Hoàn thành Thuyền trưởng và đại úy - V. Ca-vê-rin

Thảo luận trong 'Wiki' bắt đầu bởi hanhdb, 21/5/15.

  1. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    :rose:
    Chương 5

    Ba năm

    Tuổi thiếu niên không kết thúc trong một ngày - và ngày đó cũng chẳng đánh dấu ở trên tờ lịch: “Hôm nay tuổi thiếu niên của tôi kết thúc”. Nó lặng lẽ trôi qua, thậm chí bạn còn không kịp từ biệt nó nữa. Vừa mới ngày nào bạn còn rất trẻ, rất xinh đẹp, thế mà kia - trên một chuyến xe điện có một đội viên thiếu niên tiền phong đã gọi bạn là “chú”, bạn vội vàng quay nhìn vào tấm kính của sổ lờ mờ trên xe điện và không khỏi ngạc nhiên nghĩ: “Ừ, là chú rồi”. Tuổi thiếu niên đã kết thúc, nhưng khi nào, ngày nào giờ nào? Không biết.

    Tuổi trẻ của tôi kết thúc như thế. Nhưng có một ngày thế này, từ ngày hôm đó trở đi tôi hiểu rằng mình đã có một lối nhìn khác hẳn để nhìn những khát vọng của mình trước đây. Cái ngày hôm đó tôi nhớ rõ lắm...

    Tôi được cử từ Lê-nin-grát đến Ba-la-sốp. Vừa tốt nghiệp Trường Hàng không này tôi được cử đi học ngay ở một Trường Hàng không khác. Lần này tôi được học với một huấn luyện viên cừ và một chiếc máy bay ra trò.

    Tôi không nhớ rõ trong đời tôi có thời kỳ nào tôi đã làm việc cần mẫn như thế không.

    - Anh có biết anh đã bay như thế nào không - hồi còn ở Lê- nin-grát thầy hiệu trưỏng nói với tôi như vậy. - Như cái hòm gỗ ấy. Mà ở miền Bắc thì cần phải có kỹ thuật lái hạng nhất.

    Khi màn đêm vừa buông xuống tuyến đường bay tôi cũng bắt đầu học bay đêm. Lúc tôi bắt đầu lấy chiều cao, tôi cảm thấy hình như mình đang lò rò đi trong hành lang tối. Phía dưới, trên sân bay, tín hiệu hạ cánh hình chữ T sáng rực lên. Những bóng đèn đỏ vạch thành hai đường thẳng tắp, ngăn cách với cánh đồng đen ngòm. Trên những đoạn bẻ ghi đường sắt có tín hiệu lấp lánh. Ban đêm những đoạn đường tránh này sao ngay ngắn lạ kỳ, khác hẳn với ban ngày. Bầu trời đen kịt, không nhìn thấy mặt đất. Xa xa bỗng hiện lên ánh lửa, sau vài phút nữa, thì ra đây không phải là ánh lửa mà là một thành phố - có hàng ngàn ngọn đèn, đủ các màu sắc, đủ các hình dáng... Thật là một bức tranh kỳ lạ!

    Tôi đã học được cách lái máy bay . Khi tất cả xung quanh bị sương mù trắng xóa bao phủ, bạn sẽ cảm thấy hình như bạn đã bay hàng triệu năm sang một thời kỳ địa chất khác. Hình như bạn không ngồi trên máy bay mà là lao đi vun vút trên một chiếc xe thời gian!

    Tôi hiểu rằng người phi công cần phải biết đặc tính của không khí, mọi xu hướng và tính đồng bóng của nó cũng như người thủy thủ ưu tú hiểu biết thuộc tính của nước vậy...

    Trước đây, vùng Bắc cực hình như còn là nơi xa vời, hình như đó chỉ là những núi băng chẳng ai cần đến. Nhưng mấy năm lại đây nó trở nên gần gũi với chúng ta và những chuyến bay vĩ đại đầu tiên đã được cả nước chú ý.

    Mỗi người chúng tôi đều có lý tưởng riêng của người phi công. Chúng tôi cãi nhau không cùng, chứng minh rằng đồng chí A bay giỏi hơn đồng chí L, nhưng đồng chí TR. lại bay giỏi hơn cả hai đồng chí trên. Ben Oen-sơn, một đại tá quân đội Mỹ bị chết vì cánh tay trái anh ta đè dập tim. Thi hài anh ta được phủ quốc kỳ và được phi công X. chở bằng máy bay đưa về Mỹ. Không hiểu tại sao chuyến máy bay đó đã gây cho chúng tôi rất nhiều ảo tưởng. Không, thời kỳ đó vẫn còn là thời kỳ niên thiếu!

    Ngày nào báo chí cũng đăng những bài viết về các đội thám hiểm Bắc cực - bằng đường biển và bằng đường hàng không. Tôi đọc những bài báo ấy mà thấy xúc động. Toàn bộ trái tim tôi đều đã bay lên miền Bắc.

    Thế rồi một hôm, tôi phải bay một chuyến bay sát hạch rất khó khăn. Tôi đã ngồi vào máy bay rồi, nhưng nhìn thấy tờ báo ở trong tay huấn luyện viên. Tôi nhìn thấy một mẩu tin ở trên báo, thế là tôi không kìm được, liền bỏ mũ bay, bỏ kính chắn gió ra nhảy từ trên máy bay xuống.

    “Nhiệt liệt chào mừng những người tham dự đội thám hiểm đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ xuyên qua Bắc băng dương” - đó là hàng chữ lớn in ở giữa trang nhất.

    Tôi buộc lòng phải tuân theo lời huấn luyện viên đang nói với tôi với vẻ kinh ngạc, nhưng vẫn cố nhìn theo trang báo một lần nữa, tôi muốn sao nhìn một cái là đọc được hết cả bài báo. “Tuyến đường phía Bắc vĩ đại đã được mở”, đó là tên một bài báo. “Những người Xi-bê-ri trên eo biển Be-rinh” - là đầu đề một bài báo khác! “Xin kính chào những người chiến thắng” - tên bài báo thứ ba. Toàn là những tin về chuyến đi lịch sử của “những người Xi-bê-ri”. Lần đầu tiên trong lịch sử hàng hải có một chiếc tàu buồm đi theo đường biển lên được Bắc cực. Tuyến đường biển này cũng là tuyến đường mà thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp dự định dùng chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri” để vượt qua.

    - Anh làm sao thế? Anh ốm à?

    - Không, thưa đồng chí huấn luyện viên!

    - Độ cao một nghìn hai trăm mét. Lượn theo độ dốc lớn, hai vòng sang phải, hai vòng sang trái. Bốn lần lộn ngược.

    - Rõ, thưa đồng chí huấn luyện viên!

    Lúc đó tôi rất xúc động, đến nỗi tí nữa thì xin hoãn chuyến bay...

    Suốt ngày hôm đó tôi toàn nghĩ đến Ca-chi-a, đến bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na đã quá cố, đến thuyền trưởng, cuộc đời của ông đã gắn bó với tôi một cách kỳ lạ. Nhưng giờ đây tôi nghĩ về họ không giống như trước kia, giờ đây tôi đã bình tĩnh trước mọi sự việc xảy ra. Tất nhiên là tôi không quên một điều gì. Tôi không quên buổi nói chuyện cuối cùng với bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na, trong đó mỗi lời nói chứa đựng một điều bí ẩn, chứa đựng lời vĩnh biệt tuổi trẻ và cuộc đời. Tôi không quên một hôm khác tôi và bà cụ ngồi ở phòng cấp cứu như thế nào, cánh cửa mở ra, tôi nhìn thấy cái gì trăng trắng có cái đầu đen và cánh tay trần buông thõng ra ngoài ghế đi văng. Tôi cũng không quên việc Ca-chi-a quay đi không thèm nhìn tôi hôm đưa đám, và không quên những mơ ước của mình về cuộc gặp gỡ sau mấy năm để đưa cho cô xem những bằng chứng về sự đúng đắn của mình. Tôi không quên việc Ni-cô-lai An-tô-nứt đã nhổ vào mặt tôi như thế nào.

    Bỗng tôi cảm thấy tất cả những cái đó như một vở kịch, trong đó vai chính lại xuất hiện vào hồi cuối, cho đến bây giờ, người ta chỉ toàn nói về ông ta. Mọi người đều đang nói về một người, ảnh của người đó đang treo trên tường - tấm ảnh một nhà hàng hải có trán rộng, cái cằm quắt, đôi mắt sâu hoắm.

    Đúng, ông ấy quả là nhân vật chính của câu chuyện này. Nếu tuổi thơ của tôi có chiếm mất nhiều chỗ trong câu chuyện này thì đó chỉ là những ý nghĩ thú vị nhất nảy sinh ra trong đầu óc của con người khi anh ta mười tám tuổi. Ông - một nhà thám hiểm vĩ đại nhưng đã bị mai một. Lịch sử của ông vượt rất xa ra ngoài phạm vi những quan hệ cá nhân hoặc những quan hệ gia đình. Lịch sử của ông là mở ra tuyến đường biển vĩ đại lên miền Bắc. Ý nghĩ của ông là mở một con đường xuyên qua Bắc băng dương. Ông thuộc loại người đã giải quyết nhiệm vụ đặt ra cho loài người đã bốn trăm năm nay. Ông hoàn toàn có quyền đứng ngang hàng với họ.

    Những ước mơ, những hy vọng, những mong muốn của tôi làm sao có thể so sánh được với điều đó. Tôi mong muốn gì? Tại sao tôi lại làm phi công? Tại sao tôi lại tranh thủ lên miền Bắc?

    Đúng như trong vở kịch tưởng tượng của tôi, bỗng tất cả đều được xếp đặt đâu vào đấy và những ý nghĩ rất đơn giản về tương lai, về sự nghiệp của tôi hiện lên trong óc. Nhiều điều tôi hiểu biết được về cuộc sống gian khổ của người phi công Bắc cực bỗng chuyển sang hướng khác và tôi tưởng tượng đủ các loại tình huống: đêm bên ngoài vòng Bắc cực khá dài triền miên hàng nửa năm trời; mấy tuần lễ liền mệt mỏi chờ đợi thời tiết; bay cả trên những dãy núi tuyết trắng xóa trong khi đôi mắt miễn cưỡng tìm chỗ hạ cánh; bay trong bão tuyết, nhìn không rõ ngay cả cánh máy bay của mình; quay máy phát động một cách khổ sở trong thời tiết năm mươi độ dưới không. Tôi nhớ lại cái công thức của một phi công Bắc cực: “Thế nào gọi là bay lên miền Bắc? - Đó là bão tuyết hoành hành và hâm nước nóng lên”. Tôi nhớ lại những câu chuyện kinh khủng về bão tuyết Bắc cực, chỉ cần đi ra khỏi nhà độ hai thước đã có thể bị bão tuyết vùi mất xác.

    Nhưng chẳng lẽ “người Xi-bê-ri” lại sợ những khó khăn và nguy hiểm này? Không, thuyền phá băng của họ tuy đã bị mất bánh lái nhưng họ vẫn căng buồm đi đến được biển Be-rinh.

    Không, Pê-chi-a đã nói đúng. Phải chọn cái nghề gì mà anh có thể phát huy được toàn bộ sức mạnh tâm hồn của anh. Tôi tranh thủ lên miền Bắc, hy vọng làm một phi công Bắc cực, bởi vì nghề này đòi hỏi ở tôi tinh thần nhẫn nại rất cao, lòng quả cảm và tình yêu đối với Tổ quốc, đối vối sự nghiệp của mình rất lớn.

    Nào ai biết, rất có thể, một ngày nào đó tôi cũng được người ta liệt vào trong số những người ngang hàng với thuyền trưởng Та-ta-ri-nôp cũng nên.

    Tôi ghi nhớ kỹ trong lòng cái ngày nảy sinh ra ý nghĩ này, đó là ngày mồng ba tháng Mười năm 1932.

    Trước khi tốt nghiệp Trường Hàng không Ba-la-sôp một tháng, tôi làm đơn xin cử tôi lên miền Bắc. Nhưng nhà trường không cho tôi đi. Tôi ở lại làm huấn luyện viên ở trường Ba-la-sốp đúng một năm. Tôi không dám nói mình là một huấn luyện viên giỏi. Tất nhiên tôi có thể dạy người ta bay, đồng thời, tôi không hề có ý muốn cứ động một tí là mắng người ta. Tôi rất hiểu những học viên của mình. Ví dụ tôi hiểu rất rõ tại sao học viên này ra khỏi máy bay là vội vàng hút thuốc, còn học viên khác khi hạ cánh lại tỏ ra rất phấn khởi. Nhưng tôi sinh ra không phải để làm huấn luyện viên, tôi rất buồn vì phải giảng giải cho người khác hàng trăm nghìn lần những điều mà tôi đã biết từ lâu.

    Tháng Tám năm 1933, tôi được nghỉ phép và liền đi Mát-xcơ-va. Tôi được giấy đi tàu không mất tiền đến En-xcơ qua Lê-nin-grát. Tại Lê-nin-grát và tại En-xcơ đều có người chờ tôi. Nhưng tôi vẫn quyết định đi Mát-xcơ-va, mặc dù ở đó chẳng có ai chờ đợi gì tôi cả...

    Tôi có việc ở Mát-xcơ-va. Thứ nhất, tôi phải đến Tổng cục đường Hàng không Bắc cực để trao đổi về việc điều tôi lên công tác ở miền Bắc. Thứ hai, tôi muốn gặp Va-li-a Giu-côp và thầy Cô-ra-bơ-li-ốp. Nói chung là tôi có khối việc, tôi có thể tìm ngay cho mình được đủ lý do, tôi cần phải đi Mát-xcơ-va một chuyến...

    Tất nhiên tôi hoàn toàn không có ý định gọi dây nói cho Ca-chi-a nhất là trong ba năm qua, tôi chỉ nhận được lời hỏi thăm của cô qua Xa-nhi-a có một lần - mọi cái đều đã xong xuôi và quên đi từ lâu rồi. Mọi việc đã kết thúc và quên đi một thời gian dài như thế đến nỗi khi tôi quyết định lại gọi dây nói cho cô, tôi đã chuẩn bị sẵn câu nói đầu tiên rất lịch sự mà vô vị. Nhưng không hiểu sao tay tôi cứ run run khi nhấc ống nghe máy điện thoại lên, và thật là không ngờ, tôi đã gọi nhầm phải số khác - gọi cho thầy Cô-ra-bơ-li-ốp.

