cũng là trách oán nhầm Lý Quốc Hương thôi. Những vụ án oan, án giả tích đọng lại trong các phong trào vận động chính trị đã được trung ương xem xét lại, lật đi lật lại năm lần bảy lượt rồi, nó như những trận sấm động mùa xuân, và như luồng gió mùa xuân tràn ngập nơi nơi, làm sao mà một con người bé nhỏ tý teo Lý Quốc Hương ngăn cản nổi?

    Lý Quốc Hương vốn hiểu biết một cách sâu sắc cái tính hay giúp người của Vương Thu Xá. Nay cả hai vẫn còn vương vấn “mối tình xưa”. Những năm gần đây, vốn là Vương Thu Xá có thể tìm kiếm lấy một đám để gọi là yên bề gia thất nhưng duy chỉ vì một tấm tình chung duy nhất, nên quyết một lòng tính chuyện hy sinh. Chỉ riêng một điểm này đã khiến cho Lý Quốc Hương cảm thông sâu sắc và vô cùng cảm động. Vì thế mà cứ cách độ vài ngay, Lý Quốc Hương lại từ huyện gọi một cú điện thoại về cho hắn, tiếng nói nghe rõ ràng mạch lạc. Qua điện thoại nàng nói những gì, thì vì là đường “dây riêng”, nên những nhân viên cắm phích, nối máy ở tổng đài điện thoại, không dám nghe trộm, nên người ngoài lại càng không biết được họ đã nói những gì với nhau. Nhưng chỉ thấy Vương Thu Xá sau khi nghe điện thoại xong, ngồi ngả người trên chiếc ghế bành mây, trán lấm tấm mồ hôi lạnh. Dạo này, Vương Thu Xá không còn đóng cửa phòng làm việc, đấm thình thình lên bàn, làm rơi vỡ cốc thủy tinh nữa, mà là chửi bới ngầm trong dạ:

    - Đồ đĩ! Hay đấy! Minh oan, phục hồi rồi bỏ mũ ra cho chúng, nhưng vẫn là đối tượng chuyên chính nội bộ, và trên trán vẫn là đôi câu đối trắng, trên đầu vẫn là cái vòng kim cô đen đen... Ừthì là nói như vậy đấy, nhưng bọn mày đã đổ toẹt ra một gánh cứt nhão nhoét, bắt bố mày nếm nếm, ngửi ngửi! Mày khá đấy, sắp sửa điều lên làm việc trên tỉnh rồi, quẳng tao ở lại cái thị trấn Phù Dung này, để sửa sai, minh oan, phục hồi cho những cái án giả, án oan... Lý Quốc Hương... mày đúng là một đóa quốc hương, nên lúc nào cũng như hương thơm ngào ngạt! Ba mươi sáu chước, mày bỏ chạy là thượng sách. Mày bỏ chạy, ừ mày bỏ chạy, con ngan đực với con gà mái vàng, con trâu đực với con hổ cái, dù sao cũng chẳng nên duyên chồng vợ lâu dài...

    Cứ bình tâm lại mà suy nghĩ, trong bao nhiêu năm nay, sự lăng nhăng, lén lút giữa Vương Thu Xá và Lý Quốc Hương cũng là sự trao đổi những nhu cầu mà người nọ cần ở người kia, cũng có được có mất. Vậy thì còn oán trách nỗi gì? Hơn nữa được nhiều hơn mất kia mà. Mất là những gì? Mất một thân bùn bẩn, được cái chức trưởng thị trấn Phù Dung. Tất cả những cái đó, đều do một tay Lý Quốc Hương nói hay, nói đẹp nói vunvào, với bí thư Dương Dân Cao cho cả đấy chứ. Chứ cứ theo như con mắt của đồng chí Dương Dân Cao trước kia cho rằng, cái loại người như Vương Thu Xá đã như đống cứt trâu nhão nhoét, có đắp cũng không dính nổi lên tường, lại còn là kẻ tiểu nhân hay sấp mặt phản trắc lật lọng, chẳng thể dùng vào việc gì được hết. Lê Mãn Canh là một thí dụ, ấy là chuyện năm 1956, khi dồn xã, bỏ cấp khu, chỉ vì không chịu nghe ông Dương Dân Cao một câu, mà cả đời không tháo nổi đôi giầy cỏ ra khỏi chân, và chiếc áo tơi lá ra khỏi người! Còn Vương Thu Xá thì sao? Nếu cứ đứng về mặt đạo đức, tài cán mà xét, hắn chẳng bằng được cái ngón tay của Lê Mãn Canh. Nhưng có một sự việc xảy ra vào mùa xuân của cái năm “phê phán Lâm Bưu, phê phán Khổng Tử” đã làm thay đổi cách nhìn của ông đối với hắn.

    Nguyên chuyện là, cả gia đình bí thư, đặc biệt là bản thân bí thư Dương Dân Cao, mỗi năm cứ hai mùa đông xuân đều rất thích ăn măng sớm, măng đông, những miếng măng thái lát hoặc thái chỉ, nuột nà, giòn sần sật, đem xào với thịt nạc, hầm với những miếng thịt vịt, thịt gà chặt to, hay nấu với nấm hương, mộc nhĩ, đều là những món ăn tuyệt vời không thể thiếu, đưa vào miệng cứ gọi là thun thút, thun thút, ngon không thể nào chịu được. Măng mùa đông vốn là cái thứ mọc dưới đất trong rừng, chứ đâu phải yến sào mộc nhĩ trắng, hay hải sâm, với bàn tay gấu gì đâu, vậy sao mà quý giá? Vả lại một cán bộ đứng đầu một huyện, một mùa đông, một mùa xuân ăn mấy trăm cân măng chẳng qua chỉ là chuyện vặt. Song chẳng may năm đó lại gặp vụ tre khuy, nó đâm hoa, kết quả, tự nhiên đổi cũ thay mới, rừng nọ, núi kia, chết khô hết cả. Măng mùa đông bỗng trở thành vật hiếm cứ như vây cá vậy. Trong một đêm, Lý Quốc Hương với mồm miệng thơm tho ngọt ngào mách nước cho Vương Thu Xá cơ hội tiến thân. Hôm sau, gặp đúng ngày phiên chợ Phù Dung. Vương Thu Xá được nữ chủ nhiệm lặng lẽ bật đèn xanh, liền huy động dân quân, bịt kín tất cả các lối ra vào chợ, tuyên bố giới nghiêm, lấy cớ là lùng bắt bọn đầu cơ buôn lậu, bảo vệ trị an xã hội, ngăn chặn chủ nghĩa tư bản ngóc đầu dậy. Thực ra lúc đó là năm hết tết đến, nhiều xã viên ở trong rừng trong núi, gồng gánh ra chợ bán tý chút lâm sản thổ sản, lấy tiền sắm tết. Nào có ai ngờ rằng chỉ được vào chợ mà không được phép ra khỏi chợ. Hơn nữa những người đã vào chợ đều bị dân quân đeo băng vải vàng trên ống tay áo, nhất loạt khám xét. Tất cả những ai có giấu măng trong gùi trong sọt, đều bị tịch thu hết, còn có những thứ khác đều tha. Tại sao lại chỉ tịch thu có một thứ măng thôi, cái đó thuộc vào sự bí mật của cấp trên, không được thắc mắc, hỏi han. Đầu tiên tất cả những người có mặt trong chợ đều thất sắc nhìn nhau. Nhưng rồi có một luồng tin tức nhỏ bé lọt ra ngoài, lập tức một truyền mười, mười truyền trăm, người nọ ghé tai người kia thì thào, thêm dấm thêm ớt, khiến thần sắc mọi người càng thêm hoảng loạn. Mọi người được biết rằng, mới đây công an có theo dõi và khám phá ra một tổ chức phản động trong rừng, gọi tên là đảng Măng Củ. Bọn phản cách mạng ấy đã đem giấu giếm tất cả thư từ, công văn bí mật vào tận trong ruột những củ măng, để thông tin liên lạc với nhau, chống phá cách mạng, vì thế mà trong phiên chợ này đã giăng một mẻ lưới thiên la địa võng, và bắt được không biết bao nhiêu, những tên trùm sỏ, cầm đầu cùng với lũ chân tay của chúng! Những người bị tịch thu măng, còn ai nghĩ đến sự tổn thất kinh tế tý chút của mình làm gì nữa? Và chỉ mong sao mình tự nhiên mọc ra đôi cánh, để bay vút ra khỏi cái nơi chợ búa náo loạn, dữ dằn này, trở về nhà về cửa của mình. Thật đúng là, ở nhà ngàn ngày yên, ra cửa một bước khó.

    “Đảng Măng Củ”, cái tin tuyệt mật của cấp trên ấy, do ai tung ra vậy? Đó là cá biệt một dân quân nào đó, một phần tử không trung thành nào đó, cố ý tung ra để gây khó dễ cho trưởng thị trấn, hay chỉ thuần túy là do một quần chúng đi chợ nào đó bịa đặt ra, rồi loan truyền đi, biến giả thành thật. Làm cho Vương Thu Xá và Lý Quốc Hương chỉ còn biết nhìn nhau ngơ ngác. Sợ rằng sự việc đó bị đồn thổi nống to ra. về sau, trong các đại hội, tiểu hội đã phải ra sức trấn an, bác bỏ tin bịa đặt, và thanh minh rằng, lần giới nghiêm ấy ở thị trấn Phù Dung chỉ thuần túy là đánh phá bọn đầu cơ buôn lậu, mới gọi là yên yên đi được.

    Lại nói về ngay cái đêm sau khi tịch thu măng ở chợ thị trấn, Vương Thu Xá đã phải xuất tướng, đem đóng tất cả hơn một trăm cân măng quý hiếm vào trong hai chiếc bao tải, buộc chặt vào một chiếc xe đạp, rồi đạp năm, sáu chục dặm đường lên huyện, đúng là dân không biết, quỷ không hay, Vương Thu Xá đã lặng lẽ đem đặt vào trong bếp nhà bí thư Dương Dân Cao. Hôm ấy Dương Dân Cao lại dậy sớm, nhìn thấy cả, ông đã cau mày phê phán cho Vương Thu Xá một trận nên thân. “Tôn kính lãnh đạo, quý trọng cấp trên, thì không nên làm cái trò này. Đem biếu những thứ nông sản phụ thế này, là tác phong không đứng đắn, là thấp kém đấy. Dù là chống chế độ pháp quyền thì cán bộ phụ trách cũng không nên tạo ra những đặc quyền đặc lợi hiểu không?”. Bí thư Dương Dân Cao còn mang hai túi măng liên hệ đề cao tối sự giác ngộ về đường lối, nâng cao tới sự nhận thức về đề phòng và chống phá bè lũ xét lại, đồng thời lại đích thân xỏ đòn gánh vào hai bao măng nhấc lên cân, để tính trả tiền theo giá cung cấp, có điều là không chịu xì tiền ra trả. Trong lòng Vương Thu Xá bàng hoàng lo sợ mất một lúc lâu, và thầm trách Lý Quốc Hương, đường dây tình báo nội tuyến đã cung cấp những tin tức không xác thực. Hắn ta nghe những lời phê phán của bí thư Dương Dân Cao cho đến lúc thấy ông bảo: “Lần này đã trót, lần sau đừng làm thế nữa. Từ giờ về sau cần chú ý!” hắn mới như cởi được tấm lòng, và thời cơ đã xoay chuyển... Tiếp đó, bí thư Dương Dân Cao thân chinh ngồi tiếp hắn ăn sáng. Đương nhiên, bữa sáng chỉ là những chiếc bánh mì hấp làm bằng bột loại chính hiệu, sữa đậu, trứng muối, đậu phù nhự, với một đĩa nhỏ đường trắng, đơn giản thế thôi. Trong bữa ăn, bí thư Dương Dân Cao còn quan tâm thân thiết hỏi về công tác của Vương Thu Xá, về đời sống cá nhân có gì khó khăn không, vân vân. Đương nhiên rằng, những tin đồn về “đảng Măng Củ”, mà Vương Thu Xá đã bị khốn khổ vì cái sự bậy bạ ấy, thì đồng chí Dương Dân Cao đã bị giấu kín, đến nửa chữ cũng không được biết. Ông chỉ biết rằng, măng mọc trong rừng, và xã viên ở trong đó đã dùng mai thuổng đào bới lấy từng củ một, hơn thế nữa, đào như vậycũng sẽ có chút ảnh hưởng tới vụ tre xuân năm đó.

