Hoàn thành Thuyền trưởng và đại úy - V. Ca-vê-rin

Thảo luận trong 'Wiki' bắt đầu bởi hanhdb, 21/5/15.

  1. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 4

    Có những chuyện xảy ra làm tôi phải suy nghĩ

    Mùa hè chúng tôi sống ở Rừng thông bạc, trong một ngôi nhà cổ kính bỏ không có những cầu thang hẹp. Trần nhà bằng gỗ chạm trổ. Những đoạn hành lang bị cắt ngang đột ngột giữa chừng. Trong nhà này chỗ nào cũng phát ra tiếng kêu cót két: cửa lớn ken két một kiểu, cửa sổ cọt kẹt kiểu khác. Có một căn buồng lớn bị đóng ván chặn cửa rất chặc. Nhưng ngay trong căn phòng này cũng luôn luôn có tiếng sột soạt, cọt kẹt có khi bỗng nhiên lại có tiếng rè rè nhịp nhàng như có chiếc búa con bằng đồng hồ gõ trượt qua cái chuông trong chiếc đồng hồ quả lắc. Trên gác xép đã mọc nấm lên ngổn ngang những cuốn sách nước ngoài mất bìa, nhiều trang rách tung.

    Hồi trước cách mạng, ngôi nhà này thuộc về một bá tước phu nhân đã già người di-gan. Bá tuớc phu nhân lại là người di-gan! Thật là ly kỳ! Nghe đồn rằng trước khi chết bà ta đã chôn giấu của. Thằng Rô-ma-sca đi tìm kho của này suốt cả mùa hè. Thân hình nó ốm yếu, cái đầu to kếch sù. Nó cầm cái gậy đi khắp các phòng vừa gõ vừa nghe. Ban đêm nó cũng đi gõ cho đến khi có ai trong bọn học sinh lớn đến nện cho nó một cái mới thôi. Mới mười ba tuổi nó đã quyết chí làm giàu. Cứ mỗi lần nói đến chuyện tiền tài là cái tai xám ngoét của nó lại đỏ bừng lên. Thật đúng là một kẻ đi tìm của bẩm sinh, vừa tham lam vừa mê tín.

    Chung quanh ngôi nhà hóng mát đã bị sụp đổ mọc chi chít những bụi đinh hương tím. Có những bức tượng đặt dọc những con đường cây xanh. Những bức tượng này không giống các tượng thần Ну-lạp. Những tượng thần Hy-lạp nom lạnh lùng với những cặp mắt trắng dại. Còn tượng ở đây giống như những con người bình thường.

    Có một bức tượng mặt để ria mép giống như thầy Cô-ra-bơ-li- ốp, còn một tượng khác là một cô gái bình thường trạc mười tuổi. Cô ta mặc chiếc áo ngủ dài đến gót chân đang vươn vai và lấy cùi tay dụi mắt như vừa ngủ dậy.

    Tôi cũng bắt chước nặn cô ta; song chẳng ra cái gì cả. Chỉ được hai vòng tóc tết và những vòng tóc trước trán như mớ tóc của Ca-tê-ri-na I-va-nốp-na, cô gái có cái mũi hếch lên kiêu kỳ. Có lẽ cái mũi cũng rất giống mũi cô ta. Nhưng dù sao thì nặn người cũng không dễ như nặn cóc và nặn thỏ.

    Chỉ có lúc đầu hè khi chúng tôi vừa mới đến rừng thông bạc là cuộc sống được tốt đẹp như thế. Sau đó thì kém đi, hầu như chúng tôi không được cung cấp lương thực nữa. Tất cả trại trẻ chuyển sang “tự cấp tự túc”. Chúng tôi mò tôm, bắt cá, khi nào có cuộc vui thì ra sân vận động bán hoa đinh hương, vớ được cái gì thì tha cái ấy về ăn. Tối đến chúng tôi thường đốt lửa ở ngoài vườn hoa rồi đem nướng những thứ ban ngày kiếm được.

    Đại khái một buổi tối như thế này; mà tối nào thì cũng như tối nào cả.

    Chúng tôi ngồi quanh đống lửa, đứa nào cũng mệt mỏi và cáu kỉnh. Cái cà mèn, các trạc gỗ để treo cà mèn cũng như chân tay mặt mũi chúng tôi đều đen nhẻm vì khói. Như những người da đỏ đang sắp ăn thịt viên thuyền trưởng Cúc(1), chúng tôi lặng lẽ nhìn vào ngọn lửa. Những mẩu than hồng bỗng bùng lên rồi vụn ra, một đám khói đỏ sẫm như một cái mũ xoay tròn úp lên đống lửa.

    Chúng tôi là một “công xã”. Tất cả trại trẻ chia ra làm mấy “công xã”. Đơn thương độc mã thì khó lòng mà “tự cấp”. Mỗi “công xã” có một chủ tịch của mình, một đống lửa riêng và lương thực dự trữ riêng - những thứ vì một lý do nào đó hôm nay chưa ăn thì để lại hôm sau.

    Chủ tịch của chúng tôi là Xtép-ca I-va-nốp mười lăm tuổi, mặt mày nhẵn nhụi, một thằng tham lam đểu cáng mà ai cũng sợ...

    - Chơi đáo không? - Xtê-pa uể oải nói.

    Mọi người im lặng. Chẳng ai muốn đánh đáo cả. Thằng Xtê- pa no nê rồi nên mới muốn chơi,

    - Thôi được, Xtê-pa. Nhưng tối rồi còn gi nữa, - thằng Rô-ma- sca nói.

    - Mày biết ở đâu tối nào? Đứng lên!

    Chủ tịch “công xã” của chúng tôi thích chơi đáo nhất trên đời. Ai cũng biết là nó đánh đáo bịp.

    Nhưng trừ tôi và Van-ca ra còn tất cả, đặc biệt là thằng Rô- ma-sca, đều nịnh nó. Thằng Rô-ma-sca còn cố tình thua nó để cho nó khỏi giận.

    (1)Cúc (1728 -1779) nhà hàng hải người Anh đã hoàn thành ba chuyến đi vòng quanh trái đất bằng đường biển. - N.D.

    Không nên nghĩ rằng chúng tôi nướng những con chim ngon lành gì trên đống lửa của chúng tôi đâu. Trong cái cà mèn mà phải nện nhau mới giành được ở nhà bếp ra, chỉ có một ít xúp. Đây là thứ xúp nấu với “những que xúc xích” chính cống у như trong câu chuyện cổ tích hồi mùa đông bà Xê-ra-phi-ma Pê-trôp- na đã đọc cho chúng tôi nghe. Có khác chăng là ở chỗ món xúp ở trong truyện thì nấu bằng đuôi chuột, xúp của chúng tôi thì vớ được cái gì nấu cái ấy - nhiều khi có cả đùi nhái.

    Thế rồi bỗng cánh cửa nhà chúng tôi mở ra một người béo lùn, đội mũ rộng vành bước ra ngoài hiên.

    - Bác Pê-chi-a, vào đây với chúng cháu!

    - Vào đây, bác Pê-chi-a!

    Đó là bác nấu bếp của chúng tôi. Bác tên là Pi-ốt An-đrê-ê- vích Lô-pu-khốp. Bác bước đi lảo đảo - không phải vì uống nước lã - ư ử giọng mũi một đoạn trích trong nhạc kịch, bác đi một lượt qua các “công xã”. Đến cái nồi nào bác cũng nếm thử rồi nhổ toẹt và nói với vẻ ghê tởm:

    - A, bả độc đây.

    Bác là người yêu âm nhạc và ca hát, thuộc lòng tất cả mọi vở nhạc kịch. Đối với bác thì không có gì khoái hơn là bắt chước diễn lại một cảnh trong vở “Ép-ghi-nê Ô-nê-ghin” hay là vở “Con đầm Pich” còn đối với chúng tôi thì không có gì khoái hơn là nghe bác hát và tỏ lòng khâm phục bác.

    - Tuyệt! Chẳng kém gì Sa-li-a-pin cả! Bác Pê-chi-a sao bác không đi làm diễn viên?

    - Tao sợ.

    - Sợ cái gì hả bác Pê-chi-a?

    - Sợ sa chân.

    Bác dừng lại bên đống lửa của chúng tôi, nếm thử, nhổ toẹt rồi kể chuyện thao thao bất tuyệt. Bác kể rằng ngày xửa ngày xưa cách đây khoảng một trăm năm, thậm chí đến hai trăm năm trước loài người ăn uống thế nào. Bác không những chỉ mê âm nhạc, mà bác còn là một nhà sử học, là một người sành sỏi các món ăn cổ, những món sốt thỏ và thịt thăn hươu.

    - Món trứng ngự, - bác thì thào nói. - Lấy lòng đỏ mười tám quả trứng, trộn với bánh bích qui rồi thêm vào hạnh nhân cay, kem sữa, đường trắng rồi lấy dầu rán lên. Đã được ăn chưa?

    Chúng tôi đồng thanh đáp:

    - Chưa ăn đâu!

    - Ố ồ! Thế món táo đường nướng? Lấy quả táo đem gọt vỏ đi, moi hạt ra, nhét nho khô vào, đắp lên một lượt váng sữa, đặt lên bếp lò nướng rồi sau đó tẩm mật ong. Đã được ăn chưa?

    - Chưa ạ!

    - Ố ồ!

    Nhưng trong tất cả các món thì bản thân ông bếp của chúng tôi lại chỉ thích nhất có một món gọi là “uống vốt-ca”. Bác là người phụ trách duy nhất của chúng tôi trong mùa hè 1921. Bà Xê-ra-phi-ma Pê-trốp-na bị rối trí và cũng chẳng có ai chú ý đến bà ta cả. Trong trại trẻ cũng còn một vài cô trông trẻ nữa. Các cô này rất xung khắc với bác bếp, không hiểu tại sao bác bếp phát lương khô cho chúng tôi lại không có lợi cho các cô ấy. Nóí tóm lại là nếu không có bác bếp này thì chúng tôi đã bỏ đi mỗi đứa một nơi rồi.

    Thế là bác đứng bên đống lửa của chúng tôi và kể chuyện người thời xưa ăn uống thế nào. Đôi khi bác tự cắt ngay câu chuyện để chen vào vài lời giải thích về mặt у tế.

    - Không phải là ai ăn cá măng cũng bổ cả đâu. Nó làm dạ dày khó tiêu.

    Hay là:

    - Cá chép làm máu đặc lại. Loại cá này khỏe.

    Bác đã nhấc cái cà mèn của chúng tôi ra rồi ngửi cái hơi bốc lên. Có khi ngửi xong bác không nói “bả độc”mà lại nói là “mả người chết” rồi hắt nồi xúp của chúng tôi vào bụi cây. Lần này bác sẽ nói gì? Bác ngửi rồi ngước mắt nhìn lên trời, im lặng...

    - Bả độc!

    Bảy cái đầu cùng cúi xuống cái cà mèn. Bảy cái thìa lần lượt sục vào cà mèn xúp. Chúng tôi ăn.

    Với kiểu ăn uống như vậy thì sang đến mùa thu làm sao mà chúng tôi khỏe ra được. Trừ thằng Xtê-pa I-va-nôp giống như con đà điểu, ăn bất cứ cái gì cũng có thể tiêu hóa được, tất cả chúng tôi đều gày đi, đau ốm và cảm thấy người rất yếu.

    Dù sao thì đó cũng là một mùa hè tốt đẹp. Suốt đời tôi sẽ không bao giờ quên được, hoàn toàn không phải vì người ta cho chúng tôi ăn uống tồi quá. Tôi đã quá quen với chuyện đó rồi, cho đến lúc ấy tôi đã được ăn ngon bao giờ đâu. Không phải, tôi nhớ mãi mùa hè ấy vì một nguyên nhân khác. Đó là lần đầu tiên tôi thấy mình đáng được tôn trọng.

    Sự kiện đó xảy ra vào cuối tháng tám, chỉ ít lâu trước khi chúng tôi trở về thành phố , cũng đúng vào lúc chúng tôi nấu bữa ăn chiều bên đống lửa. Bỗng nhiên Xtê-ра tuyên bố một cách ăn mới. Trước đó chúng tôi ăn theo thứ tự mỗi người múc một thìa. Xtê-pa là chủ tịch cho nên bắt đầu từ hắn rồi đến Rô*ma-sca vân vân. Nhưng bây giờ tất cả cùng xô vào ăn ngay từ lúc xúp còn nóng, mạnh đứa nào đứa ấy ăn.

    Chẳng ai thích cái trật tự mới này cả. Còn phải nói! Chơi với cái vị chủ tịch này thì chỉ có chết đói. Nó chỉ cần húp ba lần là hết sạch cà mèn xúp.

    - Thế không được! - Van-ca kiên quyết nói.

    Chúng tôi nhao nhao lên tán thành. Xtê-pa chậm rãi đứng dậy, phủi đầu gối rồi đấm thẳng vào mặt Van-ca. Nó đấm mạnh đến nỗi máu chẩy ra đầy mặt và chắc là bắn cả vào mắt nên Van-ca quờ quạng hai tay như người mù.

    - Nào, - Xtê-pa uể oải nói, - thằng nào muốn ăn đòn nữa!

    Tôi là người bé nhất trong “công xã”, và tất nhiên là nó chỉ dùng một tay cũng đánh gục được tôi, nhưng thế mà tôi đã đánh thằng Xtê-pa. Xtê-pa bỗng lảo đảo và ngã ngồi xuống. Tôi không biết đã đánh trúng vào chỗ nào, chỉ thấy nó cứ đờ mặt ra, ngồi thừ người trên mặt đất. Tất nhiên là nó tỉnh táo lại ngay và nhào vào người tôi, nhưng lúc này các bạn đã không để cho tôi bị bắt nạt. Xtê-pa bị nện nhừ tử. Trong lúc nó còn nằm rống lên bên đống lửa, chúng tôi vội bầu ngay một chủ tịch mới. Đó là tôi. Đương nhiên là thằng Xtê-pa không bầu. Nhưng có tham gia vào thì nó cũng chỉ là thiểu số, bởi vì mọi người đều nhất trí bầu tôi.

    Tôi có thể nói trước ở đây rằng, tôi là một chủ tịch không tồi. Lúc đã qua thời kỳ đói khát, sang mùa đông chúng tôi được gia nhập Đội Thiếu niên Tiền phong, cái “công xã” của chúng tôi trở thành một phân đội khá nhất toàn trường. Phân đội “Sa-pa-ép” dũng cảm đầu tiên.

    Kỳ lạ biết bao. Cuộc đấm nhau ấy lại trở thành hoạt động xã hội đầu tiên của tôi. Tôi nghe thấy các bạn bàn tán về tôi: “Yếu nhưng dũng cảm!” A ha, tôi là người dũng cảm! Mà nói chung, tôi là một người như thế nào? Thế là có những chuyện để suy nghĩ.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 30/5/15
  2. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 5

    Trong tuyết có muối không?

    Năm ấy trường chúng tôi chẳng có gì thay đổi cả. Học sinh cũ của trường Li-a-đốp và trường Pe-xtốp vẫn cãi nhau như trước. Nồi cháo vẫn được ủ kín như một bà già ở trên cái xe trượt tuyết để chở đến như trước. Hàng ngày cứ đến mười giờ sáng là thầy Cô-ra-bơ-li-ốp lại có mặt ở trường như mọi khi.

    Ông ta vẫn mặc chiếc áo bành tô mùa thu rất dài, đầu đội cái mũ rộng vành, vào đến trường ông còn đứng trước tấm gương ung dung chải bộ ria rồi mới đi vào lớp.

    Ông ấy chẳng hỏi một ai, cũng chẳng cho bài về nhà làm. Ông chỉ kể chuyện hoặc đọc bài giảng. Thì ra ông là một nhà du lịch đã từng đi khắp thế giói. Ở Ấn-độ ông đã được thấy những pháp sư có ảo thuật. Người ta chôn họ xuống dưới đất đúng một năm trời, thế mà sau đó chui ra vẫn sống như thường, ở Trung Quốc ông ấy được ăn một món ăn rất tuyệt là món trứng muối, ở Ba-tư chính mắt ông đã được xem ngày lễ sáp huyết của đạo Hồi giáo.

    Mấy năm sau tôi mới được biết là ông ấy chưa đi đâu ra ngoài nước Nga cả. Mọi chuyện đều do ông bịa ra, song cũng rất thú vị.

    Mặc dù có nhiều người hiện nay vẫn cho rằng ông ngốc nghếch, nhưng không thể nói rằng ông không biết tí gì...

    Thầy hiệu trưởng Ni-cô-lai An-tô-nứt của chúng tôi vẫn là nhân vật số Một của Trường số Bốn như trước. Ông giải quyết mọi việc, can thiệp vào mọi thứ và tham dự tất cả những cuộc họp của chúng tôi. Những học sinh lớp trên thường hay đến nhà thầy để “xác minh quan hệ”. Chỉ cần mười phút là thầy có thể giải quyết được những vụ cãi cọ nhau giữa học sinh trường Li-a- đốp với trường Pê-xtốp, ngay những kẻ ngang bướng nhất cũng răm rắp nghe lời không dám phản đối. Bất cứ học sinh nào từ lớp Một cho đến lớp cao nhất đều có thể đến nhà thầy chơi để trình bày công việc của mình. Trong trường chúng tôi thường được nghe những câu như thế này: “Tao sẽ mách thầy Ni-cô-lai An-tô- nứt”, “Thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt dặn tao như thế!”, “Thầy Ni-cô- lai An-tô-nứt bảo tớ đến...” vân vân...

    Cuối cùng cả tôi cũng đã có dịp nói những câu như vậy.

    Từ ngày hôm trước tôi đã trở thành một học sinh, trại trẻ của chúng tôi “trải qua thực nghiệm đã bị phế bỏ”. Tôi được chuyển sang học lớp Ba. Tôi đang nghĩ xem nên làm gì trước sự kiện lớn này, có nên ra bờ sông Mát-xcơ-va hay lên núi Vô-rô-bi-ô-va chơi không, và cứ đi lang thang trong giảng đường lớn thì cửa phòng của các giáo viên hé mở và thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt dùng một ngón tay vẫy tôi lại.

    - Gn-gô-n-ép, - thầy hơi nghĩ một tí rồi gọi tôi. (Thầy được mọi người ca tụng vì nhớ tên học sinh cả trường) - Em có biết chỗ ở của thầy không?

    Tôi trả lời là có biết.

    - Thế em có biết cái nhũ kế là cái gì không?

    Tôi nói là tôi không biết.

    - Đây là một dụng cụ dùng để đo xem trong sữa có nhiều nước lã không. Mọi người đều biết rằng, - thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt giơ một ngón tay lên, - những người bán sữa thường hay pha thêm nước lã vào, đặt cái máy này vào trong sữa có pha nước lã là có thể biết được ngay bao nhiêu phần sữa, bao nhiêu phần nước. Em hiểu không?

    - Em hiểu ạ.

    - Thế thì em đi lấy nó về đây.

    Thầy viết một mảnh giấy.

    - Nhưng em phải cẩn thận kẻo vỡ. Nó bằng thủy tinh đấy.

    - Em không đánh vỡ đâu, - tôi hăng hái đáp.

    - Thầy dặn tôi đưa lá thư cho cụ Ni-na Са-pi-tô-nôp-na.

    Tôi không ngờ đó lại chính là bà cụ người ở En-xcơ. Nhưng người ra mở cửa cho tôi không phải là bà cụ ấy mà là một thiếu phụ mà tôi chưa hề gặp, người mảnh dẻ, mặc chiếc áo váy màu đen.

    - Em cần gì?

    - Thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt bảo cháu đến.

    Thiếu phụ này hẳn là mẹ Ca-chi-a và là con gái bà cụ ấy. Cả ba người cùng có cái mũi nom bướng bỉnh như nhau và những đôi mắt đen sinh động giống nhau. Có điều là đứa cháu và bà cụ trông tươi tỉnh hơn, còn bà mẹ Ca-chi-a thì có vẻ ủ ê, phiền muộn.

    - Nhũ kế à? - Bà đọc mảnh giấy và ngỡ ngàng hỏi. - À, phải rồi!

    Bà đi vào trong bếp rồi đem cái nhũ kế ra. Tôi hết sức thất vọng. Chẳng qua nó chỉ giống như cái nhiệt kế, to hơn một chút.

    - Em không đánh vỡ chứ?

    - Bác nói gì cơ? - Tôi nói có vẻ coi thường, - cháu mà lại đánh vỡ...

    Tôi còn nhớ rõ là sau khi người mà tôi cho là mẹ Ca-chi-a quay vào đóng cửa được độ hai phút thì trong óc tôi liền nảy ra ý nghĩ táo bạo muốn thí nghiệm xem trong tuyết có muối không.

    Tôi vừa xuống khỏi cầu thang thì đứng lại, tay nắm chặt cái nhũ kế ở trong túi. Khi trước thằng Pê-chi-a vẫn nói rằng ở trong tuyết có muối. Cái nhũ kế có thể sẽ chỉ ra số muối đó, hoặc là thằng Pê-chi-a nói khoác. Đó là một vấn đề phải kiểm tra.

    Tôi chọn một chỗ cạnh hố nước rác đằng sau căn nhà xép. Trên đám tuyết người qua lại đã giẫm nhẵn có một cái nhà bé tí xếp bằng gạch, một sợi dây đen đen buộc trên những chiếc cọc gỗ nhỏ chạy từ trong nhà ấy ra phía sau nhà xép. Chắc là bọn trẻ con chơi trò bắc đường dây điện thoại. Tự nhiên tôi hà hơi vào cái nhũ kế, tim đập thình thình, tôi cắm nó xuống tuyết cạnh cái nhà bé tí. Các bạn có thể hình dung đầu óc tôi ra sao khi rút lên chẳng thấy nó có gì thay đổi, tôi lại cắm xuống, lần này cắm ngược đầu lại.

    Có ai gần đó kêu lên một tiếng. Tôi quay lại.

    - Chạy đi, nổ chết giờ! - Trong căn nhà xép có tiếng quát.

    Việc đó xảy ra trong hai giây đồng hồ. Một cô gái mặc áo măng-tô phanh cúc hốt hoảng chạy bổ từ trong nhà xép ra chỗ tôi. “Ca-chi-a”, - tôi nghĩ. Và để đề phòng bất trắc tôi thò tay định rút cái đo sữa lên. Nhưng Ca-chi-a đã cầm tay tôi kéo đi. Tôi đẩy cô bé ra, vùng người lại, thế là cả hai đứa cùng ngã lăn ra tuyết. Oàng! Những mảnh gạch vỡ hất tung lên trời, phía sau tuyết bốc lên mù mịt trắng xóa, bụi tuyết rơi xuống đầy người chúng tôi.

    Hồi đưa ma mẹ tôi, tôi đã ở giữa chỗ họ bắn nhau. Nhưng lần này còn sợ hơn nhiều. Bên cạnh hố nước rác vẫn có cái gì cứ nổ rền mãi. Mỗi lần tôi ngẩng đầu lên Ca-chi-a lại hỏi: “Ghê quá! Hả?”

    Cuối cùng tôi chồm dậy.

    - Cái nhũ kế! - Tôi gào lên rồi chạy vụt đến bên hố nước bẩn.

    - Nó đâu rồi?

    Chỗ tôi cắm cái nhũ kế xuống đã biến thành một cái hố sâu hoắm.

    - Nổ vỡ rồi!

    Ca-chi-a vẫn ngồi trên tuyết, mặt tái đi, mắt long lanh.

    - Ngốc ạ, đấy là hơi nổ, - cô ta khinh khỉnh nói. - Còn bây giờ thì tốt nhất là cậu nên đi thôi kẻo công an sẽ đến ngay bây giờ. Đã có lần họ đến rồi đấy. Họ có thể tóm cậu. Còn mình thì dẫu thế nào mình cũng chuồn được.

    - Còn nhũ kế! - Tôi thất vọng nhắc lại, cảm thấy hai môi cứng ra và bắp thịt trên mặt cũng giần giật. - Thầy Ni-cô-lai An-tô- nứt bảo tôi đi lấy. Tôi cắm nó xuống tuyết. Nó đâu rồi?

    Ca-chi-a đứng lên. Ngoài sân trời lạnh buốt, cô không đội mũ, mái tóc đen rẽ ngôi giữa, cô ngậm một đầu đuôi sam trong mồm. Lúc đó tôi không để ý đến điều này mà sau này mới nhớ ra.

    - Mình đã cứu cậu đấy, - cô ta nói, cái mũi phập phồng. - Nếu không thì cậu đã chết rồi thủng lưng ra. Cậu phải chịu ơn mình cứu sống. Cậu làm gì ở cạnh chỗ có hơi nổ của mình thế?

    Tôi chẳng buồn trả lời, cổ họng tắc lại vì bực tức.

    - Cậu phải biết rằng, - Ca-chi-a trịnh trọng tiếp, - vừa rồi dù chỉ là chú mèo con ngồi vào chỗ ấy thì mình cũng cứu. Người hay vật cũng vậy thôi.

    Tôi lẳng lặng bước ra khỏi sân. Nhưng đi đâu bây giờ? Về trường thì rõ là không được rồi.

    Ca-chi-a đuổi theo tôi đến cổng.

    - Này, Ni-cô-lai An-tô-nứt à? - Cô ta hét lên.

    - Cậu đi đâu? Đi mách đấy à?

    Tôi quay người lại. Chà, tôi đã giáng cho cô ta một cái thật sướng tay! Vì tất cả mọi tội - vì bị mất cái nhũ kế, vì cái mũi hếch, vì tôi không thể về trường được, vì cô ta đã cứu tôi, dẫu chẳng có ai yêu cầu...

    Cô bé cũng chẳng vừa. Cô ta lùi lại một bước rồi đấm thẳng vào ức tôi. Tôi phải nắm lấy bím tóc ấn đầu cô ta xuống tuyết. Cô ta lại vùng lên.

    - Cậu ngáng chân thế không đúng. Nếu cậu không ngáng chân thì vừa rồi mình đã cho cậu một trận, ở lớp, mình đánh tuốt cả bọn con trai. Cậu học lớp mấy? Hôm nọ cậu mang giúp bà mình cái túi đấy phải không? Lớp Ba à?

    Tôi rầu rĩ đáp:

    - Lớp Ba:

    Cô ta nhìn tôi.

    - Vỡ cái nhũ kế thì có nghĩa lý gì!- Cô ta nói vẻ khinh thường.

    - Nếu cậu muốn mình sẽ nói là mình đánh vỡ. Mình sẽ chẳng làm sao đâu. Chờ một tí nhé. Cô ta chạy đi, mấy phút sau quay lại, đầu đội mũ, nom dáng đấp trang trọng khác hẳn, hai bím tóc thắt nơ.

    - Mình bảo bà cụ là cậu đến. Bà đang ngủ. Bà bảo sao cậu không vào trong nhà, cái nhũ kế vỡ càng tốt. Nếu không thì còn khổ vì lần nào cũng nhúng vào sữa. Đằng nào thì nó cũng chẳng đo đúng, chỉ là cái trò ông Ni-cô-lai An-tô-nứt bày vẽ ra thôi. Còn bà thì chỉ cần ngửi qua cũng biết ngay là sữa tốt hay sữa xấu.

    Càng đến gần trường Ca-chi-a càng ra vẻ quan trọng. Cô ta ngẩng cao đầu bước lên bậc thang, mắt nhíu lại như người lớn.

    Thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt đang ở trong phòng giáo viên, chỗ lúc nãy thầy nói chuyện với tôi.

    Tôi khẽ bảo Ca-chi-a:

    - Cậu đừng nói gì, để mình nói.

    Cô ta khinh khỉnh hừ một tiếng, một bên bím tóc thò ra ngoài mũ gấp cong lại.

    Những điều bí ẩn mà tôi sẽ nói đến ở chương sau chính là bắt đầu từ cuộc nói chuyện này.

    Câu chuyện như thế này:

    Thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt mà xưa nay chúng tôi vẫn coi là người có quyền vô hạn ở Trường học số Bốn, thầy Ni-cô-lai An-tô- nứt vẫn nghiêm nghị và độ lượng nay đã biến đi đằng nào mất khi Ca-chi-a vừa bước vào cửa phòng. Một thầy Ni-cô-lai An-tô- nứt khác hẳn đang gượng gạo mỉm cười nói chuyện với cô ta. Thầy nhổm người qua bàn, mắt mở to như thể Ca-chi-a đang kể những chuyện gì ghê gớm lắm. Thầy lại sợ Ca-chi-a hay sao nhỉ?

    - Bác Nì-cô-lai An-tô-nứt, bác sai cậu này đi lấy cái nhũ kế phải không? - Ca-chi-a đưa mắt về phía tôi và hỏi.

    - Ta sai đấy Ca-chi-a ạ.

    - Thế à. Nhưng Ca-chi-a đánh vỡ rồi.

    Nét mặt thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt trở nên nghiêm khắc.

    - Cô ấy nói dối đấy, - tôi buồn bã nói - Bị nổ, vỡ rồi.

    - Ta chẳng hiểu gì cả. Gri-gô-ri-ép, em hãy im! Ca-chi-a. Kể lại xem đầu đuôi thế nào.

    - Chẳng thế nào cả, - Ca-chi-a kiêu hãnh ngửa đầu lên đáp. - Ca-chi-a đánh vỡ cái nhũ kế, có thế thôi.

    - Ờ, ờ, ờ. Nhưng hình như ta sai em này đi lấy cơ mà?

    - Nhưng cậu ấy không mang đến được. Vì Ca-chi-a đánh vỡ rồi.

    - Nói dối, - tôi lại nói.

    Ca-chi-a lườm tôi.

    - Thôi được, Ca-chi-a, cứ cho là như vậy, - thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt ôn tồn nói. - Nhưng người ta đã mang sữa đến trường mà ta thì giữ lại chưa cho ăn sáng. Ta định kiểm tra chất lượng sữa rồi căn cứ vào chất lượng ấy mà quyết định xem có tiếp tục mua ở những chỗ cũ nữa không. Nhưng thành ra ta đã uổng công chờ. Điều quan trọng nữa là một dụng cụ qúy như thế bị vỡ, mà lại chẳng hiểu đầu đuôi ra sao. Gri-gô-ri-ép, em giải thích xem đầu đuôi thế nào.

    - Buồn quá nhỉ! Ca-chi-a về đây bác Ni-cô-lai An-tô-nứt ạ! - Ca-chi-a nói.

    Thầy Ni-cô-lai An-tò-nứt nhìn cô ta. Tôi không hiểu tại sao, nhưng lúc đó tôi cảm thấy như thầy rất ghét Ca-chi-a.

    - Thôi được, Ca-chi-a về đi, - thầy âu yếm nói. - Để ta sẽ nói chuyện với em này.

    - Nếu thế thì Ca-chi-a ngồi đợi đã.

    Cô ta ngồi xuống và sốt ruột nhấm cái đuôi sam suốt trong lúc chúng tôi nói chuyện, Nếu cô ta về thật thì chắc câu chuyện của chúng tôi đã không kết thúc một cách êm đềm như vậy. Cái tội đánh vỡ nhũ kế được tha bổng. Thậm chí thầy Ni-cô-lai An- tô-nứt còn nhắc đến chuyện tôi được gửi vào học ở trường của thầy như một nhà điêu khắc tương lai: Ca-chi-a ngồi nghe lấy làm thú vị.

    Từ hôm đó trở đi tôi chơi thân với cô ta. Cô thích tôi vì lúc đó tôi đã không để cô nhận là lỗi của cô, vì khi kể lại sự việc tôi đã tránh không nhắc gì đến cái hơi nổ của cô.

    - Cậu sợ mình sẽ bị phạt phải không? - Cô hỏi khi chúng tôi bước ra khỏi trường.

    -Ờ.

