Hoàn thành Thuyền trưởng và đại úy - V. Ca-vê-rin

Thảo luận trong 'Wiki' bắt đầu bởi hanhdb, 21/5/15.

  1. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 10

    Những chuyện không hay

    Cuộc hẹn hò thứ nhất và đêm mất ngủ đầu tiên - dù sao đó cũng thuộc về cuộc sống tốt đẹp trước kia. Nhưng đến ngày hôm sau thì bắt đầu có những chuyện không hay.

    Ăn sáng xong, tôi gọi dây nói cho Ca-chi-a. Thật đen đủi, người nhận dây nói lại là Ni-cô-lai An-tô-nứt.

    - Ai hỏi Ca-chi-a đấy?

    - Người quen.

    - Là ai mới được chứ?

    Tôi im lặng.

    - Thế nào?

    Tôi đặt ống nói xuống...

    Lúc mười một giờ tôi ngồi trong quán hàng rau. Từ đây có thể nhìn thấy toàn bộ phố Tve-rơ-xcai-a I-am-xcai-a. Lần này chẳng ai tưởng tôi là thằng ăn cắp cả. Tôi giả vờ gọi dây nói, mua mứt táo, thản nhiên đứng bên cạnh cửa. Tôi đang chờ bà cụ Ni-na Ca- pi-tô-nốp-na. Theo kinh nghiệm mấy năm trước, tôi biết giờ nào thì bà cụ ở chợ về. Cuối cùng bà cụ cũng tới: người gày nhom, lưng còng. Bà cụ vẫn mặc chiếc áo măng-tô kiểu cũ bằng nhung xanh. Mặc dù trời giá rét bà cụ vẫn cầm cái dù. Bà cụ vẫn xách cái túi con mà không lúc nào bà rời nó ra.

    - Chào bà Ni-ni Ca-pi-tô-nốp-na!

    Bà cụ nghiêm nghị nhìn tôi, chẳng nói chẳng rằng cứ bước đi tiếp. Tôi hết sức ngạc nhiên.

    - Bà Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na!

    Bà cụ đặt cái túi xuống đất, đứng thẳng người lên, căm tức nhìn tôi.

    - Thế này nhé, chú mày ạ, - bà cụ nghiêm khắc nói,- Do có tình thân cũ nên tao không giận mày. Nhưng đừng để tao nhìn thấy mày, nghe thấy mày nữa nhé.

    Đầu cụ hơi rung lên.

    - Mày đi đường mày, chúng tao đi đường chúng tao. Đừng có viết thư, đừng có gọi dây nói đến nữa! Đấy tao có thể nói rằng tao thật không ngờ! Rõ ràng là tao đã lầm!

    Bà cụ xách cái túi lên rồi - sầm!- cánh cửa sập vào ngay trước mũi tôi.

    Tôi há hốc mồm đứng nhìn theo bà cụ. Trong chúng tôi ai đã hóa điên? Tôi hay bà cụ?...

    Đó là cuộc nói chuyện không hay đầu tiên. Sau đó còn cuộc thứ hai và sau cuộc thứ hai còn cuộc thứ ba nữa.

    Khi tôi trở về thì gặp lão Li-khô ở cổng. Đó thật không phải là lúc để tôi nói chuyện với ông ta về bài tập làm văn của tôi.

    Tôi và ông ta cùng đi lên cầu thang, vẫn như mọi khi, ông ta ngẩng cao đầu, cái mũi đưa đi đưa lại một cách đần độn. Lúc đó tôi rất muốn đá cho ông ta một cái.

    - Đồng chí Li-khô, tôi đã nhận được bài tập làm văn, - bỗng tự nhiên tôi nói. - Đồng chí có phê là “Duy tâm”. Đó không phải là lời phê, mà là một lời buộc tội, mà muốn buộc tội thì phải luận ra cái tội ấy đã chứ.

    - Chúng ta sẽ nói chuyện sau.

    - Không, phải bàn ngay bây giờ , - tôi chống lại. - Tôi là đoàn viên thanh niên cộng sản, thế mà đồng chí buộc tội tôi là duy tâm. Đồng chí chẳng hiểu cái gì cả.

    - Cái gì? Thế là thế nào? - Ông ta hỏi và cau mày lại.

    - Đồng chí không hiểu thế nào là chủ nghĩa duy tâm, - tôi nói tiếp, tôi rất vui sướng nhận thấy sau mỗi lời tôi nói, mặt ông ta lại càng thuỗn ra... - Chẳng qua là vì đồng chí không biết chụp cho tôi cái mũ gì cho nên viết mấy chữ “Duy tâm” vào đây. Chả trách mọi người bảo đồng chí là...

    Tôi ngừng lại giây lát, cảm thấy mình sắp nói ra những điều thô bạo. Sau đó tôi cũng nói ra thật:

    - Người ta nói rằng đầu Ông như cái sọ dừa, bề ngoài thì cứng, bên trong thì lỏng toẹt.

    Câu chuyện xảy ra thật bất ngờ, cả hai chúng tôi đều ngây người ra. Sau đó ông ta phổng mũi lên, hăm dọa một câu cộc lốc:

    - Thế hử?

    Rồi ông ta bưóc nhanh đi.

    Đúng một tiếng đồng hồ sau cuộc nói chuyện này, tôi bị gọi đến chỗ thầy Cô-ra-bơ-li-ốp. Đó là một đấu hiệu chẳng lành: thầy Cô-ra-bơ-li-ốp rất ít khi gọi ai đến chỗ thầy.

    Đã lâu lắm tôi không thấy thầy giận dữ như vậy. Thầy đi đi lại lại trong phòng đầu cúi xuống và khi tôi bước vào, thầy lánh sang một bên tỏ vẻ ghê tởm.

    - Hừ! - cặp ria trên mép thầy bỗng rung lên một cách nghiêm khắc. - Có những tai tiếng hay ho về em! Nghe rất thú vị!

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt, em xin trình bày tất cả với thầy ngay bây giờ, - tôi chống chế, cố gắng nói thật bình tĩnh. - Em không thích chép lại bài của các nhà phê bình văn học, đó là sự thực. Song đó chẳng có gi là duy tâm cả! Các bạn khác chỉ sao chép lại lời của các nhà phê bình thì ông ta thích. Trước hết ông ta hãy chứng minh em là kẻ duy tâm đã. Ông ta phải biết rằng đối vối em đó là một điều sỉ nhục.

    Tôi đưa quyển vở cho thầy Cô-ra-bơ-li-ốp, nhưng thầy không thèm ngó tới.

    - Em phải ra hội đồng giáo viên để trình bày về hành vi của mình.

    - Xin vâng!... Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt, - bỗng nhiên tôi nói, - đã lâu thầy không đến nhà Ta-ta-ri-nốp chơi à?

    - Mà sao?

    - Cũng không sao cả.

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nhìn thẳng vào mắt.tôi.

    - Này chú em, - thầy nói rất bình tĩnh. - Tôi thấy không phải bỗng nhiên mà em nói láo xược với thầy Li-khô. Ngồi xuống và nói đi. Chỉ cốt đừng nói dối.

    Dù với mẹ đẻ của tôi, tôi cũng không nói là tôi yêu Ca-chi-a và nghĩ đến cô suốt cả một đêm. Không thể kể được. Song đã từ lâu tôi muốn nói với thầy Сô-га-bơ-li-ốp về những thay đổi trong nhà Ta-ta-ri-nốp, những thay đổi làm tôi rất băn khoăn.

    Ông vừa nghe tôi nói, vừa đi đi lại lại từ góc phòng này sang góc phòng kia. Thỉnh thoảng ông lại dừng lại, nhìn xung quanh vẻ mặt buồn bã. Nói chung là câu chuyện của tôi hình như đã làm cho ông nghĩ ngợi. Có một lần thậm chí ông đưa tay lên ôm đầu nhưng rồi ông lại kịp nghĩ ra và giả vờ lấy tay xoa trán.

    - Được, - ông nói khi tôi yêu cầu ông gọi dây nói đến nhà Ta-ta -ri-nốp tìm hiểu xem có việc gì. - Tôi nhất định sẽ làm việc đó. Một giờ nữa em lại đây.

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt, sau nửa giờ nữa em quay lại nhé!

    Ông mỉm cười buồn bã và hiền hậu...

    Tôi đi lăng quăng trong hội trường lớn nửa tiếng đồng hồ. Sàn gỗ trong hội trường lớn ghép bằng ván gỗ thông. Khi tôi đi từ cửa sổ đến cái cửa ra vào, những mảnh ván màu sẫm hình như sáng hẳn lên, còn những mảnh màu nhạt thì lại tối đi. Ánh nắng mặt trời chiếu sáng khắp phòng, những hạt bụi li ti thong thả cuộn tròn bên chiếc cửa sổ lớn. Tất cả đẹp đẽ biết bao mà cũng lại chẳng đẹp tí nào!

    Khi tôi quay lại thì thầy Cô-ra-bơ-li-ốp ngồi trên ghế đi - văng hút thuốc. Ông khoác trên vai chiếc áo da xanh cổ đứng ông thường mặc khi người thấy khó chịu và chiếc sơ mi cổ mềm không cài cúc.

    - Này, chú em, chú yêu cầu tôi gọi dây nói thật là dại, - ông nói. - Giờ đây tôi biết hết mọi điều bí mật của chú rồi.

    - Bí mật gì ạ?

    Ông nhìn tôi cứ như lần đầu tiên thấy tôi ấy.

    - Có bí mật thì phải biết cách giữ, - ông nói tiếp. - Nhưng chú lại không biết giữ. Ví dụ như hôm nay chú theo đuổi một cô gái, thì ngày mai toàn trường đã biết cả rồi. Hơn nữa nếu chỉ có cả trường biết thôi thì cũng còn khá.

    Hình như lúc đó trông tôi thộn lắm, nên thầy Cô-ra-bơ-li-ốp mới mỉm cười, nhưng cũng chỉ hơi thấy thôi. Lúc đó ít nhất cũng có hai chục ý nghĩ thoáng hiện lên trong óc tôi: “Ai làm việc đó? Rô-ma-sca! Tôi sẽ nện cho nó! Chính vì thế mà bà cụ đuổi tôi đi!

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt, em yêu cô ấy, - tôi nói dứt khoát. Ông chỉ xòe hai tay.

    - Cứ cho cả trường bàn tán đến chuyện này em cũng chẳng sợ.

    - Ừ, cả trường thì chú không sợ, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói. - Nhưng bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na và cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na nói thì chú không thể mặc kệ được, đúng không?

    - Không, cũng thế thôi! - Tôi nóng nẩy phản đối.

    - Thôi được, nhưng hình như chú bị người ta đuổi ra khỏi nhà phải không?

    - Ra khỏi nhà ai? Đấy không phải là nhà cô ấy. Cô ấy chỉ mong chóng tốt nghiệp để đi khỏi cái nhà ấy.

    - Thôi được, thôi được... Như vậy nghĩa là gì? Chú định cưới vợ?

    Tôi đã hơi trấn tĩnh lại.

    - Việc đó không có liên quan đến ai cả!

    - Tất nhiên rồi, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp vội nói. - Nhưng chú có hiểu không, tôi sợ rằng không đơn giản như chú nghĩ đâu! Còn phải hỏi Ca-chi-a đã chứ. Rất có thể cô chưa hề có ý muốn lấy chồng thì sao. Và dù sao thì cũng phải chờ cô ở En-xcơ về đã.

    - À, - tôi rất bình tĩnh nói. - Người ta đưa cô ấy về En-xcơ? Hay lắm!

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp lại nhìn tôi, lần này ông không giấu vẻ hiếu kỳ.

    - Ca-chi-a có bà cô bị ốm, cô ta đi thăm bà ấy, - ông nói. - Cô ấy đi vài hôm, khi nào khai trường lại về. Do đó mà không nên lo lắm về việc ấy.

    - Em chẳng lo lắm đâu thầy I-van Pa-vd-Iứt ạ. Còn chuyện có liên quan đến Li-khô thì nếu thầy muốn em sẽ đến xin lỗi ông ta. Chỉ cốt ông ta cải chính lời phê rằng em là kẻ duy tâm.

    Hình như chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Hình như Ca-chi-a không bị đưa về En-xcơ. Hình như tôi không định đập thằng Rô-ma-sca, - chúng tôi bình tĩnh, ôn hòa nói chuyện về bài tập làm văn của tôi có đến mười lăm phút. Sau đó tôi từ giã ra về và nói nếu có thể được thì ngày mai tôi sẽ lại đến.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 1/6/15
  2. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 11

    Tôi về En-xcơ

    Đập cho thằng Rô-ma-sca một trận! Tôi không một chút nghi ngờ gì nữa: chính nó đã gây ra. Không nó thì còn ai? Nó ngồi ở trong phòng nghỉ và đã trông thấy tôi hôn Ca-chi-a.

    Tôi căm thù nhìn cái giường và cái bàn đêm của nó. Tôi chờ nó nửa tiếng đồng hồ ở phòng ngủ rồi viết cho nó một mảnh giấy yêu câu nó phải giải thích và tôi dọa nó rằng nếu không làm như vậy tôi sẽ gọi nó là thằng đểu trước mặt học sinh toàn trường. Rồi tôi lại xé bỏ tờ giấy đoạn đi ra vườn bách thú tìm Van-ca. Tất nhiên là nó ở chỗ loài gặm nhấm của nó. Nó mặc chiếc áo choàng bẩn thỉu, chiếc bút chì giắt trên tai, nách cặp cuốn sổ tay lớn, đứng bên cạnh một cái lồng và đang cho dơi ăn. Nó cho dơi ăn sâu và có vẻ rất khoái chí.

    Tôi gọi nó. Nó ngỡ ngàng quay đầu lại, cáu kỉnh hất tay một cái rồi nói:

    - Chờ một tí!

    - Va-li-a! Ra đây một phút thôi!

    - Thong thả, cậu làm mình đếm nhầm rồi. Tám, chín, mười...

    Nó đang đếm những con sâu.

    - Thật là những đứa háu ăn! Mười bảy, mười tám, hai mười...

    - Va-li-a! - Tôi khẩn khoản gọi.

    - Mình đuổi cậu ra bây giờ! - Va-li-a nói nhanh.

    Tôi căm tức nhìn lũ dơi. Chúng treo mình, đầu lộn xuống dưới đôi tai rất to, và những cái mặt rất lạ lùng giông hệt mặt người. Thật gớm ghiếc!

    Chẳng còn cách nào khác, tôi đành phải chờ cho chúng ăn no.

    Hết! Nhưng Va-li-a vừa lấy ngón tay bẩn thỉu sờ lên mũi vừa ghi chép gì đó vào quyển sổ hàng nửa tiếng đồng hồ. Bây giờ mới thật là hết tội!

    - Đồ khỉ gió! - Tôi nói với nó. - Cậu để hết tâm tư vào những con vật. Cậu có tiền không?

    - Có hai mươi bảy rúp. - Va-li-a hãnh diện trả lời.

    - Đưa tất cả đây.

    Điều đó thực là tàn nhẫn. Tôi biết Va-li-a dành dụm tiền để mua những con rắn nào đó, Nhưng biết làm thế nào được? Tôi chỉ có mười bảy rúp mà giá vé thì lại đúng gấp đôi.

    Va-li-a hơi chớp mắt rồi sau nhìn tôi một cách nghiêm khắc và rút tiền ra.

    - Mình phải đi đây.

    - Đi đâu?

    - Về En-xcơ.

    - Làm gì?

    - Chờ mình về sẽ nói. Còn bây giờ thì tạm cho cậu biết thằng Rô-ma-sca là một thằng đểu. Cậu chơi với nó vì cậu không biết nó là một thằng đểu đến mức nào. Mà nếu cậu đã biết điều này từ trước rồi thì chính cậu cũng là một thằng đểu. Chỉ có thế thôi. Chào cậu.

    Tôi đã bước một chân ra khỏi cửa thì Va-li-a gọi tôí. Giọng nó thật lạ lùng làm cho tôi phải quay lại ngay tức khắc.

    - Xa-nhi-a, - nó nói lùng bùng. - Mình không chơi thân với nó nói chung...

    Nó im lặng một rồi lại lấy tay day mũi.

    - Đó là sai lầm của mình, - nó tuyên bố dứt khoát. Đáng lẽ mình phải nói với cậu từ lâu. Cậu có nhớ câu chuyện với thầy Cô- ra-bơ-li-ốp không?

    - Chuyện ấy mà lại không nhớ thế nào được!

    - Đấy chính là tại nó đấy!

    - Nó làm sao?

    - Nó đến gặp Ni-cô-lai An-tô-nứt và nói với ông ta tất cả.

    - Nói láo!

    Tôi vụt nhớ lại ngay buổi tối hôm ấy, khi ở nhà Ta-ta-ri-nốp về, tôi đã kể lại cho Va-li-a nghe về âm mưu họ định làm hại thầy Cô-ra-bơ-li-ốp.

    - Nhưng mình nói vớì cậu cơ mà.

    - Đúng thế, nhưng thằng Rô-ma-sca đã nghe trộm.

    - Thế sao cậu lại im?

    Va-li-a cúi đầu xuống.

    - Nó bắt mình thề, - Va-li-a lúng búng. - Ngoài ra nó còn dọa là đến đêm nó sẽ đến nhìn thẳng vào mắt mình. Cậu có biết không, mình không thể chịu nổi khi ban đêm có nguời nhìn vào mặt. Bây giờ thì mình hiểu, đó chỉ là chuyện vớ vẩn. Việc này bắt đầu từ lần mình sực tỉnh dậy thấy nó đang nhìn mình.

    - Cậu là một thằng ngốc, có thế thôi.

    - Nó ghi vào sổ rồi đi tâu với Ni-cô-lai An-tô-nứt, - Va-li-a buồn rầu nói tiếp. - Nó cố tình hành hạ mình. Sau khi tâu xong nó về nói lại với mình. Mình đã bịt tai rồi mà nó vẫn cứ nói.

    Cách đây khoảng ba năm, trong trường vẫn bàn tán rằng thằng Rô-ma-sca ngủ không nhắm mắt. Điều đó có thật. Có một lần chính tôi đã trông thấy nó ngủ, giữa hai vành mi lộ rõ một vạch tròng mắt đục lờ lờ đến sợ... Cái kiểu ngủ mà không ra ngủ như thế nom rất khó chịu. Rô-ma-sca nói rằng nó không hề ngủ bao giờ cả. Rõ ràng là nó nói khoác - chỉ là mi mắt nó ngắn quá mà thôi. Thế mà cũng có nhiều đứa tin nó. Chúng nó tôn kính nó vì nó có thể “không ngủ” và cũng hơi sợ. Chắc hẳn cái bệnh sợ sệt của thằng Va-li-a cũng là từ đấy mà ra. Va-li-a đã nằm ngủ năm năm trời trên chiếc giường ngay cạnh giường thằng Rô-ma-sca.

    Tất cả những điều đó giờ hiện lên trong đầu óc tôi. “Thằng đần, - tôi nghĩ. - Thế mà cũng đòi là một nhà khoa học tự nhiên!”.

    - Này, cái đồ giẻ rách! - Tôi nói. - Bây giờ mình không có thì giờ nói chuyện nhiều, nhưng theo mình thì cậu phải viết một bản báo cáo cho Chi đoàn thanh niên cộng sản về cái quyển sổ kia. Thực tình mà nói mình không ngờ là cậu lại để nó cưỡi cổ đến như thế. Cậu đã từng thề với nó bao nhiêu bận rồi?

    - Minh chẳng biết nữa, - Va-li-a ấp úng.

    - Thử tính xem.

    Nó buồn bả nhìn tôi...

    Ở vườn bách thú ra, tôi đi vào ga để mua vé xe lửa, rồi từ ga trở về trường. Tôi có một hộp com-pa và bút vẽ kỹ thuật rất tốt, tôi quyết định mang theo để phòng khi bấn quá thì bán.

    Và thế là lại thêm một việc nửa cộng vào các hành động ngu xuẩn của tôi mà sau đo tôi đã phải trả giá rất đắt.

    Khi tôi bưóc vào phòng ngủ thì trong phòng đã có độ mươi người, trong đó có Ta-nhi-a Ve-lích-cô một nữ sinh cùng lớp.

    Mọi người đều bận rộn, người thì đọc sách, kẻ nói chuyện.

    Su-ra Cô-nhép đang bắt chước thầy giáo dạy toán mới của chúng tôi. Nó giơ hai tay lau lên cái bảng đen tưởng tượng rồi thong thả ngồi xuống đàng hoàng. Mọi người chung quanh cười vang lên. Tóm lại là chẳng có ai chú ý đến thằng Rô-ma-sca đang quỳ bên chiếc giường của tôi và lục lọi cái hòm của tôi.

    Hành vi đê tiện đó làm cho tôi sửng sốt. Tôi đã điên tiết nhưng vẫn bước đều chân đến chỗ nó và bình tĩnh hỏi nó:

    - Tìm gì đấy Rô-ma-sca?

    Nó sợ hãi ngước mật lên nhìn tôi. Tuy tôi đã rất cáu nhưng tôi vẫn nhận thấy lúc đó nó giống hệt một con cú mèo. Mặt nó trắng bệch ra. Hai tai to bè và đỏ lựng.

    - Tìm thư của Ca-chi-a phải không? - Tôi hỏi tiếp. - Muốn nộp những bức thư ấy cho Ni-cô-lai An-tô-nứt chứ gì? Đây này, cầm lấy.

    Và tôi thuận chân đá luôn vào mặt nó.

    Câu vừa rồi tôi nói rất khẽ nên không ai ngờ là tôi lại đá nó. Hình như tôi còn đá nó hai ba cái nữa. Nếu Ta-ni-a Ve-lích-cô không có mặt ở đấy, có lẽ tôi đã đá nó vỡ mặt ra rồi. Lúc đó bọn con trai cứ đứng há hốc mồm ra mà nhìn. Chỉ có mình cô ta làm dám xông vào giữa hai chúng tôi, túm chặt lấy tôi và đẩy mạnh ra, làm tôi phải ngồi bệt xuống giường.

    - Cậu điên à?

    Tôi nhìn mặt cô ta như nhìn qua một lớp sương mù và thấy cô đang nhìn tôi đầy vẻ ghê tởm. Tôi bỗng tỉnh người ra.

    - Các bạn, tôi sẽ giải thích mọi chuyện cho các bạn nghe, - tôi rụt rè nói.

    Nhưng tất cả đều im lặng. Rô-ma-sca nằm trên sàn, đầu nó vật ra và cũng không nói năng gì. Trên má nó có một vệt tím bầm. Tôi xách chiếc hòm con đi ra...

    Với tâm hồn nặng trĩu, tôi lang thang ở ngoài ga ba tiếng đồng hồ. Tôi đọc báo, xem bảng giờ tàu chạy, uống nước chè ở quầy điểm tâm của vé hạng ba mà lòng buồn rười rượi. Tôi muốn ăn một tí gì, nhưng uống nước chè chẳng ngon lành gì, miếng bánh mì cặp thịt cứ tắc nghẹn lại nuốt không trôi. Tôi thấy ghê trong miệng cứ như mình đã nuốt những con sâu như lũ dơi của thằng Van-ca. Sau tấn kịch này tôi cảm thấy mình thật là kinh tởm. Chà! Biết thế đừng trở lại trường làm gì! Cái hộp đồ vẽ kỹ thuật này, mình cần nó đến thế à? Chả lẽ mình lại không xin dì Đa-sa được ít tiển để mua vé trở về hay sao?:rose:
     
    Last edited by a moderator: 2/6/15
  3. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 12

    Ngôi nhà thân thuộc

    Chuyến đi qua những nơi mà thuở trước tôi cùng Pê-chi-a Xcô-vô-rốt-ni-cốp đã từng lang thang trộm cắp, ăn xin để sống qua ngày đã để lại cho tôi một ấn tượng vô cùng phóng khoáng.

    Lần đầu tiên trong đời tôi đi tàu hỏa có vé trong tay. Tôi có thể ngồi ở chỗ cạnh cửa sổ, có thể nói chuyện với người ngồi bên cạnh, nếu tôi biết hút thuốc thì tôi cũng có thể hút thuốc. Khi có người soát vé đến, tôi không còn phải chui xuống gầm ghế nữa, mà có thể tiếp tục câu chuyện một cách đàng hoàng, lấy tấm vé ra đưa cho họ. Cảm giác đó thật là đặc biệt, rất thoải mái, mặc dù trong toa chật như nêm. Cảm giác đó đã lôi cuốn tôi, và giờ đây tôi nghĩ đến En-xcơ, nghĩ đến đứa em gái, đến dì Đa-sa, đến việc tôi sẽ về đột ngột như tuyết ập xuống đầu họ, và họ sẽ không nhận ra tôi.

    Tôi thiếp đi với ý nghĩ đó và ngủ rất lâu khiến cho những người ngồi bên cạnh phát hoảng - không biết tôi còn sống hay đã chết? Nhưng các bạn biết đấy, tôi nào có chết.

    Được trở lại thành phố quê hương sau tám năm xa cách thật thú vị biết bao! Cái gì cũng quen thuộc mà cái gì cũng xa lạ.:rose:(tr.266)

    Chẳng lẽ đây là tòa thị chính cũ đó sao? Xưa kia tôi có cảm tưởng nó cao to ghê lắm. Chẳng lẽ đây lại là bức tường thành? Chẳng lẽ nó vẫn nhỏ bé và cong queo như vậy? Chẳng lẽ đây lại là đại lộ râm mát mang tên Lô-pu-khin? Có điều cái đại lộ này cũng an ủi tôi đôi chút, đó là đằng sau hàng cây bồ đề, dọc con đường chính đã mọc lên những ngôi nhà mới đẹp đẽ. Nhũng cây bồ để đen đen như được vẽ trên cái phông trắng. Bóng cây bồ đề ngả xuống mặt tuyết trắng trông thật là đẹp mắt.

    Tôi bưâc nhanh và cứ mỗi bước đi tôi lại nhận ra được cảnh vật cũ hoặc là ngạc nhiên vối những đổi mới. Đây là trại trẻ mà dì Đa-sa định gửi tôi và em gái tôi vào đấy. Tòa nhà đã được sơn lại màu xanh lục, trên tường có một tấm bảng lớn bảng đá hoa khắc chữ vàng. Tôi đọc xong những hàng chữ ây mà không dám tin ở mắt mình: “Năm 1824 A-ỉếch-xan-đrơ Xéc-ghê-ẽ-vích Pu- skin đã tạm trú ở đây”, Khỉ thật! Pu-skin đã từng ở trong ngôi nhà này! Bọn trẻ ở trại hồi đó mà biết việc này thì thế nào cũng lại vênh mặt lên.

    Đây là “tòa án”. Tôi và mẹ tôi đã đưa đơn đến dây. Bây giờ ở đây không còn có vẻ gì là tòa án nữa! Người ta đã lấy ra khỏi cửa sổ những cái chấn song sắt thấp và cổ kính. Cạnh cổng có treo tấm bảng để: “Nhà văn hóa”.

    Còn đây là bức tường pháo đài. Tím tôi đập rộn lên. Bờ sông lát đá hoa cương hiện ra trước mát tôi. Tôi khó mà nhận ra nó chính là cái bò sông dốc thoai thoải đáng thương ngày trước. Tôi cáng ngạc nhiên hơn nữa vi nơi mà chúng tôi ở ngày trước, nay đã thành một cái vườn hoa nhỏ. Mấy bà giữ trẻ tay ôm những đứa bé quấn kín ngồi trên ghế đá trông như những pho tượng. Tôi thật không ngờ như vậy. Tôi đứng mãi trên bức tường thành nhìn xuống cái vườn hoa nhỏ, nhìn xuống bò sông lát đá hoa

    cương và con đường râm mát chúng tôi thường chơi đánh khàng ở đó mà thầm sửng sốt. Trên mảnh đất trống ở sau những dãy nhà bán tạp hóa trước kia, nay bỗng mọc iên một tòa nhà nhiều tầng màu xám. Ngoài cổng có một người gác mặc áo to xù đi đi lại lại. Tôi đi lại chỗ ông ta, trỏ vào ngôi nhà hỏi xem đó là cơ quan gì.

    - Đây là nhà máy điện En-xcơ, - ông ta trả lời trịnh trọng.

    - Ông có biết gia đình ông Xcô-vô-rốt-ni-cốp ở đâu không?

    - Chánh án à?

    - Không.

    - Thế thì tôi không biết. Chúng tôi ở đây chỉ có một ông Xcô- vô-rốt-ni-cốp làm chánh án thôi.

    Tôi bước đi. Hay ông lão Xcó-vô-rốt-ni-cốp giò đây đã làm chánh án? Tôi quay lạí. Tôi lại nhìn tòa nhà cao, đẹp được xây dựng trên chỗ những ngôi nhà tồi tàn của chúng tôi xưa kia. Và tôi quả quyết rằng có thể như thế được lắm.

    - Thế ông chánh án ấy người như thế nào? Người cao lán có phải không?

    - Rất cao lớn.

    - Có để ria không?

    - Không, không để ria, - hình như người gác nhà máy bực mình thay cho ông Xcô-vô-rốt-ni-cốp nên bác lại.

    Hừ... không để ria, Thế thì ít có hy vọng.

    - Ông chánh án ấy ô đâu hả ông?

    - Ở phố Gô-gôn, nhà Mác-cút cũ.

    Tôi biết đó là một trong những ngôi nhà tốt nhất ở thành phố này. Hai bên cửa có hai cái đầu sư tử đá. Tôi lại thấy bí. Nhưng chẳng còn cách nào khác, tôi đành phải đi lên phố Gô-gôn, song
    cũng rất ít hy vọng là ông già Xcô-vô-rốt-ni-côp đã cạo ria đi, trở thành chánh án và dọn đến ở ngôi nhà sang trọng như thế.

    Nửa giờ sau tõi đã ở phố Gô-gôn, trước cửa nhà Mác-cút. Qua tám năm hai cái đầu sư tử đá cũng già đi, nhưng vẫn có vẻ gầm gừ hùng dũng như xưa. Tôi lưỡng lự đứng trước lối vào cửa rất rộng đang đóng kín. Có nên bấm chuông không? Hay đi hỏi công an xem phòng chỉ dẫn địa chỉ ở đâu.

    Trên các cửa sổ có những tấm màn che bằng the mà dì Đa-sa xưa kia rất thích. Tôi bỗng quyết định ấn chuông.

    Một cô gái khoảng mười sáu tuổi ra mở cửa cho tôi, cô mặc chiếc áo váy bằng len mịn màu xanh lam, tóc rẽ đầu ngôi giữa chải rất mượt, nước da ngăm ngăm đen. Chính cái nước da ấy làm tôi đâm bối rối.

    - Có phải gia đình Xcô-vô-rốt-ni-cốp ở đây không?

    - Phải.

    - Vậy... bà Đa-ri-a Ga-vri-lốp-na có nhà không?

    - Bà ấy sắp về, - Cô gái trả lời, mỉm cười và tò mò nhìn tôi. Cô ta cười giống hệt như Xa-nhi-a. Nhưng Xa-nhi-a trắng trẻo hơn nhiều, có hai cáì đuôi sam tóc quăn, mắt xanh biếc cơ. Không phải, không phải là Xa-nhi-a.

    - Tôi chờ được không?

    - Xin mời.

    • Tôi cởi áo bành-tô ở buồng treo áo. Cô ta dẫn tôi vào một căn phòng lớn sáng sủa, bày biện sạch sẽ và có thể nói là sang trọng nữa. Mới vào phòng đã trông thấy ngay một cái đàn Pi-a-nô - cái này thật không giống nhà dì Đa-sa. Nhưng tấm ảnh ở giữa hai cái lọ hoa thủy tinh màu xanh, tấm ảnh của người anh hùng khi xưa ngồi trên chiếc ghế đan trên nền dãy núi tuyết thì lại rõ ràng như chính dì Đa-sa vậy.

    Có thể nói lúc đó tôi ngắm nghía mọi thứ vừa vui thích vừa có vẻ ngớ ngẩn nên cô gái cứ tròn mắt nhìn tôi. Bỗng cô hơi cúi đầu xuống và nhướn cao lông mày lên, giống hệt như mẹ thuở trước. Tôi hiểu, đây vẫn đúng là Xa-nhi-a.

    - Xa-nhi-a?- Tôi rụt rè thốt lên.

    Cô ta giật mình.

    - Vâng.

    - Hượm đã, trước kia em rất trắng cơ mà, - tôi nói tiếp giọng run run. - Tại sao thế? Khi chúng mình về nông thôn em rất trắng. Thế mà bây giờ sao lại đen đi thế này.

    Cô ta sửng sốt há hốc mồm ra.

    - Ở nông thôn nào?

    - Khi bố chết, - tôi nói và bật cười. - Ờ em quên rồi! Quên hết cả rồi! Đến anh đây em cũng không nhớ nữa.

    Có lẽ vì vui sưóng quá nên tôi hơi líu lưỡi. Tôi rất yêu em gái, đã mười năm xa cách rồi, mà nó lại giống mẹ tôi vô cùng.

    - Xa-nhi-a? - Cuối cùng cô ta cũng nói. - Trời ơi! Thế mà ở nhà cứ nghĩ rằng anh đã chết từ lâu.

    Nó ôm ghì lấy tôi.

    - Xa-nhi-a, Xa-nhi-a! Anh thật đấy ư? Thế mà dì Đa-sa không có nhà. Anh ngồi xuống đi, sao cứ đứng mãi. Anh từ đâu đến? về bao giờ?

    Chúng tôi ngồi xuống cạnh nhau, nhưng nó lại đứng dậy ngay và chạy ra phòng treo áo đem cái hòm con của tôi vào.

    - Chờ tí đã nào! Em chạy đi đâu thế? Hãy nói cho anh nghe em sống thế nào, dì Đa-sa ra sao?

    - Thế anh thế nào? Sao chẳng viết một lá thư nào cả? Cả nhà đi tìm kiếm anh. Lại nhắn tin cả trên các báo nữa.

    - Anh không đọc báo, - tôi ân hận nói.

    Đến tận bây giờ tôi mới nhận thức được đầy đủ hành vi đốn mạt của mình: tôi đã quên rằng mình còn một đứa em gái như vậy. Lại còn dì Đa-sa tốt không thể tả được nữa. Như Xa-nhi-a vừa mới nói, thậm chí không thể báo ngay cho dì biết là tôi đã về, nếu không dì sẽ chết mất vì mừng quá.

    - Cả Pê-chi-a cũng đi tìm anh, - em tôi nói tiếp. - Mới đây anh ấy còn viết thư về Ta-sken nữa. Anh ấy vẫn tưởng anh ở Ta-sken.

    • Pê-chi-a?

    • Vâng.

    - Xcô-vô-rốt-ni-côp?

    - Thì còn ai nữa?

    - Nó ở đâu?

    - Ở Mát-xcơ-va, - Xa-nhi-a nói.

    Tôi sửng sốt.

    - Lâu chưa?

    - Thì từ khi các anh rủ nhau đi ấy.

    Pê-chi-a ở Mát-xcơ-va! Tôi kinh ngạc đớ người ra.

    - Xa-nhi-a, thì chính anh cũng sống ở Mát-xcơ-va đây.

    - Thật à?

    - Thật. Nó thế nào? Làm việc gì?

    - Chẳng thế nào cả. Rất tốt. Năm nay anh ấy tốt nghiệp trường phổ thông.

    - Hừ, khỉ thật! Chính anh cũng thế. Em có cái ảnh nào của nó không?

    Tôi cảm thấy cô em hơi bối rối khi tôi hỏi đến ảnh của Pê-chi-a. Nó nói “Để em đi lấy”, đi ra rồi trở lại rất nhanh, cứ như nó vừa rút tấm ảnh Pê-chi-a ở ngay trong túi áo ra vậy.

    - Này, trông cậu ta đẹp trai đấy chứ, - tôi nói và cười vang lên.

    - Vẫn tóc nâu à?

    - Tóc nâu.

    - Hừ, khỉ thật, hay quá! Thế còn ông cụ? Ông cụ ra sao? Chẳng lẽ lại thật à?

    - Thật cái gì?

    - Ông cụ làm chánh án à?

    - Tròi ơi! Ông ấy làm chánh án đã năm năm nay rồi.

    Chứng tôi cứ hỏi nhau mọi chuyện, cắt lời nhau, rồi lại hỏi.

    Sau đó Xa-nhi-a chạy xuống bếp, tôi cũng đi theo nó và nói không có nó tôi rất buồn. Điều đó quả là thật, vắng nó tôi cảm thấy trông trải ngay lập tức.

    Chúng tôi đem ấm xa-mô-va ra và dóm bếp lò. Sau đó có tiếng chuông rè rè ở ngoài phòng treo áo.

    - Dì Đa-sa!

    - Anh ở lại trong này, - Xa-nhì-a nói thầm, - để em chuẩn bị tư tưởng cho dì ấy. Thật đấy, dì đang đau tim...

    Em tôi chạy ra và tôi nghe thấy tiếng nói chuyện ở phòng bên.

    - Dì Đa-sa ạ, xin dì đừng xúc động nhé. Cháu có một tin rất vui cho nên dì không được xúc động mà trái lại dì phải thật bình tĩnh cơ.

    - Ừ, nói đi nào!

    - Dì Đa-sa này, hôm nay dì định không nưỚng bánh nữa, nhưng bây giờ thì phải nướng thôi.

    - Pê-chi-a về phải không?

    - Nói là Pê-chi-a thì cũng được, nhưng chưa thật đúng. Dì Đa-sa à, dì không vui sướng mừng quá chứ?

    - Không.

    - Dì hứa nhé?

    - Ừ thì hứa! Cái con bé này!

    - Dì xem hôm nay ai đến nhà ta nào? - Và Xa-nhi-a mở cánh cửa bếp.

    Thật là tuyệt vời. Dì Đa-sa thoạt nhìn đã nhận ra tôi ngay.

    - Xa-nhi-a, - dì khẽ nói.

    Dì ôm ghì lấy tôi. Sau đó ngồi xuống, nhắm nghiền đôi mắt. Tôi nắm lấy tay dì.

    - Cháu yêu quí! Có đúng là cháu đây không?

    - Cháu đây dì Đa-sa ạ!

    - Dì không nằm mơ đấy chứ?

    - Không phải đâu, dì Đa-sạ ạ!

    Nhưng hình như dì Đa-sa vẫn không tin ở tôi, bởi vì dì lại

    nhắm mắt lại, như đang ngủ thật.

    - Cháu yêu quý! Cháu còn sống ư? Cháu đi những đâu? Cả nhà đã tìm cháu khắp thế gian này.

    - Cháu biết, dì Đa-sa ạ. Đấy là lỗi tại cháu.