    Tôi không gặp được ông, ông đang đi nghỉ phép. Giọng một người đàn bà lạ báo cho tôi rằng khi nào bắt đầu năm học ông mới về. *

    - Học sinh của thầy gửi thầy lời chào nhiệt liệt, - tôi nói. - Xin nhắc thầy là phi công Gri-gô-ri-ép đã gọi dây nói cho thầy.

    Tôi đặt ống nghe xuống. Tôi đang ở trong khách sạn, cho nên phải xin tổng đài cho dây nói thành phố trước rồi mỏi quay số điện mình cần gọi. Tôi nhìn cái máy điện thoại buồn thiu và thôi không gọi nữa. Tôi cứ nghĩ hoài. Mình sẽ nói gì với cô ây? Mình không thể nói chuyện với cô ấy như nói với người xa lạ được.

    Tôi quyết định gọi dây nói đến Vườn bách thú cho Va-li-a trước.

    Nhưng Va-li-a cũng không có ở Mát-xcơ-va. Người ta báo cho tôi một cách lịch sự rằng trợ lý Giu-cốp hiện nay đang ở miền Cực bắc, có lẽ phải sau nửa năm nữa mới trở về Mát-xcơ-va.

    - Xin hỏi anh là ai đấy ạ?

    - Đề nghị chuyển lời chào anh ấy, - tôi nói. - Tôi là phi công Gri-gô-ri-ép.

    Ngoài ra tôi không còn ai ở Mát-xcơ-va để mà gọi dây nói nữa. Họa chăng có thể gọi cho ông thư ký nào đó của Cục Hàng không dân đụng nữa thôi. Nhưng lúc này tôi chẳng còn tâm tư nào mà đi tìm ông thư ký. Tôi nhấc ống nghe và nói:

    - Cho tôi xin thành phố.

    Thành phố trả lời, tôi quay số Cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na chạy đến máy nói, tôi nhận được ra ngay giọng nói hòa nhã, quyết đoán của cụ.

    - Có thể cho nói chuyện với Ca-chi-a được không ạ?

    - Ca-chi-a? - Cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na ngạc nhiên hỏi lại. - Nó không có nhà.

    - Không có nhà?

    - Không có ở nhà và không có ở trong thành phố. Thế ai hỏi nó đấy?

    - Gri-gô-ri-ép, - tôi nói. - Bà có thể cho cháu biết địa chỉ của cô ấy được không?

    Cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na im lặng. Rõ ràng bà cụ không nhận ra tôi. Thiếu gì Gri-gô-ri-ép ở trên đời này!

    - Cháu nó đi thực tập. Địa chỉ: Thành phố Trô-ích, Đội thăm dò địa chất của trường Đại học tổng hợp Mát-xcơ-va.

    Tôi cám ơn rồi bỏ ống nghe xuống.

    Tôi không thể ở một mình trong căn phòng buồn thiu này được nữa. Nhưng ch đến hai giờ để gặp dồng chí thư ký Tổng cục đường Hàng không Bắc cực thì còn lâu quá. Tôi đi ra và đi lang thang trên đường phố Mát-xcd-va.

    Không bao giờ nên thơ thẩn một mình vào những nơi bạn đã đi qua cùng với người yêu. Cái vườn bình thường ở trung tâm Mát-xcơ-va hình như trở nên nơi buồn tẻ nhất thế giới. Một đường phố không lấy gì làm ồn ào cho lắm mà lại khá bẩn thỉu chẳng hiếm gì ở Mát-xcd-va cũng có thể làm cho bạn buồn bã đến nỗi bạn bất giác cảm thấy mình già đi và thông minh hơn nhiều.

    Hình như sau_vài năm tôi đã thản nhiên nhìn lại thế giối nội tâm của mình và đánh giá lại tất cả sự nóng vội không cần thiết trong những việc liên quan đến cái vật thân yêu nhất trên trái đất con tim - và trên một số vân đề khác thì lại thiếu tự tin, ở đây có thể là vì hồi nhỏ tôi là một đứa trẻ câm, mà thế giới đôi với tôi thì lại phức tạp quá không giải thích nổi. Giờ đây tôi cảm thấy hình như tôi vẫn còn tàn tích của tật câm này. Ví dụ như trong vấn đề tình yêu tôi không dám mạnh dạn bộc lộ hết tình cảm của mình, thậm chí đến những câu quan trọng nhất cũng không nối. Tôi cảm thấy tình yêu của tôi sở dĩ không thành công ìà bỏi vì có rất nhiều hoàn cảnh oái oăm bao quanh nó vê mọi mật. Lần này tôi cũng lại ngớ người ra như thằng bé câm trưốc cái thế giối phức tạp thuở trước.

    Không, tất cả đã thay đổi trong tâm hồn tôi, tôi cảm thấy điều đó! Tôi không còn là một đứa trẻ sôi nổi, sốt ruột muốn lập tức chứng minh ngay là mình đúng nữa. Giờ đây tôi hiểu rằng mình cần phải có tất cả - tính trầm tĩnh và lòng kiên nghị.

    Với tâm trạng buồn thương và luyến tiếc đôi vổi chính mình, tôi nghĩ đến những năm tháng của tuổi trẻ và mối tình học sinh của tôi. Tuổi niên thiếu đã kết thúc rồi và mối tình cũng không còn là moi tình xưa nữa. Nhưng vẫn như trưác kia, tất cả vẫn còn đang ở phía trước. Tôi nhìn về phía trước với niềm hy vọng lớn hơn trước đây.

    Tôì ở lại Mát-xcơ-va không lâu. Tổng cục hàng không Bắc cực và Tổng cục hàng không Dân dụng tiếp tôi rất niềm nở. Nhưng họ nói với tôi rằng, chừng nào Trường Hàng không Bai-la-sốp chưa nhả ra thì đừng hòng nghĩ đến chuyện công tác ở miền Bắc.

    Mãi nửa năm sau tôi mới được ủy nhiệm lên công tác ở miền Bắc và đó cũng là một trường hợp rất không ngờ. Ở Lê-nin-grát tôi có quen một phi công Bắc cực đã già, ông ta rất muốn trở về nội địa công tác, bởi vì tuổi tác của ông không thích hợp với những chuyến bay gian khổ miền Bắc nữa. Chúng tôi thay thế nhau. Ông về chỗ tôi làm việc, còn tôi được chỉ định làm phi công số Hai trên một tuyến đường dài miền Bắc.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 9/6/15
  2. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    :rose:
    Chương б

    Ở nhà bác sĩ

    Muốn tìm ngôi nhà này chẳng lấy gì làm khó, bởi vì cả thành phố chỉ có một dãy nhà, còn tất cả những ngôi khác thì mới chỉ ở trong trí tưởng tượng của các nhà xây dựng Da-pô-li-a-ri-e mà thôi.

    Khi tôi đến gõ cửa nhà bác sĩ thì trời đã tối. Đúng lúc đó cửa sổ mở ra, một bóng người tư lự đi qua sau rèm cửa. Mãi chẳng có ai ra mở cửa cho tôi, tôi phải tự tay đẩy khẽ cánh cửa nặng nề và bước vào một căn phòng rộng rãi, sạch sẽ.

    - Ông chủ có nhà không ạ?

    Chẳng có ai đáp lại. Ở góc nhà có cái chổi. Tôi lấy chổi quét tuyết bám trên giày ống, tuyết bám lên đến tận đầu gối.

    - Trong nhà có ai không?

    Chẳng có ai cả. Chỉ có con mèo con màu hung từ dưới mắc áo sợ hãi nhìn tôi rồi lủi mất. Sau đó bác sĩ xuất hiện ở ngoài cửa.

    Đứng về mặt у học mà nói, có lẽ chuyện này cũng khó tin. Nhưng trong mấy năm qua, không những ông không già đi mà còn trẻ ra rất nhiều và rất giống cái ông bác sĩ vui tính, cao cao, râu rậm đã dạy tôi và em gái tôi làm xiên gỗ để nướng khoai tây năm nào ở làng quê.

    - Anh tìm tôi?

    - Thưa bác sĩ, tôi muốn mời bác đi thăm một người ốm, - tôi nói nhanh. Một người bệnh rất thú vị: người câm mà không điếc. Người đó nghe được tuốt, nhưng đến chữ “ma-ma” cũng không nói được.

    Ông bác sĩ từ từ nâng cái kính lên trán.

    - Xin lỗi...

    - Tôi nói có một người bệnh rất thú vị, - tôi nghiêm chỉnh nói tiếp. - Người đó chỉ có thể phát âm được sáu tiếng: gà, yên ngựa, hòm, bão tuyết, uống, A-bram. Bệnh nhân G. đã được đăng trên tạp chí.

    Bác sĩ đi đến chỗ tôi, trông dáng điệu của ông hình như định kéo lưỡi tôi ra xem hoặc ngó vào tai tôi. Nhưng ông chỉ nói.

    - Xa-nhi-a!

    Chúng tôi ôm nhau.

    - Thế ra đã bay đến rồi à?

    - Vâng, bay đến rồi.

    - Cừ lắm! Phi công à? Ừ, giỏi lắm! Giỏi lắm!

    Ông ôm vai tôi dặn vào phòng ăn. Ở đây có một cậu bé khoảng mười hai tuổi, trông giống bác sĩ như đúc. Chú bé chìa tay cho tôi và nói rõ âm “ô": “Vô-lô-đi-a”.

    Ở đây sáng hơn ở phòng ngoài, bác sĩ lại ngắm nhìn tôi tứ phía và lần này hình như không kìm nổi nữa, tí nữa thì ngó vào tai tôi thật.

    - Ừ, cừ lắm, - ông nhắc lại đến lần thứ mười. - Còn em gái? Cô ấy đâu? Cũng biết bay chứ?

    - Em cháu gửi bác lời chào thân ái, - tôi nói. - Cô ấy trở thành họa sĩ rồi, đã lấy chồng và sống ở Lê-nin-grát.

    - Lấy chồng rồi? Vẫn tết đuôi sam chứ?

    Tôi cười vang lên. Thì ra lúc bé Xa-nhi-a đã tết đuôi sam.

    - Ồ, tôi già rồi, - bác sĩ thở dài nói. - Ai ngờ chú bé trước kia vừa gầy vừa nhỏ, mặc chiếc quần rộng thùng thình, giờ đây đã trở thành phi công. Cô bé để tóc đuôi sam đã trở thành họa sĩ, đã lấy chồng và sống ở Lê-nin-grát.

    - Thưa bác I-van I-va-nứt, cháu nói thật đấy, bác chả thay đổi tí nào cả. Thật lạ lùng. Lại còn trẻ ra nữa.

    Ông cười. Thấy tôi nói thế, ông rất phấn khởi. Còn tôi, suốt cả buổi tối hôm ấy tôi cứ nhắc đi nhắc lại mãi là ông trẻ ra hoặc là ít nhất ông cũng không thay đổi gì.

    Chúng tôi ngồi uống trà. Lúc đó bà vợ vào. Bà An-na Xtê-pa-nốр-nа vừa cao lớn vừa to béo, mặc áo lông mà người dân tộc miền Bắc thích mặc, đi giày ống da lông. Tôi cảm thấy bà giống như một vị thần Bắc cực. Bà bỏ áo khoác lông ra, thay đổi giày ống, thế mà vẫn cao lớn. Thậm chí ông bác sĩ cao lêu nghêu như thế so với bà cũng chẳng cao hơn mấy. Khuôn mặt bà rất trẻ. Bà rất tương xứng với căn nhà gỗ sạch sẽ, với cái sàn nhà màu vàng và với những tấm thảm nông thôn. Bà có những nét cổ Nga đồng thời lại có những nét của chính vùng Da-pô-li-a-ri-e, mặc dù đây là một thành phố hoàn toàn mới, vừa xây dựng cách đây có năm sáu năm. về sau tôi được biết bà là người vùng Bạch hải.

    Chúng tôi nói chuyện về Da-pô-li-a-ri-e. Bây giờ tôi mới biết lịch sử của cái thành phố kỳ lạ toàn bằng gỗ này: vỉa hè bằng gỗ, cầu gỗ, tóm lại mọi thứ đều làm bằng gỗ, thậm chí đến cả móng nhà cũng đóng bằng cọc gỗ.

    - Cứ như đi ở trong nhà ấy, - bà An-na Xtê-pa-nôp-na nói. - Toàn sàn là sàn. Đến đường cái quan cũng làm bằng gỗ.

    Hình như bác sĩ là người đến Da-pô-li-a-ri-e bằng chuyến tàu biển đầu tiên, chính mắt bác sĩ đã được chứng kiến việc xây dựng tất cả cái thành phố này.

    - Ở đây năm 1928 vẫn còn là rừng rậm, - ông nói. - Ngay như chỗ chúng ta đang ngồi uốg trà đây, trước kia người ta cũng bắn thỏ.

    - Nhưng bây giờ thì được dựng một ngôi nhà, - bà An-na Xtê-pa-nốp-na nói, - còn cái phố này thì cứ chuẩn bị xây mãi, chuẩn bị mãi mà chả thấy khởi công.

    - Thế bà bảo rạp hát cũng tồi à?

    - Rạp hát rất tốt.

    - Năm ngoái. Nhà hát nghệ thuật Mát-xcơ-va có lên đây, - Vô-lô-đi-a nói và đỏ mặt lên. - Chúng em tặng hoa hoan nghênh họ. Họ rất ngạc nhiên, không biết chúng em lấy đâu ra hoa. Thực ra chỗ chúng em đây cần bao nhiêu hoa có bấy nhiêu. -Mọi người nhìn chú, thế là chú lại càng đỏ mặt tợn.

    - Vô-lô-đi-a thích xem kịch, - An-na Xtê-pa-nốp-na nói, - nó còn thích...

    - Mẹ!

    Bác sĩ cười.