    Ít lâu sau, Lý Quốc Hương đã được bí thư Dương Dân Cao triệu tập lên huyện, để báo cáo tỷ mỷ về tình hình cơ bản của đội ngũ cán bộ công xã. Đương nhiên rằng, trong đó có tình hình hối cải những sai trái trước đây để thêm phần tiến bộ của bí thư đại đội sản xuất Vương Thu Xá. Điều đó còn có liên quan tới cả việc Vương Thu Xá một lòng một dạ trung thành với cán bộ cấp trên nữa. Còn như bí thư Dương Dân Cao lại căn cứ vào nguyên tắc “không thể coi người sống như người đã chết” và “không thể coi người đã chết như người còn sống”, nên đối với việc Vương Thu Xá hồi đầu “đại cách mạng văn hóa”, giở trò “ba trung thành” theo kiểu “vẹt học tiếng người” thì có thể thông cảm, tha thứ. Cái quan trọng là ở thái độ bây giờ. Ít ngày sau, ở thị trấn Phù Dung bỗng được nghe phong thanh rằng: Để bồi dưỡng và trọng dụng những cán bộ cơ sở có lập trường kiên định, và yêu ghét rõ ràng, huyện ủy sắp sửa đề bạt bí thư đại đội sản xuất Vương Thu Xá lên làm phó chủ nhiệm ủy ban cách mạng công xã. Thế nhưng trên đời này chẳng làm gì có những bức tường không có tai, và những chuyện vui mừng thường gặp trắc trở. Việc Vương Thu Xá tự động tuyên bố giới nghiêm khẩn cấp ở chợ Phù Dung để tịch thu măng củ đã có người tố lên vùng và lên cả tỉnh. Mười dặm đất đai, hẳn có nhân tài, huống hồ thị trấn Phù Dung là nơi tập trung buôn bán của mười tám huyện thuộc ba tỉnh giáp nhau. Nhưng ai là người tố cáo, trong khi hôm đó, những người đi chợ, tôm rồng lẫn lộn, có thiếu thành phần giai cấp cũng như quan hệ xã hội nào? Khó mà đi tra xét từng người một. Căn cứ vào thủ tục làm việc chung của các ủy ban lâm thời đó. Những vụ kiện cáo của nhân dân đưa lên tỉnh, nhất định tỉnh phải chuyển về cho vùng, rồi vùng lại nhất định phê chuyển về cho huyện, huyện lại phê chuyển về cho công xã, cuối cùng, tất cả đều rơi vào một tay Lý Quốc Hương. Tất cả những lời phê chuyển ấy cùng một kiểu giống nhau: “Đề nghị xem xét cụ thể, rồi giải quyết”, “Căn cứ vào chính sách có liên quan của Đảng, xem xét cụ thể rồi giải quyết”, “Giao trách nhiệm cho các bộ môn có liên quan của đảng ủy, giải quyết” “Chuyển công xã địa phương, xem xét”... Tất nhiên rằng, ngày, tháng, năm là phải khác nhau rồi, đó ngày ngày, tháng được điền thêm vào, đúng hôm phê chuyển giấy tờ. Còn như những dấu son, những dấu chức danh quyền lực, tuy đều theo hình tròn tiêu chuẩn nhưng to nhỏ cũng có khác nhau, và màu sắc dấu son cũng có đậm có nhạt.

    Những đơn từ kiện cáo cũng có những tác dụng nhất định. Những giấy tờ công văn báo cáo về việc đề bạt và bổ nhiệm đồng chí Vương Thu Xá làm phó chủ nhiệm ủy ban cách mạng công xã của các bộ môn có liên quan của huyện ủy lên các bộ môn có liên quan của vùng, đều bị om lại chưa phê duyệt. Ngay đến bí thư Dương Dân Cao cũng chỉ đành lắc đầu, thở vắn thở dài, vì cái thế lực ngoan cố cổ lỗ, đè nén, dập vùi những lực lượng mới, thật là thâm căn cố đế. Về sau, tùy theo sự phát triển của tình thế, huyện ủy quyết định đặt thêm một cấp mới ở thị trấn, nhỏ hơn công xã một chút, sắp xếp cho Vương Thu Xá vào một cấp bậc cán bộ kiểu mới: Chủ nhiệm ban cách mạng thị trấn, được chấm công điểm, đồng thời được hưởng thêm phụ cấp. Công việc trong phạm vi chức quyền của huyện ủy, nên cũng chẳng cần cấp nào khác phê duyệt nữa. Khi ấy học sinh thích: “công xã... đến rồi đi”, còn loại cán bộ mới lại thích: “lĩnh điểm hơn lĩnh lương”, đó là sự kiện mới nảy sinh và được dựng lên trong cuộc chiến đấu với pháp quyền của bè lũ giai cấp tư sản, vào hậu kỳ của cuộc “đại cách mạng văn hóa”. Như thế là Vương Thu Xá đã thuộc vào loại cán bộ kiểu mới, được tôi luyện, rèn giũa lâu dài ở cơ sở, và tương lai lâu dài về sau thật là to lớn...

    - Mẹ kiếp, đấu đi đấu lại ròng rã hai mươi mấy năm trời, hóa ra đấu sai mẹ nó cả! Thằng Tần Rồ không những đi tù oan, mà ngay cả cái mũ phái hữu năm 1957 cũng bị chụp oan bố nó hết! Không những đưa nó ra khỏi tù lại còn phải phục hồi công tác cho nó nữa. Lương bổng cũng chẳng phải thấp đâu, có khi còn cao hơn cái thằng mình đứng đầu thị trấn này nhiều ấy chứ... Hơn nữa, xem ra, tay bí thư Dương Dân Cao cũng còn có điểm xỏ ngọt mình, bao nhiêu năm làm trưởng thị trấn vẫn không thèm chuyển cho mình thành cán bộ nhà nước, vẫn là ăn gạo nhà quê, lĩnh công điểm, mỗi tháng chỉ được lĩnh ba mươi sáu đồng bạc tiền phụ cấp.

    Vương Thu Xá ngồi trong phòng làm việc của ủy ban cách mạng thị trấn, đối diện với hai bản tài liệu “minh oan, bỏ mũ” của huyện ủy, làm cũng dở, bỏ không xong. Làm? Hay không làm? Để đấy ngâm cứu, xem thế nào chăng? Nhưng mà trong toàn quốc đang minh oan, sửa sai, báo chí ngày nào cũng đăng, phát thanh ngày nào cũng hét, còn cái thằng Vương Thu Xá “trưởng thị trấn ăn công điểm” chỉ to bằng cái cục dử mắt này, trên cổ mọc được mấy cái đầu?

    - Mẹ kiếp! Như thế thì rồi ra, Tần Thư Điền được sửa sai, Hồ Ngọc Âm được thay đổi thành phần, chủ nhiệm hợp tác xã cung tiêu được phục chức, trạm trưởng trạm thuế vụ được minh oan... Lại còn Cốc Yến Sơn “Đại Binh phương Bắc” nữa! Lôi kéo ra cả một xâu dài như thế. Mười năm, hai mươi mấy năm nay, ở cái thị trấn này ai là người chẳng mắc sai lầm? Xem ra, hình như chỉ có Cốc Yến Sơn, “Đại Binh phương Bắc”, là người chẳng có sai lầm gì lớn. Nhưng nếu không có những cuộc đấu đi, tố lại trong mười mấy năm nay, thì bản thân mình liệu có đấu ra nổi cái chức vụ ngày hôm nay không? Hay vẫn chỉ là cái thằng “chủ ngôi nhà sàn” không bằng con chó, con gà? Phải một chia thành hai thôi, một chia thành hai thôi.

    Nhưng cái làm cho Vương Thu Xá đau đầu nhất lại không phải là điều đó. Hắn còn một việc khẩn cấp trước mắt có liên quan chặt chẽ với kinh tế: cần phải trả lại ngôi nhà lầu cho Hồ Ngọc Âm người đã bị quy sai thành phú nông mới. Đã từ lâu ủy ban cách mạng thị trấn, đã biến “phòng triển lãm giai cấp đấu tranh” thành nhà khách nho nhỏ. Cái nhà khách nhỏ ấy hàng tháng cũng thu nhập được một hai trăm đồng, lại không phải nộp thuế, mỗi khi có lãnh đạo cấp trên đến thị trấn kiểm tra, chỉ đạo công tác, hoặc bàn bạc công việc hợp tác làm ăn với các đơn vị bạn, thì tiệc lớn, tiệc nhỏ, rượu thuốc trà lá, tất cả mọi thứ chi tiêu đều chỉ trông vào khoản tiền này. “Thôi thì hãy nói với Hồ Ngọc Âm cặn kẽ mọi điều, rồi đề nghị với cô ta hãy chiếu cố đến lợi ích toàn cục, trả lại cho cô ta toàn bộ quyền sở hữu, nhưng hãy tạm thời cứ mượn làm một nhà khách nhỏ, rồi sẽ trả cho cô ta tý tiền thuê nhà khoảng năm đồng tám đồng gì đó, chắc vấn đề này cũng không lớn...”.

    Còn một chuyện nữa cũng bức thiết đối với Vương Thu Xá có liên quan tới vấn đề kinh tế, là phải hoàn trả số tiền một ngàn năm trăm đồng của Hồ Ngọc Âm trong phong trào vận động mà ban tuyên giáo xã đã tịch thu. Trong ngót mười năm nay, khoản tiền này không biết nó đã biến đi đâu mất. Những năm trước kia làm gì có phụ cấp chức vụ, những năm về sau này mỗi tháng chỉ có ba mươi sáu đồng bạc, ăn uống, rồi chi tiêu lặt vặt, lại còn các khoản đem đi biếu xén, lễ lạt... đủ làm sao được? Cái thằng Vương Thu Rắn này đến phải mua một cái máy in tiền mất!...

    - Mẹ kiếp! Lấy đâu ra cái món tiền này? Đào đâu ra? Cứ chịu cái đã? Đúng, hãy cứ chịu cái đã, dây dưa cái đã rồi tính sau. Mười mấy năm nay làm công tác chính trị... nên mù mờ về kinh tế... Một ngàn năm trăm đồng, đầu tiên là giao vào tay ai? Ai viết giấy biên nhận? Ha ha, một món tiền nợ không đầu, một món nợ mơ hồ... Này Hồ Ngọc Âm, Đảng và nhà nước đã sửa sai cho cô, đã minh oan cho cô, đã lấy lại cho cô thành phần tiểu chủ, đã trả lại quyền sở hữu nhà cửa cho cô, lại cho phép cô chung sống hợp pháp với Tần Thư Điền, cô còn bất mãn cái nỗi gì?

    Tuy nói thì nói vậy, nhưng Vương Thu Xá càng ngày càng khó sống. Những ngày gần đây, ở phố Mới, phố Cũ đã có đủ các loại tin tức, dù là tin tức vỉa hè cũng đã vô cùng bất lợi cho hắn rồi. Người ta đồn toáng lên rằng, cấp trên sắp bổ nhiệm Cốc Yến Sơn “Đại Binh phương Bắc” lên làm bí thư thị trấn, kiêm chủ nhiệm ủy ban cách mạng thị trấn. Tuy cấp trên chưa gửi công văn, giấy tờ gì về, vậy mà dân chúng đã thấy nở mày nở mặt. Hắn không phải là ngu si, ngốc nghếch, nên cái cách thức ủng hộ hay phản đối đó của dân chúng hắn đều nhận ra được hết. Thật đúng là cõng chết chóc trên lưng, treo kiếm sắc lên đầu. Đến nay hắn không còn dám tùy tiện mà trấn an, thanh minh và cực lực bác bỏ tin bịa đặt ở các đại hội, tiểu hội nữa. Hắn cũng đã mấy lần gọi điện thoại lên huyện ủy hỏi cho rõ nhẽ, nhưng những người ở văn phòng huyện cũng úp úp mở mở, không có được lời giải đáp cho rõ ràng. Lòng dạ hắn hoang mang, tư tưởng hắn rối loạn, thật đúng là đã đi tới chỗ, ăn không ngon, ngủ không yên rồi. Hắn thường ngồi như ngây như dại với cặp mắt đờ đẫn, thẫn thờ, miệng cứ lẩm bẩm cái gì đó, mà chẳng ai nghe rõ hắn lẩm bẩm cái gì. Tâm thần hắn mê muội, thác loạn... Có một hôm cuối cùng hắn đã hét toáng lên:

    - Thằng này không, thằng này không! Thằng này còn ngồi trên ghế ngày nào chúng mày đừng có nghĩ đến minh oan với phục hồi ngày ấy!
     
    vinhhoa thích bài này.
  11. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    ÔNG BỐ NUÔI CỐC YẾN SƠN


    TRONG NHỮNG NĂM THÁNG ĐẠI TAI ĐẠI NẠN, những năm tháng mà con người tố giác, phản bội, chà đạp lẫn nhau, những năm tháng mà con người ai cũng co rúm lại, tự chui vào cái vỏ ốc để bảo vệ lấy thân mình, thì đạo đức và lương tâm, chính nghĩa và trung thành vẫn không hề bị phai mờ đi trong cuộc sống và cũng chẳng chìm đắm đi, mà nó vẫn được thể hiện ra trong các cách thức khác nhau. Ông Cốc Yến Sơn “Đại Binh phương bắc” thì “nhìn đời bằng cặp mắt say”. Vào cái năm Tần Thư Điển phái hữu, đội mũ sắt bị bắt đi tù cải tạo, Hồ Ngọc Âm bị quản chế lao động. Ông Cốc cũng đã sống nhiều ngày trong nỗi sợ hãi, lo lắng, vì ông là người chủ hôn cho cặp vợ chồng đen này. Nhưng về sau, sự thực chứng minh rằng, cả hai người của cặp vợ chồng đen ấy, đều là người hiểu lẽ đời, biết trọng lời hứa, không tố giác ông Cốc ra, nên cũng tránh được một lần tra khảo. Nếu không, ông Cốc Yến Sơn, chắc chắn bị khai trừ ra khỏi biên chế, khai trừ ra khỏi Đảng. Cũng vào cuối cái năm đó, một buổi tối, gió bấc hun hút thổi, tuyết bay ngập trời, không biết ông đã uống hay quá chén ở đâu trở về, đi ngang qua cửa nhà trọ Hồ Ký, chợt nghe thấy tiếng rên rỉ từ trong nhà vọng ra:

    - Mẹ ơi! Mẹ ơi!... Cứu tôi với... Tôi chết mất...