    - Lỗi ư! Lạy Chúa! Người về rồi mà còn nói là lỗi lầm. Cháu yêu quí! Cháu lớn lắm rồi. Trông bảnh trai lắm rồi...

    Đối với dì Đa-sa, tôi bao giờ cũng là một đứa trẻ xinh xắn...

    Còn nhớ gì hơn, còn nói gì hơn về cuộc gặp gỡ không thể nào quên được này? Dì Đa-sa đang nói nửa chừng bỗng đứng lên, vẻ sợ hãi ghé vào tai Xa-nhi-a nói thầm: “chưa cho ăn gì à?” Tôi nom thấy trên bàn ăn bầy la liệt đủ loại thức ăn, nhưng hai dì cháu lại nói đó chỉ là “nhấm nháp trước khi ăn trưa” làm tôi cười bò ra.

    Từ giờ phút đó trở đi, có lẽ tôi chỉ toàn là ăn. Tôi vừa nói chuyện vừa ăn, về sau dì Đa-sa nói rằng người tôi bẩn quá cho nên tôi đành phải vào bồn nước mà tắm. Thế là hết một ngày.

    Chiều tối, tôi đã tắm rửa sạch sẽ, ăn uống no nê và đang ngồi ở trong phòng ăn. Dì Đa-sa và em Xa-nhi-a ngồi hai bên nhìn tôi đầy thương yêu khiến cho tôi thấy hổ thẹn. Thực tình là như vậy. Sau đó ông chánh án về.

    Người gác nhà máy nọ đã không nói dối. Ông già quả đã cạo ria nhẵn nhụi. Trông ông trẻ ra đến chục tuổi, giờ đây khó mà có thể tưởng tượng được rằng ông đã nấu keo dán bán và đã gửi gấm ở loại keo ấy những hy vọng to lớn.

    Ông đã biết tôi về - Xa-nhi-a đã gọi dây nói báo cho ông biết.

    - Này, anh chàng lêu lổng, - nói đoạn ông ta ôm lấy tôi. - Thế không sợ ta vặn cổ đi à? Chà, cái thằng hư!

    Tôi còn biết dùng lời lẽ gì để biện hộ cho mình được? Tôi chỉ biết ậm ừ hối hận.

    Đêm khuya. Trong phòng chỉ còn lại mình tôi và ông. Ông già muốn biết, sau khi rời khỏi En-xcơ tôi đã làm những gì, sống ra sao. Đúng như một ông chánh án, ông nghiêm nghị hỏi tôi về mọi chuyện ở trường học cũng như việc riêng.

    Tôi nói rằng tôi muốn trở thành phi công. Ông trầm ngâm hồi lâu, đôi mắt có hàng lông mày vừa dài vừa rậm nhìn tôi chằm chằm.

    - Lái máy bay quân sự à?

    - Lái máy bay đi Bắc cực. Nếu cần thì lái may bay chiến đấu cũng được.

    Ông lại im lặng hồi lâu.

    - Một công việc nguy hiểm nhưng rất hay, rất thú vị, - ông nói.

    Chỉ có một việc tôi không nói với ông. Tôi không cho ông biết
    là mình về En-xcơ vì theo đuổi Ca-nhi-a. Dù sao tôi cũng không thể nói được ra lời với ông là nếu không vì Ca-chi-a thì có lẽ còn lâu nữa tôi mới trở về thành phố quê hương, trở vê ngôi nhà với những người thân của mình.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 2/6/15
  4. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 13

    Những bức thư cũ

    Có người hé mở cánh cửa vào phòng ăn và nói khẽ: “Hãy còn ngủ”. Lúc đó tôi liền tỉnh dậy. Bên kia tường tiếng cùi dìa chạm vào cốc nhè nhẹ. Tôi hiểu là Xa-nhi-a sợ tôi tỉnh dậy nên đã ăn sáng ở trong bếp. Tôi quyết định dậy ngay lập tức và hình như cũng đã dậy rồi. Thế mà không hiểu sao sau bao lâu nữa tôi vẫn chưa dậy, vẫn ngủ và chỉ tự trách mình trong giấc mơ là tại sao vẫn chưa dậy.

    Tóm lại là tôi ngủ một mạch đến tận mười một giờ. Xa-nhi-a đã đi từ lâu rồi. Ông già cũng đã đi làm việc. Còn dì Đa-sa thì như dì nói với tôi là đã kịp “đặt lên bếp bữa trưa”.

    Lúc uống trà, dì thấy tôi chẳng ăn tí gì thì cuống quít lên.

    - Họ nuôi các cháu như thế à, - dì Đa-sa phẫn uất nói. - Dân di-gan cho ngựa của họ ăn còn khá hơn, thế mà vẫn có con chết.

    - Dì Đa-sa ạ, hôm qua cháu ăn no quá! Cháu nói thật đấy, đến bây giờ bụng vẫn còn anh ách. Dì Đa-sa à, hôm qua cháu lại đến tìm dì ở chỗ cũ. Nhà cửa dỡ đi cả rồi phải không?

    - Dỡ đi rồi, - dì Đa-sa nói và thở dài.

    Chúng tôi lại nói chuyện về hàng xóm láng giềng. Thì ra cái cậu Min-ca trước kia hay khêu gợi cho tôi nhiều ảo tưởng nhất, hiện nay đã trở thành thuyền trưởng tàu “Tuốc-ghê-nép” tức là tàu “Nép-tuyn” cũ... Bác Mi-sa, tổ trưởng tập đoàn công nhân vận tải đã chết hồi năm ngoái, còn con trai bác ấy giờ làm chả tịch Ủy ban Xô Viết thành phố . Tôi kể cho dì Đa-sa nghe chuyện Gai-e Cu-li. Dì cứ kêu chà chà và sợ hãi.

    - Dì Đa-sa, dì có biết gia đình Bu-ben-tri-cốp không?

    Bu-ben-tri-cốp là họ hàng nhà cụ Ni-na Ca-pi-tô-nôp-na cho nên tôi tin chắc là Ca-chi-a đã về nhà ấy.

    - Cái nhà bị đuổi ra khỏi đạo chứ gì? Ai mà chả biết!

    - Tại sao lại đuổi ra khỏi đạo?

    - Cha cố đã đuổi họ ra, - dì Đa-sa nói. - Họ đuổi cha cố ra khỏi nhà, thế là cha cố đuổi họ ra khỏi đạo. Chuyện đó xảy ra lâu rồi, từ hồi trước cách mạng cơ. Hồi đó cháu còn bé lắm. Thế cháu hỏi để làm gì?

    - Ở Mát-xcơ-va có người nhờ cháu chuyển lời hỏi thăm, - tôi nói dối.

    Dì Đa-sa lắc đầu ngờ vực.

    - Nếu chỉ hỏi thăm thì...

    Tôi đã biết địa chỉ: một tòa nhà riêng ở bên cạnh nhà thờ Do-thái. Ngôi nhà thờ giờ đây không còn nữa, và nói chung trong thành phố cái gì cũng thay đổi nên đi tìm gia đình Bu-ben-tri-cốp cũng khá phức tạp. Cuối cùng tôi dừng lại trước một bức rào cao, cổng đóng kín mít. Trên tường treo một tấm biển nhỏ để “NHÀ M.G - L.G. VÀ O.G. BU-BEN-TRI-CỐP. SỐ 8 LA-PU-TIN”.

    Cổng có gài chốt nhưng tôi mở ra dễ dàng và bước vào một cái vườn rộng. Phía sau trong vườn có một ngôi nhà nhỏ kiểu cổ có cột gỗ và mặt trước đắp hình trang trí. Từ ngoài cổng vào đến nhà chỉ có một con đường nhỏ bình thường còn vết chân mới giẫm lên. Có một con dê đang đi lại trên đó. Tôi thậm chí đi theo con đường ấy vào nhà, lòng đầy khoan khoái.

    Tất cả là như vậy và cũng chỉ đơn giản như vậy mà thôi. Tôi còn nhớ khi tôi bước chân vào vườn, tôi rất ngạc nhiên tại sao cái vườn lại đẹp như thế, tuyết phủ khắp vườn, ánh nắng chan hòa rực rỡ. Tôi bước vào đi theo con đường nhỏ đến chỗ con dê. Dê kêu be be. Bỗng mọi vật đều biến mất như trong chuyện thần thoại. Cánh cửa ở đâu đó đóng lại đánh sầm một cái. Có tiếng người và tôi nhìn thấy một bà già tay cầm chiếc gậy từ trong nhà chạy ra. Hình như đó không phải là chiếc gậy mà là cái que thông lò.

    - Ma-sen-ca! Ma-sen-ca! - Bà cụ kêu lên. - Người quen đây mà! Người nhà đấy!

    Tôi rất phấn khởi khi nghe thấy người khác bảo mình là người nhà. Song vui mừng như vậy còn sớm quá. Ở trong nhà một bà già thứ hai đi ra và chạy đến chỗ tôi. Bà cụ cầm cái bàn chải có cán để chải thảm. Rõ ràng bà cụ định lấy bàn chải này đánh tôi.

    - Ma-sen-ca! - Bà cụ thứ nhất gọi. - Người nhà đây này!

    Nhưng có lẽ con dê không tin lời bà cụ, cho nên càng ngày nó càng kêu to hơn. Tôi định tự giới thiệu với cụ Bu-ben-tri-cô-va và tôi đã chuẩn bị được câu đầu. Nhưng trong tình huống hiện nay tôi thấy không thể làm như thế được. Tôi đứng lại giây lát và để khỏi mất thể diện, tôi thong thả quay lại và đi ra phía cổng.

    Bà cụ mặt sát khí đằng đằng lẩm bẩm cái gì đó, hằm hằm đi theo tôi mấy bước rồi mới quay về.

    Thật là xúi quẩy! Ra đến đường cái, tôi thấy buồn cười quá, và có lẽ họ cũng nghe tiếng tôi cười. Kể cũng rất lạ, họ chẳng thèm hỏi xem tôi là ai và tôi cần gì. Có lẽ họ cho rằng tôi đi lạc vào vườn nhà họ. Một điều nữa cùng rất lạ là trong khi om sòm lên như thế, Ca-chi-a cũng không ló mặt ra khỏi nhà. Tóm lại, thực đến kỳ quặc!

    Dì Đa-sa rất ngạc nhiên, tại sao tôi lại quay về nhanh thế.

    - Dì Đa-sa! Xa-nhi-a đã về chưa ạ?

    - Ba giờ nó mới về. Hôm nay nó học những sáu tiết.

    Tôi xin dì Đa-sa tò giấy và chiếc phong bì rồi ngồi vào bàn viết một bức thư. “Mình sẽ viết một bức thư cho Ca-chi-a để cho Xa-nhi-a mang đến. Có lẽ họ sẽ không đối xử với con bé thô bạo như vậy”.

    Tôi viết được chữ “Ca-chi-a” rồi ngồi suy nghĩ. Thông thường cứ những lúc như thế này là tôi lại nhớ đến quyển những bức thư mẫu của Pê-chi-a: “Naỵ tìm thấy ở nương tử dịu hiền tất cả những đức hạnh bấy lâu tôi vẫn hằng khao khát, tôi thấy mình có nhiệm vụ phải làm vị hôn phu của nương tử để cho các con tôi có một bà mẹ hiền”.

    Tôi bỗng cười rộ lên làm dì Đa-sa phải giật mình.

    Ca-chi-a, - tôi viết, - mình định đến tìm cậu. Nhưng vì gặp phải con dê và hai bà cụ, mình không sao vượt qua được trở ngại ấy nên đành phải quay về. Như cậu biết, hiện nay mình ở En-xcơ và rất muốn gặp cậu. Cậu nhớ đến chỗ vườn Nhà thờ vào khoảng bốn giờ. Cậu thử đoán xem ai chuyển thư này cho cậu ? - Em gái mình đấy.

    A.Gri-gô-ri-ép”.

    - Dì Đa-sa ơi, trước kia Pê-chi-a có nhiều sách hay lắm, bây giờ ở đâu cả rồi? Sách báo nhà dì đâu cả rồi?

    Sách của Pê-chi-a nằm trên giá sách ở trong buồng Xa-nhi-a. Xem ra của này không được coi trọng cho lắm nên mới xếp ở ngăn dưới cùng và để ở trong một đống bát nháo. Tôi rất buồn khi cầm trong tay cuốn “Một đêm khủng khiếp hay là Những cuộc phiên lưu kỳ thú của chàng Cô-dắc sông Đông trên núi đồi Cáp-ca-dơ”. Có ma quỉ biết tại sao lúc đó tôi lại là một đứa trẻ nhỏ bé và bất hạnh như thế nào.

    Tôi đang ra sức lục lọi đống sách, cố tìm cho bằng được quyển thư mẫu, thì có một bọc gói bằng giấy báo cũ đã ngả màu vàng rơi xuống sàn. Đó chính là nhũng bức thư đã cũ! Tôi nhận ra nó ngay lập tức. Đó chính là những bức thư ở trong một cái túi thư của bưu điện mà ngày trước, khi nước lũ dâng lên đã trôi vào sân nhà chúng tôi. Tôi nhớ lại những đêm đông dài đằng đẵng dì Đa- sa đã đọc những bức thư này. Đêm khuya ngồi đọc thư như thế thực là thú tuyệt!

    Những bức thư của những người không quen biết! Ai mà biết được những người viết những bức thư này hiện nay ở đâu? Cứ lấy ngay cái thư ở trong cái phong bì dày cộp đã vàng khè này mà nói, có lẽ vẫn còn có người nào đó trằn trọc thâu đêm, mong ngóng bức thư này.

    Tôi vô tình mở phong bì ra và đọc mấy dòng: “Bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na kính mến!

    Trước hết xin báo tin để bà rõ là ông I-van Li-vô-ních hãy còn sông và khỏe mạnh. Cách đây bốn tháng, theo lệnh của ông, tôi đã rời khỏi chiếc tàu buồm cùng mười ba người nữa trong đội thủy thủ...


    Tôi đọc mà không dám tin ở mắt mình. Đấy chính là bức thư của viên hoa tiêu biển viễn hành. Tôi đã từng thuộc lòng bức thư này và đã đọc nó trên những chuyến xe lửa từ En-xcơ đến Mát-xcơ-va! Thế nhưng một điều khác hẳn làm cho tôi sửng sốt.

    Chiếc tàu” “Xanh Ma-ri”, - tôi đọc tiếp, - bị nghẽn băng ở ngoài biển Ca-ra và từ tháng Mười năm 1912 nó không ngừng di chuyển lên phía bắc cùng với những tảng băng Bắc cực”. Chiếc tàu “Xanh Ma-ri”! Chiếc tàu của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp cũng mang tên như thế... Tôi lật lại lá thư và đọc lại từ đầu:

    Bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na kính mến!” - Bà Ma-ri-a Va-xi-li- ép-na! - “Trước hết tôi xin báo tin để bà rõ là ông I-van Li-vô-vích...” - Ông I-van Li-vô-vích! Ca-chi-a cũng tên là Ca-tê-ri-na I-van-nốp-na!

    Dì Đa-sa cho rằng tôi mất trí, bởi vì bỗng dưng tôi hét lện một tiếng rồi hối hả lục lấy lục để cái chồng thư cũ.

    Nhưng tôi thì hiểu rất rõ tôi đang làm gì; hồi ấy dì Đa-sa còn đọc cho tôi nghe một bức thư khác, trong đó kể về cuộc sống của ho trên băng, kể chuyện một thủy thủ bị ngã chết, kể chuyện họ đã chặt những tảng băng ở trong khoang tàu như thế nào?

    - Dì Đa-sa ơi, tất cả thư từ đều ở đây cả chứ?

    - Trời ơi, có chuyện gì thế?

    - Chẳng có chuyện gì cả, dì Đa-sa ạ! Trong số này phải có một bức thư như thế này nữa cơ mà.

    Tôi không nghe thấy tôi nói gì nữa. Bức thư ấy đây rồi:

    Ma-sen-ca, yêu quí, thân thiết, yêu thương!

    Kể từ ngày anh gửi cho em bức thư qua đoàn thám hiểm bưu điện Iu-go Sa-rơ đến nay, thấm thoắt đã gần hai năm rồi. Hai năm qua có biết bao nhiêu thay đổi nhưng anh không tài nào kể hết cho em nghe được. Bọn anh đã bắt đầu đi được một cách thuận lợi theo đúng tuyến đường đã dự định trước.
    Nhưng từ tháng Mười năm 1912 bọn anh lại từ từ trôi theo tảng băng của Bắc cực lên phía Bắc. Như vậy thì dù muốn hay không, bọn anh cũng đành phải từ bỏ cái ý định ban đầu là đi dọc theo bờ biển Xi-bê-ri để đến Vla-đi-vô-xtốc. Nhưng trong cái rủi nào mà chả có điều may! Hiện nay anh lại nảy ra một ý nghĩ khác hẳn. Mong rằng em sẽ không như một số bạn đồng hành của anh, xem ý nghĩ này của anh là trẻ con” hay là “nông nổi”...

    Tờ đầu tiên đến đây kết thúc. Tôi lật tiếp sang trang bên, nhưng mặt sau không tài nào đọc được ngoài mấy chữ chẳng có liên quan gì với nhau.

    Tờ thứ hai bắt đầu từ chuyện miêu tả con tàu:

    "...tiến vào một vùng khá sâu. Chiếc tàu “Xanh Ma-rì” của bọn anh dừng lại giữa một biển băng bao la, tuyết càng ngày càng chất đầy hai bên mạn tàu. Những tràng hoa tuyết bám trên dây thừng chốc chốc lại rơi xuống kêu rào rào. Ma-sen-ca, em thấy không, vì khổ sở anh đã trở thành thi sĩ đấy. Tuy vậy ở chỗ anh cũng có một thi sĩ chính cống, đó là bác đầu bếp Côn-pa-cốp. Bác quả là một người không bao giờ biết nản chí! Suốt ngày bác ngâm nga bản trường ca của mình. Xin chép tặng em bốn câu để làm kỷ niệm:

    Cờ Nga phất phới tung bay,

    Con thuyền tuyệt mỹ hôm nay lên đường,

    Cùng thuyền trưởng vượt trùng dương,

    Bờ Xi-bê-ri đó là đường ta đi.

    Anh viết và đọc đi đọc lại bức thư dài vô tận này của mình rồi lại viết và nhận thấy anh đang tán gẫu với em, nhưng còn bao nhiêu điều quan trọng cần phải nói. Anh gửi Cơ-li-môp mang về cho ông Cục trưởng Cục địa lý thủy văn một gói niêm phong. Đây là tài liệu anh ghi chép những quan sát của anh, những giấy tờ công văn và báo cáo. Trong báo cáo có nói rõ lịch sử chuyến đi của bọn anh. Để đề phòng hất trắc, anh cũng viết cho em biết những phát hiện mới nhất của bọn anh: ở phía bắc bán đảo Ti-mua, trên bản đồ không có dấu hiệu nào nói là có đất đai gi. Thế mà ở vĩ độ 79°35’ giữa kinh tuyến 86 và 87 về phía đông Gờ-rin-vích bọn anh đã phát hiện thấy một dải đất màu trắng bạc khá lớn nhô ra khỏi chân trời. Ngày mồng ba tháng Tư, cái dải đất dài ấy đổi sang màu trắng ngà mờ mờ. Sang ngày hôm sau bọn anh thấy một vài đám mây có hình dáng rất kỳ dị, у như những đám sương mù bao phủ những ngọn núi xa xa. Anh tin chắc đó chính là đất liền. Thật đáng tiếc, anh không thể dừng tàu trong hoàn cảnh cực kỳ gay go này để nghiên cứu nó. Nhưng tất cả còn đang ở phía trước. Tạm thời anh đã lấy tên em để đặt tên cho nó. Như vậy là trên bất cứ bản đồ địa lý nào em cũng có thể thấy một lời chào thân yêu nhất của... anh
    ’'.

    Đến đây kết thúc mặt sau của tờ thứ hai. Tôi đặt tờ thứ hai xuống và lấy lên tờ thứ ba. Mấy dòng đầu bị nước làm mờ hết không đọc được. Sau đó là:

    Anh đau xót nghĩ rằng lẽ ra mọi việc có thể khác hẳn. Anh biết hắn sẽ biện bạch bào chữa, hắn biết làm cho em tin rằng mọi tội lỗi đều do anh gây ra. Anh chỉ tha thiết yêu cầu em một điều là đừng có tin con người ấy. Anh có thể mạnh dạn nói rằng mọi thất bại của bọn anh đều do hắn ta gây ra cả. Chỉ một việc sau đây cũng đủ để chứng minh: Ở Ac-khan-ghen-xcơ hắn bán cho bọn anh sáu mươi con chó thì phần lớn đã phải bắn chết ngay từ vùng đất mới. Đấy sự giúp đỡ thân tình của hắn phải trả giá đắt như thế đấy! Không phải chỉ có mình anh, mà tất cả đội thám hiểm đều chửi rủa hắn. Kỳ này bọn anh phải đương đầu với hiểm nguy, bọn anh biết nhất định sẽ gặp nguy hiểm. Song thật không ngờ lại bị một vố đau đến như vậy. Hiện nay chỉ còn cách làm tất cả những điều có thể làm được. Anh có thể kể cho em nghe rất nhiều về chuyến đi thám hiểm của bọn anh. Những chuyện ấy đủ kể cho Ca-chiu-sa nghe suốt cả mùa đông. Nhưng lạy Chúa tôi, việc này đã phải trả một giá quá đắt! Anh không muốn khiến em nghĩ rằng tình cảnh của bọn anh là tuyệt vọng. Nhưng dù sao em cũng đừng chờ đợi cho lắm...

    Như một tia chớp bỗng lóe sáng một góc khu rừng rậm, làm cho cảnh vật tối om bỗng thay đổi hẳn, thậm chí khiến người ta nhìn thấy cả những cành lá trên cây mà một phút trước đây dù có trông thấy cũng không biết đó là đã thú hay là người khổng lồ, khi tôi đọc những dòng này cũng vậy, tôi đã hiểu rõ tất cả. Thậm chí tôi nhớ cả nhũng tình tiết nhỏ nhặt nhất tưởng như vĩnh viễn bị quên đi.

    Giờ đây tôi hiểu rõ những lời đạo đức giả về “cậu em đã quá cố” của lão Ni-cô-lai An-tô-nứt. Tôi hiểu rõ bộ mặt giả dối đầy ý nghĩa của lão ta: mỗi khi nói về cậu em họ của lão, bao giờ lão cũng cau mày nghiêm nghị, tưởng chừng như trong những việc xảy ra các anh cũng có một phần lỗi. Tôi hiểu rõ tất cả mức độ hèn hạ tệ hại của cái gã giả vờ làm như hắn kiêu hãnh về tinh thần cao thượng của mình. Tuy trong thư không chỉ rõ tên hắn ra, song nhất định là hắn. Tôi không mảy may nghi ngờ gì điều ấy!

    Tôi xúc động quá đến khô cả cổ, tôi tự nói với mình nhưng lại nói rất to làm cho dì Đa-sa phải giật mình.

    - Xa-nhi-a, cháu làm sao thế?

    - Không sao cả, dì ạ. Dì ơi. còn những thư cũ nữa của dì đâu?

    - Tất cả ở đấy đấy!

    - Không có lẽ! Dì có nhớ hồi nào dì đã đọc cho cháu nghe bức thư thế này không? Bức thư đó rất dài, tất cả những tám trang cơ.

    - Dì không nhớ, cháu ạ!

    Ngoài ra tôi không tìm thấy gì trong cái gói ấy nữa. Chỉ có ba trang trong số tám trang. Nhưng thế này cũng tốt rồi.

    Trong mảnh giấy viết gửi cho Ca-chi-a, tôi chữa chữ “đến vào lúc bốn giờ” thành chữ “đến vào lúc ba giờ”. Sau đó tôi lại chữa thành chữ “đến vào lúc hai giờ”. Nhưng chính lúc đó đã hai giờ rồi, cho nên tôi lại chữa lại là “ba giờ”.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 2/6/15
  5. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    :rose:
    Chương 14

    Gặp nhau ở vườn nhà thờ. Đừng có tin ở con người ấy

    Hồi còn nhỏ tôi đã đến vườn Nhà thờ hàng ngàn lần. Nhưng hồi đó tôi chưa bao giờ nghĩ rằng vườn Nhà thờ lại đẹp đến thế! Nó nằm trên ngọn đồi cao, giữa hai nhánh sông Pét-trin-ca và Chi-khai-a hợp lại, xung quanh có bức tường bao bọc. Bức tường thành được gìn giữ rất tốt, nhưng ngọn tháp đã bé đi nhiều so với lần cuối cùng tôi và Pê-chi-a đến đây để “Trích máu ăn thề tình bạn”.

    Tuyết dày đặc, nhưng tôi vẫn trèo lên tầng cao nhất của cái tháp cổ Mác-tưn: phải ngắm xem cánh đồng cỏ ĩ-n-nốp-xki, trường Ni-cô-lai, xưởng thuộc da đã biến đổi như thế nào. Tất cả dường như ở đâu vẫn đấy, chỉ có tuyết là bạt ngàn, tuyết chạy dài đến tận chân trời...

    Cuối cùng Ca-chi-a và Xa-nhi-a đã đến. Tôi thấy Xa-nhi-a khoác cái áo da lông màu vàng, trông như một bà cụ già, nó chỉ tay nói: “Đây, vườn Nhà thờ”, đoạn nó gật đầu với vẻ rất thần bí rồi quay về ngay lập tức. Tôi gọi to.

    - Ca-chi-a!

    Ca-chi-a giật mình, nhìn thấy tôi và cười...

    Chúng tôi cứ trách nhau hàng tiếng đồng hồ: tôi trách cô ta tại sao không báo tin cho tôi biết là cô đi, còn cô thì trách tôi tại sao không chờ thư của cô mà đã đến. Sau đó chúng tôi sực nhận ra là chưa báo cho nhau cái tin quan trọng nhất. Thì ra Ni-cô-lai An-tô-nứt đã nói chuyện với Ca-chi-a. Nhân danh “người em đã quá cố” ông ta cấm chỉ không cho Ca-chi-a được gặp tôi. Ông ta nói tràng giang đại hải và đã khóc.

    - Xa-nhi-a, có lẽ cậu không tin mình, - Ca-chi-a nghiêm nghị nói. - nhưng mình thề với cậu, chính mắt mình đã nhìn thấy ông ta khóc!

    - Thế à, - tôi nói và đặt bàn tay lên ngực.

    Bức thư của thuyền trường Ta-ta-ri-nốp tôi xin của dì Đa-sa được gói trong tờ giấy dầu đang nằm trong túi áo ngực của tôi. Tôi nói dứt khoát:

    - Ca-chi-a, nghe mình nói nhé, mình muốn kể cho cậu nghe một câu chuyện. Đại khái là như thế này: cậu cứ tưởng tượng rằng cậu đang sống bên bờ sông và vào một ngày nào đó có một túi thư bưu điện trôi dạt vào bờ. Tất nhiên nó không phải từ trên trời rơi xuống mà do nước lũ trôi về. Anh nhân viên bưu điện chết đuối! Túi thư này rơi vào tay một người đàn bà rất thích đọc thư. Bên cạnh nhà người đàn bà ấy có một thằng bé lên tám rất thích nghe kể chuyện. Có một lần bà ta đã đọc cho thằng bé nghe một bức thư như sau: “Bà Ma-ri-a Va-xi-ỉi-ép-na kính mến...''

    Ca-chi-a giật nảy mình và nhìn tôi sửng sốt.

    Trước hết xin báo tin để bà rõ là ông I-van Li-vô-vích hãy còn sống và khỏe mạnh, - tôi tiếp tục đọc nhanh. - Cách đây bốn tháng, theo lệnh của ông...”

    Tôi đọc thuộc lòng một lèo hết bức thư của người hoa tiêu. Mặc dù có mấy lần Ca-chi-a kinh hãi, níu tay áo tôi, tôi cũng không ngừng.

    - Cậu thấy bức thư đó à? - Cô hỏi, mặt tái đi. - Bức thư viết về ba? - Cô lại hỏi tôi, hình như ở đấy còn có thể có cái gì đó đáng ngờ.

    - Ừ! Nhưng như thế chưa phải đã hết!

    Tôi đã kể cho cô ta nghe có một lần dì Đa-sa còn tìm thấy một bức thư khác, trong thư kể chuyện sinh hoạt trên tàu khi tàu bị nghẽn trong lớp băng và trôi dần lên phía Bắc.

    - Ma-sen-ca yêu quí, thân thiết, yêu thương...!” - Tôi lại đọc thuộc lòng và lại ngừng.

    Trên lưng tôi như có kiến bò, cổ tôi tắc lại. Chẳng khác gì trong giấc mộng, trước mắt tôi bỗng hiện lên khuôn mặt u sầu, già sọm với đôi mắt buồn bã nhìn trộm của bà Ma-ri-a Va-xi-li- ép-na. Khi ông ấy viết cho bà thư này thì bà cũng giống như Ca- chi-a hiện nay, còn Ca-chi-a hồi đó là một cô gái bé tí tẹo, ngày nào cũng chờ “thư của ba” gửi về. Cuối cùng chờ mãi cũng vô ích!

    - Tất cả đây này! - Tôi nói xong liền rút trong túi áo ngực ra bức thư gói trong giây dầu. - Ngồi đây mà đọc đi. Mình đi đây, khi nào cậu đọc xong mình sẽ quay lại.

    Tất nhiên là tôi chẳng đi đâu cả. Tôi đứng ở dưới chân cái tháp cổ Mác-tưn và nhìn Ca-chi-a trong suốt thời gian cô ta đọc thư. Tôi rất thông cảm với Ca-chi-a, khi tôi nghĩ đến cô, lòng tôi thấy ấm lên rạo rực. Nhưng khi nghĩ đến việc cô ta sẽ kinh hãi như thế nào khi đọc những bức thư này lòng tôi lại tê tái. Tôi đã nhìn thấy những động tác tự nhiên khi cô gạt những sợi tóc làm ảnh hưởng đến việc đọc và có lúc cô đã đứng lên hình như làm như vậy thì sẽ lần ra được một chữ khó. Trước đây tôi không biết rằng nhận được một bức thư như thế người ta sẽ đau khổ hay vui sướng. Nhưng giờ đây nhìn Ca-chi-a tôi liền hiểu ngay rằng đó là một điều cực kỳ đau khổ. Tôi hiểu rằng chưa bao giờ cô hết hy vọng! Mười ba năm trước, ba cô bị biệt tăm trên biển băng Bắc cực. Ở Bắc cực không có gì dễ chết hơn là đói và rét. Nhưng đối với cô thì chỉ đến bây giờ ba cô mới chết!

    Khi tôi quay trở lại thấy mắt Ca-chi-a đỏ ngầu lên, cô ngồi trên ghế đá, tay nắm lá thư đặt trên đầu gối. Tôi hỏi:

    - Lạnh cóng rồi phải khỡng? - Tôi không biết nên bắt đầu câu chuyện như thế nào.

    - Có mấy chữ mình đọc chẳng ra... Đây chữ này: “Cầu xin em...”

    - À, mấy chữ ấy à! Ở đây viết: “Cầu xin em, đừng có tin con người ấy...”

    Tối hôm đó Ca-chi-a đến chơi nhà tôi, nhưng chúng tôi không đả động gì đến chuyện những bức thư cũ, - chúng tôi đã giao hẹn trước với nhau như vậy. Chỉ có dì Đa-sa vô tình kể lại chuyện anh nhân viên bưu điện bị chết đuối. Thì ra không phải anh chết đuối ngẫu nhiên - đì Đa-sa giải thích như vậy, - anh nhảy xuống nước tự tử vì “thất tình”. Anh có yêu một cô gái, nhưng cô gái này lại đi lấy người khác. Dì Đa-sa nói tiếp vẻ hờn giận:

    - Giá anh ta phân phát hết những bức thư này trước đã thì hơn!

    Tối hôm đó Ca-chi-a rất buồn. Mọi người đều chăm sóc cô, đặc biệt là Xa-nhi-a quyến luyến cô ngay lập tức. Chỉ có các cô gái mới có thể làm như thế. Sau đó tôi và Xa-nhi-a tiễn cô về đến tận chổ con dê. Con dê vẫn đứng trên con đường nhỏ, nhưng lần này nó không kêu be be lên nũa mà chỉ cáu kỉnh lúc lắc bộ râu.

    Chúng tôi về đến nhà, người lớn vẫn chưa ngủ. Ông chánh án chỉ hơi trách dì Đa-sa tại sao không gửi tiếp những bức thư này đi “mặc dù những bức thư đó phải lần mò mới ra địa chỉ”, còn đối với dì chỉ có một lời biện hộ, tưởng đây là chuyện cũ cách đây đã mười năm. Dì Đa-sa nói về Ca-chi-a. Theo ý kiến dì thì số phận tôi đã được quyết định rồi.

    - Khá nắm! Mê ly! - Dì thở dài nói. - Rất xinh, nét mặt hơi buồn một tí. Khỏe mạnh!

    Tôi xin Xa-nhi-a một tấm bản đồ Bắc cực và chỉ ra con đường mà thuyền trưởng Ta-ta-ri-nôp phải đi từ Lê-nin-grát đến Vla-đi-vô-xtốc. Mãi đến lúc này tôi mới nhớ đến phát hiện mới của ông. Phía bắc bán đảo Ti-mua có đất đai gì nhỉ?

    - Hượm đã, - Xa-nhi-a nói. - Đó chẳng phải là Bắc địa đó sao! Khỉ thật! Đó là Bắc địa do trung úy Vin-kít-xki phát hiện năm 1913. Chiều rộng của nó ở vĩ độ 79°35 giữa kinh tuyến tám mươi sáu và tám mươi bảy. Kỳ lạ thật!

    - Sai rồi, các bạn ơi! - Tôi nói và hình như lúc đó mặt tôi hơi tái đi nên dì Đa-sa sợ hãi nhìn tôi - Tôi hiểu hết rồi! Lúc đầu đây là một cái dải dài màu trắng bạc, nhô ra từ phía chân trời, ngày mồng ba tháng Tư cái dải dài ấy biến thành một miếng đất mờ mờ. Ngày mồng ba tháng Tư.

    - Xa-nhì-a... dì Đa-sa lo lắng định nói.

    Không đúng, các vị ạ! Ngày mồng ba tháng Tư! Còn cái Bắc địa mà Vin-kít-xki phát hiện ra là vào mùa thu, tôi không nhớ rõ là vào ngày tháng nào, nhưng đúng là vào mùa thu khoảng tháng
    Chín hay tháng Mười gì đó. Vào mùa thu như vậy là sau những nửa năm! Vào mùa thu, như vậy có nghĩa là anh ta chẳng phát hiện được cái gì cả, bởi vì cái đó đã được phát hiện rồi.

    - Xa-nhi-a! - ông chánh án cũng nói.

    - Mảnh đất đã được phát hiện và đã được đặt tên là Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na, - tôi nói tiếp, gí chặt ngón tay lên chỗ Bắc địa, hình như sợ có ai nói điều gì sai lầm nữa về nó. - Để kỷ niệm Ma- ri-a Va-xi-lí-ép-na, lục địa này đã được đặt tên là Châu Ma-ri-a hoặc đảo Ma-ri-a gi đó đại loại như thế. Còn bây giờ xin mời các vị ngồi xuống, tôi xin giải thích cho các vị nghe!

    Trải qua một ngày như vậy làm sao có thể ngủ ngon được! Tôi cứ uống nước luôn và lật đi lật lại tấm bản đồ. Trong phòng ăn có treo một số tranh phong cảnh En-xcơ, tôi cứ ngắm những bức tranh ấy mãi, lúc đó tôi chưa biết những bức tranh này là do Xa- nhi-a vẽ. Tôi không biết là cô ây đang học hội họa và đang ao ước được vào Viện Hàn lâm Mỹ thuật. Tôi lại nghiên cứu tấm bản đồ. Tôi nhớ ra là những hòn đảo ở miền Bắc này mãi gần đây mới được đặt tên là Bắc địa. Còn trước kia Vin-kít-xki gọi những hòn đảo ấy là “Châu Ni-cô-lai đệ nhị”.

    Ba của Ca-chi-a thật tội nghiệp! Ông ấy quả là bất hạnh! Chẳng có một quyển sách địa lý nào nhắc đến tên ông, trên thế giới này chẳng một ai biết đến những việc ông đã làm.

    Tôi bắt đầu cảm thấy lạnh vì thông cảm và phấn khởi. Lúc đó đã là sáu giờ sáng, ngoài đường phố đã có tiếng chổi quét đường kêu soàn soạt, tôi bèn đi nằm. Song tôi không tài nào ngủ được. Từng đoạn trong bức thư của viên thuyền trưởng cứ giày vò tôi. Hình như tôi nghe thấy tiếng dì Đa-sa đọc thư. Hình như tôi nom thấy dì đeo kính vừa thở dài, vừa lắp bắp đọc thư. Trong trí tưởng tượng của tôi đã hiện lên một bức tranh như thế này, những chiếc lều trắng ở trên tuyết, một đàn chó kéo xe trượt tuyết, một ngưõi khổng lồ đi ủng da lông rất cao, đầu đội mũ lông cao. Tôi rất muốn rằng tôi gặp tất cả những cái đó, để tôi được ở trên chiếc tàu đó, trôi dần theo núi băng, từ từ tiến lên xông pha nguy hiểm, tôi chính là người thuyền trưởng đã viết bức thư vĩnh biệt vợ, - viết nhưng không thể viết xong. "Anh lấy tên em đặt cho hòn đảo này, như vậy trên bất cứ bản đồ địa lý nào em cũng sẽ tìm thấy lời chào thân yêu nhất của... anh”.

    Câu này xem ra kết thúc như thê nào nhỉ?... Bỗng có một cái gì đó từ từ thoáng qua trong đầu óc tôi, rất chậm rãi, tựa hồ như miễn cưỡng và tôi ngồi phắt dậy trên giường, không dám tin ở mình và cảm thấy bây giờ hình như mình sắp hóa điên - sắp hóa điên bởi vì tôi đã nhớ ra:

    “... lời chào hỏi thân thiết nhất của anh Mô-gô-ti-mô I-a- xtơ-re-bi-nưu Cồ-gốt của em như đã có lần em gọi anh như vậy. Lạy Chúa! Đó là chuyện đã lâu lắm rồi! Nhưng anh không than phiền... Nhưng anh không phan phiền”, - tôi tiếp tục nhớ lại, mồm lắp bắp, cứ sợ nhớ ra một chữ, một chữ nữa, rồi sau đó thì quên tiệt, không sao nhớ ra được nữa. “Anh không than phiền. Chúng ta nhất định sẽ lại gặp nhau, và mọi việc đều sẽ êm đẹp cả. Nhưng có một ý nghĩ, một ý nghĩ làm cho anh vô cùng khổ tâm.