    - Mẹ, mẹ ra con hỏi một tí! - Vô-lô-đi-a nói giọng đe dọa, nói xong chú đi ra.

    Bà An-na Xtê-pa-nốp-na cũng cười và đi ra theo chú.

    - Nó đang làm thơ, - bác sĩ nói nhỏ. - Thật vậy, giờ đây hồi tưởng lại thật là thú vị, - ông nói tiếp. - Thật là tuyệt! Khi xây dựng xưởng gỗ đầu tiên, trên tờ báo, thay cho chỗ in ngày tháng, người ta in dòng chữ còn bao nhiêu ngày nữa thì xưởng gỗ đi vào sản xuất. Hai mươi ngày. Mười chín ngày. Cuối cùng chỉ còn có một ngày! Chuyến bay đầu tiên đến! Họ được hoan nghênh nhiệt liệt quá! Còn anh? - Tự nhiên ông bác sĩ nhớ ra, nói: “Anh thế nào? Anh chuẩn bị làm gì?

    - Cháu chuẩn bị bay.

    - Bay đi đâu?

    - Cháu chưa biết. Kế hoạch thì rất lớn. Nhưng hiện nay tạm thời chở da lông thú đến Cra-xnô-la-xcơ.

    - Theo kế hoạch thì có tuyến đường bay mới chứ?

    - Vâng... Thưa bác có ạ, - tôi nói khi đã ăn hết các thứ bày trên bàn, chúng tôi bắt đầu uống thứ rượu vang vàng tự chế rất hợp khẩu vị, - bác có nhớ những bức thư mà hồi cháu ở Lê-nin- grát trao đổi với bác không?

    - Nhớ chứ.

    - Bác có viết cho cháu một bức thư rất thú vị nói về người hoa tiêu ấy, - tôi nói tiếp, - và trước hết cháu muốn biết quyển vở ghi ấy có còn giữ được hay không?

    - Còn giữ được.

    - Hay lắm. Thế bây giờ bác nghe cháu nói nhé. Đây là một câu chuyện khá dài, nhưng cháu vẫn xin kể bác nghe. Mọi người đều biết, chẳng phải ai khác mà chính bác đã dạy cháu nói được. Cháu phải đền ơn bác.

    Và tôi đã kể lại cho ông nghe tất cả, - bắt đầu từ những bức thư lạ mà hồi xưa dì Đa-sa đã đọc cho tôi nghe, về Ca-chi-a tôi chỉ nói có vài lời, kiểu một bản tin. Nhưng không hiểu sao đến chỗ này bác sĩ lại cười và làm ra vẻ như chẳng chú ý gì cả.

    - ... Đó là một người bị mệt mỏi kiệt sức, - ông nói về người hoa tiêu. - Thực ra ông ta chết không phải vì bệnh hoại huyết mà là vì quá ư mệt mỏi. Ông ta đã phải dùng rất nhiều sức lực để trốn tránh thần chết, vì thế mà không còn sức để sống nữa. Ông ta đã để lại một ấn tượng như vậy.

    - Bác có nói chuyện với ông ấy?

    - Có.

    - Về vấn đề gì ạ?

    - Theo tôi, về một thành phố miền nam nào đó, - bác sĩ nói, - nếu không nói về Xu-khu-mi thì nói về Ba-cu. Đó là tư tưởng chủ đạo quán xuyến ông ta suốt cả thời gian ấy. Lúc đó mọi người đều đang bàn tán về chiến tranh, bởi vì chiến tranh vừa mới bắt đầu. Nhưng ông ta lại nói về Xu-khu-mi - ở đó đẹp ra sao, ấm áp thế nào. Chắc hẳn ông ta là người vùng ấy.

    - Thưa bác I-van I-van-nứt, thế những quyển nhật ký ấy bác có để ở đây chứ? Ở ngay ngôi nhà này?

    - Ở đây.

    - Bác cho cháu xem.

    Tôi luôn luôn nghĩ về những cuốn nhật ký này, cuối cùng hình thành trong tôi một cảm giác cho rằng đó là những quyển sổ dày, bìa cứng bọc vải đen. Bác sĩ đi ra, sau mấy phút ông quay lại đem ra hai quyển vỏ mỏng tang, trông giống như quyển từ điển ngoại ngữ của học sinh. Tôi tiện tay giở luôn một quyển ra xem, tự nhiên thấy vô cùng xúc động.

    “Gửi Hoa tiêu Iv. Dm. Cơ-li-mốp.

    Căn cứ theo ý nguyện của ông cùng các bạn sau đây, tôi đề nghị ông cùng với họ rời khỏi tàu để đi tìm đất liền có người ở..

    - Bác sĩ ạ, bút tích của ông ấy rất rõ ràng đây thôi! Cháu đọc chả thấy gì là khó cả.

    - Không, những nét bút rất rõ ràng ấy là của tôi, - bác sĩ bác lại. - Cái đoạn anh đang đọc ấy tôi đã mò ra được rồi. Những chỗ nào tôi đã đọc được tôi đều viết lại và có cài tờ giấy vào đó... Nhưng còn những chỗ khác thì anh tự xem lấy!

    Thế là ông giở ngay trang đầu của quyển vở ra.

    Tôi cũng đã từng đọc những chữ rất khó đọc. Ví dụ như chữ của Va-li-a Giu-cốp. Chũ nó viết đến nỗi các giáo viên cũng phải suy nghĩ mãi và cho rằng cậu này cố tình trêu ngươi như vậy. Nhưng còn chữ viết như thế này thì tôi mới trông thấy lần đầu. Đây chỉ là những cái lưỡi câu vẽ loằng ngoằng loạn xạ trên trang giấy.

    Ngay mấy trang đầu đã bị dầu mỡ thấm ướt, phải cố gắng lắm mới nhìn rõ nét bút chì trên tờ giấy màu vàng trong suốt. Tiếp theo là cái gì như mớ bòng bong và những chữ tẩy xóa, dưới nữa là hình phác thảo một bản đồ, rồi lại đến một đám bát nháo mà không một nhà đoán chữ nào có thể mò được ra.

    - Thôi được. - Tôi nói và gấp quyển vở lại. - Cháu sẽ đọc được quyển này.

    Bác sĩ nhìn tôi hài lòng và nhiệt tình nói:

    - Chúc anh thành công.

    Tôi ngủ lại ở nhà bác sĩ, bởi vì trời đã tối ngay từ khi tôi ngồi nói chuyện trong nhà và bên ngoài đã bắt đầu có bão tuyết. Ở Da-pô-li-a-ri-e, khi đã có bão tuyết thì không nên đi ra khỏi nhà. Bà An-na Xtê-ра-nốp-na bố trí cho tôi ngủ trong buồng Vô-lô-đi-a trên chiếc giường xếp có trải đệm. Trước khi ngủ tôi cứ ngắm mãi cậu Vô-lô-đi-a. Cậu nằm nghiêng, hai tay chắp lại đặt dưới má. Trong giấc ngủ ngon lành, cậu bé quả là một bác sĩ tí hon thực sự, chỉ có điều là không có râu. Tôi ngồi xuống chiếc giường xếp, định cởi giày thì chiếc giường kêu răng rắc. Cậu bé mở đôi mắt xanh to tướng ra chớp chớp rồi lẩm bẩm câu gì đó nhưng không tỉnh dậy. {:kem1:}
     
    Last edited by a moderator: 8/6/15
    thichankem thích bài này.
  3. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 7

    Tôi đọc nhật ký

    Tôi không thể thừa nhận mình là người không có tính nhẫn nại. Song hình như chỉ có những bậc thiên tài nhẫn nại nhất mới có thể đọc hết được những quyển nhật ký này! Rõ ràng là chúng được viết vào những lúc nghỉ, dưới ngọn đèn thắp bằng mỡ những con hải cẩu nên ánh sáng lù mù với bàn tay mệt mỏi, tê cứng vì trời lạnh bốn mươi nhăm độ âm. Ở một vài chỗ có thể nhìn thấy nét bút ngoằng xuống khỏi chữ thành một vệt dài chẳng có ý nghĩa gì.

    Nhưng tôi cần phải đọc hết những trang ấy!

    Thế là tôi lại bắt tay vào làm cái công việc khổ não này. Mỗi buổi tối (hôm nào không phải bay thì tôi làm từ sáng sớm) tôi ngồi cạnh bàn, tay cầm cái kính lúp bắt đầu một cách căng thẳng, chậm chạp biến những cái lưỡi câu này thành văn tự của loài người, có chữ thì bi quan thất vọng, có chữ lại tràn đầy hy vọng. Thoạt đầu tôi tiến hành một cách mù quáng, ngồi xuống là đọc. Nhưng sau đó tôi nảy ra một ý nghĩ láu lỉnh hơn, tôi không đọc từng chữ một như trước, mà đọc luôn từng trang một.

    Trong khi đọc những quyển nhật ký này, tôi nhận thấy có một số trang viết tương đối rõ ràng, ví dụ như bản mệnh lệnh mà bác sĩ đã chép lại chẳng hạn. Căn cứ vào những đoạn này, tôi chép lại tất cả những chữ cái từ “a” đến “z” rồi xếp thành một cái “bảng chữ cái của hoa tiêu” rồi bắt chước từng nét chữ đủ hình đủ vẻ của ông ấy mà viết ra. Dựa vào bảng chữ cái ấy, công việc tiến hành được nhanh hơn nhiều. Chỉ cần căn cứ vào bảng chữ cái này mà đoán cho thật đúng một hai chữ cái, thế là tất cả những chữ khác tự nhiên cũng sẽ ra.

    Tôi ngồi dò cuốn nhật ký hết ngày nọ sang ngày kia như vậy.

    NHẬT KÝ CỦA HOA TIÊU TÀU BIỂN VIÊN HÀNH IV. ĐM. CƠ-LI-MỐP

    Thứ Tư, ngày 27 tháng 5:

    Khởi hành tương đối muộn, trong vòng sáu tiếng đồng hồ chỉ đi được có bốn véc-xtơ. Hôm nay ăn mừng ngày chúng tôi rời tàu được một tháng. Chúng tôi tính, sau khi rời khỏi tàu, chúng tôi mới đi được có một trăm véc-xtơ. Tất nhiên một tháng trời mà đi được có ngần ấy không lấy gì làm nhiều nhưng đường xấu quá, chúng tôi thật không ngờ. Chúng tôi long trọng ăn mừng ngày kỷ niệm tròn một tháng của chúng tôi: nấu một nồi xúp(súp) bằng rong khô và để cho xúp thêm ngọt thêm ngon, chúng tôi cho thêm vào hai hộp sữa đặc.

    Thứ sáu, ngày 29 tháng 5:

    Nếu chúng tôi đến được bờ biển thì những người này - tôi không muốn nêu tên tuổi họ ra - hãy vĩnh viễn ghi nhớ lấy cái ngày 29 tháng 5, cái ngày mà họ đã thoát khỏi tay thần chết, và hàng năm họ hãy kỷ niệm ngày hôm ấy. Nhưng nếu người được cứu thoát thì khẩu súng hai nòng và toàn bộ dụng cụ nấu ăn của chúng tôi đều rơi xuống nước hết. Vì thế mà ngày hôm qua chúng tôi đành phải ăn thịt sống và uống sữa pha với nước lã. Ôi chỉ cầu trời làm sao tôi có thể lên bò cùng bọn ngớ ngẩn này.

    Chủ nhật, ngày 31 tháng 5:

    Dưới đây là văn kiện chính thức, căn cứ vào văn kiện này thì tôi phải dẫn một đội thủy thủ lên đường.

    “Gửi ông Hoa tiêu lv. Đm. Cơ-li-mốp.

    Căn cứ theo ý nguyện của ông và những người có tên sau đây tôi đề nghị ông cùng với họ rời khỏi tàu đi tìm đất liền có người ở. Phải làm điều này từ ngày mồng mười tháng Tư năm nay bằng cách đi bộ trên băng, phải mang theo xe trượt tuyết chở thuyền da thú và lương thực đủ ăn trong hai tháng. Sau khi rời khỏi tàu phải đi về phía nam cho đến khi nào nhìn thấy đất liền mới thôi. Sau khi nhìn thấy đất liền thì có thể tùy theo tình hình khách quan mà hành động cho thích đáng, nhưng tốt nhất nên tranh thủ đến cho được con sông đào Bri-len ở giữa đảo Phơ-ran-Xcơ I-ô-xip. Đi dọc theo con sông đào này vì người ta biết rõ nó hơn cả đến mùi Phơ-lo-rơ. Ở đấy theo tôi có thể tìm cách kiếm được thực phẩm và chỗ ở. Sau đó nếu thời gian và điều kiện cho phép nên tìm đường đến Spi-xơ-béc-ghen *. Sau khi đến Spi-xơ-béc-ghen rồi, một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn đối với các bạn là đi tìm dân cư địa phương, những người chúng ta còn chưa biết họ sống ở đâu, nhưng tôi hy vọng rằng ông sẽ tìm được ở phía nam đảo này. Nếu ông không tim được dân cư sống trên bờ thì cũng có thể tìm được một chiếc thuyền buôn. Một đội thủy thủ mười ba người tự nguyện cùng đi với ông.

    Thuyền trưởng tàu “Xanh Ma-ri”

    I-van Ta-ta-ri-nốp

    Tại Bắc băng dương, ngày 10 tháng Tư năm 1914

    Xin trời chứng giám, tôi ra đi thật vô cùng đau đớn sau khi để ông ở lại trong hoàn cảnh gian khổ, hầu như tuyệt vọng.