    Tiếng rên rỉ nghe thảm thiết, khiến người nghe phải rợn da gà. Một ý nghĩ chợt thoáng chạy qua trong đầu ông: “Có lẽ cô Hồ Ngọc Âm, cái cô phú nông mới này sắp ở cữ mất rồi”. Ông lập tức bước lên thềm. Ông phủi tuyết trên chân, trên người mình, đẩy cửa. Cửa không cài then. Ông lần theo gian nhà hàng tối om, mới vào được tới gian phòng ngủ ngăn bằng ván, qua ánh đèn vàng khè, ông nhìn thấy Hồ Ngọc Âm bụng vượt quá mặt nằm trên giường, hai tay bấu chặt lấy thành giường, mặt đọng đầy những giọt mồ hôi to như đầu ngón tay, đau đồn đến gần như ngất xỉu đi. Điều đó làm ông Cốc Yến Sơn tỉnh rượu. Một người đàn ông như ông, từ xưa tới nay chưa bao giờ được chứng kiến cảnh này.

    - Ngọc Âm, cô... cô sắp... cô sắp... phải không?

    - Ôi chủ nhiệm Cốc... ân nhân... Bác đỡ con dậy một tý... Bác rót giùm con miếng nước... con uống...

    Cốc Yến Sơn chợt rùng mình, người ớn lạnh, ông hối hận, đừng nên bước chân vào nhà này mới phải. Ông mò mẫm đi tìm bát rót nước cho Hồ Ngọc Âm uống. Hồ Ngọc Âm uống nước xong, lại nhờ ông lấy giúp cho chiếc khăn mặt lau mồ hôi. Hồ Ngọc Âm như người ngã xuống nước, sắp chết đuối, chợt trông thấy một mỏm đá, hai tay bíu chặt lấy Cốc Yến Sơn.

    - Chủ nhiệm Cốc, đại ân nhân của con... Năm nay con băm ba rồi... Thai đầu khó đẻ...

    Lúc này Cốc Yến Sơn cũng toát cả mồ hôi hột:

    - Bác, bác đi gọi một bà đỡ nhé!

    - Không! Không! Bác ơi... Không nên... không nên đâu bác ạ! Những người đàn bà ở thị trấn này, đã bao nhiêu lần nhổ nước bọt vào con rồi... Con sợ họ lắm... Bác giúp con, đằng nào thì con cũng sắp chết rồi, cả mẹ cả con đều chẳng sống nổi đâu... Mẹ ơi... Sao mẹ bỏ con lại trên đời để chịu khổ nhục thế này?...

    - Ngọc Âm, thôi đừng khóc cháu... Đừng khóc cháu. Đừng có nói những lời vớ vẩn nữa. Nếu có đau, cháu kêu “Ôi chao”!

    Cốc Yến Sơn, người “Đại Binh phương Bắc” ấy, bất chợt thấy lòng mình mềm yếu... tan nát. Trong con người ông chợt bùng lên một nguồn sức mạnh quật cường, quyết định gánh lấy cái gánh nặng cấp cứu cho cả mẹ lẫn con, không thể chối từ việc nghĩa. Mụ phú nông mới là cái gì, mặc mẹ chúng nó! Người xưa nói: Dù xây bảy cấp phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người. Quá lắm, ăn một trận phê phán, rồi bị xử lý về việc này là cùng chứ gì. Khi đã quyết, không còn gì cản ngăn được nữa.

    - Ngọc Âm, Ngọc Âm, đừng có sợ... Nếu cháu đồng ý, để bác... để bác đỡ...

    - Bác ơi... Đại ân nhân của cháu... Nếu những người nhà nước cử đến, đều là những người như bác, nhưng họ... Bác ơi, bác tốt quá, bác là Thanh Thiên (Bao Công) đại nhân của cháu... Có bác ở đây, chưa chừng, đêm nay cháu sẽ... qua được. Bác đi đun nước, nấu cho cháu một bát canh trứng... Từ sáng tới giờ, cháu chưa có tý gì vào bụng... Cháu nghe người ta nói, khi ở cữ, phải ăn, phải ăn, ăn no, mới có sức...

    Giống như khi nghe thấy mệnh lệnh xuất kích, thời còn tham gia du kích, Cốc Yến Sơn nhanh chân nhanh tay, đi đun nước, đi nấu canh, đồng thời chăm chú, lo lắng, lắng nghe từng tiếng rên rẩm trong phòng người sản phụ. Không hiểu tại sao, ông thấy tinh thần mình rất phấn chấn, và đầu óc cũng vô cùng tỉnh táo. Ông thấy ông đầy lòng tự tin cũng như khát vọng với một sinh mệnh mới sắp chào đời. Ánh lửa củi trong bếp làm khuôn mặt râu ria xồm xoàm của ông ửng đỏ lên. Ông có cảm giác rằng, ông đang chấp hành một sứ mạng quan trọng vô cùng, hơn thế nó còn mang theo ít nhiều tính thần bí nữa. Ông cũng lấy làm lạ về bản thân mình mới đấy mà ông đã trở thành người đầy sức mạnh, đầy lạc quan.

    Sau khi uống một bát canh trứng từ tay Cốc Yến Sơn, Hồ Ngọc Âm như thấy những cơn đau của mình có giảm bớt đi. Trên khuôn mặt cô chợt xuất hiện những nét cười là lạ, vẻ như có chút xấu hổ. Hồ Ngọc Âm nửa nằm nửa ngồi giạng hai chân ra, chỉ vào bụng, nơi đang nhô lên một hình tròn tròn to như trái bóng nói:

    - Cái của này đang vung chân vung tay trong đó, nghịch lắm, chắc chắn là bụ lắm đấy! Chẳng thèm nghĩ đến mẹ nó sống chết thế nào...

    - Chúc mừng cháu! Ngọc Âm, chúc mừng cháu! Cầu trời phù hộ cho mẹ con cháu bình an...

    Đó, cái ông Cốc Yến Sơn, một người đã từng vào sinh ra tử trong thời chiến tranh, nay lại nói ra câu mang màu sắc mê tín như vậy đó.

    - Có bác ở đây, cháu chẳng còn sợ gì nữa. Không có bác, tối nay, cháu có đau chết ở trên giường, còng queo ra, cũng chẳng ai biết đấy là đâu.

    Hồ Ngọc Âm nói xong, đôi mắt lơ mơ, rồi ngủ thiếp đi. Hoặc là đứa trẻ sau một ngày giãy đạp, quấy phá trong bụng mẹ cũng đã mệt. Hoặc đây chỉ là một chút nghỉ ngơi ngắn ngủi trước một cơn đau dữ dội hơn.

    Cốc Yến Sơn lo lắng cuống cuồng. Ông vẫn chú ý lắng nghe xem có tiếng của chiếc ô tô nào đó chạy qua không. Sau khi Hồ Ngọc Âm ngủ thiếp đi, ông dứt khoát đi ra ngoài cửa, đội gió, đội tuyết đứng đợi trên đường. Ông quyết chặn một chiếc ô tô nào chạy đêm qua đó, dù ông có phải nằm ngang ra giữa đường cản họ lại cũng không sao. Một lát sau, tuyết ngừng rơi gió làm sắc đêm cũng sáng lên rực rỡ. Cốc Yến Sơn lồng hai tay vào trong chiếc áo bông dài quân dụng cũ, bồi hồi lo lắng đi đi lại lại trên mặt tuyết. Trong giờ phút ấy trông ông giống như một người lính gác. Đúng thế, cái năm ở chiến dịch Bình Tân ấy, ông cũng mặc chính chiếc áo bông dài này, và cũng đứng trên nền tuyết, chờ đợi tín hiệu tổng tiến công được phát ra, chờ đợi một rạng đông thắng lợi… Ngày tháng trôi qua nhanh thật, thế sự cũng đổi thay quá lớn! Cuộc sống của con người, đôi lúc đối với ngay chính bản thân người đó mà nói, nó cứ giống như một giấc mơ, một giấc mơ không làm sao hiểu nổi. Hơn hai mươi năm trước, ông đứng trên tuyết thuộc vùng bình nguyên Hoa Bắc, và bằng vào những cuộc chiến đẫm máu để chờ đón một sự ra đời của một đất nước mới; xã hội mới. Hôm nay, hơn hai mươi năm sau, ông đứng trên mặt đường quốc lộ, cũng trải tuyết trắng xóa, nơi thị trấn nhỏ bé thuộc vùng núi miền Nam, chờ đợi một chiếc ô tô qua đường, để tiếp đón một sinh mệnh mới. Nhưng cái sinh mệnh mới này là cái gì đây? Dòng dõi của một phần tử loại 5 đen, một đứa trẻ chung sống bất hợp pháp. Bản thân sự ra đời của nó đã là một nghiệp chướng... Chuyện đời thật phức tạp, nhưng cũng vô cùng phong phú, không sao giải thích nổi. Thỉnh thoảng ông lại ngoảnh đầu nhìn về phía nhà trọ Hồ Ký cũ. Ông mong mỏi được nghe thấy tiếng động rầm rầm của ô tô, nhìn thấy cái chùm sáng chói lòa của nó quét trên mặt tuyết. Chỉ trước đây ít giờ đồng hồ thôi, ông vẫn còn chửi bới những chiếc tô tô tung bụi lên ông, hắt bùn đất lên ông. Nhưng bây giờ lại coi nó như một vật linh thiêng giải cứu được cho sinh mệnh của mẹ con Hồ Ngọc Âm, giải thoát được cho ông ra khỏi cái hoàn cảnh ngặt nghèo này. Cho hay, bất kể là văn minh vật chất, hay văn minh tinh thần, đều là những thứ không thể chửi đổng được.

    Một lát sau, quả là ông đã ngăn được một chiếc xe tải, lại là xe của bộ đội giải phóng quân mà một năm trước đã từng đến một hang núi gần đây xây dựng một kho quân dụng ngầm rất lớn. Anh lái xe bộ đội nghe người mang dáng vẻ một cán bộ địa phương nói đặc một giọng miền Bắc, lập tức để ông lên xe, và cho xe lùi về phố Cũ.

    Quả nhiên, khi Cốc Yến Sơn vừa đỡ vừa đẩy Hồ Ngọc Âm vào được trong ca-bin xe, Hồ Ngọc Âm lại lên một cơn đau dữ dội, và vừa run rẩy vừa rên rỉ trong lòng ông. May mà được anh lái xe bộ đội cho xe chạy vừa nhanh vừa êm, xộc thẳng vào bệnh viện của bộ đội nằm sâu trong khe núi.

    Hồ Ngọc Âm được khênh ngay lên phòng khám trên tầng hai Qua một hành lang dài, và ánh đèn sáng trưng, trong một phòng rộng có lồng cửa kính lớn, các bác sĩ và y tá, ra ra vào vào, xem xét mọi chuyển biến của sản phụ. Cốc Yến Sơn đứng chết dí bên tấm cửa kính lớn đó, một bước cũng không dám rời đi. Phòng khám giống như những lầu ngọc gác tiên, các bác sĩ và các y tá cứ như tiên đồng ngọc nữ cả lượt, ông là người trần tục không thể đặt chân vào đấy. Một lát sau, một vị bác sĩ mặc một chiếc áo khoác trắng, mà trên cổ để lộ ra một quân hiệu màu đỏ, cầm một tờ bệnh án ra tìm ông, cho đến khi vị bác sĩ ấy tháo chiếc khẩu trang ra, ông mới biết đấy là một vị nữ bác sĩ, rất trẻ.

    - Ông là chồng của sản phụ phải không ạ? Ông tên là gì? Và ở đơn vị nào?

    Mặt ông Cốc Yến Sơn nóng ran như lửa đốt, lúng túng không biết đối đáp ra sao, và ông bỗng gật đầu trong cơn bối rối. Sự việc đã đến như thế, không gật đầu, còn biết làm gì hơn? Cứu người là quan trọng mà! Ông ấp úng nói tên và đơn vị mình. Nữ bác sĩ cứ thế lần lượt viết vào bệnh án, sau đó bảo ông:

    - Vợ ông tuổi đã cứng, lại ăn uống kém trong thời kỳ thai nghén, ngôi thai bị lệch, nên cần phải mổ, xin ông ký vào đây.

    - Phải mổ?

    Cốc Yến Sơn tròn xoe mắt và như bị dội gáo nước lạnh. Ông chẳng còn nghĩ gì tới chuyện mặt đỏ tai hồng của mình nữa. Tim ông đập thình thình, nhìn thẳng vào chiếc quân hiệu đỏ trên ve áo của người bác sĩ quân y, rồi định thần lại. Chính ông cũng từ trong đội ngũ này mà ra, xưa nay đều là tử đệ binh của nhân dân, chịu trách nhiệm trước dân và yêu mến nhân dân. Mười mấy, hai mươi mấy năm nay, tuy đã có không biết bao nhiêu thay đổi, nhưng về điểm này, ông tin rằng nó vẫn chẳng có gì đổi thay cả. Thế là ông gật đầu, đồng thời nhận lấy cây bút từ tay người nữ bác sĩ quân y, ký vào đó ba chữ Cốc Yến Sơn nghiêng nghiêng vẹo vẹo. Trong hoàn cảnh này, thôi, mặc xác sự hiểu lầm hay không hiểu lầm, ông tạm thời phải đảm nhiệm lấy cái chức trách của người chồng người cha.