    Tôi bỗng nhảy ra khỏi giường, châm đèn và chạy vội đến bên cái bàn có tấm bản đồ và bút chì.

    “Thật là đau khổ, - Lúc đó tôi viết lên tấm bản đồ, - khi nhận thấy rằng lẽ ra mọi việc có thể sẽ khác hẳn. Bọn anh liên tiếp gặp phải những điều rủi ro mà điều rủi ro đầu tiên, đó là anh đã giao việc chuẩn bị vật chất của đội thám hiểm cho Ni-cô-lai. Đó là cái sai lầm mà bọn anh phải trả giá từng giờ từng phút.

    Ni-cô-lai ư? Đúng không? Đúng, chính Ni-cô-lai rồi!

    Tôi ngừng lại bởi vì tôi đã vấp phải một chỗ quên. Nhưng sau đó, - những sự việc sau đó thì tôi lại nhớ rất rõ - đó là đoạn kể về anh thủy thủ Xcat-scốp bị rơi xuống vực chết. Nhưng đó lại là chuyện khác hẳn. Đó là nội dung của bức thư chứ không phải là nguyên văn, trừ vài chữ rời rạc ra, còn nguyên văn bức thư như thế nào tôi chịu không sao nhớ ra được nữa.

    Thế là tôi không ngủ, ông chánh án dậy vào lúc tám giờ sáng và giật mình khi thấy tôi chỉ mặc có một chiếc áo may-ô ngồi trước những tấm bản đồ Bắc cực. Trên tấm bản đồ này tôi đã có thể đọc được hết tất cả những chi tiết về vụ chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri” bị đắm - chi ly đến mức nếu thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp có trở về cũng phải ngạc nhiên...

    Tối hôm trước chúng tôi đã hẹn vớì nhau là sẽ đi thăm Viện bảo tàng thành phố . Xa-nhia muốn dẫn chúng tôi đi xem Viện bảo tàng này vì đó là niềm rất tự hào của thành phố En-xcơ. Viện bảo tàng đặt trong cung điện Pa-gan-kin, tòa nhà của tên chủ hiệu buôn hồi trước. Pê-chi-a Xcô-vô-rốt-ni-cốp trước đây nói rằng tòa nhà này có đầy ắp những vàng, tên chủ hiệu Pa-gan- kin ở dưới hầm của cái nhà này và hễ ai vào đến nhà hầm là nó bóp cổ chết. Quả thật, cửa vào nhà hầm đóng kín, trên cánh cửa treo một ống khóa rất to, có lẽ khóa của thế kỷ thứ mười hai. Nhưng cửa sổ thì lại mở. Nhũng người đánh xe ngựa thường ném củi vào trong nhà hầm qua cửa sổ này.

    Trên tầng ba là phòng triển lãm tranh của họa sĩ Túp, thầy giáo hội họa của Xa-nhi-a và cô muốn dẫn chúng tôi đến xem những bức tranh này trước. Trong số những bức tranh này có bức chân dung của tác giả: người nhỏ bé, khoác chiếc áo nhung ngắn kiểu Tôn-xtôi, niềm nở, tóc đeo rất rậm, thỉnh thoảng điểm vài ba sợi tóc trắng lóng lánh. Tranh của ông kể cũng không tồi. nhưng hơi đơn điệu, chỉ toàn là cảnh En-xcơ, đêm và ngày, cảnh dưới ánh trăng và dưới ánh nắng mặt trời, thành phố En-xcơ cũ và mới. Song chúng tôi vẫn cứ tán dương những tác phẩm ấy bởi vì ông họa sĩ Túp này thật ra cũng rất đáng yêu và vẻ mặt Xa- nhi-a khi nhìn ông ta trông thật là tôn kính!

    Hình như cô đoán được là tôi và Ca-chi-a muốn nói chuyện riêng với nhau nên cô đã tìm một cái сớ vớ vẩn để đi và để chúng tôi ở lại một mình ở phòng triển lãm. Còn chúng tôi thì xuống tầng dưới, vào một gian phòng rất lớn, trong phòng có rất nhiều tượng các hiệp sĩ, hiệp sĩ nào cũng mặc áo giáp sắt trước ngực lại có tấm thép chắn у như người ta mặc áo gi-lê ra ngoài áo sơ-mi vậy.

    Rất dễ hiểu là lúc này tôi đang muốn kể cho Ca-chi-a nghe những phát hiện của tôi hồi đêm. Nhưng bắt đầu câu chuyện như thế nào? Chính cô ta lại phải khơi mào trước.

    - Xa-nhi-a, - cô nói khi chúng tôi dừng lại trước bức tượng người chiến sĩ thời Xtê-phan Ba-tô-ri, làm người ta nhớ đến thầy Cô-ra-bơ-li-ôр, - mình nghĩ ra rồi, ông cụ viết “Đừng tin ở con người ấy” là nói về ai rồi.

    - Nói đì!

    - Mình khẳng định rằng đó không phải nói về Ni-cô-lai An- tô-nứt.

    Chúng tôi im lặng. Cô vẫn không rời mắt khỏi bức tượng người chiến sĩ.

    - Không, về ông ta đấy, - tôi bác lại. - Hơn nữa chính ba cậu đã phát hiện ra Bắc địa. Chính là ba cậu chứ không phải là Vin-kít-xki. Mình đã xác minh được điều đó.

    Nhưng cái tin đã làm trấn động các nhà địa lý học trên toàn thế giới trong nhiều năm giờ đây lại chẳng gây ảnh hưởng gì đặc biệt đối với Ca-chi-a cả.

    ' Thế tại sao cậu lại nghĩ rằng, - cô nói tiếp có vẻ khó học, - đó chính là ông ta... là Ni-cô-lai An-tô-nứt? Trong thư chẳng có chỗ nào nói rõ như thê cả?

    - Có khối chỗ nói rõ, - tôi cảm thấy mình đã bắt đầu nóng tiết.

    - Thứ nhất là về chỗ những con chó. Ai thường hay khoe khoang hàng nghìn lần là đã mua cho đội thám hiểm những con chó tốt nhất? Thứ hai...

    Xa-nhi-a đến, chúng tôi lại im lặng, Chúng tôi xem “Cuộc sống của giới quý tộc cổ Nga” xem “Những cái nhà như chuồng gà của nông dân tỉnh En-xcơ dưới chế độ tư bản” mà chẳng hiểu gì cả, Xa-nhi-a giải thích cho chúng tôi điều gì đó nhưng tôi không nghe thấy hay ít nhất thì Ca-chi-a cũng không nghe được. Cô cứ nhìn tôi suốt, hình như muốn hỏi tôi: “Cậu tin thế chứ?”. Còn tôi thì trả lời nhưng không nói ra lời: “Mình tin chắc như vậy”.

    Sau đó Xa-nhi-a lại từ giã chúng tôi để về. Chúng tôi còn đi mãi trong gian phòng lớn thiếu ánh sáng của Viện bảo tàng thành phố En-xcơ.

    - Còn điều thứ hai?

    - Điều thứ hai là đêm qua mình nhớ ra một đoạn nữa của bức thư. Đó là...,

    Và tôi đã đọc cái đoạn đó, bắt đầu từ chữ: “Mô-gô-ti-mô I-a- xtơ-re-bi-nưu Cồ-gốt’. Tôi đọc rất đĩnh đạc, hùng dũng như ngâm thơ, còn Ca-chi-a thì trợn tròn mắt nghe tôi, nghiêm trang như một pho tượng. Bỗng mắt cô thoáng hiện vẻ lãnh đạm và tôi cảm thây rằng cô không tin tôi.

    - Cậu có tin mình không?

    Mặt cô biến sắc, cô khe khẽ đáp:

    - Tin.

    Chúng tôi không nói gì thêm về chuyện ấỵ nữa. Tôi chỉ hỏi cô có một câu là có nhớ câu “Môn-gô-ti-mô I-a-xtơ-re-bi-nưu Cô-gôt” từ đâu ra không? Cô nói là cô không nhớ, hình như từ trong cuốn sách của Guýt-xtap E-ma-rơ thì phải. Sau đó cò nói: “Mình không biết cái tin này đối với mẹ sẽ đáng sợ như thế nào”

    - Mọi cái đều kinh khủng hơn điều cậu tưởng rất nhiều, - cô nhận xét, buồn bã và hệt một người lớn tuổi. - Hiện nay mẹ sống đã khổ lắm rồi, những nỗi khổ sở phải chịu đựng thì không cần phải nói. Nhưng Ni-cô-lai An-tô-nứt...

    Ca-chi-a bỗng im bặt. Nhưng sau đó cô cũng giải thích cho tôi vì sao. Đây cũng là một phát hiện mới có lẽ còn bất ngờ hơn cả việc thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp phát hiện ra Bắc địa. Thì ra Ni- cô-lai An-tô-nứt đã yêu bà Ma-rì-a Va-xi-li-ép-na từ nhiều năm nay. Năm ngoái khi bà ốm, ông túc trực mấy ngày đêm liền không cởi quần áo, thậm chí còn mời riêng cả một chị у tá đến, mặc dù chẳng phải làm như vậy. Sau khi khỏi bệnh, ông trực tiếp đưa bà đến thành phố Xô-tri. Đáng lẽ đưa vào nhà an dưỡng thì rẻ hơn nhiều, nhưng ông lại để bà nằm ở khách sạn “Ri-via-ra”. Cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na nói “thật là rồ!” Mùa xuân ông đi Lê-nin-grát và mua cho bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na một áo khoác da có tay kiểu cánh bay rất đắt tiền. Không bao giờ ông đi ngủ trước nếu bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na không có nhà. Ông khuyên bà nên thôi học đại học bởi vỉ bà khó lòng vừa công tác lại vừa học. Nhưng câu chuyện đáng ngạc nhiên nhất lại xảy ra vào mùa đông năm nay: bỗng nhiên bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép na tuyên bố rằng bà không muốn gặp ông ta nữa. Và thê là ông mất tích. Ông mặc quần áo rồi đi biệt hơn mười ngày liền không thấy về. Chẳng ai biết ông ở đâu cả. Có lẽ ông ở khách sạn. Lúc đó bà cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp- na đến can thiệp. Bà cụ nói rằng đó là “một thứ hình phạt kiểu giáo hội” và bà cụ thân dẫn ông ta về. Nhưng bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na vẫn không nóí chuyện với ông suốt một tháng...

    Nói rằng ông Ni-cô-lai An-tô-nứt phát điên vì tình, đó là một việc không thể có được! Ni-cô-lai An-tô-nứt với những ngón tay mập mạp, với cái răng vàng, lại già như thế! Nhưng nghe Ca-chi-a kể, tôi hình dung những quan hệ phức tạp và đau lòng. Tôi tưởng tượng xem bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na đã sống những năm trời đằng đẵng ấy như thế nào. Bà xinh đẹp mà mới hai mươi tuổi đầu đã phải sống cô độc. “Không phải quả phụ mà cũng không phải là gái có chồng!” Bà bắt mình sống bằng cách kính trọng kỷ niệm của chồng. Tôi tưởng tượng xem bao năm trời nay Ni-cô-lai An-tô-nứt đã ve vãn chiều chuộng bà, lường gạt bà, ngọt ngào, kiên tâm, nhẫn nại như thê nào. Ông đã biết thuyết phục bà và không phải chỉ có một mình bà - tin rằng chỉ có mình ông là hiểu rõ và yêu quí chồng bà mà thôi. Ca-chi-a đã nói đúng. Đối với bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na, bức thư này là một cái đòn đáng sợ. Hay cứ để cho bức thư này nằm trên cái giá sách con ở trong buồng của Xa-nhi-a, giữa hai cuốn sách “Vua Chuông” và “Những cuộc phiêu lưu của chàng Cô-dắc sông Đông trên núi đồi Cáp-ca-dơ” là hơn?

    (1) Guýt-xtáp E-ma-rd (1818 - 1883) nhà văn Pháp đã từng đến Nam Mỹ, Bắc Mỹ, Phi châu và Cáp-ca-dơ vân vân; đã từng viết nhiều tiểu thuyết du ký và truyện người da đỏ chống lại sự xâm lược của người da trắng. • N.D.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 2/6/15
  6. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 15

    Chúng tôi đi dạo - Tảo mộ - gia đình Bu-ben-tri-cốp - Ngày biệt ly

    Một tuần lễ ở En-xcơ trôi qua chẳng lấy gì làm thú vị lắm, thậm chí còn rất buồn nữa là khác. Nhưng tuần lễ đó đã để lại trong suốt đời tôi biết bao nhiêu ký ức kỳ diệu!

    Hàng ngày tôi cùng Ca-chi-a đi dạo, tôi đã chỉ cho cô хem những nơi mà xưa kia tôi hằng yêu thích và kể cho cô nghe về những ngày thơ ấu cùa tôi, Còn nhớ tôi đã đọc được ở một cuốn sách nào đó nói rằng những nhà khảo cổ học có thể khôi phục được lịch sử và phong tục tập quán của cả một dân tộc qua một tấm bia còn giữ lại được. Tôi cũng vậy - từ một ngóc ngách nào đó còn lại của thành phố En-xcơ cũ, tôi có thể hồi tưỏng lại và kể cho Ca-chi-a nghe về cuộc sống trưóc đây của chúng tôi.

    Nhưng giờ đây chính bản thân tôi cũng phải đánh giá lại cái thành phố xinh đẹp này. Hồi còn nhỏ tôi không nhận thấy tất cả vẻ đẹp của những vườn trên đồi, của những con đường dốc, của hai bờ sông cao ngất bắt đầu tách ra từ chỗ “Lan can sắt” (hiện nay người ta vẫn dùng danh từ này để gọi chỗ hai con sông Pét-trin-ca và Chi-khai-a gặp nhau)...

    Chỉ có một ngày tôi không gặp Ca-chi-a. Hôm đó tôi đi đến nghĩa địa. Không hiểu tại sao tôi cảm thấy sau những năm qua ngôi mộ của mẹ tôi không còn vết tích gì nữa. Nhưng cuối cùng tôi cũng tìm thấy. Xung quanh mộ có những cành cây cắm thành hàng rào và trên cây chữ thập đã đổ nghiêng vẫn có thể đọc được hàng chữ “Cầu chúa đừng quên linh hồn kẻ nô lệ của Người”. Bấy giờ là mùa đông, tất nhiên tất cả các ngôi mộ khác cũng bị tuyết phủ kín như nhau, nhưng dù sao cũng vẫn có thể thấy ngôi mộ này hoang vu, không người chăm sóc.

    Tôi đâm buồn, thơ thẩn mãi trên con đường nhỏ và hồi tưởng lại về mẹ tôi. Giờ đây không biết mẹ tôi đã bao nhiêu tuổi? Bốn mươi. Mẹ tôi còn trẻ lắm. Lẽ ra giờ đây mẹ tôi cũng có thể sống hạnh phúc như dì Đa-sa, nghĩ đến đó lòng tôi đau thắt lại. Tôi nhớ lại đôi mắt mệt mỏi đờ đẫn của Người, nhớ lại hai bàn tay nứt nẻ vì đi giặt thuê, nhớ lại cái cảnh mẹ tôi mệt mỏi quá ngồi ăn cơm chiều mà không ăn được, mệt chẳng khác gì chết... Kể ra mẹ tôi rất thông minh! Chính cái tên khốn kiếp Gai-e Cu-li đã làm cho mẹ tôi mê hoặc và đã giết chết mẹ tôi!

    Tôi quay lại chỗ phần mộ dường như để xin lỗi mẹ. Sau đó tôi đi tìm người canh nghĩa địa. Ông ta đang bổ củi ầm ầm ở trong cái nhà cạnh xiêu vẹo. Tôi nói với ông:

    - Bác ơi, ở đây có ngôi mộ của bà Ác-si-ni-a Gri-gô-ri-e-va. Ngôi mộ ấy ở trên con đường nhỏ này, ngôi mộ thứ hai ở chỗ rẽ kia.

    Ông ta làm ra vẻ như đã biết rõ ngôi mộ tôi nói là ngôi mộ nào.

    - Bác có thể đắp lại giúp được không? Tôi xin trả tiền.

    Người canh mộ đi đến con đường nhỏ xem rồi quay lại. Ông ta nói:

    - Ngôi mộ này có người trông nom đấy. Hiện nay là mùa đông nên nhìn không thấy. Những ngôi mộ khác mới không có người trông nom cho nên nếu cây chữ thập không bị nhỏ thì cũng hỏng cái nọ, cái kia. Còn ngôi mộ này thì có người chăm sóc.

    Tôi đưa cho ông ta ba rúp rồi đi ra.

    Trên đường về nhà, tôi nghĩ đến Gai-e Cu-li, đến mẹ tôi. Không hiểu sao mẹ tôi lại có thể yêu một con người như thế? Bất giác tôi lại nghĩ đến bà Ma-ri-a va-xi-li-ép-na và tôi quả quyết rằng cả đời tôi sẽ không bao giờ hiểu được tâm lý phụ nữ...

    Ngày nào chúng tôi cũng gặp nhau, nhưng mãi cho đến khi trước hôm ra đi tôi mới có dịp hỏi Ca-chi-a về mấy bà già trong gia đình Bu-ben-tri-cốp: có phải họ bị đuổi ra khỏi đạo không? Ca-chi-a hết sức ngạc nhiên. Cô nói:

    - Thật à? Mình cũng không biết. Nhưng rất có thể như thế, bởi vì các bà ấy đều là những người vô thần và theo chủ nghĩa hư vô. Cậu đã đọc “Cha và con” chưa?

    - Đọc rồi.

    - Thế cậu có nhớ trong đó có một anh hư vô chủ nghĩa Ba-da-rôp không?

    - Nhớ.

    - Đấy, các bà ấy cũng là những người hư vô chủ nghĩa như hắn đấy.

    - Thôi được, thôi đủ rồi! Thế chuyện đó xảy ra vào hồi nào?

    - Có gì đâu! Các bà ấy già cả rồi. Còn con dê thì cáu kỉnh. Họ uống sữa dê, họ cũng khuyên mình uống nhưng mình đã từ chối. Khi con dê đã cáu kỉnh thì sữa của nó cũng không tốt.

    - Cậu chỉ lừa mình thôi, - tôi trầm ngâm một lát rồi nói.

    - Không, mình nói thật đấy, - Ca-chi-a vội chống chế.

    Một con dê cáu kỉnh, ba người hư vô chủ nghĩa chăm sóc nó. Có trời biết chuyện oái oăm đó! Dù sao cũng là chuyện vớ vẩn.

    Và thế là ngày cuối cùng chia tay đi đến! Từ sáu giờ sáng dì Đa-sa đã rán bánh ngọt. Tôi vừa tỉnh dậy đã ngửi thấy mùi nghệ tây thơm nức và mùi bột nhào vừa thơm vừa ngọt lự. Sau đó dì đi vào nhà ăn nơi tôi đang ngủ, trông dì rất buồn, mắt đeo kính, người dính đầy bột, tay cầm góc lá thư Pê-chi-a gửi về.

    - Phải gọi Xa-nhi-a dậy thôi, - dì nghiêm nghị nói. - Có thư của Pê-chi-a đây này.

    Đúng là thư của Pê-chi-a thật ! cũng đúng như ông chánh án nói, thư ngắn nhưng rất “đâu vào đấy". Trước hết nó giải thích tại sao lại không về nhà nghỉ đông, là bởi vì nó đi Lê-nin- grát tham quan. Thứ hai, nó rất ngạc nhiên về sự có mặt của tôi ở En-xcơ và do đó nó xin tỏ nỗi vui mừng thành thật. Thứ ba, nó mắng tôi một trận nên thân về tội đã không viết thư lại không đi tìm nó, tóm lại “tôi đã hành động như một kẻ vô tình”. Thứ tư, trong phong bì lại còn một bức thư nữa gửi cho Xa-nhi-a làm cho cô ta cười ngượng nghịu và nói: “Thật là anh chàng ngốc, viết chung vào một thể không được hay sao. Nhưng rõ ràng là nó không thể gộp hai thư vào làm một được bởi vì Xa-nhi-a cầm lấy thư rồi chạy biến vào buồng mình đọc suốt ba tiếng đồng hồ, mãi cho đến khi tôi vào buồng, cô mới thôi. Tôi bảo Xa-nhi-a phải xuống ngay bếp ngăn dì Đa-sa lại, vì dì đang định làm cho tôi cái bánh rán dài rộng hàng thước để mang đi ăn đường.

    Có lẽ ở trong ngôi nhà số Tám ngõ La-pu-tin cũng xảy ra cái cảnh tượng như thế, bởi vì Ca-chi-а cũng không thể ra khỏi nhà vào ngày hôm đó được. Cứ như Ca-chi-a sắp đi Bắc cực không bằng, không những người ta nấu cho cô bao nhiêu thức ăn, mà người ta còn trang bị cho cô rất nhiều quần áo: nào quần áo cưới kiểu cũ chưa dùng đến của ba vị hư vô chủ nghĩa, nào đăng ten Thổ-nhĩ-kỳ, nào áo khoác len vai bồng, nào áo váy có lót nặng trình trịch.

    Tuyệt nhất là chuyện Xa-nhi-a rẽ vào nhà Bu-ben-tri-cốp một tí, lúc về bị lỡ bữa cơm trưa. Cô về có vẻ lúng túng và nói rằng ở đó rất thú vị. Cả ba bà già cùng ra sức may, may được một chiếc áo váy rất đẹp. Ca-chi-a mặc rất vừa, còn cô mặc trông chả ra cái gì cả. Nhưng cái mũ thì cô đội rất hợp cho nên nhất định cô sẽ phải may một chiếc như thế.

    - Tóm lại là cái gì chúng em cũng đều đã thử cả, - Xa-nhi-a nói và bật cười. - Thậm chí đến chóng cả mặt.

    Ông chánh án đi làm về ngồi ăn với tôi bữa cơm cuối cùng. Ông mang về một chai rượu nho, chúng tôi uống hết sạch, sau đó ông nói chuyện. Đó là một bài nói chuyện rất hay, so với bài nói chuyện truớc đây trong bữa tiệc tiễn Gai-e Cu-li tham gia tiểu đoàn cảm tử thì hay hơn nhiều, ông ví tôi và Pê-chi-a như những con chim ưng và tỏ hy vọng rằng chúng tôi nên luôn luôn trở về tổ cũ. Ông cũng rất muốn khoe khoang một chút vì mình đã đào tạo được những đứa trẻ như vậy, nhưng không thể nói thế được bởi vì chính đất nước đã đào tạo chúng tôi nên người, không để cho chúng tôi bị sa đọa. Ông nói như vậy. Dì Đa-sa nghe nói đến đây cảm động quá đến rơi lệ, hình như dì muốn nhắc lại chuyện cũ rằng dì vui lòng gánh vác trách nhiệm giáo dục chúng tôi, chứ không muốn ỷ lại vào sự giúp đỡ của người khác... Tôi đứng lên đáp lời ông chánh án. Tôi không nhớ là tôi đã nói những gì, nhưng cũng rất hay. Đại thể là tôi nói hiện nay chúng tôi cũng chưa làm được cái gì đáng để khoe khoang.

    Bữa cơm hôm đó kéo rất dài. tí nữa thì chúng tôi bị nhỡ tàu. Chúng tôi thuê xe ngựa đi ra ga. Lần đầu tiên trong đời, tôi được đi một chuyến sang trọng như vậy: được ngồi xe ngựa, dưới chân lại có cái làn. Nếu ngày hôm đó dì Đa-sa không nhét bánh rán vào làn ngay trước mặt tôi thì tôi dám nói rằng bản thân tôi cũng không biết cái làn này ở đâu ra.

    Khi chúng tôi ra đến ga thì Ca-chi-a đã đứng trên bậc toa tàu và các bà cụ nhà Bu-ben-tri-côp tranh nhau dặn dò cô ta: nào là đừng có bị cảm ở dọc dường, nào là đừng có để đồ đạc bị mất cắp, nào là đến các ga đừng có xuống tàu đi lại lang thang, nào là về đến nhà thì phải đánh điện ngay, nào là cho họ gửi lời hỏi thăm và phải viết thư luôn...

    Tôi không biết các bà này có là những người theo chủ nghĩa hư vô hay không. Theo tôi, họ chẳng qua chỉ là mấy bà lão mặc áo khoác da chậc lại có dây buộc, ở tay có bao tay vừa to buồn cười, thế thôi.

    Chỗ ngồi của tôi lại ở một toa khác vì thế chúng tôi chỉ có thể chào Ca-chi-a và các bà cụ Bu-ben-tri-côp từ đằng xa. Ca-chi-a vẫy chúng tôi, còn các bà cụ thì chỉ gật đầu, có vẻ kiểu cách.

    Đã rung chuông lần thứ hai! Tôi ôm hôn em Xa-nhi-a và dì Đa-sa. Ông chánh án đề nghị tôi đến thăm Pê-chi-a và tôi đã hứa là sẽ đến chỗ Pê-chi-a ngay ngày đầu tiên sau khi tới nơi. Tôi có mời Xa-nhi-a lên Mát-xcơ-va chơi, cô ta hứa là đến kỳ nghỉ mùa xuân sẽ lên - thì ra cô ta đã hẹn hò trước với Pê-chi-a rồi.

    Hồi chuông thứ ba! Tôi lên tàu. Xa-nhi-a viết mấy chữ gì đó trong không khí, tôi viết trả lời loằng ngoằng chữ “Được rồi!”. Dì Đa-sa bắt đầu khóc thút thít và cuối cùng tôi nhìn thấy Xa-nhi-a rút khăn mùi xoa ở trong tay dì ra, cười, lau nước mắt cho dì... Tàu từ từ chuyển bánh. Ga En-xcơ thân yêu lùi dần về phía sau. Tàu chạy mỗi lúc một nhanh! Mấy cụ già theo chủ nghĩa hư vô luớt qua bên người tôi! Một phút sau, sân ga mất hút. Xin tạm biệt nhé, En-xcơ!

    Khi đoàn tàu tiến ga thứ hai thì tôi đổi chỗ cho một ông già đáng kính. Ông ta đến chỗ ghế tầng dưới của tôi, còn tôi thì chuyển sang toa có Ca-chi-a ngồi. Thứ nhất là ở đây sáng sủa hơn và thứ hai là ở đây có Ca-chi-a.

    Cô ở đây đã sắp xếp xong đâu đấy cả rồi: trên mặt chiếc bàn con có trải khăn bàn sạch sẽ, cửa sổ có rèm cứ như cô ta sống ở cái toa này hàng trăm năm không bằng.

    Cả hai chúng tôi đều vừa mới ăn xong, nhưng cũng muốn xem các cụ ấy nhét vào làn của chúng tôi những thứ gì.

    Nói chung thì trong làn của Ca-chi-a phong phú hơn làn của tôi nhiều. Trong đó có táo - thứ táo mùa đông tuyệt vời của vườn nhà! Chúng tôi mỗi đứa ăn một quả và mời ông bạn đồng hành, người nhỏ nhắn, râu không cạo, nước da tai tái và đeo kính xơi một quả. Anh ta cứ phỏng đoán mãi mối quan hệ giữa chúng tôi: anh em ư - không phải! Hay là vợ chồng - hơi sớm!

    Đã hơn hai giờ, anh bạn không cạo râu ngủ ngáy suốt đêm, tay nắm chặc để dưới mũi. Tôi và Ca-chi-a vẫn còn đứng nói chuyện ở ngoài hành lang. Chúng tôi lấy ngón tay viết lên mặt kính bị đóng băng - chữ đầu tiên là chữ đầu của họ, sau đó là những cái đầu.

    - Y như trong cuốn “An-na Ca-rê-ni-na” đã tả ấy.

    Nhưng theo tôi thì ở đây chẳng có chút nào giống trong “An-na Ca-rê-ni-na”, và nói chung thì cũng chẳng giống cái gì cả.

    Ca-chi-a đứng sát bên tôi và hình như cô đã trở thành một con người mới. Cô rẽ đầu ngôi giữa V như người lón và duới mái tóc đen đáng yêu ấy lộ ra hai cái tai “mới”. Khi cô cười thì những hàm răng cũng mới. Từ ngày tôi và cô quen biết nhau, chưa bao giờ thấy cô thoải mái và quay đầu kiêu hãnh như hôm nay, đúng là một cô gái đẹp thật sự. Cô đã trở thành một con người mới, một con người khác hẳn. Tôi cảm thấy tôi đang yêu cô say đắm, yêu hơn tất cả mọi thứ trên đời!

    Bỗng những cột dây điện nhấp nhô bên ngoài cửa sổ hiện rõ và những cánh đồng đen kịt phủ đầy tuyết cũng dần dần hiện ra. Tôi không biết là tàu chạy theo tốc độ nào, có lẽ cũng không ngoài bốn mươi cây số một giờ, nhưng tôi cảm thấy chúng tôi đang lao rất nhanh như trong một truyện thần thoại nào đó, tất cả còn đang ở phía trước! Tôi không biết cái gì đang chờ tôi trong tương lai. Nhưng tôi biết chắc chắn một điều, mối tình của chúng tôi là vĩnh viễn. Ca-chi-a sẽ mãi mãi là của tôi và tôi sẽ là của Ca-chi-a suốt đời!:rose:
     
    Last edited by a moderator: 2/6/15
  7. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 16

    Cái gì đang chờ tôi ở Mát-xcơ-va

    Các bạn hãy thử hình dung xem bạn cảm thấy gì khi bạn trở về ngôi nhà thân thuộc của mình mà bạn đã sống ở đó gần nửa đời người, bỗng dưng mọi người lại nhìn nhau với vẻ kinh ngạc, hình như bạn đã vào nhầm nhà. Sau khi tôi từ En-xcơ trở lại trường học, tôi đã được thể nghiệm cảm giác đó.

    Người đầu tiên mà tôi gặp từ ngoài phòng treo áo ỉà Rô-ma- sca.

    Sau khi nhìn thấy tôi, nó vểnh mặt lên rồi cười. Nó reo lên:

    - Xin chào bạn đã về! Hắt xì! Chúc bạn sức khỏe!

    Cái tên đểu cáng ấy có vẻ đắc chí.

    Hôm đó là ngày cuối cùng truớc khi khai giảng nên học sinh chẳng có ai ở nhà. Tôi đi xuống nhà bếp để chào bác bếp Pê-chi- a. Thái độ của bác Pê-chi-a đối với tôi cũng rất lạ.

    - Có gì đâu, chú em ạ, chuyện như thế vẫn thường xảy ra, - bác bếp nói nhỏ.

    - Bác Pê-chi-a, có chuyện gì xảy ra thế?

    Hình như không nghe thấy tôi hỏi, bác Pê-chi-a ném một dúm muối vào nồi rồi đứng im đó. Bác đang ngửi cái hơi từ nồi bốc ra.

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp thoáng qua ngoài hành lang, tôi chạy theo.

    - Chào thầy I-van Pa-vơ-lứt!

    - A, anh đấy à? - ông trả lời nghiêm nghị. - Anh đến chỗ tôi nhé. Tôi cần nói chuyện với anh.

    Trên bàn làm việc của thầy Cô-ra-bơ-li-ốp có bức chân dung một người phụ nữ trẻ, thoạt đầu tôi không nhận ra đó là Ma-ri- a Va-xi-li-ép-na - một người tuyệt đẹp! Tôi đến gần và nhìn kỹ; trên cổ bà cũng đeo chuỗi hạt trân châu, đó chính là cái chuỗi hạt mà hôm Ca-chi-a đến trường tôi tham gia vũ hội đã đeo. Tôi nhìn thấy chuỗi hạt mà phấn khởi, dường như Ca-chi-a đang chào tôi...

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp đến và chúng tôi nói chuyện.

    - Thầy I-van Pa-vơ-lứt, có chuyện gì vậy?

    - Có chuyện như thế này, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp chậm rãi trả lời, - người ta định đuổi anh ra khỏi trường.

    - Vì sao?

    - Anh chưa biết à?

    - Thưa thầy chưa ạ.

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nghiêm nghị nhìn tôi.

    - Tôi không thích như vậy.

    - Thưa thầy em nói thực đấy!

    - Vì anh đã tự động bỏ trường mười ngày, - thầy Cô-ra-bơ-li- ốp vừa nói vừa đếm ngón tay. - Vì làm nhục thầy Li-khô. Vì đánh nhau.

    - À, thì ra thế! Tuyệt thật! - tôi rất bình tĩnh phản đốĩ. - Nhưng trước khi đuổi, xin thầy hãy nghe em giải thích đã.

    - Nói đi!

    - Thầy I-van Pa-vơ-lứt, - tôi bắt đầu trang nghiêm. - Thầy có muốn biết tại sao em đá vào mõm Rô-ma-sca không?

    - Không nên nói “mõm”, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói.

    - Thế thì không nói “mõm”. Em đá vào cái mặt chó của nó là bởi vì nó đểu. Thứ nhất, nó đã thóc mách chuyện em và Ca-chi-a với gia đình Ta-ta-ri-nốp. Thứ hai, nó đã nghe trộm những chuyện học sinh nói về Ni-cô-lai An-tô-nứt rồi bí mật báo cáo lại với ông ấy. Thứ ba, nó lục hòm của em mà không được em cho phép. Đó chẳng khác gì là một sự khám xét. Các bạn đã nhìn thấy em bắt được quả tang như vậy. Và đứng là em đã nện nó một trận. Em thừa nhận như thế là không đúng, đặc biệt là dùng chân đá. Nhưng em cũng là người, chứ có phải là đá đâu. Trái tim em không chịu đựng nổi. Bất kỳ người nào cũng đều làm như thế cả.

    - Được. Sao chứ?

    - Còn về việc thầy Li-khô thì thầy đã biết đây. - Trưóc hết xin thầy ấy chứng minh em là kẻ duy tâm. Thầy đã đọc bài luận của em chưa?

    - Đọc rồi. Tồi lắm.

    - Hừ, ừ thì cho là tồi, nhưng trong đó không ẩn náu cái gì là chủ nghĩa duy tâm cả, về điều này thi em xin bảo đảm.

    - Ừ thì cho là như thế. Rồi sao nữa?

    - Sau đó còn có gì nũa đâu? Thế ià hết.

    - Không, chưa hết. Anh cố biết chúng tôi phải nhờ cảnh sát tìm hiểu công việc của anh không?

    - Thầy I-van Pa-vơ-lứt! Đó là sự thực. Kể ra em đã nói với bạn Van-ca. Thôi được, cho đi là việc này không đáng kể đến. Nhưng em rời khỏi trường trong thời kỳ nghỉ, còn đi đâu? Em về quê, nơi đã tám năm nay em chưa về, chẳng lẽ vì một việc như thế mà đuổi em ra khỏi trường?

    Ngay từ lúc thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói đến cảnh sát, tôi đã biết phen này không nổi trận “lôi đình” thì không trôi đâu. Quả nhiên tôi đã không lầm.

    Hồi còn học lớp bốn, thầy Cô-ra-bơ-li-ôp đã có lần quát tôi một trận. Hồi đó là vì I-xi-ca Gru-man đi tắm vấp phải đá bị toạc chân, tôi liền chữa cho hắn bằng phương pháp tắm nắng, kết quả là hai ngón chân phải cưa đi. Trận “lôi đình” đó thật đáng sợ. Giờ đây ông ấy lại lặp lại. Ông ấy trợn mắt lên gọi tôi, nhưng tôi chỉ dịu dàng nói;

    - Thầy I-van Pa-vơ-lứt!

    - Câm mồm đi!

    Chính ông cũng lặng đi một lắt, nhưng đó chỉ là để lấy hơi.

    Như vậy tôi dần dần hiểu ra quả thật tôi có khuyết điểm. Nhưng chẳng lẽ đuổi tôi thật hay sao? Nếu vậy thì xin vĩnh biệt tất cả ở trên đời này. Vĩnh biệt Trường Hàng không! Vĩnh biệt cuộc sống!

    Cuối cùng thầy Cô-ra-bơ-li-ốp im lặng.

    - Quả thật là xấu! - Ông nói.

    - Thầy I-van Pa-vơ-lứt, - tôi cảm thấy hơi hun, hay nói cho đúng hơn thì giọng nói có run run, - em không muốn bác lại lời thầy, mặc dù về nhiều điểm thầy nói không đúng. Thôi thế nào cũng được. Nhưng thầy cũng không muốn để họ đuổi em ra khỏi trường chứ gì?

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp im lặng.

    - Thì cứ cho là như vậy.

    - Nếu thế thì xin thầy cho biết em phải làm gì?

    - Anh phải đến xin lỗi thầy Li-khô.

    - Cũng được. Nhưng trưóc hết...

    - Tôi đã nói vái thầy ấy rồi! - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp bực mình nói. - Thầy ấy đã gạch chữ “chủ nghĩa Duy tâm” đi rồi. Nhưng còn điểm thì vẫn như cũ.

    - Thì cứ cho là điểm số vẫn như cũ. Nhưng nhận xét bài luận của em là “quá kém” thì không đúng. Nói chung không có số điểm như vậy. Đã kém mà lại còn trừ nữa thì gọi là gì?

    - Thứ hai, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói tiếp, - anh phải đến xin lỗi Rô-ma-sca.

    - Không bao giờ!

    - Nhưng chính anh đã nói: “Tôi thừa nhận như vậy là không đúng” cơ-mà.

    - Vâng, em có nói. Các thầy có thể đuổi em ra khỏi trường. Em không bao giờ phải xin lỗi nó.

    - Hãy nghe tôi nói, anh Xa-nhi-a, - thầy Cô-ra-bơ-li-ôp nghiêm nghị nói, - tôi phải vất vả lắm mới xin các thầy đồng ý cho anh đến dự hội nghị Hội đồng nhà trường. Nhưng bây giờ thì tôi lại tiếc rằng tôi đã uổng công vô ích. Nếu anh ra hội nghị mà lại nói “Không bao giờ! Các thầy có thể đuổi tôi đi!” - có lẽ người ta sẽ đuổi anh mất, anh hoàn toàn có thể tin ở điều đó.

    Ông nói những lời này với thái độ rất đặc biệt khiến cho tôi hiểu ngay rằng ông muốn ám chỉ ai. Ni-cô-lai An-tô-nứt, con người lịch thiệp, chín chắn mặt béo phị bỗng thoáng hiện trong óc tôi. Thì ra chính lão ta đã tìm mọi cách để đuổi tôi ra khỏi trường!

    - Tôi nghĩ rằng anh không có quyển vì lòng tự ái nhỏ nhặt mà để cho tương lai của mình bị nguy hại..