    Thứ Ba, ngày 2 tháng 6:

    Trước khi rời khỏi tàu, anh thợ máy Coóc-nép đã làm cho chúng tôi bốn cặp kính, nhưng những chiếc kính ấy cũng chẳng có tác dụng gì. Mắt kính làm bằng vỏ chai rượu “Hoa lan”. Ngồi trên chiếc xe tuyết đi trước là những “người mở mắt” gặp may, còn “những người mù” thì nhắm mắt lếch thếch theo sau, chỉ thỉnh thoảng mới hé mắt một tí để nom đường. Mắt bị nhức nhối vì ánh sáng gay gắt rất khó chịu. Tôi sẽ không bao giờ có thể quên được cảnh hành quân của chúng tôi: chúng tôi đi bước rất đều, nhưng tiến được một bước thì người nghiêng bên nọ, ngả bên kia, ngực đè xuống sợi dây da, một tay giữ chặt lấy mép thuyền bằng da thú. Chúng tôi nhắm tịt mắt lại mà tiến lên. Tay phải cầm gậy trượt tuyết, trượt lên phía trước rất chính xác như một cái máy, nghiêng người về bên phải rồi lại đi từ từ tụt lại phía sau. Tuyết dính ở đầu gậy kêu lạo xạo, nghe sao mà chán tai thế. Bạn miễn cưỡng phải nghe cái tiếng lạo xạo đó và hình như nghe rõ tiếng: “Còn xa lắm, xa - xa - lắm”. Hình như chúng tôi đi trong trạng thái mất hết cả tri giác, chân bước đi như cái máy, ngực đè lên sợi dây... Hôm nay tôi cảm thấy như mình đang đi dưới bóng những tòa nhà cao vào một ngày hè nóng nực ở bên bãi biển. Trong những tòa nhà này có chứa những hoa quả vùng châu Á. Cửa đóng kín mít. Có thể ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt và ngọt lự của hoa quả tươi và quả khô. Mùi cam, mùi đào, táo khô và đinh hương làm người ta ngây ngất. Những nhà buôn Ba-tư đang tưới nước lên vỉa hè nhựa đường chảy ra vì trời nóng. Tôi nghe thấy họ nói chuyện bình tĩnh. Trời ơi, sao mà thơm thế, sao mà sảng khoái, dịu dàng đến thế!... Lúc đó tôi bỗng bị vướng vào cái gậy trượt tuyết của mình, tinh thần bỗng tỉnh hẳn ra, tôi níu chặt lấy cái thuyền da thú và dừng bước. Thì ra trước mắt toàn là tuyết, tuyết và tuyết, mắt chỉ nhìn thấy có tuyết trắng xóa. Mặt trời vẫn gay gắt chói lọi như cũ, mắt vẫn bị đau nhức nhối như cũ.

    Thứ năm, ngày 4 tháng 6:

    Hôm nay, đi theo vết chân Đu-na-ép, tôi để ý thấy anh ta thổ ra huyết. Kiểm tra hàm răng thì ra là bệnh hoại huyết. Mấy hôm nay anh ta cứ kêu ca về cái chân bướng bỉnh.

    Thứ sáu, ngày 5 tháng 6:

    Hình ảnh, I-van Lô-vô-vích không sao rời khỏi đầu óc tôi. Khi ông ra tiễn chúng tôi và nói mấy lời từ biệt, ông bỗng ngừng lại cắn chặt răng, nhìn chung quanh mỉm cười cay đắng. Ông vẫn còn đang ốm. Tôi bỏ ông lại vào lúc ông vừa ở giường bệnh dậy. Trời ơi, đó là một sai lầm kinh khủng nhất. Nhưng giờ đây không thể quay trở lại được nữa.

    Thứ bảy, ngày 6 tháng 6:

    Bắt đầu từ ngày mồng ba, Mô-rép cứ quấn riết lấy tôi nói rằng anh ta trông thấy trên đỉnh núi băng có một vùng như “bình nguyên” tức là một dải băng rất bằng phẳng kéo dài rất xa xuống phía nam “Chính mắt tôi trông thấy, ông hoa tiêu ạ! Bình nguyên trơn nhẵn đến nỗi móng con thú cũng không đứng nổi”. Sáng hôm nay anh ta không còn ở trong lều nữa. Anh ta ra đi không cần giày trượt tuyết, trên lớp tuyết mỏng và cứng có thể nom thấy dấu giày lông lờ mờ của anh. Chúng tôi đi tìm anh mất cả một ngày nào gọi, nào huýt sáo, nào bắn súng. Nếu nghe thấy nhất định anh ta sẽ trả lời chúng tôi, bởi vì anh có mang theo khẩu súng trường tự động và mười hai viên đạn. Nhưng chẳng nghe thấy một tiếng nào cả.

    Chủ nhật, ngày 7 tháng 6:

    Chúng tôi dùng thuyền da, bàn trượt tuyết và gậy trượt tuyết nối thành một cái cán cờ cao khoảng năm xa-gien(1) rồi buộc vào đó hai lá cờ, cắm lên đỉnh đồi. Nếu còn sống, anh nhất định sẽ nhìn thấy tín hiệu của chúng tôi.

    Thứ ba, ngày 9 tháng 6:

    Lại lên đường. Còn lại đúng mười ba người - một con số bất hạnh. Bao giờ cuối cùng mới có thể đến được đất liền, dù cho đó là một nơi trơ trụi, lạnh lùng cũng được, chỉ cần nó là một nơi đất liền không di động, chỉ cần chúng tôi ở trên đó không phải lo lắng từng phút giây rằng nó đang đưa chúng tôi trôi lên miền Bắc!

    Thứ tư, ngày 10 tháng 6:

    Buổi tối hôm nay lại có một ảo giác trông thấy thành phố miền nam, bờ biển, quán cà phê đêm cùng những người đội mũ cỏ Pa-na-ma màu trắng. Xu-khu-mi chăng? Lại ngửi thấy mùi thơm ngon dịu dàng của hoa quả tươi, lại nảy ra những ý nghĩ đau khổ. “Tại sao mình lại tham gia chuyến đi trên biển băng giá rét khốc liệt này, trong khi đi về biển phía nam thú vị biết bao? Ở đó ấm áp. Chỉ cần mặc một áo sơ-mi thôi cũng được, thậm chí còn có thể đi chân không nữa. Có thể được ăn vô khối hoa quả: cam, nho và táo”. Kỳ lạ thật, tại sao không bao giờ mình đặc biệt thích hoa quả? Nhưng kẹo sô-cô-la - cũng là một món tốt, ăn cùng với bánh mì khô, như hiện nay chúng mình ăn bữa thứ ba (sau khi ngủ trưa) cũng rất tốt. Có điều là chúng mình nhận được ít quá. Mỗi cái phải chia ra làm nhiều phần nhỏ và mỗi lần chỉ được ăn có một miếng. Nếu có một đĩa bánh mì khô bày ở trước mặt, tay cầm cả cái kẹo sô-cô-la, muốn ăn bao nhiêu thì ăn thì hay biết chừng nào! Còn bao nhiêu véc-xtơ nũa mới đạt đến cái khả năng ấy, bao nhiêu giờ, bao nhiêu ngày, bao nhiêu tuần!

    (1) Đơn vị đo chiều dài cũ của nước Nga, mỗi xa-gien = 2,134 mét, - N.D.

    Thử năm ngày 11 tháng 6:

    Đường đi thật tồi. Tuyết rất dày. Dưới tuyết lại có rất nhiều nước. Thỉnh thoảng lại có hồ nước băng cản đường đi của chúng tôi. Hôm nay chúng tôi đi không được quá ba véc-xtơ. Suốt ngày chỉ thấy có sương mù và ánh sáng mờ mờ, thứ ánh sáng làm cho người ta rất nhức mắt. Giờ đây tôi đang nhìn vào quyển vở ghi như nhìn qua một lớp vải sa. Một dòng nước mắt nóng hổi chảy xuống má. Ngày mai sẽ là lễ Giáng sinh. Nếu hôm nay đã “ở đó”, ở một nơi nào đấy của miền nam thì hay biết bao! Còn ở đây, trên khối băng trôi gần vĩ tuyến 82° chỗ nào cũng bị núi băng và hố băng ngăn cách thật chẳng thoải mái tí nào cả! Trước mắt là cả một khối băng cứ di chuyển từng phút. Cứ hố băng này bị lấp đi thì hố khác lại mở ra chẳng khác gì những anh chàng khổng lồ đang chơi cờ trên một bàn cờ khổng lồ.

    Chủ nhật, ngày 14 tháng 6:

    Có một phát hiện mới, nhưng tôi không nói gì với các bạn đồng hành của tôi về việc đó: chúng tôi đang trôi bên cạnh đất liền. Hôm nay chúng tôi đã đến được vĩ độ của đảo Phơ-rai-vxơ I-ô-xíp và vẫn còn đang tiếp tục di chuyển về phía nam, nhưng chẳng nhìn thấy bóng dáng hòn đảo đâu cả. Chúng tôi đang trôi bên cạnh dải đất. Dù căn cứ vào chiếc đồng hồ thiên văn vô dụng của tôi, hay căn cứ vào hướng gió thổi hay căn cứ vào chiều nước chảy dưới chiếc dây thả xuống nước, tôi đều có thể nhìn thấy như vậy.

    Thứ hai, ngày 15 tháng 6:

    Tôi đã bỏ ông ta lại trong cảnh ốm đau tuyệt vọng. Chỉ có ông mới có thể giấu kín được tâm trạng này. Điều đó làm tôi hết niềm tin là mình có thể được cứu.

    Thứ ba, ngày 16 tháng 6:

    Hiện nay chúng tôi đã có hai người bị bệnh hoại tuyết. Xốt-kin cũng ốm rồi. Lợi anh ta sưng lên, mọng máu. Cách chữa của tôi là cho họ mang bàn trượt tuyết đi tìm đường, buổi tối cho họ một viên ký ninh. Có lẽ cách chữa này tàn khốc quá, nhưng theo tôi, nếu một người chưa mất hết sức mạnh tinh thần, thì đây là cách chữa duy nhất. Tôi thấy người mắc bệnh hoại huyết nghiêm trọng nhất lại chính là I-van Li-vô-vích. Ông mắc bệnh này đã gần nửa năm nay. Chỉ có người nào có nghị lực phi thường mới làm cho mình bình phục được, tức là dứt khoát không chịu chết. Nhưng giờ đây con người có nghị lực ấy, có đầu óc rộng rãi ấy, có sự thông minh tuyệt vời ấy, con người có tinh thần sảng khoái ấy đang lâm vào cái chết không thể tránh khỏi.

    Thứ năm, ngày 18 tháng 6:

    Vĩ độ 81°. Lại trôi về phía nam rất nhanh. Thật là kỳ lạ.

    Thứ sáu, ngày 19 tháng 6:

    Khoảng bốn giờ. Ở về phía đông nam căn lều của chúng tôi, tôi trông thấy một cái gì đó. Đó là hai đám mây màu hồng hồng ở ngay sát chân trời. Hình dáng của nó mãi mãi không thay đổi cho đến tận khi bị sương mù che khuất. Có lẽ suốt đời chưa bao giờ chúng tôi bị những mảnh băng bám xung quanh nhiều như lần này. Rất nhiều chim hải âu trắng bay lượn, kêu hót. Ôi, những con hải âu kia! Ban đêm chúng thường không cho tôi ngủ yên. Chúng vây quanh những con hải báo chết bị vứt ở trên băng, tranh nhau moi ruột gan chúng. Bọn chúng như lũ ác quỉ quấy rầy chúng tôi, chúng điên cuồng kêu hét, у như chúng đang mắng mỏ chúng tôi. Tôi sẽ nhớ mãi mãi “tiếng kêu của chim hải âu trên tuyết trắng” này, nhớ mãi mãi những đêm trong lều vải này không sao ngủ được và cả cái ông mặt trời chiếu qua vải bạt của nhà lều mà không bao giờ lặn nữa.

    Thứ bảy, ngày 20 tháng 6:

    Sau một tuần lễ trong nhà lều, chúng tôi trôi theo băng về phía nam được đúng một độ.

    Thứ hai, ngày 22 tháng 6:

    Buổi chiều, theo thường lệ tôi trèo lên đỉnh một mỏm núi băng để nhìn chân trời. Lần này tôi nhìn thấy ở phía đông có một vật gì làm tôi rất hồi hộp, phải ngồi xuống đỉnh núi băng, vội vàng dụi mắt và lau ống nhòm. Đó là một dải sáng, giống như một nét bút ngay ngắn vẽ lên nền trời xanh biếc. Thoạt đầu tôi cho rằng đó là mặt trăng, nhưng không hiểu sao nửa vành trăng bên trái lại cứ mờ dần, còn nửa vành bên phải cứ càng ngày càng sáng ra. Đêm hôm đó tôi đem ống nhòm ra xem năm, sáu lần, mà lần nào cũng vẫn tìm thấy mảnh trăng này ở nguyên chỗ cũ.

    Tôi rất ngạc nhiên, tại sao các bạn của tôi không ai nom thấy gì cả. Phải mất nhiều sức lắm tôi mới kìm được mình khỏi chạy vào trong lều, khỏi kêu ầm lên rằng: “sao các bạn cứ như người rơm cả thế, sao các bạn cứ ngủ mãi thế? Chẳng lẽ các bạn không nhìn thấy chúng ta đang trời vào đất liền hay sao?” Nhưng không hiểu sao tôi lại im. Nào ai biết, có thể đây lại là ảo ảnh chăng? Tôi chẳng đã từng tưởng tượng là mình nom thấy thành phố miền nam, thấy bờ biển, thấy mùa hè nóng bỏng và thấy bóng những tòa nhà cao đó sao!

    *

    * *

    (Quyển thứ nhất viết đến đây kết thúc. Quvển thứ hai bắt đầu ghi từ ngày 11 tháng 7).

    *

    * *

    Thứ bảy, ngày 11 tháng 7:

    Bắn chết một con hải báo, lấy được hai bát ô-tô tiết. Dùng tiết này nấu với vịt le-le được một món canh rất ngon. Khi chúng tôi pha trà hay nấu canh, nói chung chúng tôi không thích pha trò. Sáng hôm nay chúng tôi ăn hết một xô canh, uống hết một xô nước chè; bữa trưa ăn hết một xô canh, uống hết một xô nước chè; hiện nay là bữa tối, chúng tôi mỗi người ăn hơn một phun thịt và đang sốt ruột ngồi chờ xô nước chè của chúng tôi sôi. Cái xô của chúng tôi thì to, hình đáng nó giống cái nón. Thật ra nếu có một xô canh nữa cho anh em ăn thỏa thích chắc cũng chẳng có ai phản đối, nhưng chúng tôi ngượng, bởi vì phải “tiết kiệm”. Sức ăn của chúng tôi không phải chỉ ăn như chó sói mà còn ăn nhiều hơn chó sói nhiều; điều này cũng không bình thường đâu, đó là hiện tượng bệnh hoạn đấy.