    Hồ Ngọc Âm nằm thẳng người trên một chiếc xe đẩy, chuyển từ phòng khám ra. Trên cả một đoạn hành lang dài, Hồ Ngọc Âm nắm chặt tay Cốc Yến Sơn. Cốc Yến Sơn đẩy xe theo cái bàn tay nắm ấy, đưa tới cửa phòng phẫu thuật. Tất cả bác sĩ và y tá đều vào trong đó. Cánh cửa phòng phẫu thuật lập tức đóng lại. Và ông lại đứng lặng ngoài cửa, rồi ông đi đi lại lại, trong lòng như lửa đốt. Ông chỉ mong sao được nghe từ phòng trong, nơi cách ông một con đường cánh cửa, vọng ra tiếng trẻ khóc gào, khi đã lấy được từ trong bụng mẹ nó ra, Hồ Ngọc Âm nhất định sẽ chảy mất nhiều máu... Trời đất ơi. Trong nơi thẳm sâu tình cảm của ông, cuộc sống đã khai phá ra một lãnh vực hoàn toàn mới mẻ... ông cảm thấy được sự vĩ đại của sinh mệnh. Làm một người mẹ cũng chẳng phải chuyện bình thường. Họ thai nghén một sinh mệnh mới, sinh đẻ ra một con người mới. Có con người, thế giới này mới đầy ắp những niềm vui, và cũng ngập tràn những đau khổ. Tại sao lại có đau khổ trong cái thế giới này? Hơn thế, lại còn có cả thù hận nữa, đặc biệt là trong cái vòm trời mà Đảng cộng sản, công nhân, nông dân chúng ta sáng tạo ra, trong cái giang sơn đất nước mà chúng ta đang ngồi đây, lại có đấu tố nhau không ngừng, chỉnh đốn nhau không nghỉ, năm nọ tiếp năm kia như thế? Có những người, con mắt đỏ đọc lên, như biến thành sắt nguội, lấy việc đấu tố người, chỉnh đốn người làm chức nghiệp của mình, nhiệm vụ của mình. Tất cả những cái đó là tại sao? Tại làm sao? Ông không hiểu. Văn hóa của ông không cao, không biết “Bàn về tính người” là cái cóc khô gì, trình độ có hạn, tư duy bị hạn chế. Trong đầu là cả một “đống bã đậu”, làm sao lại bị nhiễm độc những “Bàn về tiêu diệt đấu tranh giai cấp” với “Bàn về tính ngươi” sâu xa đến thế...

    Ông chờ khốn chờ khổ trong suốt bốn tiếng đồng hồ dài đằng đẵng. Trời bắt đầu sáng. Hồ Ngọc Âm được xe đẩy, đẩy ra, và một cái sinh mệnh bé nhỏ được bọc trong chiếc tã bông trắng muốt của bệnh viện nằm bên cạnh cô. Nhưng mặt Hồ Ngọc Âm trắng bệnh như một tờ giấy, đôi mắt nhắm nghiền, y như chết. “Chết rồi sao?”. Tim Cốc Yến Sơn như thót lên tới cổ họng, và cặp mắt ông đẫm lệ. Người y tá đẩy xe tế nhị nhận ra sự tuyệt vọng đó trên nét mặt ông, lập tức nói cho ông hay:

    - Mẹ tròn con vuông, sản phụ an toàn. Thuốc mê còn chưa tan hết...

    - Sống rồi! Sống rồi!

    Ông không hét to, mà ngay cả chuyện sinh con gái hay con trai ông cũng quên cả hỏi.

    - Sống rồi! Sống rồi!

    Cả hành lang dài của bệnh viện tĩnh lặng như tờ, nhưng hình như nó đang vang vọng lời gào thét đó từ trong thẳm sâu trái tim ông bật tung ra.

    Theo quy định của bệnh viện, sản phụ và trẻ sơ sinh phải được ra chăm sóc riêng. Trên chiếc tã bông của trẻ có dính theo một tấm giấy nhỏ ghi số hiệu. Ông Cốc Yến Sơn được phép vào phòng chăm nom sản phụ. Trên chiếc giá ở đầu giường treo một bình thủy tinh, đang “tiêm treo” cho Hồ Ngọc Âm. Cho đến tận trưa, từ trong giấc ngủ hôn mê cô mới bắt đầu tỉnh lại. Cái nhìn đầu tiên của cô là nhìn ông Cốc Yến Sơn, cô vươn bàn tay mềm nhão, không truyền dịch của cô ra đặt vào trong lòng bàn tay Cốc Yến Sơn. Như một người chồng chứa chan hạnh phúc, Cốc Yến Sơn vuốt vuốt lên lưng bàn tay của Hồ Ngọc Âm. Khi ấy cô y tá bé nhỏ đi vào, nói cho cặp “vợ chồng” biết rằng, đứa trẻ sinh ra tối qua là một thằng bé bụ bẫm, hay khóc. Số hiệu là “7011”. Thật tuyệt vời, Hồ Ngọc Âm khóc, Cốc Yến Sơn cũng đỏ hoe tròng mắt, và lệ chảy đầm đìa. Cô y tá đã quen với cảnh đó rồi: Tất cả những cặp vợ chồng đến tuổi trung niên mới có con họ thường khóc như thế, khóc vì vui mừng. Cô y tá tiêm thuốc ngủ cho Hồ Ngọc Âm và hỏi:

    - Ông bà định đặt tên cháu là gì?

    Hồ Ngọc Âm nhìn Cốc Yến Sơn, và cũng không bàn bạc gì thêm, cô nói luôn với cô y tá:

    - Cốc Quân. Cốc là họ của ông ấy, còn Quân là giải phóng quân.

    Nói xong cô chìm ngay vào trong giấc ngủ.

    Vì cần phải chờ vết mổ lành miệng, thêm vào đó là tuyết phủ dầy núi, nhưng điều chủ yếu là Cốc Yến Sơn muốn kéo dài thời gian, nên Hồ Ngọc Âm đã nằm trong quân y viện tới hơn năm chục ngày. Trong thời gian ấy, ngày nào cũng vậy, Cốc Yến Sơn sớm đi tối về, giữa thị trấn Phù Dung và quân y viện. Cũng may, hồi đó ông là cố vấn của cửa hàng lương thực, nhưng trên thực tế, ông là người ngồi chơi xơi nước, chẳng có một việc cụ thể nào mà làm. Tất cả dân trong phố phường thị trấn đều biết rằng, đứa con mà Hồ Ngọc Âm sinh ra là giống của Tần Thư Điền đã bị đi cải tạo lao động. Ngoài ra, họ cũng chả để ý đến chuyện gì khác. Chỉ có một lão bà giàu lòng nhân ái, sau khi Hồ Ngọc Âm từ quân y viện về tới nhà trọ Hồ Ký cũ, vụng trộm đến thăm đứa trẻ đã đầu thai trong cái cảnh khốn khổ khốn nạn này và có để lại cho ít thịt gà thịt qué gì đó.

    Cốc Yến Sơn cũng đã bị gọi lên phòng lương thực huyện và đồn công an huyện một lần, nhưng trưởng phòng lương thực và trưởng đồn công an, lại cùng là cán bộ Nam tiến với ông, thuộc cùng một nòi tự do chủ nghĩa như nhau: Đồng hương, đồng sự, và chiến hữu. Họ đều hiểu một cách sâu sắc rằng Cốc Yến Sơn là một con người chân thật và cũng chẳng có ý đồ gì to lớn, một con người phổi bò, chẳng bao giờ làm những việc xấu xa quá đáng, hơn nữa lại là “người đàn ông không có công năng nam giới”, có đem dâng cho ông một người đàn bà, con gái cũng chỉ là công cốc, nên chỉ lấy chuyện đó ra làm chuyện cười mua vui mà không truy cứu trách nhiệm gì hết. Sau đó ủy ban cách mạng thị trấn và công xã cũng có làm báo cáo lên huyện, nhưng cũng chẳng làm được ai chú ý. Ngay đến bí thư Dương Dân Cao cũng chỉ khịt khịt mũi, giễu cợt: Cái đồ bất lực ấy, chẳng thèm nhắc đến làm gì. Nhưng bộ phận tổ chức vẫn ra một quyết định “ngừng sinh hoạt Đảng” để xử lý.

    Điều đó, ngược lại, vô hình trung đã tạo thành, một sự hợp pháp hóa để Cốc Yến Sơn chăm sóc một cách thích đáng cho đời sống của mẹ con Hồ Ngọc Âm. Vềsau dần trở thành một thói quen, được bà con trong thị trấn mặc nhận. Cho đến khi “bè lũ bốn tên” bị hạ bệ, cho đến khi đứa bé đã lên bảy, tám tuổi, Cốc Yến Sơn và Hồ Ngọc Âm tuy không thân không sơ, nhưng vẫn chăm sóc lẫn nhau, tôn trọng lẫn nhau. Ông Cốc nói:

    - Tần Thư Điền cũng sắp mãn hạn tù trở về, cứ việc đặt trước tên đứa bé một cái họ Tần nữa là xong.

    Nhưng trước sau gì, thằng bé vẫn là một “con người đen”. Công xã và đội sản xuất không chấp nhận nó, không đăng ký hộ khẩu cho nó. Cốc Yến Sơn vẫn là “bố nuôi” của cái thằng “quỷ đen bé con” ấy. Chuyện đó được mọi người ở quanh vùng thị trấn Phù Dung coi là một chuyện lạ vào giữa và sau thời kỳ “đại cách mạng văn hóa”.

    Một hôm, lúc Hồ Ngọc Âm ngồi chơi với con, cô nói với Cốc Yên Sơn theo một lời bọn trẻ con ngoài phố:

    - Ông ơi, người ngoài phố bảo rằng, mọi người đã viết giấy lên trên, và bên trên đã gửi giấy về bảo sẽ đưa ông lên làm bí thư với chủ nhiệm thị trấn. Và đuổi lão Vương Thu Xá về cái nhà sàn nát của lão ta đấy. Thực ra, trong xã hội mới, chính quyền mới, đáng nhẽ, phải là những người như ông, nắm quyền, giữ triện mới phải!

    Cốc Yến Sơn lắc đầu:

    - Đừng có tin, đừng có tin Ngọc Âm ạ! Đến ngay như sinh hoạt Đảng, tao vẫn bị treo đó đã được khôi phục đâu. Trừ khi bọn Lý Quốc Hương và Dương Dân Cao bị cách chức, hoặc điều đi nơi khác...

    - Tất cả là do con với thằng cháu làm liên lụy đến ông... Chỉ vì lũ chúng con, mà ông phải mang trên người bao nhiêu năm toàn những vết nhọ nồi...

    Nói xong, mắt Hồ Ngọc Âm đỏ lên và cô sụt sịt khóc.

    Cốc Yến Sơn an ủi cô:

    - Trời đất ơi, ngần ấy năm giời rồi mà nước mắt cháu lúc nào cũng như nước giếng, chảy chẳng bao giờ cạn.

    Ông xoa xoa đầu thằng cháu, nói tiếp nhưng như tự an ủi mình:

    - Thế sự bây giờ cũng đã sang sáng ra rồi. Cấp trên đã gửi giấy tờ về bảo rằng phải minh oan cho cháu và Tần Thư Điền. Còn bác ấy mà, nếu quả thật người ta muốn đưa lên loại đầu ngành của thị trấn, cái gánh ấy quả là quá nặng nề đấy, công việc của thị trấn này, bây giờ là cả một đống nhão nhoét... Tất tật đều phải làm lại từ đầu. Mà việc đầu tiên là phải chạy chữa cho con sông Phù Dung. Ít ngày hôm nay đêm nào bác cũng mất ngủ...

    Chưa nhận chức mà “Đại Binh phương Bắc” đã mất ngủ rồi. Hồ Ngọc Âm cười qua nước mắt. Thằng bé con cũng cười, nói toang toang:

    - Mẹ ơi! Ông ơi! Nghe nói chú Lê cũng sẽ làm lại chức bí thư chi bộ đại đội đấy! Tối hôm qua chú Lê đã đồng ý cho con hộ khẩu rồi. Con không phải là “oắt đen” nữa!
     
    Narga thích bài này.
  12. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    NGÔI NHÀ SÀN SỤP ĐỔ


    CUỘC SỐNG THƯỜNG ĐÁP LẠI CHO NGƯỜI BỘI NGHĨA những miếng đòn cay nghiệt.

    Những năm gần đây, sự hổ thẹn và lòng hối hận như những ngọn roi vô hình và vô tình, thỉnh thoảng lại quất lên ngang người và ngang tim Lê Mãn Canh. Tim anh như bị bao phủ bởi một lớp bùn nhơ. Anh đã bán rẻ những tình cảm quý báu ở tuổi thanh xuân của mình, anh đã phản bội lại lời thề nguyền của mình. Trong cái án oan mà Hồ Ngọc Âm bị gạt sang thành phần phú nông mới và Lê Quế Quế tự sát, chính anh là người đổ thêm dầu vào lửa, vứt thêm đá xuống giếng, trở thành một kẻ hung đồ. Đã có lúc, anh như một kẻ bị bệnh tâm thần, đưa tay lên mũi ngửi ngửi, hít hít, và phảng phất như ngửi hít thấy vị tanh của máu.