    - Đời nào! Cậu đến nhà mình chơi nhé, bà vẫn bảo gọi cậu đấy. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 31/5/15
  3. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 6

    Đến chơi nhà Ca-chi-a

    Sáng sớm vừa tỉnh dậy tôi đã nghĩ nên đi hay không đi. Có hai điều làm tôi băn khoăn: cái quần và vấn đề thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt. Cái quần thật quả chẳng ra gì, không ra ngắn mà cũng chẳng ra dài. Hai đầu gối bị vá. Còn Ni-cô-lai An-tô-nứt thì đã rõ là thầy hiệu trưởng của chúng tôi, nghĩa là một nhân vật rất đáng ngại. Nhỡ thầy hỏi tôi tại sao lại đến, đến để làm gì thì tôi ăn nói thế nào? Nhưng dù sao thì sau buổi học tôi cũng đánh giầy và nhúng ướt tóc, chải rẽ đường ngôi cẩn thận. Tôi đến chơi nhà Ca-chi-a cơ mà!

    Sao tôi cảm thấy mình lúng túng, ngượng ngập đến thế! Nhũng sợi tóc quỉ quái cứ dựng ngược, phải vuốt nước bọt đè nó xuống. Bà cụ Ni-na Ca-pi-tô-nôp-na đang kể chuyện gì cho tôi và Ca-chi-a nghe bỗng nghiêm giọng bảo tôi:

    - Ngậm cái mồm lại!

    Thì ra tôi. mãi nhìn bà, mồm cứ há hốc ra.

    Ca-chi-a chỉ cho tôi xem mọi thứ trong nhà. Một phòng của cô và bà mẹ, một phòng của thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt. Còn phòng thứ ba là phòng ăn. Trong phòng của thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt có bộ đồ văn phòng đặt trên bàn làm việc. Ca-chi-a giải thích cho tôi, đó là theo đề tài “Cuộc đời dũng sĩ I-li-a Mu-rô-mét” . Thật vậy, lọ mực là hình một cái mặt người có râu ria, đầu đội mũ sắt nhọn. Gạt tàn thuốc lá là hình hai cái bao tay kiểu cổ Nga bắt chéo nhau. Ngoài ra còn nhiều thứ khác nữa. Bên dưới cái mũ sắt nhọn là bình mực. Thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt muốn chấm mực thì phải chọc ngòi bút vào giữa sọ dũng sĩ. Tôi thấy lạ lùng.

    Ở giữa hai cửa sổ có kê một tủ sách. Tôi chưa bao giờ trông thấy chỗ nào có nhiều sách đến thế. Phía trên tủ sách treo tấm ảnh bán thân một người lính thủy trán rộng, cằm thon và đôi mắt xám sinh động.

    Tôi nhận ra ở phòng ăn cũng có một tấm ảnh như thế, chỉ nhỏ hơn một chút... Và ở trong buồng Ca-chi-a, ở ngay trên đầu chiếc giường con cũng có một tấm ảnh như vậy và lại nhỏ hơn nữa.

    Ca-chi-a nguớc mắt nhìn tôi giải thích:

    - Ba mình đấy!

    Thế mà tôi cứ tưởng Ni-cô-lai An-tô-nứt là bố cô ta. Kể ra thì cũng chẳng có ai gọi bố đẻ bằng tên và họ như cô vẫn xưng hô với Ni-cô-lai An-tô-nứt “Bố dượng”, tôi nghĩ vậy nhưng lại thấy ngay là không phải. Bản thân tôi đã từng hiểu thế nào là bố dượng rồi. Không, đây không có vẻ là bố dượng!

    Sau đó Ca-chi-a lại lấy cho tôi xem cái địa bàn hàng hải, một thứ rất hay. Đó là một cái giá đai bằng đồng giữ lấy cái hộp có thể chao đi chao lại được. Trong hộp có chiếc kim bên dưới mặt kính. Dù quay cái vòng tròn về phía nào hay lật ngược lên nữa thì cái kim có mỏ neo ở đầu vẫn lúc lắc được và cứ chỉ về hướng bắc.

    - Cái địa bàn như thế này thì giông bão thế nào cũng chẳng mùi gì.

    - Cậu lấy ở đâu ra thế?

    - Ba mình cho.

    - Ông ấy ở đâu?

    Ca-chi-a nhíu mày.

    - Mình không biết.

    “Li dị và bỏ bà mẹ cô ta rồi”, tôi khẳng định ngay. Những chuyện như thế tôi chẳng lạ gì.

    Tôi nhận thấy ở trong nhà này treo rất nhiều tranh và theo con mắt của tôi thì đều là những bức tranh rất đẹp. Có một bức thật tuyệt, vẽ một con đường thênh thang chạy thẳng tắp trong vườn cây và những ngọn thông sáng nắng.

    Ca-chi-a nói như người lớn:

    - Lê-vi-tan( )đấy.

    Lúc đó tôi chưa biết Lê-vi-tan là tên một họa sĩ nên cho rằng đó là tên địa phương vẽ trong tranh. Sau đó bà cụ gọi chúng tôi vào uống nước chè với đường hóa học. Bà nói:

    - Gri-gô-ri-ép, ra cháu như thế đấy, đánh vỡ mất cái nhũ kế rồi.

    Bà hỏi tôi mọi chuyên ở En-xcơ. Thậm chí hỏi cả đến cái nhà bưu điện,

    - Thế còn cái nhà bưu điện?

    Bà rất bực là tôi không biết gia đình Bu-ben-tri-cốp nào đó.

    - Cái vườn bên cạnh nhà thờ Do-thái ấy mà lại chưa nghe nói đến bao giờ? Nhưng chắc là cháu đã ăn trộm táo ở đấy hàng trăm lượt rồi!

    Bà thở dài.

    - Nhà này đi khỏi đấy từ lâu lắm rồi. Bà chẳng muốn chuyển nhà đi tí nào. Mọi sự chỉ vì ông Ni-cô-lai An-tô-nứt. Ông ấy về và bảo, giờ đây có chờ đợi nữa hay không thì cũng thế thôi. Chỉ cần để lại địa chỉ, có ai cần tìm chúng ta thì sẽ tìm được ngay. Thế là bán hết đồ đạc đi, chỉ còn lại có thế này và dọn lên Mát-xcơ-va.

    - Bà, - Ca-chi-a nói giật giọng.

    - Bà cái gì?

    - Bà lại kể lể ra đấy à?

    - Thôi, bà không nói nữa! Kể ra ở đây cũng tốt.

    Tôi chẳng hiểu gi cả. Họ chờ đợi ai và tại sao giờ đây chờ hay không lại cũng thế thôi. Nhưng tất nhiên là tôi không thể hỏi thêm được và bà Ni-na Ca-pi-tô-nốp-ca cũng nói sang chuyện khác.

    Tôi đã đến chơi nhà thầy hiệu trưởng ở phố Tve-rơ-xcai-a I- am-xcai-a số Hai như vậy.

    Lúc chia tay tôi được Ca-chi-a cho mượn cuốn “Ê-lê-na Rố bin-sơn” và phải hứa là sẽ không làm gãy bìa, không làm bẩn sách.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 30/5/15
  4. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 7

    Gia đình Ta-ta-ri-nốp

    Gia đình Ta-ta-ri-nốp không thuê người giúp việc nên bà cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na rất vất vả, nhất là ở tuổi của bà. Tôi thường giúp bà nhóm lò, chẻ củi và rửa bát đĩa. Mối là kẻ thù đáng ghê sợ của bà. Nhiều khi tự dưng bà mang tất cả đồ đạc ra sân phơi, mà công việc đó không có tôi không xong. Tôi tha một ít gạch ở bãi đất trống gần nhà về chữa cái lò bị hở khói trong buồng ăn. Nói tóm lại thì tôi đã chẳng ăn không mấy bữa cá và kê mà bà cụ thết tôi. Thực ra tôi cũng chẳng cần đến những bữa ăn ấy. Tôi đến đây chơi rất thích. Tôi cảm thấy ngôi nhà này giống như cái hang thần của A-li Ba-ba có nhiều châu báu, nhiều nguy hiểm và đầy bí ẩn. Đối với tôi thì bà cụ là của báu, bà Ma-ri-a Va-xi-li- ép-na là điều bí ẩn và thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt là những nguy hiểm và phiền phức.

    Bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na là một quả phụ. Cũng có thể lại không phải là quả phụ, vì có một lần tôi nghe thấy bà cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na nói về bà một cách ngao ngán: “chẳng ra góa chồng mà cũng chẳng ra có chồng”. Lạ lùng hơn nữa là bà rất đau khổ nhớ chồng. Lúc nào bà cũng mặc chiếc áo váy dài đen như một nữ tu sĩ. Bà học ở Trường đại học Y khoa. Lúc đó tôi cảm thấy việc này cũng lạ. bởi vì theo sự hiểu biết của tôi thì đàn bà đã có con không ai đi học nữa. Có khi bỗng dưng bà không nói năng gì với ai nữa, không đi đâu cả, chẳng đi học mà cũng chẳng đi làm - bà cũng đang đi làm - chỉ co chân lên ngồi trên chiếc ghế xô-pha mà hút thuốc. Những lúc ấy Ca-chi-a bảo: “Mẹ đang buồn” thế là mọi người trong nhà lại gắt gỏng lẫn nhau, mặt ai cũng rầu rĩ.

    Chẳng bao lâu tôi được biết thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt không phải là chồng bà, mà ông ấy cũng chưa có vợ, mặc dầu đã bốn mươi lăm tuổi.

    Có lần tôi hỏi Ca-chi-a:

    - Ông ấy với cậu là thế nào?

    - Chẳng thế nào cả.

    Tất nhiên là cô ta nói dối bởi vì cô ta, mẹ cô ta và thầy Ni-cô- lai An-tô-nứt cùng có họ giông nhau. Ông ấy là bác Ca-chi-a, có điều không phải bác ruột mà chỉ là bác họ.

    Dầu sao thì cũng là bác họ thế mà mọi người đối xử với ông không được tốt lắm. Càng ngạc nhiên hơn nữa vì trái lại ông đối xử với tất cả mọi người rất chu đáo, có phần hơi quá đáng nữa.

    Bà cụ rất thích xem chiếu bóng, chưa bao giò bà bỏ sót một phim nào. Thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt thường dẫn cụ đi, thậm chí còn mua vé trước. Lúc ăn cơm chiều bà cụ say sưa kể lại nội dung cuốn phim (những lúc này bà giống hệt Ca-chi-a). Còn Ni-cô-lai An-tô-nứt tuy cũng vừa đi xem phim với bà cụ về nhưng vẫn kiên nhẫn ngồi nghe.

    Tuy vậy xem ra bà cụ cũng thương hại ông ta. Có lần tôi thấy ông bói bài xong cúi gục đầu xuống, ngón tay gõ xuống bàn tư lự suy nghĩ. Bà cụ nhìn ông thương hại.

    Người đối xử với ông ta lạnh nhạt nhất là bà Ma-ri-a Va-xi-li- ép-na. Ni-cô-lai An-tô-nứt chăm sóc bà đủ thứ. Ông thường đưa vé cho bà đi xem hát, còn mình ở lại nhà. Ông cũng mua hoa tặng bà luôn. Tôi đã được nghe ông tha thiết đề nghị bà giữ gìn thân thể, và thôi đừng đi làm nữa. Ông cũng quan tâm đến khách khứa của bà hết sức chu đáo. Hễ cứ có ai đến thăm bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na là ông ra tiếp ngay lập tức. Ông có thể ngồi nói chuyện với khách hàng tiếng đồng hồ rất vui vẻ, thoải mái, còn bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na thì ủ rũ chau mày ngồi trên ghế xô-pha hút thuốc.

    Mỗi khi thầy Cô-ra-bơ-li-ốp đến, ông lại càng tỏ ra đặc biệt ân cần. Không nghi ngờ gì nữa, ông cho rằng “bộ ria” chính là khách của ông, vì thế ông kéo ngay ông ta vào buồng mình hoặc đi sang phòng ăn và không cho nói đến công tác. Tóm lại khi nào thầy Cô-ra-bơ-li-ốp đến là cả nhà liền vui vẻ lên ngay, đặc biệt bà Ma- ri-a Va-xi-li-ép-na. Bà mặc chiếc áo váy mới, cổ trắng, tự tay bày bàn ăn, cứ tíu tít lên và trông bà càng đẹp ra. Thậm chí có lúc bà còn vui cười khi thấy ông Cô-ra-bơ-li-ốp soi gương chải ria xong vào pha trò với bà cụ. Ni-cô-lai An-tô-nứt cũng cười nhưng sắc mặt trắng bệch ra. Ông ta có đặc điểm lạ lùng là hễ cứ cười thì mặt trắng bệch ra.

    Ông ta không thích tôi, thế mà mãi tôi không đoán ra điều này. Lúc đầu ông chỉ tỏ ra ngạc nhiên khi gặp tôi ở nhà, sau đó ông cau mặt và cứ khịt mũi một cách khó chịu rồi bắt đầu lên lớp cho tôi:

    - Vừa rồi em nói câu “Cám ơn” thế nào? - Có một lần ông nghe thấy tôi cám ơn bà cụ về một việc gì đó. - Em có biết thế nào gọi là “Cám ơn” không? Em phải nhớ rằng tùy theo việc, em có biết điều đó hay không, có hiểu rõ điều đó hay không để mà toàn bộ cuộc đời em sẽ đi theo hướng này hay hướng khác. Chúng ta sống trong xã hội loài người một trong những động lực thúc đẩy xã hội này tiến lên là lòng biết ơn. Chắc em biết rằng trước đây tôi cũng có một người anh em. Trong suốt cuộc đời của nó, tôi đã giúp đỡ nhiều lần cả về mặt tinh thần lẫn vật chất, thế mà nó là kẻ vong ơn bội nghĩa. Kết quả thế nào? Số phận nó đã gặp phải tai họa thảm khốc.

    Nghe ông ta nói những điều này tôi bắt đầu cảm thấy rõ ràng những miếng vá trên đầu gối chiếc quần đang mặc. Đúng, chân tôi đang đi một đôi giày rất tồi, người tôi vừa nhỏ vừa bẩn thỉu, mặt lại tái xanh. Tôi là loại khác. Còn gia đình Ta-ta-ri-nốp là loại khác. Họ giàu có. Còn tôi thì nghèo khổ. Họ là những người thông minh, có học thức... Còn tôi là một thằng ngốc

    Lại có những điều để suy nghĩ.

    Nhân tiện xin nói thêm là không phải Ni-cô-lai An-tô-nứt chỉ nói chuyện với tôi về người anh em họ mà thôi. Đó là chuyện mà ông ta rất thích nói: ông nhấn mạnh rằng ông đã quan tâm đến người em từ khi người đó còn nhỏ sống ở bên bờ biển А-dôp ở Ghê-ni-tre-xcơ. Người em họ là con một gia đình dân chài nghèo. Nếu không có Ni-cô-lai An-tô-nứt thì anh ta vẫn chỉ là một anh dân chài nghèo xác xơ như bố, như ông, như cụ, như ông tổ tám đời nhà anh ta thôi. Ni-cô-lai An-tô-nứt “phát hiện thấy anh ta là một đứa trẻ thông minh và ham học” nên mang anh ta từ Ghê- ni-tre-xcơ đến Rô-xtốp trên sông Đông. Và đã chạy chọt để anh ta được nhận vào học nghề hàng hải. Mùa đông ông gửi cho anh ta “tiền trợ cấp”. Còn mùa hè thì ông giới thiệu cho anh ta làm thủy thủ trên các tàu chạy giữa Ba-tưm và Nô-vô-rơ-xi-xơ-cơ.

    Nhờ có ông can thiệp nên người em được vào hải quân và thì được chức cai. Sau đó Ni-cô-lai An-tô-nứt lại tốn khá nhiều công sức giúp anh ta được học trường hải quân. Khi người em tốt nghiệp trường hải quân cần đặt may bộ quân phục mới, ông cũng lại cho tiền. Tóm lại là ông đã giúp đỡ người em họ rất nhiều nên ông thích kể lại nhũng chuyện này, đó cũng là điều dễ hiểu. Ông nói rất thong thả, rất cặn kẽ, hai người đàn bà kính cẩn ngồi nghe.

    Không hiểu sao lúc đó tôi cho rằng họ phải ngồi nghe và cảm thấy họ-nợ ông chưa trả được, nợ tất cả những gì ông giúp đỡ người em mà đúng là không trả lại được. Bởi vì người em họ mà Ni-cô-lai An-tô-nứt khi thì gọi là “quá cố'’ lúc lại gọi là “biệt tăm” ấy chính là chồng bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na, và do đó cũng chính là bố của Ca-chi-a vậy. Tất cả đồ đạc trong ngôi nhà này trước kia là của ông ấy, giờ đây thuộc về bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na và Ca-chi-a. cả những bức tranh mà theo lời bà cụ thì Viện bảo tàng “Tơ-rê-chi-a-cốp trả rất nhiều tiền”, cả cái “tờ bảo hiểm” có thể lĩnh được tám nghìn rúp ở ngân hàng Pa-ri.

    Những công việc và những quan hệ phức tạp của người lớn này ít làm Ca-chi-a để ý đến nhất. Cô có những việc của mình quan trọng hơn. Cô bé trao đổi thư từ với hai người bạn gái ở En- xcơ. Thư từ của cô vương vãi khắp nơi, ai muốn đọc thì đọc, cả khách đến chơi cũng đọc được. Thư cô ta gửi cho các bạn giống hệt thư các bạn viết cho cô. Ví dụ thư của một bạn gái kể chuyện nằm mơ thấy đánh mất cái túi xách tay, bỗng nhiên thấy Mi-sca Cúp-xốp (bạn có nhớ cậu ta không, mình đã có lần viết cho bạn về cậu ta rồi) đi ngược lại, trong tay cầm chính cái túi ấy. Thế là Ca-chi-a viết thư cho bạn kể chuyện nằm mơ thấy cô cũng đánh mất cái gì đấy nhưng không phải cái túi xách tay mà là chiếc quản bút hay sợi nơ chẳng hạn và Suôc-ca Ga-lu-ben-xép (bạn có nhớ không, mình đã kể cho bạn rồi) nhặt được và đem trả. Cô bạn viết là mới đi xem chiếu bóng Ca-chi-a cũng viết trả lời là mới đi xem phím, mặc dù cô chỉ ở nhà chẳng đi đâu cả. Sau này tôi đoán ra là các bạn của cô lớn tuổi hơn và cô bắt chước họ.

    Song đối với các bạn cùng lớp thì cô rất đáo để. Cô đặc biệt điều khiển một cô bé tên là Ki-ren - gia đình nhà Ta-ta-ri-nôp ai cũng gọi cô này như vậy. Ca-chi-a cáu kỉnh vì Ki-ren không thích đọc sách.

    - Ki-ren, cậu đã đọc “Đu-brôp-xki” chưa?

    - Đọc rồi.

    - Cậu nói dối!

    - Mình mà nói dối thì cậu nhổ vào mặt mình.

    - Vậy thì cậu hãy trả lời, tại sao Ma-sa không lấy Đu-brốp- xki?

    - Có lấy đấy chứ.

    - Xin đủ cậu!

    - Thế mà mình đọc thấy có lấy đấy.

    Khi tôi đem trả cuốn “E-lê-na Rô-bin-sơn”, cô ta cũng truy tôi như vậy. Nhưng với tôi thì đâu phải như thế! Tôi có thể đọc thuộc lòng bất cứ từ đoạn nào. Cô ta vốn không ưa tỏ ra ngạc nhiên điều gì cả nên chỉ nói:

    - Cậu học gạo như con vẹt ấy.

    Có thể cho rằng cô ta tự coi mình là không kém gì E-lê-na Rô-bin-sơn và tin rằng nếu gặp phải hoàn cảnh tuyệt vọng tương tự thì cô cũng sẽ dũng cảm như vậy. Nhưng theo tôi thì một người nếu chuẩn bị lao vào cái số phận phi thường như vậy không thể cứ hay ngắm nghía truớc gương mãi, nhất là ngoài hoang đảo vốn không có gương.

    Trong mùa đông mà tôi bắt đầu đến nhà Ta-ta-ri-nôp, Ca- chi-a đang say sưa với cái trò chơi chất nổ. Những ngón tay cô lúc nào cũng đen nhẻm và bị bỏng. Trên người cô cũng như Pê- chi-a trước đây có một thời kỳ như thế, lúc nào cũng ám mùi thuốc súng và mũi vỏ đạn. Trong nếp gấp của những cuốn sách cô cho tôi mượn cũng đầy bột diêm vàng. Sau này đột nhiên Ca- chi-a không chơi chất nổ nữa. Cô ta vùi đầu đọc cuốn “Những phát hiện mới của thế kỷ”.

    Đó là một cuốn sách rất tuyệt, truyện ký về các nhà hàng hải và những nhà chinh phục tự nhiên nổi tiếng của thế kỷ thứ 15 và thế kỷ thứ 16 như Crit-xtốp Cô-lông, Phéc-đi-năng Coóc-tét v.v...

    Cuốn sách này được viết với lòng chân thành thán phục những con người vĩ đại. Hình như giờ đây tôi vẫn còn trông thấy những chân dung hình bầu dục trên nền những chiếc tàu buồm ở xa xa.

    Trong tấm hình A-mê-ri-gò Vét-pút-tri đang đứng trước quả địa cầu, tên ông đã được đặt cho châu Mỹ - A-mê-ri-ca. Ông cầm chiếc com-pa đặt trên một quyển sách đang mở, râu rậm, vẻ tươi vui linh lợi. Va-xcô Nu-nhi-ốt Ban-boa thì mặc áo giáp, đầu đội mũ trụ, có cắm một cái lông ngỗng, đứng dưới nước ngập đến đầu gối. Tôi có cảm tưởng như đó là một thằng bé Vát-xca người Nga nào đó đã-chuồn đến được Thái - bình - dương. Tôi cũng rất mê quyển sách ấy. Nhưng Ca-chi-a thì không phải chỉ có thế. Cô bị quyển sách ấy ám ảnh suốt ngày. Lúc nào cô cũng mơ màng, hình như có đôi lúc sực tỉnh chỉ là để kể lại cho mọi người rằng “Coóc-tét lên đường với lời chúc tốt lành của dân Tơ-lắc-xca-ìan và chỉ sau ít ngày là ông ta tới thủ đô đông đúc của những kẻ đạo hạnh”.

    Sau khi đọc cuốn “Những phát hiện mới của thế kỷ” Ca-chi-a đổi tên con mèo Va-xe-na thành Ip-tắc-tru-oa-ten là tên một dãy núi ở Mê-hi-cô.

    Cô còn định lấy tên một ngọn núi khác là Pê-pô-ca-tê-pê-ten để đặt tên cho bà cụ Ni-na Ca-pi-tô-nôp-na nhưng không thành. Ngoài tiếng “bà” ra. gọi thế nào bà cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na cũng không thưa.

    Tóm lại là nếu như Ca-chi-a thật sự luyến tiếc điều gì đương nhiên chỉ có thể là tiếc rằng cô không phải là người đã chiếm lĩnh Mê-hi-cô, không phải là người đã phát hiện và chinh phục Pê-ru. Song mọi việc vẫn còn đang ở phía trước. Tôi biết cô đang theo đuổi cái gì: cô muốn làm thuyền trưởng.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 31/5/15
  5. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 8

    Đội kịch nhà trường

    Tưởng chừng như trong mối quan hệ quen biết này tôi sẽ chỉ toàn gặp những điều tốt lành thôi. Thế mà chưa đầy nửa năm qua, tôi đã bị người ta đuổi ra...

    Câu chuyện xảy ra bắt đầu từ cái đội kịch của trường học mà chuyện về đội kịch lại bắt đầu từ cái hôm thầy Cô-ra-bơ-li-ốp lên lớp tuyên bố rằng mấy hôm nữa ở giảng đường lớn sẽ có diễn kịch.

    Cái thời kỳ mà Cô-vư-sca đề nghị tẩy chay lão “Ria-xồm” đáng ghét ở trong cuộc họp của lớp Năm đã qua từ lâu. Đôi chân dài của thầy địa lý, tính cẩn thận của ông và cả cái tính hay “chõ mũi vào việc của người khác” của ông cũng không làm cho ai bực mình nữa. Người ta bỏ qua cho ông bởi vì: một, ông đã nhìn thấy Phật sống ở Ấn Độ; hai, ông đã ăn trứng muối ở Trung Quốc. Giờ đây ông lại nghĩ ra một trò mới là đội kịch nhà trường.

    Muốn có một đội kịch thì phải có đạo diễn, diễn viên, thiết kế mỹ thuật, đạo cụ, phục trang... Giờ đây bỗng phát hiện ra là tất cả các ngành này đều có người đang học tập ở trường chúng tôi.

    Thậm chí còn có cả nhà thơ kiêm soạn kịch là Na-xti-a Se-ca-tre-va nữa.

    Rất đáng tiếc là tôi không rõ tình tiết vở kịch “Thời gian đã đến” mở đầu cho đợt biểu diễn của đội kịch. Đại ý hình như có một nam tước phu nhân không có con nhận một đứa bé về nuôi, không biết nó là người Do-thái. Song người vú nuôi xấu bụng thì lại biết việc đó, muốn lợi dụng chuyện này để xoay tiền nên mụ ta dọa nếu không cho tiền thì mụ ta sẽ nói toáng lên cho mọi người đều biết cái chuyện nhục nhã này. Lúc ấy, người con nuôi đã lớn và đang định lấy vợ. Cái bi kịch bắt đầu từ đây.

    Chỉ hơi lạ là I-van Pa-vơ-lứt (người ta gọi thầy Cô-ra-bơ-li-ốp như vậy) lại phân công cho những học sinh mà mọi người đều cho là hư đốn không giáo dục được nữa đóng tất cả những vai tốt trong vở kịch. Người con nuôi trong vở “Thời gian đã đến” là một vai lương thiện, một nhân vật chính diện thì do Gri-sca Pa-be đóng. Trước kia hắn là một kẻ đáng lo ngại đối với các giáo viên, một kẻ đầu têu tất cả những trò lưu manh. Hắn đóng rất khá, chỉ phải cái mồm cứ gào lên to quá. Khán giả vỗ tay rất lâu, hắn phải ra chào đến mười một lần. Hắn đứng sau cánh gà quần áo ướt đẫm mồ hôi у như chuột lột, sung sướng đến phát run lên, không dám tin ở tai mình nữa. Nhưng khán giả cứ gọi hắn ra để hoan hô hết lần này đến lần khác. Thế là hắn nổi tiếng. Sau này diễn viên nổi danh ấy bắt đầu tỏ vẻ quan trọng, nhưng không dở trò lưu manh nữa.

    Tóm lại đội kịch đã có một ảnh hưởng không ngờ ở trong trường số Bốn. Như thầy Cô-ra-bơ-li-ốp đã nói, bọn trẻ xưa nay đến trường “để ăn thì đúng hơn là để học” không ngờ giờ đây đã có “quan hệ lao động”.

    Nhân tiện tôi cũng xin nói thêm mà không phải khoác lác lắm rằng đó là một đội kịch xuất sắc. Thậm chí chúng tôi còn lần lượt đi các trường khác để diễn nữa.

    Ngày nào chúng tôi cũng đến nhà thầy Cô-ra-bơ-li-ốp để xem các diễn viên của chúng tôi tập. Buổi tập nào mà có Gri-sca-pha-be tham gia thì đứng ngoài sân cũng đã nghe thấy, không cần phải vào trong nhà. Nói chung là rất thú. Lúc đầu tôi chỉ đi dán quảng cáo trong đó có một cái tranh tôi vẽ một con vẹt xanh rất đạt, đến nỗi thầy Cô-ra-bơ-li-ốp đã giữ lại làm kỷ niệm.

    Ở Mát-xcơ-va người ta bắt đầu nói đến trường học số Bốn. Còn trong trường thì nói đến thầy giáo Cô-ra-bơ-li-ốp. Ông ta vừa là tổng đạo diễn, đồng thời lại là tổng hóa trang, lại phụ trách đạo cụ kiêm dàn cảnh. Giờ đây những nữ sinh ở các lớp trên lại thấy là thầy Cô-ra-bơ-li-ốp đẹp trai. Không phải đẹp mà là có duyên! Vậy thì sao? Quả thật là ông có duyên, đặc biệt là khi ông mặc bộ quần áo vét mới màu tro, dáng hơi gày nhưng cân đối, miệng ngậm chiếc bót thuốc lá khá dài, lấy ngón tay vuốt ria và mỉm cười.

    Tôi không biết các giáo viên khác có thích đội kịch của chúng tôi không. Thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt thường ngồi trên hàng ghế đầu tiên mỗi khi trình diễn lần đầu và thầy cũng là người vỗ tay to nhất. Như thế là thầy cũng thích. Nhưng hình như thầy không hài lòng lắm khi thấy bây giờ trong trường cứ toàn nhắc đến tên Cô-ra-bơ-li-ốp: “Tôi sẽ báo cáo thầy I-van Pa-vơ-lứt”, “Thầy I-van Pa-vơ-lứt bảo tôi đến” vân vân. Kể ra lúc nào cũng kể chuyện thầy Cô-ra-bơ-li-ốp với Ni-cô-lai An-tô-nứt và bảo ông rằng thầy Cô-ra-bơ-li-ốp chính ra là một người tốt là một điều chẳng nên.

    Ni-cô-lai An-tô-nứt chăm chú lắng nghe, vừa cười vừa bật bật các ngón tay, mặt ông trắng bệch ra.

    Thế rồi bỗng xảy ra một thảm kịch.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 31/5/15
  6. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 9

    Thầy giáo Cô-ra-bơ-li-ốp cầu hôn
    Trách nhiệm của nhà giáo

    Đó là một ngày chủ nhật. Nhà Ta-ta-ri-nốp sắp có khách đến ăn cơm trưa. Ca-chi-a đang vẽ lại bức tranh “Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa người Tây-ban-nha và dân da đỏ” ở trong cuốn “Những phát hiện mới của thế kỷ”. Còn tôi thì bị cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na trưng dụng xuống làm bếp. Bà cụ có vẻ hồi hộp, luôn luôn lắng tai nghe và bảo tôi:

    - Xuỵt, có tiếng chuông gọi cửa.

    - Đó là ở ngoài phố đấy bà Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na!

    Nhưng bà cụ vẫn chăm chú lắng nghe.

    Cuối cùng bà cụ lên phòng ăn và thế là đến lúc có chuông lại không được nghe thấy. Tôi ra mở cửa. Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp bước vào. Ông mặc chiếc áo bành-tô mỏng màu sáng, đầu đội mũ phớt cùng màu. Lần đầu tiên tôi trông thấy ông ăn mặc chỉnh tề như vậy.

    Khi ông hỏi bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na có nhà không, giọng ông hơi run run. Tôi đáp: “Có”. Nhưng ông vẫn đứng mấy giây đồng hồ không cởi áo ngoài ra ngay. Sau đó ông vào gặp bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na. Tôi thấy bà cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na rón rén đi từ phòng ăn ra. Tạị sao bà cụ lại phải rón rén, sao bà cụ lại hồi hộp và có vẻ bí ẩn như vậy?

    Bắt đầu từ giờ phút đó chúng tôi không làm việc gì ra hồn được nữa. Bà cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na ngồi gọt khoai tây thì con dao cứ như tuột khỏi tay. Bà cụ chạy lên phòng ăn như để lấy một cái gì đó, nhưng lúc bà cụ quay lại thì hai tay vẫn chẳng cầm gì cả. Cứ mỗi lần xuống bếp, bà cụ lại nhặt một củ khoai tây để gọt, do đó giờ đây trong rổ có rất nhiều củ mới chỉ gọt một bên. Tôi không còn hiểu ra sao nữa. Có khi bà cụ nhặt một củ khoai gọt dở, cắt nhỏ ra, rồi đăm chiêu ném cả vào nồi xúp. Đúng là bà cụ đang bận tâm điều gì. Nhưng cái gì mới được chứ? Nhưng rồi tôi cũng biết ngay vì bà cụ không phải là người biết giữ bí mật.