    Thế là chúng tôi đã ngồi trên một hòn đảo, dưới chân chúng tôi không phải là băng, thứ băng ám ảnh chúng tôi suốt hai năm qua, mà là đất rắn và rêu. Mọi việc điều ổn, nhưng có một ý nghĩ vẫn không cho tôi được yên lòng: tại sao thuyền trưởng không cùng đi với chúng tôi? Ông không muốn bỏ tàu, ông không thể quay về với “hai bàn tay trắng”. “Họ sẽ giết chết tôi, nếu tôi quay về với hai bàn tay trắng”. Sau đó còn một ý nghĩ nông nổi, trẻ con nữa là: “Nếu hoàn cảnh tuyệt vọng buộc tôi phải bỏ tàu thì tôi sẽ đến cái đất liền mà chúng tôi đã phát hiện ra”. Tôi cảm thấy thời gian gần đây cái đất liền này quấy rầy ông ấy khá nhiều. Chúng tôi phát hiện ra đất liền này vào tháng tư năm 1913.

    Thứ hai, ngày 13 tháng 7:

    Tại hướng đông nam phía đông, biển không đóng băng cho tới tận chân trời. Ôi “Xanh Ma-ri” thân yêu, giá người ở đấy thì tuyệt biết bao.

    Thứ ba, ngày 14 tháng 7:

    Hôm nay Xốt-kin và Ô-rôn-cốp đi đến mỏm tận cùng của hải đảo thì phát hiện ra một điều vô cùng tuyệt diệu. Ở một chỗ cách biển không xa họ trông thấy một đống đá nhỏ. Họ lấy làm lạ về hình dáng đống đá này sao lại ngay ngắn đến thế. Lúc đến gần, họ nom thấy cái vỏ chai ở cách đó không xa. Đó là vỏ chai bia của người Anh. Trên cổ chai có nút xoáy. Hai người liền bới đống đá ra xem, thấy ở dưới mấy tảng đá có một cái hộp bằng sắt. Trong hộp sắt có một lá cờ nước Anh được gói ghém rất cẩn thận. Bên dưới lá cờ cũng có một cái chai, như này. Có một mảnh giấy dán lên cái chai trên mảnh giấy có viết tên, họ mấy người. Trong chai có một mảnh giấy viết bằng tiếng Anh. Tôi và Ni-lít phải cố gắng mãi mới đọc được mảnh giấy này. Thì ra đây là đội thám hiểm bắc cực người Anh dưới sự lãnh đạo của Giéc-xôn, rời khỏi mũi Phơ-lo-rơ vào tháng tám năm 1897, đến được mũi Me-ri Ham- xpho và để lại lá cờ cùng tờ giấy ở đây. Cuối cùng báo tin rằng chiếc tàu buồm “Uyn-xo” được bình an vô sự.

    Thế là mọi ngờ vực của tôi không ngờ lại được giải quyết hết. Thì ra chúng tôi đang ở trên mũi biển Me-ri Ham-xphơ. Đây là đầu phía tây nam hòn đảo A-lếch-xan-đrơ. Ngày mai chúng tôi có thể chuyển xuống bờ nam cửa đảo, sau đó tiến đến mũi Phơ-lo-rơ, đến lãnh thổ của Giéc-xôn nổi tiếng.

    Thứ tư, ngày 15 tháng 7:

    Chúng tôi nhổ trại. Trước mắt chúng tôi có hai con đường phải chọn: tất cả đi làm một nhóm, mang theo đồ đạc theo băng hà đi xuống, hay chia ra làm hai nhóm, một nhóm đi giầy trượt tuyết tiến theo băng hà, còn nhóm khác độ năm người bơi theo băng hà bằng thuyền da thú. Chúng tôi chọn cách thứ hai để tiến.

    Thứ 5, ngày 16 tháng 7:

    Sáng sớm Mắc-xim và Ni-lít bơi thuyền da thú đến gần chỗ chúng tôi đóng. Ni-lít bị dòng nước trôi đi rất xa, phải cử hai người đi với anh ta. Tôi nhìn qua ống nhòm thấy Ni-lít đã nhấc mái chèo lên, bất lực ngồi nhìn cái thuyền da thú đến cứu. Ni-lít ốm rất nặng, nếu không tôi không có cách nào giải thích về hành động này của anh ta. Nói chung gần đây anh ta có cái gì rất lạ lùng: đi đứng không vững, thường hay ngồi xuống ven đường. Bữa trưa hôm nay chúng tôi nấu hai con le-le và một con chim cụt.

    Thứ sáu, ngày 17 tháng 7:

    Thời tiết thật là ác liệt. Chúng tôi tiếp tục ngồi ở mũi Gran-tơ chờ đội đi bộ tới. Ban đêm trời trở nên sáng sủa. Phía trước, mạn phía tây tây bắc, ở một nơi không xa lắm có thể nhìn thấy một hòn đảo lởm chởm đá ở phía sau khối băng dày. Chẳng lẽ đó lại là Na-đơ-brúc, trên đó có mũi Phơ-lo-rơ? Giờ đây sắp đến lúc chứng minh được việc tôi vội vã tiến về phía mũi này là đúng hay sai. Hai mươi năm - đó là một thời gian dài. Rất có thể với thời gian đó, những vật kiến trúc của Giéc-xôn ở đó không còn lại dấu vết gì. Nhưng còn có cách nào khác nữa? Đi một vòng rộng nữa ư? Liệu những người bạn đường ốm yếu bất hạnh của tôi quần áo tả tơi, cáu ghét, chấy rận đầy người có thể kiên trì được nổi không?

    Thứ bảy, ngày 18 tháng 7:

    Ngày mai nếu thời tiết cho phép, chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Tôi không thể chờ đợi thêm được nữa. Ni-lít cố gắng miễn cưỡng đi. Cô-rôn-cốp có khá hơn một tí. Mặc dù Đu-na-ép có phàn nàn về đôi chân của mình, nhưng ở anh ta tôi không thấy có biểu hiện gì về sự suy nhược tinh thần và thể lực đáng sợ như ở Ni-lít và Cô-rôn-côp. Cái gì có thể kìm chân những người bộ hành này lại? Tôi không biết, nhưng nếu ở lại đây thêm nữa thì nhất định chỉ có chết.

    Thứ hai, ngày 20 tháng 7:

    Đảo Ben. Bước ra khỏi cái thuyền da thú, chúng tôi biết rõ là Ni-lít không thể đi được nữa; anh ta ngã lăn ra và cố gắng bò bằng cả chân lẫn tay. Chúng tôi làm một cái tựa như cái cáng, đặt Ni-lít lên rồi lấy chiếc khăn duy nhất của chúng tôi đắp cho anh. Anh cứ định bò đi đâu ấy, nhưng về sau cũng chịu nằm yên. Ni-lit là người Đan-mạch. Sau hai năm phục vụ trên tàu “Xanh Ma-ri”, anh học nói tiếng Nga rất sỏi. Nhưng bắt đầu từ hôm qua trở đi, anh quên hết tất cả tiếng Nga. Điều làm cho tôi kinh hãi nhất là đôi mắt ngây dại đáng sợ của anh - đôi mắt của một người đã mất hết lý trí. Chúng tôi nấu canh thịt và đem đến cho anh nửa bốt. Anh ăn xong rồi nằm xuống. Mất một thủy thủ ưu tú rất thông minh và cần mẫn như vậy thật là tiếc. Mọi người nằm ngủ, còn tôi, tôi xách khẩu súng trường đến một ghềnh đá nhìn về mũi Phơ-lo-rơ.

    Thứ ba, ngày 21 tháng 7:

    Ni-lít đã chết hồi đêm. Anh không kịp bỏ cái chăn chúng tôi đắp cho anh ra nữa. Nét mặt anh bình thản, chẳng có vẻ gì là đau đớn trước khi chết... Hai giờ sau chúng tôi khiêng người bạn yên nghỉ giấc ngàn thu này ra đặt lên xe trượt tuyết. Mặt đất đóng băng rắn như đá nên không đào được huyệt sâu. Chúng tôi chẳng có ai khóc nấm mồ cô đơn ở nơi xa vời này. Cái chết của người này chẳng làm cho chúng tôi ngạc nhiên cho lắm, hình như đó là một việc rất bình thường đã xảy ra. Tất nhiên đây không phải là thờ ơ, không có tình cảm. Đây chỉ là sự đờ đẫn không bình thường trước cõi chết sẽ đến với mỗi người chúng tôi. Hình như chúng tôi cố tình nhìn xem giờ đây đến lượt “vị ứng cử” nào - có lẽ đến lượt Đu-na-ép, chúng tôi thầm đoán: “liệu anh có rời bỏ chúng tôi trước khi đến nơi không”. Một bạn đồng hành thậm chí còn trêu anh ấy một cách cay độc: “Thế nào, cậu còn ngồi đây làm gì hả con gà nhúng nước? Cậu muốn đi theo Ni-lít hay sao? Đi, đi tìm gỗ trôi đi, hoạt động lên một tí!”. Sau khi Đu-na-ép phục tùng đứng lên đi, có người còn gọi với theo anh: “Cậu đi lảo đảo thế à, đi nhanh lên!” Họ nói như vậy không phải là căm ghét Đu-na-ép. Giờ đây mấy cây gỗ trôi có gì là quan trọng. Họ căm ghét bệnh tật đã cướp đi mất của chúng tôi người đồng chí, kêu gọi chúng tôi phải đấu tranh với cái chết đến cùng. Khi nào chân bị tê dại, muốn khuỵu xuống thì đó là đặc tính của bệnh. Sau đó lưỡi cứng ra. Bệnh nhân cố gắng thế nào cũng không phát ra thành tiếng, hình như bối rối rồi im bặt.

    Thứ tư, ngày 22 tháng 7:

    Ba giờ thì khởi hành đến mũi Phơ-lo-rơ. Lại nghĩ về I-van Li-vô-vích. Tôi chẳng còn nghi ngờ gì nữa, ông suy nghĩ rất nhiều về hòn đảo chúng tôi đã phát hiện ra.Trong thời gian gần đây ông cứ luôn luôn tự trách mình sao không cử một đội đến đó để nghiên cứu. Trong lời từ biệt ông cũng nhắc đến cái hòn đảo ấy. Không bao giờ tôi quên cái buổi vĩnh biệt ấy, không bao giờ tôi quên khuôn mặt trắng bệch kích động lòng người và cái nhìn xa thẳm ấy! Tất cả những cái đó chẳng còn tí chút gì giống với con người có bộ mặt hồng hào, sức sống sôi nổi, luôn luôn nghĩ ra những chuyện giai thoại khôi hài, toàn đội phải khâm phục; con người trước bất cứ khó khăn lớn nhất nào cũng có thể cười đùa được. Ông nói chuyện xong nhưng chẳng ai muốn bỏ đi. Ông đứng đấy, mắt nhắm lại, hình như đang chuẩn bị sức để nói mấy lời vĩnh biệt. Nhưng thay cho lời nói ra là một tiếng thở dài nhè nhẹ và ở đuôi con mắt có giọt nước mắt long lanh. Ông nói lúc đầu đứt đoạn nhưng càng về sau càng bình tĩnh: “Chúng ta cùng đau lòng phải tiễn biệt những người bạn đã cùng chung sống, làm việc và đấu tranh suốt hai năm qua. Nhưng chúng ta cần phải nhớ rằng, mặc dù nhiệm vụ căn bản của đội thám hiểm chưa được hoàn thành, nhưng chúng ta cũng đã làm được rất nhiều việc. Trong lịch sử thám hiểm Bắc cực, lao động của người Nga đã ghi những trang quan trọng - nước Nga có thể tự hào về điều đó. Chúng ta gánh vác một phần trách nhiệm trọng đại, tỏ ra những người thừa kế xứng đáng với các nhà thám hiểm Bắc cực của nước Nga. Nếu chúng ta có chết đi thì những phát hiện của chúng ta không thể mất đi theo chúng ta được. Các bạn của chúng ta hãy trở về báo tin rằng đội thám hiểm của chúng ta với lao động của mình đã tăng thêm cho nước Nga một lục địa rộng lớn mà chúng ta gọi là “Đảo Ma-ri-a”. Ông im lặng một lát rồi ôm từng người chúng tôi và nói: “Tôi muốn nói với các bạn không phải “vĩnh biệt” mà là “tạm biệt”.

    Thứ năm ngày 30 tháng 7;

    Giờ đây chúng tôi chỉ còn lại có tám người: bốn người trên chiếc thuyền da thú, và bốn người đang ở nơi nào đó trên đảo A-lếch-xan-đrơ.