    Nhưng, trung thành và phản bội, lúc nào chúng cũng quấn riết lấy nhau trong cuộc sống của Lê Mãn Canh. Anh đã phản bội tình nghĩa anh em (từ tình yêu trong sáng chuyển hóa sang) giữa anh và Hồ Ngọc Âm, phản bội lại lời thề nguyền đã được ước định trên bờ sông Phù Dung, và cũng là phản bội lại chính lương tâm mình. Nhưng khi anh đem nộp món tiền mặt một ngàn năm trăm đồng của Hồ Ngọc Âm đem tới nhờ anh cất giữ hộ cho tổ công tác của huyện ủy, cũng lại chính là anh bày tỏ lòng trung thành của anh với tổ chức Đảng. Thực là một mâu thuẫn cực kỳ to lớn và cũng vô cùng phức tạp! Ngay từ năm 1956, khi anh làm cán sự dân chính ở trên khu, cũng là để bày tỏ lòng trung thành với tổ chức Đảng, mà đã hy sinh một tình yêu khắc cốt ghi xương. Đứng trước tổ chức và cá nhân, trước cách mạng và tình yêu, bao giờ lý tính của anh cũng đè bẹp được cảm tính, cách mạng hất bỏ được tình yêu. Anh coi trọng tổ chức hơn tất cả mọi thứ mà không cần phải suy nghĩ gì, anh mù quáng đến mức ngu muội. Xưa nay chưa từng bao giờ hoài nghi điều đó, và chưa chịu đi sâu suy tính xem, cái gọi là “tổ chức” đó, đi theo đường lối nào. Anh không có đủ trình độ ấy. Anh chỉ quen phục tùng. Cố nhiên rằng, anh cũng đã từng suy nghĩ, có nhiều đồng chí lãnh đạo cũng xuất thân từ thành phần không tốt, quan hệ xã hội cũng rất phức tạp, nhưng họ, trong những năm khói đạn mịt mù, đã kết hợp được rất hài hòa, rất tốt đẹp giữa cách mạng và tình yêu, giữa lý tính và cảm tính. Thậm chí họ còn tổ chức hôn lễ ngay giữa pháp trường. Họ đã yêu, đã ghét trong cùng một sự nghiệp, cùng một mục tiêu. Nhưng khi ấy cần phải giành lại đất nước, cần thiết phải đổ máu hy sinh! Muốn giành lại được đất nước, cần phải có một đội ngũ to lớn, ai cũng có thể tham gia vào được, không thể đóng cửa quá chặt mà còn cần phải mở rộng cửa ra kia... Nhưng nay, khi đã giành lại được thiên hạ rồi, và đã giữ được giang sơn đất nước. Đội ngũ cần phải trong sạch và càng cần phải trong sạch hơn, cách mạng trong nội bộ, cần phải chỉnh đốn lại, thanh lọc lại đội ngũ. Thẩm tra lý lịch năm đời, ba kiếp mới bảo đảm bảo được tính thuần khiết. Vì vậy mà cần phải hy sinh tình yêu cho đến lương tâm của cá nhân người cách mạng. Lương tâm nhìn không thấy, nắm không được, tính thành mấy cân, mấy lạng? Hơn nữa, chỉ có giai cấp tiểu tư sản mói nói đến cái lương tâm. Trời ơi... Cứ như thế, Lê Mãn Canh đã bán rẻ Hồ Ngọc Âm, hơn thế, anh đã xô ngã cô vào cái lò lửa hừng hực vô tình.

    Cho đến hôm nay, lịch sử đã đưa ra kết luận, cuộc đời đã đưa ra lời đính chính: Hồ Ngọc Âm bị gạt oan sang thành phần phú nông, Lê Quế Quế bị bức hại cho đến chết. Lê Mãn Canh ơi Lê Mãn Canh, mi là tên bán người đê hèn. Mi, cái tên tự tư tự lợi ấy, mi là một tên giết người mà trên tay còn đầy vị tanh tưởi của máu tươi. Mi làm sao có thể gọi là một đảng viên cộng sản được? Mi có xứng đáng là một đảng viên cộng sản chân chính không? Xin hỏi, điều khoản nào trong điều lệ đảng, và trong văn kiện số mấy của Đảng yêu cầu mi, đòi hỏi mi phải làm như thế? Mi oán trách ai? Oán trách ai hả? Trung Quốc có ba tám triệu đảng viên, chẳng có mấy người lại đi phản bội anh em, chị em như mi, đạo đức lương tâm ư, có mấy người lại đi giúp vua Kiệt làm điều bạo nghịch như vậy hả? Mi còn oán trách ai nữa? Đồ khốn! Mi còn oán trách ai được?

    Lê Mãn Canh vẫn cứ thường tự trách, tự vấn như thế, và tự chửi bới mình như thế. Nhưng liệu có nên hoàn toàn chỉ tự trách mình hay không? Anh có phải là người xằng bậy, thối tha, nhơ bẩn bẩm sinh không? Đối với Hồ Ngọc Âm, đối với bà con, già trẻ ở thị trấn Phù Dung, phải chăng anh chưa bao giờ làm được một việc tử tế, chưa bao giờ có tấm lòng rộng mở, chưa bao giờ có những tình cảm chân thành, trong sáng? Cố nhiên là không phải thế rồi. Ơi hỡi Hồ Ngọc Âm, người con gái yêu của ông chủ nhà trọ Hồ Ký ngày xưa, đối với anh, trước sau chỉ là một thứ quả đắng của cuộc đời, trước sau, đã tích tụ trong đáy tim anh những tình yêu, oán trách, và thù hận. Khi cô bị quy thành quả phụ phú nông, bị treo bảng đen dẫn đi bêu riếu, đội mũ cao đem đi đấu tố lưu động, bị lôi lên chịu tội, anh chưa bao giờ xỉ nhục cô, đấm đá cô, chà đạp cô... Chính vì điều đó mà chi bộ đại đội, mà ủy ban cách mạng thị trấn, đối với anh - Lê Mãn Canh - đã phê bình giáo dục anh, phán anh là hữu khuynh, là theo phái “tính người” và chủ trương “tiêu diệt giai cấp đấu tranh”, thậm chí đã tước bỏ chức vụ bí thư đại đội của anh, chỉ một suýt nữa là khai trừ anh ra khỏi Đảng. Ôi “tính người” với chả “nhân tính”, “tính người” là cái quái gì mới được chứ? Hình dáng nó thế nào, màu sắc nó ra sao? Tròn, vuông, dẹt? Vàng, trắng, đen? Anh, cái thằng Lê Mãn Canh ấy, chỉ có trình độ văn hóa bậc tiểu học, đầu óc ngu si, tứ chi phát triển, sức tưởng tượng nghèo nàn hết chỗ nói. Anh chỉ cảm thấy rằng, cái “tính người” nó giống như chiếc bánh bột cám nhân rau, tọng vào họng, nhai không vỡ, nhổ không ra, nuốt không vào, sợ nó biến thành một cái nhọt bọc trong cổ mất. Anh thật thảm hại, có miệng không dám nói, có khổ không dám than. Xung quanh anh chẳng còn ai ra con người nữa. Anh là đám bùn bị kẹp trong kẽ đá, anh bị ép thành những mảnh vụn khô khốc, mỏng dính không cần tưới tắm, chỉ cần được sống. Cái thế sự này, cái phong trào này, cuộc đấu tranh này, tính không được, sờ không thấy mà. Anh muốn chạy theo nó, trung thành với nó, ngược lại, nó bỡn cợt anh, biến anh thành con khỉ làm xiếc...

    “Một con sâu đáng thương! Lê Mãn Canh! Anh là một con bọ đáng thương”! Bao nhiêu năm ròng, anh cô độc uất ức tự oán trách, dằn vặn, tự dày vò hổ thẹn, như bị ma ám. Một con người, một thằng đàn ông sức dài vai rộng, gánh được trăm cân, đi được trăm dặm, vậy mà xương sống phải khom gập xuống, và đôi vai rộng của anh hình như phải gánh, vác một gánh nặng vô hình tưởng chừng không sao nhấc nổi? Về sau này, đến ngay “Ớt phật thủ”, vợ anh cũng bị cái thần sắc của anh làm cho khiếp đảm, lo lắng anh đã nhiễm một chứng bệnh gì đó. “Ớt phật thủ” người đàn bà này, cũng mang đầy mâu thuẫn trong người. Những năm tháng Hồ Ngọc Âm bán canh bánh tráng “vào cầu”, chị sợ chồng mình vẫn lưu luyến tình xưa nghĩa cũ, nên luôn mồm luôn miệng răn đe “chớ chết, chớ chết”, ghen tuông khủng khiếp. Đối với khoản tiền mặt một ngàn năm trăm đồng, chị làm ầm làm ĩ, khóc lóc gào thét, buộc chồng phải đi tố cáo, nộp tiền. Thậm chí chị còn thấy vui mừng, vì mình được an toàn, trước tai họa của người khác. Điều đó, khiến chồng chị đã cắt đứt hoàn toàn được với “yêu tinh Phù Dung”. Nhưng rồi sau đó, cứ năm này tiếp năm khác, thấy Hồ Ngọc Âm đội mũ của quỷ đen, đi quét rác, chị lại thấy tội nghiệp. Ngay cả đối với những người đàn bà xấu xa hư đốn nhất, cũng không thể phải chịu tội suốt đời như thế... Chồng chị cũng suốt bốn mùa trong một năm, âm trầm u uất, mà không bao giờ thở than với chị. Nhưng chị hiểu được chồng chị đã mắc phải thứ tâm bệnh gì. Nhiều khi chị cảm thấy mình là người sai trái. Hồ Ngọc Âm sinh con, chị lén lút như đi ăn trộm lẩn vào nhà trọ Hồ Ký cũ thăm Hồ Ngọc Âm một lần. Cái thằng bé mới bụ bẫm làm sao chứ, mặt hoa da phấn, chân tay cứ như cái ngó sen, nần nẫn ra. Nên gọi nó là con riêng, hay con hoang nhỉ? Không, người ta gọi nó là thằng Cu Quân, có bố hẳn hoi, bố nó là Tần Thư Điền, phần tử phái hữu, bị xử tù, đi cải tạo lao động. Sau này thằng Cu Quân mỗi ngày một lớn, biết chạy biết nhảy, “Ớt phật thủ” còn gọi nó vào nhà, cho miếng đường ăn. Thật đúng là người hèn có phận hèn. Thằng bé có đôi mắt tròn xoe, trông vừa giống mẹ lại vừa giống bố, rất kháu. “Ớt phật thủ” rất yêu thằng bé. Bởi vì sau này, chị còn sinh thêm hai lần nữa, nhưng vẫn là “lũ vịt giời” bây giờ có tất cả là sáu tiểu thư “thiên kim” (ngàn cân). Đôi lúc có người hỏi Lê Mãn Canh được tất cả mấy cô con gái, bao giờ anh cũng buồn phiền, thở dài xòe các đầu ngón tay ra, đếm đêm như báo sản lượng ruộng đất nói: “ba tấn” (1), “Ớt phật thủ” cũng dần dần nhận ra được rằng, chồng mình cũng quý mến thằng Cu Quân. Mỗi khi thằng Cu Quân vào nhà chơi, trên khóe mắt anh, trên khóe miệng anh phảng phất một nụ cười. Lần đầu cười, lần thứ hai bế, lần thứ ba, lần thứ tư chẳng còn phân biệt nếp tẻ gì nữa. Thấy chồng vui, “Ớt phật thủ” cũng vui lây. Nếu chồng chị cứ buồn rầu u uất mãi, cứ thở vắn than dài mãi, sẽ mang bệnh thật cũng nên, nếu vậy, con mẹ “Ớt phật thủ” này có dắt díu sáu cô con gái đi ăn mày, chắc cũng chẳng có ai cho!

    - Này Quân Quân, vào đây, bác cho cái quả này!

    Có khi Lê Mãn Canh chia quà cho các thiên kim tiểu thư trong nhà đều dành lại một phần cho Quân Quân.

    - Không đâu ạ! Mẹ cháu mắng cháu! Mẹ cháu cấm không cho cháu được xin ai cái gì ăn, để người ta khỏi khinh cho ạ!

    Quân Quân nhanh mồm nhanh miệng, không chìa tay ra nhận, nhưng mắt nhìn chăm chăm vào cái quả, rõ ràng là rất thèm ăn. Mới một tý tuổi đầu, đã bị rơi tọt ngay vào cái mâu thuẫn giữa cảm tính và lý tính. “Ớt phật thủ” đứng bên, cũng thấy vừa tội nghiệp vừa thương mến thằng bé:

    - Quân Quân này, hai mẹ con cháu chỉ có một suất gạo, ăn thế có no không?

    - Mẹ cháu bao giờ cũng đợi cháu ăn xong, thừa lại, mẹ cháu mới ăn nốt. Có khi cháu không chịu ăn như thế, mẹ cháu đánh cháu, đánh xong, lại bế cháu lên khóc.

    Nói đến đây mắt thằng bé bỗng ươn ướt. Lê Mãn Canh và “Ớt phật thủ” nghe thế, cũng thấy cay cay nơi khóe mắt. Một người quả phụ phải nuôi một đứa trẻ đang sức ăn sức lớn, hai mẹ con chỉ có một suất gạo, đã thế lại còn bị quản chế, bị đi quét đường, thật đúng là đã phải sống những ngày khổ nọ chồng lên khổ kia, khổ chồng khổ chất. Còn bản thân “Ớt phật thủ” thì sao? Kể từ ngày chồng chị không làm cán bộ nữa, đời sống lại thấy dễ chịu hẳn ra. Lê Mãn Canh là người khỏe mạnh, biết làm ăn, nên ngoài cái số công điểm cao trong công việc sản xuất tập thể, anh còn làm cho cái số đất phần trăm hái ra vàng ra bạc, rau dưa bốn mùa, tám miệng ăn không bao giờ hết, phiên chợ nào cũng có thừa đem đi bán, “Ớt phật thủ” cùng với đàn con gái còn chăm no đàn gà đàn lợn, thu hoạch cũng kha khá, chị còn định mở rộng chăn nuôi. Hai vợ chồng chị có thể gọi là ngọt bùi cùng hưởng, hoạn nạn cùng chia. Hơn nữa con cái nhiều, tuổi tác cũng đã cao, nên chuyện ghen tuông bóng gió thời trai trẻ cũng không còn nữa, nên mọi sự trong nhà yên ổn.

    Bây giờ Lê Mãn Canh và “Ớt phật thủ” vẫn thường hay giữ Quân Quân ở lại ăn cơm, chơi đùa với con gái họ.