    Lúc đầu bà cụ lên nhà rồi quay lại chẳng nói chẳng rằng, chỉ lấy tay phác những cử chỉ khó hiểu đại khái có thể đoán thế này: “Lạy Chúa tôi, chuyện gì sẽ xảy ra đây?”

    Về sau bà cứ lẩm bẩm một mình. Sau nữa bà thở dài và bắt đầu nói chuyện. Cái tin thật lạ lùng. Thì ra thầy Cô-ra-bơ-li-ốp đến để cầu hôn với bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na. “Cầu hôn” là thế nào thì tất nhiên tôi đã biết. Ông muốn lấy bà này và đến để hỏi xem bà có đồng ý không?

    Vậy rốt cuộc bà có đồng ý không? Giá không có tôi ở dưới nhà bếp chắc hẳn bà cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na cũng đem chuyện này ra thảo luận với những cái nồi, cái xoong của cụ. Bà cụ không thể nào im lặng được.

    - Ông ta nói, anh sẽ trao tất cả, cả cuộc đời anh cho em, - không rõ lúc bà cụ ở phòng ăn xuống bếp lần thứ ba hay lần thứ tư đã nói lại như vậy. - Anh không hề tiếc một tí gì hết.

    Tôi thận trọng nói:

    - Thật thế à?

    - Anh không tiếc gì hết, - cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na trịnh trọng nhắc lại. - Anh biết rõ cuộc sống của em, cuộc sống của em thật đau khổ, thấy em mà đau lòng.

    Bà cụ vừa định nhặt củ khoai lên thì lại chạy ra ngoài. Lúc cụ trở vào thì nước mắt đầm đìa.

    - Ông ta bảo từ trước đến nay vẫn muốn có gia đình, - bà cụ thuật lại. - Anh là một kẻ cô độc. Ngoài em ra anh chẳng cần đến ai nữa. Đã từ lâu anh cùng chia đau khổ với em. Đại loại cứ như thế.

    “Đại loại cứ như thế” là câu cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na tự thêm vào. Khoảng mười phút sau bà cụ lại đi ra, lúc quay lại trông cụ rất băn khoăn.

    - Anh đến mệt về những người đó, - bà cụ nhắc lại mắt chớp chớp. - Họ quấy rầy, ngăn cản anh làm việc. Em biết là anh nói đến ai đây. Hãy tin anh, đó là một con người đáng sợ.

    Cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na thở dài rồi ngồi xuống.

    - Không, bà ấy không thể nhận lời lấy ông ta. Bà ấy thì rầu rĩ mà ông ta thì cũng luống tuổi rồi.

    Tôi chả biết nên trả lời bà cụ ra sao nên chỉ thận trọng nói:

    - Thế hả bà?

    - Hãy tin anh, đó là một con người đáng sợ. - cụ Ni-na Ca-pi- tô-nốp-na đăm chiêu nhắc lại. - Rất có thể! Lạy Chúa phù hộ cho! Rất có thể!

    Tôi ngồi nghiêm chỉnh. Bữa cơm trưa bị bỏ đấy, những giọt nước trăng trắng lăn trên mặt bếp: nồi nước luộc khoai tây cứ sôi sùng sục mãi...

    Bà cụ lại đi ra và lần này ở lại trên phòng ăn đến mười lăm phút. Lúc quay lại bà cụ lim dim đôi mắt, phủi tay nói:

    - Không lấy, từ chối rồi. Lạy Chúa! Một người đàn ông tốt như thế!

    Xem ra thì chính bà cụ cũng không biết nên vui hay nên buồn về việc bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na từ chối không lấy thầy Cô-ra-bơ-li-ốp.

    Tôi nói:

    - Tiếc thật!

    Cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na ngạc nhiên nhìn tôi:

    - Chứ sao, cũng có thể đi bước nữa, - tôi nói thêm. - Bà ấy còn trẻ.

    - Đừng nói bậy... - Cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na gắt lên.

    Bỗng bà cụ làm ra vẻ trang trọng đủng đỉnh đứng lên nhẹ nhàng ra khỏi bếp và gặp thầy Cô-ra-bơ-li-ốp ở phòng treo áo. Mặt ông tái đi, bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na đứng bên cửa lặng lẽ nhìn ông mặc áo. Nhìn mắt bà thì biết là bà vừa mới khóc.

    - Tội nghiệp, thật tội nghiệp! - Cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na lẩm bẩm như nói một mình.

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp hôn tay bà cụ, còn bà cụ thì hôn lên trán ông. Do đó mà bà cụ phải kiễng chân lên còn ông thì phải cúi xuống.

    - Ông I-van Pa-vơ-lô-vích, ông là bạn của tôi cũng là bạn của chúng tôi, - cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na trịnh trọng nói. - Ông cần biết rằng bao giờ ông đến đây cũng đều như về nhà mình vậy. Ông là người bạn tốt nhất của Ma-sa, tôi biết và Ma-sa cũng biết như thế!

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp lặng lẽ cúi đầu chào. Tôi rất thương hại ông. Tôi vẫn không hiểu được, tại sao bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na lại từ chối không lấy ông. Theo con mắt tôi thì hai ông bà rất xứng đôi.

    Chắc hẳn bà cụ chờ bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na sẽ gọi cụ và kể lại xem ông Cô-ra-bơ-li-ốp ngỏ lời ra sao và bà ấy đã từ chối thế nào. Nhưng bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na lại không gọi. Trái lại bà khóa trái cửa buồng và có thể nghe thấy tiếng chân bà đi đi lại lại.

    Ca-chi-a vẽ xong bức tranh “Cuộc gặp gỡ đầu tiên của người Tây-ban-nha và dân tộc da đỏ” muốn khoe với mẹ nhưng bà chỉ ở trong phòng nói vọng ra: “Chờ lát nữa con ạ!”

    Nói tóm lại là từ lúc ông Cô-ra-bơ-li-ốp ra về, trong nhà buồn hẳn đi và sau đó càng buồn hơn khi Ni-cô-lai An-tô-nứt vui vẻ trở về báo rằng không phải có ba người khách như ông đã dự đoán mà có những sáu người sẽ đến thăm và ăn cơm trưa.

    Dù muốn hay không lúc này bà cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na cũng phải làm cho cẩn thận. Đến cả Ca-chì-a cũng được mời xuống bếp cùng làm. Cô lấy miệng cốc xắn những miếng bột nhào thành những cái bánh tròn. Cô làm rất say sưa, mặt đỏ bừng lên, khắp người đều dính bột, cả trên mũi, cả trên tóc. Nhưng chẳng bao lâu cô đã chán, thế là cô quyết định không dùng cốc nữa mà đi lấy lọ mực cũ ra để xắn, cho thành hình ngôi sao chứ không phải những khoanh tròn nữa.

    - Để cho đẹp, bà ạ, - cô ta khẩn khoản nói với cụ Ni-na Ca-pi- tô-nốp-na.

    Sau đó cô lại ném những miếng hình ngôi sao vào một đống và nói là sẽ làm bánh nướng một mình. Tóm lại là cô chả giúp được gì mấy.

    Sáu vị khách! Những ai vậy? Tôi ở trong bếp nhìn ra và đếm.

    Người đầu tiên bước vào là ông trưởng phòng giáo vụ Ru-giư- tréc, có biệt hiệu là ông “Pha-đây cao thượng”. Tôi không biết cái biệt hiệu ấy ở đâu mà ra, ai cũng biết ông ta cao thượng thế nào! Theo sau ông này là giáo viên Li-khô, người béo lùn, trán hói, có cái đầu dài nom rất buồn cười. Sau đó là một người nữa cũng là giáo viên. Rồi đến bà người Đức bước vào, bà cũng là ngưòị Pháp bởi vì bà dạy cả tiếng Đức và tiếng Pháp. Bà giáo Xê-ra-phi-ma của chúng tôi cũng đến. Bà vẫn đeo chiếc đồng hồ ở trưóc ngực. Người cuổì cùng bước vào không ngờ lại là Vô-dơ-tri-cốp, học sinh lớp tám của chúng tôi. Vô-dơ-tri-cốp là học sinh điển hình của trường “Li-a-đốp”. Hắn ăn mặc rất chỉnh tề, thậm chí còn thắt cả chiếc thắt lưng da khóa sắt, trên khóa có mấy chữ ‘TTHLM”. Những chữ này có nghĩa là Trường thực hành Li-a-đốp Mát-xcơ-va. Hắn là đại biểu của học sinh các lớp trên trong hội đồng nhà trường.

    Tóm lại là hầu như toàn thể hội đồng nhà trường có mặt ở đây cả. Mời gần hết Hội đồng nhà trường đến ăn cơm trưa thì thật là một điều kỳ quặc.

    Tôi ngồi ở trong bếp nghe xem họ bàn tán những gì. Cửa để ngỏ. Đầu tiên Li-khô nói về vấn đề “thực phẩm”. Ông ta nói rằng sắp phát hành loại giấy bạc mới. Hôm nay một cân bơ giá mười bôn triệu rúp chứ ngày mai thì chỉ còn có hai mươi cô-pếch у như hồi trước chiến tranh vậy. Hôm nay phải trả người gác cửa mười triệu rúp chứ ngày mai thì chỉ mười cô-pếch. “Mà lão còn cúi đầu cám ơn rối rít nữa là khác”.

    - Hừ, tôi thật dại, vừa đem bán mất cái khăn bàn được hai trăm ba mươi triệu rúp, - bà Xê-ra-phi-ma Pê-trốp-na thở dài nói.

    Sau đó họ đàm luận về thầy Cô-ra-bơ-li-ốp. Chà chà! Thì ra ông ta là một người bợ đỡ chính quyền Xô Viết. Ông ta cố sức làm việc để “mưu toan địa vị”. Bộ rìa cũng đem nhuộm. Ông ta tổ chức ra cái đội kịch rất tai hại ấy chẳng qua cũng chỉ là để “gây thanh thế" mà thôi. Trước kia ông ta có vợ rồi nhưng đã làm cho vợ phải chết. Trong các cuộc họp ông ta nhỏ những “giọt nước mắt cá sấu”.

    Tôi không hiểu “nước mắt cá sấu” là cái gì, nhưng khi nghe nói những câu này, trong đầu tôi bỗng hiện ra hình ảnh thầy Cô- ra-bơ-li-ốp lúc ở trong phòng bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na đi ra: sắc mặt ông tái đi, bộ ria cụp xuống у như ria dán. Thế là tôi hiểu cả chuyện đội kịch, cả chuyện lấy vợ, cả chuyện “nước mắt cá sấu” (bất kể câu này nghĩa là thế nào) tất cả những chuyện họ nói đều là giả dối hết. Họ là kẻ thù của ông ấy. Đó chính là những người mà hôm nay ông vừa nói với bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na “Anh đến mệt vì những người này, họ quấy rầy, ngăn cản anh làm việc”.

    Cho đến câu “nước mắt cá sấu” thì đó mới chỉ là chuyện phiếm thôi. Nhưng tôi nghe thấy tiếng Ni-cô-lai An-tô-nứt nói và hiểu rằng đó không phải là chuyện phiếm mà là một âm mưu. Họ muốn đuổi thầy Cô-ra-bơ-li-ốp ra khỏi trường.

    Ni-cô-lai An-tô-nứt bắt đầu từ xa xôi:

    - Công tác sư phạm, trong số các nhân tố giáo dục ngoại cảnh, bao giờ cũng có đề ra nghệ thuật.

    Sau đó ông ta xoay câu chuyện sang giáo viên Cô-ra-bơ-li-ốp và trước hết “phải nhìn nhận tài năng của ông ta”. Nguyên nhân cái chết của vợ ông chẳng quan hệ gì đến chúng ta cả. Chúng ta chỉ quan tâm đến “biện pháp và tác động của nó đối với trẻ em”. Điều làm cho chúng ta lo lắng là I-van Pa-vơ-lứt đưa trường học theo một phương hướng có hại. Do đó chúng ta phải hành động theo “bổn phận thiêng liêng của nhà giáo dục, theo bổn phận của những người công dân Xô Viết bình thường”.

    Lúc đó bà cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na thu dọn những cái đĩa không lạch cạch làm tôi nghe không rõ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na nói nghĩa vụ thiêng liêng của nhà giáo dục vạch ra cho ông ta làm gì. Sau khi cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na bưng món thứ hai lên phòng ăn, tôi nghe câu chuyện chung mới hiểu họ định làm gì.

    Thứ nhất, trong cuộc họp hội đồng nhà trường sắp tới phải đề nghị giáo viên Cô-ra-bơ-li-ốp “khi giảng bài địa lý chỉ hạn chế trong phạm vi chương trình”. Thứ hai, hoạt động của ông ta sẽ bị coi là “sự tha hóa các tư tưởng giáo dục lao động”. Thứ ba, giải tán đội kịch nhà trường. Còn điều thứ tư, thứ năm vân vân nữa. Như vậy nhất định Cô-ra-bơ-li-ốp sẽ bực mình mà ra đi. Như lão Pha-đây “cao thượng” đã nói “trải chiếu ra mời đi”.

    Đây đích thị là một kế hoạch bỉ ổi. Tôi rất lấy làm lạ là bà Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na lại chịu nhịn được, không tham gia một câu nào. Nhưng chỉ một lúc sau thì tôi hiểu đầu đuôi. Bắt đầu từ khi mang món thứ hai lên là bà cụ bắt đầu thấy tiếc về việc bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na đã từ chối không lấy thầy Cô-ra-bơ-li-ốp. Bà cụ chắng nghĩ chuyện gì khác nữa, và cũng chắng nghe thấy gì nữa. Bà cụ cứ lẩm bẩm gì đó rồi nhún vai, thậm chí có lần cụ còn nói toáng lên:

    - Thế đấy! Bây giờ thì mẹ cũng có nghĩa lý gì!

    Đúng là cụ đang giận bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na không hỏi ý kiến cụ trước khi cự tuyệt ông Cô-ra-bơ-li-ốp.

    Khách khứa ra về hết rồi mà tôi vẫn không biết nên làm gì nữa.

    Thật là một điều quá xúi quẩy bởi vì thầy Cô-ra-bơ-li-ốp lại đến xin cầu hôn vào đúng cái ngày này. Giá ông ta cứ ngồi nhà thì lại hóa hay. Nếu thế thì tôi có thể kể lại toàn bộ câu chuyện đã nghe được cho bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na biết. Nhưng bây giờ thì không tiện, thậm chí còn không thể nói được nữa: bà ấy không ra ăn cơm trưa, cứ ở trong buồng khóa trái cửa lại và không cho ai vào. Ca-chi-a ngồi làm bài. Bỗng nhiên cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na nói rằng cụ rã rời cả chân tay, chỉ muốn ngủ, nói đoạn cụ liền đi nằm và ngủ ngay. Tôi thở dài chào tạm biệt và ra về.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 2/6/15
  7. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 10

    Thư trả lời cự tuyệt

    Người trực ban của trại trẻ tên là I-a-phết chân bị thọt đã đến hai lần để kiểm tra xem chúng tôi đang ngủ say hay là đang cãi nhau, xem mọi người đã đi nằm cả chưa.

    Ngoài hành lang có thắp một ngọn đèn đêm. Lúc ngủ, mi mắt của Va-li-a Giu-cốp cứ rung rung như mắt chó, không biết có phải nó nằm mơ thấy những con chó của nó không? Rô-ma-scạ ngáy khò khò. Chỉ có tôi là chưa ngủ, nằm nghĩ ngợi miên man.

    Những ý nghĩ cứ nối tiếp nhau, ý nghĩ sau càng mạnh dạn hơn ý nghĩ trước. Tôi thấy như mình đang phát biểu trong một cuộc họp toàn thể của trường, tôi phản đối Ni-cô-lai An-tô-nứt và vạch trần trước toàn thể hội nghị cái kế hoạch đê tiện của họ định đuổi thầy Cô-ra-bơ-li-ốp ra khỏi trường. Lúc lại thấy tôi đang viết thư cho thầy Cô-ra-bơ-li-ốp... Tôi bắt đầu thảo bức thư và ngủ đi mất...

    Rất kỳ lạ là tôi vừa mới tỉnh dậy (sớm hơn mọi người) đã lại tiếp tục thảo tiếp bức thư từ chỗ mà tối qua tôi đã bỏ dở. Lúc này mà có cuốn “Sách dạy viết thư” của thằng Pê-chi-a thì rất được việc. Tôi bèn nhớ lại những mẫu thư mà chúng tôi đã đọc. “Thư trả lời cự tuyệt”: “Sự biểu lộ tình cảm của ngài làm tôi vô cùng cảm kích...” Không thích hợp! “Thư cảm ơn thịnh tình tiếp đãi” và “Thư đòi nợ” cũng không thích hợp. “Thư của người góa vợ gửi một thiếu nữ” tôi lại quên mất, vả lại bức thư này cũng không thích hợp vì tôi không phải là người góa vợ mà thầy Cô-ra-bơ-li- ốp cũng chẳng phải là thiếu nữ.

    Cuối cùng tôi cũng quyết định được.

    Hãy còn sớm lắm, mới hơn bảy giờ, ngoài trời tối om như ban đêm. Tất nhiên là điều đó cũng chẳng cản trở được tôi. Anh thọt I-a-phết muốn giữ tôi lại, song tôi ngoắt ra được và chuồn bằng cửa sau.

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp sống trong một căn nhà một tầng làm bằng gỗ có cửa sổ và hàng hiên ở ngõ Va-rô-ních, giống như một cái đa-san. Không hiểu sao lúc ấy tôi lại chắc rằng ông ta không ngủ. Tất nhiên là một người vừa mới nhận “Sự trả lời cự tuyệt” của bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na hôm qua thì làm sao mà ngủ được. Quả nhiên là ông không ngủ thật. Trong phòng vẫn còn sáng ánh đèn, ông đứng ở cửa sổ chăm chú nhìn ra sân như thể ngoài sân đang xảy ra nhửng chuyện gì phi thường. Ông mãi nhìn đến nỗi tôi đứng ngay dưới cửa sổ giơ tay ra hiệu mãi ông cũng vẫn không biết.

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt!

    Nhưng thầy I-van Pa-vơ-lứt lại nheo đôi mắt, lắc đầu và đi vào.

    - Thầy I-van Pa-vơ-lứt, thầy mở cửa ra, em đây!

    Sau mấy phút ông quay lại, mình khoác chiếc áo bành-tô và đi ra hiên.

    - Em đây mà, Gri-gô-ri-ép đây, - tôi sợ ông quên tôi nên nhắc lại. Ông nhìn tôi có vẻ lạ lùng. - Em đến tìm thầy để nói thầy nghe một câu chuyện. Người ta định giải tán đội kịch, còn thầy thì... - Hình như tôi chưa nói chữ “đuổi ra”. Mà cũng có thể tôi đã nói ra rồi, bởi vì lúc đó thấy ông bỗng tỉnh hẳn người ra.

    - Vào đây! - Ông nói cụt ngủn.

    Trong nhà ông lúc nào cũng sạch sẽ, sách vở xếp gọn gàng trên giá sách, khăn rải giường trắng tinh, gối có khăn phủ. Mọi thứ đều ngăn nắp. Hôm nay có lẽ chỉ riêng bản thân ông chủ của những vật này là không được ổn định lắm thôi. Lúc thì ông nheo mắt lại, lúc thì ông mở to mắt ra như mọi vật ở trước mắt ông đang trồi đi các phía. Không còn nghi ngờ gì nữa, đêm qua ông không ngủ. Trước đây chưa bao giờ tôi thấy ông mệt mỏi như vậy.

    - A, Xa-nhi-a, - ông ngờ ngợ nói. - Có việc gì đấy?

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt! Em đã định viết thư cho thầy, - tôi sôi nổi đáp. - Tóm lại vấn đề là ở chỗ cái đội kịch nhà trường. Người ta nói rằng thầy đã có vợ và cô ấy đã bị thầy giày vò cho đến chết.

    - Thong thả, - ông cười. - Ai nói rằng tôi đã hành hạ vợ tôi?

    - Tất cả mọi người đều nói thế! “Nguỵên nhân cái chết của vợ ông ta chẳng quan hệ gì đến chúng ta cả. Điều làm cho chúng ta công phẫn là “sự tha hóa về tư tưởng”....

    - Tôi chẳng hiểu gì cả, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói nghiêm túc.

    - Đúng, tha hóa, - tôi khẳng định lại một lần nữa.

    Ngay từ hôm qua tôi đã nhẩm đi nhẩm lại mãi mấy chữ “tha hóa”, “gây thanh thế" và “bổn phận bình thường” nữa.

    - Trong các hội nghị ông ta đã nhỏ những giọt “nước mắt cá sấu”, - tôi vội vàng nói tiếp. - “Ông ta đưa ra những cái trò nguy hại ấy, chẳng qua chỉ là để “gây thanh thế”. Đúng, “gây thanh thế’. “Ông ta bợ đỡ chính quyền Xô Viết”, chúng ta phải làm tròn "bổn phận bình thường" của chúng ta.

    Có thể là tôi đã lẫn lộn một số từ. Nhưng đối với tôi thì cứ nhắc lại những câu tôi đã thuộc lòng sau khi nghe được ngày hôm qua còn dễ hơn là kể lại bằng lời lẽ của mình. Dù sao thì thầy Cô-ra-bơ-li-ốp cũng hiểu được những ý tôi muốn nói. Ông hiểu rất rõ. Con mắt ông bỗng vụt tắt ngay những nét mờ ảo vừa rồi, hai má bỗng đỏ lên, ông đi đi lại lại rất nhanh trong phòng.

    - Vui nhỉ, - ông khẽ lẩm bẩm, mặc dù trông ông chẳng có vẻ gì là vui cả. - Nghĩa là các em không muốn giải tán đội kịch có phải không?

    - Rất rõ ràng là mọi người đều không muốn.

    - Và em đến đây cũng là vì đội kịch chứ gì?

    Tôi im lặng một lát. Cững có thể là vì đội kịch. Cũng có thể là vì nếu không có thầy Cô-ra-bơ-li-ốp ở trường thì trường sẽ tẻ ngắt. Cũng có thể là vì tôi không thích việc họ đã cấu kết một cách đê tiện như vậy để đuổi ông này ra khỏi trường...

    - Ồ, thật là những kẻ ngu ngốc chán nhất thế giới! - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói một câu bất ngờ.

    Ông bắt tay tôi thật chặt, sau đó lại trầm ngâm đi đi lại lại trong phòng. Ông cứ đi lại mãi rồi bước luôn ra ngoài, có lẽ là vào bếp xách ấm nước sôi ra pha trà rồi lấy ở tủ bên trong tường ra bộ cốc.

    - Tôi đã định đi khỏi trường, nhưng giờ thì tôi quyết định ở lại, - ông tuyên bố. - Chúng ta sẽ đấu tranh. Đúng không, Xa-nhi-a? Còn bây giờ thì uống cốc nước trà đã.

    * *

    Tôi không biết cuối cùng hội đồng nhà trường có họp không, cuộc họp mà thầy Cô-ra-bơ-li-ốp sẽ bị nghiêm khắc phê phán vì đã “tha hóa các tư tưởng giáo dục lao động”. Xem ra thì không có cuộc họp này vì ông ấy vẫn không sao cả. Mỗi buổi sáng ông “Ria” vẫn đứng trước gương chải chuốt bộ ria rồi đi lên lớp như thường...

    Mấy ngày sau đội kịch tuyên bố diễn một vở kịch mới: “Nhà thông thái nào cũng thừa đất dụng võ”. Gri-sca-Pha-be lại đóng vai nhà thông thái. Theo vai thì người đó hai mươi lăm tuổi, nhưng nó lại thích đóng thành một người đứng tuổi hói trán, có răng vàng. Lúc nào nó cũng gõ gõ ngón tay lên mặt bàn у như Ni-cô-lai An-tô-nứt, nói chung nếu nó đừng gào thét to quá thì có thể nói rằng vai nó đóng rất đạt.

    Có hai anh tóc quăn và đen ở Khu Đoàn thanh niên cộng sản đến đề nghị tổ chức một Chi đoàn thanh niên cộng sản ở trường . chúng tôi. Va-li-a liền đứng tại chỗ hỏi ngay là các học sinh ở trại trẻ có thể xin gia nhập được không. Họ trả lời là được, nhưng phải từ mười bốn tuổi trở lên. Chính tôi cũng không biết là tôi bao nhiêu tuổi. Theo tôi tính thì gần tròn mười ba tuổi rồi. Nhưng dù sao tôi cũng cứ nói là tôi mười bốn tuổi. Song chẳng có ai tin tôi cả. Có lẽ lúc đó người tôi nhỏ bé quá.

    Trong các giáo viên chỉ có thầy Cô-ra-bơ-li-ốp và Ni-cô-lai An-tô-nứt tham gia cuộc họp này. Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp phát biểu khá trịnh trọng, thoạt đầu thầy nói qua mấy lời chúc mừng chi đoàn chúng tôi thành lập, sau đó thầy lên lớp chúng tôi một hồi về tội chúng tôi không chăm chỉ học hành và có nhiều hiện tượng học lưu manh. Ni-cô-lai An-tô-nứt cũng phát biểu ý kiến. Ông nói rất hay. Thoạt đầu ông hoan nghênh các đại biểu của Khu Đoàn thanh niên cộng sản, một lớp người trẻ tuổi, cuối cùng ông ngâm một bài thơ của Nê-cra-xốp, bài “Rừng xanh xào xạc”. Chỉ có một điều rất lạ là lúc nói chuyện bỗng dưng ông bẻ tay kêu răng rắc, cứ như là định vặn gãy những ngón tay ấy đi. Lúc đó nét mặt ông trông rất vui, thậm chí ông còn mỉm cười.

    Cuộc họp tan, tôi gặp ông ngoài hành lang, tôi nói: “Chào thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt!”. Nhưng không hiểu sao ông ấy không trả lời tôi.

    Tóm lại là mọi việc đều tốt đẹp cả. Tôi không biết tại sao tôi đã chuẩn bị đến nhà Ta-ta-ri-nốp rồi bỗng nhiên lại quyết định thôi không đi nữa. Tốt nhất là chờ đến mai gặp Ca-chi-a ở ngoài phố và sẽ đưa cho Ca-chi-a chiếc roi ngựa và ít đất sét là những thứ cô hỏi xin tôi. Nhưng chưa đầy nữa giờ sau thì tôi đã thay đổi ý định.

    Bà cụ ra mở cửa cho tôi. Tôi vừa định bước vào nhà thì không hiểu tại sao bà cụ lại giữ dây xích khóa cửa, hình như bà cụ còn suy nghĩ xem có nên cho tôi vào không. Sau đó bà cụ buông cánh cửa ra rồi thì thào rất nhanh: “đi vào bếp nhé”, đoạn bà khẽ đẩy vào lưng tôi.

    Tôi do dự một lát vì ngạc nhiên. Vừa đúng lúc đó thì Ni-cô-lai An-tô-nứt đi ra phòng treo áo và nhìn thấy tôi. Ông ta bật đèn.

    - A - a! - ông nói giọng mũi. - Đã đến đấy à? Ông nắm chặt vai tôi làm tôi đau điếng.

    - Đồ vô ơn hốt lẻo, đồ khốn nạn, đồ mật thám! Từ nay về sau đừng có bén mảng đến đây nữa! Có nghe thấy không?

    Ông ta căm tức nhệch cái môi ra, tôi nhìn thấy chiếc răng vàng lấp lánh trong mồm ông ta. Đó là vật cuối cùng tôi nom thấy ở gia đình Ta-ta-ri-nốp. Ni-cô-lai An-tô-nứt một tay mở cửa, một tay ném tôi ra ngoài cầu thang như quăng con mèo con vậy. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 2/6/15
  8. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 11

    Tôi ra đi

    Trại trẻ trống rỗng. Trường học cũng vắng tanh. Hôm nay là chủ nhật, mọi người tản mát đi đâu hết. Chỉ có mình Rô-ma-sca đang đi đi lại lại trong các gian phòng trống không và cứ tính toán gì đó, chắc là tính các tài sản tương lai của nó và người cấp dưỡng vừa chuẩn bị bữa ăn trưa vừa hát ở dưới bếp. Tôi kiếm một chỗ ấm áp đằng sau bếp lò ngồi suy nghĩ.

    Đày đúng là do ông Cô-ra-bơ-li-ốp gây nên. Tôi muốn giúp ông ta, thế mà ông ta lại “đền ơn” tôi một cách đê tiện như vậy. Ông ta đã đến nhà Ni-cô-lai An-tô-nứt và bán rẻ tôi.

    Hóa ra họ nói rất đúng, cả Ni-cô-lai An-tô-nứt, cả cô gái tiếng Đức và tiếng Pháp, cả Li-khô người đã nói rằng trong các hội nghị Cô-ra-bơ-li-ốp nhỏ những “giọt nước mắt cá sấu” đều là đúng cả. Ông ta là một kẻ đê tiện. Thế mà tôi lại còn thương hại ông ta vì thấy ông ta bị bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na cự tuyệt.

    - Bác Pê-chi-a, thế nào là “nước mắt cá sấu”?

    Bác Pê-chi-a vớt một miếng cải bắp nóng hổi trong nồi ra.

    - Có lẽ là một loại nước chấm...

    Không, không, đây không phải là nước chấm... Tôi đang định nói, đây không phải là nước chấm. Nhưng tôi thây bác Pê-chi-a đang cầm miếng cải bắp đã cắn thử để xem món canh đã chín chưa bỗng từ từ lượn tròn quanh người tôi. Mắt tôi hoa lên, tôi thở dài rồi đi về phòng ngủ.

    Rô-ma-sca đang ngồi bên cạnh cửa sổ trong buồng ngủ, mồm lẩm bẩm tính toán.

    - Mười vạn bây giờ chỉ bằng một cô-pếch sau này thôi, - nó nói với tôi. - Nếu thu thập nhũng đồng tiền cũ người ta đổi ra rồi đi đến nơi nào chưa biết việc đổi tiền, mua tất cả hàng hóa đem về bán lấy tiền mới. Mình đã tính rồi, một đồng rúp vàng có thể kiếm được bốn vạn lần hơn.

    - Từ biệt Rô-ma-sca nhé. Mình đi đây. - Tôi trả lời hắn.

    - Đi đâu?

    - Đi Tuyếc-két-xtan, - tôi nói, mặc dù trước đây một phút tôi chưa hề nghĩ đến Tuyếc-két-xtan.

    - Nói láo!

    Tôi lặng lẽ lột áo gối ra và nhét vào đấy tất cả các thứ tôi có. Chiếc áo sơ-mi, cái quần, tấm tranh áp-phích “Học sinh trường sô Bốn diễn vở “Ma-rát” và cái óng nghe màu đen mà ông bác sĩ I-van I-va-nứt đã để lại. Tất cả những con cóc, con thỏ tôi đều đập tan ra rồi ném vào thùng rác. Ngay đến cả bức tượng cô thiếu nữ có vòng tóc trước trán, có phần giống Ca-chi-a cũng bị tôi ném vào đấy nốt.

    Rô-ma-sca nhìn tôi có vẻ thích thú. Nó vẫn lẩm bẩm tính toán nhưng không say sưa như lúc vừa rồi nữa.

    - Nếu một rúp mà kiếm được bốn vạn, vậy thì một trăm rúp...

    Xin vĩnh biệt trường học! Mình sẽ không bao giờ đi học nữa. Học để làm gì? Mình đã biết viết, biết đọc, biết tính toán. Thế là đủ rồi, như vậy cũng đã tốt chán. Sau khi mình ra đi cũng chẳng có ai thấy buồn đâu. Họa chăng chỉ có Va-li-a nhớ đến một lần rồi cũng quên đi.

    - Vậy thì một trăm rúp có thể kiếm được bốn mươi vạn, - Rô-ma-sca lẩm bẩm nói. - Một trăm rúp là được bốn mươi vạn.