    - Đây không phải là lòng tự ái nhỏ nhặt mà đây ỉà đanh dự, thầy ạ! - Tôi nóng nảy nói tiếp. - Thầy muốn gì? Thầy muốn em xoa dịu câu chuyện với Rô-ma-sca, bỏi vì câu chuyện đó có liên quan đến Ni-cô-lai An-tô-nứt, liên quan đến con người quyết định việc đuổi em ra khỏi trường hay không chứ gì? Thầy muốn em sẽ làm một việc đê tiện ấy như thế ư? Không bao giờ! Giờ đây em hiểu rằng tại sao ông ta lại kiên quyết đòi đuổi em. Ông ta muốn tống em đi để em đi đến một nơi nào đó và thông còn được gặp Ca-chi-a nữa. Vấn đề chẳng phải như thế đó sao? Em phải nói Rô-ma-sca là một thằng đểu và chỉ có thằng đểu thì mớiđi xin lỗi nó.

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp tư lự. Ông nói:

    - Khoan đã. Anh vừa nói, Rô-ma-sca nghe trộm những chuyện học sinh nói về Ni-cô-lai An-tô-nứt, rồi sau tó đi báo cáo bí mật với ông ta. Nhưng em lấy gì chứng minh điều đó?

    - Em có nhân chứng - thằng Van-ca.

    - Van-ca nào?

    - Giu-cốp. Nó nói với em rành rọt rằng “Thằng Rô-ma-sca ghi vào sổ tay, rồi sau đó mật báo cho Ni-cô-lai An-tô-nứt biết họ đã nói gì về ông ta. Mình đã bịt tai lại, nhưng nó vẫn cứ kể”. Em xin nói lại với thầy đúng nguyên văn như thế.

    - Hừ... Hay đấy, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp sôi nổi nói. - Nhưng tại sao Van-ca lại im lặng? Hình như cậu ta là bạn của em?

    - Thưa thầy, Rô-ma-sca dọa nó. Thằng Van-ca rất sợ nó nhìn vào mặt lúc ban đêm. Về sau nó bắt Van-ca phải lấy danh dự thề rằng không đi nói chuyện lại với người khác . Tất nhiên Van-ca là một thằng ngốc nên nó lấy danh dự mà thề thật. Nhưng dù có lấy danh dự mà thề đi nữa nó cũng không thể im lặng mãi được. Có phải thế không ạ?

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ôp đứng lên. Thầy đi đi lại lại, rút cái lược con ra chải râu rồi chải lông mày, chải lông mày xong lại chải râu. Thầy đang suy nghĩ. Tim tôi đập thình thịch, nhưng tôi không nói thêm một lời. Cứ để cho ông suy nghĩ! Thậm chí tôi còn phải thở rất khẽ - chỉ sợ thở mạnh sẽ làm trở ngại cho ông.

    - Thôi được, hay như thế này vậy Xa-nhi-a nhé, dù sao thì em cũng không biết lừa đổi, - cuối cùng thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói. - Thế thì ở Hội đồng nhà trường, em hãy nói ỉại tất cả những điều như em đã nói với tôi hôm nay. Nhưng với một điều kiện là...

    - Điều kiện gì, thưa thầy?

    - Đừng có xúc động. Ví dụ như em vừa mới nói, Ni-cô-lai An- tô-nửt muốn đuổi em vì em cố quan hệ với Ca-chi-a. Về chuyện này không nên nói ở Hội đồng. .

    - Thưa thầy, chả lẽ em lại không hiểu điều đó hay sao?

    - Em hiểu, nhưng em rất dễ bi xúc động... Như thế nhé, Xa- nhi-a. Chúng ta thỏa thuận với nhau như thế này. Nếu tôi đặt tay ở trên bàn như thế này, lòng bàn tay úp xuống thì em cứ yên tâm mà nói nhưng cũng phải luôn luôn nhìn vào tay tôi, Còn nếu tôi khe khẽ gõ tay xuống bàn có nghĩa là em đang xúc động đấy. Còn nếu không thì tức là không.

    - Được ạ. Xin cám ơn thầy. Thế khi nào họp?

    - Ba giò chiều nay. Nhưng em sẽ được gọi chậm hơn.

    Thầy nhờ tôi gọi Van-ca đến chỗ thầy. Chứng tôi chia tay.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 2/6/15
  8. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 17

    Van-ca

    Tôi cố gắng để khỏi bị xúc động và tôi cũng chuẩn bị đồ đạc sẵn sàng đề phòng vạn nhất có bị đuổi, tôi có thể ra đi ngay lập tức. Sau đó tôi đọc tờ báo tường - không có bài nào-nói về tôi, như vậy có nghĩa là vấn đề này chưa đến tai Ban thường vụ Đoàn thanh niên cộng sản của trường. Hay là trong thời gian nghỉ Đoàn không họp một buổi nào?

    Một ý nghĩ làm cho tôi hoảng sợ nhất: không những tôi bị đuổi ra khỏi trường mà còn bị khai trừ ra khỏi Đoàn nữa. Có thể như thế thật không? về chuyện này các cậu ấy biết gì đâu? Tại sao tôi vào phòng ngủ, đánh cho thằng Rô-ma-sca một trận rồi chẳng nói gì với ai hết đã đi En-xcơ? Tất nhiên như thế là tôi bôi nhọ danh hiệu đoàn viên của mình. Đáng lẽ lúc đó tôi phải giải thích về hành vi của mình. Ôi muộn mất rồi!

    Suốt ngày tôi cứ buồn rầu suy nghĩ về việc đó. Văn phòng đoàn thanh niên cộng sản đóng cửa. Chỉ có mình chị Ni-na Sê- ne-man ở trong ban thường vụ có nhà thôi. Tôi không thích chị mà tôi cũng không muốn nói chuyện với chị về những chuyện như thế này. Theo tôi thì chị ấynlà người hơi đần.

    Tôi đang chờ Van-ca. Nhưng thời gian qua rồi mà cậu ta vẫn không thấy đến... Tất nhiên cậu ta đang ở vuờn bách thú! Tôi để lại cho cậu ta một mảnh giấy trách móc - để phòng chúng tôi đi đường không gặp nhau, tôi đáp xe đến phcT Pre-xni-a.

    Lần này tôi không tìmbđược cậu ta ngay.

    - Van-ca đang ở chỗ nhà giáo sư, - một chú bé tuổi trạc mười lăm nói với tôi. Trông chú hơi giống Van-ca, cũng hiền lành và khuôn mặt cũng hơi ngớ ngẩn.

    - Thế giáo sư ở đâu?

    - Trên đường đi khám bệnh.

    Tôi hỏi lại:

    - Ở trong vườn, trên đường đi khám bệnh!

    Trước đây tôi cho rằng chỉ có ở trong bệnh viện các giáo sư mới đi khám cho bệnh nhân. Nhưng chú bé kiên nhẫn giải thích cho tôi rằng không phải chỉ ở trong nhà thương mà cả ở trong vườn bách thú và trong trường hợp này thì giáo sư không đi thăm người bệnh mà đi khám bệnh cho súc vật.

    - Tất nhiên là các loài động vật cùng có khi bị ốm, - chú ta nghĩ rồi nói thêm. - Tuy là có ít hơn nguời.

    Đó là giáo sư R. nổi tiếng mà Van-ca nói với tôi suốt ngày. Tôi hiểu ngay là chính ông ấy, bởi vì ông ấy cũng giống Van-ca, có điều là giống Van-ca bố: cũng cái mũi bè, cặp kính to, mặc áo bành-tô da rất dài và đội chiếc mũ da rất cao.

    Giáo sư đủng bên chuồng khỉ và xung quanh ông có rất nhiều người khoác áo choàng trắng ở ngoài áo bành-tô. Tất cả những ngưòì đó, ai cũng muốn được đứng gần giáo sư, ai cũng muốn được nói với giáo sư một câu gì. Nhưng ông chỉ nghe có một mình Van-ca, chính thằng Van-ca, thậm chí ông ta còn vạch đôi tai nhăn nheo to tướng ra khỏi cái mũ da để nghe nó nói nữa.

    Tôí đứng lại cách khá xa. Tôi nhìn thây rõ Van-ca rất phấn khởi mắt chớp chớp. “Thằng cha cừ thật!”. - tôi thầm nghĩ nhưng chẳng biết tại sao.

    Van-ca nói rất lâu thế mà ông giáo sư cũng nghe tất cả và cũng chớp mắt và chăm chú hít thở bằng mũi. Có một lần ông mở mồm và muốn, hình như muốn bác lại điều gì, nhưng Van-ca kiên quyết, hằm hằm bước đến cạnh giáo sư, thế là giáo sư lại nghe theo và ngậm mồm lại.

    Cuối cùng Van-ca nói xong, giáo sư lại ấn tai vào trong mũ và suy nghĩ. Bỗng dưng vì sự vui mừng gì đó, ông vỗ vai Van-ca nói, tiếng ông rất giống tiếng ngựa hí. Mọi nguời sôi nổi bàn tán rồi đi tiếp. Chỉ còn lại có mình Van-ca đứng trơ ra ngơ ngẩn, phấn khởi ra mặt. Lúc đó tôi mới gọi nó:

    - Va-li a!

    - A, cậu đấy à!

    Chưa bao giờ tôi nhìn thấy nó hồi hộp đến thế. Thậm chí trong mắt nó còn đang có giọt nước mắt. Nó cười lúng túng.

    - Cậu sao thế?

    - Cái gì?

    - Cậu khóc?

    - Chỉ bậy! - Van-ca đáp.

    Nó lấy cùi tay lau mắt và sung sướng thở một hơi dài.

    - Van-ca, có chuyện gì xảy ra thể?

    - Chẳng có gì đặc biệt. Thời gian gần đây mình nghiên cứu loài rắn. Mình đã chứng minh thành công một việc rất thú vị.

    - Việc gì?

    - Máu của loài rắn độc thay đổi theo lứa tuổi của nó.

    Tôi nhìn Van-ca mà hết sức ngạc nhiên. Khóc vì sung suớng, vì phát hiện ra là máu của hắn độc thay đổi tùy theo lứa tuổi. Điều đó tôi không tài nào hiểu nổi.

    - Xin chúc mừng, - tôi nói. - Mình có chuyện cần nói với cậu. Thế nào, có được không?

    - Được.

    Chúng tôi đi đến chỗ những con chuột.

    - Cậu có biết người ta định đuổi mình ra khỏi truờng không? Hình như Van-ca có biết chuyện này, nhưng nó hoàn toàn quên mất bởi vì lúc đầu nó trợn tròn mắt lên, nhưng sau đó lại lấy tay vỗ trán và nói:

    - A, ừ, mình biết!

    - Việc này có bàn trong Ban thường vụ Đoàn không?

    Lúc đó tôi hơi bị khản tiếng. Van-ca gật đầu.

    - Quyết nghị là hãy chờbkhi nào cậu về đã.

    Tôi hơi yên tâm.

    - Cậu đã viết báo cáo cho chi đoàn về thằng Rô-ma-sca ohưa? Van-ca nhìn tránh đi chỗ khác.

    - Cậu thấy đấy! - nó lắp bắp, -mình chưa viết mà chỉ nói với nó là nếu nó còn dính vào nữa thì lúc đó mình sẽ viết. Nó hứa là sẽ không làm như thế nữa.

    - Thì ra như thế đấy! Như vậy có nghĩa là cậu không thèm đếm xỉa gì đến chuyện mình sẽ bị đuổi ra khỏi trường?

    - Tại sao? - Van-ca sợ hãi hỏi.

    - Tại vì chỉ có cậu là có thể chúng minh được rằng mình đánh nó không phải vì nguyên do cá nhân. Nhưng cậu là thằng nhát gan, mà hành vi hèn nhát ấy có thể trở thành hành vi đê tiện. Cậu sợ phải nói nói những điều để bênh vực mình!

    Đối với Va-li-a, nói như vậy thật là tàn nhẫn. Nhưng tôi rất giận nó. Tôi cho rằng thằng Rô-ma-sca là điển hình độc hại của xã hội, ai cũng phải đấu tranh với những con người như vậy,

    - Tối nay mình sẽ đưa, - Van-ca nói thấp giọng.

    - Được, - tôi lạnh lùng đáp. - Có điều là cậu phải thấy, đây không phải mình yêubcầu cậu làm. Mình chỉ cho rằng là một đoàn viên thanh cộng sản, cậu phải làm đúng nghĩa vụ của mình. Còn bảy giờ thì thầy Cô-ra-bơ-li-ốp bảo cậu đến chỗ thầy ấy đấy.


    - Khi nào?

    - Ngay bây giờ.

    - Nó khẩn khoản đề nghị tôi chờ một lát, dù chỉ mười lăm phút thôi cũng được để nó cho con cốc hoa gì đó của nó ăn.Tôi không nghe, choàng áo bành-tô vào cho nó rồi kéo nó đi luôn đến chỗ thầy Cô-ra-bơ-li-ốp...

    Sau nửa tiếng đồng hồ, nó quay lại vẻ rất bực tức, nó lấy ngón tay day mũi, hít hít mãi. Thì ra thầy Cô-ra-bơ-li-ốp hỏi nó có phải nó không thích người nhìn nó ban đêm thật không. Điều đó làm cho nó rất ngạc nhiên.

    - Mình không hiểu vì sao mà thầy lại biết được! Cậu nói với thầy điều này phải không, đồ súc sinh?

    - Không, không phải mình, - tôi nói dối.

    - Cái chủ yếu là thầy hỏi mình: “Ngộ nhỡ người ta nhìn anh với một tình cảm yêu mến thì sao?”

    - Thì sao?

    - Mình nói rằng “Lúc đó thì em không biết...”

    Lúc năm giờ rưỡi, người tùy phái của trường đến tìm tôi.

    - Anh Gri-gô-ri-ép, mời anh đến họp Hội đồng nhà trường, - bác ta nói rất lịch sự.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 2/6/15
  9. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 18

    Một chết một sống

    Đó là một cuộc hội nghị rất bình thường ở trong phòng giáo viên chật hẹp. Trên bàn có trải chiếc khăn nhung xanh đã cũ rách. Tôi cảm thấy mọi người đều nhìn tới với vẻ bí ẩn, quan trọng thế nào ấy. Hôm nay bà giáo Xê-ra-phi-ma lại đi giày làm cho tôi mơ hồ tưỏng như đây lại là một câu đố. Thầy Cô-ra-bơ-li- ốp cười khi thấy tôi bước vào, và tôi nghĩ đó là sự “cố ý”.

    - Này, Gri-gô-ri-ép, - Ni-cô-lai An-tô-nứt bắt đầu nói nhẹ nhàng, - tất nhiên là anh đã biết, tại sao chúng tôi gọi anh đến Hội đồng nhà trường này rồi. Anh đã làm cho chúng tôi rất đau lòng. Mà không phải chỉ có chúng tôi, có thể nói là toàn trường đau lòng nữa. Điều anh làm cho chúng tôi đau lòng, đó là hành vi man rợ của anh không xứng đáng với xã hội loài người. Chúng ta sống trong xã hội này thì phải đem hết sức lực và khả năng của mình ra để mà thúc đẩy nó tiến lên.

    Tôi nói:

    - Có vấn đề gì xin cứ nói thẳng ra.

    - Ông Ni-cô-lai An-tô-nứt, xin cho phép tôi nói truớc đôi lời, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp sôi nổi nói. - Gri-gô-ri-ép, anh hãy nói xem, anh đã ở đâu chín ngày vừa qua kể từ sau ngày anh trốn khỏi trường học.

    - Em không trốn mà là về En-xcơ, - tôi trả lời lạnh lùng. - ở đó có em gái em mà đã gần mười năm trời em chưa gặp mặt. Điều này ông chánh án Xcô-vô-rốt-nì-cốp ở thành phố En-xcơ có thể xác nhận cho em vì em ở nhà ông, - số nhà 30 phố Gô-gôn, nhà này truớc là của Máe-eút.

    Nếu tôi nói thẳng là chín ngày qua tôi đã sống cùng vói Ca- chi-a Ta-ta-ri-nô-va, cô ta bị đưa về En-xcơ vì có người xấu bụng không muốn cho chúng tôi gặp nhau hay ít nhất thì cũng không được gặp nhau trong suốt kỳ nghỉ đông, - lúc đó có lẽ lời của tôi cũng không gây ảnh hưởng lớn đối với Ni-cô-lai An-tô-nứt đến thế. Ông ta tái mặt đi, mắt chớp liên hồi, ngả đầu về một bên rất dịu dàng.

    - Tại sao anh không nói trước với người nào về chuyến đi của mình? - Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp hỏi.

    Tôi trả lời rằng tôi thừa nhận mình có phạm sai lầm, vi phạm kỷ luật và hứa từ nay trở đi sẽ không tái phạm nữa.

    - Tốt lắm, Gri-gô-ri-ép, - Ni-cô-lai An-tô-nứt nói. - Đó là câu trả lời rất tốt. Chỉ mong rằng anh sẽ giải thích những hành vi khác của anh sao cho mọi người cũng được thỏa mãn như thế.

    Ông nhìn tôi âu yếm. Ông có sức tự chủ đến kinh ngạc.

    Bây giờ anh hãy nói xem giữa anh và giáo sư I-van Vì-ta-li- e-vích Li-khô đã xảy ra chuyện gì?

    Cho đến bây giờ tôi cũng không thể hiểu được tại sao trong khi kể lại câu chuyện về quan hệ giữa tôi với ông Li-khô, tôi không nói một lời nào về “chủ nghĩa duy tâm” cá. Đại khái tôi cho rằng ông Li-khô đã rút lời phê bình ấy đi rồi thì chẳng còn gi đáng nói nữa. Đó ỉà một sai lầm rất lớn. Đồng thời cũng không nên nhắc đến chuyện bài luận của tôi không cần sự “phê bình”. Điều đó khiến cho mọi người đều không thích. Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp chau mày và đặt tay lên bàn.

    - Như thế có nghĩa là anh không thích phê bình? - Ni-cô-lai An-tô-nứt hỏi dịu dàng. - Anh đã nói với thầy I-van Vi-ta-li-e- vích những gì? Anh hãy nhắc lại xem.

    Nhắc lại nhũng lời tôi đã nói với ông Li-khô trước mặt Hội đồng nhà trường? Không thể được! Nếu ông Li-khô không phải là một người ngu thì chính ông ta cũng sẽ lái câu chuyện sang vấn đề khác. Thế mà ông ấy chỉ nhìn tôi với vẻ nghiêm trang.

    - Nói tiếp đi! - Ni-cô-lai Aii-tô-nứt tuyên bố.

    - Ông Ni-cô-lai An-tô-nứt, xin cho tôi nói một câu, - thầy Cô- ra-bơ-li-ốp không đồng ý. - Những điều anh ta nói với thầy I-van Vi-ta-li-e-vích chúng ta đều biết cả rồi. Giờ đây chúng ta chỉ muốn biết Gri-gô-ri-ép giải thích như thế nào về hành vi của mình.

    - Xin lỗi, xin lỗi, - Li-khô nói. - Tôi yêu cầu để cho anh ta nhắc lại một lượt. Ngay như ở trường Đốt-xtô-ép-xki, bọn học sinh ở đấy chưa được giáo dục đầy đủ tôi cũng không nghe những lời bẩn thỉu như thế bao giờ.

    Tôi im lặng. Nếu như tôi đoán được ý nghĩ của người khác thì lúc đó qua đôi mắt của thầy Cô-ra-bơ-li-ốp tôi có thể đoán ra; “Xa-nhi-a, anh hãy nói rằng anh rất bất bình về cái chữ “Duy tâm chủ nghĩa”. Nhưng tôi đã không biết.

    - Thế nào! - Ni-cô-lai An-tô-nứt nhắc lại một cách khoan dung.

    - Tôi không nhớ, - tôi lắp bắp.

    Trả lời như thế thật là ngu xuẩn, bởi vì mọi người đều hiểu ngay rằng tôi nói dối, Li-khô khịt mũi một cái rồi nói:

    - Hôm nay anh ấy có thể làm nhục tôi vì bị điểm kém thì ngày mai anh ấy có thể hại tôi. Thật là hành vi lưu manh.

    Cũng như lần truớc ở cầu thang, lúc này tôi muốn đá cho ông ta một cái, nhưng lúc này tôi lại kìm mình được. Tôi cắn chặt răng, đứng im và nhìn vào tay thầy Cô-ra-bơ-li-ôp. Bàn tay nhấc lên, khe khẽ gõ xuông bàn rồi lại lặng lẽ, nhẹ nhàng đặt xuống chỗ cũ.

    - Tất nhiên bài luận kém, tôi nói, cố gắng giữ cho mình khỏi xúc động quá và căm phẫn suy nghĩ xem làm thế nào để có thể dứt ra khỏi cái tình trạng ngu xuẩn này. - Nhưng cũng không đến nỗi “quá kém”, bởi vì về căn bản làm gì có điểm nào như vậy. Nhưng em thừa nhận cái đó không quan trọng. Tóm lại nếu Hội đồng nhà trường quyết định là em phải xin lỗi thì em xin lỗi.

    Rõ ràng là câu nói đó cũng ngu xuẩn nốt làm cho cả hội nghị nhốn nháo lên hình như tôi nói câu gì lạ lùng lắm và thầy Cô-ra- bơ-li-ốp nhìn tôi bực mình ra mặt.

    - Thôi được, anh Gri-gô-ri-ép, - Ni-cô-lai An-tô-nứt gượng cười nói. - Như vậy là anh định nếu Hội đồng nhà trường căn cứ vào sự kiện này ra quyết nghị thì anh mới xin lỗi thầy giáo I-van Vì- ta-li-e-vích. Nói một cách khác thì anh vẫn không thừa nhận là mình phạm sai lầm. Thế thì có cách gì được! Chúng ta để lại- việc này để tham khảo, còn bây giờ chúng ta sang vấn để khác.

    "Vì lòng tự ái nhỏ bé mà làm cho tương lai của mình bị nguy hại”, tôi lại nhớ đến câu nói ấy.

    - Xin thầy thứ lỗi cho em, - tôi quay sang Li-khô và nói một cách ngượng nghịu.

    Nhưng Ni-cô-lai An-tô-nứt đã bắt đầu nói và Li-khô làm ra vẻ như không nghe thấy gì.

    - Hãy kể lại xem, anh Gri-gô-ri-ép, tại sao anh lại đánh Rô- ma-sca một cách dã man như vậy, dùng chân đá vào mặt anh ấy, làm cho anh ấy bị trọng thương, rõ ràng là ảnh hưởng đến sức khỏe của người bạn Rô-ma-sốp của anh. Anh giải thích như thế nào về một hành vi xưa nay trong trường chúng ta chưa bao giờ thấy?

    Tôi cảm thấy lúc đó tôi căm thù lão ta nhất vì lão ta nói quanh co, dài dòng. Nhưng bàn tay thầy Cô-ra-bơ-li-ốp đã lại nhấc lên khỏi bàn và tôi ngăn được sự xúc động.

    - Thứ nhất, tôi cho rằng Rô-ma-sốp không phải là đồng chí của tôi. Đồng chí như vậy, đối với tôi chỉ là một sự xỉ nhục! Thứ hai, tôi chỉ đá hắn có một cái. Và thứ ba, tạm thời không thấy có dấu hiệu gì chứng tỏ sức khỏe của hắn bị tổn hại.

    Mọi người tăm phẫn huyên náo hẳn lên. Chỉ có thầy Cô-ra- bơ-li-ốp là hơi gật đầu.

    - Hành vi của tôi có thể giải thích như sau, - tôi nói tiếp bình tĩnh hơn. - Tôi cho rằng Rô-ma-sốp là một tên đểu cáng. Bất cứ lúc nào tôi cũng có thể chứng minh được điều này. Đáng lẽ lúc đó không nên đánh hắn mà nên tổ chức tòa án và nên mời toàn trường tham dự.

    Ni-cô-lai An-tô-nứt định ngăn tôi lại, nhưng tôi không để ý đến ông ta.

    - Rô-ma-sôp là một tên đầu cơ điển hình. Hắn cứ mở mồm ra là nói đến tiền và trong đầu óc hắn cũng chỉ nghĩ có một việc: làm thế nào để có thể phát tài. Ai lúc nào cũng đi kiếm tiền bằng cách đặt cọc? Rô-ma-sôp. Ai đi mua son, phấn về bán cho con gái? Rô-ma-sốp. Hắn đi mua cả một hộp phấn rồi về bán lại từng lọ con để kiếm tiển, Đó là điển hình xấu xa của xã hội, nó làm ô uế danh dự của toàn trường chúng ta.

    Tiếp đó tôi toàn nói cái kiểu như vậy, cứ như tôi chính là công tố viên phát biểu trước tòa án. Thỉnh thoảng lời nói của tôi hơi giống bài nói của Gai-e Cu-li, Nhưng lúc dó tôi cũng chẳng có thì giờ để nghĩ xem giống nhau ở chỗ nào.

    - Nhưng không phải chỉ có thế mà thôi! Tôi khẳng định rằng về mặt tâm lý Rô-ma-sôp đã ảnh hưởng đến một số học sinh yếu đuối từ đó mà nắm lấy số anh em này. Nếu cần lấy ví dụ thì đây

    - Va-li-a Giu-cốp là một trong số đó. Rô-ma-sốp lợi dụng Va-li-a bị suy nhược thần kinh đã nói nhảm nói nhí để dọa anh ta. Hắn đã làm gì với Va-li-a? Trước hết hắn bắt anh ta phải thề rồi sau đó kể cho anh ta nghe những chuyện bí mật bỉ ổi của hắn. Tôi vô cùng kinh ngạc khi được biết việc này. Một đoàn viên thanh niên cộng sản lại đi thề rằng sẽ không kể lại vói bất cứ ai. Kể lại chuyện gì? Về chuyện mà chính bản thân anh ta chưa nghe thấy! Cái đó gọi là gì? Nhưng như thế cũng vẫn chưa phải đã hết!

    Thầy Cô-ra-bơ-U-ốp.đã gõ tay lên bàn từ lâu. Nhưng tôi không nghĩ đến chuyện mình có xúc động hay không nữa, tôi cảm thấy mình chẳng xúc động tí nào cả.

    - Như thế chưa phải là hết! Tôi xin hỏi các đồng chí, - tôi nói to và quay về phía Ni-cô-lai An-tô-nứt, - nếu Rô-ma-sốp không có chỗ dựa thì liệu cái loại như hắn có thể tồn tại ở trong trường chúng ta được không? Không thể được! Và hắn có chỗ dựa! Chính theo tôi biết thì hắn cũng có một chỗ, đó là ông Ni-cô-lai An-tô-nứt!

    Câu nói đó quả có lợi hại! Chính tôi cũng không ngờ là tôi lại có thể nói dũng cảm đến như vậy! Mọi người lặng thinh, cả Hội đồng nhà trường lặng ngắt và chờ đợi một cái gì đó xảу ra. Ni-cô-lai An-tô-nứt gượng cười, tái mặt đi. Nói chung mặt ông ta bao giờ cũng tái mỗi khi cười.

    - Làm thế nào để chứng minh điều đó. Rất đơn giản. Xưa nay ông Ni-cô-lai An-tô-nứt vẫn thường “quan tâm” đến những dư luận trong trường ta nói về ông ấy. Tôi không hiểu ông ấy cần cái đó để làm gì! Có điều vì mục đích đó mà ông đã thuê Rô-ma-sốp thì đó là sự thực. Tôi nói: chính là thuê, bởi vì đối với Rô-ma-sốp không có cái gì là không phải trả tiền. Ông ấy đã thuê hắn, và Rô-ma-sốp đã phục tùng. Vì thế mà hắn đi nghe trộm những chuyện ở trong trường nguời ta nói về ông Ni-cô-lai An-tô-nứt rồi bí mật báo cáo với ông ấy. Sau này hắn bắt Giu-côp phải thề và đã kể lại cho anh ta nghe những chuyện hắn đã bí mật báo cáo. Các vị có thể hỏi tôi: thế tại sao anh cũng câm như hến? Tôi chỉ biết việc này trước hôm tôi ra đi và lúc đó Giu-côp đã hứa với tôi là sẽ viết giấy báo cáo cho Chi đoàn thanh niên cộng sản biết về việc này. Nhưng cho mãi đến hôm nay anh ta mới làm việc ấy.

    Tôi im bặt. Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nhấc tay khỏi bàn, quay sang nhìn Ni-cô-lai An-tô-nứt một cách khoái trá. Có điều là chỉ có mình ông là có vẻ thoải mái như thế mà thôi. Còn các vị giáo sư khác thì có vẻ lúng túng thế nào ấy.

    - Anh đã giải thích xong chưa, Gri-gô-ri-ép? - Ni-cô-lai An-tô- nứt vẫn bình thản nói, cứ như chẳng có chuyện gì xảy ra cả.

    - Vâng, hết rồi.

    - Có lẽ còn vấn đề gì nữa chăng?

    - Ông Ni-cô-lai An-tô-nứt, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói rất khách sáo, - tôi đề nghị, chúng ta có thể để cho Gri-gô-ri-ép về được rồi đấy. Có lẽ giờ đây chúng ta nên gọi Giu-cốp hay Rô-ma-sốp đến?

    Ni-cô-lai An-tô-nứt cởi cúc trên cổ áo gi-lê ra và đặt bàn tay lên ngực. Mặt ông ta càng tái hơn, mớ tóc chải hất ngược ra sau gáy bỗng xõa ra và rơi xuống trán. Ông ta ngửa người tựa lưng vào thành ghế và nhắm mắt lại. Mọi người chạy vội đến chỗ ông ta. Cuộc họp kết thúc như vậy.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 2/6/15
  10. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 19

    Bạn cũ

    я

    Trong trường chỉ toàn bàn đến lời phát biểu của tôi ở cuộc họp Hội đồng nhà trường, do đó tôi đâm ra rất bận. Nếu nói tôi cảm thấy mình trở thành anh hùng sẽ là phóng đại. Nhưng dù sao thì các bạn gái ở mấy lớp lân cận cũng chạy đến xem mặt tôi và bình luận ầm ĩ về cái bề ngoài của tôi. Lần đầu tiên trong đời tôi được người ta thể tất cho cái vóc người nhỏ

    Thậm chí tôi cảm thấy hình như tôi hơi giống Sác-li Sa-plin . Ta-ni-a Ve-lích-cô, người rất được tôn trọng ở trường đến và nói rằng trong kỳ nghỉ đông cô luôn luôn phát biểu công kích tôi, nhưng bây giờ cô cũng cho rằng tôi đá vào mõm thằng Rô-ma- sốp là đúng.

    - Nhưng trước đấy lẽ ra cậu phải chứng minh hắn là một điển hình xấu xa về xã hội, - cô nói rất có lý.

    Tóm lại, tôi hết sức bất bình và kinh ngạc, khi tôi đang có tiếng tăm nhất trong trường thì Chi đoàn thanh niên cộng sản lại thi hành kỷ luật cảnh cáo tôi nghiêm khắc. Cuộc họp Hội đồng nhà trường không tiếp tục được vì Ni-cô-lai An-tồ-nứt ốm, nhưng thầy Cô-ra-bơ-li-ốp bảo tôi rằng tôi có thể bị đổi sang trường khác.

    Đó là một việc không thú vị gì và điều chủ yếu là phần nào không công bằng! Tôi đồng ý với nghị quyết của Chi đoàn thanh niên cộng sản. Nhưng còn chuyện chuyển tôi sang trường khác. Vì sao? Vì rằng tôi đã chứng minh Rô-ma-sôp là thằng đểu ư? Vì tôi đã vạch trần Ni-cô-lai An-tô-nứt đã bao che cho hắn ư? Tôi ngồi trong thư viện lòng buồn rười rượi. Lúc đó ngoài cửa có nguời nào đó hỏi thầm nhưng vẫn cứ oang oang:

    - Người nào?

    Tôi nhìn thấy một người thanh niên cao lớn tóc nâu, nhìn tôi bằng con mắt dò hỏi.

    Những người tóc nâu thường thích để tóc dài, nhưng bộ tóc của người thanh niên này lại bướng bỉnh thế hào đó giống như tóc của người nguyên thủy vẽ trong sách giáo khoa địa lý. Một điều thú vị là lúc đầu tôi chỉ nghĩ đến bộ tóc của anh ta và mãi về sau mới nhận ra đó là Pê-chi-a - Pê-chi-a Xcô-vô-rô-ni-cốp bằng xương bằng thịt đang đứng cạnh cửa thư viện của chúng tôi và nhìn tôi có vẻ sửng sốt. Tôi đứng lên và chạy bổ đến chỗ cậu ta, làm đổ cả ghế.

    - Pê-chi-a!

    Chúng tôi bắt tay nhau, sau đó nghĩ thế nào rồi mới ôm hôn nhau.

    - Pê-chi-a! Thế nào? Còn sống à, có khỏe không? Tại sao chúng mình chẳng gặp nhau lần nào cả?

    - Cậu thật đáng trách, rõ ngốc! - Pê-chi-a đáp. - Mình tìm cậu trên khắp cả thế gian. Vậy cậu chui vào đâu thế?

    Nó rất giống trong bức ảnh mà tôi trông thấy của Xa-nhi-a, chỉ khác là trong ảnh nó rẽ đầu ngôi tử tế. Tôi sung sướng quá! Đúng như được gặp lại người anh em ruột thịt của mình, tôi cảm thấy chẳng lúng túng tí nào cả.

    - Pê-chi-a! Khỉ thật, cậu cừ lắm, cậu đã tìm đến! Mình có thư của cậu đây! Đây này!

    Tôi đưa thư cho nó

    - Cậu làm thế nào mà tìm được mình? Nhận được thư từ En- xcơ phải không!

    - Ừ! Mình chờ cậu đã lâu rồi. Mình nghĩ: tên khốn kiếp này chẳng đến đâu. Thế nào, ở nhà các cụ ra sao?

    - Các cụ đều khỏe cả, - tôi trả lời.

    Nó cười.

    - Mình cứ tưỏng cậu sống ở Tuyếc-két-xtan. Cậu làm thế nào? Rốt cuộc không đến được chứ gì?

    - Thế còn cậu?

    - Mình đến rồi, - Pê-chi-a nói. - Nhưng mình không thích. Cậu biết không, ở đó nóng kinh khủng, lúc nào cũng chỉ thèm uống nước, mình đã bị giam trong nhà tù, mình buồn quá và chuồn về. Nếu là cậu có lẽ toi mạng ở đấy rồi.

    Tôi dẫn nó đến phòng ngủ, các bạn học sinh vây chặt lấy chúng tôi và cứ nhìn thẳng vào miệng chúng tôi, - do đó chúng tôi bỗng cảm thấy, ở trong trường của chúng tôi đến một chỗ để nói chuyên cũng không có.

    - Hãy đi ra ngoài đường vậy, - Pê-chi-a đề nghị. - Thời tiết rất đẹp, tại sao không đi dạo một lát? Nếu không thì đi đến đằng mình vậy?

    - Cậu ở một mình à?

    Nó lấy ngón tay ra hiệu: một đôi.

    - Lấy vợ rồi à?

    Nó giơ nắm đấm như chuẩn bị định đánh tôi. - Ứ với bạn.

    Chúng tôi mỗi đứa vớ một cối bánh rán to tướng tôi mang từ En-xcơ lên, vừa ăn vừa mặc áo rồi chạy xuống cầu thang, miệng đầy bánh vẫn nói chuyện. Đúng vào lúc đó thì xảy ra một sự gặp gỡ kỳ lạ.

    Có một ngựời phụ nữ mặc áo măng-tô da cổ trắng đang đứng trên thềm tầng một, cạnh phòng địa lý. Bà đứng cạnh lan can đang nhìn xuống dưới qua chấn song tay vịn cầu thang. Thoạt đầu cứ tưởng bà định nhảy qua cầu thang, - bà nhắm nghiền mắt, ngưòì lảo đảo bên cạnh lan can. Có lẽ chúng tôi đã làm cho bà giật mình, và bà lưỡng lự đi ra cửa. Đó chính ià bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na. Tôi nhận ra bà ngay, mặc dù bề ngoài trông bà rất lạ. Nếu lúc đó chỉ có một mình tôi thì rất có thể bà đã nói chuyện với tôi. Nhưng tôi đi cùng với Pê-chi-а, vả lại lúc đó chúng tôi đang ăn bánh nên bà chỉ lặng lẽ gật đầu, trả lời câu chào hỏi ngượng nghịu của tôi rồi bà quay đi...

    So với lần gặp trước thì bà gày đi rất nhiều, sắc mặt âm thầm lặng lẽ... Vừa nghĩ tôi vừa đi ra phố. Tôi đi dạo với Pê-chi-a, lại hai đứa, lại mùa đông, ở Mát-xcơ-va, sau một thời gian dài xa cách.

    Lạ lùng sao, cuộc đời của Pê-chi-a giống tôi như hệt! Tôi nghe nó kể chuyện lòng đầy thương cảm, dường như nhớ lại một quyển sách cũ đã đọc từ thời thơ ấu và đã trải qua những đau khổ, lo âu. Nhưng lạ thay, hình như tôi cảm thấy hồi đó chúng tôi có kinh nghiệm hơn, già dặn hơn... Hình như chúng tôi đã là những ông cụ non vậy.

    Ở Ta-sken, Pê-chi-a nổi danh là diêm vương của loài vịt - tất nhiên không phải vịt trời mà là vịt nhà. Nó đuổi đàn vịt lên bờ rồi sau đó vặn cổ chúng và đem về quay trên đống lửa ở trong vườn của trại nhi đồng. Cuối cùng nó vì thế mà bị bắt và bị bỏ tù, ở đó nó suốt ngày được ăn mơ, bất kể bữa sáng, bữa trưa hoặc bữa tối. Cho nên sau đợt đó nó ghét mơ suốt đời. Về sau nó được thả ra, khi trở về Mát-xcơ-va nó lại bị vây bắt ở nhà ga Ca-dan. Nó vào trường chậm hơn tôi một năm và cho mãi đến năm ngoái nó mới đuổi kịp tôi vì nó học nhảy được một lớp.

    - Thế cậu có nhớ: “p-phe! P-phe! Tại sao các cậu dám làm như thế không?"

    - Đúng! Cậu có nhớ: “Nếu ai phản lại lời thề, người đó sẽ không bao giờ được tha thứ, trừ phi họ đếm được trong rừng có bao nhiêu cây, trên trời rơi xuống bao nhiêu...”

    Tôi đọc lại lời thề một mạch từ đầu đến cuối.

    - Hay lắm! - Pê-chi-а phấn khởi nói. - Những lời thề rất hay!

    - Đấu tranh và tìm tòi, quyết đạt mục đích chứ không đầu hàng. Cậu còn nhớ không?

    - Thế cậu có nhớ chúng mình đã đi tìm ông chú cậu thế nào?

    - Tôi ngắt lời nó. - Vậy thì bây giờ ông ấy ở đâu? Cậu đã tìm thấy ông ấy chưa?