    - Quân Quân này, mẹ cháu có biết cháu ăn cơm ở đâu không?

    - Biết chứ ạ.

    - Có mắng không?

    - Không mắng, nhưng bảo cháu là thằng ăn chực...

    Xem ra, Hồ Ngọc Âm mặc nhiên công nhận.

    Có một lần, nhà họ Lê mời thợ may về nhà, may quần áo tết cho sáu cô con gái, nhân tiện cũng may luôn cho Quân Quân một bộ, đo cắt hẳn hoi, nhưng không cho Quân Quân mặc, mà lấy một tờ giấy gói lại, bảo Quân Quân mang về nhà cho mẹ xem. Một lát sau, đã thấy Quân Quân diện bộ quần áo mới, quay lại nhà Lê Mãn Canh khoe với hai bác.

    - Mẹ cháu mặc cho cháu chứ?

    - Vâng. Mẹ cháu bảo lại đây cảm ơn hai bác.

    Mùa xuân đã về, ngày giải đông, băng chảy, tuyết tan đã tối. Sấm xuân của mùa xuân năm nay đến sớm, mưa xuân cũng nhiều. Buổi chiều hôm đó, Đảng ủy công xã báo cho Lê Mãn Canh và Vương Thu Xá đến dự hội nghị Đảng ủy công xã và mở rộng. Hội nghị là Đảng ủy công xã và Đảng ủy thị trấn liên hợp triệu tập. Bí thư mới của Đảng ủy công xã nghiêm khắc phê bình chủ ngôi nhà sàn đã dùng chiến thuật ngâm tôm kéo dài không dứt khoát đối với việc sửa sai cho Hồ Ngọc Âm và Tần Thư Điền, cho đến tận ngày hôm sau vẫn chưa chịu trả lại ngôi nhà lầu mới cùng với một trăm ngàn năm trăm đồng tiền mặt. Đồng thời đại diện của huyện ủy cũng tuyên bố bãi miễn cả hai chức vụ là bí thư đại đội sản xuất thị trấn Phù Dung, cũng như chức chủ nhiệm ủy ban cách mạng của Vương Thu Xá. Đại đội sản xuất của thị trấn từ nay quy về cho ủy ban cách mạng thị trấn quản lý, chức bí thư chi bộ tạm thời giao cho nguyên bí thư Lê Mãn Canh đảm nhiệm, sau đó sẽ tiến hành bầu cử. Người phụ trách Đảng ủy thị trấn, và ủy ban cách mạng thị trấn, huyện ủy sẽ bổ nhiệm sau. Quyết định đó của huyện ủy còn chưa tuyên bố xong, Vương Thu Xá đã kinh hồn lạc phách, đã bỏ chạy, không kịp cầm quần áo mưa, cứ chân không chạy ra ngoài mưa gió. Mọi người ra sức vỗ tay; hô hét; trong giờ phút đó, cả hội trường vang dội tiếng vỗ tay, cùng những tiếng gào “hay, hay”, làm át cả tiếng sấm cũng như tiếng gió mưa rú giật bên ngoài.

    Hội nghị mở rộng của Đảng ủy kéo dài tới tận tối mới giải tán. Đi về mười dặm, mặc dù Lê Mãn Canh đã khoác chiếc áo tơi khâu bằng mo tre, mà người vẫn ướt đầm đìa, nhưng anh vẫn không lạnh giá vì anh đang có một trái tim ấm nóng. Bản thân được phục hồi chức bí thư chi bộ, tuy cũng có chút hổ thẹn, nhưng loại bỏ được Vương Thu Xá, coi như trừ được một cái hại lớn cho thị trấn, và có thể coi đây là một việc vui mừng lớn của thị trấn. Không biết chừng sẽ còn có người đốt pháo, xua đuổi tà khí cũng nên!

    Về đến nhà, “Ớt phật thủ” vừa nhìn anh thay quần áo, vừa hỏi:

    - Nghe nói anh lại làm quan rồi phải không? Cái mũ cánh chuồn nát, người ta đã vứt lên đỉnh núi, anh lại đi nhặt về, chụp lên đầu phải không?

    - Tin tức ởđâu mà nhanh thế?

    - Khi thấy anh với Vương Thu Xá đi họp, cả phố người ta đã nói giăng giăng ra rồi, có người còn đến cả đây dò hỏi tôi đấy! Nào tôi đâu có biết? Tôi chỉ biết, muốn gì thì gì, đất phần trăm anh phải trồng, củi đuốc anh phải đi chặt. Nếu không bảy mẹ con tôi không cho anh bước chân vào cái nhà này nữa. Anh đừng có hòng nghĩ như ngày xưa, ngay ở trong nhà này cũng là cán bộ “thoát ly sản xuất”.

    - Được, được, được! Tất cả là do em sắp đặt! Em yên tâm đi. Mấy năm nay anh trồng trọt trên đất phần trăm đã đến độ thành nghiện rồi... Huống hồ là từ nay về sau, dù chỉ là chức quan hạt vừng hạt đậu, cũng đều phải tham gia sản xuất. Cấp trên cũng đã phê chuẩn việc khoán sản phẩm ở khu vực miền núi ta rồi. Cá biệt còn khoán đến hộ, chẳng anh nào lười biếng được nữa.

    - Khi cái con rắn lười biếng, Vương Thu Rắn ấy bỏ chạy ra ngoài trời mưa, khắp phố người ta hò hét anh có biết gì không?

    - Hò hét thế nào?

    - Người ta cứ hò đi hét lại mãi rằng: “Tha cho thằng lớn, bắt lấy thằng bé”! “Tha cho thằng lớn bắt lấy thằng bé”! Rồi lại hò: “Đừng có bao giờ quên”! “Năm sáu năm lại làm cách mạng văn hóa một lần”! “Đấu tranh giai cấp, mày chết tao sống”! Bây giờ mói thấy giời quả báo, cái thằng điên chết băm chết vằm ấy.

    - Nhỡ hắn không điên thì sao? Mùa xuân này sẽ khoán sản phẩm, khoán sản lượng, tổ nào dám nhận hắn, tổ nào dám nhận nào? Có chia cho nó mấy mẩu đất, nó cũng để cỏ mọc. Cái lối đi ăn cơm hớt thiên hạ, rồi đi làm rễ, đã hết thời rồi!

    Hai vợ chồng đang nói chuyện bỗng nghe thấy tiếng rầm rầm như tiếng nhà đổ lẫn vào với tiếng gió mưa sầm sập bên ngoài cửa sổ.

    - Nhà ai đổ thế nhỉ? - Lê Mãn Canh hỏi. Mặt “Ớt phật thủ” cũng trắng bệch ra, trên phố Đá Xanh, đều là những cửa hàng làm bằng gỗ, đã lâu ngày chẳng được tu sửa gì.

    Lê Mãn Canh vội xắn ống quần, mặc áo tơi, đội nón, định đi ra cửa, đã nghe thấy tiếng người gào lên ngoài phố, như báo một tin vui:

    - Ngôi nhà sàn đổ rồi! Ngôi nhà sàn đổ rồi!


    (1) Trong chữ Trung Quốc, chữ “kim” là vàng, và chữ “cân” là cân lạng, viết khác nhau nhưng đọc giống nhau. Ở đây tác giả đã cho từ “thiên kim tiểu thư”, cô gái ngàn vàng, mang theo cả nghĩa cô gái ngàn cân. Nhưng 1 cân của Trung Quốc chỉ ăn có nửa cân ki lô, nên Lê Mãn Canh đã “chuyển đổi” 6 cô gái, 6 nghìn cân (Trung Quốc), thành “ba tấn” (tây). (N.D.).

     
    vinhhoa thích bài này.
  13. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    “TIM CHÀNG NẰM GIỮA TIM EM”


    MỘT MÌNH HỒ NGỌC ÂM DẬY SỚM, QUÉT ĐƯỜNG, đã bao nhiêu năm rồi? Cô lặng lẽ quét, quét và quét, không nghỉ tay, không ngẩng đầu. Đầu óc cô tính toán gì? Cô nghĩ ngợi gì, tưởng nhớ gì? Cô nghĩ về bóng dáng ngày xưa, Tần Thư Điền đẩy đưa ngọn chổi tre giống như người khỏa mái chèo trên sân khấu? Cô nghĩ về cái ngày hai người sung sướng chơi khăm được cả đôi nam nữ nắm quyền? Hay cô tìm những dấu chân còn lưu lại của Tần Thư Điền trên những tấm đá xanh trải trên mặt phố? Những dấu vết ấy, cô thấy nó ởnơi nơi trên mặt đường, dầy đặc, chồng chất lên nhau, và chính những dấu chân ấy đã dẫm trên từng tấm đá xanh làm cho nó nhẵn bóng lên. Liệu còn nhận ra, phân biệt được ra dấu chân nào là của anh Tần Thư Điền, dấu chân nào là của chính mình? Những dấu chân dù quét đến thế nào nó cũng chẳng mất đi được, mà nó vẫn gắn trên mặt những tấm đá xanh, gắn trong tâm khảm của Hồ Ngọc Âm, càng quét càng hiện lên rõ nét hơn... Tấm lòng tưởng nhớ người thân, đã trở thành chất sống tươi tắm cho trái tim cô. Có điều kỳ lạ rằng, trong những tháng năm dằng dặc ấy, cô đã nếm đủ những dư vị đắng cay cái khẩu phần về tinh thần, và món “lương thực” về thể xác cho một “kẻ địch giai cấp”, cô ngậm đắng nuốt cay, giống như một ngọn cỏ sống trong kẽ đá, và không còn bao giờ nghĩ về “cái chết” nữa. Cô cũng đã học được cái cách thức đối phó với mọi trường hợp trong cuộc đời, gọi cô đi đấu tố, cô vẫn bình thường y như đi sản xuất ở đại đội vậy. Cô chẳng phải đợi người ta túm tóc giật đầu, cô đã kịp cúi xuống trước. Cô cũng chẳng phải đợi người ta đá vào bụng chân, cô đã quỳ phịch xuống trước. Khi người ta tát vào mặt bên phải, cô sẵn sàng chờ đợi cái tát thứ hai giáng xuống bên mặt trái... Cô cũng đã bị đấu nhờn, đấu chai ra rồi và là một vận động viên lão thành, cô đáng được thưởng huy chương vàng “kiện tướng thể thao” - Tại sao trong cuộc thi đua đại cực tả trong mươi, mười mấy năm liền lại không bình bầu thành tích thi đua, không tặng thưởng các loại huy chương vàng, huy chương bạc, huy chương đồng? Làm như vậy cũng bớt được cho cô phần nào khổ nhục. Hơn thế nữa, mỗi lần bị dẫn lên hội trường đấu tố, cô lặng lẽ quỳ xuống quay mặt về phía bà con, vẻ mặt mụ mị, tê liệt, giống như một pho tượng thạch cao. Cặp mắt to tròn, trắng đen rõ rệt, đôi lúc ngẩng lên nhìn về phía bà con, mang đầy vẻ thê lương, ai oán, biểu thị rằng cô vẫn sống. Đôi mắt của cô, đã tranh thủ được lòng thương cảm của bà con, làm tan ý chí đấu tố của mọi người? Có khi nó đưa ra những kháng nghị âm thầm: “Thưa các ông các bà và chị em hàng phố, tôi chỉ là cô Phù Dung mở quán bán canh bánh tráng... bây giờ tôi quỳ trước mặt bà con đây, tôi quỳ cho đến khi nào bà con mở lượng hải hà, rộng lòng khoan dung, hạ cơn giận dữ, tha thứ cho tôi...”. Rõ ràng rằng, mỗi lần thị trấn mở đại hội đấu tố, khi có cô quỳ trên sân đấu, không khí đấu tố ở hội trường cũng dịu bớt hẳn đi, ý chí đấu tố của quần chúng không cao, mùi vị thuốc súng bớt nồng. Còn có người rơm rớm nước mắt, cúi đầu xuống không nỡ ngó nhìn. Còn có người viện đủ loại lý do, để nửa chừng rút khỏi hội trường, mặc dù ngoài cửa có dân quân canh gác.

    Chim chóc ở trên cây, hoa cỏ ở dưới rãnh, đều có cái mệnh của nócả. Hồ Ngọc Âm cũng có một cái mệnh của mình, vạn vật, vạn sự cũng đều có mệnh. Số mệnh đã được định sẵn. Nếu không, những đàn bà con gái ở thị trấn Phù Dung, cũng có kẻ so với cô là hư hỏng, là lười biếng, là điêu toa, và cả những người đàn bà lòng dạ xấu xa, độc địa, vậy mà chẳng có ai làm sao cả, song chỉ riêng cô, Hồ Ngọc Âm thức khuya dậy sớm, cố sống cố chết xoay xỏa, bán một tý canh bánh tráng lại toàn gặp chuyện đen đủi, chẳng lành, là tại làm sao? Những kẻ hoang phí, bóc ngắn cắn dài trong đại đội, những kẻ năm nào cũng xin cứu tế của nhà nước lại là những mặt hàng tốt là sao? Làm sao chính phủ lại coi trọng, lại coi những kẻ này là mặt hàng chính phẩm? Và chính những loại người này lại được coi là con đẻ, con chính thức! Xưa kia bọn quan lại yêu giàu khinh nghèo. Ngày nay người ta đảo ngược lại, đấu giàu yêu nghèo, và cũng chẳng thèm xem, tại sao lại giàu, tại sao lại nghèo, vì thế mới coi Vương Thu Xá là loại người hạng nhất, coi hắn là gốc rễ, là cơ bản. Đấy, Hồ Ngọc Âm, trong kiếp này đã làm một con ngốc nên mắc vào vòng cạm bẫy, có đầu thai vào kiếp sau, thì hãy ăn bơ làm biếng, nằm ngửa ăn sẵn, há miệng chờ sung, ngửa tay xin chính phủ cơm ăn, xin chính phủ áo mặc, học tập Vương Thu Xá, ngôi nhà sàn có nghiêng cũng chỉ lấy một cây gậy chống, lúc nào cũng là bần nông hiện đại, cốt sao cho cấp trên nhìn thấy thuận mắt, thuận lòng, làm con đẻ, con chính thức, làm rễ trong các phong trào vận động.