    Nhưng tôi sẽ còn quay trở lại. Lúc đó tôi sẽ còn phải đến nhà bà cụ Ni-na Ca-pí-tô-nôp-na ném tiền ra và nói: “Đây xin cụ cầm lấy tiền trả những bữa mà tôi đã ăn ở nhà cụ”. Còn Cô-ra-bơ-li-ốp nữa, người ta sẽ tống cổ ông ta ra khỏi trường, ông ta chạy đến kêu ca với tôi và khẩn khoản xin tôi tha thứ cho. Đừng hòng!

    Tôi bỗng nhớ đến cảnh ông đứng bên cửa sổ khi tôi đến nhà ông. Ông đứng nhìn chằm chằm ra sân buồn rũ và có vẻ hơi say. Thôi, đã chắc là ông nói ra dâu. Ông viện tôi ra để làm gì cơ chứ. Trái lại, chắc là ông không tỏ vẻ gì, giả vờ như không biết tí gì về cuộc bàn bạc bí mật ấy hết. Tôi đã rủa oan, khống phải là ông đã nói ra. Vậy thì ai?

    - À, Va-li-a! Tôi bỗng tự nhủ. - Chả là sau khi ở nhà Ta-ta-ri-nốp về, tôi đã đem mọi chuyện ra nói với nó. Đúng là Va-li-a rồi.

    Song tôi nhớ lại thì lúc đó Va-li-a chưa nghe hết đầu đuôi câu chuyện đã ngáy khò khò. vả lại Va-li-a quyết không thể làm những điều như thế được.

    Có thể là Rô-ma-sca chăng? Tôi nhìn nó. Mặt nó trắng bệch, hai tai đỏ gay, nó ngồi bên bậu của sổ lẩm bẩm nhấn lên nhấn xuống mãi không thôi. Tôi cảm thấy nó vẫn theo dõi tôi bằng con mắt tròn dẹt như mắt chim. Nhưng nó có biết gì đâu...

    Giờ đây khi tôi đã khẳng định việc này không phải do thầy Cô-ra-bơ-li-ốp gây ra thì hình như có thể lưu lại được. Nhưng đầu tôi nhức như búa bổ, tai váng lên, vả lại không biết tại sao tôi thấy một khi đã bảo Rô-ma-sca là mình đi thì không thể ở lại được nữa. Trong lòng buồn bã, tôi ngoái nhìn lại khắp phòng lần cuối. Kia là cái bóng đèn màu trắng, mà mỗi khi tắt đèn rồi tôi vẫn thường nhìn vào rất lâu trong đêm tối. Kia là bức tường có những ô để quần áo. Kia là ô quần áo của tôi, bên cạnh là ô của Va-li-a và những dãy giương...

    Tôi thở dài, vớ lấy cái bọc gật đầu với Rô-ma-sca rồi ra đi. Có lẽ lúc đó tôi đang sốt rất nóng nên khi ra đường tôi mới cảm thấy bên ngoài lạnh một cách lạ lùng, vả lại lúc ra vòm của tôi đã cởi áo đồng phục ra mà mặc ngay áo bành tô ra ngoài áo sơ-mi. Tôi quyết định đem bán cái áo đồng phục đi. Theo tôi tính toán thì chiếc áo ấy có thể bán được khoảng mười lăm triệu rúp.

    Có lẽ vì tôi nhức đầu chóng mặt, người nóng hầm hập cho nên tôi không nhớ rõ là tôi đã làm nhũng gì ở chợ giời, mặc dù tôi lang thang ở đó suốt một ngày. Tôi chỉ nhớ là tôi đứng bên một quầy hàng ngào ngạt mùi hành phi, tay cầm chiếc áo đồng phục, miệng khẽ nói:

    - Ai mua đây...

    Tôi còn nhớ là tôi rất ngạc nhiên không hiểu sao giọng nói của tôi lại yếu ớt đến như vậy. Tôi cũng nhớ đã để ý thấy trong đám người mua bán có một người đàn ông vóc to lớn mặc hai chiếc áo bành tô bằng lông, một chiếc mặc hẳn vào người còn chiếc định bán thì choàng trên vai. Có điều rất lạ là tôi cứ mang chiếc áo của tôi đi đâu cũng đều chạm trán ông ta. Ông ta đứng đực ra đó, người cao lớn, râu ria xồm xoàm, mặc hai chiếc áo bành tô mặc cho mọi người ta sờ soạng, ngắm vuốt, nắn cổ áo, chẳng buồn nhìn ai, chỉ cau có nói giá tiền.

    Tôi nhớ là sau khi lang thang ở chợ suốt ngày, cuối cùng tôi đã đổi cái áo sơ-mi lấy một chiếc bánh rán bột mì với cà rốt, nhứng tối vừa cắn một miếng đã thấy chán.

    Tôi kiếm một chỗ để sưởi cho ấm. Mặc dù người cũng không cảm thấy rét lắm nhưng những đầu ngón tay bị lạnh tím bầm lại. Tôi nhét chiếc bánh rán vào trong áo gối. Tôi nhớ lúc đó tôi cứ luôn nhìn xem chiếc bánh có bị vụn ra không. Có lẽ tôi cảm thấy mình ốm thật. Tôi rất thèm uống nước. Có lới mấy lần tôi quyết định là nếu qua nửa tiếng đồng hồ nữa mà không bán được chiếc áo đồng phục thì sẽ vào quán trà đổi lấy một cốc trà nóng. Nhưng ngay lúc đó tôi lại sợ bây giờ mới có người đến mua nên tôi lại quyết định đứng thêm nửa giờ nữa.

    Tôi nhớ lúc đó tôi tự an ủi rằng người đàn ông cao lớn kia cũng không sao bán được cái áo bành tô...

    Nếu bốc một nắm tuyết mà ăn có lẽ lại hay, nhưng tuyết ở quãng chợ này bẩn quá, mà đi ra ngoài đường cái thì lại xa. Tuy vậy cuối cùng tôi vẫn cứ đi ra và đã ăn tuyết. Rất lạ là tôi thấy tuyết ấm. Hình như tôi bị nôn. Nhưng cũng có thể là không phải. Tôi chỉ nhớ tôi ngồi trên tuyết, có người nắm lấy vai tôi bởi vì tôi bị ngã. Cuối cùng họ buông tôi ra, tôi nằm xuống khoan khoái duỗi thẳng hai chân. Có tiếng người đang nói cạnh chỗ tôi nằm, nghe như là: “động kinh, bị động kinh...” Sau đó họ định lấy cái túi áo gối của tôi đi, tôi nghe thấy họ dỗ tôi: “Lạ chưa, đây là để đầu cho mày đấy chứ!” nhưng tôi cứ túm chặt lấy cái áo gối, nhất định không buông. Người đàn ông khoác hai chiếc áo bành tô lững thững đi qua rồi đột nhiên ném một chiếc áo lên người tôi. Lúc đó là tôi đã mê sảng rồi. Tôi biết rất rõ là tôi đã mê sảng... Có người vẫn kéo cái túi áo gối của tôi. Tôi nghe thấy tiếng phụ nữ nói:

    - Nó không buông cái túi ra đâu.

    Tiếp đó là giọng đàn ông:

    - Đặt cả cái túi lên cũng được.

    Sau đó lại có tiếng một người đàn ông nữa:

    - Đúng là bệnh cúm ác tính rồi

    Và mọi sự chìm hẳn đi...

    *

    * *

    Ngay đến bây giờ dù chỉ hơi sốt một tí thôi tôi cũng đã mê sảng rồi. Sốt đến ba mươi tám độ là tôi nói huyên thuyên, làm cho bạn bè và nhũng người thân thuộc phát hoảng. Nhưng chưa bao giờ tôi lại mê sảng thú vị như lần tôi bị cúm ác tính này. Kìa tôi đang ở trong căn phòng rộng rãi sáng sủa và vẽ phong cảnh một thác nước. Dòng nước từ vách đá cheo leo đổ xuồng lòng chảo đá hẹp. Hay quá! Dòng nước lấp lánh dưới ánh mặt trời, những tảng đá xanh tuyệt diệu.

    Kìa tôi lại đang ngồi trên một cái xe tuyết đi đâu, mình khoác áo lông cừu. Tròi tối dần song tôi vân trông thấy tuyết vun vút chạy lùa giũa hai thành ván trượt rộng bản, у như là chúng tôi đang ngồi một chỗ mà tuyết thì lao đi vun vút. Khi nhìn tấm da đắp chân thõng xuống bên xe vạch thành đường chạy dài trên tuyết thì mới thấy rõ là mình đang đi. Tôi cảm thấy thú quá, ấm quá, hình như chẳng còn thiết gì hơn nữa, chỉ cần cứ ngồi trên chiếc xe tuyết mà đi suốt đời.

    Không hiểu sao tôi lại có cái ảo giác tuyệt vời như thế! Lúc đó tôi đã gần cái chết lắm rồi. Đã hai lần tôi bị coi là hết đường cứu chữa rồi nên họ cách ly với các bệnh khác bằng một tấm bình phong. Hiện tượng bầm da tím ngắt vốn là triệu chứng ở những kẻ sắp chết. Triệu chứng đó đã xuất hiện ở người tôi rõ ràng đến nỗi hầu như tất cả các bác sĩ, trừ một người thôi, đều lắc đầu thất vọng, và chỉ sáng sáng lại ngạc nhiên hỏi:

    - Thế nào vẫn còn sống à?

    Tất cả những chuyện đó tôi được biết sau khi đã tỉnh...

    Dù sao thì tôi cũng không chết. Trái lại tôi đã bình phục. Có một lần tôi mở mắt ra vẫn cứ tưởng là mình đang ở trại trẻ và định nhào từ trên giường xuống... Có một bàn tay giữ tôi lại. Một khuôn mặt ai dó tôi quên mất rồi nhưng râ't quen thuộc cúi xuống người tôi. Không biết các bạn có tin hay không chứ đó chính là ông bác sĩ I-van I-va-nứt.

    - Bác sĩ, - tôi nói vói ông và bật khóc vì sung sướng, vì yếu đuối. - Bác sĩ, bão tuyết đấy!

    Ông nhìn thẳng vào mắt tôi, có lẽ ông cho rằng tôi vẫn còn đang mê sảng.

    - Yên ngựa, cái hòm, bão tuyết, uống rượu, A-bram, - tôi nói một mạch và cảm thấy nước mắt chảy xuống mồm.- Tôi đây bác sĩ ạ. Tôi là Xa-nhi-a đây. Bác có nhớ không, bác có nhớ tôi ở một cái làng. Chúng tôi đã cho bác trốn. Bác đã dạy tôi học.

    Ông lại nhìn thẳng vào mắt tôi lần nữa, rồi phồng mồm lên thổi ra phù phù.

    - A ha! - ông nói và cười vang lên. ' Sao lại không nhớ? Thế em gái chú đâu? Sao lại nói được như thế này? Hồi đó chú chỉ biết nói có mỗi tiếng “tai” thôi cơ mà, và nói như sủa ấy. Học nói được rồi hả? Và lại còn trốn lên tận Mát-xcơ-va nữa? Rồi lại còn định chết nữa?

    Tôi muốn nói rằng thực ra tôi không định chết tí nào, trái lại, nhưng bỗng ông lấy tay bịt mồm tôi lại, còn tay kia vội vàng rút mùi xoa lau mặt lau mũi cho tôi.

    - Này chú em, nằm im nhé, - ông nói. - Chú chưa được nói năng gì hết. Hãy câm đi, chịu khó câm đi hai ngày. Có trời biết được chú đã chết đi sống lại mấy lần rồi. Giờ đây ra sao cũng chưa biết được đâu. Có khi chỉ nói quá vài câu là đi đứt đấy. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 30/5/15
  9. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 12

    Một cuộc nói chuyện nghiêm túc

    Có lẽ các bạn cho rằng tôi đã có lúc tỉnh lại thì tôi sẽ bắt đầu bình phục? Hoàn toàn không phải như vậy. Bệnh cúm Tây-ban-nha vừa khỏi thì tôi lại mắc bệnh viêm màng não. Lần này bác sĩ I-van I-va-nứt cũng lại không đồng ý với ý kiến cho rằng tính mệnh tôi đã đi đứt.

    Ông thường ngồi hàng tiếng đồng hồ bên giường bệnh của tôi để nghiên cứu những động tác kỳ quặc của đôi mắt và hai bàn tay tôi. Cuối cùng tôi lại hồi tỉnh. Mặc dù tôi còn nằm trợn ngược mắt lên mãi khá lâu. nhưng đã thoát chết.

    “Thoát chết nhưng có thể bị ngớ ngẩn suốt đời”.

    Tôi đã gặp vận may, không bị ngớ ngẩn. Ngược lại sau khi khỏi bệnh tôi còn cảm thấy mình thông minh hơn trước đây là khác. Đúng là có như thế thật, song chẳng dính dáng gì đến căn bệnh đã mắc cả.

    Dù sao thì tôi cũng phải nằm ở nhà thương đến nửa năm trời. Trong thời gian này tôi được gập I-van I-va-nứt luôn, gần như cứ cách một ngày tôi lại được gặp ông một lần. Khi tôi bắt đầu bình phục thì hầu như ông không đến nhà thương nữa. Chẳng bao lâu sau ông đi khỏi thành phố Mát-xcơ-va. Ông đi đâu, làm gì, xin các bạn xem hồi sau sẽ rõ.

    Có điều rất đáng ngạc nhiên là suốt từng ấy năm trời ông thay đổi rất ít. Ông ấy vẫn thích ngâm thơ như trước, Có lần sau khi nghe bệnh cho tôi xong, ông làu bàu đọc một đoạn thơ:

    Nam tước Phôn Grin-van-đút
    Vị anh hùng hào kiệt
    Vẫn ngồi trên bệ đá
    Với tư thế thuở xưa.

    Có những sinh viền thường đến gian buồng bệnh của tôi. Lúc đó ông nhìn sinh viên bằng đôi mắt trong sáng, sinh động, rồi ông nắm tay áo một người, giảng giải, rồi bỏ tay ra. Sau khi nắm tay áo người ấy. Tôi và ông ấy cùng nhớ lại cái “thuở xa xưa”. Ông hết sức ngạc nhiên khi thấy tôi vẫn nhớ rằng ông đã lấy ruột bánh mì và những thứ khác nặn thành con mèo và con chuột, con mèo bắt chuột kêu meo mео у như mèo thật.

    - Bác I-van I-va-nứt, - tôi nói, - sau khi bác đi rồi, tôi và em gái vẫn xiên khoai nướng suốt cả mùa đông.

    Ông cười vang lên rồi trầm ngâm suy nghĩ.

    - Chú em ạ, đó là hồi ta bị đi đày, đã học được đấy.

    Thì ra trước kia ông đã bị đi đày. Năm 1914 ông bị phát vãng vì là đảng viên Bôn-sê-vích, sau khi bị án đày chung thân. Tôi không biết ông bị phát vãng ở chỗ nào, còn nơi đi đày của ông thì xa lắm, tận gần biển Ba-ren-xép.

    - Từ chỗ ấy, - ông cười nói, - ta chạy một mạch đến cái thôn nhà em đó. Trên đường đi tí nữa thì chết cóng.

    Thì ra bây giờ tôi mới rõ tại sao hồi ấy đêm đêm ông không ngủ. Cái ống đen đen - ống nghe bệnh - thì ra ông để lại cho hai anh em tôi để làm kỷ niệm. Hết chuyện nọ sang chuyện kia, cuối cùng tôi đành phải kể lại đầu đuôi câu chuyện tại sao tôi lại trốn khỏi trại trẻ.

    Ông rất chú ý nghe tôi nói và không hiểu sao ông cứ nhìn vào mồm tôi.

    - Hay thật, - ông trầm ngâm nói. - Thật là chuyện hiếm có.

    Tôi cứ tưởng ông nghĩ rằng bỏ trại trẻ ra đi là chuyện hiếm có. Tôi đang định thanh minh rằng chuyện này chắng có gì là hiếm thì ông lại nói:

    - Không phải vừa câm vừa điếc mà là câm nhưng không điếc. Stummheit ohne Taubheit . Lúc bấy giờ đến gọi “mẹ” cũng không xong, thế mà bây giờ, xem kìa, rõ là một nhà hùng biện!

    Ông đem chuyện tôi ra kể lại cho các bác sĩ khác nghe.

    Tôi đã hơi thất vọng vì bác sĩ chẳng nói gì đến sự tình đã khiến tôi phải trốn khỏi trại trẻ mà thậm chí còn có vẻ như ông đã bỏ ngoài tai. Nhưng tôi đã nghĩ lầm, bởi vì sau này có một hôm trời rất đẹp, cửa gian buồng bệnh của chúng tôi mở toang, một chị у tá bước vào nói:

    - Gri-gô-ri-ép có khách.

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ôp bước vào.

    - Chào em, Xa-nhi-a!

    - Chào thầy I-van Pa-vơ-lứt!

    Cả phòng đều tò mò nhìn chúng tôi. Có lẽ cũng vì nguyên nhân ấy nên lúc đầu ông ấy chỉ toàn nói về sức khỏe của tôi. Nhưng khi mọi người trong phòng trở lại với công việc của họ thì ông bắt đầu mắng tôi. Ôi, ông mắng tôi một trận nên thân Ông nói tuột ra tất cả những điều tôi đã nghĩ vê ông trước đây và bảo, nếu tôi cho ông ấy là một kẻ đê tiện thì lúc đó tôi phải đến gặp ông ấy mà nói thẳng ra: “I-van Pa-vơ-lứt; ông là một kẻ đê tiện!” Tòi đã không làm như vậy, bởi vì tôi là một người cá nhân chủ nghĩa điển hình. Sau đó ông dịu giọng hơn khi tôi tiu nghỉu. Tôi hỏi ông:

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt, cá nhân chủ nghĩa là thế nào ạ?

    Tóm lại ông đã mắng tôi cho đến khi hết giờ đến thăm. Tuy vậy lúc chia tay, ông bắt tay tôi rõ chặt và bảo ông sẽ còn đến nữa.

    - Bao giờ ạ?

    - Mấy hôm nữa. Ta có câu chuyện rất nghiêm túc muốn nói với em. Còn giờ thì em suy nghĩ trước đi.

    Rất tiếc là ông không bảo tôi phải suy nghĩ vấn đề gì nên tôi đành cứ nghĩ ngợi lung tung. Tôi nhớ lại En-xcơ, ông già Xcô-vô- rốt-ni-cốp, dì Đa-sa và quyết định là khi nào khỏe hẳn sẽ viết thư về En-xcơ ngay. Pê-chi-a đã trở về chưa? Tôi nghĩ đến Pê-chi-a luôn. Cửa sổ gian phòng bệnh của chúng tôi trông ra vườn hoa, do đó có thể nom thấy những ngọn cây bị gió thổi lắc lư. Ban đêm khi xào xạc, mường tượng thấy như Pê-chi-a cũng đang nằm trên một chiếc giường bệnh sơn trắng ở một nơi nào đó như tôi đây, vừa suy nghĩ vừa lắng nghe tiếng lá cây xào xạc. Giờ đây nó ở đâu? Có thể là nó đã chán Tuyếc-két-xtan và nó lại tẩu sang một nơi nào đó ở Pê-ru rồi? Nhỡ thằng Pê-chi-a ở Pê-ru thật thì sao nhỉ? Nó đang đứng hiên ngang trên bãi biển Thái-bình-dương, mình mặc áo giáp, tay cầm kiếm у như Va-xcô Nu-nhi-ốt Ban-boa. Chả chắc gì. Có điều là trong thời gian tôi ở trong trại trẻ thì ai biết được nó đã đi những đâu?

    Đến buổi được tiếp khách lần sau thì Va-li-a Giu-cốp vào thăm tôi và kể chuyện con nhím của nó. Không biết nó bắt ở đâu được một con nhím và đã làm cho nó cả một cái nhà dưới gầm giường.

    Mùa đông loài nhím đều ngủ, nhưng không hiểu sao con nhím này lại không ngủ. Tóm lại, đây là con nhím đặc biệt. Ngay đến việc nó gãi cũng làm cho cậu ta thích thú.

    - Y như chó gãi ấy! - Va-li-a vui sướng khoe.

    - Cái chân nó cũng gõ gõ xuống đất у như con chó ấy.

    Tóm lại là suốt cả hai tiếng đồng hồ thằng Va-li-a chỉ nói chuyện con nhím của nó và mãi đến lúc chia tay cậu ta mới sực nhớ ra là thầy Cô-ra-bơ-li-ốp hỏi thăm tôi, nay mai thầy sẽ vào thăm.

    Tôi liền hiểu ngay đó sẽ là một cuộc nói chuyện nghiêm chỉnh. Hay lắm! Tôi tin rằng thế nào tôi cũng bị thầy dồn cho một trận nữa. Quả nhiên tôi đoán không sai.

    Câu chuyện bắt đầu từ lúc thầy Cô-ra-bơ-li-ốp hỏi tôi sau này sẽ làm gì.

    - Em không biết, - tôi trả lời. - Có lẽ em sẽ làm một họa sĩ.

    Ông nhướn lông mày và phản đối:

    - Không được đâu!

    Thật tình mà nói thì tôi chưa hề suy nghĩ xem sau này tôi sẽ làm gì. Trong thâm tâm tôi muốn làm một nhân vật giông như Va-xcô Nu-nhi-ốt Ban-boa cơ. Nhưng vì thấy I-van Pa-vơ-lứt lại khảng định là tôi không làm nổi họa sĩ, nên tôi cũng thấy bực.

    - Tại sao?

    - Vì rất nhiều lẽ, - thầy Cô-ra-bơ-li-ôp nói quả quyết. - Trước hết là vì ý chí em mềm yếu lắm.

    Tôi giật mình. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng ý chí mình mềm yếu.

    - Đâu có thế, - tôi buồn rầu phản đối. - Ý chí em rất mạnh.

    - Không đúng, rất mềm yếu. Một người không biết mình sau một giờ nữa sẽ làm gì thì ý chí ra sao? Nếu em có ý chí kiên cường thì em đã học giỏi. Nhưng em thì lại học kém.

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt, - tôi hốt hoảng nói, - em chỉ có một điểm “kém” thôi mà.

    - Phải, em học kém. Thực ra em có thể đạt mức giỏi cơ.

    Ông chờ một lát xem tôi có nói gì không. Nhưng tôi nín lặng.

    - Em chỉ giỏi tưởng tượng hơn là biết suy nghĩ.

    Ông lại chờ một lát.

    - Nói chung thì đã đến lúc em phải nghĩ xem mình là một người như thế nào và sống ở trên đời này để làm gì. Vừa rồi em nói em muốn làm một họa sĩ. Chú em ạ, muốn đạt mục đích ấy thì phải trở thành một con người khác cơ. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 30/5/15
  10. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 13

    Tôi suy nghĩ

    Nói mồm thì rất dễ: anh cần trở thành một con người khác hẳn. Nhưng phải làm như thế nào đây? Tôi không đồng ý rằng tôi học quá tồi. Chỉ có một điểm “kém” mà lại là môn toán, lại vì có một lần tôi đang đánh giày thì thầy Ru-giư-tréc gọi tôi lên bảo:

    - Em bôi giày bằng cái gì thế? Gri-gô-ri-ép? Trứng thối với dầu hỏa à?

    Tôi giở giọng láo xược, thế là từ đó trở đi ông không bao giò cho tôi điểm “kém” nữa. Nhưng dẫu sao tôi cũng thấy thầy Cô- ra-bơ-li-ốp nói là đúng và tôi phải trở thành một con người khác hẳn.

    Nếu quả là ý chí tôi mềm yếu thật thì sao? Phải kiểm tra xem sao. Cần quyết định làm mệt việc và nhất định làm bằng được. Để khởi đầu, tôi quyết định đọc thật kỹ cuốn “Bút ký của người đi săn”, năm ngoái tôi đã đọc quyển này và bỏ dở vì thấy chán quá.

    Thật lạ lùng! Lần này tôi vừa mượn ở thư viện của nhà thương cuốn “Bút ký của người di sản” đem về đọc được bốn năm trang đã thấy chán gấp ba năm ngoái. Lúc đó điều mong muốn cao nhất của tôi ở trên đời này là giá đừng có cái quyết định ấy thì hay biết bao nhiêu. Song tôi đã tự hứa với mình, thậm chí đã đọc thầm lời hứa ấy ở trong chăn, phải giữ trọn lời chứ.

    Tôi đọc hết cuốn “Bút ký của người đi săn” thì quả quyết được rằng thầy Cô-ra-bơ-h-ốp nói sai rồi. Ý chí của tôi rất kiên cường.

    Tôi nghĩ, hay là kiểm nghiệm mình một lần nữa. Giả dụ như mỗi buổi sáng sau khi tập thể dục xong sẽ ra vòi tắm nước lạnh, hoặc là điểm tổng kết cả năm về môn toán phải được “năm”. Nhưng tất cả những cái đó tôi đều gác lại đến khi trở lại trường, còn giờ đây chỉ có việc cứ suy nghĩ.

    “Em chỉ giỏi tưởng tượng hơn là biết suy nghĩ”. Tại sao ông ấy lại nói thế? Có lẽ vì tôi đã quá khoác lác về tài nặn tượng của mình? Như vậy thì bực mình thật. Ca-chi-a mới là kẻ hay tưởng tượng thì nó. Hay là thầy Cô-ra-bơ-li-ôp đã hiểu từ này với nghĩa khác? Tôi quyết định sẽ hỏi lại nếu ông còn đến nữa... Nhưng ông không đến và mãi sau một vài năm tôi mới biết từ đó không phải chỉ có nghĩa là tưởng mình là ghê lắm.

    “Anh là người thế nào và sống ở trên đời này để làm gì?” Tôi vừa đọc báo vừa suy nghĩ về vấn đề này. Sau khi vào nằm nhà thương tôi bắt đầu xem báo. Thật là thú vị. Giá đừng có nhiều từ ngoại quốc thì có phải hay bao nhiêu không. Trong những từ ấy tôi cũng đọc thấy từ “tha hóa” và “nước mắt cá sấu”.

    Cuối cùng bác sĩ I-van I-va-nứt khám bệnh cho tôi lần chót rồi ra viện. Đó là một ngày tuyệt đẹp. Chúng tôi chia tay nhau. Ông ghi cho tôi địa chỉ của ông và dặn tôi đến chơi.

    - Nhớ là đừng đến sau ngày hai mươi đấy nhé, - ông vui vẻ nói

    - Nếu không thì, chú em ạ, chú sẽ không gặp ta đâu...

    Tôi xách cái bọc con đi ra khỏi nhà thương. Vừa đi khỏi được một phố tôi đã phải ngồi xuống nghỉ trên một bệ đá ven đường - người còn yếu thật. Nhưng trước mặt tôi, mọi vật đều rất đẹp. Thành phốMát-xcơ-va lớn quá! Tôi đã quen mất nó rồi. Phô xá sao mà náo nhiệt. Tôi cảm thấy váng đầu chóng mặt, nhưng tôi biết là giờ đây tôi không thể ngã xuống được nữa. Tôi đã khỏe rồi, nhất định phải sống. Tôi đã khỏi bệnh. Vĩnh biệt nhà thương nhé! Chào cái trường học của ta!

    Thật tình mà nói thì tôi hơi buồn khi thấy mọi người trong trường đón gặp tôi với vẻ thờ ơ, Chỉ có mỗi mình Ró-ma-sca hỏi tôi:

    - Khỏe rồi à?

    Nó hỏi với thái độ hơi tiếc là tôi đã không chết.

    Va-li-a thì mừng rỡ, song lúc đó nó không còn bụng dạ nào nghĩ đến tôi, vì nó bị mất con nhím, Nó nghi cho Ni-cô-lai An-tô- nứt đã xui bác bếp ném con nhím xuống hố nước bẩn.

    - Biết thế mình bán quách nó đi, - Va-li-a rầu rĩ nói. - Có người trả mình hai mươi nhăm cô-pếch. Không bán thì ngốc thật.

    Trong thời gian tôi nằm ở nhà thương đã phát hành tiền mới, tiền bằng vàng và bằng bạc.

    Ở trại trẻ mọi việc vẫn như cũ, chỉ có cô giáo Xê-ra-phi-ma Pê-trốp-ma lên dạy ở lớp trên, thế chân cô có một thầy giáo tên là Xút-kin. Va-li-a nói rằng ông ta là một người xu nịnh. Ông ta nịnh nọt Ni-cô-lai An-tô-nứt, nịnh nọt cô giáo tiếng Đức, bợ đỡ Ru-giư-tréc và lấy lòng cả học sinh.

    Ngược lại trong thời gian nửa năm trời này trong trường đã có nhiều biến đổi lớn. Thứ nhất là trường thu hẹp lại còn được nửa: một số học sinh lớp trên đã chuyển sang trường khác. Thứ hai là trường được quét vôi và sơn lại rất sáng sủa, không còn nhận ra được những căn phòng bẩn thỉu với những cửa sổ tối tăm và trần nhà đen kịt trước kia nữa. Thứ ba là mọi người đều chỉ nói đến Chi đoàn thanh niên cộng sản. Hiện nay cô Va-ri-a làm bí thư Chi đoàn. Chính cô là người của Ban kinh tế mà năm 1920 thường cầm cái môi to tướng trong tay đi đi lại lại ngoài hành lang. Chắc hẳn cô là một bí thư Chi đoàn rất tốt bởi vì khi tôi trở lại trường tôi thấy cái căn phòng nhỏ của Chi đoàn thanh niên đã trở thành một nơi sôi nổi nhất trong trường chúng tôi.

    Tôi chưa phải là đoàn viên thanh niên cộng sản nhưng đến ngày thứ ba sau khi tôi ở nhà thương về đã được cô Va-ri-a giao cho nhiệm vụ vẽ bức tranh cổ động có một chiếc máy bay đang xuyên trong mây và bên dưới đề:

    “Các bạn thanh niên, hãy gia nhập Hội những người bạn Không quân!”.

    Lúc đó những ngón tay tôi vẫn còn run, nhưng tôi cũng hăng hái bắt tay vào làm

    Nói tóm lại trong trường lúc này đã hấp dẫn gấp ngàn lần trước kia và tôi cũng lập tức tham gia ngay một lúc vào tất cả các tổ hoạt động và say mê với việc đọc báo tập thể, quên bẵng mất ông bác sĩ I-van I-va-nứt, quên mất cả lời ông dặn là đến chơi nhà ông trước ngày hai mươi tháng Năm. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 30/5/15
  11. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 14

    Đồng năm mươi cô-pếch bằng bạc

    Đúng vào hôm mà cuối cùng tôi quyết định đến nhà ông bác sĩ thì ở trường chúng tôi ngay từ tờ mờ sáng đã xôn xao náo động ầm lên. Đã tìm thấy con nhím của Va-li-a. Thì ra nó bò lên trần nhà, và không biết làm sao lại rơi vào cái thùng đựng cải bắp cũ.

    Có lẽ nó nhớ ra rằng suốt cả mùa đông nó đã không ngủ, cũng có thể là vì nằm trong thùng suốt hai tuần lễ nên nó yếu đi, trông hình thù nó chả ra sao cả. Dù sao thì cũng phải cố bán nó ngay đi, vì chắc là nó sắp ngoẻo rồi. Khi người ta động vào mũi nó, nó cũng không giấu cái mõm nó đi, không cuộn tròn lại và xù lông ra nữa. Những sợi râu hung hung quanh mồm nó xệ xuống. Tóm lại con nhím này nguy kịch lắm rồi, chỉ còn cách đưa nó đến trường đại học mà thôi, ở trường đại học có một phòng thí nghiệm thường hay mua nhím. Va-li-a lấy một cái quần cũ gói con nhím mang đi. Một giò sau nó quay về rầu rĩ ngồi xuống giường.

    - Họ sẽ mổ nó, - Va-li-a bảo tôi rồi mím môi mếu sệch để khỏi bật ra tiếng khóc.

    - Mổ thế nào?

    - Rất đơn giản. Nghĩa là rạch bụng nó rồi moi tất cả các thứ ở trong đó ra. Thương thật.