    Thì ra ông chú đã bị bệnh thương hàn phát ban chết ở ngoài mặt trận rồi.

    - Cậu có nhớ..

    Chúng tôi cứ luôn luôn hỏi nhau “Cậu có nhớ...” như vậy. Không biết tại sao chúng tôi lại đi rất nhanh. Tuyết rơi quay tròn trên không trung, trên đại lộ có rất nhiều trẻ con chơi. Có một cô bảo mẫu nhìn chúng tôi và không nhịn được cười.

    - Đứng lại! Việc gì chúng mình phải chạy như thế? - Pê-chi-a . hỏi, thế là chúng tôi đi chậm lại.

    - Pê-chi-a, mình có một đề nghị, - khi chúng tôi đã đi mỏi, và ngồi trong một quán hàng cà-phê ở phố Tve-rơ-xcai-a, tôi nói.

    - Nói đi!

    - Bây giờ mình đi gọi dây nói, cậu ngồi đây uống cà-phê và im lặng nhé.

    Nó cười.

    - Rõ buồn cười! - Nó nói.

    Tôi nhận thấy Pê-chi-a rất thích nói câu “Rõ buồn cười” và “ngốc như quỷ”.

    Máy nói rất xa bàn chúng tôi ngồi, ở tận ngoài cửa ra vào do đó tôi cố ý nói thật to.

    - Ca-chi-a, mình rất muốn giới thiệu với cậu. Đến đây nhé! Cậu đang làm gì đấy? Mình rất cần nói chuyện với cậu.

    - Mình cũng thế. Nhưng nhà mình ốm hết cả rồi. Nếu không thì mình đã đến.

    Cô nói giọng buồn buồn, và tôi bỗng muốn gặp cô ta ngay lập tức.

    - Sao lại ốm hết cả được? Mình vừa mồi gặp mẹ cậu cơ mà,

    - Ở đâu?

    - Bà đến chỗ thầy Cô-ra-bơ-li-ốp.

    - À, à... - Ca-chi-a nói giọng rất lạ lùng. - Không, bà mình ốm.

    - Thế bà làm sao?

    - Ngã từ trên ghế đẩu xuống, - Ca-chi-a bực bội nói. - Không biết bà trèo lên giá sách để làm gì, rồi ngã đánh huỵch một cái. Hiện giờblưng vẫn còn đau. Bà cụ thật xúi quẩy. Nhưng không chịu nằm lấy một phút... Xa-nhi-a, mình đã đưa những bức thư ấy cho mẹ rồi - bỗng Ca-chi-a nói thì thào, làm cho tôi phải áp thật chặc ống nghe vào tai. - Mình nói rằng cậu đã về En-xcơ với mình, rồi sau đó đưa thư.

    - Kết quả thế nào? - tôi cũng hỏi nhỏ.

    - Sự tình rất xấu. Sau này mình sẽ nói với cậu. Rất xấu.

    Cô im bặt và tôi nghe trong máy thấy tiếng thở dài của cô ta.

    Sau khi nói xong tiếng tạm biệt, tôi quay về bàn với cảm giác rất có lỗi đối với cô. Trong lòng tôi rất buồn và hơi bồn chồn không yên. Hình như Pê-chi-a nhìn thấy tôi là hiểu ra ngay. Nó cố ý nói sang chuyện khác; nó hỏi:

    - Này, cậu đã hỏi ý kiến ông cụ mình về chuyện xin vào Trường Hàng không chưa?

    - Trao đổi rồi.

    - Thái độ ông cụ ra sao?

    - Tán thành.

    Pê-chi-a im lặng. Nó ngồi duỗi đôi chân dài ngoẵng ra và tư lự lấy ngón tay xoa cằm mà theo lứa tuổi đáng lẽ nó phải mọc râu rồi.

    - Mình cũng cần phải nói chuyện với ông cụ, nó nghẹn ngào nói. - Cậu có biết không, năm ngoái mình đã định thi vào Học viện Mỹ thuật.

    - Có thật không?

    - Nhưng năm nay lại không muốn nữa.

    - Tại sao?

    - Nếu không có tài thì sao?

    Tôi cười. Nhưng rất nghiêm, vẻ tư lự.

    - Tóm lại, nếu thật như thế, nghĩa là nếu cậu vào Học Viện mỹ thuật thật thì mới là điều kỳ quặc.. Mình bao giờ cũng cảm thấy cậu phải trở thành một nhà thám hiểm hay một viên thuyền trưởng!

    - Tất nhiên việc đó rất thú vị, - Pê-chi-a do dự nói. - Nhưng nếu mình có tài thì sao?

    - Thế cậu đã cho ai хem những tác phẩm của mình chưa?

    - Đã cho... xem rồi,

    Nó kể tên một họa sĩ nổi tiếng.

    - Ông ấy nói thế nào?

    - Ông ấy bảo cũng được.

    - Thế thì tốt! Nên học đi! Này ông bạn đi nếu ông có tài năng về mặt này mà còn đi xin vào cái trường Hàng không nào đó thì thật là đồ ngốc! Chưa biết chừng cậu giết chết ở mình một Rê- pin tương lai cũng nên.

    - Làm gì có, không được.

    - Nếu bỗng nhiên?

    - Đồ ngốc như quỉ, cậu đang đùa mình đấy à, - Pê-chi-a cáu sườn nói. - Đây là vấn đề nghiêm chỉnh đấy.

    Chứng tôi trả tiền rồi đi ra. Chúng tôi lang thang trên đuờng phố Tve-rơ-xcai-a hơn nửa tiếng đồng hồ, nói chuyện về đủ thứ,-hết chuyện về En-xcơ sang chuyện Thượng-hải, rồi từ chuyện Thượng-hải sang chuyện Mát-xcơ-va, sang chuyện trường tôi và từ-chuyện trường tôi sang chuyện trường Pê-chi-a. Chúng tôi cố gắng chứng minh cho nhau biết rằng chúng tôi đang sống ở trên thế giới này không phải là bình thường mà là có mục tiêu nhất định.

    Tại rạp chiếu bóng “Ác-xơ” đang chiếu bộ phim “Sự sụp đổ của triều đình Rô-ma-nấp” Chúng tôi dừng lại xem ảnh. Tất cả những vai võ quan trông đều rất giống Sa-hoàng. Sa-hoàng ngồi trên chiếc xe ô-tô có mui to đến tức cười, hắn mỉm cười nhã nhặn.

    - Hừ khỉ thật, - Pê-chi-a vừa thở dài ,vừa nói, - tình hình xấu quá!

    - Nào để mình nói thẳng cho cậu biết, xem cậu có tài hay không nào.

    - Cậu hiểu được nhiều không?

    - Tất nhiên là mình hiểu!

    Thế là chúng tôi đi đến nhà nó.

    Từ năm ngoái trở về trước Pê-chi-а cũng như tôi sống ở trong trại trẻ. Về sau nó gặp vận may: nó kết bạn với một tay học sinh của Trường Chuyên khoa công nông, tay này có một gian nhà ở quảng trường Xa-ba-sây và thế là hai đứa dọn đến ở với nhau. Tên họ của tay học sinh trường công nông này là Hây-phết. Khi chúng tôi đến nhà này thì cậu ta đang ngủ.

    - Хem đi, - Pê-chi-a nói và nhấc cái đèn treo ở đầu giường xuống soi cho tôi xem một trong những bức tranh. Trên bốn bức tường bẩn ơi là bẩn treo đầy những tranh. Thoạt đầu tôi xem bằng mắt thường, về sau tôi phải lim dim mắt lại nhìn qua lỗ nắm tay.

    Đây là bức tranh chân dung - tôi liền đoán ra ngay đó là ai: ông bạn Hây-phết của Pê-chi-a. Vì bị chói ánh đèn nên đúng vào lúc đó thì cậu ta mở mắt ra thở dài lấy tay che mặt rồi lại ngủ ngay lập tức. Đó là một bức tranh chân dung tuyệt vời: đôi mắt ngây thơ đăm chiêu, dưới cái trán bướng bỉnh có hàng lông mày thẳng tắp, nhỏ như sợi chỉ.

    - Vẽ mực tàu à?

    - Ừ, mực loãng gần như nước lã! - Pê-chi-a buồn bã trả lời.

    Bức chân dung vẽ bằng mực lõang, nhưng đen trắng rất rõ ràng làm cho người ta cảm thấy rất tự nhiên.

    - Khá lắm! - Bất giác tôi tỏ ra khâm phục. - Nhưng còn cái gì nữa cho xem một thể nào!

    Tất cả những bức còn lại toàn là vẽ em gái Xa-nhi-a của tôi. Xa-nhi-a ngồi thuyền, Xa-nhi-a ở dưới bếp, Xa-nhi-a mặc quần áo kiểu U-cren và Xa-nhi-a mặc cái áo măng-tô da màu vàng trông như bà cụ.

    Bất giác tôi nhớ lại lúc tôi hỏi cô ta có cái ảnh nào của Pê-chi- a không thì cô ta có vẻ thẹn thò và lâý ở đâu ra cái ảnh rất nhanh - đúng là cô ta ra cửa và rút tấm ảnh ở trong túi áo ra. Vậy thì đã sao! Đúng như ông chánh án đã nói: chúng nó rất đẹp đôi. Chả trách Xa-nhi-a cũng chuẩn bị xin vào Học viện Mỹ thuật!

    Phải đánh giá Pê-chi-a cho công bằng - nó không cố tình vẽ Xa-nhi-a đẹp hơn là Xa-nhi-a thật. Nhưng nó lại vẽ khuôn mặt cô ta có những nét giống người Mông-cổ:* đôi mắt lá răm, hai gò má rộng và cái nhìn kiểu phương Đông của người Tác-ta. Có thể đó là nguyên nhân mà trong một số bức tranh trông Xa-nhi-a rất giống mẹ.

    Có một số bức vẽ Xa-nhi-a xấu hơn Hây-phết. Nhưng bức vẽ “Xa-nhi-a bên bếp lò” thì thật tuyệt. Đặc biệt là cái bếp lò: hình như có cái gì đang sôi sùng sục trong nồi trên bếp lò, có những viên nhỏ trăng trắng đang nổi lên chìm xuống sùng sục.

    - Này, ông bạn, thật chịu đấy!

    * Cái gì? - Có tài! Pê-chi-a thở dài.

    - Họa sĩ gì! Nó nói. Xin thú thật với cậu là mình cũng chẳng thích vẽ. Trước kia thì thích, nhưng bây giờ thì hoàn toàn không.

    - Đồvngốc, đó là một việc kỳ quặc!

    - Sao lại kỳ quặc? Pê-chi-a bực tức phản đối. - Cậu muốn trở thành phi công là vì cậu có hứng thú. Còn mình cảm thấy hội hoạ chẳng hứng thú gì cả.

    - Khẽ chứ, cậu làm hắn tỉnh dậy bây giờ.

    - Ừ, đánh thức nó dậy, - Pê-chi-a nói và cáu kỉnh nhìn sang chàng học sinh trường công nông.

    - Cậu đã trao đổi qua với hắn chưa?

    - Hắn nói rằng mình là một thằng ốm.

    Tôi cười vang lên.

    - Mà cũng có một việc như thế này thật, - Pê-chi-a nói. - Ví dụ như Trê-khốp. Ông ta vừa là bác sĩ lại là nhà văn.

    - Có thì có đấy. Nếu mình ở vào hoàn cảnh của cậu, cậu đoán хem mình làm gì?

    - Sao?

    - Sẽ đi làm phi công, bay độ vài chục năm, rồi sau đó chuyển sang hội họa.

    - Lúc đó thì đừng hòng, quên tiệt rồi còn đâu!

    Tôi ngồi ở nhà Pê-chi-a đến khuya, thế mà Hây-phết cũng không hề thức giấc. Chúng tôi định đánh thức nó, nhưng nó chỉ cười trong cơn mê у như một đứa trẻ, rồi lại trở mình quay sang phía khác.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 2/6/15
  11. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 20

    Lẽ ra mọi việc có thể khác hẳn

    Thời kỳ xa xưa ấy đã qua rồi. Hồi đó nếu chúng tôi trở về trường sau mười giờ đêm là rất lo, nên phải đi vòng sau lưng lão I-a-phết nghiêm khắc mặc chiếc bành-tô da to sù ngồi trên chiếc ghế đẩu ngay trước cửa ra vào và ngủ - nếu lão ngủ thật thì còn khá. Giờ đây tôi đã là học sinh tốt nghiệp và chúng tôi muốn đi về lúc nào tùy ý.

    Nhưng hôm nay tôi về chưa phải là muộn - chưa đến mười hai giờ. Học sinh vẫn còn nói chuyện râm ran. Va-li-a đang viết gì đó, nó ngồi xếp bằng tròn ở trên giường. Nhưng thấy tôi nó gọi:

    - Xa-nhi-a, thầy I-van Pa-vơ-lứt bảo nếu cậu về trước mười hai giờ thì đến chỗ thầy đấy. Bây giờ mấy giờ rồi?

    - Mười một giờ rưỡi.

    - Đi nhanh lên!

    Tôi khoác áo bành-tô chạy đến gặp thầy.

    Đó là một cuộc nói chuyện không bình thường mà suốt đời tôi không bao giờ quên được, - tôi phải thật bình tĩnh viết lại nội dung cuộc nói chuyện này. Tôi không được xúc động, đặc biệt là lúc này, khi mà nhiều năm đã trôi qua. Rõ ràng là mọi việc lẽ ra có thể khác. Mọi việc lẽ ra có thể khác hẳn, giá tôi hiểu rõ đối với bà, mỗi lời nói của tôi có ý nghĩa to lớn như thế nào, giá tôi có thể dự đoán được trước việc gì sẽ xảy ra sau cuộc nói chuyện của chúng tôi... Nhưng những chữ “giá” ấy thật khôn cùng... Tôi cũng chẳng cần phải biện bạch, nhận lỗi làm gì. Và đây, tình hình cuộc nói chuyện ấy như thế này.

    Khi tôi đến nhà thầy Cô-ra-bơ-li-ốp thì bà Ma-ri-a Va-xi-li- ép-na đã ở đấy. Bà đã ở đây suốt cả buổi tối. Nhưng không phải bà đến tìm ông mà là đến tìm tôi, chính là đến gặp tôi và ngay câu đầu tiên bà đã nói với tôi như vậy.

    Bà ngồi rất thẳng, khuôn mặt lặng lẽ, chốc chốc lại đưa bàn tay xương xẩu lên vuốt tóc. Trên bàn có rượu vang và bánh bích qui. Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp luôn tay rót rượu cho bà và cho mình. Nhưng bà chỉ hơi nhấp nháp nên cốc rượu từ đầu đến cuối vẫn không uống hết: Bà hút thuốc lá liên tục, tàn thuốc vung vãi khắp nơi, ngay trên đùi bà cũng có. Bà đeo chuỗi hạt trân châu quen thuộc ở cổ và mấy lần bà khẽ nhấc chuỗi hạt lên dường như chuỗi hạt làm bà nghẹn cổ. Đấy tình hình là như vậy.

    •• Người hoa tiêu viết rằng ông không dám mạo hiểm gửi bức thư này qua bưu điện, - bà nói. - Thế nhưng cả hai bức thư này lại nằm trong cùng một túi thư của bưu điện. Em giải thích vấn đề này như thế nào?

    Tôi trả lời là tôi không biết và nếu người hoa tiêu còn sống thì nên đi hỏi chính ông ấy.

    Bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na lắc đầu.

    - Nếu ông ấy còn sống thì còn nói gì!

    - Có lẽ những người thân của ông ấy biết chăng, - bỗng nhiên tôi lại hứng lên. - Ngoài ra, thưa bà, người hoa tiêu đã được đội thám hiểm của trung úy Sê-đôp cứu thoát. Thế thì nhất định ông này biết. Tôi tin rằng thế nào người hoa tiêu cũng kể lại mọi chuyện cho ông này nghe.

    - Ừ, có thể như thế, - bà Ma-ri-a Va-xi-li-ep-na trả lời.

    - Hơn nữa cái gói này là gửi cho Cục trưởng Cục Địa lý thủy văn. Nếu người hoa tiêu đã gửi thư bằng bưu điện thì gói ấy chắc cũng gửi bằng bưu điện. Vậy cần phải tìm hiểu xem.

    Bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na lại nói:

    - Ừ nhỉ!

    Tôi im lặng. Chỉ có mình tôi nói, thầy Cô-ra-bơ-li-ốp chưa lên tiếng một câu nào. Tôi không thể hiểu ông nhìn bà Ma-ri-a Va- xi-li-ép-na với thái độ thế nào. Bỗng ông đứng dậy, khoanh hai tay trước ngực khẽ rón rén đi đi lại lại trong phòng. Tối hôm đó trông ông rất lạ lùng, cứ như người mọc thêm cánh trông phơi phới. Người ta cảm thấy hình như bộ ria của ông bay tung trước gió. Tôi không thích thế. Nhưng tôi hiểu ông: ông rất phấn khởi vì Ni-cô-lai An-tô-nứt đã tỏ ra là một kẻ đê tiện như vậy, ông tự hào vì đã sớm dự đoán được điều đó, ông hơi sợ bà Ma-ri-a Va-xi- li-ép-na đồng thời ông cũng đau khổ bởi vì bà đau khổ. Nhưng chủ yếu là ông phấn khởi, và không hiểu tại sao lại không thích thế.

    - Em ở En-xcơ làm những gì? - bỗng bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na hỏi tôi. - Em có người thân ở đó à?

    Tôi trả lời là có người thân. Cô em gái.

    - Tôi rất yêu thành phố En-xcơ, - bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na nói với thầy Cô-ra-bơ-li-ôp. - Ở đó tuyệt lắm. Vườn hoa rất đẹp! Từ sau ngày rời khỏi En-xcơ đến giờ tôi chưa đi chơi vườn hoa.

    Bỗng bà kể về thành phố En-xcơ. Không biết vì sao bà kể bà có ba bà dì đang sống ở đó, cả ba người đều không tin là có Chúa và lấy làm kiêu hãnh về việc đó, và có một bà đã tốt nghiệp khoa Triết trường đại học Hây-đen-béc. Trước đây bà có bao giờ nói nhiều thế đâu. Sắc mặt bà xanh nhợt nhưng rất đẹp, mắt sáng long lanh, bà ngồi hút thuốc liên miên.

    Ca-chi-a nói rằng em còn nhớ một câu gì đó ở trong bức thư này, - bà nói và quên bẵng ngay các bà dì và thành phố En-xcơ - Song tôi không tài nào moi được ở nó xem câu đó là câu gì.

    - Vâng, có nhớ được một số.

    Tôi chờ xem bà có yêu cầu tôi nói ra những câu đó không, nhưng bà lặng thinh, hình như bà rất sợ phải nghe tôi nói những câu đó ra.

    - Nào, Xa-nhi-a, nói đi, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp làm ra vẻ sảng khoái nói.

    Tôi bèn nói:

    - Bức thư đó kết thúc bằng câu: “Lời chào của... của em”. Có phải không ạ?

    Bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na gật đầu.

    - Và tiếp theo là như thế này: “... Mô-gô-ti-mô I-a-xtơ-re-bi-nưi Côgôt...”

    - Môn-gô-ti-mô? - Thầy Cô-ra-bơ-li-ôp ngạc nhiên hỏi lại.

    - Vâng, Môn-gô-ti-mô, - tôi nhắc lại dứt khoát.

    - Môn-gô-ti-mô I-a-xtơ-re-bi-nưi Cô-gốt, - bà Ma-ri-a Va-xi-li- ép-na chữa lại và lần đầu tiên giọng bà run run. - Hồi đó tôi có gọi anh ấy như thế.

    Bà gọi thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp “ Môn-gô-ti-mô I-a-xtơ-re- bi-nưi Cô-gốt”, bây giờ nghĩ lại có lẽ hơi buồn cười. Đặc biệt là tôi cảm thấy buồn cười bởi vì giờ đây tôi biết về công việc của ông nhiều hơn tất cả những người khác trên trái đất. Nhưng lúc đó thì lại chẳng cảm thấy buồn cười tí nào cả bởi vì bà bao giờ cũng giữ giọng nói bình tĩnh nay bỗng nhiên lại run run.

    Chính ra cái tên đó không phải là ở trong cuốn sách Guýt- stáp E-ma-rơ như tôi và Ca-chi-a nghĩ, mà ở trong tác phẩm của Trê-khốp. Trê-khốp có một truyện ngắn trong đó có một chú bé tóc nâu lúc nào cũng cứ tự gọi mình là Môn-gô-tì-mô I-a-xtơ-re- bi-nưi Cô-gốt.

    - Đúng là Môn-gô-ti-mô, - tôi nói. - Nhưng tôi lại nhớ... Môn- gô-ti-mô... “em trước đây gọi anh như vậy. Lạy Chúa! Đó là chuyện đã lâu lắm rồi! Nhưng anh không than phiền. Chúng ta nhất định sẽ lại gặp nhau, và lúc đó mọi việc sẽ êm đẹp cả. Nhưng có một ý nghĩ, một ý nghĩ làm cho anh vô cùng khổ tâm. Chữ “Một ý nghĩ” nhắc đi nhắc lại hai lần, đây không phải là tôi nhắc lại mà trong thư đúng như thế - nhắc lại hai lần.

    Bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na lại gật đầu”.

    - “Thật là đau khổ, - tôi tiếp tục đọc, - khi nhận thấy rằng lẽ ra mọi việc có thể khác hẳn. Bọn anh liên tiếp gặp phải những điều rủi ro - mà điều rủi ro đầu tiên đó là anh đã giao việc chuẩn bị vật chất của đội thám hiểm cho Ni-cô-lai. Đó là cái sai lầm mà bọn anh phải trả từng giờ từng phút”.

    Có lẽ tôi không nên quá nhấn mạnh vào câu giao việc cho Ni- cô-lai. Bởi vì sắc mặt bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na vốn đã tái nhợt lúc này càng tái nhợt đi. Có thể nói không phải là tái nhợt nữa mà là trắng bệch ra. Bà ngồi trước mặt chúng tôi và cứ hút thuốc liên hồi. Sau đó bà nói những câu thật là kỳ quặc, và đột nhiên lần đầu tiên tôi nghĩ rằng bà hơi lẩm cẩm. Nhưng tôi không chú ý lắm tôi việc này vì tôi cảm thấy tối nay thầy Cô-ra-bơ-li-ốp cũng hơi điên đấy. Lẽ ra ông ta và chính ông ta phải hiểu bà gặp phải việc gì. Nhưng lúc này ông đã hoàn toàn mất hết lý trí. Có lẽ ông tưởng chừng như ngày mai bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na sẽ lấy ông.

    - Sau hội nghị này, Ni-cô-lai An-tô-nứt ốm, - bà nói với thầy Cô-ra-bơ-li-ốp. - Tôi đề nghị gọi bác sĩ, nhưng ông ấy không muốn. Tôi không nói với ông ấy về những bức thư này. Ông lại càng buồn phiền. Tạm thời không nên nêu ra, có đúng không?

    Bà đã bị gục, bị nỗi đau khổ hành hạ đến tuyệt vọng, nhưng tôi vẫn chẳng hiểu gì hết.

    - Ồ, tại sao lại không nên, - tôi phản đối. - Thôi được. Vậy tôi sẽ tự làm. Tôi sẽ gửi bức thư sao lại. Hắn phải đọc chứ.

    - Xa-nhi-a! - Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp bỗng tỉnh ra và kêu lên.

    - Không, thưa thầy, tôi sẽ nói, - tôi nói tiếp. - Bởi vì tất cả những cái đó làm cho tôi công phẫn. Vì ông ấy mà đội thám hiểm đã phải chết, sự thực là thế. Đây là sự thực lịch sử. Mọi người phải lên án cái tội ác rất nghiêm trọng này. Tôi cho rằng bà Ma- ri-a Va-xi-li-ép-na, với tư cách vợ của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp, chính bà phải đi tố cáo ông ấy.

    Nhưng giờ đây bà không là vợ mà là bà quả phụ của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp. Bà đã trở thành vợ của Ni-cô-lai An-tô-nứt rồi. Như vậy là bà sẽ phải đi tố cáo chính chồng mình. Nhưng nào tôi có hiểu được điều đó.

    - Xa-nhi-a! - Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp lại quát tôi.

    Nhưng tôi đã thôi không nói nữa. Tôi chẳng còn có điều gì để nói thêm. Cuộc nói chuyện của chúng tôi vẫn tiếp tục, nhưng không nói thêm về việc đó nữa. Tôi chỉ nói rằng dải đất trong thư nhắc đến chính là Bắc địa và như thế đáng lẽ phải nói Bắc địa là do thuyền trường Ta-ta-ri-nốp phát hiện ra. Song ở nơi đây, trong căn phòng này, vào giờ phút này mà đi nói “kinh độ” bao nhiêu, “vĩ độ” bao nhiêu thì những cái danh từ địa lý ấy chỉ tổ làm cho người ta chói tai. Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp vẫn đi đi lại lại trong phòng, còn bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na cứ hút thuốc suốt. Những mẩu thuốc lá đã chất thành đống trong cái gạt tàn ở trước mặt bà. Mẩu nào cũng bị nhuộm đỏ vì son ở môi bà thấm ra. Bà ngồi trầm tĩnh, bất động thỉnh thoảng lại nâng chuỗi hạt trân châu ở cổ lên tựa hồ như chuỗi hạt ấy nó làm cho bà khó thở. Giờ đây từ bà đến xứ Bắc địa, dải đất nằm giữa những kinh tuyến nào đấy sao mà xa lắc xa lơ như vậy!

    Đấy toàn bộ cuộc nói chuyện là như vậy. Lúc chào từ biệt ra về tôi còn định lẩm bẩm câu gì đó nhưng thầy Cồ-ra-bơ-li-ốp cau mày lại tiến thẳng đến chỗ tôi, thành ra bất giác tôi đã bước khỏi cửa.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 3/6/15
  12. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 21

    Bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na

    Tôi ngạc nhiên nhất là bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na không hề đả động đến Ca-chi-a một tiếng nào. Tôi và Ca-chi-a cùng ở En-xcơ chín ngày. Nhưng bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na không nói một câu nào về chuyện đó.

    Đó là một sự im lặng đáng ngờ, làm cho tôi ban đêm trước khi ngủ, buổi sáng lúc đi tập thể dục, rồi giờ lên lớp môn xã hội học, đặc biệt là giờ văn học, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện ấy.

    Ở giờ văn học, đáng lẽ tôi phải tập trung suy nghĩ về Gô-gôn và bộ sử thi “Những linh hồn chết” bất hủ của ông - lúc đó chúng tôi đang học tác phẩm này, mới đúng. Đáng lẽ tôi phải cảnh giác đặc biệt là vì sau cuộc họp Hội đồng nhà trường, ông Li-khô đang tìm mọi cách chứng minh cho toàn trường biết rằng nếu tôi không phải là kẻ duy tâm thì những điều tôi hiểu biết bất kỳ như thế nào cũng không thể vượt được cái điểm “quá kém”.

    Nhưng lần này không hiểu tại sao tôi không chờ đợi rằng ông sẽ gọi đến tôi. Khi ông cất cao giọng gọi tên tôi, thậm chí tôi còn giật mình.

    - Chúng ta nghe nói có một số nhà hùng biện dám cho phép mình xúc phạm đến nhũng người có công, - ông nói. - Chúng ta hãy thử bàn xem họ có cái quyền đó hay không.

    Và ông hỏi tôi đã đọc tác phẩm “Chiếc áo khoác” của Gô-gôn chưa, tựa hồ như bằng cách đó có thể giải quyết được vấn đề vừa rồi.

    Mặc dù chúng tôi đã đọc “Chiếc áo khoác” ngay từ hồi còn ở cấp I, ở đây cũng chẳng có gì đặc biệt. Nhưng đi hỏi “Chiếc áo khoác” trong khi giảng về “Những linh hồn chết” thì thật là một sự thô bạo. Song tôi cũng bình tĩnh trả lời ông ta:

    - Em đọc rồi.

    - Thế thì tốt! Thế anh hiểu như thế nào về câu danh ngôn sau đây của Đô-xtô-ép-xki: “Tất cả chúng ta đều từ “Chiếc áo khoác’ của Gô-gôn mà ra”?

    Tôi giải thích rằng tuy Đô-xtô-ép-xki nói như vậy, nhưng trong thực tế “Chiếc áo khoác” không xuất hiện cái gì hết. Nhưng sau đó trong văn học và trong xã hội đã xuất hiện một phái khác hẳn. “Chiếc áo khoác” là sự thỏa hiệp đối với hiện thực, còn văn học - ví dụ như Lép Tôn-xtôi lại là đấu tranh với hiện thực.

    - Anh muốn tranh luận với Đô-xtô-ép-xki à? - Li-khô cười khinh bỉ, hỏi tôi.

    Tôi trả lời “vâng ạ”, tôi tranh luận, nhưng tranh luận với Đô- xtô-ép-xki không có nghĩa là duy tâm.

    Cả lớp cười ầm lên, mặt Li-khô đỏ gay. Xem ra thì ông ta muốn cho tôi ngay một “điểm xấu”. Ông ta cáu đến nỗi hai tay run lên, nhưng làm như vậy thì không tiện. Để giữ thể diện ông lại hỏi một câu khác:

    - Anh hãy nói xem trong các nhân vật của Gô-gôn, nhân vật nào được coi là điển hình “chỉ nói mà không ỉàm”?

    Tôi trả lời rằng tất cả các nhân vật của Gô-gôn đều chỉ nói mà không làm, trừ nhân vật Ta-rát Bun-ba là có thể làm được một số việc theo lý tưởng của mình. Nhưng cũng không nên kết tội Gô-gôn bởi vì cuộc sống lúc đó là như vậy.

    Li-khô lau mồ hôi và cho tôi một “điểm xấu”.

    - Thưa thầy I-van Vi-ta-li-e-vích, tôi sẽ yêu cầu để Viện hàn lâm khoa học hỏi tôi, - tôi vừa ngồi xuống vừa nói. - Quan điểm văn học của thầy và tôi có khác nhau.

    Ông ta vừa lẩm bẩm định nói gì thì có tiếng chuông.

    Bọn trẻ đều cho rằng trong trường hợp này tôi hoàn toàn đúng và ông Li-khô không có quyền cho tôi “điểm xấu” vì tôi không đồng ý với Đô-xtô-ép-xki, hay vì tôi cho rằng tất cả những nhân vật trong tác phẩm của Gô-gôn đều là những điển hình chỉ nói mà không làm. Va-li-a còn nhận xét rằng ở Gô-gôn còn có một nhân vật điển hình chính diện nữa - tên địa chủ Cô-xtan- giô-glô trong quyển hai của tác phẩm “Những linh hồn chết” mà Gô-gôn đã đốt đi. Nhưng tôi phản đối bảo rằng một khi Gô-gôn đã tự đốt tác phẩm của mình thì kết quả là ở đây chẳng có gì để nói. Vả lại địa chủ không thể là nhân vật chính diện được. Đúng lúc đó thì tôi trông thấy Pê-chi-a đến.

    Thật là chuyện không ngờ - Pê-chi-a lại đến trường tôi vào đúng giờ ra chơi!

    - Pê-chi-a, cậu làm gì đấy?

    - Mình có tí việc, - Pê-chi-a cười nói.

    - Việc gì?

    - Lắm việc lắm. Mình đang muốn nói chuyện với cậu.

    - Về việc gì?

    - Về việc Rê-pin. Hôm qua cậu toàn nói chuyện vớ vẩn. Rê- pin không thể không vẽ, còn nếu cậu đề nghị hắn xin vào Trường Hàng không, thì cậu có biết hắn sẽ đưa cậu đi đâu không?

    Tôi trợn tròn mắt nhìn nó:

    - Đấy, cậu như thế à!

    - Như thế nào?

    - Đúng là ốm rồi.

    Mặt Pê-chi-a sa sầm.

    - Không, - nó cáu kỉnh nói. - Mình hỏi cậu nghiêm túc đấy.

    - Mình cũng xin hỏi cậu nghiêm túc, tại sao cậu không ở trường.

    - Hôm nay mình đi dạo ngoài phố, - Pê-chi-a nói rất nhanh. - Mình cần suy nghĩ kỹ về việc này, mà ở trường thì không thể nào suy nghĩ gì được cả. Chúng nó quấy rầy.

    Giờ ra chơi đã hết, nhưng nó bảo nó sẽ chờ tôi ở góc đỏ. Hôm đó chúng tôi chỉ có bốn tiết học.

    Và nó không đi đâu thật. Nó ngữa đầu ra thành ghế, đút hai tay vào túi và nhắm mắt.

    - Cậu nói là sẽ trở thành phi công, - nó bảo. Sau một tiếng đồng hồ, khi tôì quay trở lại thì thấy nó vẫn ngồi ở tư thế ấy và vẫn ở chỗ ấy. - Nhưng có lẽ cậu chẳng có tí chút cơ sở nào để làm phi công cả thì sao? Cậu thử nhớ xem trong cả đời cậu có một hành động nào có thể chứng minh được rằng cậu có thể trở thành phi công được không?

    Tôi nhớ đến lần tôi đã quyết định một cách chớp nhoáng và kiên quyết về En-xcơ để tìm Ca-chi-a.

    - Có.

    - Ví dụ?

    - Thì mình sẽ kể cho cậu nghe!

    - Ừ thì cho là có. Nhưng sự lựa chọn của cậu có hợp lô-gích không hay là theo bản năng?

    - Rõ ràng là rất lô-gích.

    - Xuất phát từ lý trí hay từ ý thích? - Pê-chi-a nói và mặt hơi đỏ.

    - Không, từ ý thích.

    - Nói dối. Ví dụ những đứa trẻ khác muốn trở thành phi công thì suốt ngày làm những mô hình máy bay, tàu lượn.

    - Thì mình cũng thế. Mình còn biết cả lý thuyết nữa.

    Đáng lẽ ra tôi còn có thể bác lại nó và nói rằng năm nào tôi cũng cố gắng tổ chức ở trường tôi một tiểu tổ tàu lượn. Nhưng những tổ này đã bị vỡ vì các bạn thích thú món diễn kịch hơn. Ngoài tôi và Va-li-a ra, mọi người đều muốn làm diễn viên. Và cũng có nhiều người đã trở thành diễn viên thật, ví dụ như Gri- sса Pha-be chẳng hạn.

    - Nhưng mình cho rằng, - sau một lúc im lặng, Pê-chi-a nói, - cậu phải biết cái nghề gì mình đã chọn? Nên chọn cái nghề mà mình cảm thấy có thể phát huy được toàn bộ sức lực của mình. Câu này trong sách đã nói rồi, nhưng điều đó rất đúng. Mình không tin rằng làm họa sĩ mình có thể phát huy được toàn bộ tinh thần và sức lực của mình. Còn cậu, thế nghĩa là cậu tin?

    - Mình tin.

    - Thế thì đó là hạnh phúc của cậu.

    Đã đến giờ ăn cơm trưa, nhưng cuộc nói chuyện này rất thú vị nên tôi quyết định tiễn Pê-chi-a về tận nhà nó.

    - Cậu phải biết theo mình thì cậu cũng không thể không vẽ được, - tôi nói lúc ra khỏi trường, chúng tôi đứng lại ở góc ngõ Vô- rô-ni-cốp-xki. - Không tin cậu cứ thử một, hai năm xem, nhất định cậu sẽ lưu luyến và sẽ muốn ở đó mãi. Tóm lại, theo mình cậu nghĩ rằng cậu chẳng làm nên trò trống gì, nghĩ như thế lại tốt.

    - Tại sao?

    - Tại vì đó là một kiểu “hoài nghi”.

    - “Hoài nghi” thế nào?

    - Rất đơn giản. Những nhà nghệ thuật chân chính nhất định phải có sự hoài nghi, Hoặc ỉà họ chưa thỏa mãn về điều này, hoặc là chưa hài lòng về điểm khác. Cậu đang hoài nghi thế là tốt, - tôi nói sôi nổi.- Không Pê-chi-a, vấn đề rất rõ: cậu phải xin vào Viện nghệ thuật.

    Nó thở dài và lắc đầu. Nhưng hình như nó rất thú vị về cái ý nghĩ “hoài nghi” của tôi.

    Chúng tôi vừa đi vừa nói chuyện ở ngõ Vô-rốt-ni-cốp-xki như vậy. Còn nhớ chúng tôi đã dừng lại trước cái chòi dán áp-phích, tôi vừa nghe Pê-chi-a nói vừa đọc tờ quảng cáo tên một vở kịch, lúc đó có một cô gái từ trong góc ngõ chạy ra, vượt nhanh qua đường.

    Cô không có mũ và mặc áo ngắn tay - mà trời thì lạnh như thế! Có lẽ cũng vì thế mà tôi không nhận ra cô ngay.

    - Ca-chi-a?

    Cô quay lại nhưng không dừng lại mà chỉ vẫy tay. Tôi đuổi theo.

    - Ca-chi-a, tại sao cậu không mặc áo màng-tô? Có chuyện gì xảy ra vậy?

    Cô định nói nhưng hai hàm răng cứ lập cập, cô phải ngậm miệng lại rồi sau đó mới nói được.

    - Xa-nhi-a, mình chạy đi tìm bác sĩ. Mẹ nguy lắm.

    - Mẹ làm sao?

    - Không biết. Hình như mẹ uống thuốc độc...

    Thường có những phút cuộc sống bỗng thay đổi đột ngột về tốc độ - mọi cái đều bắt đầu bay bay mãi, thay đổi rất nhanh, làm cho người ta không kịp quan sát nữa.

    Từ lúc tôi nghe thấy câu “Hình như mẹ uống thuốc độc” thì mọi cái đều thay đổi nhanh chóng đến nỗi không kịp quan sát, vì thế câu đó cứ luôn luôn lặp đi lặp lại một cách đáng sợ ở đâu dưới đáy tim.

    Pê-chi-a chẳng hiểu gì nhưng cũng chẳng hỏi gì cùng chúng tôi chạy đi mời bác sĩ ở ngõ Pi-men-nốp-xki, nhưng sau lại sang nhà bác sĩ khác ở trên gác hai của cái rạp chiếu bóng cũ Han-giôn-côp. Cả ba chúng tôi cùng vào một căn nhà rất yên tĩnh, sắp xếp rất gọn gàng, tất cả đồ đạc trong nhà đều có vải phủ và cả bà già đáng ghét hình như cũng phủ trong một tấm vải xanh.

    Sau khi nghe chúng tôi trình bày, bà cụ lắc đầu nguây nguẩy rồi đi vào. Bà cụ còn thuận tay cất luôn cả những vật trên bàn sợ bị chúng tôi ăn cắp mất.

    Sau mấy phút ông bác sĩ ra - ông ta lùn, mặt hồng hào, tóc đã điểm hoa râm, mồm ngậm điếu xì gà.