    Sống thừa còn hơn chết yểu, mặt dầy mày dạn vẫn cứ cố sống, người ta có coi mình như một con quỷ, hay một conquỷ cái đen cũng cần phải sống. Hồ Ngọc Âm hôm nay đã có “người bạn lòng”, anh Tần Thư Điền dù còn đang phải đi tù, và anh Tần Thư Điền còn để lại cho cô một giọt máu, đó là bé Quân Quân, cô chết làm sao được, có hèn thêm, có khổ thêm cô vẫn đáng sống, sống có ý nghĩa. Bé Quân Quân đến nay đã lên tám, đã lớn lên trong sự bế bồng, chăm nom của cô, nó cười, nó quấy, nó ăn, nó ngủ, nó u ơ học nói, nó nhảy nhót trong những nụ hôn thương yêu của cô. Xòe ngón tay ra mà tính, nhà nước bỏ tù bố của bé Quân Quân mười năm, nay đã tù được chín năm rồi, anh sắp được thả về. Anh Tần Thư Điền lao động cải tạo tận một nông trường ở hồ Động Đình, tháng nào cũng gửi thư về, cuối phong thư nào cũng viết “Thơm, thơm bé Quân Quân”. Đâu phải chỉ có “Thơm thơm bé Quân Quân”? Hồ Ngọc Âm là người vợ có trái tim hiền thuận, những ý tứ của chồng cô, cô hiểu... Tháng nào Ngọc Âm cũng có thư trả lời cho anh, phong thư nào cô cũng viết: “Anh Thư Điền thương yêu, bé Quân Quân thơm thơm anh. Anh cần giữ gìn sức khỏe, cải tạo cho tốt, nhà nước sẽ sớm cho anh trở về. Em và bé Quân Quân đợi anh từng ngày, trông ngóng anh từng giờ. Em trông đợi anh sắp mỏi mắt rồi, trái tim ngóng chờ anh cũng sắp mệt rồi. Nhưng anh cứ yên tâm, bé Quân Quân bên em mỗi năm mỗi lớn, còn em không phải mỗi năm mỗi già đi đâu. Lòng em còn rất trẻ trung, và cái trẻ trung ấy, em gìn giữ cho anh, chờ đợi anh. Anh yên tâm, anh yên tâm, yên tâm...”. Đúng vậy, Ngọc Âm vẫn nhớ những bài hát ở “sàn hát mừng”, tất cả một trăm linh tám khúc, chẳng quên một bài nào, và vẫn còn hát được, và vẫn chờ anh Thư Điền về để hát anh nghe, vẫn nhớ, để khi anh Thư Điền từ nhà tù về sẽ lại cùng hát với nhau. Cái tấm lòng ấy, cái tâm tư ấy, Ngọc Âm ơi, cô có viết ra trong những bức thư? Cô chẳng nên sợ hãi, những bài hát trong “sàn hát mừng” chẳng phải là thứ ám hiệu nào, chỉ chống phong kiến một chút thế thôi, những nhân viên quản giáo chắc chắn sẽ cho phép anh Thư Điền đọc.

    Mỗi sớm khi Hồ Ngọc Âm trở dậy, cô lặng lẽ đi quét. Đâu phải chỉ quét đường, mà cô bới móc, kiếm tìm những dấu chân trên mặt những tấm đá xanh, dấu chân của chồng cô...

    Vào năm thứ hai, sau khi bè lũ “bốn tên” bị hạ bệ, đại đội bộ, rồi ủy ban cách mạng thị trấn và cả đồn công an nữa đã có người bảo cô:

    - Hồ Ngọc Âm ạ, cô không phải đi quét đường nữa...

    Nhưng sớm sớm hàng ngày cô vẫn cứ đi quét đường, cô sợ rằng, sau này vẫn còn có biến, khi ấy người ta sẽ đổ tội cho cô là chống đối, hai nữa hình như cô đã quen thế rồi, hình như cô muốn cô chấp nói với bà con hàng phố rằng: cần quét, cần quét, cần quét cho đến khi nào chồng tôi trở về, cho đến khi nào anh Thư Điền của tôi trở về! Một người đàn bà hiền dịu, một người đàn bà trầm mặc lặng lẽ không nói, và trong cái thế giới nội tâm ấy, là cả một kho tàng cực lớn trong những tình cảm yêu đương.

    Mùa xuân năm nay - mùa xuân của năm 1979, ủy ban cách mạng thị trấn cho người đến tìm cô, và lại do chính những con người ngày xưa đã đấu tố điêu cô, đã quy thành phần phú nông sai cho cô, bảo cô rằng: Đã quy sai thành phần của cô, đã quá đáng với cô, nay minh oan cho cô, khôi phục lại thành phần tiểu chủ của cô, quyền tư hữu nhà cửa sản nghiệp sẽ được trả, nhưng nay thị trấn vẫn còn tạm mượn lại. Cô kinh hoàng, hai tay ôm lấy mặt, không thể tin nổi, không thể tin được, không thể như thế, không thể như thế được! Thế là nằm mê giữa ban ngày... Nước mắt chảy ròng ròng qua kẽ tay cô, nhưng cô vẫn không khóc được thành tiếng. Cô không dám rời đôi tay khỏi mặt, cô sợ khi buông tay ra nhìn, sẽ đúng là cô đang mơ thật! Không thể như thế, không thể như thế được. Cô đã bị là phú nông mười bốn, mười lăm năm nay rồi, cô đã bị không biết bao nhiêu lần đấu tố, không biết bao lần quỳ mọp gối, mà lại sai được sao? Người ta trắng trợn nói với cô: Làm sai rồi! Họ là những người thích đùa, những người trước kia đã gạt cô sang thành phần phú nông, nay lại vẫn những con người ấy tuyên bố rằng đã gạt sai. Những con người mỏng môi nỏ miệng ấy, gì cũng nói được hết, gì cũng làm được hết. Họ không bao giờ sai cả. Ai sai? Và sai ở đâu? Cho nên Ngọc Âm chẳng bao giờ đi tin vào những lời như thế. Đúng là cô đang nằm mơ.

    Cho đến khi những người ở ủy ban cách mạng thị trấn, đem giấy tò công văn ra cho cô xem, chìa cả dấu son đỏ chói, to lù lù của đồn công an cho cô thấy, cô mới dám tin, điều đó là thật. Trời ơi, trời đất ơi, chỉ một suýt nữa là cô đã ngất đi. Người cô lảo đảo, nhưng không ngã sụp xuống. Cô đã chai sạn đi trong những năm tháng bị đấu tố. Nhưng rồi đột nhiên mặt cô đỏ lựng lên, đôi mắt lồi ra, xòe rộng đôi tay, rồi cô thét lên, (tiếng thét to đến mức chính bản thân cô cũng phải lấy làm kinh ngạc):

    - Trước hết, đừng có vội trả lại nhà cửa, đừng có vội trả lại tiền nong, mà ngay bây giờ, các người hãy trả chồng tôi lại cho tôi, trả chồng tôi cho tôi, tôi đòi chồng, đòi chồng!

    Mấy người cán bộ của ủy ban cách mạng thị trấn, kinh hoàng đứng dựng cả lên, họ cứ tưởng rằng, người đàn bà đã bao nhiêu năm, đến ngay vo ve như tiếng muỗi kêu cũng không dám thốt ra, nay đòi họ phải trả lại người chồng Lê Quế Quế đã tự sát từ năm 1964! Sắc mặt của mọi người bệch bạc cả ra, có người còn cuống quýt: Đấy xem cái người đàn bà này, vừa mới bỏ mũ cho thị, vừa mới thực hiện chính sách sửa sai cho thị, thị không cúi đầu, không cảm ơn thì chớ, thị lại còn gào thét láo lếu ở đây.

    Hồ Ngọc Âm cứ giữ nguyên đôi cánh tay đã chìa ra của mình, giọng cô cũng đã thấp xuống, nói tiếp:

    - Hãy trả lại chồng tôi, chồng tôi bị các người bắt bỏ tù, bỏ tù mươi năm, còn một năm nữa mới hết hạn, anh ấy không có tội, không có tội, các người biết không?...

    Những người của ủy ban cách mạng thị trấn lúc ấy mới thở phào nhẹ nhõm, vội vã cười cười bảo cô:

    - Tần Thư Điền cũng được sửa sai, minh oan, được bỏ mũ. Cái phái hữu của anh ấy cũng bị quy sai, nên còn phải phục hồi cả công tác cho anh ấy nữa. Đài phát thanh của tỉnh, tối hôm qua, đã cho phát “sàn hát mừng” của anh ấy rồi.

    - Ha ha ha! Thế là sai tuốt! Sai cả đám! Anh Tần Thư Điền cũng bị quy sai! Ha ha ha! Trời đất ơi, trời đất ơi! Thế là xã hội mới đã trở lại rồi! Đảng cộng sản đã trở lại rồi! Ha ha ha! Thế là xã hội mới không bị biến mất hút, ấy là tôi nói chính sách của cái xã hội ấy đã trở lại rồi.

    Hơn bốn chục tuổi đầu cô chưa bao giờ lại dám cười thoải mái, thỏa thuê như thế trên con phố lát đá xanh, và cũng chưa bao giờ làm ầm ĩ như thế, điên dại như thế ở chỗ phố phường. Cô hoa chân múa tay, đầu óc rũ rượi. Bà con hàng phố tưởng rằng cô phát điên, ôi con người đáng buồn và cũng thật đáng thương ấy. Cho tận đến khi bé Quân Quân chạy đến kéo cô, giật cô, cô mới ôm thằng bé lên, đi vòng quanh phố mấy lượt, cô hôn tới tấp vào mặt nó, rồi cô mới bước những bước đĩnh đạc trở về nhà trọ Hồ Ký cũ.

    Về đến nhà, Hồ Ngọc Âm ngã vật ra giường khóc, cô khóc thật to. Khóc gì nhỉ? Khi đau thương, tuyệt vọng, khóc, khi có được niềm vui từ trên trời rơi xuống cũng khóc. Con người đúng là một quái vật vậy. Khóc! Do ông thần ông thánh nào tạo ra vậy? Cần phải tặng giải thưởng lớn cho các nhà sinh lý học: Cốc vàng tình cảm. Nếu không, buồn sâu, vui lớn sẽ không có chỗ phát tiết ra, con người ta sẽ bị ứ máu trong lục phủ ngũ tạng mất.

    Sáng sớm hôm sau, Hồ Ngọc Âm vẫn đi quét rác trên mặt phố lát đá xanh như cũ. Trước đây, cô âm thầm, lặng lẽ quét, bây giờ cô sung sướng được đi quét phố. Cô thật là ngờ nghệch quá, sửa sai rồi mà vẫn đi quét phố, không quét cô sẽ ngứa tay ngứa chân chăng? Đâu phải vậy! Là một người đàn bà cô có cách nghĩ của người đàn bà, cô cần phải cảm ơn bà con phố phường, trong bao nhiêu năm nay, mọi người đã đối xử tử tế với cô, nhờ giời, vì thế mà họ không dầy đạp cô vào chỗ chết. Hồ Ngọc Âm chẳng thù ghét gì bà con. Bao nhiêu năm nay, sớm sớm Hồ Ngọc Âm trở dậy đi quét phố, có thế bà con mới biết rằng con đàn bà đen vẫn sống, con mẹ phú nông mới vẫn còn, bây giờ được mở mày mở mặt ra rồi, thì vẫn đi quét phố được. Quét phố có gì là xấu? Có gì là hèn kém nào? Chỉ những con người đi ăn mày, xin cứu tế, xin trợ cấp trong xã hội mới, mói là hèn là xấu. Nghe nói ở Bắc Kinh, ở Thượng Hải, những người đi quét đường quét phố gọi là công nhân vệ sinh, có người còn được bầu vào quốc hội, được biểu dương, được in ảnh trên báo chí nữa kia.