    Chúng tôi cãi nhau một lúc về chuyện có phải ruột gan con nhím nào cũng ở cùng một chỗ như nhau không.

    - Thôi đủ rồi, mặc xác nó. Cậu sẽ mua một con khác. Họ trả cậu bao nhiêu?

    Va-li-a im lặng mở nắm tay ra. Vì con nhím đã gần tắt thở rồi nên người ta chỉ trả có hai mươi cô-pếch.

    - Mình có ba mươi cô-pếch, - tôi nói. - Chúng ta góp nhau lại mua một cái cần câu rút đi.

    Tôi cố ý nói đến cái cần câu rút để an ủi cậu ta. Cần câu rút là một loại cần câu có thể xếp ngắn lại được, dây câu cuộn vào một vòng bánh xe con, do đó có thể ném lưỡi câu có mồi ra cách bờ đến bốn mươi thước. Tôi trông thấy thứ này từ hồi còn ở En-xcơ. Lão cảnh sát trưởng ở En-xcơ đã câu cá bằng loại cần câu này.

    Chúng tôi góp tiền lại, thậm chí còn đem những đồng tiền mười cô-pếch và năm cô-pếch ra đổi lấy một đồng năm mươi cô-pếch bằng bạc mới toanh. Tôi chưa hề trông thấy đồng năm mươi cô-pếch bằng bạc bao giờ, không hiểu sao loại tiền này rất ít khi thấy.

    Câu chuyện con nhím của thằng Va-li-a làm tôi mất bao nhiêu thì giờ. Khi tôi dứt ra để đến thăm ông bác sĩ thì tròi đã xẩm tối. Nhà ông ấy ở phố Du-bốp-xki, cách chỗ chúng tôi rất xa. Mà đi tàu điện bây giờ phải mua vé chứ không như hồi năm 1920 nữa. Thế nhưng tôi đi đến tận nơi mà không mất tiền.

    Trong căn nhà gác quét vôi trắng có hàng cột sâu tít trong khu vườn ở phố Du-bốp-xki, chỉ còn một cửa sổ còn sáng ánh đèn. Tôi cho rằng đó là ánh đèn ở phòng ông bác sĩ. Nhưng tôi đã lầm. Thì ra ông bác sĩ ở trên gác ba mà ánh đèn thì lại ở gác hai. Chỗ ông ở là phòng số tám. Đây rồi. Bên dưới số phòng có hàng chữ to viết bằng phấn trắng:

    “Đây là nhà Pa-vơ-lôp chứ không phải nhà Lé-ven-xơn”

    Pa-vơ-lốp - đó chính là bác sĩ I-van I-va-nứt.

    Một người đàn bà tay bế con ra mỏ cửa cho tôi. Bà ấy cứ suỵt luôn mồm chỉ sợ tôi nói to tiếng. Bà hỏi tôi cần gì. Tôi nói. Bà ấy vẫn suỵt suỵt và bảo bác sĩ có nhà nhưng hình như đang ngủ.

    - Hay là em cứ gõ cửa xem sao, - bà ấy thì thào. - Có khi chưa ngủ cũng nên.

    - Tôi chưa ngủ! - Không biết ông bác sĩ từ đâu nói vọng ra - Ai đấy?

    - Có chú bé nào đây này.

    - Cho chú ấy vào.

    Lần đầu tiên tôi đến nhà ông bác sĩ và rất ngạc nhiên thấy nhà ông bề bộn ngổn ngang. Trên sàn nhà giữa những gói chè và thuốc lá lăn lóc mấy chiếc găng tay da và ủng lông rất đẹp và rất lạ. Khắp phòng toàn những va-li đa và ba-lô để ngỏ. Và bác si I- van I-va-nứt đang đứng giữa đống đồ đạc ngổn ngang ấy, tay cầm cái chân máy ảnh.

    - A, Xa-nhi-a! - Ông vui vẻ nói. - Em đến đấy à? Thế nào, công việc ra sao? Vẫn sống chứ?

    - Vẫn sống ạ.

    - Tuyệt! Có ho không?

    - Không ạ.

    - Giỏi lắm! Chú em này, ta đã viết một bài báo nói về chú đấy.

    Tôi cho là ông nói đùa.

    - Một hiện tượng câm hiếm, - bác sĩ nói. - Em có thể tìm đọc tờ “Báo Y học” số mười bảy. Bệnh nhân G. chính là em đấy. Cứ coi như em đã nổi danh rồi. Tất nhiên mới chỉ nổi danh nghĩa một bệnh nhân mà thôi. Nhưng mọi sự còn ở phía trước kia mà.

    Ông hát: “Tất cả còn ở phía trước! Tất cả còn đang ở phía trước!” Rồi bỗng nhiên ông chồm tới cái va-li to nhất sập nắp va- li xuống rồi ngồi lên trên để ấn cái nắp xuống cho chặt.

    Có lẽ bác sẽ chuẩn bị đi đâu khỏi Mát-xcơ-va. Tôi định hỏi xem ông đi đâu, nhưng tôi lại nghĩ trước hết phải tìm hiểu хem tại sao ngoài cửa ông ấy lại viết đây là nhà ông chứ không phải nhà Lê-ven-xơn.

    - Bác I-van I-va-nứt, sao ngoài cửa nhà bác lại viết đây là nhà bác chứ không phải là nhà Lê-ven-xơn?

    Ông bác sĩ cười.

    - Bỏi vì ta sống ở đây, - ông trả lời. - Còn Lê-ven-xơn ở ngôi nhà bên cạnh. Buồng nhà ông ấy số tám, buồng này cũng số tám. Nhưng lại vào chung một cổng. Chú có hiểu không?

    - Hiểu ạ.

    Hôm ấy bác sĩ nói chuyện rất nhiều. Tôi chưa bao giờ thấy ông vui vẻ như hôm đó. Bỗng ông nảy ra quyết định là phải tặng tôi một vật gì để làm kỷ niệm nên đưa cho tôi đôi găng tay bằng da tuy đã cũ nhưng còn tốt lắm, có nẹp gài ở cổ tay, Tôi toan từ chối, nhưng ông ấy chẳng nói dài dòng, cứ nhét đôi găng tay cho tôi rồi nói:

    - Cầm lấy và im đi.

    Đáng lẽ tôi phải cám ơn ông đã cho tôi đôi găng tay nhưng thay cho lời cám ơn tôi hỏi ông:

    - Bác chuẩn bị đi đâu thế? Đi khỏi nơi đây à?

    - Ta sắp đi, bác sĩ trả lời. - Lên Cực bắc, ra ngoài vòng Bắc cực. Em đã nghe nói đến bao giờ chưa?

    Tôi lờ mờ nhớ lại bức thư của người hoa tiêu tàu biển viễn dương.

    - Em có nghe nói.

    - Hay lắm. Chú em ạ. Ta có người vợ chưa cưới ở trên đó. Em có biết thế là thế nào không?

    - Em biết.

    - Nói khoác. Em biết nhưng chưa hiểu hết đâu.

    Tôi bắt đầu quan sát những vật lạ mắt mà ông chuẩn bị mang theo. Những chiếc quần lông có vá đũng bằng da, những cái đế giày bằng sắt có dây da, vân vân. Bác sĩ vừa xếp sắp đồ đạc vừa nói chuyện luôn mồm. Có một chiếc va-li làm thế nào cũng không đóng lại được. Ông cầm lấy cái nắp trên rồi đổ tất cả đồ đạc ra giường. Một tấm ảnh to rơi xuống chân tôi. Đó là một tấm ảnh cũ đã ngả màu vàng và đã bị gấp mấy chỗ. Đằng sau tấm ảnh có dòng chữ nét tròn và to: “Toàn đội thủy thủ tàu “Xanh Ma-ri”. Tôi ngắm kỹ tấm ảnh và rất ngạc nhiên thấy có cả bố Ca-chi-a cũng ở đấy. Đứng là ông ấy! Ông ngồi chính giữa, hai tay khoanh trước ngực, hệt như tấm ảnh treo ở phòng ăn gia đình nhà Ta-ta-ri-nốp. Nhưng trên tấm ảnh này tôi không tìm thấy ông bác sĩ đâu cả, tôi bèn hỏi sao trong ảnh không có ông ấy.

    - Chú em ạ, bởi vì tôi không cùng đi trên chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri”, - bác sĩ thở phì phò, siết dây đai va-li và nói.

    Ông cầm tấm ảnh ở tay rồi nghĩ xem nên cất vào đâu.

    - Có một người cho làm kỷ niệm.

    Tôi định hỏi xem người đó là ai, có phải là bố Ca-chi-a không, nhưng ông đã nhét tấm ảnh vào trong quyển sách và bỏ quyển sách vào ba-lô.

    - Thôi nhé. Xa-nhi-a, - ông nói. - ta phải đi đây! Sau này em viết thư cho ta kể chuyện em làm được những việc gì. bản thân ra sao... Chú em ạ, phải nhớ rằng chú là một trường hợp rất thú vị đấy!

    Tôi ghi lại địa chỉ của ông rồi chúng tôi chia tay.

    Tôi cuốc bộ về nhà. Dọc đường tôi đi vòng đến phố Tve-rơ-xcai-a để nghe truyền thanh. Đây là chiếc loa truyền thanh đầu tiên của Mát-xcơ-va. Nó thật là hay. Chỉ tội cái tiếng to quá làm tôi nhớ đến Gri-sca Pha-be trong vở bi kịch “Thời gian đã đến”.

    Tôi về đến trại trẻ thì đã gần mười một giờ. Tôi hơi lo, sợ trại đóng cửa. Nhưng không. Cửa vẫn mở. Tất cả các cửa sổ đều sáng ánh đèn, có việc gì xảy ra vậy?

    Tôi chạy vụt vào phòng ngủ như tên bắn. Phòng rỗng không! Giường nào cũng đều trải đệm cả, chắc mọi người đã chuẩn bị ngủ rồi!

    - Bác Pê-chi-a! - Tôi nhìn thấy bác bếp liền gọi ngay. Bác mặc bộ quần áo mới, tay cầm cái mũ dạ, đi từ trong bếp ra. - Có chuyện gì xảy ra thế?

    - Người ta mời họp. - Bác bếp thì thào ra vẻ bí mật.

    - Họp gì? ở đâu?

    - Họp đại hội toàn thể giáo viên, công nhân viên chức và học sinh, - bác bếp vẫn nói vẻ bí mật như lúc nãy.

    Có lẽ bác ấy đã ngồi ngủ gật một lúc rồi nên nói mỗi câu lại díp mắt lại. Bác ấy toan giải thích cho tôi rằng một khi bác được mời đi họp thì cũng phải ăn mặc ra hồn nhưng tôi đã chạy lên trường.

    Trong giảng đường lớn chật ních, giá có quả táo rơi cũng không có chỗ lọt, mà còn nhiều học sinh đứng ngoài cửa ra vào, ở dọc hành lang. Nhưng tôi vẫn luồn vào được và ngồi ngay hàng đầu. Song không phải là ngồi trên ghế mà ngồi bệt xuống đất.

    Đó là một cuộc họp long trọng do có Va-ri-a làm chủ tọa. Má cô đỏ hồng, cô ngồi trên bàn chủ tịch đoàn, tay cầm bút chì, có luôn luôn hất mớ tóc xõa trước mặt ra đằng sau. Đây là lần đầu tiên cô làm chủ tịch một cuộc họp lớn nên cũng dễ hiểu tại sao cô lại xúc động đến thế. Những học sinh khác trong Chi đoàn thanh niên cộng sản ngồi hai bên cạnh cô. đang chăm chú ghi chép gì đó. Trên đầu họ, phía bên trên bàn chủ tịch đoàn, phía trên cả phòng họp có treo một bức tranh cổ động của tôi. Tôi vui sướng đến nghẹn ngào. Đây là bức tranh cổ động của tôi - một chiếc máy bay đang lượn trong mây và bên dưới có hàng chữ:

    "Các bạn thanh niên, hãy gia nhập Hội những người bạn của Không quân".

    Nhưng đem treo bức tranh cổ động của tôi ở đây có tác dụng gì thì mãi tôi vẫn không hiểu nổi, vì những người lên phát biểu ý kiến chỉ toàn nói đến cái tối hậu thư nào đó. Nhưng thầy Cô-ra-bơ-li-ốp đã lên phát biểu ý kiến và mọi sự trở nên rõ ràng.

    - Các đồng chí! - Tiếng thầy không to nhưng rất rành rọt. - Chính phủ Xô Viết nhận được một tối hậu thư. Nói chung mọi người đều đã đánh giá rất đúng ý nghĩa của cái văn kiện này. Theo quan điểm của các bạn thì tác giả của những văn kiện ấy chính là những tên đế quốc điển hình. Điều đó hoàn toàn đúng. Song nếu cho rằng bản thân chúng không biết điều này hoặc giả cho rằng lần đầu tiên chúng được nghe những điều này ở các bạn thì là hoàn toàn sai. Không, chúng ta phải dùng những biện pháp khác để trả lời cho cái tối hậu thư ấy! Chúng ta phải tổ chức ở trong trường phân hội những người bạn của Không quân!

    Mọi người vỗ tay nhiệt liệt, sau đó thầy Cô-ra-bơ-li-ốp cứ nói xong một câu là mọi người lại vỗ tay. Cuối cùng ông còn chỉ lên bức tranh cổ động của tôi. Tôi kiêu hãnh cảm thấy toàn trường đều nhìn lên bức tranh chiếc máy bay đang bay lượn trong mây do tôi vẽ và đều đọc hàng chữ: “Các bạn thanh niên, hãy gia nhập Hội những người bạn của Không quân!”

    Kế đó Ni-cô-lai An-tô-nứt lên phát biểu và ông nói cũng rất hay. Sau đó cô Va-ri-a tuyên bố tất cả Chi đoàn thanh niên cộng sản đều gia nhập “Hội những người bạn của Không quân”. Nhũng ai muốn gia nhập Hội thì ngày mai từ mười giờ sáng đến mười giờ tối đến chỗ cô để ghi tên. Còn bây giờ cô đề nghị mở một cuộc lạc quyên ủng hộ Không quân Xô Viết. Số tiền thu được sẽ gửi cho tòa soạn báo “Sự thật”.

    Chắc lúc đó tôi rất xúc động nên Va-li-a nhìn tôi ngạc nhiên. Tôi móc túi lấy đồng năm mươi cô-pếch bằng bạc giơ cho nó xem. Nó hiểu. Nó đang định nói gì đó, chắc là chuyện cái cần câu rút. Nhưng nó lại ghìm được và chỉ gật đầu.

    Tôi chạy lên sân khấu đưa đồng năm mươi cô-pếch cho cô Va-ri-a.

    - Thầy I-van Pa-vơ-lứt, - tôi nói với thầy Cô-ra-bơ-li-ốp khi thầy đứng ngoài hành lang hút thuốc bằng cái bót dài. - Thầy cho em biết bao nhiêu tuổi mới được tuyển làm phi công ạ?

    Ông nghiêm nghị nhìn tôi.

    - Tôi không biết, Xa-nhi-a ạ. Như em thì chắc người ta không nhận đâu...

    Không nhận? Tôi nhớ đến lời thề mà tôi và Pê-chi-a đã nguyện với nhau ở vườn Nhà thờ: “Đấu tranh và tìm tòi, quyết đạt mục đích chứ không đầu hàng!” Nhưng tôi chẳng nói ra. Có nói thì thầy Cô-ra-bơ-li-ốp cũng chảng hiểu được lời thề ấy. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 30/5/15
  12. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Phần thứ ba

    NHỮNG LÁ THƯ CŨ

    Chương 1


    Bốn năm

    Tôi như đang xem một bộ phim câm cũ kỹ, trong óc tôi tưởng tượng ra một cái đồng hồ khổng lồ, có điều chiếc kim dài của cái đồng hồ này chỉ năm. Nó quay trọn một vòng thì tôi thấy mình đang ngồi học giờ giảng của thầy Cô-ra-bơ-li-ốp, cùng ngồi một bàn với Rô-ma-sca. Tôi đánh cuộc với Rô-ma-sca, để cho hắn lấy con dao con cứa ngón tay tôi, tôi quyết không kêu đau, cũng không rụt tay lại. Đây là cuộc thử thách ý chí. Căn cứ vào “Các nguyên tắc phát triển ý chí” thì tôi phải luyện tập để “không bộc lộ tình cảm của mình”. Tối nào tôi cũng phải ôn lại các nguyên tắc ấy. Cuối cùng có một cơ hội tốt thế này, tôi kiểm nghiệm lại mình.

    Mặc dù bài học hôm nay rất thú vị nói về phong tục tập quán của người Trúc-tri. Song cả lớp chả có ai nghe thầy Cô-ra-bơ-li-ốp giảng bài, mọi người đều chăm chú nhìn chúng tôi.

    - Cứa đi, - tôi nói với Rô-ma-sca.

    Cái thằng khốn kiếp ấy cầm con dao lạnh lùng cứa vào ngón tay tôi một cái. Tôi không kêu nhưng bất giác rụt tay lại. Thế là tôi thua cuộc.

    Có người bật kêu lên, thế là tiếng thì thào lan từ bàn này sang bàn khác. Máu tươi chảy ra. Tôi cố tình cười thật to, tỏ ra mình không đau tí nào cả. Bỗng nhiên thầy Cô-ra-bơ-li-ốp đuổi tôi ra khỏi lớp. Tôi bước ra tay đút vào túi quần.

    - Em có thể ra hẳn không cần quay lại nữa.
    Nhưng tôi vẫn quay lại. Bài học ấy thật là thú vị, tôi ngồi bệt xuống sàn bên cạnh cửa để nghe bài giảng...
    Nguyên tắc phát biểu ý chí! Tôi đã vật lộn với những nguyên tắc ấy mất một năm. Tôi không những đã thí nghiệm việc “giấu kín tình cảm của mình” mà còn “không thèm để ý đến những ý kiến của những kẻ mà mình khinh thường”. Tôi không nhớ rõ trong hai điều này thì điều nào khó hơn. Có lẽ điều thứ nhất, bởi vì lúc đó tôi còn tình cảm hoặc ý nghĩ gì là lộ ngay ra trên mặt.
    “Phải cố gắng ngủ ít đi bởi vì khi ngủ không có ý chí”, - đối với một người như tôi thì điều này cũng chẳng phải là vấn đề khó khăn. Tôi đã rèn luyện được “phải xác định kế hoạch hàng ngày ngay từ sáng sớm”. Suốt cả đời tôi đã tuần theo quy tắc này.
    Còn về cái nguyên tắc chủ yếu “nhớ kỹ mục đích cuộc sống của mình” thì tôi chẳng cần phải thường xuyên ôn tập bởi vì ngay từ những năm ấy mục đích sống của tôi đã rõ ràng rồi...
    Chiếc kim dài lại quay đúng một vòng nữa. Đó là một buổi sớm tinh mơ vào một ngày mùa đông năm một nghìn chín trăm hai mươi lăm. Tôi thức giấc sớm hơn mọi người, nhưng vẫn còn nằm trên giường mơ màng không biết còn ngủ hay đã dậy thật rồi. Như đang trong giấc mộng, trước mắt tôi hiện lên quê hương En-xcơ, bức tường thành pháo đài, chiếc cầu phao, những ngôi nhà trên bờ sông thoai thoải, Gai-e Cu-li, ông già Xcô-vô-rốt ni-cốp dì Đa-sa hay đọc những bức thư của người khác với một vẻ sành sỏi và tôi - vừa lùn vừa bé, đầu cắt tóc ngắn, mặc chiếc quần rộng thùng thình. Thôi đi, tôi mà lại thế à?
    Tôi nằm và suy nghĩ nửa tỉnh nửa mê. En-xcơ cùng với những bức thư người lạ. Gai-e, dì Đa-sa dần dần mờ đi. Tôi nghĩ đến những người trong gia đình Ta-ta-ri-nốp. Đã hai năm tôi không đến nhà này. Ni-cô-lai An-tô-nứt vẫn còn căm tức tôi. Tên họ tôi làm gì có âm rít thế mà mỗi lần ông ta gọi đều rít lên. Cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na vẫn quý tôi. Mới đây cụ nhờ thầy Cô-ra-bơ-li-ốp chuyển lời “chào và thăm hỏi” tôi. Không biết bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na ra sao? Chắc vẫn ngồi trên đi-văng hút thuốc lá? Còn Ca-chi-a nữa?
    Tôi nhìn lên đồng hồ. Đã sắp bảy giờ. Phải dậy thôi, tôi đã tự hứa với mình là phải ra khỏi giường trước khi kẻng dậy. Tôi rón rén chạy sang phòng rửa mặt, đứng tập thể dục trước cửa sổ mở toang. Trời rất lạnh. Những bông tuyết nhỏ bay vào trong cửa sổ, xoáy tròn rồi rơi trên vai tôi và tan đi. Tôi rửa nửa người trên rồi đi đọc sách. Tôi đang đọc cuốn sách tuyệt vời nói về Nam cực của A-mun-xen(1). Tôi đọc lần này đã là lần thứ tư.
    Khi Nan-xen(2) hoàn thành chuyến đi biển nổi tiếng thì A-mun-xen mới có mười bảy tuổi, tác giả kể lại tâm tình của mình khi đón Nan-xen trở về; suốt ngày hôm đó ông đi giữa đám người đi đón hò hét “u-ra" qua các phố có cắm cờ. Những mạch máu hai bên thái dương đập mạnh, những mơ ước của tuổi thanh niên dậy lên như một con bão lốc trong tâm hồn ông.
    Cơn giá lạnh thấm vào vai tôi, vào lưng, vào chân và thậm chí đến da bụng cũng nổi gai lên. Tôi tiếp tục đọc, chỉ sợ bỏ sót mất chữ nào. Từ trong bếp đã vọng ra tiếng xôn xao, các cô gái vừa nói chuyện vừa đi vào nhà ăn, tay cầm bát đĩa, nhưng tôi vẫn cứ đọc. Mặt tôi nóng bừng lên, mạch máu hai bên thái dương đập mạnh, nhưng tôi vẫn tiếp tục đọc với niềm xúc động và phấn chấn. Tôi biết rằng tôi sẽ nhớ mãi phút này...
    Chiếc kim dài của cái đồng hồ lớn lại quay thêm một vòng nữa. Tôi thấy mình ở trong một căn phòng nhỏ rất quen thuộc. Suốt ba năm qua hầu như chiều nào tôi cũng có mặt ở đây. Theo sự phân công của Chi đoàn thanh niên cộng sản, lần đầu tiên tôi hướng dẫn tổ đọc báo tập thể. Lần đầu tiên thật là đáng sợ. Tôi biết “tình hình trước mắt”, “chính sách dân tộc”, “các vấn đề quốc tẽ”. Nhưng tôi còn biết rõ hơn những kỷ lục thế giới về bay cao, bay lâu và bay xa. Nhỡ có ai hỏi tôi về việc giảm giá thì sao? Tuy nhiên mọi việc rồi cũng xong. Có ai trong bọn con gái yêu cầu tôi kể cuộc đời của Lê-nin, Gì chứ, tiểu sử Lê-nin thì tôi biết rõ lắm.
    Trong căn phòng của Chi đoàn thanh niên cộng sản mỗi lúc càng chật thêm. Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp đứng ở ngoài cửa chăm chú nghe tôi nói. Ông đưa mấy ngón tay vuốt bộ ria, hay quá, thế nghĩa là ông ấy rất hài lòng. Cảm giác vui sướng và tự hào ấy xâm chiếm lòng tôi. Tôi vừa nói vừa ngạc nhiên nghĩ: “Ồ, mình nói hay quá!”
    Nếu không kể cái lần lật đổ sự lãnh đạo của Sti-ô-pa I-va-nốp ở bên đống lửa thì đây là lần đầu tiên tôi có một hoạt động trước mặt mọi người. Xem ra tôi đã thành công. Ngày hôm sau giáo viên chính trị gọi tôi lên, đề nghị tôi nhắc lại tiểu sử Lê-nin và nói: “Nếu tôi có bị ốm thì Xa-nhi-a Gri-gô-ri-ép sẽ thay tôi”.
    Chiếc kim đồng hồ lại quay một vòng nữa. Và tôi đã mười bảy tuổi.
    Toàn trường tập trung ở giảng đường lớn. Các thẩm phán của tòa án ngồi sau chiếc bàn đỏ to. Bên tay trái là ghế của trạng sư, bên phải là ghế của công tố uỷ viên, trước vành móng ngựa là một bị cáo.
    - Bị cáo, tên anh là gì? - Chánh án hỏi.
    - Ép-ghê-ni.
    - Họ gì?
    - Ô-nê-ghin.
    Đó là một ngày đáng ghi nhớ.

    (1) D. A-mun-xen (1872 - 1928) nhà du lịch và thám hiểm Na-uy. - N.D.
    (2) F. Nam-xen (1861 - 1930) nhà hải dương học. nhà thám hiểm Bắc cực người Na-uy - N.D.

    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 31/5/15
  13. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 2

    Phiên tòa xử Ép-ghê-ni Ô-nê-ghin

    Lúc đầu ở trong trường chẳng ai nghĩ đến cái trò này cả. Nhưng khi một diễn viên trong đội kịch của chúng tôi đề nghị dựng vở “Phiên tòa xử Ép-ghê-ni Ô-nê-ghin” thành kịch nói rồi hóa trang lên diễn thì cả trường lại chỉ nói đến nó.
    Gri-sca Pha-be được mời đóng vai chính. Cậu ta đã đi học ở trường nghiệp vụ sân khấu được một năm. Nhưng vì các kỷ niệm cũ nên thỉnh thoảng cậu ta vẫn về trường xem những vở kịch chúng tôi diễn lần đầu. Các nhân chứng do diễn viên của chúng tôi tự đóng. Không tìm đâu ra bộ quần áo cho chị vú nuôi của gia đình La-ri-nốp, cho nên phải thuyết minh rằng quần áo của người vú nuôi ở thời đại Pu-skin cũng giống như thời bây giờ. Vai trạng sư do Va-li-a đóng. Vai công tố ủy viên do thầy giáo Xút-kin của chúng tôi đóng. Chánh án là tôi...
    Phạm nhân đeo tóc giả, mặc chiếc áo dài xanh, đi giày có nơ, bít tất cao đến tận đầu gối, ngồi trên ghế bị cáo, tay cầm cây bút chì gẫy điềm nhiên cạy móng tay. Đôi khi hắn vênh váo đồng thời cũng có vẻ thẫn thờ nhìn khán giả và các quan tòa. Chắc hắn cho rằng nếu ở vào tình trạng này thì Ép-ghê-ni Ô-nê-ghin cũng sẽ làm như thế.
    Cụ La-ri-na cùng với mấy người con gái và chị vú nuôi ngồi ở trong phòng nhân chứng (phòng nghỉ cũ của các giáo viên). Trái lại những người này lại rất hồi hộp, đặc biệt là chị vú nuôi, so với lứa tuổi của mình thì rõ ràng là trẻ quá và đẹp quá. Người trạng sư cũng rất xúc động không hiểu tại sao lúc nào ông ta cũng ôm kè kè cặp hồ sơ dày cộm. Vật chứng là hai khẩu súng lục kiểu cổ đặt trên mặt bàn trước mặt tôi. Ở sau lưng, tôi nghe rõ tiếng các đạo diễn thì thào nhắc hối hả...
    - Ngươi có thừa nhận là người phạm tội không? - tôi hỏi Gri-sca.
    - Tội gì?
    - Dùng hình thức đấu súng để giết người. - Người đạo diễn khẽ nhắc.
    - Dùng hình thức đấu súng để giết người, - tôi nói xong thì nhìn vào lời luận tội và nói tiếp. - Giết Vla-đi-mia Len-xki, một nhà thơ mười tám tuổi.
    - Không bao giờ! - Gri-sca vênh váo trả lời. - Các ngài nên phân biệt đấu súng khác với giết người.
    - Đã vậy thì chúng ta bắt đầu thẩm vấn các nhân chứng, - tôi tuyên bố. - Nữ công dân La-ri-na, bà có thể chỉ dẫn được gì trong việc này?
    Khi diễn tập thì đoạn này rất sinh động, nhưng đến bây giờ thì mọi người bất giác cảm thấy diễn không đạt. Chỉ có Gri-sca là như cá gặp nước, lúc thì hắn rút cái lược ra chải hai bên râu má, lúc lại chăm chăm nhìn các quan tòa với vẻ trách móc, lúc thì hắn ngửa mặt lên mỉm cười miệt thị. Khi nhân chứng là cụ La-ri-na nói rằng Ô-nê-ghin ở nhà cụ được coi như người thân thích thì Gri-sca lấy một tay che mắt, một tay đặt lên ngực để tỏ ra rằng hắn rất đau khổ. Hắn đóng vai này rất cừ. Tôi thấy các nhân chứng là đàn bà, đặc biệt là Ta-chi-a-na và On-ga cứ dán mắt nhìn hắn. về Ta-chi-a-na còn khả dĩ, bởi vì theo truyện thì Ta-chi-a-na có yêu hắn. Nhưng On-ga thì hoàn toàn lạc mất vai của cô ta. Khán giả cũng chỉ toàn nhìn vào Gri-sca, chẳng ai chú ý đến chúng tôi cả.
    Tôi bảo nữ nhân chứng La-ri-na ngồi xuống và gọi đến tên Ta-chi-a-na. Trời ơi, cô ta tuôn ra luôn một tràng! Cô ta chẳng giống nhân vật Ta-chi-a-na của Pu-skin tý nào, họa chăng chỉ được cái trùng tên là Ta-chi-a-na và những món tóc quăn rủ xuống vai là còn tàm tạm. Khi tôi hỏi cô ta có cho rằng Ô-nê-ghin phạm tội giết người không thì cô ta trả lời quanh co rằng Ô-nê-ghin là một tên ích kỷ.
    Tôi để cho viên trạng sư nói. Bắt đầu từ phút này trở đi tất cả đều đảo lộn tùng phèo lên hết. Thứ nhất là viên trạng sư nói lăng nhăng chẳng đâu vào đâu cả. Thứ hai là tôi nom thấy Ca-chi-a.
    Tất nhiên bốn năm qua cô đã thay đổi quá nhiều. Nhưng cái đuôi sam vắt đằng trước ngực thì vẫn cuộn lại và trên trán cũng vẫn những vòng tóc như trước. Cô ta vẫn nheo mắt ra vẻ người lớn như trước và cái mũi vẫn hếch lên. Có lẽ đến một trăm năm sau nữa tôi vẫn có thể nhận được ra cô bằng cái mũi này.
    Cô chăm chú lắng nghe Va-li-a cãi. Giao cho Va-li-a đóng vai trạng sư thật là một sai lầm lớn, bởi vì trên trái đất này nó chỉ thích có môn động vật mà thôi. Nó mở đầu bằng lời khẳng định kỳ quặc rằng: trong thế giới động vật cũng có đấu tay đôi luôn, nhưng có ai bảo rằng chúng mưu sát nhau đâu. Rồi nó lại nói đến những con vật thuộc loài gặm nhấm và say sưa phát triển đề tài này đến nỗi không thể tưởng tượng được nó làm thế nào để trở lại vấn đề biện hộ cho Ép-ghê-ni Ô-nê-ghin. Nhưng Ca-chi-a nghe nó một cách thích thú. Theo kinh nghiệm mấy năm trước thì tôi biết rằng khi nào cô cắn tóc ở đầu đuôi sam là cô đang thích thú. Trong bọn con gái chỉ có mình cô là không hề chú ý gì đến Gri-sca.
    Va-li-a đột ngột kết thúc bài cãi và đến lượt công tố viên nói. Lúc này mới thật là tẻ ngắt. Viên công tố nói đúng một tiếng đồng hồ, chứng minh rằng Len-xki tay bị xã hội địa chủ quan liêu của nửa đầu thế kỷ thứ mười chín giết chết, nhưng Ép-ghê-ni Ô-nê-ghin vẫn phải chịu toàn bộ trách nhiệm về vụ giết người này, “bởi vì bất cứ cuộc quyết đấu nào cũng đều là giết người cả, chẳng qua chỉ là có âm mưu trước mà thôi”.
    Tóm lại viên công tố cho rằng cần xử phạt Ép-ghê-ni Ô-nê-ghin mười năm tù và tịch thu toàn bộ tài sản.
    Thật không ai ngờ lại có lời kết tội đến như vậy nên cả hội trường cười rộ lên. Gri-sca kiêu hãnh đứng bật dậy... Tôi cho phép hắn nói.
    Người ta cho rằng diễn viên có thể cảm thấy được tâm trạng của khán giả. Chắc rằng lúc đó Gri-sca đã cảm thấy được, nên ngay câu đầu tiên hắn đã bắt đầu gào lên. Về sau hắn giải thích rằng làm như thế là để “cổ vũ hộ trường”. Song hắn đã không “cổ vũ được hội trường”. Trong lời lẽ của hắn có một nhược điểm: không sao hiểu được là hắn đang nhân danh mình hay nhân danh Ép-ghê-ni Ô-nê-ghin mà nói. Chẳng lẽ Ô-nê-ghin lại có thể nói được câu “Len-xki có khuyết điểm tự cao tự đại” hay là “ngay như bây giờ nếu cần đâm trúng tim Vla-đi-mia Len-xki cũng không run tay”.
    Tóm lại, khi hắn hoàn toàn tự mãn ngồi xuống lấy khăn tay lau trán thì mọi người thở phào nhẹ nhõm.
    - Tòa ngừng xử để vào hội thẩm.
    - Nhanh lên một tí, các cậu!
    - Chán ngắt!
    - Kéo dài quá đấy!