    Thứ bảy, ngày 1 tháng 8:

    Hôm nay xảy ra một việc như sau: Khi chúng tôi đến cách mũi Phơ-lo-rơ khoảng hai ba dặm thì gió tây bắc nổi lên rất dữ dội, sức gió càng ngày càng mạnh, nửa giờ sau, gió thổi mạnh như từ trong ống thổi ra gây nên những đợt sóng rất ác liệt. Trong sương mù mịt, chiếc thuyền da thú số hai cùng Đu-na-ép và Cô-rôn-сốр biến đi đâu mất. Nhận thấy không thể nào chống lại sóng to gió lớn như thế này được nữa, chúng tôi liền theo chiều gió lên một tảng băng lốn để vào bờ; chúng tôi bò lên núi băng, kéo cả cái thuyền da thú lên theo. Sau khi leo lên được núi băng, chúng tôi cắm một lá cờ lên đỉnh núi băng với hy vọng rằng nếu Đu-na-ép có trông thấy anh sẽ đoán ra và cũng sẽ leo lên một tảng băng nào đó. Lúc đó trời rất lạnh. Chúng tôi mặc áo da lông vào, nằm ngược chiều nhau trên đỉnh núi băng. Chân Mắc-xim thò vào áo da của tôi quặp chặt lấy lưng tôi, còn chân tôi thò vào trong áo của Mác-xim và quặp chặt lấy lưng anh. Chúng tôi nằm như vậy và ngủ yên lành được bảy tám tiếng đồng hồ. Một việc vô cùng khủng khiếp đã làm chúng tôi tỉnh giấc. Chúng tôi bị một tiếng động long trời lở đất làm tỉnh dậy và cảm thấy như mình đang chìm xuống như bay, chỉ một phút sau, cái chăn chui của hai người chúng tôi đã đầy nước, chúng tôi cố gắng một cách tuyệt vọng để giãy ra khỏi cái chăn chui phản bội này, chân chúng tôi đạp vào người nhau. Chúng tôi ở tình trạng những con mèo bị người ta dìm xuống nước để giết. Tôi không biết tôi giãy giụa như vậy được mấy giây đồng hồ, nhưng tôi cảm thấy lâu lắm, lâu một cách đáng sợ. Cùng với những ý nghĩ được cứu và sẽ chết, trong đầu óc tôi hiện lên bao nhiêu hình ảnh khác nhau trong chuyến đi này; cái chết của Mô-rép, của Ni-lít, của đội người đi bộ. Giờ đây đến lượt chúng tôi, và không bao giờ có ai biết được điều này. Đúng lúc đó chân tôi va phải chân Mắc- xim, chúng tôi đẩy nhau ra khỏi được cái chăn chui, và lát sau chúng tôi đã đứng ướt sũng trên một tảng băng ngầm dưới nước, chúng tôi ra sức ném lên mặt băng nào ủng, nào mũ, chăn, găng tay những vật này đang trôi lềnh bềnh trong nước xung quanh chúng tôi. Chiếc áo da lông sao mà nặng thế, hai đứa chúng tôi phải khiêng lên, còn chăn thì không vớt kịp, nó chìm mất. Bây giờ chúng tôi phải làm gì đây? Dù tôi có vắt óc suy nghĩ cũng vô ích. Cả hai chúng tôi đều bị lạnh cóng! Hình như để trả lời chúng tôi, chiếc thuyền da thú từ trên đỉnh núi băng bay xuống nước. Cũng có thể gió thổi xuống, mà cũng có thể là khối băng ở dưới chiếc thuyền cũng bị vỡ ra như khối băng ở dưới chỗ chúng tôi khi nãy. Bây giờ chúng tôi hiểu phải làm gi rồi! Chúng tôi vắt đôi bít tất chân và cái áo khoác ngắn kiệt nước rồi mặc vào người, còn tất cả những thứ khác đem bỏ lên thuyền, chúng tôi ngồi lên rồi ra sức chèo thuyền! Trời ơi, đúng là chúng tôi chèo thuyền chí chết! Tôi nghĩ, chỉ có như vậy mới cứu được chúng tôi. Sau sáu tiếng đồng hồ chúng tôi đến được mũi Phơ-lo-rơ...



    * *

    Trong những đoạn những hoa tiêu ghi ngay sau khi rời con tầu tôi tìm thấy một bản đồ rất thú vị. Kiểu bản đồ này rất cũ, tôi cảm thấy nó rất giống tấm bản đồ đính kèm theo chuyến thám hiểm của Nan-xen trên chiếc tàu “Phơ-ram”.

    Nhưng điều làm cho tôi kinh ngạc nhất là: đây là tấm bản đồ tuyến đường của chiếc tàu “Xanh Ma-ri” đã đi từ tháng Mười năm 1912 đến tháng Tư năm 1914. Địa điểm của đợt trôi này lại đúng là nơi được gọi là đảo Pê-téc-man. Hiện nay ai mà chẳng biết cái đảo này không còn nữa? Nhưng có ai biết rằng sự thực đó lại do thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp đi trên tàu “Xanh Ma-ri” là người đầu tiên chứng minh?

    Người thuyền trưởng mà chẳng có quyển sách địa lý nào nhắc đến ấy rốt cuộc đã làm những việc gì? Ông đã phát hiện ra Bắc địa, ông đã chứng minh rằng đảo Pê-téc-man thực tế không có. Ông đã hiệu chỉnh bản đồ Bắc cực - thế mà ông vẫn cho rằng đội thám hiểm của mình thất bại...

    Nhưng điều quan trọng nhất: tôi đã đọc những cuốn nhật ký này theo bản sao của tôi đến năm sáu, bảy lượt rồi (thành ra việc đọc đối với tôi không khó khăn nữa) tôi rất chú ý đến đoạn ghi thái độ của thuyền trưởng đối với sự phát hiện của mình như thế nào:

    “Những ngày gần đây ông luôn luôn tự trách mình đã không cử một đội đến dải đất này (tức Bắc địa) để nghiên cứu. Nếu chúng ta có phải chết đi, thì sự phát hiện của chúng ta cũng không thể mất đi theo chúng ta được. Các bạn của chúng ta hãy trở về báo tin rằng đội thám hiểm chúng ta với lao động của mình đã tăng thêm cho nước Nga một lục địa rộng lớn mà chúng ta gọi là “Đảo Ma-ri-a”.

    “Nếu hoàn cảnh tuyệt vọng buộc tôi phải bỏ tàu thì tôi sẽ đến cái dải đất mà chúng tôi đã phát hiện ra”.

    Và người hoa tiêu đã cho ý nghĩ này là trẻ con và nông nổi.

    Trẻ con và nông nổi! Trong bức thư cuối cùng của thuyền trưởng mà hồi nào đó dì Đa-sa đã đọc cho tôi nghe đã có hai tiếng này.

    “Dù muốn hay không bọn anh cũng đành phải từ bỏ cái ý định ban đầu là đi dọc theo bờ biển Xi-bê-ri để đến Vla-đi-vô-xtốc. Song chẳng có cái rủi nào lại không có điều may. Giờ đây trong đầu óc anh lại nảy ra một ý nghĩ khác hẳn. Anh mong rằng em sẽ không như những bạn đồng hành của anh, cho những ý nghĩ này của anh là trẻ con hay là nông nổi”.

    Trang này viết đến hai chữ ấy thì kết thúc, và trang sau thì không còn nữa. Bây giờ tôi đã hiểu ý nghĩ này là gì: ông muốn rời khỏi tàu và đi đến hòn đảo này. - Cuộc thám hiểm trước đây là mục đích chính của đời ông đã thất bại. Ông không thể quay về với “hai bàn tay trắng”. Ông tha thiết muốn đến cái dải đất mà mình phát hiện ra, cho nên tôi rất hiểu, nếu nói vết tích đội thám hiểm của ông còn lưu lại ở một nơi nào đó thì phải đến cái dải đất này mà tìm! Nhưng có lẽ điều đó chỉ rõ đối với tôi? Có lẽ sở dĩ tôi có thể hiểu được rõ như vậy, là bởi vì tôi có quen một người đàn bà mà tên của bà đã được đặt cho cái dải đất ấy và tôi cũng được thấy bà đã chết như thế nào. Tôi rất muốn tìm bằng được vết tích của đội thám hiểm này để càng chứng minh cho Ca-chi-a biết rằng tôi yêu cô và mãi mãi yêu cô.

    Một đêm khuya vào tháng Ba năm 1935, tôi chép lại trang cuối cùng của cuốn nhật ký này, trang cuối cùng mà tôi có thể đọc được.

    Trong ngôi nhà hai tầng đồ sộ của Ban chấp hành khu mà tôi ở hồi đó, tất cả mọi người đều đã ngủ say từ lâu, chỉ có ánh sáng trong cửa sổ buồng tôi chiếu ra một cái cây nhỏ mảnh khảnh phủ đầy tuyết ở ven đường. Đầu và mắt tôi đều nhức nhối. Tôi mặc quần áo và đi ra ngoài.

    Đường phố tĩnh mịch, trời giá lạnh nhưng không tồi lắm. Trời đầy sao và ở phía tây vẫn ràn thấy chút ánh sáng Bắc cực yếu ớt. Cảm giác trìu mến mà tôi đã thể nghiệm hồi ở sân bay Ba-la-sốp trước kia lại hiện lên trong đầu óc tôi.

    Hình như trong rạp hát đèn bỗng bật sáng, tôi nhìn thấy những người ngồi cạnh mình chính là những người tôi vừa nom thấy trên sân khấu. Chẳng lẽ đó lại là sự thật? Hình như một phút trước đây vẫn không thể nói được rằng những người này sống thật không hay chỉ là một trò chơi bị mờ dần và biến mất dưới ánh sáng của tư tưởng thực tế; nhưng đèn bật sáng, thế là biến mất hết. Trái lại, với sự sáng lạ kỳ và tràn đầy sức sống tôi nhìn thấy xung quanh tôi toàn những người sợ sệt và ốm đau, tuyệt vọng, tràn đầy ảo giác và hy vọng. Khi họ đã rời khỏi con tàu, con tàu đang đỗ cách bờ biển một trăm bảy mươi ki-lô-mét, nhưng họ phải đi gần hai nghìn ki-lô-mét theo biển băng mênh mông bởi vì họ đã bị trôi qua cạnh đất liền. Tuy thuyền trưởng không có trong đám người này. Nhưng cuốn nhật ký làm rung động lòng người ấy lại luôn luôn nhắc đến ông, chỗ nào cũng có lời ông nói, tràn đầy tình yêu mến đối với ông và sự lo ngại của mọi người đối với cuộc sống của ông! Những lời từ biệt được viết bằng bút chì, nét bút, chì ấn sâu xuống giấy, cho nên đây là đoạn dễ đọc nhất trong toàn bộ cuốn nhật ký. “Nhưng thay cho lời nói là một tiếng thở dài nhè nhẹ và ở đuôi con mắt có giọt nước mắt long lanh...”

    Liệu đến một lúc nào đó, tôi có tìm biết được cái gì đã xảy đến với con người ấy, con người hình như đã giao cho tôi nhiệm vụ phải kể lại toàn bộ cuộc sống và cái chết của ông? Ông có bỏ tàu lại để đi nghiên cứu cái dải đất mà ông phát hiện ra không? Hay ông đã hy sinh vì đói cùng với những người bạn của mình? Còn con tàu bị đóng băng giữa biển đang ở bên bố I-a-ma-lô mấy năm qua cùng với đoàn thủy thủ đã chết có đi theo con đường của Nan-xen đến Gren-lan không? Hay là đã bị băng làm cho vỡ tan vào một đêm đại hàn, có bão tuyết mà chẳng có trăng sao, cũng không có ánh sáng Bắc cực. Cột buồm bị gãy đánh rắc một cái, đổ sụp xuống làm vỡ tan thành tàu, giết chết mọi người, còn thân tàu vỡ tan ra kêu răng rắc và hai giờ sau bão tuyết đã kéo tuyết phủ kín nơi xảy ra tai nạn.

    Hoặc trên một hòn đảo nhỏ không người nào đó trên Bắc cực còn có những người của chiếc tàu “Xanh Ma-ri” đang sống? Những người này có thể kể lại số phận của con tàu, kể lại vận mệnh của thuyền trưởng. Trước kia chẳng phải đã có sáu thủy thủ Nga sống mấy năm trời trên một góc hoang vu của hòn đảo Spít-béc- ghen đó sao? Họ giết gấu và hải báo, lấy thịt chúng để ăn, lấy da lông chúng để mặc, dùng da thú để trải làm đệm trong nhà hầm họ làm bằng băng và tuyết.

    Không, làm gì có chuyện như vậy! Từ khi cái ý nghĩ cho rằng rời bỏ tàu để đến đảo Ma-n là “trẻ con” là “nông nổi”, được phát biểu đến nay đã được hai mươi năm rồi. Họ có đến cái đảo ấy không? Họ có đến được không?
    {:kem1:}
     
    Last edited by a moderator: 8/6/15
  4. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    :rose:
    Chương 8

    Gia đình bác sĩ

    Tôi dò cuốn nhật ký này suốt cả mùa đông, nhưng cuộc sống của tôi ở Da-pô-li-a-ri-e vẫn đâu vào đấy. Tôi chở dụng cụ đến Cra-xnô-i-a-rơ-xcơ cho xưỏng gỗ đúng thời hạn và cuối cùng tôi đã rút ngắn được thời gian bay trên tuyến đường này xuống còn tám giờ rưỡi. Tôi chở đội khảo sát đến Nô-rin-xcơ, chở các giáo viên, bác sĩ, các cán bộ công tác của Đảng đến những khu dân tộc Nê-nét hẻo lánh. Tôi đã cùng với đồng chí phi công M. - một đồng chí phi công nổi tiếng - bay đến Đích-xơn. Tôi đã từng bay dọc theo con sông Ê-ni-xây-Cu-rây-ke và sông Tun-gút hạ.

    Nhưng hễ cứ về đến Da-pô-li-a-ri-e là tôi lại đến ngay nhà bác sĩ, tất nhiên là sau khi cắt tóc, tắm rửa xong rồi mới đến.

    Tôi rất quyến luyến bác sĩ và gia đình bác sĩ và hình như họ cũng mến tôi. Nói ra thật nực cười, thái độ của bác sĩ đối với tôi у như đối với một tác phẩm của ông, thậm chí có khi ông nheo một mắt lại, hình như ông hoàn toàn không tin rằng tôi lại chính là cái thằng bé tóc đen gầy còm ốm yếu, mặc chiếc quần rộng thùng thình hồi nào chỉ lắp bắp được mấy tiếng: “gà, yên ngựa, hòm”. Tất nhiên giờ đây tôi không còn cảm thấy ông có vẻ thần bí như hồi tôi còn bé ở làng quê nữa. Nhưng ngay cả lúc này cũng không ai có thể nói được rằng phút sau ông sẽ làm gì. Ví dụ, ông có thể đang ngồi nói chuyện với anh, bỗng tự nhiên ông ném cái ghế của ông sang cho anh và nhất định anh phải bắt lấy ghế và ném trả lại ông. Sau mấy phút chơi thể thao như thế, bác sĩ làm như chẳng có gì xảy ra, lại ngồi xuống chiếc ghế ấy và câu chuyện lại tiếp tục. Ông có rất nhiều bạn người dân tộc Nê-nét. Ông thích đọc những tác phẩm của Cô-di-ma Prút-cốp.