    Thực ra, việc Hồ Ngọc Âm sáng dậy sớm quét phố, còn có một bí mật trong lòng cô. Cô biết rằng, anh Thư Điền đi cải tạo lao động tận hồ Động Đình, nơi ngàn dặm xa xôi, sau khi nhận được thông báo minh oan sửa sai, chắc chắn anh sẽ đi ngày đi đêm để trở về, anh sẽ muốn mọc cánh để bay về nhà. Đứa bé cốt nhục con anh, anh còn chưa được trông thấy mặt lấy một lần, và người vợ cách biệt một mạch chín năm có già đi không? Hồ Ngọc Âm biết rằng, lòng anh Thư Điền cũng tan nát, và nóng như lửa đốt, anh không đi ngày đi đêm mà về được không? Ngọc Âm suốt đêm nọ sang đêm kia trằn trọc không ngủ được. Bé Quân Quân ngược lại cứ ngủ như con tằm, mặc cho Ngọc Âm ôm nó, hôn hít nó, nó vẫn chẳng tỉnh. Vậy mà hết đêm này sang đêm khác vẫn chẳng nghe thấy tiếng chân bước, tiếng gõ cửa. Không thấy anh Thư Điền trở về, cô cứ bồi hồi dự đoán: Anh Thư Điền có thể sẽ về đến nhà vào sáng sớm! Nghe người ta bảo, những chuyến xe khách từ châu về huyện mãi tận chiều mới về tới. Từ huyện về thị trấn còn những sáu chục dặm đường, anh Thư Điền chắc chắn sẽ chẳng ngủ đêm lại ở huyện làm gì, anh sẽ đi bộ suốt đêm theo đường cái mà về! Đúng vậy, anh sẽ đi bộ suốt đêm mà về... Quét xong cả dãy phố, trời cũng đã sáng bạch ra rồi. Ngọc Âm cũng thất vọng, cô bỗng oán trách trong lòng: Chồng ơi là chồng làm sao mà lại ngờ nghệch vô tâm đến thế? Anh có chưa kịp làm thủ tục, chưa thoát được cái thân ra, thì cũng phải gửi một phong thư về chứ, hoặc đánh một bức điện báo về chứ. Cứ để cho người ta đêm đêm trông ngóng, sớm sớm mong chờ, thật vô tâm vô tính. Cứ để cho người ta dài cổ mà chờ mà đợi. Hay là khi anh về đến huyện, anh lại đi làm thủ tục phục hồi công tác trước? Chao ôi, bụng dạ đàn ông, còn cao hơn giời, lớn hơn giời. Hồ Ngọc Âm chẳng thích anh đi làm cái công tác quỷ quái ấy làm gì đâu, rồi lại mang tai mang họa vào người. Anh cứ ở ngay bên cạnh cái con Ngọc Âm này này, rồi trông con, trồng lấy cái đất phần trăm, nuôi lợn nuôi gà nuôi vịt, làm công điểm tập thể, rồi trang trí hoa văn cho cái nhà mình, phối một khúc ca, làm cho ngày tháng như nước chảy vui vầy.

    Trong những tháng năm bị cuộc sống dày vò, đã làm cho Hồ Ngọc Âm luôn luôn ưu tư, lo lắng. Kể từ ngày cô được minh oan, được sửa sai, bỏ mũ, cô vẫn sợ có biến, sợ ngươi ta đột nhiên lại gào lên: “Đả đảo con mẹ phú nông mới!” Cô sợ dân bỗng nhiên lại đeo tấm bảng đen vào cổ cô, lôi cô đi đấu tố, bắt quỳ... Cô luôn giật mình sợ hãi, như một kẻ tâm thần. Cô thiết tha mong anh Thư Điền trở về, trở về sống cùng cô những ngày yên lành. Dù là hai ngày, ba ngày, hoặc dăm bữa nửa tháng, giống như vợ chồng nhà người ta, thẳng cái lưng, vai sánh vai đi phố, cười cười nói nói, bước vào cửa hàng mậu dịch, mua mua bán bán. Anh Thư Điền ơi anh hãy mau mau trở về đi, làm sao anh vẫn chưa về? Biết đâu rằng, rồi vào một ngày nào đó, em lại phải đội cái mũ của con mẹ phú nông mới lên đầu, và anh lại là phần tử phái hữu, rồi mới được gặp mặt nhau, thì tấm thân do tám chữ cúc dục, cù lao... sinh thành nuôi dưỡng kia, có khóc cũng không còn khóc được nữa đâu...

    Sáng sớm hôm sau trời có mây mù, đọng sương, lạnh lẽo. Hồ Ngọc Âm lại đi quét đường. Đêm qua cô vẫn không ngủ được. Cô chẳng còn một chút hứng thú nào và kéo lê đôi chân mệt mỏi trên đường. Mong chồng, đã đến mỏi mòn con mắt, đã thất vọng hết tối lại hết sáng. Đêm nào cô cũng khóc, ngày cũng phải thay khăn phủ gối. Chồng cô không trở về, việc minh oan sửa sai đối với cô cũng bằng thừa! Tất cả những cái đó chẳng có ý nghĩa gì hết, chẳng làm được gì hết! Cô rất muốn chạy thẳng tới ủy ban cách mạng thị trấn làm ầm ĩ lên: Tại sao anh Thư Điền của tôi vẫn chưa trở về? Chính sách sai gì mà lại sửa kiểu ấy? Tại sao các người còn chưa tha cho anh ấy về?... Tiếng chổi tre quét trên mặt những tấm đá xanh vang lên những tiếng sạt sạt, sạt sạt, từng nhát từng nhát, cô quét tới chỗ góc bức tường vây của hợp tác xã cung tiêu. Cô dựa vào bức tường nghỉ tay một lát. Bất giác cô ghé người nhìn vào cái cửa ngách trong ngõ hẻm, nơi mà ngày xưa Vương Thu Xá đã bị ngã gãy chân. Bây giờ cái cửa ngách đã được lấy gạch xây bịt kín lại, chỉ còn lại cái dấu khung cửa. Thôi, kệ xác nó, kệ xác những chuyện xưa cũ ấy, còn đi nghĩ về nó làm gì... Cô quay người lại, cầm chổi, bỗng nhiên từ xa có bóng một dáng người, tay xách hành lý hay cái gì đó, vội vội vàng vàng bước về phía cô. Có thể đó là người khách cần đi cho kịp chuyến ô tô sớm. Ơ kìa, cái người khách này, không chịu hỏi, nên đã đi nhầm đường mất rồi. Bến xe ở tận đầu đằng kia cơ mà, cần phải đi ngược lại mới đúng chứ... Tiếng chổi tre vẫn quẹt trên mặt những tấm đá xanh vang lên những tiếng sạt sạt, sạt sạt...

    - Ngọc Âm? Ngọc Âm! Ngọc Âm!

    Ai đang gọi thế nhỉ? Sớm thế mà đã réo tên mình? Mắt Hồ Ngọc Âm hoa lên, mắt cô như mờ mịt đi, một người đàn ông cao cao gầy gầy đứng ngay trước mặt cô, râu ria xồm xoàm, mặc một chiếc áo mới, một chiếc quần mới, đặt chiếc túi xách xuống chân mình. Người đàn ông ấy ngơ ngơ ngác ngác, đứng đó như một khúc gỗ... Hồ Ngọc Âm giật mình bước lùi lại một bước.

    - Ngọc Âm! Ngọc Âm! Ngọc... Âm...!

    Giọng người đàn ông mỗi lúc một to hơn, dang rộng hai cánh tay như muốn chồm về phía cô. Mắt Hồ Ngọc Âm càng như mờ mịt hơn, sao mà bực thế? Làm sao mà mặt đối mặt rồi mà vẫn nhìn chẳng được rõ ràng, chẳng nhận ra được người đó là ai? Lòng cô mụ mị, thật đáng chết, lòng dạ mụ mị đi! Người đàn ông ấy phải chăng là anh Thư Điền? Mình lại đang nằm mơ hay sao đây? Anh Thư Điền, anh Thư Điền, phải chăng đấy là anh Thư Điền ngày đợi đêm mong của em? Không phải, không phải đâu, làm sao lại có thể đột ngột đến như vậy được, dễ dàng đến như vậy được? Người cô run lên bần bật, môi cô cũng giật giật, tim cô như thót lên tận cổ, ngực cô như tắc thở. Cuối cùng cô đã bật ra một tiếng kêu như vỡ họng:

    - Anh... Thư... Điền...

    Với đôi tay vạm vỡ, chắc nịch, Tần Thư Điền ôm chầm lấy vợ mình, xiết chặt, xiết chặt làm cho đôi chân của Hồ Ngọc Âm bốc lên khỏi mặt đất. cả thân mình Hồ Ngọc Âm mềm nhũn như một sợi mây. Cô nhắm mắt, khuôn mặt cô bạc trắng ra giống như một pho tượng được tạc bằng đá bạch ngọc. Cô mặc cho chồng cô ôm cô thật chặt, mặc cho râu ria của chồng đâm vào mặt cô đến bỏng rát lên. Cô chỉ có một ý nghĩ duy nhất, chồng cô đã về, không phải nằm mơ, đúng là đã về thật rồi. Nếu là nằm mơ xin hãy cho mơ dài một chút, đừng có bị đánh thức dậy ngay lập tức...

    Chiếc chổi tre nằm đổ dài trên mặt những tấm đá xanh lát phố. Tần Thư Điền bế cô vào ngồi lại trên bậc thềm của hợp tác xã cung tiêu, giống như bế một đứa em gái trong lòng. Đến lúc này Hồ Ngọc Âm mói òa lên khóc:

    - Anh Thư Điền! Anh Thư Điền! Anh... anh...

    - Ngọc Âm! Ngọc Âm! Đừng khóc! Nín đi! Nín đi!

    - Anh về mà chẳng viết cái thư về!... Em đợi sớm đợi tối... Em biết rằng anh sẽ đi ngày đi đêm mà về!

    - Anh còn nghĩ gì đến chuyện viết thư nữa? Nghĩ gì đến chuyện viết thư nữa chứ? Đi tàu thủy, đi tàu hỏa, xuống tàu hỏa một cái là anh nhảy tót ngay lên ô tô, xuống ô tô là cuốc bộ ngay trong đêm, vậy mà vẫn giận mình sao không mọc được cánh mà bay... nhưng mà còn nhanh hơn cả mọc cánh nữa, hơn một ngàn dặm đường, tất cả chỉ mất có ba ngày! Ngọc Âm em không mừng sao, sao vẫn chẳng thấy em mừng?

    - Anh Thư Điền! Vì anh mà em còn sống đấy!

    - Anh cũng thế! Anh cũng thế! Nếu không, anh đã đâm đầu xuống hồ Động Đình từ lâu rồi!

    Hồ Ngọc Âm ngừng khóc, cô choàng cả hai tay lên cổ Tần Thư Điền, tới tấp hôn, và hôn lên mặt anh.

    - Trời ơi! Hồ Ngọc Âm! Râu anh tua tủa ra thế này, đúng là không kịp cả cạo nữa!

    - Anh là một người đàn ông, làm sao mà hiểu được nỗi lòng của một người đàn bà!

    - Nỗi lòng em anh hiểu được.

    - Mỗi sáng sớm đi quét phố, em đều gọi tên anh, đều trò chuyện với anh, anh hiểu không?

    - Hiểu, hiểu. Anh mỗi ngày dậy sớm, đi cắt cỏ hồ, đi gánh bùn hồ, bao giờ cũng đáp lời em, anh vừa hỏi vừa đáp. Anh biết rằng, em đang đi quét đường, mỗi sáng sớm anh biết em bắt đầu quét từ đâu, quét đến đâu thì em nghỉ. Anh nghe thấy tiếng chổi tre quét lê trên mặt những tấm đá xanh sàn sạt, sàn sạt...

    - Anh ôm em đi! Ôm em đi! Ôm chặt vào! Em lạnh.

    Hồ Ngọc Âm dụi dụi đầu trong ngực Tần Thư Điền, cô chỉ sợ bất chợt anh buông đôi tay ra, và bất chợt mọi thứ biến mất như một cái bóng.

    - Ngọc Âm, Ngọc Âm, em yêu quý của anh... Người vợ khốn khổ của anh...

    Lúc ấy, Tần Thư Điền lại bật khóc, nước mắt ròng ròng:

    - Vì anh, mà em phải chịu bao nhiêu khổ cực, chịu bao nhiêu điều tội nợ... Đời này, kiếp này anh chẳng trả xong món nợ cho em đâu, không trả được cho em đâu. Bao nhiêu năm nay, anh chỉ có tâm niệm một điều rằng, trông mong một điều rằng, làm sao về được bên em, nhìn em được một lần, thế là thỏa nguyện lắm rồi... Vậy mà, chẳng thể ngờ được rằng, ông giời có mắt, anh và em lại có ngày còn được làm người...

    Lúc này Hồ Ngọc Âm không còn khóc nữa, một tình cảm yêu thương như của một người mẹ, bất chợt bùng dậy trong con người cô. Cô xoa xoa mái tóc rối bù của Tần Thư Điền, an ủi anh:

    - Anh Thư Điền, anh có thấy em còn khóc nữa đâu, sao anh lại khóc? “Tim chàng nằm giữa tim em”. Em còn nhớ rằng, trước kia mẹ em đã bảo em, một người, được người khác yêu thương, nghĩ tới, thì dù có bị tai họa, khổ cực đến đâu, cũng vẫn được bình an vô sự... Bao nhiêu năm nay, lòng em luôn luôn nghĩ như thế, yêu thương như thế, cho nên hôm nay anh với em mới được bình an vô sự gặp nhau! Thôi hãy đứng dậy thôi anh, ngồi mãi trước thềm hợp tác xã cung tiêu thế này, bà con hàng phố dậy sớm, sẽ trông thấy mất, rồi người ta cười cho mà xem!

    Tần Thư Điền lại khóc, cả hai người cùng đứng dậy, như một đôi tình nhân trẻ tuổi quá say mê nhau, tựa vào nhau, đi về nhà trọ Hồ Ký cũ.

    - Bé Quân tròn tám tuổi rồi, phải không? Liệu nó có chịu gọi anh là bố không nhỉ?

    - Em đã cho nó biết từ lâu rồi. Ngày nào nó cũng hỏi, bố bao giờ về, nó mong anh lắm đấy... Này em nói trước, nếu anh chỉ biết có nó, quăng em sang một bên... là em không có chịu đâu...

    - Vớ vẩn, em chỉ toàn nói vớ vẩn, toàn những câu vớ vẩn!
     
    vinhhoa thích bài này.
  14. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    Ebook đã hoàn thành. Mời các bạn xem tại đây:
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     
    amylee thích bài này.
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này