    Những điều ấy đều rất đúng. Chẳng ai bảo ai, tất cả chúng tôi cùng quyết định kết thúc chớp nhoáng cuộc hội thẩm. Điều làm tôi kinh ngạc là đại đa số quan tòa đều đồng ý với viên công tố xử mười năm tù và tịch thu toàn bộ tài sản. Rất rõ ràng là cái án này chẳng có liên quan gì đến Ép-ghê-ni Ô-nê-ghin cả. Mười năm tù là người ta muốn xử Gri-sca bởi vì ngoài hai nữ nhân chứng là Ta-chi-a-na và On-ga ra, tất cả đều đã chán hắn rồi. Nhưng tôi nói như vậy là không công bằng: dù sao thì Gri-sca cũng diễn rất khá, không có cậu ta thì vở kịch sẽ chán ngắt. Cuối cùng mọi người đều tán thành xử hắn năm năm tù.
    - Nghiêm! Tòa ra xử!
    Mọi người đứng dậy. Tôi đọc bản án.
    - Không đúng!
    - Phải tuyên bố vô tội!
    - Đả đảo!
    - Thôi được, các bạn, - tôi tiu nghỉu nói. - Tôi cũng cho rằng không đúng. Tôi cho rằng nên tuyên bố cho Ép-ghê-ni Ô-nê-ghin vô tội và phải tỏ lời cám ơn bạn Gri-sca. Ai tán thành.
    Mọi người cười vang và giơ tay tán thành.
    - Nhất trí thông qua. Phiên tòa bế mạc.
    Tôi hết sức bực mình. Đi nhận lấy cái việc này làm gì. Đáng lẽ phải biến đoạn kịch xử án này thành một trò cười. Nhưng làm thế nào? Tôi chắc mọi người đều thấy tôi vụng về và đần độn.
    Với tâm trạng buồn bã đó tôi đi ra phòng gửi áo ngoài thì lại gặp Ca-chi-a. Cô ấy vừa lấy áo măng-tô và đang chen ra chỗ thưa người ở gần lối ra.
    - Chào bạn! - Cô nói và cười. - Cầm giúp mình cái áo khoác này một tí. Thế cũng gọi là tòa án!
    Cô ta nói câu này với giọng tự nhiên cứ như mới tối hôm qua chúng tôi vẫn còn gặp nhau ấy.
    - Chào cậu! - Tôi buồn rầu đáp.
    Cô nhìn tôi ra vẻ rất thú vị.
    - Xem bạn đã thay đổi thế nào rồi!
    - Thế sao?
    - Kiêu hãnh tợn. Này, lấy áo bành-tô rồi cùng đi.
    - Đi đâu?
    - Trời, lại còn hỏi đi đâu nữa! Đến đầu đường này thôi cũng được. Cậu chẳng lịch sự lắm nhỉ?
    Tôi cứ thế không mặc áo choàng, cùng cô ta đi ra. Nhưng đến đầu cầu thang thì cô bắt tôi quay lại:
    - Trời lạnh mà, gió cũng rất to...
    Tôi chạy theo đến góc phố Tve-rơ-xcai-a và vườn hoa Tri-um-phan-nai-a thì đuổi kịp cô ta. Tôi đã nhớ mãi hình ảnh cô lúc này.
    Cô đội cái mũ bịt tai màu tro nhưng không buộc dây xuống cằm. Trong lúc tôi về trường rồi quay lại thì những vòng tóc trên trán cô đã có một lớp sương. Gió thổi tung tà áo khoác của cô, cô đứng hơi nghiêng mình, tay đè lên giữ vạt áo. Người cô tầm thước rất cân đối. Có lẽ cũng rất đẹp nữa. Sở dĩ tôi nói “có lẽ” là vì lúc đó tôi không nghĩ đến điều này. Tất nhiên ở trong trường chúng tôi không có một đứa con gái nào lại dám ra lệnh cho tôi: “Lấy áo bành-tô rồi cùng đi!”
    Nhưng đó lại chính là cô bé Ca-chi-a mà tôi đã nắm lấy đuôi sam và gí mũi xuống tuyết. Dù sao đó cũng là Ca-chi-a!
    Ca-chi-a ở chỗ chúng tôi có hai tiếng đồng hồ mà biết được mọi việc trong trường tôi. Cô rất thương tiếc Brôi-man, người giáo viên dạy vẽ mà ai cũng mến đã qua đời. Ca-chi-a biết mọi người đều cười cô giáo tiếng Đức, già rồi mới cắt tóc ngắn và đánh môi son. Cô ấy nói với tôi về nội dung số báo tường mà chúng tôi sắp ra. Thì ra đây là số báo đặc biệt về phiên tòa xử Ép-ghê-ni Ô-nê-ghin. Có một bức biếm họa đã được truyền tay nhau. Bức tranh vẽ cậu Va-li-a đứng dưới hàng chữ “Trong giới động vật cũng có những trận quyết đấu” và đang can hai con chó cắn nhau. Gri-sca Pha-be thì tay cầm cái lược, đắm đuối nhìn hai nữ nhân chứng Ta-chi-a-na và On-ga.
    - Này, tại sao mọi người gọi cậu là thuyền trưởng? Cậu muốn vào học trường Hàng hải phải không?
    - Mình cũng chưa biết, - tôi nói, mặc dù cách đây rất lâu tôi đã biết là mình sẽ xin vào học trường Hàng không chứ không phải trường Hàng hải.
    Tôi tiễn cô đến tận cổng ngôi nhà mà tôi rất quen thuộc. Cô mời vào.
    - Không tiện.
    - Tại sao? Việc cậu và Ni-cô-lai An-tô-nứt có quan hệ không tốt với nhau thì liên quan gì đến mình đâu. Bà mình nhắc đến cậu luôn. Đi vào nhé?
    - Không, không tiện.
    Ca-chi-a lạnh lùng nhún vai.
    - Thôi được, tùy cậu?
    Tôi đuổi theo cô đến sân.
    - Ca-chi-a, cậu ngốc lắm, - tôi nói với cô. - Mình đã bảo là không tiện. Tốt nhất là chúng mình sẽ cùng đi chơi đâu, được không? Đến sân băng nhé?
    Ca-chi-a nhìn tôi, bỗng cô ta vênh mặt lên như hồi còn nhỏ cô thường làm.
    - Để mình nghĩ xem sao, - cô nói vẻ quan trọng. - Khoảng bốn giờ chiều mai gọi dây nói cho mình. Phù, sao mà lạnh thế, đến răng cũng tê cứng lại. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 30/5/15
  14. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 3

    Trên sân trượt băng


    Từ những năm say sưa đọc A-mun-xen, trong óc tôi nảy ra một ý nghĩ hết sức đơn giản như thế này: nếu đáp máy bay thì A-mun-xen đến được Nam cực nhanh hơn rất nhiều. Hết ngày này qua ngày khác, ông ta chật vật nhích dần từng tí giữa vùng mênh mông tuyết trắng. Suốt hai tháng ròng, ông đi theo những con chó và cuối cùng những con chó ấy cũng ăn thịt nhau hết. Nếu ông đáp máy bay thì chỉ một ngày đêm là có thể đến được Nam cực. Ông ấy sẽ không có đủ bạn bè và những người thân thích để đặt tên cho những ngọn núi, những dải băng, những cao nguyên mà ông có thể phát hiện ra trong chuyến bay này.
    Ngày nào tôi cũng ghi chép lại rất nhiều tài liệu trích từ các cuộc thám hiểm Bắc cực và Nam cực. Tôi cắt báo ra những đoạn tin nói về các chuyến bay đầu tiên lên Bắc cực trước đây rồi dán vào một quyển sổ kế toán cũ. Trên trang đầu của cuốn sổ này có viết tên chiếc tàu buồm của A-mun-xen “Tiến lên”. Chiếc tàu buồm “Tiến lên” - ông nói - quả thật là cứ lao tới phía trước “Nan-xen viết về A-mun-xen”. Do đó “Tiến lên” đã trở thành phương châm của tôi hồi đó. Tôi tưởng rằng mình ngồi trên máy bay đi theo Xcốt. Séc-tôn, Rô-béc Pi-ri, tham gia tất cả mọi hành trình. Mà một khi trong tay tôi đã có máy bay thì cũng phải xem xét cấu tạo của nó.
    Chiểu theo điều thứ ba trong bản qui tắc của tôi, - “đã quyết là làm”, - tôi đọc hết cuốn “Nguyên lý chế tạo máy bay”. Chà, thật là một cực hình! Những chỗ nào không hiểu thì tôi học thuộc lòng để làm vốn.
    Ngày nào tôi cũng tháo lắp cái máy bay tưởng tượng của tôi. Tôi nghiên cứu cái động cơ máy nổ và cánh quạt của nó. Tôi trang bị cho nó những nghi khí tối tân nhất. Tôi thuộc lòng nó như năm đầu ngón tay của mình, Chỉ còn một điều chưa biết là làm thế nào để lái nó bay đi. Song chính vì vậy mà tôi muốn học cho được.
    Tôi giữ bí mật quyết tâm này của tôi với tất cả mọi người. Ngay cả thầy Cô-ra-bơ-li-ốp cũng không biết. Trong trường ai cũng cho rằng tôi hay thích nhiều thứ, còn tôi thì không muốn người ta nói đến ngành Hàng không của tôi là một “hứng thú mới”. Đây không phải là hứng thú. Tôi cho rằng tôi đã quyết định làm phi công từ hồi còn ở En-xcơ, từ hôm tôi và thằng Pê-chi-a nằm ở vườn Nhà thờ, dang rộng hai tay ra và cố nhìn thấy trăng sao giữa ban ngày. Lúc đó có một chiếc máy bay màu xám giống hệt như con cá có cánh nhẹ nhàng lướt qua đám mây và biến mất ở phía bên kia sông Pét-trin-ca. Tất nhiên đó chỉ là tôi tưởng thế thôi. Dù sao thì cũng không phải vô cớ mà tôi đã ghi nhớ mãi chiếc máy bay ấy. Chắc hẳn lúc đó đúng là tôi đã bắt đầu suy nghĩ đến những chuyện mà bây giờ đang choán hết đầu óc tôi.
    Thế là tôi giữ bí mật điều này với tất cả mọi người. Thế rồi bỗng nhiên có lần tôi đã tiết lộ ra. Tiết lộ với ai. Với Ca-chi-a.
    Hôm đó từ sáng sớm. chúng tôi đã hẹn nhau đi trượt băng. Nhưng có nhiều việc cứ làm cản trở chúng tôi. Lúc thì Ca-chi-a hoãn lại, lúc thì tôi lại có việc. Cuối cùng chúng tôi cũng gặp nhau và cùng đi. Song cuộc trượt băng lúc đầu cũng chuệch choạc. Thứ nhất là vì sân băng đã bị tuyết phủ đầy người ta đang quét dọn sân băng, cho nên đành phải ngồi chờ nửa tiếng đồng hồ ngoài trời băng giá. Thứ hai là vì chúng tôi vừa trượt được vòng đầu tiên thì gót giày trượt băng của Ca-chi-a bật ra, đành phải dùng sợi dây da tôi mang theo dự phòng để buộc con dao băng lại mà trượt. Song điều súi quẩy không phải chỉ có thế mà thôi. Cái quai giầy của tôi cứ tuột ra. Đành phải trở vào phòng gửi quần áo, đưa cái dây quai da cho ông thợ sửa chữa cáu kỉnh, mặt đỏ bừng đang mài còn dao băng lên hòn đá quay cáu bẩn rít lên ken két. Ông ta vừa chữa xong cái khuy cài thì lại đứt mất dây quai. Đây là cái quai da lợn, các bạn cứ thử đứng ngoài băng giá mà cài cái quai bằng da lợn xem! Cuối cùng mọi việc rồi cũng đâu vào đấy. Tuyết lại rơi. Chúng tôi nắm tay nhau trượt rất lâu thành những hình bán nguyệt rộng, lúc sang phải rồi lại sang trái. Trượt như thế gọi là những bước đi kiểu Hà-lan.
    Mưa tuyết gây trở ngại cho những nhà trượt băng giỏi, nhưng kể cũng thú khi bỗng dưng trên sân băng lại có tuyết rơi. Những bông tuyết không bao giờ rơi đều xuống ngay mặt băng. Chúng còn quay tít, vì mọi người lượn tròn trên sân băng gây ra những luồng gió xoáy, những bông tuyết cứ lơ lửng mãi lúc cao lúc thấp, trước khi rơi xuống mặt băng óng ánh. Nom cảnh đó rất đẹp và tôi cảm thấy rằng trên trái đất này cái gì cũng đều hay. Tôi biết rằng cả Ca-chi-a cũng cảm thấy thế, mặc dù đã bị cái quai da lợn cứng như thép cứa đứt chân. Cô cũng đang vui thích vì có tuyết rơi, vì tôi và cô đang trượt đi những đường rộng theo kiểu Hà- lan.
    Sau đó tôi đứng bên cạnh sợi dây chão chăng riêng khu vực trượt băng tạo hình xem Ca-chi-a đi những hình thành hai con số tám. Lúc đầu cô không tài nào trượt được. Cô ta phát cáu và đổ cho cái đế giày hỏng. Nhưng sau bỗng nhiên cô đi được, trượt được những hình rất đẹp, làm cho một ông béo phục phịch đang cố lái thành những đường tròn ở bên cạnh cũng phải reo lên và khen cô:
    - Hay quá!
    Tôi nghe thấy cô phàn nàn với người kia về cái đế giày bị long ra.
    Quả là hay thật. Tôi bị rét cóng như một con chó bị nhúng nước. Tôi bèn vẫy tay gọi Ca-chi-a và trượt hai vòng rộng để cho người ấm lại. Sau đó chúng tôi lại trượt những hình kiểu Hà-lan, cuối cùng chúng tôi ngồi xuống ngay cạnh dàn nhạc, Ca-chi-a bỗng ngồi sát lại bên tôi, khuôn mặt đỏ bừng, nóng hổi với đôi mắt đen láy sinh động. Tôi tưởng cô muốn nói thầm gì bên tai tôi nên hỏi to:
    - Cái gi?
    Cô cười khanh khánh.
    - Chẳng có gì cả, chỉ thế thôi. Nóng quá.
    - Ca-chi-a, - tôi nói. - Cậu có biết không?... Nhưng cậu không nói với ai chứ?
    - Không nói với ai cả.
    - Mình sẽ xin vào học trường hàng không.
    Cô chớp chớp đôi mắt rồi lặng lẽ nhìn tôi.
    - Cậu quyết định rồi à?
    - Rồi.
    - Dứt khoát chứ?
    Tôi gật đầu.
    Dàn nhạc bỗng lại nổi lên. Ca-chi-a rũ tuyết trên chiếc áo ấm cộc tay, trên váy và nói gì tôi nghe không rõ.
    - Mình chưa nghe thấy.
    Cô kéo tay tôi, chúng tôi chạy sang mé bên kia sân băng, đến chỗ trượt băng của trẻ em. Ở đây tối và vắng lặng, trên sân băng đầy tuyết. Dọc theo cái dốc để trượt có hai hàng cây thông, chung quanh sân băng cũng có những cây thông con, tựa như chúng tôi đang ở trong rừng tại một nơi nào ngoài thành phố.
    - Liệu người ta có nhận không?
    - Vào Trường Hàng không ấy à?
    - Ừ!
    Đó là một câu hỏi tôi vẫn sợ. Sáng nào tôi cũng tập thể dục theo phương pháp A-nô-khin và chà sát nước lạnh theo phương pháp Muyn-le. Tôi thường nắn những bắp thịt của mình và nghĩ: “Nhỡ người ta không nhận thì sao?” Tôi đã đi khám tai, mắt, tim, phổi. Bác sĩ của trường nói rằng tôi rất khỏe. Song nói là khỏe cũng có nhiều loại, mà ông ấy có biết tôi đang định vào học Trường Hàng không đâu. Nhỡ tôi lại yếu thần kinh thì sao? Hay chẳng may còn có vấn đề gì khác? Còn chiều cao nữa? Cái chiều cao chết tiệt! Trong suốt một năm vừa qua tôi chỉ cao thêm vẻn vẹn có một xăng-ti-mét rưỡi.
    Nhất định họ sẽ nhận, - tôi trả lời quả quyết.
    Hình như Ca-chi-a nhìn tôi tỏ vẻ thán phục...
    Chúng tôi rời khỏi sân băng lúc đã tắt đèn rồi. Người coi sân băng đi đôi ủng dạ ở trên sân băng này nom rất lạ mắt, dáng đi trông cũng rất lề mề, mặc dầu vẫn bước bình thường. Ông ta thổi còi inh lên và cầm cái chổi đi về phía chúng tôi.
    Chúng tôi tháo giày trượt băng trong phòng gửi áo ngoài lúc này đã vắng ngắt. Quầy hàng ăn đã đóng cửa. Nhưng Ca-chi-a chạy đến chỗ bà bán hàng gọi “Cô ơi” thế là bà ta mủi lòng bán cho chúng tôi mỗi đứa một cái bánh mì và một cốc nước chè nguội. Chúng tôi vừa ăn vừa nói chuyện.
    - Cậu thật hạnh phúc, đã quyết định sẽ làm gì rồi! - Ca-chi-a khẽ thở dài nói. - Còn mình vẫn chưa biết tương lai sẽ ra sao.
    Sau khi tôi nói sẽ vào học trường hàng không, chúng tôi chỉ toàn bàn những chuyện nghiêm túc, chủ yếu là về văn học. Cô ấy rất thích cuốn “Xi-măng” của Glát-cốp và cô đã cho tôi một trận vì tôi chưa đọc cuốn sách này. Nói chung Ca-chi-a đọc sách nhiều hơn tôi, nhất là sách văn nghệ.
    Sau đó chúng tôi nói đến tình yêu và nhất trí cho rằng yêu đương là chuyện vớ vẩn. Thoạt đầu tôi cũng chưa tin như vậy. Nhưng Ca-chi-a cả quyết nói “Rõ ràng là chuyện vớ vẩn”, - và nêu ra một dẫn chứng trong cuốn sách của Glát-cốp. Thế là tôi cũng đồng ý. Chúng tôi đi theo những ngõ nhỏ tối om về nhà. những đường phố đầy vẻ bí ẩn và lặng lẽ tựa như đây không phải là ngõ Xca-che-rơ-nưi và ngõ Nô-giô-vôi nữa mà là những đường phố khác thường của thế giới huyền bí trên mặt trăng.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 31/5/15
  15. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 4

    Những thay đổi


    Tôi và Ca-chi-a không nói đến việc trong gia đình cô ấy. Tôi chỉ hỏi thăm bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na có khỏe không. Cô đáp:
    - Cám ơn, vẫn bình thường.
    - Còn cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na?
    - Cám ơn, vẫn bình thường.
    Cũng có thể là “bình thường” thật, nhưng tôi lại nghĩ là chẳng ra gì. Nếu không thì Ca-chi-a đã chả phải nghĩ đến chuyện nếu để tiền lấy vé vào sân trượt băng thì thôi đi xe điện hay ngược lại. Nhưng vấn đề không phải là ở chỗ tiền tài mà thôi. Tôi nhớ rõ lắm, hồi còn ở En-xcơ, khi Cu-li Gai-e trở thành người chủ có toàn quyền trong nhà tôi và tôi cùng em gái tôi phải gọi ông ta bằng “bố” thì tôi thường chẳng muốn về nhà. Theo tôi thì Ca-chi-a hiện nay cũng đang có tâm trạng đại loại như vậy. Đến lúc phải về nhà thì mặt cô ỉu xìu. Trong gia đình cũng chẳng êm thấm lắm. Chẳng bao lâu, tôi gặp bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na và lại càng thấy nhận xét của tôi là đúng.
    Tôi gặp bà trong rạp hát, hôm xem vở kịch “Công chúa Tu-ran-đốt”. Ca-chi-a mua được ba vé, một vé cho cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na. Nhưng không hiểu sao cụ Ni-na không đi nên chiếc vé thứ ba ấy để cho tôi.
    Tôi vẫn thường đi xem kịch ở rạp hát. Nhưng đi xem với tập thể nhà trường là một chuyện, còn đi xem với bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na và Ca-chi-a lại là chuyện khác. Tôi mượn thằng Va-li-a chiếc áo sơ mi cổ bẻ và mượn thằng Rô-man-sca chiếc cà-vạt. Thằng cha bần tiện ấy đòi cược tiền.
    - Nhỡ cậu đánh mất thì sao?
    Tôi đành cược một rúp.
    Chúng tôi từng người cứ đến thẳng rạp hát. Ca-chi-a suýt bị trễ. Khi bà soát vé đang đóng cửa cô mới chạy bổ tới.
    - Mẹ đâu?
    Bà mẹ đang ngồi trong rạp rồi. Khi chúng tôi mò mẫm trong bóng tối để tìm chỗ của mình và vấp phải chân ai đó thì bà gọi chúng tôi...
    Trong trường tôi mọi người đã bàn tán nhiều về “Công chúa Tu-ran-đốt” và còn định dựng vở này nữa. Gri-sca Pha-be quả quyết rằng tất cả những vai nam trong kịch này đều như cố ý viết riêng cho hắn đóng, vì thế nên trong màn thứ nhất tôi không có thì giờ để nhìn kỹ bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na. Tôi chỉ nhận thấy bà vẫn rất đẹp như xưa hoặc là còn đẹp hơn so với hồi trước nữa. Bà đã thay đổi kiểu tóc nên lộ rõ vầng trán cao và trắng. Bà ngồi ngay ngắn, nhìn lên sân khấu không chớp mắt.
    Nhưng đến giờ nghỉ, tôi ngắm kỹ bà và thấy buồn lòng. Bà ấy gầy đi và già đi. Đôi mắt bà trở nên to hơn và rất u buồn. Tôi nghĩ, nếu ai nhìn thấy bà lần đầu tiên sẽ phải phát sợ lên vì cái nhìn u buồn của bà.
    Chúng tôi nói chuyện về vở “Công chúa Tu-ran-đốp’. Ca-chi-a tuyên bố rằng cô không thích vở kịch này lắm. Tôi không biết là tôi có thích hay không nên cũng đồng ý với ý kiến của Ca-chi-a. Nhưng bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na thì lại nói vở kịch này thật tuyệt.
    - Cháu và Ca-chi-a hãy còn trẻ nên chưa hiểu.
    Bà hỏi thăm tôi về thầy Cô-ra-bơ-li-ốp, ông ấy sống ra sao, và tôi cảm thấy như bà hơi đỏ mắt khi tôi nói:
    - Hình như rất tốt.
    Thực ra cuộc sống của thầy Cô-ra-bơ-li-ốp không lấy gì làm tốt lắm. Hồi mới sang đông thầy ốm một trận kịch liệt. Tôi cho rằng dù cho thầy Cô-ra-bơ-li-ốp có ốm nặng chắc thầy cũng sẽ trả lời bà là “rất tốt” như vậy. Tất nhiên thầy không quên rằng bà này đã từ chối không lấy thầy.
    Rất có thể là giờ đây bà hơi hối hận về chuyện ấy, nếu không bà ấy đã chẳng hỏi cặn kẽ về ông như thế. Bà còn hỏi ông ấy dạy những lớp nào và thái độ mọi người trong trường đối với ông ấy ra sao.
    Tôi trả lời gióng một.
    - Hừ, Xa-nhi-a, không thể nào nghe cháu nói được lấy hai chữ. Chỉ toàn những “vâng” và “không”, cứ như bị rụt mất lưỡi ấy, - bà ấy cáu kỉnh nói.
    Bỗng tự nhiên bà ấy nói ngay đến Ni-cô-lai An-tô-nứt mà chẳng cần lời nào để lái câu chuyện. Thật kỳ lạ. Bà nói rằng bà coi Ni-cô-lai An-tô-nứt là người rất tốt. Tôi chẳng nói một lời.
    Hết giờ nghỉ. Chúng tôi vào xem màn hai. Nhưng đèn giờ nghỉ lần thứ hai, bà lại nói chuyện về Ni-cô-lai An-tô-nứt. Tôi thấy Ca-chi-a cau mày lại. Môi cô run lên, cô muốn nói câu gì nhưng kìm lại được.
    Chúng tôi đi một vòng quanh phòng nghỉ. Bà Ma-ri-a Va-xi-ép-na vẫn nói chuyện về Ni-cô-lai An-tô-nứt. Thật quá mức chịu đựng rồi. Nhưng việc này còn làm tôi kinh ngạc vì tôi vẫn còn nhớ thái độ của bà đối với ông ta trước đây.
    Bây giờ thật khác hẳn! Thì ra ông ta là một người nhân đức và cao thượng hiếm có. Ông ta suốt đời quan tâm đến người em họ (lần đầu tiên tôi nghe thấy bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na gọi người chồng quá cố của mình là Va-ni-a) trong lúc chính bản thân ông ta cũng đang có những khó khăn. Ông ta đã hy sinh toàn bộ tài sản của mình để trang bị cho người em tiến hành cuộc thám hiểm bất hạnh cuối cùng.
    - Ni-cô-lai An-tô-nứt rất tin tưởng ở người em, bà nói rất say sưa.
    Tất cả những chuyện này tôi đều đã nghe chính mồm Ni-cô-lai An-tô-nứt nói ra rồi; và cũng bằng những lời lẽ у như thế. Trước kia bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na không lặp lại những lời ông ấy nói như thế. Ở đây đúng là có vấn đề. Hơn nữa, dẫu bà kể lại những chuyện này là tự nguyện, thậm chí còn rất nhiệt tình, song tôi vẫn cảm thấy hình như chính bà cũng muốn củng cố lòng tin rằng sự việc đúng là như thế. Ni-cô-lai An-tô-nứt là một con người phi thường và người chồng quá cố của bà phải mang ơn ông ta tất cả mọi việc.
    Suốt cả màn ba tôi suy nghĩ về điểm này. Tôi quyết định thế nào cũng phải hỏi Ca-chi-a về cha cô. Trong óc tôi bỗng hiện lên hình ảnh một nhà hàng hải có vầng trán rộng, quai cằm hơi nhọn và đôi mắt sáng linh lợi. Cuộc thám hiểm mà ông đã ra đi rồi không trở về được là cuộc thám hiểm như thế nào?
    Sau khi tan kịch, chúng tôi đứng lại trong rạp tranh tối tranh sáng để chờ cho chỗ gửi áo vắng bớt rồi mới ra.
    - Xa-nhi-a. sao cháu chẳng đến chơi bao giờ cả? - Bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na hỏi.
    Tôi ấp úng gì đó.
    - Tôi nghĩ Ni-cô-lai An-tô-nứt đã quên cái chuyện vớ vẩn ấy từ lâu rồi, - bà Ma-ri-a tiếp tục nói giọng nghiêm nghị. - Nếu cháu muốn, tôi sẽ nói với ông ấy.
    Tôi hoàn toàn không muốn bà phải đi xin Ni-cô-lai An-tô-nứt cho phép tôi được đến nhà bà, chỉ suýt nữa là tôi nói với bà: “Xin cảm ơn, không cần thiết”.
    Nhưng ngay lúc đó Ca-chi-a đã nói rằng việc này không liên quan gì đến Ni-cô-lai An-tô-nứt, bởi vì tôi sẽ đến chơi với cô ấy chứ không phải là đến với ông ta.
    - Không, không! - Bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na sợ hãi nói. - Sao lại như thế? Đến thăm cả mẹ, cả bà nữa.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 31/5/15
  16. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 5