    - Có việc gì đấy, các bạn trẻ?

    Trong khi ông mặc áo, chúng tôi đứng ở phòng ngoài không dám nhúc nhích. Bà cụ trong vải bọc cũng đứng ở đó và cứ nhìn chúng tôi chằm chằm, mặc dù ở phòng treo áo này chẳng có gì có thể lấy đi được cả. Sau đó bà cụ đem cái giẻ lau ra và lau những vết chân của chúng tôi mặc dù chẳng có dấu vết chân nào mà chỉ có đôi giày cao su của thằng Pê-chi-a rỏ ra vài giọt nước mà thôi. Ca-chi-a tỏ ra rất sôt ruột khiến cho tôi mấy lần định nói chuyện với cô ta mà không dám nói, bác sĩ vẫn cứ lề mà lề mề. Về sau chúng tôi phải để Pê-chi-a ở lại thúc bác sĩ mặc quần áo nhanh lên, còn tôi và Ca-chi-a về trước.

    Ra ngoài đường, tôi chẳng nói chẳng rằng choàng chiếc áo bành-tô của tôi cho Ca-chi-a. Tóc cô rối tung lên, cô vừa đi vừa phải cài tóc. Nhưng một bên đuôi sam lại tung ra, cô ta cáu sườn nhét luôn vào trong áo bành tô.

    Xe cấp cứu đỗ ngay trước cửa nhà. Chúng tôi sợ hãi đứng dừng cả lại. Các у tá khiêng bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na trên cáng đi từ cầu thang ra,

    Bà nằm trên cáng, mặt để hở, sắc mặt vẫn trắng bệch như tối hôm qua ở nhà thầy Cô-ra-bơ-li-ốp, nhưng giờ đây trông giống hệt như mặt người tạc bằng ngà voi.

    Tôi đứng nép vào thành cầu thang để nhường lối cho cáng đi, còn Ca-chi-a bật lên một tiếng kêu thê thảm “Mẹ!” rồi đi theo bên cạnh cáng. Nhưng bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na không mở mắt ra, cũng không động đậy và tôi hiểu rằng bà nhất định sẽ chết.

    Tôi vô cùng đau đớn đứng ở ngoài sân, nhìn theo cái cáng được đẩy vào trong xe cấp cứu. Bà cụ tay run run đắp mảnh vải phủ cho kín chân bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na..Các у tá cũng như mọi người miệng thở ra hơi, không biết họ lấy ở đâu ra một quyển sách và yêu cầu ông Ni-cô-lai An-tô-nứt ký tên. Ông Ni-cô-lai An-tô-nứt như người đang ốm, nhìn qua dưói cặp kính rồi ký tên vào quyển sách.

    - Không phải chỗ này, - người у tá nói lỗ mảng và bực bội phẩy tay nhét quyển sách vào cái túi rất to trên áo choàng.

    Ca-chi-a chạy về nhà mặc áo măng tô rồi quay lại, cô bỏ áo bành-tô của tôi ở bếp. Cô cũng ngồi lên xe cấp cứu. Lúc đó cửa xe đóng sập lại, bên trong có bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na mặt trắng bệch, nằm bất động trông rất đáng sợ. Chiếc xe khởi động như một chiếc xe ô-tô vận tải rất bình thường khác phóng như bay đến phòng cấp cứu của bệnh viện.

    Trong sân còn lại bà cụ và Ni-cô-lai An-tô-nứt. Họ đứng lặng đi một lát. Sau đó Ni-cô-lai An-tô-nứt quay lại và đi vào nhà truớc nhất. Ông ta bước đi như một cái máy, hình như chỉ sợ ngã. Tôi chưa hề trông thấy ông ta như thế bao giờ.

    Bà cụ đề nghị tôi ra gặp bác sĩ và nói rằng thôi không cần nữa. Tôi chạy đi và gặp bác sĩ cùng Pê-chi-a ở quảng trưởng Tri- um-phan-nai-a, chỗ quầy hàng thuốc lá. Bác sĩ mua một bao diêm.

    - Chết rồi à? - Ông hỏi tôi.

    Tôi trả lời là chưa chết, nhưng xe cấp cứu đã đưa đến bệnh viện và tôi có thể trả ông tiền nếu cần.

    - Không cần, không cần, - ông bác sĩ kinh tởm nói.

    Bà cụ ngồi trong bếp khóc. Khi chia tay Pê-chi-a, tôi có hứa với nó là ngày mai sẽ đến và sẽ kể lại mọi chuyện. Tôi trở về phố Tve-rơ-xcai-a I-am-xcai-a. Ni-cô-lai An-tô-nứt không có nhà. Ông ta đến bệnh viện.

    Bà Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na, - tôi hỏi, - bà có cần gì không?

    Bà cụ sụt sùi khóc mãi. Còn tôi cứ đứng bên cạnh chờ. Cuối cùng bà cụ nhờ tôi giúp bà cụ mặc áo rồi chúng tôi đi tàu điện đến phòng cấp cứu.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 3/6/15
  13. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 22

    Đêm

    Ban đêm, trời tối đen như mực, mặc dù tôi nằm ngay trên giường của mình nhưng lại cảm thấy hình như tôi đang bay đến một nơi nào đó với tốc độ vùn vụt kêu vù vù bên mang tai. Tôi bỗng hiểu ngay rằng từ tôi hôm qua, lúc còn ở nhà ông Cô-ra-bơ-li-ốp, bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na đã quyết định tự tử.

    Điều đó rõ ràng đã được quyết định, vì thế cho nên bà mới bình tĩnh, mới hút thuốc lá liên miên và mới nói những chuyện lạ lùng như vậy. Tư tưởng bà diễn biến khó hiểu, chúng tôi không hề biết tí gì. Tất cả những điều bà nói ra đều có liên quan đến quyết định mà bà đã chọn, Không phải là bà hỏi tôi mà là bà tự hỏi mình rồi sau đó bà lại tự trả lời.

    Có lẽ bà nghĩ rằng tôi đã lầm và trong thư viết về một người nào khác. Có lẽ bà hy vọng rằng những câu tôi nhớ ra và Ca-chi-a đã cố tình không nói lại với bà không đến nỗi kinh khủng như vậy. Có lẽ bà còn đang chò đợi rằng Ni-cô-lai An-tô-nứt, người đã làm rất nhiều việc cho người chồng quá cố của bà, do đó mà bà chỉ có thể lấy ông ta được thôi và việc này không đến nỗi có tội lớn như thế hoặc là không đến nỗi đê tiện nhục nhã như vậy.

    Thế còn tôi? Tôi đã làm gì?

    Tôi cảm thấy nóng ran cả người rồi lại thấy lạnh, sau đó lại cảm thấy nóng. Tôi đạp chăn ra, bắt đầu thở rất mạnh để lấy lại bình tĩnh và suy nghĩ kỹ càng một cách lạnh lùng. Tôi lục lại trong ký ức buổi nói chuyện hôm ấy để phân tích thêm. Giờ đây tôi mới hiểu được ý nghĩa của cuộc nói chuyện này! Hình như mỗi lời nói lại từ từ diễn ra trước mắt tôi và tôi nhìn thấy nó theo một khía cạnh khác, một cạnh khía bí ẩn.

    “Tôi rất yêu thành phố En-xcơ. Ở đó thật là tuyệt vời. Vườn hoa đẹp quá!” Trong giờ phút như vậy bà đã thích hồi tưởng lại một cách ngọt ngào thời thanh xuân của mình. Hình như bà muốn vĩnh biệt thành phố En-xcơ, giò đây khi mọi cái đã được quyết định rồi.

    "Môn-ti-gô-mô I-a-xtd-re-bi-nưi Cô-gốt, hồi đó tôi đã gọi anh ấy như thế". Giọng bà run run, bởi vì không ai biết bà đã gọi ông ấy như vậy và đó cũng là một chứng cớ không thể bác bỏ được, chứng tỏ là tôi đã nhắc lại đúng nhũng lời ấy.

    “Tôi không nói với ông ta về những bức thư này. Ông ta lại càng buồn phiền. Tạm thời không nên nêu ra, có đúng không?” Những câu này hôm qua tôi nghe rất kỳ quặc, nhưng giờ đây ý nghĩa của nó đối với tôi lại rõ quá! Ông ta là chồng bà, - có thể là con người thân nhất trên thế gian này. Bà chẳng qua không muốn làm cho ông ta phải khổ tâm, - bà biết rằng rồi đây nỗi dằn vặt của ông còn lớn hơn nhiều.

    • Đã lâu lắm tôi quên không thở sâu, tôi cứ để chân trần ngồi trên giường mà suy nghĩ mãi. Bà định vĩnh biệt cả ông Cô-ra-bơ li-ốp - thì ra thế! Bởi vì ông cũng yêu bà và có lẽ còn yêu hơn bất cứ ai. Bà muốn vĩnh biệt cái cuộc sống, tuy hai người chưa bao giờ sống nhưng chắc hẳn bà đã hằng mơ tưởng đến. Xưa nay tôi vẫn nghĩ rằng bà luôn luôn mơ tưởng đến ông Cô-ra-bờ-li-ốp.

    Đáng lẽ phải đi ngủ từ lâu rồi, bởi vì ngày mai còn có một môn thi rất quan trọng, nhất là nghĩ đến những chuyện xảy ra trong ngày bất hạnh ấy thì chẳng thú vị gì cả.

    Hình như tôi đã ngủ, nhưng chỉ được một phút. Bỗng có ai đó nói nhỏ bên cạnh tai tôi: “Bà ấy chết rồi!” Tôi mở mắt nhưng chẳng có ai. đương nhiên là không có ai; có lẽ chính tôi đã nói câu đó nhưng không nói thành tiếng mà là nói trong lòng.

    Nhưng trái với ý muốn của tôi, tôi bắt đầu nhớ lại cái cảnh tôi và cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na đi đến phòng cấp cứu. Tôi cố gắng tìm cách để ngủ, nhưng tôi thật hết cách rồi cho nên đành phải nhớ lại vậy.

    ... Chúng tôi ngồi trên một cái ghế dài trắng lớn bên cạnh một cái buồng gì đó, lúc ấy tôi không ngờ là bà Ma-ri-a Va-xi-li- ép-na lại nằm ngay trên cáng trong buồng bên cạnh, ngay sát nách chúng tôi.

    Lúc đó có một chị у tá đi ra và hỏi:

    - Các vị đến thăm bà Ta-ta-ri-nô-va à? Có thể vào không cần giấy vào cửa.

    Chị vội vàng lây áo choàng trắng mặc cho bà cụ và cài cúc lại.

    Tim tôi lạnh toát, tôi hiểu ngay rằng đã không cần giấy ra vào nữa thì có nghĩa là bà ấy nguy kịch lắm rồi và tim tôi lại càng đập mạnh hơn bởi vì chị у tá đứng tuổi này đi đến chỗ một chị у tá khác trẻ hơn đang ghi tên các bệnh nhân vào sổ. Chị у tá này hỏi chị câu gì đó và chị trả lời:

    - Sao, ở đâu! Phải khó nhọc lắm mới khiêng đến đây được đấy.

    Sau đó chúng tôi ngồi chờ. Tôi nhìn ra cái cửa trắng và hình như nom thấy tất cả - Ni-cô-lai An-tô-nứt, bà cụ và Ca-chi-a đang đứng xung quanh cái cáng trên đó bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép- na đang nằm. Sau đó có một người ở trong đi ra, cánh cửa hé mở một lát tôi mới nhìn rõ thì ra hoàn toàn không phải như vậy, chẳng có cáng kiếc gì hết, chỉ có cái gì trăng trắng đầu đen đang nằm trên cái ghế đi-văng thấp và phía trước cái vật trắng đầu đen ấy có một người cũng mặc đồ trắng đang quì. Tôi còn nhìn thấy cả cánh tay trần thõng ra ngoài ghế đi-văng, sau đó cửa sập lại. Tiếp theo có một tiếng kêu thét khàn khàn và chị у tá đang vào sổ tên những bệnh nhân bỗng dừng lại, im lặng rồi lại tiếp tục vào sổ và giải thích. Tôi không biết là lúc đó tôi hiểu tất cả những việc xảy ra này như thế nào, nhưng tôi hiểu tiếng kêu vừa rồi là của Ni-cô-lai An-tô-nứt. Tiếng ông ấy lại the thé? The thé như tiếng trẻ con?

    Chị у tá đứng tuổi đi ra, dáng điệu ra vẻ bận rộn nói chuyện với một người thanh niên đang vo tròn cái mũ trong tay. Chị nhìn tôi - bởi vì tôi cừng đến với cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na, - nhưng rồi lại quay sang chỗ khác ngay. Thế là tôi hiểu rằng bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na đã chết.

    Về sau tôi nghe thấy chị у tá nói với một người: “Thật đáng tiếc, một bà rất đẹp”. Nhưng lúc đó tôi đã như người ngủ mê, cứ mơ mơ màng màng, cũng có thể người nói câu đó không phải là chị у tá mà là người khác nói trong lúc Ca-chi-a và bà cụ đi từ trong phòng ra. Bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na đã chết ở trong căn phòng пàу. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 2/6/15
  14. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    :rose:
    Chương 23

    Lại nội qui - không phải ông ấy

    Đó là những ngày rất đau buồn, và tôi không muốn ghi lại tỉ mỉ về những ngày ấy, mặc dù tôi nhổ rất rõ từng buổi nói chuyện, từng cuộc gặp gỡ, thậm chí cả từng ý nghĩ. Những ngày đau thương đó như một cái bóng đen khổng lồ trùm lên cuộc aống của tôi.

    Ngay sau khi chôn cất bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na xong, tôi liền vùi đầu vào công việc. Tôi cảm thây khi tôi kiên quyết làm việc và học tập thì sẽ có một sức mạnh tự kìm chế mình, làm cho mình không nghĩ gì khác nữa. Nếu lúc này Pê-chi-a lại hỏi tôi rằng trong cuộc đời tôi có hành vi nào có thể chứng minh là tôi có thể trồ thành phi công được thì tôi lại trả lời nó là “có” và lần này thì càng có cơ sd chắc chắn.

    Đó là việc không dễ dàng, nhất là khi nghĩ đến chuyện lúc đưa ma bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na, tôi đi đến cạnh Ca-chi-a, cô ta đã quay đi khôrig thèm nhìn tôi.

    Cho đến tận giò tôi không thể nhớ đến chuyện này mà không cảm động, - các bạn hãy thủ xét đoán xem lúc đó tôi đã cảm thấy những gi, tôi đã xúc động và hồi hộp ra sao.

    Việc ấy như sau... Không ngò lại có nhiều người đến đưa đám bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na đến thế Đó là những người cùng công tác với bà và cả những sinh viên đã cùng học với bà trong trường Đại học Y khoa. Hồi còn sông binh như lúc nào bà cũng đơn độc, thế mà hóa ra có rất nhiều người quen biết bà và yêu mến bà. Giữa đám người lạ này vừa chuyện trò nho nhỏ, vừa nhìn vào cánh cửa lớn nhưng quan tài mãi vẫn không thấy khiêng ra, có thầy Cô-ra-bơ-li-ốp ở đó. Mắt thầy trông thật là đau khổ, râu ria mọc tua tủa trên khuôn mặt gày nhom và già sọm đi.

    Trước đây tôi vẫn thấy người thân bao giò cũng đi ra cùng vối quan tài, còn người ngoài thì đứng ở cửa và sau đó làm lễ ỉiệm. Nhưng lần này lại không đứng thế,' có lẽ là bởi vì trong số những người thân không có ai khiêng linh cữu được.

    Ni-cô-lai An-tô-nứt cúi đầu đứng bên canh. Cụ Ni-na Ca-pi- tô-nốp-na nắm lấy tay ông. Hình như bà cụ phải i'.ỡ ông mặc dù ông đứng rất thẳng. Ba bà cụ trong gia đình Bu-ben-tri-cốp cũng có mặt. Giông như nhũng tu sĩ, các cụ mặc áo váy dài đen kiểu cũ, vạt sau rất dài.

    Ca-chi-a đứng bên cạnh các cụ và đang đãm đãm nhìn ra cửa. Có lẽ cô tết tóc không chặt cho nên cái mũ thỉnh thoảng lại tụt xuống trán. Khi cô ìúng túng sửa lại cái mũ có thể tháy trong lòng cô vô cùng đau khổ. Nhưng dù đau khố đến thế, mặt cô vẫn đỏ hồng hồng.

    Mọi người đã chò mất nửa tiếng đồng hồ mà quan tài vẫn chưa thấy khiêng ra. Tôi bèn quyết định đi đến chỗ cô.

    Tôi không rõ, có thể tôi đến chỗ cô vào giờ phút ấy thì không tHích hợp chảng. Nhưng tôi muốn nói chuyện với cô dù chỉ là một tiếng thôi cũng được.

    - Ca-chi-a!

    Cô nhìn tôi một cái rồi quay đi...

    Tôi suốt ngày vùi đầu vào sách vỏ. Tôi khôi phục lại thời gian biểu cũ của mình tức là dậy lúc sáu giờ, tắm nước lạnh, tập thể dục trước cửa sổ mở rồi làm việc theo thời khắc biểu. Bản “Qui tắc rèn luyện ý chí” tôi đặt ra trước đây, bây giờ lại được dùng đến, đặc biệt là điều “Phải giấu tình cảm của mình, ít nhẫt cũng không được bộc lộ tình cảm”. Mặc dù tình cảm tôi càng ngày càng buồn bã, nhưng tôi không bộc lộc ra ngoài. Cái bóng đen khổng lồ tôi nói trên kia hình như càng ngày càng đên gần tôi. Thoạt đầu tôi còn nhìn thấy nó ở xa xa, sau đó càng ngày càng gần.

    Đó là nửa năm học cuổi cùng của tôi ở trường. Tôi hy vọng các môn đều có thể đạt được điểm “trung bình”. Đó là việc không ph;:: dễ nhất là môn vàn.

    nột lần ông Li-khô tuy vẫn lẩm bẩm, trù trừ, nhưng cuối cùn<? Ci',.ng cho tôi một điểm “trung bình”, về bài luận vàn tốt n^hi^p thì tôi không sợ, - chỉ cần phủi tay một cái là có thể viết xoníỊ bài luận văn mà còn hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của đổ ngôV ấy. Tôi biết chỉ vì tự ái ông ta sẽ cho tôi điểm cao nhất.

    Tôi đứng vào loại nhất lốp và chỉ có Van-ca là ở trên tôi. Nhưng vì nó có tài năng phi thường, hơn nữa nó lại thông minh hơn tôi rất nhiều.

    Bóng đen cứ nhích lại gần. Ông Cô-ra-bd-li-ốp gặp tôi, nhìn tôi có vẻ miễn cưỡng, đúng là ông rất khổ tâm khi nhìn thấy tôi. Ni-cô-laì An-tô-nút không đến trường. Mặc dù chẳng có ai nhắc đến chuyện xung đột giữa chúng tôi ở cuộc họp Hội đồng nhà trường, nhưng mọi người lúc nào cũng nhìn tôi bằng con mắt

    trách móc. Hình như tại cuộc họp Hội đồng nhà trường ring ta cảm thấy người khó ('Ь)П ,. . ; va v-ái cliC/- cua bà Ma-ri-a Va- xi-li-ép-na lần này đã hoan toàu bao cnữa với ông ta.

    Mọi người nhìn tôi với vẻ khó chịu. Chưa bao giờ tồi lại cô đơn như thế.

    Nhưng tôi vẫn còn chưa biết một vố khác đang chò tôi.

    Có một lần - sau khi bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na chết được hai tuần - tôi đến nhà thầy Cô-ra-bơ-li-ốp.Tôi muổn mòi thầy cùng chúng tôi đi thăm Viện bảo tàng Địa chất (hồi dó tôi là phụ trách đội thiếu niên tiền phòng, các em học sinh của tôi đề nghị tỏi dẫn chúng đi tham quan Viện bảo tàng này). Hồi còn học ở cấp I tôi đã được đi vói thầy Cô-ra-bơ-li-ốp đến đây một lần, tôi nhớ đó là một chuyến đi rất thú vị.

    Thầy rất xúc động khi ra gặp tôi và để nghị tôi đổi sang ngày khác.

    - Khi nào ạ?

    - Tôi không biết. Sau sẽ hay.

    Ở ngoài phòng áo có treo chiếc bành-tô da và cái mũ da, trên chiếc bàn con có cái khăn quàng len màu nâu. Cái khàn này trưỗc đây bà cụ đã đan trước mặt tôi. Ni-cô-lai An-tô-nứt đang ở trong nhà thầy Cô-ra-bơ-li-ốp.

    Tôi đi ra và chán nản cầm quyền sách “Không quân thòi quá khứ và tương lai” tôi còn nhổ hổi đó tôi đâ đọc cuốn sách này. Nhưng đọc không vào, không biết tâm thẫn bay đi đâu hết sạch đo đó cứ đến mỗi trang tôi lại phải nhắc mình một điều gì đó trong bản “Qui tắc rèn luyện ý chí”. Ni-cô-lai An-tô-nửt đến đây để làm gì? Đã hơn bốn năm nay ông ta có đến nhà ông Cô-ra-bd- li-ốp bao giờ đâu? Tại sao ông Cô-ra-bơ-li-ốp lại xúc động như vậy?

    Khi tôi quay trỏ lại nhà ông thì Ni-cộ-lai An-tô-nứt không còn ở đếy nữa. Giò đây tôi còn nhớ ỉúc đó trong lò đang cháy, ông Cõ-ra-bơ-li-ốp mặc cái áo nhung rất rộng có túi. Chiếc áo này chỉ khi nào ông say rượu hay người khó chịu mới đem ra mặc. Ông ngồi bên lò sưởi nhìn ngọn lửa. Khi tôi bưôc vào, ông ngẩng đồu lên nói:

    - Anh làm gì thế, anh Xa-nhi-a! Trời đi, anh làm gì thế!

    - Thưa thầy gì ạ?

    - Trời ơi, anh làm cái gí thế! - Ông Cô-ra-bơ-li-ôp tuyệt vọng nhắc đi nhác lại. - Không phải là ông ấy, không phải ông ấy! Ông ấy có bằng chứng không thể chối cãi được. Không thể chổi cãi được.

    - Tôi không hiểu, thưa thầy. Thầy nói về ai thể?

    Ông Cô-ra-bơ-li-ốp đứng lên, sau đó ngổi xuống rồi lại đứng lên.

    - Ni-cô-lai An-tô-nứt có đến đây. Ông ấy chứng minh với tôi rằng người mà thuyền trưởng viết trong thư không phải là ông ta. Đó là một Ni-cô-tai nào khác đấy, một tên doanh nghiệp Phôn Vư-si-mia-xki nào đó.

    Tôi sửng số t

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt! Đ6 là sự dổi trá, ông ta nói láo hết!

    * Không, đó là 8ự thực, - ông Cô-ra-bơ-li-ốp nói. - Đây là một việc râ't lổn, chúng ta chăng biết gì về việc đó cà. Trong đó đề cập đến rất nhiều người có nhà buôn, cổ người giao hàng, ngay từ khi mói bắt đầu, thuyền trưỏng đỗ biết tất cả. Ông biết trang bị của đội thám hiểm rất tồi và ông đa viết thư báo cho Ni-cô-ỉai An-tô- nứt biết về việc này. Chính mắt tôi đã thấy những bức thư ấy.

    Tôi nghe ông nói mà không tin ở tai mình nữa. Không hiểu tại sao trước đây tôi cứ cho rằng bức thư tôi tìm thấy ở En-xcơ là bức thư duy nhất. Do đó khi nghe nói thuyền trưởng còn có một số thư nữa đang được giữ lại làm tôi cảm thấy vô cùng sửng sốt.

    - Trong việc này có rất nhiều sự rủi ro, - ông Cô-ra-bơ-lì-ốp nói tiếp. - Có một chủ thuyền nào đó đã rứt hết tất cả các thuyền viên đi trước khi ra đến biển, phải mất bao nhiêu sức lực mới tìm được một cái máy vô tuyến điện, nhưng íại vì không tìm ra nhân viên điện báo nên buộc ỉòng phải vứt đi và còn một số việc khác nữa. Tại sao những cái đó ìại là lỗi của Ni-cô-lai An-tô-nứt? Tất cả những cái đó đều rất rõ, trời ơi! còn tôi... tôi đã phỏng đoán điều đó... Nhưng tôi...

    Ông chưa nói hết thì bỗng tôi thấy ông khóc.

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lút, - tôi nói và cố gắng không nhìn vào bức tranh khó tin được ấy - ông Cô-ra-bơ-li-cíp khóc. - Như vậy có nghĩa là ông ta không có lỗi, mà là một lăo “phôn” nào đó gây ra. Đã thế thì tại sáo Ni-cô-lai An-tô-nứt trước đây cứ khăng khăng nói rằng việc này do ông ta lãnh đạo? Xin thầy hãy hỏi ông ta xem đội thám hiểm đã mang theo bao nhiêu viên canh, bao nhiêu mì ống, bánh mì khô và cà-phê. Tại sao trước đây không bao giò ông ấy nhắc đến cái ông “Phôn” này.

    Ông Cô-ra-bơ-\i-ốp dùng khăn mùi soa lau mắt và ria. Ông lấy chai rượu vôt-са trên ngăn tủ trong tường ra, tay run run rót nửa cốc rồi lại rót vào chai một ít. Ông uống một hớp hết cốc rượu rồi ngồi xuống.

    ' Thôi được, bây giờ thì thế nào cùng được. - ông phủi tay. - Tôi chỉ là một thằng mù, một thằng mù tịt! - Bỗng dưng ông lại nói một cách tuyệt vọng. - Tôi đã phải thuyết phục bà ấy, phải chứng minh rằng điều đó không thể được, không thể tin được dù cho có thật là Ni-cô-lai An-tô-nứt đi nữa thì cũng không nên kết tội cho một người về những thất bại của một công việc to lớn như vậy. Tôi có thể nói với bà ấy rằng cậu cứ khăng khăng cho là ông ta là vì cậu ghét ông ta.

    Tôi im lặng nghe thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói. Xưa nay tôi vẫn yêu thầy và vẫn quen tôn kính thầy, cho nên nhìn thấy điệu bộ thầy thảm hại như thế tôi rất buồn. Thầy khóc thút thít, tóc và ria rối tung lên.

    - Tôi có thù ghét ông ấy hay không, - tôi bình tĩnh nói, - việc đó chẳng liên quan gì đến bản thân vấn đề cả. Tôi không rõ nói chung thầy nói câu này có ý nghĩa gì. Thầy nói tôi cố ý chứng minh, như vậy có nghĩa là tôi xuất phát từ động cơ cá nhân đê tiện hay sao?

    Ông Cô-ra-bơ-li-ốp im lặng.

    - Thưa thầy!

    Ông vẫn im lặng.

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-ìứt! - Tôi kêu lên. - Thầy cho rằng tôi cố ý xông vào việc này là để báo thù Ni-cô-lai An-tô-nứt à? Tại sao thầy lại nói dù cho có thật là ông ta chứ không phải là một lão “phôn” nào cả thì cũng không nên kết tội một người về sự thất bại của một công việc to lớn như vậy. Thầy cho rằng đó là lỗi của tôi cả à? Thầy nói đi! Có đúng không? Thầy cho là như thế chứ gì?

    Ông Cô-ra-bơ-li-ốp im lặng. Trước mắt tôi bỗng tối đen, tôi nghe thấy tim tôi đập dữ đội và chậm chạp.

    Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt, - tôi nói, giọng run run nhưng cương quyết. - Hiện nay dù cho có phải chết tôi cũng phải chứng thực là tôi đúng. Và tôi sẽ chứng minh điều đó... Hôm nay tôi sẽ đến gặp Ni-cô-lai An-tô-nứt và yêu cầu ông ta cho xem những tài liệu và thư từ đó. Ông ây đã thuyết phục thầy rằng trong thư không phải viết về ông ấy mà về lão “phôn” nào đó. Vậy thi hãy để cho ông ta thuyết phục tôi.

    - Tùy anh muốn làm thế nào thì làm, - ông Cô-ra-bơ-li-ốp chán nản nói.

    Tôi đi ra. Ông ấy không rời khỏi chỗ, vẫn ngồi bên cạnh lò sưởi, mệt mỏi và hoàn toàn tuyệt vọng, cả hai chúng tôi cùng tuyệt vọng nhưng ở tôi ngoài cái cảm giác ấy còn có một sự căm giận lạnh lùng, còn ông ở trạng thái mệt mỏi tuyệt vọng, già nua, hoàn toàn đơn độc trong căn phòng rỗng không, lạnh lẽo. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 2/6/15
  15. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 24

    Lời vu khống

    Nói thì rất dễ: tôi đi tìm ông ấy và đề nghị ông ấy cho xem những bức thư này. Nghĩ đến chuyện này mà tôi đau lòng. Trong thực tế ông ấy có thể sẽ nói chuyện với tôi! Ông ấy cũng có thể sẽ đuổi tôi ngay từ cầu thang và thế là hết. Tôi không thể đánh nhau với ông lấy được. Dù sao ông ấy cũng là một người ốm, một người đã có tuổi.

    Thực ra tôi không muốn đi. Nhưng có ý nghĩ cứ đeo đuổi tôi. Tôi rất đau lòng khi nhớ đến bộ mặt lạnh lùng hôm đưa đám, cô ấy nghiêm khắc quay đi không thèm nhìn tôi. Giờ đây tôi mới rõ tại sao cô ấy lại làm như vậy: Ni-cô-lai An-tô-nứt đã làm cho cô ấy tin rằng tất cả mọi lỗi lầm đều là tại tôi.

    Tôi hình dung cái cảnh ông ta nói chuyện với cô và tim cứ đập thình thình. Nhất định ông ấy sẽ nói như thế này: “A, trí nhớ của anh bạn của cô thật là tuyệt vời. Tại sao trước khi về En-xcơ hắn chẳng có lần nào nhớ ra những bức thư này?”

    Kỳ thực, làm sao tôi có thể quên được những bức thư ấy? Tôi đáng lẽ vừa vào đến cửa tôi đã phải chào hỏi mọi người, còn bây giờ thì đã không cần nữa. Nhưng dù sao tôi vẫn cứ cúi đầu chào. Chẳng ai đáp lại tôi, chỉ có cụ Ni-na Ca-pi-tô-nôp-na hơi khẽ gật đầu.

    - Sao?

    - Thầy nói với thầy I-van Pa-vơ-lứt rằng thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp có viết cho thầy về một ông “Phôn Vư-si-mia-xki” nào đó. Tôi cần phải biết vấn để này bởi vì nếu thế thì hóa ra tôi cố tình thuyết phục bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na tin tôi chỉ là để làm hại thầy. Ví dụ như thầy Cô-ra-bơ-li-ố p đã nghĩ như vậy. Và còn những người khác nữa. Nói tóm lại, tôi để nghị thầy cho tôi xem những bức thư mà thầy đã dùng để chứng minh rằng đội thám hiểm đã chết là do lỗi của ông Phôn Vư-si-mia-xki nào đó, còn cái chết của (tôi nuốt chữ này)... và tất cả những việc khác là lỗi của tôi.

    Đó là một đoạn rất dài, nhưng vì tôi đã chuẩn bị trước nên nói rất lưu loát. Tôi chỉ nghẹn lời khi nói đến cái chết của bà Ma- ri-a Va-xi-li-ép-na và sau đó đến chữ “và những người khác”, bởi vì tôi nghĩ đến Ca-chi-a. Cô vẫn đứng ở ngoài bậc cửa, dướn người lên, nín thở.

    Bây giờ, khi nói những câu này tôi mới nhận thấy Ni-cô-lai An-tô-nứt già sọm đi như thế nào. Ông giống như một con chim già có mỏ khoằm hai má sâu hoắm, thậm chí đến cả chiếc răng vàng trước kia đã từng làm rạng rỡ cả khuôn mặt, nay cũng mờ đi.

    Ông nghe tôi nói và thở rất to. Hình như ông ta không biết phải trả lời tôi như thế nào. Nhưng đúng vào lúc đó thì bà cụ Bu-ben-tri-cồ-va thứ hai hỏi ông ta với vẻ ngạc nhiên:

    - Ai đấy?

    Ông ta thở tiếp một hơi rồi mới nói.

    - Ai đấy à? - ông ta nhắc lại câu hỏi ấy qua kẽ răng. - Nó là thằng đểu, thằng vu khống mà tôi vẫn hằng ngày hằng giờ nói với các bà đấy.

    - Thưa thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt, nếu thầy muốn mắng...

    - Nó chính là cái thằng đã giết chết bà ấy, - Ni-cô-lai An-tô-nứt nhắc lại một lần nữa. Mặt ông ta run lên và ông ta bắt đầu bẻ ngón tay. - Nó là thằng đã dùng lối vu khống kinh khủng nhất mà người ta có thể tưởng tượng để phỉ báng tôi. Nhưng tôi vẫn sống!

    Chẳng ai nghĩ rằng ông ta đã chết. Tôi đang định nói vói ông ta câu ấy thì ông ta lại gầm lên:

    - Tôi hãy còn sống!

    Cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na nắm tay ông ta. Ông hất tay ra.

    - Lẽ ra tôi có thể tố cáo nó trước pháp luật để tòa xử nó vê tất cả những điều... Về tất cả những điều nó đã làm để hãm hại đời tôi. Nhưng còn có một luật pháp khác, một tòa án khác và theo pháp luật này nhất định sẽ có một ngày nó sẽ hiểu những việc nó làm. Nó đã giết chết bà ấy, - Ni-cô-lai An-tô-nứt nói đến đây thì nước mắt đầm đìa. - Bà ấy chết vì nó. Hãy để cho nó sống, nếu nó có thể...

    Cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na đẩy cái ghê ra và nắm lấy ta ông ta hình như chỉ sợ ông ta ngã xuống ngay lập tức. Ông ta mơ hồ nhìn bà cụ. Trong giây phút ấy tôi đã nghi ngờ sự đúng đắn của mình. Nhưng chỉ có một phút ấy thôi.

    - Vì ai cơ? Trời ơi, vì ai? - Ni-cô-lai An-tô-nứt nói tiếp. - Vì cái thằng ranh con này, nó vô liêm sỉ đến nỗi còn dám vác mặt đến cái nhà, ở đây bà ấy đã chết. Vì cái thằng ranh con có dòng máu nhơ bẩn này.

    Tôi không biết ông ta nói những câu ấy là có ý gì? Tại sao dòng máu của ông ta lại sạch hơn của tôi? Nhưng cái đó cũng chẳng sao. Tòi im lặng nghe ông ta nói. Ca-chi-a đứng bên cạnh tường vươn thẳng người.

    - ... Nó còn vác mặt đến cái nhà mà tôi đã ném nó ra như quẳng con rắn độc. Số phận tôi là thế đấy, trời ơi! Tôi đã hiến dâng cho bà ấy tất cả đời mình, tôi đã làm cho bà ấy tất cả những gì mà sức con người có thể làm được cho người mình yêu. Nhưng bà ấy đã chết vì cái con rắn đê tiện nhục nhã này, vì nó đã nói với bà ấy rằng tôi đã lừa dối bà ấy, rằng tôi đã giết chồng bà ấy, giết người em trai mình. Nhưng thực ra không phải là tôi.

    Tôi hết sức ngạc nhiên vì ông ta đã nói được say sưa như vậy, nói đến quên hết cả mình.Tôi cảm thấy mặt tôi tái đi. Nhưng chẳng sao! Tôi biết cách trả lời ông ta.

    - Thưa thầy, - tôi nói, cố gắng không xúc động nhưng cũng nhận thấy cái lưỡi không chịu nghe lời tôi. - Tôi sẽ không trả lời thầy những tính từ của thầy, bỏi vì tôi biết tâm trạng thầy lúc này như thế nào. Đúng là thầy đã đuổi tôi ra, nhưng tôi lại đến và sẽ còn đến, chừng nào tôi còn chưa chứng minh được rằng chuyện bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na uống thuốc độc hoàn toàn không phải do lỗi của tôi. Nếu có người nào đó có lỗi thì dù sao cũng không phải là tôi mà là một người khác. Sự thực là thầy có giữ một số thư của cố thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp, thầy dùng những bức thư này để làm cho thầy Cô-ra-bò-li-ốp tin, và nói chung làm cho mọi người tin là tôi đã vu khống thầy. Tôi đề nghị thầy cho tôi xem những bức thư đó, để cho mọi người có thể tin rằng tôi đúng là con rắn đê tiện như thầy vừa nói.

    Những câu nói này gây nên tiếng ồn ào rất lớn. Ba bà cụ nhà Bu-ben-tri-cốp vẫn không rõ xảy ra chuyện gì, tranh nhau hét lên:

    - Nó là ai?

    Nhưng chẳng có ai giải thích cho các cụ ấy nghe tôi là ai nên các cụ càng quát to hơn. Cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na cũng quát tôi để tôi đi ra. Chỉ có Ca-chi-a là không nói một lời. Cô đứng ở cạnh tường, lúc thì nhìn Ni-cô-lai An-tô-nớt, lúc thì nhìn tôi.

    Bỗng tự nhiên mọi người đều im bặt... Ni-cô-lai An-tô-nứt đẩy bà cụ ra và đi về phòng mình. Sau một phút ông ta quay lại trong tay cầm một đống thư. Không phải hai ba cái mà là cả một đống, bốn mươi cái. Tôi không cho rằng tất cả đây đều là thư của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp. Nói cho đúng thì đây là những bức thư khác nhau của những người khác nhau - những thư từ hoặc tài liệu có liên quan đến đội thám hiểm, Ông ta ném những bức thư ấy vào mặt tôi rồi nhổ vào mặt tôi một cái và ngã xuống chiếc ghế bành. Các cụ bà lao về phía ông ta.

    Giả sử bãi nước bọt đó mà vào mặt tôi thật thì rất có thể tôi đã đánh ông ta, thậm chí có thể đánh chết ông ta - xưa nay chưa ai dám nhổ vào mặt tôi, tôi có thể bất chấp những qui tắc rèn luyện ý chí của mình. Nhưng ông ta không nhổ trúng, và thư cũng không ném tới.

    Dĩ nhiên tôi không bao giờ lại đi nhặt nhũng bức thư ấy, mặc dù có một tích tắc tôi đã toan nhặt một bức thư có gắn xi rất dày và đề chữ “Xanh Ma-ri”. Nhưng tôi đã không nhặt chúng. Đây là lần cuối cùng tôi đến nhà này. Ca-chi-a nghiến răng, tay ôm ngực đứng giữa chúng tôi, cạnh chiếc ghế bành ông ta đang nằm. Tôi nhìn cô, - nhìn thẳng vào mắt cô, bởi vì đây là lần cuối cùng tôi nhìn cô.