    Họ thường đến nhà ông chơi, da ngăm ngăm, tóc đen, khuôn mặt to, mặc áo bành tô da lông hươu có đính hạt cườm. Họ ngồi xuống và nói chuyện miên man, còn những con hươu xám buộc ở xe trượt tuyết rất cao trợn tròn đôi mắt buồn rầu, đứng chờ rất lâu ở ngưỡng cửa.

    Bác sĩ nói bằng tiếng Nê-nét, còn người Nê-nét thường đến tìm ông để bàn công việc - đôi khi là những công việc rất quan trọng, Họ sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa mới toanh nên không phải tất cả mọi việc họ đều hiểu rõ. Họ chưa tin tưởng lắm vào cái ông chủ tịch Vát-xcơ nào đó. Ông này được ủy ban Xô Viết công nhận là chuyên gia chính về các vấn đề nông trang tập thể. Ví dụ, có một lần họ đến để hỏi xem ý kiến bác sĩ thì nên xử một tên ăn cướp như thế nào: để họ tự giết chết tên này hay giải lên giao cho chính phủ? Một lần khác họ đến để tìm hiểu xem ý kiến của bác sĩ đối với loại bếp đèn cồn hơi đốt như thế nào, dùng loại bếp này trong gia đình có thích hợp hay không?

    Bác sĩ đã phải giải thích rất lâu là tên ăn cướp thì phải giải lên giao cho chính phủ, bếp đèn cồn dùng trong gia đình rất thích hợp, còn những người Nê-nét thì im lặng ngồi nghe ông nói với thái độ nghiêm túc ngây thơ. Sau đó ít lâu tôi có dịp nói rất dài với người Nê-nét về chiếc đèn cồn, nhưng chuyện này xin kể sau.

    Dù sao thì đây cũng là một tình bạn bền vững. Bác sĩ có kể cho tôi nghe rằng mối tình bạn này được bắt đầu từ sau ngày thành lập “trạm tẩy giun sán” ở thôn Ha-ba-rô-vô. Đây là một thành công thực sự trong ngành у học. Bác sĩ được mọi người gọi là “ông thầy tẩy giun”, do đó tên tuổi ông lan truyền khắp vùng đồng rêu...

    Trong nhà ông có rất nhiều động vật: mèo Phin-ca, rùa, nhím, cú mèo. Con cú mèo sống dưới gầm bàn ăn, khi nào mọi người ngồi vào ăn trưa là cú mèo kêu “ai, ai, ai”. Cậu Vô-lô-đi-a cai quản tất cả bọn này và cả hai con chó tên là Bu-xi-ca và Tô-ga nữa. Vô-lô-đi-a dạy hai con chó kéo xe. Người Nê-nét tặng cậu một chiếc xe rất đẹp trang hoàng bằng da voi bắc cực. Tôi rất mến Vô-lô-đi-a vì cậu ta không khoe khoang những bài thơ của mình. Đó là bí mật của cậu. Suốt cả mùa đông, chỉ có một lần tôi nghe thấy cậu ngâm thơ. Thoạt đầu cậu ta lẩm bẩm đọc rất lâu, cậu không biết rằng tôi đang ở buồng bên cạnh và đã nghe được tất cả. Sau đó cậu đọc to, có điệu bộ:

    Trôn-ca tan học về nhà
    Trăng cười trong mắt anh ta hiền lành.
    Xuống xe, anh vẫy tay nhanh
    Vui tươi, rộn rịp theo anh vào lều.

    Sau đó cậu lại bắt đầu lẩm bẩm.

    Tôi kể cho cậu nghe chuyện thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp và giải thích cho cậu hiểu cuốn nhật ký của Cơ-li-mốp đã chết là quan trọng như thế nào đối với việc này. Và thế là cứ mỗi lần tôi đến nhà bác sĩ tôi lại mang theo những trang nhật ký mới dò ra được và Vô-lô-đi-a lại ngồi nghe chúng tôi nói chuyện. Nét mặt cậu xúc động đến nỗi bác sĩ phải ra hiệu bằng mắt cho tôi, âu yếm ôm vai cậu. Rõ ràng không phải cậu ta chỉ làm một bài thơ về câu chuyện này và cuộc đời của thuyền trưởng Ta ta-ri-nốp không phải chỉ được kể lại bằng văn xuôi.

    Bác sĩ rất thích những đoạn người hoa tiêu viết về bệnh tật, thoạt đầu thì chân bị tê dại, sau đó nói không ra tiếng rồi chết một cách đột ngột vô cớ. Thế là Vô-lô-đi-a liên tưởng đến E-van, người bạn đường của thuyền trưởng Xcốt cũng chết về bệnh này..

    - Xcốt viết rằng, những người khỏe mạnh nhất cũng chết về bệnh này, - cậu ta nói, đỏ mặt lên. - Ông ta tưởng đây là một loại bệnh thần kinh gì đó.

    Nhưng điều làm cho cậu hết sức kinh ngạc là giả thuyết của tôi: chiếc tàu buồm mang theo đoàn thủy thủ đã chết này có thể còn đậu trong băng tuyết ở gần một hòn đảo hoang vu nào đó. Cậu vừa định hỏi câu gì nhưng lại thôi mà cứ há mồm ra như trẻ con, xúc động đến nỗi mặt, má, thậm chí đến cả cổ cũng nổi da gà lên...

    Tất nhiên bà An-na Xtê-pa-nốp-na là nhân vật chủ chốt trong nhà này. Tất cả mọi người đều phải nghe bà. Thậm chí đến con cú mèo chẳng chịu nghe lời ai cả, hễ cứ thấy bác sĩ là tỏ thái độ trách móc kêu “ai, ai, ai” cũng phải nghe lời bà. Chả trách những người Nê-nét nói với bác sĩ rằng “Có được bà vợ cao lớn thế kia tốt biết chừng nào!”. Bà biết làm cho mọi người phải tôn kính. Không phải chỉ trong gia đình, mà trong toàn thành phố ai cũng đều nghe lời bà.

    Bà sinh ra trong một gia đình hàng hải nổi tiếng cha, chú và mấy người anh em đều làm thuyền trưởng các tàu trên sông hoặc trên biển. Thỉnh thoảng vào mùa Ca-ra - ở Da-pô-li-a-ri-e người ta gọi tháng tám và tháng chín là thế, khi tàu phá băng của chúng ta dẫn những tàu thủy của Liên Xô và của nước ngoài qua biển Ca-ra, anh em và chú của bà rẽ vào chơi. Trông họ rất giống bà, cũng cao lớn, chắc nịch, mặt to, mũi to và người nào cũng râu xồm.

    Đối với câu chuyện thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp, bà An-na Xtê- pa-nốp-na lại nhìn ở một góc độ thật không ngờ.

    - Đàn bà thật là bất hạnh! - Bà nói, mặc dù trong câu chuyện chẳng có lời nào nói đến phụ nữ. - Chờ hết năm này đến năm khác, nhưng có lẽ ông ấy đã chết từ lâu rồi, đến vết tích cũng chẳng còn lại gì nữa, thế mà họ vẫn cứ chờ. Mọi người đều hy vọng rằng: có thể ông sẽ trở về! Và những đêm không ngủ! Còn con trẻ! Nói gì với trẻ con bây giờ? Và những tình cảm này là vô hy vọng đến nỗi thà chính mình chết đi còn hơn! Thôi, các ông đừng nói với tôi nữa, - Bà An-na-Xtê-pa-nôp-na ra sức nói, những việc đó chính mắt tôi đã nhìn thấy rồi. Còn nếu một người như thế mà trở về được thì thật là một anh hùng, còn gì nữa. Nhưng còn bà ta - tất nhiên bà ta cũng là nữ anh hùng!
    {:kem1:}
     
    Last edited by a moderator: 8/6/15
    thichankem thích bài này.
  5. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    :rose:
    Chương 9

    “Hình như chúng mình đã gặp nhau...”

    Vô-lô-đi-a đánh xe trượt tuyết đến đón tôi vào lúc bẩy giờ sáng. Trong lúc còn đang mơ màng, tôi nghe thấy cậu mắng hai con chó kéo xe là Bu-xi-ca và Tố ga ở phía dưới. Tối hôm qua tôi có hẹn cậu sẽ đi thăm nông trường chăn nuôi và cậu bỗng đề nghị đi xe trượt tuyết do chó kéo.

    - Chúng nó chỉ không biết rẽ thôi, - cậu nói nghiêm trang, - còn kéo rất tốt. Đến chỗ rẽ em phải xuống xe và tự vòng lấy.

    Lúc đầu tôi phản đối, nói tốt nhất nên đi giày trượt tuyết. Nhưng Vô-lô-đi-a giận vì những con chó của mình nên tôi đành phải đồng ý.

    - Đến mẹ còn phải công nhận, - cậu ta nói nghiêm trang,- chạy đường thẳng, chúng nó kéo rất tuyệt.

    Như một người Nê-nét chính cống, cậu hăng hái quát “Hây- xư” khi chúng tôi đã ngồi lên xe, thế là hai con chó lồng lên chạy. Ôi giời, những bông tuyết cứ đập thẳng vào mặt, mắt đau nhói và thở không ra hơi! Chiếc xe lao lên gò tuyết, tôi vội nắm lấy Vô-lô-đi-a, nhưng cậu ngạc nhiên quay lại nhìn. Tôi đành phải buông cậu ra và bắt đầu bồng bềnh trên mấy sợi dây da mà tôi cho là buộc rất lỏng.

    Tôi nghĩ bụng tốt nhất nên chạy chậm một chút, - nhưng sao được! Làm gì còn thì giờ mà nghĩ! Vô-lô-đi-a giơ roi dọa hai con chó, thế là chúng lao đi càng ngày càng nhanh. Tất nhiên tôi có thể quát Vô-lô-đi-a, bảo cậu ta hãm lũ chó lại. Nhưng làm như vậy chỉ tổ làm cho cậu coi thường tôi mãi mãi. Hay tôi cứ gọi cậu ta một tiếng - cái xe tuyết chết tiệt này nhảy trên tuyết dữ quá! Nhưng lúc đó Vô-lô-đì-a lại quay lại nhìn tôi, sắc mặt cậu đỏ gay, phấn khỏi, cái tai mũ bướng bỉnh lật sang một bên, thế là tôi quyết định nằm sấp xuống, phục tùng cậu ta.

    “Họ”! Bỗng lũ chó đứng dừng phắt lại như đóng đinh và chính tôi cũng không biết làm thế nào ngồi yên được trên xe. Chẳng có gì đặc biệt cả! Hình như đã đến chỗ rẽ sang đường đi Prô-tô-ca, nên Vô-lô-đi-a dừng xe lại để đổi hướng.

    Tôi không nhớ rõ trên đường đi tôi đã thề bao nhiêu lần là sẽ không bao giờ ngồi xe trượt tuyết do chó kéo nữa. Có lẽ đến hòn đảo nông trường chăn nuôi có bao nhiêu chỗ rẽ thì tôi đã thề bấy nhiêu lần. Nhưng Vô-lô-đi-a lại rất phấn khởi.

    - Này, tuyệt đấy chứ?

    Tôi đành phải thừa nhận là “tuyệt”.

    Và cuối cùng đến Prô-tô-ca! Chúng tôi lách qua những lùm cây, từ trên bò trượt xuống phóng như bay trên các mô tuyết nhấp nhô. Giờ đây cuối cùng tôi thấy rõ ràng lũ chó của Vô-lô-đi- a kéo xe tuyết trên đường thẳng đúng là rất tuyệt. Lúc nào chúng cũng biết chọn đường thích hợp, biết tránh những ổ gà và những tảng băng mấp mô. Còn Vô-lô-đi-a thì hò hét, mắng mỏ lũ chó đến khản cả cổ. May mắn sao bờ sông bên kia rất dốc cho nên lũ chó tự nhiên cũng chạy chậm lại.

    Nhưng đi qua Prô-tô-ca rồi, lũ chó lại tăng tốc độ, bắt đầu sủa váng lên. Có chuyện gì vậy? Hình như để đáp lại, từ đằng sau những lùm cây vang lên nhiều tiếng sủa khác nhau, lúc đầu còn ở xa, sau càng nghe càng gần. Đó là những tiếng sủa kéo dài, man rợ và loạn xạ cả lên. Nghe tiếng sủa ấy người ta không khỏi cảm thấy đau nhói trong tim.

    - Vô-lô-đi-a, ở đâu ra nhiều chó thế?

    - Không phải chó! Cáo đấy!

    - Tại sao chúng biết sủa?

    - Chúng cũng giống như chó! - Vô-lô-đi-a quay lại nói to. - Chúng cũng biết sủa!

    Tất nhiên là tôi đã có dịp thấy những con cáo màu nâu xám rồi. Nhưng Vô-lô-đi-a giải thích là trong nông trường này nuôi những con cáo màu đen và màu bạc, đây là một loại cáo khác hẳn. Trên thế giới không đâu có những con cáo như thế. Người ta cho rằng nếu ở cuối đuôi mà màu trắng thì đẹp. Nhưng ở đây, trong nông trường này lại đang cố gắng gây một loại cáo không có một cái lông trắng nào.

    Tóm lại cậu quả đã làm cho tôi thích thú. Tôi rất lấy làm bực mình vì sau đó mười làm phứt, chúng tôi đến cổng nông trường chăn nuôi, và ngưòì bảo vệ đeo súng trường bảo là nông trường đóng cửa không cho vào tham quan.

    - Thế thì mở cửa cho ai?

    - Cho những người làm công tác nghiên cứu khoa học, - người bảo vệ trả lời giọng oai vệ.

    Tí nữa thì tôi nói rằng chúng tôi đến cũng là để nghiên cứu khoa học, nhưng ngay lúc đó tôi nhìn sang Vô-lô-đi-a và kịp ngậm miệng lại.

    - Thế có thể gặp được giám đốc nông trường không?

    - Giám đốc đi công tác vắng.

    - Ai thay ông ấy?

    - Chuyên viên khoa học cao cấp, - người bảo vệ nói, làm ra vẻ như chính ông ta là chuyên viên khoa học cao cấp.

    - Hay lắm, thế thì chúng tôi xin gặp ông ấy!

    Tôi để Vô-lô-đi-a đứng ở ngoài cổng, còn mình đi vào tìm chuyên viên khoa học cao cấp.