    Người cha của Ca-chi-a


    Đó là cuộc thám hiểm thế nào? Bố của Ca-chi-a là người thế nào? Tôi chỉ biết có một điều, ông ấy là một nhà hàng hải và đã hy sinh. Ông có chết thật không? Từ trước đến giờ chưa khi nào Ca-chi-a nói ba cô “đã mất”. Nói tóm lại, trừ Ni-cô-lai An-tô-nứt rất thích dùng cái từ này ra, những người trong gia đình Ta-ta-ri-nốp thường rất ít khi nhắc đến ông. Gian phòng nào cũng treo ảnh ông, nhưng mọi người lại không hay nói về ông ấy.
    Cuối cùng tôi phán đoán mãi cũng phát chán, hơn nữa có thể hỏi thẳng ngay Ca-chi-a xem cha cô ở đâu, còn sống hay đã chết. Thế là tôi hỏi.
    Và đây là những điều cô đã kể cho tôi nghe.
    Hồi đó cô mới lên ba tuổi, nhưng cô nhớ rất rõ ngày hôm ba cô ra đi. Ba người rất cao lớn, mặc chiếc áo cổ đứng màu xanh lam, hai bàn tay rất to. Sáng sớm khi cô còn đang mơ màng trong giấc mộng, ba đi vào phòng, đến cạnh giường cô rồi cúi xuống, khẽ vuốt tóc cô, nói mấy câu gì đó, hình như là “Ma-sa này, con xanh quá. Em hãy hứa là sẽ cho con ra ngoài trời chơi nhiều hơn, em nhé!” Ca-chi-a hơi hé mắt ra và nhìn thấy mẹ đang khóc. Nhưng cô không đánh tiếng cho biết là mình đã dậy, cô thấy giả vờ ngủ rất thích. Sau đó cả nhà ngồi sau chiếc bàn dài ở trong gian phòng lớn sáng sủa, trên mặt bàn có những trái núi con con trắng toát. Đó là những cái khăn ăn xếp lại thế cho đẹp. Ca-chi-a mải nhìn những cái khăn ăn nên không để ý là mẹ đã bỏ đi chỗ khác, còn bây giờ bà đang ngồi vào chỗ của mẹ. Bà cứ thở dài luôn mồm, thỉnh thoảng lại nói “Lạy Chúa”. Mẹ mặc chiếc váy dài có hai quả bông ở vai rất lạ chưa hề thấy mẹ mặc bao giờ, mẹ đang ngồi bên cạnh ba và nháy mắt từ xa với Ca-chi-a.
    Chung quanh bàn ăn thật vui vẻ. Rất đông người. Ai nấy nói cười rất to. Nhưng kìa ba đứng lên với cốc rượu vang trong tay, tức thì mọi người đều im lặng. Ca-chi-a không hiểu ba nói những gì, nhưng cô nhớ là sau khi ba nói xong, mọi người đều vỗ tay hét vang “u-ra!”, riêng bà lại lẩm bẩm “Lạy Chúa” và thở dài. Mọi người từ biệt ba và những thủy thủ khác. Lúc chia tay, ba bế Ca- chi-a tung bổng lên cao rồi đỡ cô bằng đôi bàn tay to mộc mạc.
    - Thôi nhé Ma-sen-ca (1), - ba nói với mẹ. Đoạn hai người hôn chặt môi nhau...
    Đó là bữa cơm từ biệt và buổi tiễn đưa thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp ở nhà ga xe lửa En-xcơ. Tháng Năm năm 1912 ba về En-xcơ từ biệt gia đình. Đến trung tuần tháng Sáu năm đó, ba từ Pê-téc-bua (2) khởi hành đi Vla-đi-vô-xtốc trên chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri”.
    Thời gian đầu mọi việc đều như cũ. Chỉ có trong cuộc sống xuãt hiện một sự kiện hết sức mới mẻ. Đó là thư của ba gửi về. “Sắp có thư của ba đấy”. Quả nhiên thư đến thật. Có khi một hai tuần lễ không có thư, song rốt cuộc rồi cũng có. Lá thư cuối cùng gửi từ Lu-gô Sa-rơ đến. Đúng đó là bức thư cuối cùng, nhưng mẹ vẫn không tỏ ra lo lắng, mẹ còn nói rằng như thế cũng phải thôi, bởi vì chiếc tàu “Xanh Ma-ri” sẽ đi qua những nơi không có bưu cục, thậm chí ngoài băng và tuyết ra sẽ chẳng còn gì nữa cả.
    Như thế cũng phải thôi. Chính ba cũng viết rằng sẽ không có thư nữa. Nhưng dù sao thì đó cũng là chuyện rất buồn, và mẹ càng ngày càng trở nên lặng lẽ và buồn rầu.
    “Thư của ba” - đó là một thứ hay tuyệt. Ví dụ như cứ hôm nào có thư của ba là bà lại nướng bánh. Còn bây giờ thay thế cho cái thứ tuyệt diệu vẫn mang niềm vui đến cho cả nhà xuất hiện, những lời dài và chán ngắt: “như thế cũng phải thôi” hoặc giả “cũng chưa thể có chuyện gì được”.
    Những câu nói đó được lặp đi lặp lại hàng ngày, nhất là vào những buổi tối. Khi Ca-chi-a đã đi nằm, mẹ và bà cứ nói chuyện mãi. Ca-chi-a nằm nghe. Cô định nói ngay từ lâu rằng: “Chắc là chó sói ăn thịt ba rồi’’. Song cô biết rằng nói thế mẹ sẽ phát cáu lên, nên cô không nói nữa.
    Ba đang “trú đông”. Ở En-xcơ đã sang hè từ lâu rồi, thế mà ba vẫn còn “trú đông”. Lạ lùng quá. Nhưng Ca-chi-a cũng chẳng nói gì cả. Có lần cô nghe thấy bà nói chuyện với người hàng xóm: “Cứ nói là đang trú đông, nhưng liệu còn sống không thì có trời biết được”.
    Về sau mẹ viết vội một lá “đơn xin Hoàng thượng”. Lúc đó Сa-chi-a đã lớn cho nên cô nhớ rất rõ nội dung lá đơn.
    Vợ của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nôp thỉnh cầu trang bị một đội cứu sinh để đi cứu viện người chồng bất hạnh của bà. Bà nêu ra rằng “động cơ chủ yếu của việc thám hiểm thì không còn nghi ngờ gì nữa, chỉ vì niềm kiêu hãnh của toàn dân và vinh quang của Tổ quốc”. Bà hy vọng rằng “bệ hạ tối nhân từ” sẽ không để cho một nhà thám hiểm can trường luôn sẵn sàng xả thân vì “vinh quang dân tộc”... phải lâm vào cảnh tuyệt vọng, cô lập không được viện trợ...
    Lúc đó Ca-chi-a cứ tưởng “bệ hạ” là một cái gì giống như một đám rước thánh giá rất đông người, đi trước là giáo chủ đội mũ màu hồng tím. Hóa ra đó là Sa-hoàng. Sa-hoàng mãi vẫn không trả lời nên tối nào bà cũng rủa cho. Cuối cùng văn phòng nhà vua gửi đến một bức thư. Với lời lẽ lịch thiệp, văn phòng nhà vua khuyên mẹ nên xin Bộ trưởng Hàng hải. Nhưng cũng chẳng cần cầu xin Bộ trưởng hàng hải nữa. Ông ta đã được báo cáo về việc này rồi và nói: “Đáng tiếc là thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp không trở về. Nếu về thì ta sẽ đưa ra tòa ngay lập tức về tội đã coi thường tài sản quốc gia”.
    Sau đó Ni-cô-lai An-tô-nứt đến En-xcơ và trong nhà xuất hiện câu nói mới “không còn hy vọng gì nữa”. Ông ta nói thầm câu này với bà. Nhưng không hiểu sao mọi người đều biết. Cả gia đình Bun-ben-tri-cốp có họ với bà, cả các bạn gái của Ca-chi-a đều biết. Nghĩa là trừ mẹ ra còn mọi người đều biết hết.
    Chẳng còn hy vọng gì nữa. Ba sẽ không bao giờ trở về, cũng không bao giờ còn nói những câu vui đùa, không bao giờ còn tranh cãi với bà rằng “trước khi ăn cơm uống một cốc vốt-са rất có ích, mà dù không có ích thì cũng vô hại, nếu đã vô hại thì uống là thích”. Bà sẽ không bao giờ còn cười mẹ vì mẹ sửa soạn ăn mặc quá lâu khi cùng đi xem hát được nữa. Sáng ra sẽ không còn ai được nghe tiếng hát “Đời là gì? Chỉ là một trò chơi!” của ba khi ba mặc quần áo nữa.
    Chẳng còn hy vọng gì! Ba đã ở lại một nơi xa tít tận miền Bắc cực, giữa băng tuyết, chẳng có một ai trong đội trở về.
    Ni-cô-lai An-tô-nứt nói rằng đó là sai lầm của ba. Bởi vì đội thám hiểm được trang bị rất đầy đủ. Riêng cái khoản bột mì thôi cũng đã đem đi năm tấn, thịt hộp nước Áo có một nghìn sáu trăm tám mươi tám ki-lô-gam, giăm bông hai mươi chiếc, viên canh Xcô-ri-cốp (1) bảy mươi ki-lô-gam. Lại còn bao nhiêu bánh khô, mì ống, cà phê! Cả một khoang lớn được ngăn đôi đổ đầy bánh khô nửa khoang. Thậm chí còn mang cả bốn mươi ki-lô-gam măng tây. Mứt, lạc. Tất cả những thứ đó đều mua bằng tiền của Ni-cô-lai An-tô-nứt. Ngoài ra còn chọn được sáu mươi con chó tinh khôn để phòng khi gặp nguy hiểm, chúng nó sẽ kéo xe tuyết trở về.
    Tóm lại nếu ba có hy sinh thì không nghi ngờ gì nữa, chính, là do sai lầm của ba thôi. Rất dễ dàng hình dung ra được cảnh như thế này, ví dụ như ở chỗ đáng lẽ phải chờ đợi thì ba lại hấp tấp ra đi. Theo ý kiến của Ni-cô-lai An-tô-nứt thì lúc nào ba cũng hấp tấp. Nhưng dẫu sao thì ba cũng đã ở lại Bắc cực, chẳng ai biết được ba có còn sống hay đã chết. Bởi vì trong số ba mươi người của đội thám hiểm chẳng có một người nào trở về. Nhưng ở trong gia đình này ba vẫn cứ được coi như người còn sống. Chưa biết chừng bất thình lình cánh cửa sẽ mở ra và ba đi vào nhà cũng nên. Trông ba vẫn giống như hôm cuối cùng ở ga xe lửa ở En-xcơ: mặc chiếc áo màu xanh lam có cái cổ cồn trắng toát không đóng cúc, kiểu cổ áo ấy giờ đây không ai dùng nữa. Ba vẫn vui tươi, hai bàn tay vẫn to rộng như trước.
    Trong nhà có rất nhiều thứ gắn bó với ba. Mẹ hút thuốc, mọi người đều biết rằng chỉ sau khi không có tin tức gì của ba nữa, mẹ mới bắt đầu hút thuốc. Bà đuổi Ca-chi-a ra phố chơi cũng chính vì lời dặn của ba là phải cho Ca-chi-a chơi nhiều ở ngoài trời. Trong chiếc tủ kính hẹp có rất nhiều sách mang những cái tên kỳ dị mà không ai được đụng đến cũng là của ba.
    Về sau họ chuyển lên Mát-xcơ-va ở nhà Ni-cô-lai An-tô-nứt thì mọi cái đều thay đổi hết. Giờ đây không còn ai hy vọng rằng cánh cửa bỗng xịch mở và ba bước vào một cách bất ngờ. Bởi vì đây là nhà của người khác mà chưa bao giờ ba đến đây.

    (1) Ma-sa, M-sen-ca, Ma-nhi-a, Ma-ru-xi-a, Ma-ru-xen-ca, Ma-nét-sca, cũng là Ma-ri-a - N.D.
    (2) Ngày nay là thành phố Lê-nin-grát - N.D.
    (3) Xcô-ri-cốp là tên một ông vua bếp ở nước Nga - N.D.
    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 31/5/15
  17. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương б

    Thay đổi càng nhiều

    Nếu Ca-chi-a không hứa cho tôi xem sách và bản đồ của người thuyền trưởng thì có lẽ tôi cũng không đến nhà Ta-ta-ri-nốp. Tôi đã xem tuyến hành trình, thì ra đây chính là “luồng đông bắc” nổi tiếng mà người ta đã mò mẫm hơn ba trăm năm. Cuối cùng vào năm 1878 đội thám hiểm Noóc-đen-sen-đơ (1) của Thụy-điển đã vượt qua luồng này. Đương nhiên cuộc hành trình đó không đơn giản bởi vì mãi hai mươi lăm năm sau mới có một nhà thám hiểm khác tên là Vin-kít-xki đi lại luồng này, có điều khác nhau là ông ta đi ngược chiều lại. Tóm lại tất cả những điều này thật vô cùng thú vị, nên tôi cũng quyết định sẽ đi...
    Trong nhà Ta-ta-ri-nốp không còn có gì thay đổi, chỉ có đồ đạc giảm đi khá nhiều.
    Bức tranh nổi tiếng của Lê-vi-tan mà tôi đã có lúc thấy thích, vẽ con đường rộng thẳng tắp trong vườn và những cây thông sáng nắng nay không còn nữa. Tôi hỏi Ca-chi-a bức tranh đó đâu rồi.
    - Đem tặng rồi, - Ca-chi-a trả lời gọn lỏn.
    Tôi im lặng.
    - Tặng Ni-cô-lai An-tô-nứt đấy! - bỗng Ca-chi-a nói thêm, giọng cay độc.
    - Ông ấy sùng bái Lê-vi-tan mà.
    Chắc là Ni-cô-lai An-tô-nứt không phải chỉ được tặng bức tranh của Lê-vi-tan không thôi, bởi vì trong phòng ăn thấy trống trải thế nào ấy. Riêng cái địa bàn hàng hải thì vẫn đặt nguyên chỗ cũ và mũi kim vẫn chỉ về phương Bắc như xưa.
    Trong nhà không có ai, cả bà Ma-ri-a va-xi-li-ép-na và cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na đều không có nhà.
    Sau đó cụ về. Tôi nghe thấy cụ cởi áo ở phòng treo áo và phàn nàn với Ca-chi-a rằng cái gì cũng lại đắt quá: bắp cải - mười sáu cô-pếch, thịt bò non - ba mươi cô-pếch, góp lễ - bốn mươi cô-pếch, trứng gà - một rúp hai mươi cô-pếch.
    Tôi cười và đi ra phòng ngoài.
    - Bà Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na, thế còn chanh?
    Cụ ngỡ ngàng quay lại.
    - Bọn nhóc con không ăn cắp mất chanh à?
    - Xa-nhi-a! - Cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na nói và đập hai bàn tay vào nhau rồi xòe ra.
    Cụ kéo tôi lại cửa sổ, ngắm nghía khắp phía và tỏ vẻ không hài lòng.
    - Thấp quá, - cụ buồn rầu nói. - Không lớn lên được.
    Cụ chạy vào bếp, đặt bình sữa lên bếp đèn cồn và sau mấy phút thì quay ra.
    - Cháu vẫn nhớ đến chuyện mất chanh à, - cụ nói rồi cười. - Mà sao? vẫn bị mất cắp đấy!
    Bà cụ già quá rồi, lưng còng hơn và người càng gầy đi. Cái áo trấn thủ bằng nhung xanh mà tôi hằng quen thuộc thõng trên người cụ, đôi vai gầy gò nhô lên. Trông cụ vẫn có vẻ hoạt bát và luôn lo nghĩ đến mọi sự như trước, nay lại còn vui vẻ hơn nữa. Cụ thấy tôi thì mừng rỡ hơn là tôi tưởng nhiều.
    - Người ta nói rằng nên ăn lúa mạch đen sống, - cụ nói chắc như vậy, - thì sẽ lớn nhanh. Ngày trước ở En-xcơ có một cha cố chỉ cao có thế này cũng ăn lúa mạch đen sống đây.
    - Thế có cao lên không? - Ca-chi-a hỏi nghiêm túc.
    - Không cao lên, nhưng giọng nói quyện hơn. Trưóc đó lão nói cứ the thé.
    Cụ cười to và sực nhớ đến sữa.
    - Thôi chết, sữa trào ra rồi!
    Và chính cụ chạy ra bếp.
    Tôi và Ca-chi-a xem sách và bản đồ của người thuyền trưởng rất lâu. Ở đây có cuốn sách của Na-xen “Trên đất nước băng tuyết và đêm tối”, cuốn “Hải đồ biển Ca-ra” và những quyển khác. Tóm lại tuy sách không nhiều nhưng quyển nào cũng rất hay. Tôi rất muốn hỏi mượn về đọc, nhưng tôi hiểu rất rõ là không tiện. Chính vì vậy mà tôi rất ngạc nhiên khi Ca-chi-a bỗng nói:
    - Cậu có muốn lấy mấy cuốn mà đọc không?
    - Cầm về được à?
    - Được, - Ca-chi-a trả lời mắt không nhìn tôi.
    Tôi chẳng mất thì giờ suy nghĩ xem tại sao chỉ có mình là được tín nhiệm như vậy, liền lập tức chọn sách. Tôi rất muốn cầm tất cả, nhưng làm thế sao được, nên tôi chỉ chọn độ năm quyển. Trong đó cũng có một cuốn sách nhỏ do chính thuyền trưởng viết: “Nguyên nhân thất bại của đội thám hiểm Gri-li”.
    Tôi cố tình tránh mặt Ni-cô-lai An-tô-nứt, vì thế hôm nay tôi đến nhà Ta-ta-ri-nốp vào lúc ông ta đang họp hội đồng sư phạm thường kỳ ở trường. Nhưng có lẽ cuộc họp lần này bị hoãn nên ông ấy lại về. Tôi và Ca-chi-a mải chuyện trò nên không nghe thấy tiếng chuông, chợt có tiếng chân người và tiếng đằng hắng ở phòng bên. Ca-chí-a chau mày đóng sập cửa lại.
    Hầu như ngay phút đó cánh cửa lại mở ra. Ni-cô-lai An-tô-nứt xuất hiện trong khung cửa.
    - Ca-chiu-sa, bác đã nói hàng nghìn lần là không được sập cửa ầm lên thế, - ông ta nói. - Đã đến lúc phải bỏ các thói quen ấy đi rồi đấy.
    Tất nhiên là ông ấy trông thấy tôi ngay lập tức. Song ông ấy không nói năng gì, chỉ hơi nheo mắt và gật đầu. Tôi cũng gật đầu.
    - Chúng ta sống trong xã hội loài người, - Ni-cô-lai An-tô-nứt tiếp tục nói dịu giọng. - Và một trong những cái động lực thúc đẩy cái xã hội này tiến lên đó là tinh thần tôn trọng lẫn nhau. Chính cháu cũng biết đấy Ca-chiu-sa ạ, bác không thể chịu được tiếng sập cửa mạnh. Bác chỉ có thể cho rằng cháu đã cố tình làm như vậy. Có điều bác không muốn nghĩ như thế. Thật vậy, bác không muốn... vân vân và vân vân...
    Tôi hiểu ngay rằng ông ta đọc một bài tràng giang đại hải như thế chỉ cốt để chọc tức Ca-chi-a. Nhưng tôi còn nhớ là trước đây ông ta không dám nói với cô như vậy.
    Cuối cùng ông ta đi ra, nhưng chúng tôi cũng không còn hứng thú gì để xem sách của thuyền trưởng nữa. vả lại lúc Ni-cô-lai An-tô-nứt nói, Ca-chi-a vẫn đứng quay lưng vào bàn có những quyển sách ở trên. Ông ta không nhìn thấy gì cả. Tuy vậy tôi cũng hiểu rằng việc đó là thế nào: không nên để ông ta biết là cô đã đồng ý cho tôi mượn những quyển sách này.
    Tóm lại tâm trạng vui vẻ của chúng tôi đã bị phá vỡ nên tôi bèn chuẩn bị ra về. Đáng tiếc là tôi lại không về ngay. Tôi đã chậm chân khi chia tay với Ca-chi-a và Ni-cô-lai An-tô-nứt lại quay sang.
    - Ca-chiu-sa, có thể là cháu giận, - ông ta lại lên tiếng. - Như vậy là vô lý! Không còn nghi ngờ gì cả, cháu biết rõ là dù ở cương vị một người bình thường hoặc ở cương vị một nhà giáo dục bác đều mong muốn cho cháu điều tốt.
    Ông ta liếc tôi một cái, cau mặt lại rồi nhăn mũi hít vào đến là khó chịu.
    - Giả sử quan hệ giữa bác và cháu hoàn toàn chỉ là người dưng nước lã thì lại là chuyện khác. Nhưng cháu là con gái của người em thân mến đã quá cố của bác. Cháu là con gái của người mà bác đã hy sinh tất cả cho người ấy, không phải chỉ là hy sinh toàn bộ gia tài, mà có thể nói là bác đã hy sinh cả đời mình cho người ấy.
    Tôi nghĩ, Ni-cô-lai An-tô-nứt cứ mỗi năm lại hy sinh của cải cho người em họ đã quá cố ngày càng nhiều hơn. Trước kia ông ta chỉ nói đã giúp đỡ về “tinh thần và vật chất” thế mà giờ đây hóa ra là ông ta đã hy sinh cả cuộc đời mình cho người em.
    - Cho nên, - Ni-cô-lai An-tô-nứt nói tiếp, - Ca-chiu-sa, bác sẵn sàng nhắc lại với cháu hàng nghìn lần một điều. Sau một ngày lao động mệt nhọc, đáng lẽ bác có quyền được nghỉ ngơi, nhưng cháu thấy không, giờ đây vẫn phải nói chuyện với cháu, cố gắng nhắc cho cháu hiểu điều mà đứng về lứa tuổi cũng như trình độ phát triển thì cháu đã phải tự hiểu lấy từ lâu.
    Ca-chi-a lặng thinh.
    Tôi thấy cô khó chịu lắm rồi. Song cô vốn có ý chí vững.
    Ông ta chưa nói xong thì tôi chưa thể đi ra được. Hơn nữa đi như vậy thì đành bỏ sách lại. Cho nên tôi ngồi xuống. Tôi hoàn toàn không nghĩ đến chuyện chọc tức ông ta mà chỉ vì tôi đứng lâu đã mỏi. Nhưng ông ta lại nổi khùng lên.
    - Ca-chiu-sa, bác nhắc lại cho cháu nghe, - ông ta lại tiếp tục nói giọng đều đều và nhẹ nhàng, - một câu tục ngữ La-mã nhiều người biết “Hãy nói cho tôi biết, bạn của bạn là ai, tôi sẽ nói bạn là người thế nào”. Nếu cháu cho rằng có thể kết bạn với loại người mà trong óc không bao giờ nghĩ ra rằng khi mình muốn ngồi thì phải mời thầy giáo của mình ngồi trước đã, thế thì...
    Ni-cô-lai An-tô-nứt xòe hai tay ra vẻ bất lực.
    Tôi hơi bối rối, chính vì tôi đã làm như vậy nhưng hoàn toàn không nghĩ rằng làm thế để chọc tức ông ta. Nhưng lúc này thì Ca-chi-a không nhịn được nữa.
    - Tôi thích chơi với ai, đó là việc của tôi! - Ca-chi-a trả lời nhanh và đỏ mặt lên.
    Hẳn là cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na đã ở đâu gần đấy, rất có thể là cụ đã đứng ngay sau cánh cửa. Bởi vì Ca-chi-a vừa nói xong câu này cụ liền vào ngay và tất tưởi nói chuyện nọ kia: sữa sôi rồi, Ni-cô-lai An-tô-nứt có muốn dùng cà-phê chăng, chứ không thì cụ vừa mới đi chợ về, còn lâu mới đến giờ ăn trưa. Xem ra đây không phải là lần đầu tiên cụ phải vào để chấm dứt những cuộc tranh cãi như thế này. Ca-chi-a lầm lì cúi đầu xuống nghe. Ni-cô-lai An-tô-nứt thì nghe cụ ra vẻ lịch thiệp nhưng cũng có vẻ hạ cố...
    Tôi chờ bà cụ cùng ông ta đi ra và chia tay với Ca-chi-a. Tôi ra về lòng nặng trĩu. Tôi rất thương họ, cả bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na, cả bà cụ và Ca-chi-a. Những sự thay đổi trong nhà Ta-ta-ri-nốp làm tôi rất băn khoăn.

    (1) Noóc-đen-sen-đơ (1832-1901) người Thụy-điển, nhà thám hiểm Bắc cực, là người đầu tiên đi từ Đại-tây-dương sang Thái-Bình-dương qua luồng Đông-bắc vào năm 1878.-N.D.
    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 31/5/15
  18. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 7

    Các nhận xét bên lề sách.
    Những con chuột của Va-li-a. Người quen cũ

    Đó là năm cuối cùng ở trong trường học. Thực thà mà nói thì phải ngồi học, chứ không phải là đi trượt băng hay đến nhà người ta mà chơi. Được mấy môn như toán và địa lý tôi học khá. Nhưng cũng còn một số môn học khá dở như văn chẳng hạn.
    Thầy giáo dạy văn của chúng tôi là Li-khô, một người đần độn mà cả trường đều gọi là Li-khô lừa. Luc nào ông cũng đội cái mũ kiểu vùng Cu-ban. Thế là tôi liền vẽ lên bảng đen một cái mũ như thế này, bên trên có hình hai cái tai lừa. Li-khô không thích tôi vì những lẽ sau đây. Thứ nhất, có một lần ông ta đọc gì đó và nói “trừu tượng” thành ra “chìu tượng”. Tôi đứng lên sửa lại. Chúng tôi cãi nhau, tôi đề nghị đi hỏi Viện hàn lâm khoa học. Ông ta giận lắm.
    Lẽ thứ hai là đa số học sinh khi làm luận thường hay chép ở sách và các bài báo hoặc đọc các bài bình luận rồi chép vào... Nhưng tôi không thích làm như thế. Tôi làm bài trước rồi mới đọc bài bình luận sau. Và như thế thì Li-khô lại không thích.
    Ông ấy phê thế này: “Muốn tỏ ra độc đoán. Nhưng yếu lắm!” Hẳn ý ông ta muốn nói “độc đáo” chứ ai lại muốn độc đoán là cái gì? Tóm lại tôi sợ môn văn học năm nay sẽ bị điểm “kém”.
    Để làm bài luận “tốt nghiệp” cuối cùng, Li-khô ra cho chúng tôi mấy đầu đề, trong đó có một đề tôi thích là “Nông dân trong nền văn học sau cách mạng tháng Mười”. Tôi hăm hở bắt tay vào viết theo đề này, nhưng chẳng mấy chốc đã chán, có lẽ nguyên do vì những cuốn sách Ca-chi-a cho tôi mượn. Sau khi đọc những cuốn sách này tôi cảm thấy bài văn của tôi tẻ ngắt.
    Nếu chỉ nói đó là những cuốn sách hay thì chưa đủ. Đó là sách của bố Ca-chi-a, sách của một thuyền trưởng đi thám hiểm Bắc cực đã bị mất tích giữa vùng băng tuyết như Phơ-ran-cơ-lin, Ăng-đrê và nhiều người khác đã từng mất tích.
    Xưa nay chưa bao giờ tôi хem sách chậm rãi như thế. Hầu như trang sách nào cũng có những ghi chú, nhiều dòng được gạch dưới, rất nhiều dấu hỏi và chấm than ở lề sách. Có chỗ thuyền trưởng “hoàn toàn đồng ý”, có chỗ lại “hoàn toàn không tán thành”. Ông tranh luận với Nan-xen, điều đó làm tôi kinh ngạc. Ông chỉ trích Nan-xen rằng chỉ còn có bốn trăm cây số nữa thì đến tột cùng Bắc cực thế mà lại quay về đất liền. Trên tấm bản đồ kèm trong sách của Nan-xen. điểm cực Bắc trong cuộc hành trình của Nan-xen có khoanh bằng chì đỏ. Rõ ràng là người thuyền trưởng rất quan tâm đến vấn đề này nên trong những cuốn sách khác ông đã nêu ra rất nhiều lần về cái điểm cực Bắc này trên các lề trắng. Có chỗ ông ghi dọc trang sách “bản thân lớp băng sẽ giải quyết vấn đề này”. Tôi lật trang khác thì bỗng thấy một tờ giấy đã úa vàng rơi ra khỏi sách. Trên tờ giấy này cũng viết chi chít cùng nét chữ ấy. Dưới đây là đoạn ghi trên trang giấy đó:
    "...Loài người đã hết sức để tâm đến vấn đề này, mặc dù trước đây đại đa số các nhà thám hiểm chỉ còn thấy nơi đó là một nấm mồ tàn khốc, song việc giải quyết vấn đề này đã trở thành cuộc đua tranh hoàn toàn có tính chất dân tộc. Trong cuộc chạy đua ấy hầu như tất cả các nước văn minh đều có người tham gia, duy chỉ có người Nga là chưa thấy. Mà thực ra thì ngay từ thời kỳ Lô-mô-nô-xốp, người Nga đã rất nhiệt tình với vấn đề thám hiểm Bắc cực và đến nay nhiệt tình ấy vẫn chưa nguôi. A-mun-xen vẫn hy vọng rằng bất kỳ như thế nào cũng phải để lại niềm vinh dự mở đường lên Bắc cực về cho người Na-uy. Nhưng năm nay chúng ta cũng sẽ đi và chứng minh cho toàn thế giới biết rằng cả người Nga cũng có thể lập nên công trạng đó”.
    Hẳn đây là một đoạn trích trong bản báo cáo nào đó, bởi vì ở mặt sau có đề gửi “Tổng Cục Địa lý thủy văn” và ngày tháng ghi “Ngày mười bảy tháng Tư năm 1911”.
    Thì ra ước vọng của bố Ca-chi-a muốn đi sâu là như thế! Cũng như Nan-xen, ông muốn đi theo những tảng băng trôi lên miền Bắc càng xa càng tốt, rồi dùng xe tuyết do chó kéo để đi đến Bắc cực. Theo thói quen tôi liền làm ngay một con tính xem nếu ông ta đáp máy bay lên Bắc cực thì nhanh hơn được bao nhiêu lần.
    Chỉ có một điều chưa rõ là: mùa hè năm 1912 chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri” từ Pê-téc-bua đi Vla-đi-vô-xtôc. Sao ở đây lại nói đến Bắc cực?
    Ngày hôm sau, trước bữa ăn sáng tôi chạy đến phòng thường trực gọi dây nói cho Ca-chi-a:
    - Ca-chi-a, chẳng lẽ ba cậu đi Bắc cực à?
    Hẳn cô không ngờ tới câu hỏi như vậy nên tôi chỉ nghe thấy tiếng cô ậm ừ ngái ngủ và ngạc nhiên. Sau đó cô mời nói:
    - Không, không phải, vậy sao cơ?
    - Chẳng sao cả, ông cụ định từ điểm cực Bắc của Nan-xen đã đi qua, dùng xe tuyết do chó kéo để đến Bắc cực. Chà! Cô ơi!
    - Sao lại “Chà, cô ơi”?
    - Những việc như thế của bố mình mà lại không biết. Hôm nay cậu có rỗi không?
    - Mình đến vườn bách thú cùng với Ki-rơ-ca.
    Hừ, đi chơi vườn bách thú! Đã lâu Van-ca cứ rủ tôi đến vườn bách thú xem những loài gặm nhấm của nó. Cho đến nay tôi vẫn chưa định xem thì cũng tệ thật!
    Tôi hẹn sẽ gặp Ca-chi-a ở lối vào.
    Ki-rơ-ca chính là cô Ki-ren mà trước đây đã đọc “Đu-brốp-xki” và cố cãi rằng “Ma-sa đã lấy Đu-brốp-xki”. Bây giờ cô ta đã trở thành một cô gái lớn có mái tóc tết đuôi sam vàng óng. Cô ta vẫn đứng ngây ra nhìn vào miệng Ca-chi-a và lắng nghe từng câu từng chữ của Ca-chi-a như trước. Chỉ có cái khác là thay cho lời cãi lại cô chỉ cười ha há, rất đột ngột, rất to làm cho mọi người phải giật mình. Còn Ca-chi-a thì dùng cái động tác nhẫn nại quen thuộc của cô ta là bịt chặt lấy hai tai.
    Tôi đã dặn Van-ca đón tôi ở cổng, nhưng không hiểu tại sao nó lại không có ở đấy. Nó đã khoe rằng có thể đưa chúng tôi vào xem không phải mua vé, nếu bây giờ lại đi mua vé thì thật ngốc.
    Cuối cùng nó cũng đến. Nó đỏ mặt lên khi tôi giới thiệu với hai cô gái và ấp úng rằng chỉ sợ “các bạn không thích хem các loại gặm nhấm”. Ca-chi-a lịch sự bác lại rằng, trái lại cô rất thích, nếu xét về loại gặm nhấm theo như bài cậu ta đã cãi để bênh vực cho Ép-ghê-ni Ô-nê-ghin. Thế là chúng tôi trịnh trọng đi qua trước mặt người gác cổng mà Van-ca đã nói đến ba lần rằng nó là nhân viên làm việc ở trong phòng thực nghiệm động vật, còn những người này đến “gặp nó”.
    Vườn bách thú hồi đó không giống như ngày nay. Nhiều gian đóng cửa, nhiều gian khác chỉ là những khoảng đất lộ thiên phủ đầy tuyết, Van-ca nói rằng ở những khoảng đất này nuôi những con chồn, chúng ở trong hang vân vân... Nhưng chúng tôi chẳng nhìn thấy con chồn nào cả và nói chung là chẳng có gì hết ngoài tuyết nên đành phải tin ở lời cậu ta vậy.
    Nó chỉ sốt ruột muốn cho chúng tôi xem loài gặm nhấm của nó nên không để chúng tôi xem hổ, xem voi và những con vật thú vị khác mà lôi thẳng chúng tôi đi hết vườn bách thú đến một căn nhà bẩn thỉu. Loài gặm nhấm của thằng Van-ca nuôi ở trong căn nhà này. Tôi không biết mỗi đứa chúng tôi đã hiểu cái từ này như thế nào, nhưng sau khi xem xong thì ai nấy đều làm ra vẻ mình vẫn biết từ lâu rằng loài gặm nhấm chỉ là những con chuột bình thường.
    Lũ chuột nhiều lắm, và như Van-ca hãnh diện tuyên bố thì con nào cũng mang bệnh truyền nhiễm. Nó nói trong số loài gậm nhấm do nó trông coi còn có cả dơi và nó vẫn dùng tay cho dơi ăn sâu bọ. Nói chung là cũng khá hay tuy căn nhà rất hôi thối, còn Van-ca thì cứ thao thao bất tuyệt.
    Chúng tôi nghe hắn kể mà rất phục, nhất là Ki-ren. Sau đó cô ta bỗng rùng mình một cái và nói rằng cô rất ghét loài chuột.
    - Đồ ngốc, - Ca-chi-a khẽ nói với cô ta.
    Ki-ren cười vang lên.
    - Không, thật đấy, đến khiếp, - cô ta nói.
    Van-ca cũng cười. Tôi thấy nó bực thay cho những con chuột của nó. Chúng tôi cám ơn nó rồi đi xem tiếp.
    - Thật chán chết! Đi xem khỉ còn hơn. - Ki-ren đề nghị.
    Và chúng tôi đi xem khỉ.
    Ở đây mới thật là hôi hám! Ngay đến cái gian loài gặm nhất của thằng Van-ca cũng không đến nổi như thế. Ki-ren nói rằng cô ta sẽ nhịn thở.
    - Này, thế người trông nom ở đấy thì người ta làm thế nào? - Ca-chi-a hỏi.
    Tất cả chúng tôi đều nhìn sang người coi chuồng thú đang đứng ngây ra bên cạnh cái buồng sắt nhưng có vẻ quan trọng lắm.
    Đó chính là Gai-e Cu-li! Lúc đầu tôi còn nghi ngờ. Đã hơn mười năm nay tôi không gặp lão ta rồi còn gì. Nhưng lão ta bước lên và nói với cái giọng khê nồng đáng ghét:
    - Con khỉ ma-ca-ca.
    Đúng lão ta rồi!
    Tôi nhìn lão chằm chằm, nhưng lão không nhận ra tôi. Lão già rồi, cái mũi nom như mỏ vịt. Bộ tóc quăn cũng không như trước mà nay lưa thưa, bẩn thỉu, bạc đi rồi. Từ hình ảnh lão Gai-e Cu-li hùng dũng xưa kia, nay chỉ còn lại lão già có bộ ria vểnh và những nốt trứng cá.
    - Ở ngực và ở bụng loài động vật này, - Gai-e tiếp tục nói bằng giọng đe dọa, dạy đời mà tôi vốn quen thuộc, - các bạn có thể nhìn những cái đầu vú của chúng chính là bộ phận để phát triển bằng sữa của con chúng.
    Đúng lão, đúng là lão ta! Tôi thấy buồn cười. Ca-chi-a hỏi tôi cười cái gì. Tôi ghé sát vào tai cô thì thầm:
    - Nhìn lão ta mà xem.
    Ca-chi-a nhìn.
    - Cậu có biết ai đấy không?
    - Ai cơ?
    - Bố dượng mình đấy?
    - Chỉ bậy!
    - Thật đấy!
    Cô nhướn mày lên tỏ vẻ nghi ngờ rồi lại chớp chớp mắt và tiếp tục nghe.
    - Đến chuồng sau, các bạn sẽ trông thấy loài khỉ thuộc họ vượn trông rất giống người. Loài khỉ vượn này thường có những cơn buồn. Lúc đó nó lồng lộn lên ở trong chuồng như phát điên.
    Con khỉ vượn tội nghiệp! Tôi sực nhớ hồi xưa đã bị những “cơn buồn” mỗi khi tên đê tiện này mở đầu những câu chuyện vô tận của hắn.
    Tôi liếc nhìn Ca-chi-a và Ki-ren. Nhất định các cô này sẽ cho tôi là bị bệnh thần kinh đây! Nhưng nếu tôi bỏ lỡ cơ hội ngày hôm nay thì chính tôi cũng sẽ không tự trọng mình được nữa.
    - Nét gạch phải thẳng, - tôi khẽ nói.
    Lão đưa mắt nhìn tôi, nhưng tôi giả bộ đang chăm chú nhìn con khỉ vượn.
    - Đến chuồng sau, - Gai-e tiếp tục giảng giải, - các bạn sẽ thấy con vượn không đuôi của vùng Ghi-bơ-ran-ta-rơ. Nó у như trẻ con. Trong mồm nó có một cái túi thịt thường dùng để dự trữ những thứ ngon trong thức ăn.
    - Thôi, rõ rồi, - tôi nói. - Người nào cũng muốn kiếm được một miếng béo bở. Nhưng có thể gọi miếng béo bở đó là một hiện tượng đảm bảo hay không thì lại là vấn đề khác.
    Chính tôi cũng không ngờ là tôi còn thuộc lòng cái câu lăng nhăng ấy như vậy. Ki-ren cười rú lên. Gai-e không nói nữa và nhìn tôi một cách đần độn nhưng có vẻ nghi ngờ. Có lẽ một ký ức mờ mịt nào đó đã thoáng hiện lên trong cái đầu ngu độn của lão... Nhưng lão ta vẫn không nhận ra tôi. Nhận ra thế nào được!
    - Chúng tôi cho chúng ăn no, - lão ta đã đổi sang cái giọng đều đều buồn bã và nói tiếp. - Ngày nào chúng cũng cứ ra công mà nhai. Con người không thể ăn nhiều như giống vật này được.
    Lão cảm thấy lại nói miên man vội dừng lại.
    - Các bạn hãy xem mông đít chúng kia, - lão nói tiếp, - các bạn sẽ thấy bộ phận đó của chúng đỏ lạ thường. Đó không phải là do thịt, mà là lớp vỏ cứng, giống như lớp da chai lại.
    - Xin ông cho biết, - tôi hỏi rất nghiêm túc. - Có những loài khỉ biết nói không?
    Ki-ren cười.
    - Không thấy nói đến loài ấy, - Gai-e ngập ngừng nói. Lão không biết là tôi nhạo báng hay nói thật.
    - Tôi có nghe nói đến một con khỉ, lúc đầu nó làm ở bến tàu, - tôi nói tiếp, - về sau người ta đuổi nó đi, và con khỉ này bèn dạy trẻ con.
    Gai-e cười miễn cưỡng.
    - Trẻ con nào?
    - Con người khác. Nó lấỵ giá để giày đánh trẻ con, - tôi nói tiếp và cảm thấy tim đập rất mạnh vì những ký ức này, - đặc biệt là đánh đứa con gái, vì thằng con trai biết đâu có thể đánh lại nó.
    Tôi càng nói càng to tiếng. Gai-e há hốc miệng ra nghe. Bỗng lão ta sợ hãi ngậm mồm lại, chớp mắt lia lịa.
    - Bọn trẻ con ăn bữa trưa xong là phải cám ơn con khỉ này... - Tôi lấy khuỷu tay hẩy Ki-ren đang sợ hãi nắm tay tôi. - Mặc dù con khỉ đê tiện ấy chẳng làm lụng gì cả mà chỉ sống dựa vào người khác và từ sáng đến tối chỉ ra công đánh đôi giày da chết tiệt của nó. Sau đó nó gia nhập tiểu đoàn cảm tử, do đó mà được lĩnh hai trăm rúp và bộ đồ lính mới. Con khỉ ấy lại còn đọc cả diễn văn nữa! - Hình như lúc đó tôi đã nghiến răng ken két. - Sau khi tiểu đoàn cảm tử này bị đánh tan thì con khỉ ấy chuồn khỏi thành phố và mang theo toàn bộ của cải trong nhà.
    Chắc lúc đó tôi hét lên ghê quá nên Ca-chi-a bỗng nhiên đứng chen vào giữa tôi và Gai-e.
    Gai-e ấp úng gì đó rồi dựa lưng vào chuồng khỉ. Lão ta đã nhận ra tôi. Môi lão méo xệch đi.
    - Xa-nhi-a! - Ca-chi-a nói như ra lệnh.
    - Gượm đi! - Tôi gạt cô ra. - Thật là may mắn cho con khỉ đó vì nó đã chuồn mất. Nếu không thì tôi đã cho nó...
    - Xa-nhi-a!
    Tôi còn nhớ điều làm cho tôi ngạc nhiên là bỗng nhiên lão ta kêu lên một tiếng rồi lấy hai tay ôm đầu. Tôi trấn tĩnh lại, cười gượng và nhìn sang Ca-chi-a. Tôi thấy xấu hổ vì mình đã hét to quá.
    - Đi thôi! - Cô nói cụt lủn.
    Chúng tôi lẳng lặng đi trong vườn bách thú. Tôi thấy Ki-ren sợ hãi chớp mắt lia lịa và đi xa ra. Ca-chi-a đang nói thầm gì bên tai cô.
    - Thằng đê tiện! - Tôi nói lúng búng.
    Mãi tôi không trấn tĩnh được.
    - Hôm nay mình sẽ nhờ Van-ca đưa giấy báo cho ban phụ trách vườn bách thú. Tại sao họ lại thu nhận một con người đê tiện như thế? Hắn là một tên bạch vệ.
    - Thú thực là giờ đây mình sợ cậu đấy, - Ca-chi-a nói. - Hóa ra cậu có máu điên. Kìa môi cậu cũng trắng bệch ra kia kìa.
    - Bởi vì mình muốn giết lão ta, - tôi nổi. - Thôi được, mặc xác nó! Chúng mình nói sang chuyện khác đi. Các cậu có thích lữ vượn không?
    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 1/6/15
  19. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 8