    - Thôi được, - tôi nói. - Tôi sẽ không đọc những bức thư này nữa. những bức thư mà ông đã ném vào mặt tôi. Tôi sẽ làm cách khác. Tôi sẽ đi tìm đội thám hiểm, tôi không tin rằng đội thám hiểm mất tích không còn dấu vết gì, đến lúc đó chúng ta sẽ xem hai chúng ta ai là người đúng.

    Tôi còn định chào từ biệt Ca-chi-a và nói cho cô ta biết rằng tôi không bao giờ quên việc cô đã quay mặt đi không thèm nhìn tôi hôm đưa đám mẹ cô. Nhưng lúc đó Ni-cô-lai An-tô-nứt bỗng đứng lên khỏi ghế bành, thế là lại gây nên một cảnh ầm ĩ đáng sợ. Các bà cụ nhà Bu-ben-tri-cốp nhảy bổ vào tôi và cầm cái gì đó đánh vào lưng tôi rất đau. Tôi xua tay và đi ra. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 4/6/15
  16. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 25

    Cuộc hẹn hò cuối cùng

    Tôi chưa bao giờ đơn độc như thế. Tôi càng ra sức vùi đầu vào sách vở. Hình như tôi hoàn toàn mất hết sức suy nghĩ. Càng tốt. Chẳng nghĩ ngợi gì càng hay.

    Tôi bỗng nghĩ đến chuyện có thể mình không được nhận vào Trường Hàng không vì điều kiện sức khỏe. Thế là tôi lao vào tập thể dục, tập nhảy các kiểu, tập đứng thăng bằng, tập uốn cầu vồng, trồng chuối ngược. Sáng nào tôi cũng xoa bóp bắp thịt, thử lại hàm răng. Điều làm cho tôi lo ngại nhất là cái chiều cao chết tiệt. Tôi cảm thấy hình như do những sự buồn phiền nhiều mà gần đây tôi lại đâm ra lùn đi.

    Nhưng đến cuối tháng ba tôi vẫn chuẩn bị đầy đủ hồ sơ gửi cho Hội viện trợ xây dựng Ngành Hóa học hàng không Liên Xô. Kèm theo hồ sơ tôi có gửi một bản yêu cầu cho tôi được vào học Trường Lý luận hàng không ở Lê-nin-grát.

    Có lẽ cũng chẳng cần phải giải thích lý do tại sao tôi lại muốn rời khỏi Mát-xcơ-va.

    Pê-chi-a cũng chuẩn bị đi Lê-nin-grát. Nó quyết định dứt khoát thi vào Học viện Mỹ thuật. Cô Xa-nhi-a cũng có mục đích như vậy.

    Khi tôi nặn nhũng con ngựa của nam tước Cơ-lốt, những khái niệm của tôi về thành phố Lê-nin-grát là gắn liền với những con ngựa kỳ diệu này ở trên cầu. Tôi mường tượng rằng ở Lê-nin-grát cứ mỗi bước đi là có một bức tượng, mỗi bước đi là một tòa nhà bằng đá cẩm thạch. Pê-chi-a khuyên tôi đọc cuốn “Người Kỵ sĩ bằng đồng”, thê là tôi lại càng khao khát muốn đến cái thành phố tuyệt vời ấy. Nhưng tất nhiên người ta có thể giữ tôi ở lại Mát-xcơ-va mà cũng có thể đưa tôi về Xê-bát-xtô-pôn.

    Trong dịp nghỉ xuân tôi và Pê-chi-a đi về En-xcơ và chúng tôi vẫn lậu vé, bởi vì chúng tôi muốn chuẩn bị một ít tiền để sử dụng “sau khi ra trường”.

    Nhưng chuyến đi này lại khác hẳn và trong nửa năm qua bản thân tôi cũng đã trở thành một con người khác. Nhìn thấy tôi dì Đa-sa phải kêu lên, ông chánh án thì tuyên bố rằng với cái bộ dạng này thì phải đưa ra tòa và ông còn nói “sẽ dùng mọi biện pháp để điều tra xem nguyên nhân tại sao “bị cáo” lại hoảng loạn về tinh thần như vậy.”

    Nhưng “bị cáo” chẳng nói gì cho ông biết về nguyên nhân này. Bị cáo rất buồn, đi đi lại lại trong vườn Nhà thờ và trên hành lang có lan can sắt bên bờ sông. Cũng tại nơi này cách đây không lâu “bị cáo” đã chỉ cho “nguyên cáo” - một cô gái tóc tết đuôi sam, đội mũ nỉ nhung màu xám nhưng không buông cái bịt tai xuống, - xem chỗ đó.

    Tôi chỉ nói cho mình Pê-chi-a biết, nhưng cũng rất vắn tắt, về cuộc nói chuyện của tôi với thầy Cô-ra-bơ-li-ốp và việc Ni-cô-lai An-tô-nứt đã tiếp tôi như thế nào. Nhưng Pê-chi-a lại nhìn vấn để này ở một góc độ thật là không ngờ. Nó nghe tôi kể xong bèn nói với vẻ cổ vũ:

    - Hãy nghe mình nói này, ngộ nhỡ bỗng nhiên cậu tìm được thì sao?

    - Tìm thấy cái gì?

    - Đội thám hiểm.

    “Bỗng nhiên tôi tìm được”, - tôi nghĩ thầm.

    Hình như có những con kiến nhỏ bò trên mặt tôi, tôi cảm thấy vừa vui mừng, vừa sợ hãi. “Bỗng nhiên tôi tìm được”. Y như trong thời kỳ thơ ấu xa xôi, một bức tranh mờ ảo lại hiện lên trước mắt tôi: những lều trắng xóa đựng trên tuyết. Một người khổng lồ chân đi ủng da lông đi ngược chiều xe trượt tuyết, và tôi cũng đi ủng da lông, đội chiếc mũ da rất to. mồm ngậm tẩu đứng ở cửa lều.

    Cần phải nói cử chỉ của Pê-chi-a ở En-xcơ rất kỳ quặc, Lúc nào nó cũng cảm thấy phấn khởi. Chả trách bữa ăn trưa nào ông chảnh án cũng nháy mắt ra hiệu cho tôi rồi lái câu chuyện sang vấn đề cái lợi của việc cưới sớm. Lúc đó Xa-nhi-a thẹn đỏ mặt lên, còn Pê-chi-a thì cứ thẫn thờ nghe nói chuyện và ăn lấy ăn để... Thấy điệu bộ nó như thế, tôi liên hệ, có lẽ những ngày nghỉ đông vừa qua tôi cũng như vậy: ăn rất nhiều và những điều người ta nói về mình thì hiểu ra rất chậm. Nhưng giò đây tôi cảm thấy việc đó của họ cũng chẳng có gì là không bình thường.

    Ở En-xcơ lúc nào tôi cũng nghĩ đến Ca-chi-a. Trong đống sách của Xa-nhi-a tôi tìm thấy cuốn “Ruồi Trâu”. Tôi đọc cuốn tiểu thuyết ưu tú ấy phát hiện ra rằng cuộc đời của Ruồi Trâu rất giống với tôi. Cũng như Ruồi Trâu, giờ đây tôi cũng đang bị miệt thị, người yêu của anh ta đã rời bỏ anh ta và người yêu của tôi cũng đã rời bỏ tôi. Tôi tưởng tượng rằng sau mười bốn năm chúng tôi gặp lại nhau và lúc đó cô không nhận ra tôi nữa. Tôi cũng sẽ làm như Ruồi Trâu, chỉ vào tấm ảnh của mình và hỏi:

    - Tôi có thể mạo muội xin hỏi đây là ai được không?

    - Đây là tấm ảnh người bạn thời thơ ấu mà tôi đã có lần nói chuyện với anh.

    - Người mà chị giết?

    Cô ta rùng mình và nhận ra tôi. Thế là tôi ném ra trước mặt cô tất cả những chứng cớ chứng minh rằng tôi đã đúng, rồi cự tuyệt cô. Nhưng cuộc gặp gỡ như vậy ít hy vọng lắm! Trong thâm tâm tôi rất tin là tôi đúng. Nhưng đôi khi trong lòng cũng thấy lành lạnh, nhất là khí nghĩ đến cái ông “Phôn” đáng nguyền rủa nào đó. Trước khi về En-xcơ không lâu, thầy Cô-ra-bơ-li-ốp có nói với tôi rằng Ni-cô-lai An-tô-nứt đã cho ông xem thư thuyền trưởng Ta-ta-ri-nôp ủy nhiệm cho Ni-cô-lai I-va-nứt Phôn Vư-si-mia-xki giải quyết công việc của đội thám hiểm.

    - Anh sai rồi, - ông nói ngắn và tàn nhẫn...

    Tôi trở lại Mát-xcơ-va một mình. Pê-chi-a bị cảm nên ở lại En-xcơ thêm vài hôm nũa. Tôi có cảm giác rằng Pê-chi-a đã cố tình bị cảm. Vì dù sao thì nó cũng rất hài lòng về trận ốm này.

    Hồi ở En-xcơ tôi rất buồn. Tôi cho rằng hình như cứ về đến Mát-xcơ-va, cầm lấy sách vở là sẽ không còn thì giờ để mà buồn bực nữa. Thế mà vẫn buồn. Bực bội và âm thầm, tôi lang thang suốt ngày trong trường...

    Chính trong những ngày này, tôi đã đánh nhau với con bé - Mát-tu nô-va cùng lớp. Tôi đã đánh cho nó một cái bạt tai về tội ăn cắp. Nó đã lấy của Ta-ni-a Ve-lích-cô cái bút máy, sau đó lại định đổ vấy cho Van-ca, - nhưng phần nào cũng là vì nó là trẻ con.

    Ngày hôm sau tôi bị gọi lên văn phòng Chi đoàn Thanh niên Cộng sản và bị hỏi về chuyện xảy ra. Giữa chúng tôi và các học sinh gái có quan hệ đồng chí, thế mà lại đi đánh nhau với họ, nhất là lại ở năm cuối, việc đó dù sao cũng chẳng hay ho gì. Tôi nói Mác-tư-nô-va là đứa đê tiện, còn nó là con gái hay gì chẳng đáng kể. Nếu tôi bạt tai một đứa con trai thì Chi đoàn có gọi tôi lên không?

    Các bạn suy nghĩ và đồng ý là sẽ không.

    Có một lần, tôi ở đâu đó về nhà, đến cổng trường, tôi thấy trên mặt bàn, chỗ nhân viên bưu điện trường để thư từ của tất cả chúng tôi, có một bức thư mật, gửi: “A. Gri-gô-ri-ép. Lớp Chín”.

    Tôi bóc thư:

    “Xa-nhi-a, mình muốn nói chuyên với cậu. Nếu cậu không bận thì bảy giờ rưỡi hôm nay đến vườn hoa phố Tri-um-phan-nai-a”.

    Nghĩ lại mà thấy nực cười, tôi vừa xem xong bức thư, hình như mọi vật bỗng thay đổi hết. Khi tôi gặp Li-khô ở cầu thang, tôi chào hỏi tử tế, bữa ăn trưa, tôi cho Van-ca tất cả xuất chè của tôi, thậm chí đến Mác-tư-nô-va cũng không làm tôi thấy nó là đê tiện, không nên bạt tai nó, chưa kể nó lại là con gái.

    Đã sáu giờ. Sáu giờ rưỡi. Bảy giờ... Đúng bảy giờ tôi đã có mặt ở vườn hoa. Bảy giờ mười lăm. Bảy giờ rưỡi. Trời tối dần. Nhưng đèn đường chưa bật. Đủ các loại ý nghĩ rất buồn cười cứ quay cuồng trong đầu óc tôi: “Nếu đèn đường không bật, tôi sẽ không nhận ra cô ta... Nếu có đèn sáng mà cô ta không đến... Không có đèn sáng, cô ta cũng không nhận ra tôi...”

    Đèn tường bật sáng, trước mắt tôi là vườn hoa quen thuộc. Tôi và Pê-chi-a đã từng dự định đến đây bán thuốc lá. Vào những ngày xuân tôi đã đến đây có tôi hàng nghìn lần để học bài. Một vườn hoa ồn ào, chỉ có thanh niên mười bảy tuổi mới có thể học thuộc bài ở đây. Đây là một vườn hoa cũ kỹ. Tất cả trường chúng tôi và học sinh hai trường 143 và 28 thường đến đây để gặp nhau, - vườn hoa này hình như đang dần dần đổi mới, biến thành một rạp hát. Giờ đây chúng tôi sắp gặp nhau. Kìa cô đã đến!

    Chúng tôi chào hỏi nhau rồi im lặng. Hôm đó là ngày mồng hai tháng Tư. Trời rất ấm. Nhưng bất thình lình lại mưa tuyết. Hình như ông trời cố tình để cho tôi suốt đời ghi nhớ lấy cái ngày hôm ấy.

    - Ca-chi-a! Mình rất vui vì cậu đã đến, Mình cũng muốn nói chuyện với cậu từ lâu. Hôm đó ở nhà cậu mình không thể nói được câu nào bởi vì Ni-cô-lai An-tô-nứt cứ hét toáng lên chẳng còn giải thích được gì nữa. Tất nhiên, nếu cậu tin ông ta...

    Tôi sợ phải nói hết câu này, bởi vì nếu cô tin ở lão ta thật thì tôi phải đi khỏi cái vườn hoa này. Tại đây chúng tôi đang ngồi nghiêm nghị, mặt trắng bệch, chuyện trò với nhau, không ai nhìn ai. Tại đây hình như ngoài hai chúng tôi ra không còn một ai nữa, mặc dù trên mỗi chiếc ghế dài đều có người ngồi và cả người coi vườn bé nhỏ, cáu kỉnh đi đi lại lại trên con đường hẹp.

    - Ta đừng nói đến chuyện ấy nữa.

    - Ca-chi-a, mình không thể không nói chuyện ấy. Nói tóm lại, nếu cậu tin lão ta thì chúng mình sẽ không có gì để nói nữa.

    Cô ta nhìn tôi. buồn bã và hoàn toàn như một người đứng tuổi, trông cô già dặn và thông minh hơn tôi nhiều.

    - Lão nói rằng lỗi là do mình cả.

    - Do cậu à?

    - Lão nói rằng mình là người đầu tiên tin vào cái ý nghĩ trái tự nhiên này, cho rằng trong thư ba là nói về lao, - như vậy có nghĩa là tất cả là lỗi của mình.

    Tôi nhớ có một lần, thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói với bà Ma-ri-a Vi-xi-li-ép-na về lão như sau: “Em hãy nghe anh, đó là một con người đáng sợ”. Tôi nhớ lại trong thư thuyền trưởng đã viết về lão như sau: “Anh cầu xin em đừng tin ở con người ấy”. Và bây giờ con người ấy lại buộc Ca-chi-a phải tin là tất cả mọi cái đều là lỗi tại cô ta, rằng chính cô ta đã giết mẹ, chính cô ta đã tước mất nguồn hạnh phúc duy nhất của lão trên trái đất này. Cho nên cô ta có tội với lão, và lão còn làm cho cô ta tin rằng chỉ có một mình lão biết, sau khi cô ta phạm tội lỗi này cô phải sắp xếp cuộc sống của mình như thế nào... Tôi nghĩ đến những điều đó mà cảm thấy lạnh toát cả người. Tất cả những cái đó đều diễn ra dần dần, ngày này qua ngày khác. Những câu dài dòng, quanh co làm cho người ta nghe thấy mà chóng mặt.

    Tôi giãy giụa trong thất vọng và kinh hãi.

    - Giờ đây lão còn có thể nói được mười lăm năm nữa, rằng cậu có lỗi, và cậu cuối cùng sẽ tin lão như bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na đã tin. Chả lẽ cậu không hiểu thế nào là nắm đằng chuôi? Nếu cậu nhận là có lỗi, lão sẽ có toàn quyền đối với cậu và cậu sẽ phải làm tất cả những cái gì mà lão muốn.

    - Mình sẽ đi.

    - Đi đâu?

    - Mình còn chưa biết. Mình quyết định gửi hồ sơ xin vào Đội thăm dò Địa chất. Sau khi tốt nghiệp mình sẽ đi.

    - Lúc đó thì cậu chẳng đi đâu được nữa. Bây giờ có lẽ cậu còn có thể đi được, chứ sau bốn năm... Mình bảo đảm với cậu là cậu sẽ chẳng đi đâu được hết... Lão sẽ làm cho cậu chán tai. Bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na chả đã tin lão là người từ thiện và cao thượng đó sao? Và điều chủ yếu nhất là bà đã chịu ơn lão về tất cả những sự quan tâm săn sóc. Tại sao lão lại quấn lấy cậu! Lão chẳng đã nói tất cả đều là lỗi tại mình đó sao.

    - Lão nói cậu chỉ là một tên giết người.

    - Được!

    - Lão nói có đem cậu ra bắn chết, lão cũng chẳng làm sao.

    - Được. Mọi người đều sai, trừ lão. Còn mình thì nói với cậu rằng lão ta là thằng đểu. Cứ nghĩ đến mà rùng mình, sao trên trái đất này lại có những con người như vậy.

    - Thôi đừng nói đến chuyện đó nữa...

    - Được. Thế bây giờ cậu nói xem: cậu tin những gì trong cái mớ nhảm nhí ấy?

    Ca-chi-a im lặng hồi lâu. Tôi lại ngồi xuống cạnh cô. Tôi rất sợ, nhưng tôi vẫn nắm lấy tay cô, cô không tránh ra, cũng không rụt tay lại.

    - Mình tin rằng cậu không cố ý nói đó là Ni-cô-lai An-tô-nứt. Mặc dầu cậu đã nghĩ rằng đó chính là lão ta.

    - Và bây giờ mình vẫn nghĩ như vậy.

    - Nhưng cậu không nên khuyên mình phải tin, càng không nên khuyên mẹ.

    - Nhưng đó là lão...

    Ca-chi-a nhích người ra xa một tí, định co tay lại.

    - Thôi đừng nói đến chuyện đó nữa.

    - Thôi được, không nói nữa. Thế nào cũng có một ngày mình sẽ chứng minh được đó là lão, dù cho vì việc này mình có phải phí cả đời người.

    - Không phải lão đâu. Nếu cậu không muốn mình đi khỏi nơi đây, thì chúng ta sẽ không nói đến vấn đề này nũa.

    - Thôi được, sẽ không nói nữa...

    Và chúng tôi không nói đến chuyện này nữa thật. Cô ta hỏi tôi về những ngày nghỉ xuân, hỏi tôi đã sống ở En-xcơ như thế nào, sức khỏe của Xa-nhi-a và các cụ nhà ra sao. Tôi chuyển tới cô lời thăm hỏi của Xa-nhi-a và các cụ nhà. Nhưng tôi không hề nói tí gì về việc tôi rất buồn vì váng cô trong những ngày ở En- xcơ, đặc biệt là những lúc tôi đi lủi thủi một mình ở những nơi hai chúng tôi đã cùng đi qua. Tôi không kể cho cô nghe Pê-chi-a ăn rất nhiều và rất là phấn khởi, cũng không nói cho cô biết quan hệ của họ cũng chẳng có gì là phi thường. Tôi không biết giờ đây cô có yêu tôi nữa hay là không mà về điểm này thì không thể hỏi được, mặc dù lúc nào tôi cũng rất muốn hỏi. Hiện nay khi chúng tôi mặt tái đi, ngồi nghiêm túc nói chuyện với nhau, khi Ca-chi-a giống mẹ như đúc thế này thì ngay đến cái chữ ấy cũng không được nói ra. Tôi chỉ hồi tưởng lại lần trước khi chúng tôi từ En-xcơ trở về và lấy ngón tay viết lên kính cửa sổ đóng băng như thế nào, bên ngoài cửa sổ toa xe bỗng hiện ra cánh đồng tối om, phủ đầy tuyết như thê nào. Từ đó đến nay tất cả đều đã thay đổi. Giờ đây chúng tôi không thể đối xử với nhau như trước kia được nữa. Nhưng tôi rất muốn biết hiện nay cô ta có yêu tôi không hay là sẽ không bao giờ yêu tôi nữa.

    - Ca-chi-a, - tôi đột nhiên nói. - Cậu còn yêu mình không?

    Cô rùng mình và nhìn tôi sửng sốt. Sau đó cô đỏ mặt lên và ôm lấy tôi. Cô ôm lấy tôi và chúng tôi nhắm mắt lại hôn nhau, hay ít nhất cũng là tôi nhắm mắt, nhưng có lẽ cô cũng thế, bởi vì sau đó chúng tôi cùng đồng thời mở mắt ra. Chúng tôi hôn nhau trong vườn hoa ở phố Tri-um-phan-nai-a ở giữa thành phố Mát- xcơ-va. Cả ba trường - trường tôi, trường số 143 và trường số 28 đều có thể nhìn thấy chúng tôi ở trong vườn hoa này. Nhưng đó là một cái hôn cay đắng. Đó là một cái hôn vĩnh biệt. Mặc dù lúc chia tay chúng tôi có hẹn nhau một cuộc gặp gỡ mới, nhưng tôi cảm thấy cái hôn này là cái hôn vĩnh biệt.

    Đấy tại sao khi Ca-chi-a ra về rồi, tôi ở lại trong vườn và đi đi lại lại mãi trên con đường nhỏ, lòng buồn rười rượi. Tôi ngồi xuống ghế dài này, đứng dậy đi rồi lại quay lại. Tôi bỏ mũ ra, đầu tôi nóng như lửa cháy, tim tôi đau thắt lại. Tôi không nỡ ra đi...

    Khi tôi về đến nhà, trên mặt bàn bên cạnh giường tôi có một phong bì to tướng, trên phong bì có con dấu của Hội viện trợ xây dựng Ngành hóa học Hàng không quốc phòng Liên-xô. Trên phong bì cũng có hàng chữ họ, tên và tên đệm của tôi. Lần đầu tiên trong đời tôi được người ta gọi cả tên cùng tên đệm. Tay run run tôi xé phong bì. Hội viện trợ xây dựng Ngành hóa học Hàng không quốc phòng báo cho tôi biết rằng hồ sơ cửa tôi hợp lệ và đã được chấp nhận. Đến ngày mồng hai tháng Năm tôi phải có mặt ở ban у tế để dự kiểm tra vào Trường Hàng không. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 4/6/15
  17. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Phần thứ tư

    MIỀN BẠC

    Chương 1

    Trường Hàng không

    Mùa hè năm 1928. Tay cầm cái bọc nhỏ, tôi xuất hiện trên đường phố Lê-nin-grát. Trong bọc có những “khoản trợ cấp ra trường”. Học sinh ở trại trẻ sau khi tốt nghiệp đểu được lĩnh “khoản trợ cấp ra trường” gồm có: một cái thìa, một cái ca, hai bộ quần áo lót và “những đồ dùng cần thiết cho nơi ngủ đầu tiên ". Tôi và Pê-chi-a sống ở nhà Xê-ma Ghin-buốc, một học sinh cũ của trường tôi, hiện đang làm thợ nguội ở nhà máy điện. Bà mẹ Xê-ma rất sợ tay quản lý nhà cửa, do đó mỗi buổi sáng tôi lại xách “tất cả đồ dùng cần thiết cho nơi ngủ đầu tiên” đi, đến tối lại đem về, làm ra vẻ như vừa mới đến. Chúng tôi ăn cơm ở nhà tập thể. Cứ vào ngày chẵn, chúng tôi mua món ăn thứ nhất hết mười lăm cô-pếch, vào ngày lẻ, mua món ăn thứ hai hết hai mươi cô-pếch. Chúng tôi thường đi dạo dọc theo bờ sông Nê-va mênh mông trong cái thành phố rộng lớn bao la. Pê-chi-a cảm thấy ở Lê-nin-grát như ở nhà, nó kể cho tôi nghe truyện “Người kỵ sĩ bằng đồng”. Nhưng tâm tư tôi lại nghĩ đến vấn đề: “không biết có thi được vào hay không?”

    Phải qua ba ban kiểm tra: ban kiểm tra về thể lực, ban kiểm tra về tư cách, ban kiểm tra về học lực. Tim, phổi, tai, rồi lại tim! Tên tôi là gì? Đẻ ở đâu? Học ở đâu? Tại sao lại muốn trở thành phi công?

    Có thật tôi đã mười chín tuổi không? Tôi có khai man, tăng tuổi không, nhìn bề ngoài hình như còn hơi trẻ! Tại sao người ký tên trong giấy giới thiệu của ủy ban quận cũng là Gri-gô-ri-ép, người đó là ai, là anh hay là người trùng họ?

    Cuối cùng, ngày quyết định cũng đã đến! Tôi đứng trước Viện bảo tàng Hàng không; chúng tôi sẽ vào thi ở đây. Đó là một tòa nhà lớn trên đại lộ Rô-sa-li, trước mặt có những con sư tử bằng đá. Pê-chi-a nói rằng trong cuốn “Người kỵ sĩ bằng đồng” có viết về những con sư tử này và hình như Ép-ghê-ni đã cưỡi con sư tử này mà thoát nạn thủy tai, nhưng cho đến giờ tôi cũng chẳng biết chuyện này có thực hay không. Giờ đây tôi cũng chẳng nghĩ đến Pu-skin nữa. Những con sư tử nhìn tôi với điệu bộ như giờ đây chúng cũng đang hỏi: tên tôi là gì, tôi sinh ra ở đâu và tôi có đúng mười chín tuổi không? '

    Nhưng giờ phút đáng sợ thật sự là lúc tôi buớc lên tầng hai, đi tìm trong cái bảng có khung kính lờ mờ danh sách những người được tuyển vào trường hàng không.

    Tôi đọc: “Vla-xôp. Vô-rô-nõp. Gô-lôm-bơ, Gríp-côp, Đê-ni-xi- ắc...” Mắt tôi tôì sầm lại: không có tên tôi, Tôi đọc lại một lượt nữa: “Vla-xôp, Vô-rô-nốp, Gô-lôm-bd, Gríp-côp, Đê-ni-xi-ắc”. Không có tôi! Tôi lấy sức thở một hơi thật dài để có thể bình tĩnh mà đọc cho hết bản danh sách: “Vla-xốp, Vô-rô-nốp, Gô-lôm-bơ, Gríp-cốp, Đê-ni-xí-ắc”. Tôi nhìn bản danh sách, trong đó hình như có tất cả mọi tên trên thế giới, chỉ trừ có tên tôi. Bất giác tôi cảm thấy đau khổ như khi người ta không muốn sống nữa.

    Tôi trở về nhà dưói trời mưa như trút nước. “Vla-xôp, Vô-rô- nốp, Gô-lôm-bơ...” sướng thật!

    Khi tôi nhẩm những tên này thi crước mắt tôi hiện lên một ông Va-xcô Nu-nhi-ôt Ban-boa nào đó, người to lớn, vai rộng, mặt thô. Tất nhiên thôi! Tôi vào làm sao được! Cái chiều cao chết tiệt ấy!

    Pê-chi-a ra mở cửa cho tôi. Thấy tôi người ướt đẫm, mặt trắng bệch, nó giật mình:

    - Cậu làm sao thế?

    Pê-chi-a, mình không có tên trong danh sách.

    - Nói láo!

    Mẹ Xê-ma chạy như bay xuống bếp và hỏi tôi có gặp ông quản lý không. Tôi im lặng. Tôi ngồi trên chiếc ghế ở trong bếp, còn Pê-chi-a thì cúi đầu, buồn rầu đứng trước mặt tôi.

    Sáng sớm hôm sau, hai chúng tôi lại đến Viện bảo tàng Hàng không và đã tìm thấy tên tôi trong danh sách. Thì ra nó ở cột khác, ở cột này cũng còn có mấy tên vần “G” nữa, và ngay họ Gri-gô-ri-ép cũng có hai người, một người là I-van, một người là A-lếch-xan-đrơ. Pê-chi-a cho rằng hôm qua tôi không tìm ra vì hồi hộp quá.

    Thời gian trôi như nuớc chảy và thế là tôi lại xuất hiện trong phòng đọc cũng của cái Viện bảo tàng Hàng không ấy mà tôi đã vào thi. Mười ba người đã qua các ban kiểm tra tư cách và thể lực được chọn ra đứng xếp thành hàng. Vị hiệu trưởng, người cao lớn, tóc nâu, tính tình vui vẻ đi đến và nói:

    - Chú ý, các đồng chí học viên phi công!

    Các đồng chí học viên phi công. Tôi là học viên phi công! Lưng tôi buồn buồn như có kiến bò, cứ như người bỏ tôi vào nước nóng rồi sau đó lại nhúng tôi vào nước lạnh. Tôi là học viên phi công! Tôi sẽ bay! Tôi không nghe rõ hiệu trưởng nói những gì nữa...

    Thì giờ trôi như bay. Chúng tôi từ nhà máy đến thẳng giảng đường. Xê-ma Ghin-buốc bố trí cho tôi làm phụ thợ nguội ở nhà máy điện.

    Hàng ngày chúng tôi nghe giảng về cấu tạo về nguyên lý hàng không, về động cơ. Sau tám giờ ỉàm việc ở nhà máy rất buồn ngủ, chúng tôi phải nghe về cấu tạo, về nguyên lý hàng không rồi sau đó về động cơ, chỉ có chốc chốc Mi-sa Gô-lôm-bơ, người cũng bé nhỏ như tôi, ngồi dựa vào lưng tôi ngủ ngáy khò khò. Càng về sau nó ngáy càng to, thế là tôi phải khẽ ấn đầu nó xuống mặt bàn...

    Tuy nói là chúng tôi học ở Trường Hàng không, nhưng Trường Hàng không hồi đó so làm sao được với Trường Hàng không bây giờ! Chúng tôi vừa không có máy nổ, cũng chẳng có máy bay, không có thiết bị, cũng chẳng có tiền, Kể ra ở trong Viện bảo tàng Hàng không cũng có để vài cái máy bay cổ lỗ sĩ, mất mát đủ thứ. Nếu bạn thích thì cứ tưởng tượng mình như một phi công lái chiếc máy bay trinh sát “Ha-vê-lan”, hay phi công của máy bay tiêm kích “Niu-pua” đã bay lần cuối cùng trên các mặt trận trong nội chiến cũng được Nhưng không thể nào học bay trên các “quan tài” rực chiến công này.

    Chúng tôi đi nhặt nhạnh những máy phát động. Căn cứ vào một tờ ủy nhiệm đường hoàng của Hội viện trợ xây dựng Ngành Hóa học Hàng không quốc phòng, chúng tôi có toàn quyền lấy đi bất cứ bộ phận nào của máy bay ở trên tường bất kỳ nhà ai. Chúng tôi đi đến tất cả các “góc đỏ” ở trong thành phố Lê-nin- grát. Cũng có khi những bộ phận máy bay đó lại không treo ở trên tường của góc đỏ mà lại ở một chỗ nào khác trên mặt bàn của viên kế toán, một người yêu Ngành Hàng không ở trong Uỷ ban quản lý nhà đất. Chúng tôi đi thu nhặt những thứ đó rồi chuyển về sân bay. Đôi khi việc này rất thuận lợi, đôi khi cũng gây tai tiếng. Tôi và đồng chí kỹ thuật phải đến câu lạc bộ công nhân ngành may ba lần, phải giải thích rất lâu cho ông chủ nhiệm câu lạc bộ biết là cái máy phát động cũ để ở ngoài hành lang của họ chẳng có ý nghĩa tuyên truyền gì.

    Khi những bộ phận cũ, nát, han gỉ ấy về đến tay chúng tôi, chúng tôi phải bỏ ra rất nhiều công sức. Chúng tôi lau đi chùi lại, đánh đi đánh lại. Nửa năm đầu, công tác của chúng tôi hình như chỉ có đánh, chùi và đi thu nhặt máy phát động. Bọn chúng tôi hầu hết làm công nhân nguội và lái xe, cho nên công việc này đối với tôi có khó khăn hơn những người khác. Nhưng tôi cố ý chọn lấy việc khó khăn nhất. Suốt đời tôi sẽ không bao giờ quên cái cánh trái của chiếc máy bay iCY - 1 chúng tôi dùng để học bay. Đó là chỗ bẩn nhất trong máy bay. Dầu từ động cơ chảy ra cánh trái và tôi đã đánh cuộc với một người là tôi sẽ lau chỗ ấy hàng ngày cho đến khi nào tốt nghiệp mới thôi. Tôi nằm ngửa, thoạt đầu lấy mảnh gỗ quét sạch chỗ dầu bẩn, sau đó lấy bàn chải chải, sau nữa lấy giẻ lau, nước bẩn chảy xuống đầy nguời, mùi dầu hôi thật là khó chịu...

    Rõ ràng là trông chúng tôi chẳng ra vẻ những người phi công tương lai chút nào cả, nhất là ban đêm khi chúng tôi từ sân bay về nhà, mọi người trên xe điện nhớn nhác tìm xem mùi đó ở đâu và nhìn chúng tôi với vẻ căm phẫn. Nhưng chúng tôi không vì thế mà bực mình. Mi-sa nói:

    - Không biết mùi gì ở đâu khó chịu quá? Phù!

    Và nó cố ý bịt mũi.

    Ngày làm việc của chúng tôi bắt đầu từ lúc chúng tôi thay phiên nhau cắt nghĩa cho Va-ni-a Gríp-cốp nghe thế nào là chân trời. Ở chỗ chúng tôi có Va-ni-a Grip-cốp mà cả trường ai cũng phải giải thích cho nó thế nào là đường chân trời. Sau đó các huấn luyện viên đến và chúng tôi bắt đầu bay.

    Người hướng dẫn tôi là hiệu trưởng của trường kiêm chủ nhiệm cơ vụ và chủ nhiệm sự vụ, cựu phi công trong thời kỳ nội chiến. Ông là một người rất to lớn, tính tình vui vẻ, biết nhiều chuyện kỳ lạ có thể kể hàng giờ không hết, hay nổi khùng nhưng lại rất vô tâm, rất dũng cảm nhưng lại mê tín. Ông hiểu nhiệm vụ hướng dẫn của mình rất giản đơn: tức là mắng tôi và càng lên cao ông càng mắng tợn. Cuối cùng ông không mắng nữa, đó là lần đầu tiên trong nửa năm qua! Đó là điều tuyệt diệu! Tôi bay được khoảng mười phút với tâm trạng tuyệt vời. Hôm nay ông không mắng tôi, vì sao, có lẽ vì tôi lái tuyệt quá! Mặc dầu tiếng động cơ máy bay ầm ầm, nhưng tôi lại cảm thấy hình như tôi đang bay trong yên tĩnh, đó là trạng thái không bình thường!

    Nhưng bỗng tôi hiểu tại sao: thì ra dây điện thoại đứt, ống nghe treo lủng lẳng bên ngoài khoang máy bay, Tôi bắt lấy ống nghe và lập tức nghe thấy câu mắng cuối cùng:

    - Đồ ăn hại! Tốt nhất anh đừng bay nữa mà nên đi làm trên xe vệ sinh thì hơn!

    Khi mắng người thậm tệ nhất, ông thầy của tôi vẫn xưng hô rất lịch sự, một điều “anh” hai điều “anh”.

    Khi tôi hồi tưỏng lại năm đầu tiên sông ở Lê-nin-grát, thì một hình tượng khác lại xuất hiện trước mắt tôi, đó là đồng chí TR, ngày nào cũng đến sân bay Co-rơ-pút-xnưi. Ở đây ông có một việc hơi giản đơn tức là lái chiếc máy bay cũ kỹ, đã bị rơi nhiều lần, đưa hành khách đi chơi. Chúng tôi đều hiểu ông là một người như thế nào. Chúng tôi biết và yêu mến ông trước khi cả nước biết và yêu mến ông nhiều. Chúng tôi đều biết, khi tập bay ở Viện bảo tàng Hàng không, các phi công thường bàn tán về ai. Viện bảo tàng Hàng không hồi đó cũng na ná như câu lạc bộ của chúng ta ngày nay. Chúng tôi biết thầy hiệu trưởng đã bắt chước ai, khi ông nói hơi lắp, giọng trầm bình tĩnh:

    Thế nào, công việc ra sao? Bay được những đường lượn gấp chứ? Nhưng tuyệt đối không được nói dối! Hử!

    Khi ông ta bay những hình kỳ diệu xong trở về sân bay, chúng tôi chạy ùa cả về phía ông. Chúng tôi, những học viên phi hành non trẻ như những cây cỏ vừa nhú khỏi mặt đất, thích những động tác bay điêu luyện đều phục ông sát đất, Còn ông không đeo kính chắn gió, ngồi trong buồng lái nhìn chúng tôi - ông quả là một phi công tuyệt vời, một con đại bàng.

    Bất kỳ đi đâu tôi cũng mang theo cái ống nghe của bác sĩ I-van i-va-nứt đã kỷ niệm cho tôi và tấm ảnh của vị phi công này. Ông tặng tôi tấm ảnh này không phải trong thời gian tôi học bay ở Lê-nin-grát mà là sau đó nhiều năm ở Mát-cơ-va. Ông đã tự tay viết, vào tấm ảnh những chữ “Nếu có thể-hãy làm người giỏi nhất.”. Đó là lời thề của ông...

    Thế là một năm đã trôi qua - một năm gian khổ nhưng tuyệt vời ở Lê-nin-grát. Năm đó thật là gian khổ, bởi vì công việc của chúng tôi vượt quá sức lực của chúng tôi. Mỗi tháng chúng tôi được lĩnh bốn mươi sáu rúp tiền học bổng. Đến bữa thì gặp đâu ăn đấy có khi chẳng được ăn tí gì. Đáng lẽ học bay thì ba phần tư thời gian chúng tôi phải làm việc lau chùi và nhặt nhạnh những động cơ cũ. Nhưng đó cũng là một năm rất đẹp, bởi vì đó là năm chúng tôi có nhiều ưóc mơ, hình như đó là những đường nét vẽ lên cuộc đời tương lai của tôi. Đó là một năm tôi cảm thấy mình đã đem hết sức ra để làm nhũng điều mà tôi mong muốn.

    Mặc dù tôi chẳng còn lấy một phút rỗi rãi, nhưng tôi vàn giữ một quyển đại loại như nhật ký - ghi lại nhũng ý nghĩ và những ấn tượng. Rất đáng tiếc là tôi không giữ được tập ghi ấy. Nhưng tôi còn nhớ trên trang đầu tiên của quyển sổ, tôi đã chép lại đoạn trích của Cơ-la-u-dơ-vít(1)như sau: “Nhảy một bưóc ngắn dễ hơn nhảy bưóc dài nhiều. Song muốn nhảy qua một con hào rộng, chúng ta không thể bắt đầu nhảy nửa bước xuống lòng hào”

    Đó là tư tưởng chủ dạo của tôi trong thời gian ở Lê-nin-grát - vĩnh viễn tiến lên, không nhảy nửa buớc.

    Thời gian trôi như nưóc chảy, chỉ mãi đến ngày cuối tháng Tám năm 1930 nó mới ngừng lại. Ngày hôm đó tôi ngồi bên một cái bàn rất lớn, rất đồ sộ. Đó là một cái bàn lớn ghép từ hàng chực cái bàn đủ các hình dáng cao thấp lại. Những cái cửa sổ rất to. Mái nhà bằng thủy tinh. Đó là phòng chụp ảnh của nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh Be-ren-stanh. Xa-nhi-a, cô em gái của tôi đã thuê cửa ông ta một buồng.

    (1)Cơ-la-u-dơ-vít (1780 - 1831) một vị tướng người Phổ nhà lý luận quân sự của giai cấp tư sản. - N.D.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 3/6/15
  18. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 2

    Đám cưới Xa-nhi-a

    Ngày nghỉ nào tôi cũng đến nhà Xa-nhi-a chơi và tôi phải nói rằng - mặc dù nói về em mình thế này có lẽ thật là kỳ quặc - càng ngày tôi càng mến em tôi. Cô ấy rất vui vẻ, dịu dàng, đồng thời lại rất khéo tay.

    Sau khi vào học ở Học viện Mỹ thuật, cô ấy tìm được một việc làm ở Nhà xuất bản Thiếu nhi. Căn buồng của cô ấy thuê rất đẹp và gia đình nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh cũng chiều chuộng cô hết mực, tất nhiên vì cô cũng có làm cho gia đình nhà này một số việc. Cô thường quan tâm đến mọi công việc của tôi và của Pê- chi-a và thay mặt chúng tôi viết thư về cho các cụ nhà rất đều đặn. Lúc đó công việc của cô ấy ở trường rất nhiều. Mặc dù nét vẽ của cô ấy không được khỏe khoắn và bạo tay như của Pê-chi-a, nhưng những bức họa của cô cũng rất đẹp. Cô thích vẽ tranh nhỏ- ngày nay các nhà họa sĩ của chúng ta hầu như không vẽ kiểu này nữa. Những bức họa của cô rất hiếm, vẫn như thời kỳ còn nhỏ, cô rất thích nói chuyện, khi có vấn đề gì có liên quan đến cô hoặc cô thích thú thì cô nói liến thoắng như súng liên thanh làm cho tôi nghe xong rồi mà chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao cả. Tóm lại cô là một cô em tuyệt vời. Và giờ đây nó sắp lấy chồng.

    Tất nhiên là chẳng khó đoán ra cô ta lấy ai, tuy rằng tối hôm đó trong số các bạn trẻ có mặt ở phòng chụp ảnh của nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh, Pê-chi-a ít giống chú rể nhất. Cậu ta lặng lẽ ngồi bên cạnh một chàng trai mũi nhọn, còn chàng trai này thì luôn luôn công kích cậu ta, cứ như muốn dùng cái mũi nhọn của hắn mà đâm cậu ta vậy. Tôi hỏi thầm Xa-nhi-a, cậu mũi nhọn đó là ai, cô trả lời vẻ kính trọng:

    - I-di-a.

    Nhưng không hiểu sao tôinkhông thích cái anh chàng I-di-a ấy.

    Tóm lại đây là một đám cưới kỳ quặc. Chỉ vì một con bò cái mà các vị khách tranh cãi nhau suốt cả buổi tôi - có thật họa sĩ Phi-líp-pốp đã vẽ con bò cái mất hai năm rưỡi trời hay không. Hình như ông ta chia con bò cái ra làm nhiều mảnh nhỏ, sau đó vẽ riêng từng mảnh một. Tôi định nói rằng đó là một người bệnh hoạn, nhưng lúc đó I-đi-e (ỉí;. kịp thời xây dựng cả một lý thuyết về con bò cái đó, thậm chí còn ghép cho cái mớ lý thuyết đó chữ “chủ nghĩa”. Thế là chẳng có ai chú ý đến cô dâu chú rể cả.

    Tôi đến dự lễ cưới của Xa-nhi-a với cả tấm lòng trân trọng. Cô em ruột đi lấy chồng - dù sao đây cũng không phải là chuyện thường có! Sáng sớm chúng tôi nhận được bức điện dài của ông chánh án và dì Đa-sa gửi cho hai người, một gửi cô dâu chú rể, một gửi cho tôi. Tôi mất cả một tháng trời để lắp cho hai vợ chồng trẻ cái máy thu thanh nhỏ. Nhưng các nhà họa sĩ lại chẳng để ý gì đến nó. Suốt cả buổi tối họ chỉ cãi nhau hoài về con bò cái.

    Nhưng xem ra cô dâu cbú rể cũng rất vui, đặc biệt là Pê-chi-a, cậu ta cứ luôn mồm nói “Thật buồn cuời!” và nhìn ngang nhìn ngửa rất hài lòng. Còn Xa-nhi-a thì rất bận, vì không đủ đĩa, chén nên khách phải ăn làm hai đợt.

    Cô chỉ ngồi xuống được có một lát, mặt đỏ bừng, vẻ mệt mỏi, cô mặc chiếc áo váy có đăng ten, không hiểu sao chiếc áo đó lại gợi cho tôi nhớ đến En-xcơ và dì Đa-sa. Tôi tranh thủ lúc đó đứng lên.

    - Các bạn, chú ý, xin nâng cốc! - I-di-a nói và nhìn tôi với vẻ tò mò.

    Mọi ngưồi im lặng.

    - Các bạn, trước hết, tôi đề nghị cạn chén chúc mừng cô dâu - tôi nói. - Tuy cô là em gái tôi, -nhưng vì các vị khách chẳng ai nghĩ đến chuyện dù sao cũng nên nâng cốc chúc mừng cô dâu, cho nên tôi đành phải chúc vậy.

    Mọi người hét ầm lên “U-ra!” và đứng lên chạm cốc với Xa-nhi-a.

    - Thứ hai, tôi đề nghị cạn chén chúc mừng chú rể, - tôi nói tiếp, - mặc dù đáng lý ra cậu ta phải chúc tôi truớc. Tại sao vậy? Tại vì chính tôi đã chứng minh cho cậu ta là cậu nên làm họa sĩ chứ không nên làm phi công. Có lẽ tôi đã để lộ bí mật của cậu ta, nhưng đó lại là sự thật, cậu ta đã muốn trở thành phi công. Có lần chúng tôi đã tranh luận với nhau về vấn đề này mất cả một ngày. Cậu ta đã khẳng định với tôi rằng cậu ta không thích vẽ. Cậu ta sợ rằng làm nhà họa sĩ cậu ta không phát huy được toàn bộ sức mạnh của tâm hồn mình.

    Mọi người cười vang, tôi gõ cái thìa vào cốc.

    - Tại sao lúc đó tôi lại quyết định cậu ta nên làm họa sĩ? Rất đơn giản: vì cậu ta đã cho tôi xem những bức họa của mình. Tồi có thể chứng thực rằng lúc đó chỉ có một đề tài làm cho cậu ta thích thú, - tôi chỉ vào Xa-nhi-a.

    - Xin lấy danh dự mà nói, anh ây nói dối. - Pê-chi-a lắp bắp.

    - Đề tài này đã được cậu ấy biểu hiện bằng mọi hình thức: ngồi trên thuyền, bên bếp lò, ngồi trên ghế dài cạnh cổng lớn, ngồi trên ghế dài trong vườn hoa, mặc áo bành-tô, không mặc áo bành-tô, mặc áo cánh kiểu U-cren và mặc áo choàng màu xanh. Lúc đó người ta dễ dàng dự đoán được rằng: thứ nhất, một lúc nào đó Pê-chi-a sẽ trở thành nhà họa sĩ; thứ hai, một lúc nào đó chúng ta sẽ được tụ tập bên những chiếc bàn này và sẽ đuợc cạn chén chúc mừng cô dâu, chú rể của chúng ta, do đó bây giờ tôi đề nghị chúng ta cạn chén.

    Tôi chạm cốc với Xa-nhi-a và Pê-chi-anvà uống hết cốc rượu của mình.

    Sau đó mọi người nâng cốc chúc tôi, rồi nâng cốc chúc I-di-a, và như vậy quả là thất sách, bởi vì để đáp lại, I-di-a đã tương ra một tràng dài những lời hóm hỉnh mà chỉ có mình hắn ta cười để chống lại họa sĩ Phi-líp-pốp. Pê-chi-a nghe hắn nói có vẻ hài lòng và luôn mồm nói "Thật buồn cười!”, nhưng sau đó mặt cậu ta bỗng tím lại và nói rằng I-di-a đúng là “anh hùng tầm thường điển hình của hiệp hội các nhà nghệ thuật cách mạng Nga”. Cậu ta suy nghĩ mệt lát rồi nói thêm: “Ngoài ra còn là một anh chàng tầm thường bất tài” nữa.

    Nhưng I-đi-a không tán thành nói hắn là một anh chàng tầm thường bất tài và tôi không biết làm thế nào để kết thúc được cuộc tranh cãi đó, nếu lúc đó không có giáo sư của Xa-nhi-a tới. Ông là người rất đươc tôn kính, có bộ râu đen rất đep. Moi người chạy bổ ra đón ông, thế là cuộc tranh cãi kết thúc.

    Thật tình mà nói, lần đầu tiên trong đời tôi trông thấy một vị giáo sư chân chính. Tôi rất thích ông. Ông uống liền hai cốc và nói với tôi là ngay từ hồi chiến tranh 1914, lúc nào ông cũng muốn trở thành phi công. Ông ôm hôn Xa-nhi-a hơi lâu. Đối với một giáo sư có bộ râu đẹp đáng kính như thế mà hôn như vậy kể cũng hơi lâu. Sau đó ông nằm xuống chiếc đi-văng và ngủ luôn.

    Tóm lại, đám cưới của Xa-nhi-a rất vui vẻ, nhưng trong thâm tâm tôi cảm thấy một nỗi buồn mà tôi không muốn thừa nhận. Tôi vẫn cảm thấyncác nhà họa sĩ có cái gì hơi kỳ. Nhưng cái đó cũng rất dễ hiểu, bởi vì tôi có một lối sống khác với những sở thích khác. Và họ cũng như tôi, cũng nghĩ về tôi như thế. Tôi cảm thấy điều này trong khi tôi phát biểu ý kiến.

    Nhưng còn có một nguyên nhân khác nữa làm cho tôi cảm thấy buồn. Xa-nhi-a đã đoán ra nguyên nhân này. Lúc đó giáo sư đã tỉnh dậy và đang nói rất to rằng ông ta cấm không cho Xa- nhì-a lấy chồng trước khi bảo vệ luận án tốt nghiệp. Mọi người đang vây quanh ông cười vang lên. Xa-nhí-a khẽ vẫy tay gọi tôi và chúng tôi đi xuống bếp.

    - Có người hỏi thăm anh... Anh có biết ai không?

    Tôi hiểu ngay là ai, nhưng tôi bình tĩnh nói:

    - Không biết.

    - Ca-chi-a đấy.

    - Thật không? Cám ơn.

    Xa-nhi-a phật ý nhìn tôi. Cô ấy phật ý đến nỗí tái mặt đi và giận tôi, - tất nhiên cô ấy biết thừa là tôi giả vờ.

    - Anh lúc nào cũng nói dối, - cô nói nhanh. - Cứ định làm Sai-đơ Han-rôna(1) cơ! Không được nói dối em đâu, đặc biệt là ngày hôm nay, ngày cưới của em. Em sẽ viết thư cho chị ấy, viết rằng anh đòi em bức thư suốt ngày, nhưng em không đưa.

    - Tôi chẳng đòi cô cái gì cả.

    - Trong lòng anh đang đòi, - Xa-nhi-a khẳng định, - nhưng bên ngoài thì giả vờ, ra vẻ không cần gì. Tóm lại, em có thể đưa cho anh bức thư này. có điều là trang cuối cùng anh không được xem, đồng ý không?

    Cô ta dúi vào tay tôi bức thư rồi chạy. Tất nhiên là tôi đã đọc hết bức thư, và trang cuối cùng thì đọc những ba lần, bởi vì trong đó viết về tôi. Ca-chi-a không hề nhờ chuyển lời hỏi thăm tôi mà chỉ hỏi sơ sơ về tình hình của tôi và khi nào thì tôi tốt nghiệp. Bề ngoài thì đây là một bức thư bình thường, nhưng thực tế đây là một bức thư rầu rĩ... Ví dụ, trong đó có đoạn viết:

    “Giờ đây mới là bốn giờ, chỗ chúng mình đây trời đã tối, mình bỗng ngủ thiếp đi, khi tỉnh dậy thi không sao hiểu được là mình đã gặp những việc tốt lành như thế. Thì ra minh đã nằm mơ về En-xcơ, hình như các bà dì đang giúp mình mặc quần áo, chuẩn bị lên đường...”

    Tôi đọc đi đọc lại đoạn này mấy lần. Trước mắt tôi lại hiện lên cái cảnh lúc chúng tôi rời khỏi En-xcơ mà suốt đời không bao giò quên được. Tôi nhớ lại các bà dì đã chạy theo đoàn tàu đang chuyển bánh dặn dò rất to như thế nào, sau đó tôi đã chuyển sang toa Ca-chi-a ra sao và nhớ lại cái cảnh các cụ đã xếp các thứ vào những cái làn của chúng tôi. Chàng thanh niên người nhỏ nhắn ngồi cạnh cứ thắc mắc về mối quan hệ giữa chúng tôi, rồi cảnh Ca-chi-a đứng bên cạnh tôi ở ngoài lối đi trên toa tàu Cô đứng sát bên tôi, tôi nhìn cô và nói chuyện với cô. Giò đây khi cô đang ở xa tít mù tấp thì những cảnh này sao mà khó hình dung thế.

    Xa-nhi-a đã quay lại mà tôi không biết.

    - Đọc hết chưa?

    - Xa-nhi-a, em hãy viết cho cô ấy biết rằng công việc của anh rất tốt, rằng anh sẽ tốt nghiệp vào tháng Mười và sau đó... Anh cũng chưa biết sẽ đi đâu. Anh sẽ yêu cầu được đi Bắc cực.

    - Bây giờ anh hãy ngồi xuống đây và hãy tự viết cho chị ấy tất cả những cái đó.

    - Không, anh sẽ không viết.

    - Nếu anh không viết xong thì em không cho anh đi đâu hết.

    - Xa-nhi-a!

    - Em sẽ gọi Pê-chi-a xuống ngay bây giờ, - Xa-nhi-a nói giọng nghiêm khắc, - và sẽ gọi tất cả mọi người xuống, chúng em sẽ quì xuông để khuyên anh viết bức thư này, bởi vì chúng em cho rằng anh hành động cứng nhắc lắm.

    - Xa-nhi-a, cô cút đi! Cô say rồi. Này, tôi đi đây!

    - Đi đâu! Anh điên à?

    - Không, tôi đi đây. Khuya rồi, sáng mai tôi phải dậy sớm. Và nói chung...

    Tôi không nói, “nói chung” cái gì, nhưng cô ta hiểu, lúc chia tay cô ta rất thông cảm hôn lên má tôi.
    (1) Nhân vật trong bản trường ca cùng tên của Bai-rơn - N.D.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 3/6/15
  19. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 3

    Tôi viết thư cho bác sĩ l-van l-va-nút

    Tôi giận Ca-chi-a bởi vì trước khi rời khỏi Mát-xcơ-va, tôi muốn từ biệt cô và đã viết thư cho cô, nhưng cô không trả lời và cũng không đến, mặc dù cô biết rằng chuyến này tôi sẽ đi rất lâu và cũng rất có thể sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa. Cố nhiên là tôi cũng không viết thư cho cô thêm nữa. Cũng rất có thể là Ni-cô-lai An-tô-nứt đã làm cho tôi tin rằng tôi “đã phỉ báng ông ta bằng những lời vu khống đáng sợ nhất mà loài người không có thể tưởng tượng được”, rằng tôi là “một tên nhãi ranh dòng máu bẩn thỉu”, rằng vì dòng máu bẩn thỉu ấy mà mẹ cô đã chết.

    Thôi được, mọi việc còn đang ở phía truớc! Khi tôi hồi tưởng lại đến cảnh này thì mắt hoa lên, đầu choáng váng.

    Nhưng, giờ đây tôi có thể làm gì được ở trong cái thành phố Lê-nin-grat này khi tôi phải làm vịệc từ tám giờ sáng đến năm giờ chiều ở trong nhà máy và từ năm giờ chiều đến một giờ đêm ở Trường Hàng không?

    Mùa đông năm ấy, trước khi bay ở ngoài sân bay, chúng tôi lên lớp học tập ở trong phòng học của Viện bảo tàng Hàng không.

    Có một lần tôi hỏi đồng chí giám đốc Viện bảo tàng, có biết tài liệu gì về thuyền trưởng Ta-ta-ri-nôp hay không, ở trong thư viện có quyển sách nào nói về việc này không hay có quyển sách “Nguyên nhân thất bại của đội thám hiểm Gri-li " do ông viết không?

    Tôi không hiểu tại sao, nhưng đồng chí giám đốc thư viện đã rất thích thú với vấn đề này. Nhân tiện cũng xin nói, ông là một trong những người sáng lập ra Trường Hàng không chúng tôi vì thế mà các học viên phi hành thường đến gặp ông để trình bày tất cả những chuyện riêng tư.

    - Thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp? - Ông ngạc nhiên hỏi lại. - ồ, chuyện đó thú vị đấy! Tại sao anh lại quan tâm đến vân đề ấy?

    Muốn trả lời vấn đề này, tôi phải kể lại tất cả những gi các bạn đã đọc ở những phần trên. Do đó tôi chỉ trả lời vắn tắt.

    - Nói chung tôi thích đọc những sách về thám hiểm.

    - Nhưng về cuộc thám hiểm lần này hầu như chẳng có gi rõ ràng cả. - Ông giám đốc Viện bảo tàng nói. - Nào lại đây chúng ta cùng vào thư viện xem.

    Tất nhiên, nếu không có ông tôi không thể tìm được gì hết, bởi vì đó chỉ là những bài viết lẻ tẻ trên các báo chương, tạp chí còn sách thì chỉ có một quyển - một tập sách nhỏ vẻn vẹn có hai mươi nhăm trang, tên sách là “Người đàn bà trên biển”. Thì ra không phải Ta-ta-ri-nốp chỉ viết một cuốn sách về đội thám hiểm Gri-li mà thôi.

    Quyển sách này như thế nào? Tôi đọc đi đọc lại hai lần và khẳng định đây là một quyển sách rất hay, đặc biệt là nếu ta nhớ lại đây là một quyển sách do một sĩ quan hải quân viết. Và khi nào? Đó là năm 1910, dưới thời Sa-hoàng.

    Quyển sách này chứng minh rằng phụ nữ có thể làm thủy thủ được. Ông đã dẫn chứng một số sự việc trong đời sống ngư dân vùng biển А-đốp. Trong những tình thế hiểm nghèo, phụ nữ đã tỏ ra không những không kém gì nam giới mà còn dũng cảm hơn nữa là khác. Thuyền trưởng tin tưởng sâu sắc rằng trái hẳn những mê tín đã lưu truyền nếu “không cho phụ nữ làm nghề hàng hải” thì sẽ đem lại nhiều điều bất hạnh cho những thủy thủ bị buộc phải để gia đình lại trên bờ, sống cuộc đời phân ly mãi mãi. Ông tin rằng trong tương lai không xa, trên các tàu biển sẽ được thấy “thợ máy phụ nữ, hoa tiêu phụ nữ, nữ thuyền trưởng”.

    Khi đọc quyển sách nhỏ này, tôi nhớ lại những ghi chú của thuyền trưỏng về cuộc thám hiểm của Nan-xen và bản trích yếu báo cáo của ông về cuộc thám hiểm Bắc cực năm 1911. Lần đầu tiên tôi nhận thức được, ông không chỉ là một nhà hàng hải dũng cảm mà còn là một người có đầu óc hết sức trong sáng, nhìn cuộc sống một cách rộng rãi với quan điểm tiến bộ.

    Nhưng có một số tác giả của các bài báo khác rõ ràng là có sự suy nghĩ khác. Ví dụ trên tờ báo “Pê-téc-bua” có một nhà báo nào đó đã viết bài chống lại cuộc thám hiểm này trên cơ sở Hội đồng bộ trưởng đã “phủ quyết đơn thỉnh cầu của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nôp về việc trích những khoản kinh phí cần thiết”. Bài báo ấy còn viết bằng những lời lẽ như sau: theo sự chứng minh của các cơ quan hữu trách thì không đủ cơ sở để thực hiện cuộc thám hiểm này, vả lại thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp đã không suy nghĩ chu đáo về các dự định của đội thám hiểm. Hội đồng bộ truởng cho rằng chính phủ cần thông qua đại biểu của Ngành Vận tải đường biển để bác bỏ kiến nghị này”.

    Trên một tờ báo khác, tôi tìm được một tấm ảnh rất thú vị: một chiếc tàu biển màu trắng rất đẹp, gợi cho tôi nhớ đến chiếc tàu buồm của Tây-ban-nha vẽ trong cuốn “Những phát hiện mới của thế kỷ”. Đó chính là chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri”. Xem ra chiếc tàu buồm này rất thanh tú, cân đối, có lẽ quá thanh tú cân đối để đi từ Pê-téc-bua đến Vla-đi-vô-xtôc dọc theo bờ biển Xi-bê-ri.

    Số tiếp theo của chính tờ báo đó lại đăng một tấm ảnh càng thú vị hơn: tấm ảnh chụp chung nhân viên toàn tàu. Đúng là rất khó nhận ra được gì trên tấm ảnh này, nhưng cách bố trí người và Thuyền trưởng ngồi giữa, hai tay khoanh trước ngực - tất cả những cái đó đối với tôi rất quen thuộc. Tôi đã nom thấy tấm ảnh này ở đâu? Tất nhiên là ở nhà Ta-ta-ri-nốp, ở trong số những tấm ảnh cũ Ca-chi-a cho tôi хem. Nhưng tôi suy nghĩ tiếp.
    Không, không phải ở nhà Ta-ta-ri-nốp! Tấm ảnh này là của bác sĩ I-van I-va-nứt - đấy tôi đã trông thấy tấm ảnh này ở chỗ ấy!

    Năm 1923, khi tôi ở nhà thương về, tôi đến để chào từ biệt ông. Ông đang chuẩn bị đi lên miền Bắc và khi ông xếp hành lý vào va-li thì chiếc ảnh này rơi ra ngoài. Tôi nhặt lên và đã ngắm nghía rất lâu rồi hỏi ông, tại sao bác sĩ không có mặt trong số toàn thể đội thủy thủ này, ông đã trả lời:

    - Bởi vì tôi không đi trên chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri” này, - sau đó ông cầm tấm ảnh ở tay tôi, nói tiếp: - Đây là của một người bạn để lại làm kỷ niệm...

    Người đó là ai?

    Một ý nghĩ đơn giản thoáng hiện qua trong óc tôi. Nhưng đồng thời đó cũng lại là một ý nghĩ kỳ lạ mà chỉ có chính bác sĩ I- van I-va-nứt mới có thể chứng thực được nó có chính xác hay không. Tôi liền quyết định viết thư cho ông. Tuy ông rời Mát- xcơ-va đã gần bảy năm rồi, nhưng không hiểu sao tôi lại hoàn toàn tin tưởng rằng ông vẫn sống và khỏe mạnh và vẫn ngâm thơ của Cô-đơ-ma Prút-côp, vẫn theo thói quen, vừa nói chuyện vừa vỗ lấy cái gì đó trên mặt bàn tưng lên rồi đỡ lấy, rồi lại tung lên, đỡ lấy như ngưòí làm trò tung hứng.

    Đây tôi đã viết cho ông như thế này:

    “Bác I-van I-va-nứt kính mến!

    Bức thư này là của một “bệnh nhân thú vị” mà trước đây bác đã chữa cho viết gửi cho bác. Hồi ấy bác đã khẳng định người này bị bệnh “câm mà không điếc”. Bác có còn nhớ cháu không hay là quên rồi? Lúc ra đi lên miền Bắc, bác có đề nghị cháu viết thư cho bác kể chuyện cháu đã làm được những gì và sức khỏe cháu ra sao. Thế là giờ đây, bảy năm đã trôi qua, cuối cùng cháu đã thực hiện lời đã hứa. Cháu cảm thấy người rất khỏe. Hiện nay cháu đang học bay, cháu học ở Trưởng Hàng không của Hội viện trợ xây dựng Ngành Hóa học Hàng không quốc phòng. Cháu hy vọng sẽ có một ngày được cưỡi máy bay đến thăm bác. Ngoài ra, bức thư này, cháu còn một việc nữa muốn hỏi bác, đó là hồi còn ở Mát-xcơ-va cháu có đến thăm bác một lần, bác có cầm trong tay một tấm ảnh bưu thiếp chụp toàn đội thủy thủ trên chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri”, thuyền trưởng là Ta-ta-ri-nốp. Chiếc tàu buồm này rời khỏi Pê-téc-bua tháng Năm năm 1912, rồi bị mất tích ở ngoài biển Ca-ra. Bác có nhớ không, hôm ấy bác nói rằng tấm ảnh này là của một người khác tặng bác để kỷ niệm. Nhưng là ai thì bác không nói. Cháu rất cần biết người đó là ai. Tất nhiên bác có quyền hỏi cháu: tại sao em lại quan tâm đến việc đó? Cháu xin trả lời đơn giản là cháu quan tâm đến tất cả những gì có liên quan đến thuyền trưởng Ta-ta-ri-nôp, bởi vì cháu quen người nhà ông ấy, cháu muốn báo cho họ biết tình hình thực của ông ấy sống, chết ra sao. Đó là điều rất quan trọng đối với cháu.

    Cháu sẽ rất cám ơn, nếu bác viết thư trả lời cháu. Thư cho cháu đề: Đại lộ Rô-sa-li-a, 12. Viện bảo tàng Hàng không, Trường Hàng không thuộc Hội viện trợ xây dựng Ngành Hóa học Hàng không quốc phòng.

    Kính thư, A-lếch-xan-đrơ Gri-gô-ri-ép

    Tôi có hy vọng nhận được thư trả lời hay không? Rất có thể bác sĩ đã trở về Mát-xcơ-va từ lâu rồi chăng? Có thể ông đã chuyển đi xa hơn lên miền Bắc chăng? Hoặc giả ông ấy đã quên béng tôi đi rồi và giờ đây đọc bức thư này ông ấy chẳng nhớ tấm ảnh nào, Gri-gô-ri-ép nào nữa chăng?:rose:
     
    Last edited by a moderator: 3/6/15
  20. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 4

    Tôi nhận được thư trả lời •

    Một tháng, hai tháng rồi ba tháng trôi qua. Chúng tôi đã học hết phần lý thuyết và chuyển toàn bộ ra sân bay Co-rơ-pút-xnưi.

    Ngày hai nhăm tháng Chín năm 1930, đó là một “ngày trọng đại” trên sàn bay. Cho đến nay khi chúng tôi vẫn nhớ lại ngày này với cái tên gọi như thế. Ngày hôm đó cũng như mọi ngày bình thường khác: bảy giờ sáng chúng tôi đã ngồi bên “đống phế liệu có thể lợi dụng được”, có người đã thử làm cho Mi-sa Gô-lôm- bơ “ngạc nhiên", bởi vì cậu ta chẳng bao giờ ngạc nhiên về một cái gì hết. Còn Va-ni-a Grip-cốp lại đang hỏi người nào đó, thế nào là đường chân trời.

    - Kia kìa, nơi giữa trời và đất giáp nhau ấy. Đã hiểu chưa?

    - Thế tại sao khi mình đang bay thì nó không giáp nhau nữa?

    Cuối cùng Va-ni-a cũng đã hiểu, thế nào là chân trời. Nhưng bao giờ nó cũng chỉ tìm chân trời ở một chỗ ấy mà thôi - ở trên vịnh phía sau “Pu-chi-lô-vét”. Nó cũng chỉ bay vê phía ấy, vừa cất cánh, nó liền “tiến gần” phía chân trời, nó cứ “tiến gần” một mạch như thế cho đến khi người ta chuyển nó sang lính cơ giới.

    Chín giờ, thầy giáo đến, thế là xảy ra mấy việc: thứ nhất, thầy giáo dẫn đến một vị mặc áo cổ tà, đeo kính gọng mạ vàng, oai phong lẫm liệt mọi người liền biết ngay đó là ông bí thư Khu ủy. Đồng chí bí thư nhìn những chiếc máy bay, rồi lại nhìn xưởng sửa chữa do chúng tôi làm bằng những cái hòm lớn đựng máy bay và nói:

    - Này, anh bạn thân yêu. Trước hết chúng ta cần phải chỉnh đốn công tác bảo vệ một chút đã. Thật chẳng ra gì khi trên sân bay lúc nào cũng có người khả nghi lượn đi lượn lại.

    - Đâu? - Ông thầy hỏi. - À, những người này ấy à? Đây là những học viên phi hành của tôi đấy.

    Thứ hai, chúng tôi vừa tiễn khách đi xong thì ông thầy xạc chúng tôi một trận về tội chúng tôi đánh đổ dầu xăng. Mặt ông đỏ tía lên như hệt mái tóc của ông. Đây không phải là lần đầu tiên., cho nên chúng tôi nghĩ bụng cứ để cho ông ta hò hét một trận rồi cũng xong thôi,

    Nhưng ông lại quì xuống và lấy ngón tay ngoáy những cái hố con ở bên cạnh những thùng dầu xăng. Trong hố chỉ có nước lã, nhưng ông lại nói đó là dầu xăng.

    - Không, nước lã đấy, - Gô-lôm-bơ cãi.

    - Nhưng tôi bảo là dầu xăng!

    - Nước lã!

    - Dầu xăng!

    - Ừ, thôi được, thì dầu xăng, - Gô-lôm-bơ đồng ý.

    Ông thầy lại chọc ngón tay vào một cái hố khác, ngửi rồi đứng lên. ông cau mày, ngửi lại lượt nữa.

    - Nước lã - ông khẽ lẩm bẩm, thế là chúng tôi cười bò ra, ngồi xuống đất.

    Thứ ba- về việc thứ ba, cần phải nói tỉ mỉ một chút.

    Hôm đó tôi bay với ông thầy mấy lần. Ông ta cứ nhìn tôi chằm chằm, nhưng lại khác với ngày thường, ông không mắng tôi.

    - Lại đây, - cuối cùng ông nói.- Bây giờ anh bay một mình.

    Lúc đó có lẽ trông tôi hồi hộp lắm, nên ông mãi nhìn tôi đăm đăm đầy thiện ý. Sau đó ông kiểm tra các đồng hồ xem có làm việc bình thường hay không rồi cài khóa dây da ở cái khoang trên đang bỏ trống.

    - Bay một vòng tròn bình thường. Sau khi rời khỏi mặt đất, lấy chiều cao. Không được lượn vòng ở dưới một trăm năm mươi mét. Lượn theo bốn đường vuông hình hộp rồi hạ cánh.

    Tôi đưa máy bay ra tuyến đường bay và giơ một tay lên xin cho được cất cánh. Lúc đó tôi cảm thấy không phải tôi mà là một ai đó đang làm những việc này.-Người cầm cờ hiệu giơ lá cờ màu trắng lên - có thể bay. Tôi dận ga, chiếc máy bay chạy dọc sân bay...

    Đã từ lâu tôi quên mất cái cảm giác hờn dỗi thơ ngây khi lần đầu tiên tôi cất cánh lên không trung và hiểu thế nào là một chuyến bay. Hồi đó trong đầu óc tôi cứ tưởng tượng rằng khi tôi bay sẽ như một con chim, thế mà giờ đây ngồi trong khoang lái thì lại hoàn toàn cảm thấy у như ngồi trên mặt đất vậy. Ngồi vào chiếc ghế tôi chẳng còn thì giờ đâu mà nghĩ chuyện trên trời, dưới đất. Mãi đến khi tự bay lần thứ mười một gì đó, tôi mới nhận xét thấy hình trạng của mặt đất giống hệt như trong địa đồ, thấy chúng ta đang sống trong một thế giới hình học rất chính xác. Tôi rất thích những cái bóng đám mây đang lượn lờ trên mặt đất. Tóm lại tôi đã lĩnh hội được rằng thế giới đẹp lạ lùng...

    Lần đầu tiên tôi bay một mình như thế đấy. Khoang buồng của huấn luyện viên rỗng không. Vòng lượn đầu tiên. Khoang buồng của huấn luyện viên trống rỗng, nhưng máy bay đang bay. Vòng lượn thứ hai. Tôi đang bay hoàn toàn độc lập với một cảm giác tuyệt vời hoàn toàn tự do. Vòng lượn thứ ba. Phải chuẩn bị hạ cánh. Vòng lượn thứ tư. Chú ý! Tôi bắt dầu giảm bớt ga. Mặt đất càng ngày càng gần. Kia nó đang ở ngay dưới máy bay. Tôi buông cần lại. Máy bay theo đà chạy. Dừng.

    Có lẽ những động tác đó cũng không tồi cho nên đến cả ông thầy khó tính của chúng tôi cũng phải gật đầu tán thưởng, còn Mi-sa Gô-ôm-bơ đứng sau ông thì giơ ngón tay cái lên với tôi.

    - Xa-nhi-a, cậu cừ lắm, - nó nói khi chúng tôi ngồi trên gò hút thuốc, - mình nói thật đấy! Này, cậu có thư đây. Hôm nay mình vào Viện bảo tàng Hàng không, ông thường trực nói: “Có thư của Gri-gô-ri-ép. Anh có thể chuyển hộ được không?”

    Ông đưa cho mình bức thư. Đó là bức thư của bác sĩ I-van I-va-nứt.

    “Xa-nhi-a thân yêu! Rất mừng là cháu rất khỏe. Nhưng cháu nói bác đã chữa cho cháu khỏi bệnh “câm mà không điếc” là không đúng. Chú em ạ, chẳng có bệnh nào như thế đâu. Nói “người câm không điếc” thì đúng. Bác đang chờ cháu và máy bay của cháu tới, nếu không bọn bác chỉ có ngồi xe do chó kéo mà thôi. Còn câu chuyện tấm ảnh thì như thế này: tấm ảnh này do I-van Đmi-tri-ê-vích Cơ-li-tnốp, hoa tiêu tàu buồm “Xanh Ma-ri"tặng bác. Năm 1914 người ta đưa ông ấy đến Ác-khan-ghen-xcơ, hai chân đã bị băng giá làm tê liệt đi rồi, sau đó ông chết ở bệnh viện thành phố vì bệnh hoại huyết. Sau khi ông chết, người ta tìm thấy hai quyển vở ghi và một số thư. Sô thư tương đối nhiều.Theo bác dự đoán có thể đến hai chục chiếc. Tất nhiên đó là những bức thư ông mang từ chiếc tàu buồm về, mặc dù có thể có vài lá thư ông viết trên dọc đường - đội thám hiểm của trung úy Xê-đốp đã cứu ông trên đường đi. Sau khi ông chết, bệnh viện đã đem gửi những bức thư ấy theo từng địa chỉ trong thư. Nhưng hai quyển vở ghi và tấm ảnh thi bác giữ lại. Cháu đã quen người nhà của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp và có ý định cung cấp cho gia đình ấy biết “tình cảnh thật về cuộc sống và cái chết của ông ta (tất nhiên là của thuyền trường chứ không phải của người nhà thuyền trưởng)”, nhất định cháu sẽ rất thú vị về hai quyển vở ghi này. Đây là hai quyển vở nháp bình thường của học sinh, trong đó viết đặc chữ bút chì. Rất đáng tiếc là viết ngoáy quá. Nhiều lần bác đã thử đem, ra đọc nhưng kết quả đã phải từ bỏ ý định ấy. Những điều bác biết, đại khái là như vậy. Đó là vào khoảng cuối năm 1914, lúc đó mới bắt đầu xảy ra chiến tranh nên đội thám hiểm của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp chẳng được ai quan tâm đến. Hiện nay bác vẫn còn giữ hai quyển vở ghi và tấm ảnh. Cháu lên đây, à quên, cháu bay lên đây, cháu hãy đọc nếu như cháu có đủ nhẫn nại. Địa chỉ của bác: Da-pô-li-a-ri-e, phô Ki- rốp, số nhà 24.

    Mong thư của chú, chú bệnh nhân thú vị của tôi.

    Bác sĩ I-van Pa-vlốp của cháu ... Tình hình cô em gái ra sao? Các cháu có còn dùng xiên gỗ để nướng khoai tây nữa không?

    Tôi cũng đã nghĩ như thế! Tấm ảnh do người hoa tiêu để lại. Chính bác sĩ đã được gặp người hoa tiêu; người đã ký tên: “Xin gửi bà lời chào kính trọng - Hoa tiêu tàu biển viễn hành -1. Cơ-li- mốp. Chính con người đã làm cho tôi suốt đời cảm thấy kinh ngạc về những danh từ kỳ dị như “vĩ độ”, “tàu buồm”, “Phơ-ran” và những câu vô cùng khách sáo như “Trước hết xin báo tin để bà rõ...”, “'tin rằng chẳng bao lâu nữa tôi sẽ được gặp bà...”. Chính người hoa tiêu mà qua thư ông tôi đã biết rằng chữ ếch-xpe-đi- xi-a - không phải chỉ có nghĩa là cái nhà hầm bẩn thỉu duới nhà bưu điện, mà còn là cuộc viễn hành, là thuyền trưởng, là núi băng trôi nữa.

    Tôi quyết định khi nào tốt nghiệp Trường Hàng không sẽ đến Da-pô-li-a-ri-e ngay lập tức để đọc những quyển vở ghi chép ấy của ông. Bác sĩ đã “phải từ bỏ cái ý định này”, Chắc ông sẽ không từ bỏ, nếu ông còn hy vọng tìm được thấy trong đó dù chỉ là một lời khẳng định được sự đúng đắn của ông, nếu như ông bị nhổ vào mặt, nếu như Ca-chi-a nghĩ rằng ông đã giết chết mẹ cô...

    Hình như tôi đã nói ra lời, bỏi vì Mi-sa Gô-lôm-bơ ngồi trên gò có vẻ ngạc nhiên.

    - Mi-sa, - tôi nói với nó. - Sau khi tốt nghiệp Trường Hàng không, cậu có đi lên miền Bắc không?

    - Đi. Nhưng để làm gì?

    - Có việc cần.

    - Nếu cần thì đi!

    - Thế thì quyết tâm nhé?

    - Quyết tâm.

    Thực ra quyết tâm như vậy còn quá sớm. Nhưng ba năm sau tôi cũng đến được miền Bắc thật.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 3/6/15

Chia sẻ trang này