    Dạ hội

    f 1

    Trong trường tôi có một xưởng mộc. Mỗi buổi tối tôi đều đến đó làm việc. Đúng hồi đó chúng tôi nhận được một đơn hàng lớn đặt làm những dụng cụ học tập cho các trường nông thôn, nên có thể kiếm được kha khá.

    “Nông dân trong nền văn học sau cách mạng tháng Mười” đã được viết xong. Tôi cáu tiết viết xong trong một đêm. Song tôi còn những món nợ khác, ví dụ như món Đức văn mà tôi không thích. Tóm lại là thời gian cuối học kỳ tôi và Ca-chi-a chỉ ra sân băng có một lần mà cũng không trượt băng. Sân băng bị rách nát. Từ sáng có những đội khúc côn cầu tập ở đây. Chúng tôi chỉ uống nước trà ở quầy giải khát.

    Ca-chi-a hỏi tôi là đã viết giấy báo về lão bố dượng tôi chưa.

    - Chưa, mình chưa viết. Nhưng Van-ca nói rằng dù sao thì lão ta cũng không còn ở đấy nữa.

    - Thế thì lão ta đâu?

    - Có ma quỉ biết được. Chuồn rồi!

    Tôi thấy hình như Ca-chi-a muốn hỏi tại sao tôi lại căm thù lão ta như vậy, nhưng tôi rất không muốn nhớ tới tên đê tiện ấy nữa nên lặng thinh. Cuối cùng cô ta cũng hỏi. Tôi đành phải kể lại rất vắn tắt về cuộc sống của chúng tôi ở En-xcơ, về cái chết của cha tôi ở trong tù và việc mẹ tôi đã lấy Gai-e như thế nào. Ca-chi-a rất ngạc nhiên là tôi còn có em gái.

    - Tên em cậu là gì?

    - Cũng là Xa-nhi-a.

    Cô ta càng ngạc nhiên hơn khi biết là từ khi rời khỏi En-xcơ đến nay, tôi không hề viết cho em gái một lá thư nào.

    - Cô ấy bao nhiêu tuổi?

    - Mười sáu.

    Ca-chi-a căm phẫn nhìn tôi.

    - Đồ con lợn!

    Việc đó quả là tệ thật. Tôi đã thề là nhất định sẽ viết thư về En-xcơ.

    - Chờ tốt nghiệp rồi sẽ viết. Còn bây giờ biết viết cái gì. Mình cũng đã thử viết mấy lần. Chỉ toàn ỉà anh còn sống, vẫn khỏe. Chẳng ra làm sao cả.

    Đó là lần gặp mặt cuối cùng của chúng tôi trước kỳ nghỉ đông. Sau đó lại là bài học và bài học, lại đọc và đọc. Tôi dậy từ sáu giờ sáng rồi nghe đọc “Nguyên lý chế tạo máy bay". Còn buổi tối thì làm ở xưởng mộc, có khi làm một mạch đến khuya.

    Rốt cuộc, rồi cũng hết nửa năm học. Mười một ngày nghỉ! Việc đầu tiên tôi làm là gọi dây nói cho Ca-chi-a và mời cô ta đến truờng dự cuộc khiêu vũ hóa trang.

    Trên tờ quảng cáo có viết rằng tính chất cuộc khiêu vũ này là bài trừ mê tín. Nhưng các học sinh chẳng ai chú ý đến cái ý định ấy. Chỉ có hai ba bộ quần áo hóa trang phù hợp với chủ đề bài trừ mê tín. Như Su-ra CôVtrơ-nhép mà mọi người đã có câu hát về cậu ta như sau:

    Cứ mười hai giờ đêm đúng Cô-tran từ phòng ngủ đi ra.

    Hôm nay cậu ta cải trang thành một thầy dòng Ba-lan, trông rất đạt. Áo dài đen và chiếc mũ rộng vành rất hợp với khổ người cao lêu nghêu của cậu ta. Cậu ta đi đi lại lại điệu bộ hung ác, nhưng thấy cái gì cũng lại sợ hãi. Cậu ta đóng khéo nên rất buồn cười. Những cậu kia thì chỉ kéo lê chiếc áo lễ dài trên sàn cười hô hố.

    Ca-chi-a đến rất muộn, tôi đang định chạy đi gọi dây nói cho cô ta. Cô bị lạnh cóng mặt ửng lên như một củ cải đỏ. Vừa bước vào phòng gửi áo, trong lúc tôi gửi hộ cô áo khoác và đôi ủng, cô chạy vội đến bên lò sưởi.

    - Lạnh khiếp thật! - Cô nói và ghé má vào bên lò sưởi, - đến hăm nhăm độ âm!

    Cô mặc chiếc áo váy dài bằng nhung xanh cổ viền, ở đuôi sam có thắt cái nơ to màu xanh.

    Cái nơ cùng chiếc áo váy màu xanh, cổ lại đeo chuỗi hạt san hô mảnh dẻ hợp với cô lạ lùng. Cô rất khỏe, chắc, đồng thời lại rất thanh tú và cân đối. Trong phòng lớn đã bắt đầu cuộc khiêu vũ, tôi cùng Ca-chi-a vừa bước vào phòng thì lập tức những tay nhảy cừ nhất của trường tôi liền bỏ ngay bạn gái của mình chạy ùa đến với cô ta. Lần đầu tiên trong đời tôi đã hối hận vì mình không biết nhảy. Nhưng còn biết làm sao được. Tôi ra vẻ bất cần và đi vào phòng hóa trang ở hậu trường để xem các diễn viên. Trong đó họ đang chuẩn bị ra biểu diễn và bọn con gái đuổi tôi ra. Tôi trở lại phòng lớn. Vừa may lúc đó cũng vừa kết thúc một bài van-xơ. Tôi gọi Ca-chi-a. Chúng tôi ngồi xuống tán chuyện.

    - Ai đấy? - Bỗng dưng cô hốt hoảng hỏi tôi

    Tôi nhìn lên.

    - Đâu?

    - Kia kìa. tóc hung ấy.

    Chả có gì lạ cả. đó chỉ là Rô-ma-sca. Cậu ta ăn vận rất diện, cổ thắt chiếc ca-vát mà tôi đã từng phải cược tiền để mượn. Theo con mắt của tôi thì hôm nay trông cậu ta không đến nỗi nào. thế mà Ca-chi-a cứ nhìn cậu ta với vẻ ghê sợ.

    - Tại sao cậu không cảm thấy nhỉ? Hắn ta thật đáng sợ, - cô nói thế. - Cậu quen rồi nên không để ý thấy nữa. Trông hắn ta giống hệt như U-ri-a Ghíp(1)

    • Giống ai cơ?

    - Giống U-ri-a Ghíp.

    Tôi Ịàm ra vẻ mình cũng biết là U-ri-a Ghíp nên nói lấp lửng:

    - À, à...

    Nhưng Ca-chi-a đâu phải là người dễ bị lừa.

    - Ơ cái cậu này, đến Đích-ken cũng không đọc mà cứ được vơ là uyên bác đấy! - Cô ta nói.

    - Ai bảo mình là uyên bác?

    - Mọi người. Mình có nói chuyện với một cô ở trường cậu. Cô ta bảo: “Gri-gô-ri-ép là một nhân tài rạng rỡ”. Hừ, nhân tài như thế đấy! Không đọc Đích-ken!

    Tôi giải thích cho cô rằng tôi đã đọc tác phẩm của Đích-ken rồi, duy chỉ có chưa đọc truyện nào về U-ri-a Ghíp thôi. Nhưng lúc đó dàn nhạc lại nổi ỉên và thầy giáo thể thao của chúng tôi mà mọi người đều chỉ gọi là thầy Gô-sa đến mời Ca-chi-a-nhảy. Tôi lại ngồi một mình. Lần này người ta để cho tôi vào phòng

    (1) U-ri-a Ghíp là nhân vật tiêu cực trong tác phẩm “Đa-vít Cốp-pơ- phin” cùa văn hào Anh Đích-ken. - N.D.

    diễn viên và lại còn giao việc cho tôi làm: hóa trang cho một nữ sinh làm cố đạo Do-thái. Đó là một nhiệm vụ không dễ dàng. Tôi loay hoay giúp cô ta đúng nửa tiếng đồng hồ. khi tôi trở lại phòng lớn Ca-chi-a vẫn còn đang nhảy, lần này cô nhảy với Van-ca.

    Thật là một cảnh tượng khá nực cười. Mắt thằng Van-ca không rời khỏi chân nó. làm như đôi chân nó là cái gì hay lắm, có giời biết được. Còn Ca-chi-a thì đẩy nó đi, cô bực mình vừa nhảy vừa phải dạy nó. Không hiểu sao tôi lại cảm thấy buồn.

    Có người móc lên cúc áo tôi một con số làm trò chơi truyền tin. Tôi như một tội phạm ngồi đó buồn thiu với con số đeo trước ngực. Bỗng có ngay hai bức thư đưa đến, một bức thư viết: “Vò vịt thế đủ rồi. Hãy nói thực xem cậu thích ai nhất? Thư trả lời giao cho số 140”. Chữ “thực” lại đi viết là “thục”. Còn bức thư thứ hai chả có đầu đuôi gì cả: “Gri-gô-ri-ép - một nhân tài rạng rở mà lại chưa đọc Đích-ken”. Tôi ngầm dọa Ca-chi-a. Cô ta cười, thôi không nhảy với Van-ca nữa, đến ngồi bên cạnh tôi.

    - Các cậu ở đây vui thật đấy, - cô nói, - chỉ phải cái nóng quá thôi. Thế nào bây giờ cậu sẽ học nhảy không?

    Tôi nói là sẽ không học, cùng Ca-chi-a đi vào lớp học của tôi. ở đây bày biện như là một cái phòng nghỉ trong nhà hát: ở bốn góc tường xếp những ghế bành dùng diễn vở bi kịch “Thời gian đã đến" những bóng đèn bọc giấy xanh đỏ. Chúng tôi ngồi lên cái bàn học của tôi. Chiếc bàn cuối cùng ở dãy bên phải. Tôi không nhớ là lúc đó chúng tôi nói những chuyện gì, nhưng là những chuyện rất nghiêm túc. - hình như nói về phim ảnh có tiếng nói thì phải. Ca-chi-a tỏ vẻ chưa tin có thể làm được như vậy, còn tôi thì nêu ra để chứng minh cho cô bằng những số liệu về tốc độ so sánh giữa âm thanh và ánh sáng.

    Trên đầu chúng tôi có một ngọn đèn xanh chiếu xuống nên người cô toàn màu xanh. Có lẽ chính vì thế mà tôi đã dám tỏ ra mạnh dạn. Đã từ lâu tôi rất muốn hôn cô một cái, ngay từ lúc cô mới đến, người lạnh cóng, hai má đỏ ửng lên phải ghé lại gần lò sưởi. Nhưng lúc đó không thể làm như thế được. Còn giờ đây, khi mà cô toàn một màu xanh thì điều đó có thể được. Tôi nói được nửa câu thì im bặt, nhắm mắt lại và hôn lên má cô.

    Chao ôi, cô nổi cáu ghê quá!

    - Thế là nghĩa làm sao? - Cô nghiêm giọng hỏi.

    Tôi nín lặng. Tim tôi đập thình thình. Tôi lo rằng cô sẽ nói “Chúng ta không quen nhau” hoặc là những câu tương tự như vậy.

    - Thật là tệ mạt! - Cô phẫn nộ nói.

    - Không, không tệ mạt đâu, - tôi lúng túng chống chế.

    Chúng tôi ngồi lặng im một lát rồi Ca-chi-a đề nghị lấy cho cô cốc nước. Khi tôi đem nước đến thì cô lên lớp cho tôi cả một bài. Cô chứng minh như hai với hai thành bốn rằng tôi không yêu cô mà “chẳng qua chỉ tưởng là thế"và nếu vừa rồi không phải Ca- chi-a mà là một cô gái khác thì tôi cũng đã hôn cô ấy.

    - Cậu chẳng qua chỉ cố ép mình phải tin vào điều đó, - cô khẳng định, - còn trên thực tế thì chả có gì giống như thế!

    Cô cũng cho rằng tôi không muốn làm cô giận - mà đúng là có như thế thật. Song dẫu sao tôi cũng không nên hành động như vậy, bởi vì tôi chỉ lừa dối mình chứ thực ra tôi chẳng có tình cảm gì...

    - Chả có chút tình cảm yêu đương nào cả, - cô im lặng một lúc rồi nói tiếp. Tôi cảm thấy cô đỏ mặt lên.

    Tôi nắm lấy tay cô để thay cho câu trả lời, đưa tay cô xoa lên má, lên mắt tôi. Cô không rụt tay lại và chúng tôi cứ ngồi như thế mấy phút lặng lẽ trên cái bàn học của tôi trong lớp học tranh tối tranh sáng. Chính ở cái lớp học này các thầy giáo đã từng truy bài tôi và tôi đã phải “bơi” trong nhũng giờ học đó. Tôi đã từng đứng trước cái bảng đen kia để chứng minh các định lý. Và trong cái ngăn bàn này vẫn còn những mẩu giấy vò nhàu mà khi thi Van-ca mang vào để xem trộm. Thật lạ lùng, song cũng thích biết bao! Tôi thật không thể diễn đạt nổi trong giây phút ấy lòng tôi sảng khoái biết nhường nào!...

    Sau đó tôi cảm thấy ở góc tường có ai đang thở dốc. Tôi quay lại và trông thấy Rô-ma-sca. Không hiểu sao nó lại thở hồng hộc lên thế, nhưng dáng điệu nó thì thật quá đê tiện. Tất nhiên nó hiểu ngay là chúng tôi đã trông thấy. Nó lắp bắp gì đó rồi gượng cười và đi đến chỗ chúng tôi.

    - Gri-gô-ri-ép, tại sao cậu không giới thiệu mình?

    Tôi đứng dậy. Chắc là thái độ tôi lúc đó chẳng khách khí gì cho nên nó sợ hãi chớp mắt rồi lủi mất. Thật nực cười là nó đã hoảng ngay như vậy. cả hai chúng tôi cùng cười phá lên. Ca-chi- a nói nó không những chỉ giống Ư-ri-a Ghíp mà còn giống một con cú mèo, tóc hung, mũi khoằm và mắt tròn xoe. Cô đã đoán đúng: trong lớp thỉnh thoảng tôi cũng trêu Rô-ma-sca, gọi nó là “cú mèo”. Chúng tôi lại ra phòng lớn.

    Su-ra Cốt-trơ-nhép gặp chúng tôi ở cửa và ra vẻ hoảng hốt một cách hài hước. Tõi giới thiệu cậu ta với Ca-chi-a. Cậu ta bèn ban phước cho Ca-chi-a làm như một vị cha cố thực thụ, thậm chí còn đưa bàn tay run run đặt lên môi cô nữa.

    Cuộc khiêu vũ đã kết thúc. Tiếp theo là phần trình diễn các tiết mục văn nghệ. Đội kịch của chúng tôi diễn các đoạn trích trong vở “Quan thanh tra”.

    Tôi và Ca-chi-a ngồi ở hàng ghế thứ ba, nhưng chẳng nghe thấy gì cả. ít nhất thì cũng là riêng tôi. Tôi cho là cả Ca-chi-a cũng vậy.

    Tôi ghé vào tai Ca-chi-a nói thầm:

    - Chúng mình sẽ nói chuyện tiếp. Đồng ý không?

    Cô nghiêm nghị nhìn tôi và gật đầu.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 31/5/15
  20. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 9

    Cuộc hẹn hò đầu tiên - đêm không ngủ

    Đối với tôi đây không phải là lần đầu tiên khi cuộc sống đang tiến lên theo một con đuờng có thể nói là thẳng tắp, bỗng dưng có một bước ngoặt lớn và rồi bắt đầu những đường bay lắt léo “Bốt- ki” và “Im-men-man”(1).

    Đó là khi tôi mới là một thằng bé lên tám tuổi đánh rơi con dao nhíp bên cạnh người lính gác bị giết trên cầu phao. Đó là khi tôi ở phòng tiếp nhận trẻ của Bộ Giáo dục nhân dân do buồn quá ngồi nặn ra những con giống. Đó là khi tôi tình cờ chứng kiến cái “âm mưu” định làm hại thầy Cô-ra-bơ-li-ốp và sau đó bị đuổi ra khỏi nhà Ta-ta-ri-nốp. Và lần này cũng vậy, khi tôi lại bị đuổi ra mà là đuổi vĩnh viễn.

    Bước ngoặt lần này bắt đầu như sau. Tôi và Ca-chi-a hẹn gặp nhau ở trước cửa một hiệu thợ thiếc ở ngõ ô-ru-giây-nu'i, nhưng cô không đến.

    (1) Tên gọi những kiểu đường bay của thuật lái máy bay cao cấp. - Chú thích của tác giả.

    Vào cái ngày buồn phiền đó chẳng có việc gì trôi chảy cả. Tôi chuồn bỏ tiết học thứ sáu. Việc làm này thật ngu xuẩn, bởi vì thầy giáo Li-khô đã hẹn là sau giờ học sẽ trả bài tập làm văn ở nhà. Tôi muốn suy nghĩ kỹ câu chuyện sẽ nói với Ca-chi-a.

    Song đứng đó thì làm sao mà suy nghĩ được. Chỉ một lát thôi tôi đã rét cóng như con chó, chỉ ra công mà giậm chân và xoa tai, xoa mũi.

    Thế mà lại rất thú vị! Bắt đẩu từ ngày hôm qua mọi sự đều thay đổi lạ thường! Ví dụ như hôm qua tôi còn có thể nói: Ca-chi- a là đồ ngốc! Nhưng hôm nay thì không được. Hôm qua tôi có thể mắng cô đến chậm, còn hôm nay thì không được. Nhưng cứ nghĩ rằng đó chính là cô bé Ca-chi-a đã hỏi tôi đọc “Ê-lê-na Rô-bin- sơn” chưa, chính cô bé Ca-chi-a đã bị tôi bạt tai và đánh vỡ cái nhũ kế thì lại càng thấy thú vị. Có phải là cô thật không?

    “Chính cô ta!” Tôi vui sướng nghĩ.

    Song giờ đây cô không còn là cô như trước, mà tôi cũng không phải là tôi trước kia nữa.

    Một tiếng đồng hồ trôi qua. Trong ngõ rất tĩnh mịch, chỉ có người thợ thiếc bé nhỏ, mũi to từ trong cửa hàng đi ra mấy lượt, nhìn tôi với vẻ sợ sệt, nghi ngờ. Tôi quay lưng về phía ông ta, nhưng việc đó chỉ càng làm cho ông ta nghi ngờ thêm. Tôi đi sang mé bên kia đường, song ông ta vẫn đứng ở giữa đám hơi nước mù mịt ở ngưõng cửa у như hình tượng Chúa trên trần nhà thờ ở En-xcơ ấy! Tôi đành xuống dốc đường đi về phố Tve-rơ- xcai-a...

    Khi tôi trở về đến trường thì mọi người đã ăn cơm trưa xong. Tôi đến nhà bếp để sưởi liền được bác bếp mắng cho một trận kèm theo một đĩa khoai tây nóng. Tôi lặng lẽ ăn hết đĩa khoai rồi đi tìm Van-ca. Nhưng Van-ca lại ở ngoài vườn bách thú. Lão Li- khô đã đưa bài luận của tôi cho Rô-ma-sca.

    Tôi đang rối cả ruột nên không để ý thấy Rô-ma-sca hết sức hồi hộp khi gặp tôi. Khi tôi bước vào thư viện mà tôi và nó vẫn quen chuẩn bị bài ở đó thì nó cứ lăng xăng đứng ngồi không yên. Mấy lần nó cười lên vô cớ và vội vã đem trả tôi bài tập làm văn.

    - Con lừa Li-khô đúng là con lừa Li-khô, - hắn nói ấp úng. - Nếu mình như cậu thì mình phải kiện lại.

    Tôi mở quyển tập làm văn ra xem, trang nào cũng thấy một gạch đỏ dài suốt trang giấy, và dưới cùng ghi: “Duy tâm. Kém quá!”

    Tôi thản nhiên thốt ra: “Đồ ngu”, gấp mạnh vở lại rồi đi ra. Rô-ma-sca chạy theo tôi. Lạ thật không hiểu sao hôm nay nó lại cứ lăng xăng như vậy: cứ chạy lên trước và nhòm vào mặt tôi. Chắc nó thấy khoái vì bài tập làm văn của tôi bị phê là kém. Lúc đó trong óc tôi không thể nghĩ ra nguyên nhân chính xui nên hành vi này của nó.

    - Cái con lừa Li-khô ấy, - nó cứ lải nhải mãi. - Su-ra Cốt-trơ- nhép đã nói về ông ta rất đạt như thế này: “đầu ông như cái sọ dừa, bên ngoài rất cứng nhưng bên trong thì lỏng toẹt”.

    Nó cười khả ố rồi lại chạy vượt lên trước.

    - Cút cha mày đi! - Tôi nghiến răng lại nói.

    Cuối cùng nó phải đứng lại...

    Các bạn đi xem văn nghệ tập thể vẫn chưa về mà tôi đã lên giường ngủ. Song có lẽ tôi không nên đi nằm sớm như thế. Tôi vừa mới nhắm mắt lại, trở mình một cái thế là cơn buồn ngủ đã biến đi đâu mất.

    Đây là lần đầu tiên tôi mất ngủ. Tôi nằm yên và suy nghĩ. Nghĩ gì? Hình như tôi đã nghĩ đến tất cả mọi sự trên đời.

    Tôi nghĩ đến thầy Cô-ra-bơ-li-ốp - ngày mai tôi sẽ mang bài tập làm văn của tôi đến đề nghị thầy xem cho. Tôi nghĩ đến người thợ thiếc đã tưởng tôi là một thằng ăn cắp. Tôi nghĩ về cuốn sách của bố Ca-chi-a, cuốn “Những nguyên nhân thất bại của đội thám hiểm Gri-li”.

    Nhưng bất kỳ nghĩ cái gì rồi cuôì cùng tôi cũng nghĩ đến Ca- chi-a! Tôi bắt đầu ngủ chập chờn rồi bỗng nhiên tôi lại nghĩ đến cô ta một cách âu yếm đến nỗi người ngây ngất và tim bắt đầu đập chậm đi, nhịp đập vang to hơn. Tôi hình dung thấy cô còn rõ hơn cả khi cô ngồi ngay bên cạnh tôi. Tôi cảm thấy bàn tay đặt trên mắt tôi.

    “Thôi được, yêu thì yêu chứ sao. Giờ thì hãy đi ngủ đã, anh bạn ạ”, - tôi thầm nhủ.

    Giờ đây tuy tôi có hơi buồn ngủ, nhưng trong lòng đang lâng lâng, ngủ đi thì thật là tiếc. Mãi đến rạng sáng, khi bác Pê-chi-a càu nhàu mắng con mèo Ma-hơ-mét của chúng tôi ở dưới bếp, tôi mới chợp mắt được.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 1/6/15

Chia sẻ trang này