    Rõ ràng là trong nông trường này chẳng có mấy người, bởi vì trên cái sân rộng mênh mông phủ đầy tuyết chỉ có một con đường nhỏ dẫn đên ngôi nhà mà người bảo vệ chỉ cho tôi. Từ xa nhìn ngồi nhà này tôi sực nhớ lại cái phòng thí nghiệm màu xanh bẩn thỉu ở trong vườn bách thú ở Mát-xcơ-va. Ở đấy Va-li-a Giu-côp đã cho chúng tôi xem nhũng con chuột của nó. Có điều phòng thực nghiệm kia to hơn ngôi nhà này một chút. Cái cảm giác tương tự ấy sao mà mãnh liệt thế, thậm chí tôi còn cảm thấy như đã ngửi thấy mùi chuột hôi hám. Tôi phủi tuyết bám trên đôi ủng da lông rồi đẩy cửa bước vào một căn phòng to rộng nhưng thấp. Căn phòng này thông với một căn phòng nữa còn rộng hơn. Trong căn phòng rộng kia có một người đang ngồi bên bàn làm việc. Tôi cảm thấy như người này chính là Va-li-a, mặc dù giây phút đầu tiên vẫn còn bị tuyết làm cho lóa mắt, tôi chưa thể nhận ra ngay được, hơn nữa khi nhìn thấy tôi anh ta đứng dậy, lưng quay ra cửa sổ. Tôi cảm thấy người này nhìn tôi hệt như Va-li-a nhìn, cũng có điệu bộ hiền từ và hơi ngớ ngẩn như thế, hình như trên má người này cũng có những sợi lông tơ đen như của Va-li-a, có điều là rậm hơn và đen hơn thôi. Tôi cảm thấy anh ta sẽ hỏi tôi ngay cũng với cái giọng như Va-li-a:

    - Đồng chí cần gì ạ?

    - Va-li-a! - tôi nói. - Có đúng cậu không, Van-ca?

    - Gì cơ? - Anh ta lúng túng hỏi và cũng ngả đầu sang một bên.

    - Va-li-a, của khỉ! - Tôi nói và cảm thấy tim mình đập rất mạnh. - Cậu làm sao thế! Cậu không nhận ra mình thật ư?

    Anh ta cười do dự và chìa tay cho tôi.

    - Không, làm gì có, - anh ta nói, giọng lạc đi. - Hình như chúng mình đã gặp nhau.

    - Hình như! Chúng mình như đã gặp nhau!

    Tôi nắm lấy tay anh và kéo ra chỗ cửa sổ.

    - Nào, nhìn đi! Đồ con bò!

    Anh ta nhìn và cười lưỡng lự.

    - Rõ khỉ, chẳng lẽ cậu không nhận ra thật hay sao? - Tôi ngạc nhiên nói. - Thế này là thế nào? Chẳng lẽ mình lầm à?

    Anh ta chớp chớp mắt. Sau đó, vẻ mặt nghi ngờ đã biến mất, lúc này thì đúng là Va-li-a, đúng là Va-li-a bằng xương bằng thịt, quyết không thể lẫn với bất cứ người nào trên đời này được. Vả lại có lẽ giờ đây tôi cũng đã là tôi hơn cho nên cuối cùng cậu ta đã nhận ra tôi.

    - Xa-nhi-a! - cậu ta hét lên, thở không ra hơi. - Cậu đấy à?

    Chúng tôi ôm hôn nhau và cứ ôm nhau như thế đi ra ngoài, ra đến cửa cậu ta lại hôn tôi cái nữa.

    - Thì ra là cậu à? Khỉ thật! Cậu cừ lắm! Cậu đến đây bao giờ?

    - Mình không đến mà đang ở đây.

    - Ở đây?

    - Rất đơn giản. Mình ở đây đã được nửa năm.

    - Thong thả, thế là thế nào? - Va-li-a lắp bắp. - Đúng rồi, mình rất ít khi ra thành phố , nếu không mình đã gặp cậu. Hừ... Nửa năm rồi! Đúng nửa năm rồi sao?

    Va-li-a dẫn tôi sang một phòng khác, căn phòng này chẳng khác gì căn phòng chúng tôi vừa mới đứng. Khác chăng là trong phòng này có kê một cái giường và trèn tường có treo một khẩu súng săn. Nhưng đó là phòng làm việc còn đây là phòng ngủ. Gần dó còn có một phòng thực nghiệm. Điều này cũng dễ đoán ra vì từ trong phòng đã ngửi thấy mùi hôi. Cái mùi hôi động vật hòa hợp với Va-li-a, với đôi mắt lờ đờ, với mái tóc bù xù, với những lông tơ trên má cậu ta làm cho tôi không khỏi bật cười. Trên người Va-li-a lúc nào cũng có cái mùi gì đó.

    Cậu ta sống trong căn nhà to lớn này gồm ba phòng với một cái bếp. Cậu ta đã trở thành chuyên viên khoa học cao cấp và theo chế độ thì cậu ta được ở căn nhà rộng lớn trống trải này. Cậu ta chẳng biết làm gì cho hết.

    Tôi bỗng sực nhớ còn để Vô-lô-đi-a đứng chờ ở ngoài cổng. Va-li- a cử chuyên viên khoa học sơ cấp ra đón Vô-lô-đi-a. Người chuyên viên này hơn Va-li-a khoảng ba chục tuổi, đó là một người đàn ông để râu, mũi rất to và hơi thô. Nhưng rõ ràng là ông ta đã gây cho Vô-lô-đi-a một ấn tượng rất tốt, cho nên chỉ sau nửa tiếng đồng hồ hai người đã chuyện trò rất thân mật. Vô-lô-đi-a nói chú Pa-ven Pê-trô-vích - tên ngưòí đàn ông - hứa là sẽ cho xem cái bếp của con cáo.

    - Cũng có cơm cho cáo, - ông Pa-ven Pê-trô-vích nói.

    - Hôm nay chúng ta có những gì?

    - Cà chua và cháo bột trân châu.

    - Dẫn chú ấy đi xem “Rừng nhiệt đới”, - Va-li-a nói. Vô-lô-đi-a đỏ mặt lên, sau khi nghe nói thế, hình như cậu ta nín thở. Tất nhiên thôi! “Rừng nhiệt đới” kia mà!

    - Chú Pa-ven Pê-trô-vích, đưa cháu đi xem “Rừng nhiệt đổi” trước đã có được không ạ? - Cậu ta lắp bắp đề nghị.

    - Không trước hết phải xuống bếp đã, nếu không chúng ta sẽ lỡ mất bữa án sáng.

    Họ đi ra. Tôi và Va-li-a ở lại. Cậu ta bận rộn thết tôi một bữa, pha trà và mang thức ăn điểm tâm ở dưới bếp lên.

    - Những thứ này do nhà ăn tập thể của chúng mình đây! Cũng không tồi, đúng không nào?

    Thức ăn điểm tâm cũng có mùi súc vật. Tôi nếm một miếng rồi bắt chước đầu bếp Pê-chi-a ở trại trẻ chúng tôi nói.

    - A! Có độc!

    Va-li-a cười sung sướng.

    - Hiện nay chúng nó ở đâu cả? Tan-ca Ve-lích-cô ở đâu? Gri- sca Pha-be? Thầy I-van Pa-vơ-lứt ở đâu? Thầy thế nào?

    - Thầy I-van Pa-vơ-lứt chẳng sao cả, - Va-li-a nói. - Mình có đến nhà thầy. Thầy có hỏi thăm cậu.

    - Sao?

    - Mình nói là mình không biết. ,

    - Thế à, tất nhiên là cậu không biết! Thế ai gọi đến nói cho cậu ở Mát-xcơ-va? Họ có báo cho cậu không?

    - Có báo. Nhưng người ta bảo mình rằng, một phi công gọi. Lúc đó mình không biết cậu là phi công.

    - Cậu toàn nói dối! Thế cậu làm thế nào để đến đây?

    - Mình ấy à, cậu có biết không, mình nghĩ ra một cái rất có ý nghĩa, - Va-li-a nói, - dùng thứ này có thể làm cho nó lớn rất nhanh.

    - Cho ai?

    - Cáo.

    Tôi cười.

    - Lại máu thay đổi theo lứa tuổi chứ gì?

    - Cái gì?

    - Máu rắn độc thay đổi tùy theo lứa tuổi, tôi trịnh trọng nhắc lại. - Đây cũng là cái trò do cậu nghĩ ra chứ gì. Khỉ thật, nhưng gặp cậu mình rất phấn khởi!

    Tôi quả là có phấn khởi thật, phấn khỏi từ đáy lòng! Tôi và Va-li-a bao giờ cũng yêu nhau, nhưng hồi đó chúng tôi chưa biết là sau nhiều năm, khi cuộc sống cũ hình như đã bị quên một nửa, bỗng bất ngờ chúng tôi lại được gặp nhau, thì thực là thú vị quá!

    Chúng tôi nói chuyện về thầy Cô-ra-bơ-li-ốp, nhưng lúc đó Va-li-a sực nhớ ra là nó phải đi cho cáo con uống thuốc gì đó.

    - Cậu dặn người khác đi có được không?

    - Không được, cậu có hiểu không, việc này mình phải tự tay làm, tự mình cho nó uống, - Va-li-a nói vẻ lo lắng. - Đây là bệnh còi xương. Cậu chờ mình một tí nhé. Mình sẽ về ngay.

    Tôi không muốn rời khỏi nó, thế là hai chúng tôi cùng đi.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 9/6/15
  6. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    :rose:
    Chương 10

    Chúc ngủ ngon

    Trời đã bắt đầu tối, Vô-lô-đi-a mới từ “Rừng nhiệt đới” về. Thì га danh từ này là chỉ một khu rừng rậm do nông trường chăn nuôi đành ra để cho các loài thú được sống tự do ở đây. Vô-lô-đi- a ngạc nhiên nhất là những ngôi nhà nhỏ để nuôi cáo.

    - Tuyệt thật! - Vô-lô-đi-a nói, cố gắng không để lộ ra là mình đang phấn khởi. - Nói chung chúng sống hoàn toàn như người. Chúng ăn sáng rồi nghỉ ngơi, rồi chơi đùa, một vài con lớn thì đi thăm hỏi nhau.

    Va-li-a khuyên tôi nên ngủ lại ở chỗ nó, tôi gọi điện thoại về cho bác sĩ, để cho Vô-lô-đi-a về trước một mình...

    Da-pô-li-a-ri-e là một thành phố ồn ào. Việc giao thông trong thành phố cố nhiên không tấp nập lắm, chỉ thỉnh thoảng mới có vài chiếc xe ô-tô, xe hươu kéo, xe ngựa và xe chó kéo cùng chen nhau đi lại trên đường phố. Những chiếc cưa máy ở trong xưởng gỗ làm ầm ĩ, suốt ngày đêm bên tai bạn lúc nào cũng có tiếng rít ngày càng mạnh lên. Và cuối cùng bạn chẳng thèm để ý đến nó nữa. Nhưng trong đầu óc bạn vẫn văng vẳng có tiếng cưa máy ở đầu đó xa xa. ;

    Còn ở đây, trong nông trường chăn nuôi này rất tĩnh mịch. Chúng tôi đi dạo trong rừng và gặp bác Pa-ven Pê-trô-vích. Bác đang căng lưới bẫy chim đa-đa. Chúng tôi nói chuyện với bác rất lâu về rừng, về mùa Ca-ra, về thời tiết.

    - Anh Va-len-tin Ni-cô-la-e-vích , thế nào, đêm nay đem Đông Các-lốt đến chỗ anh nhé? - Bác hỏi. Một ngươi đàn ông đã đứng tuổi, có cái mũi to đáng kính như thế lại đi gọi Va-li-a là Va-len- tin Ni-cô-lai-e-vích và nói chuyện với cậu ta một cách kính cẩn ý như nói với một chuyên viên khoa học cao cấp thực thụ là rất buồn cười và cũng làm cho tôi rất thú vị. Đông Các-lốt là tên một con cáo con, chú ta rất sợ rét.

    Sau đó chúng tôi trở về phòng Va-li-a, mỗi người uống một cốc rượu con. Nó nói với tôi, đúng là nửa năm nay hầu như nó không ra khỏi nông trường chăn nuôi. Nó đang có một công tác rất thú vị: nó đang mổ dạ dày những con hắc điêu thử để nghiên cứu xem chúng ăn những thứ gì. Có mấy cái dạ dày hắc điêu thử là của nó, ngoài ra còn khoảng hai trăm cái khác là do tấm lòng tốt của khu rừng cấm cung cấp cho nó sử dụng. Nó phát hiện ra một việc rất thú vị như sau: khi chế tạo những túi lông loại nhỏ, phải thương hại lũ chuột kim hoa, bởi vì hắc điêu thử chủ yếu ăn thịt chuột kim hoa.

    Tôi im lặng nghe nó nói. Chỉ có hai chúng tôi ở trong căn nhà trống trải này. Gian buồng này cũng trống trải. Một gian buồng mênh mông, không đủ tiện nghi của một người đơn độc.

    - Ừ, thú vị thật, - tôi nói sau khi Va-li-a nói xong. - Như thế có nghĩa là hắc điêu thử ăn thịt chuột kim hoa. Tuyệt thật! Thế còn cậu, cậu có biết cậu cần cái gì nhất không? Cậu có biết nhu cầu bức thiết nhất của cậu là gì không? Lấy vợ!

    Va-li-a chớp mắt rồi cười.

    - Tại sao cậu nghĩ thế? - Nó do dự hỏi.

    - Tại vì cậu đang sống như con chó. Và cậu có biết, cậu cần, có một người vợ như thế nào không? Phải là một người đàn bà biết mang bánh mì cặp thịt đến phòng thực nghiệm cho cậu ăn và đừng có đòi hỏi cậu quan tâm nhiều đến cô ấy.

    - Ừ, cậu nói rằng, - Va-li-a lắp bắp. - Có gì đâu! Rồi đây mình sẽ lây VỢ. Mình chỉ cần bảo vệ xong luận án, sau đó mình hoàn toàn tự đo. Và mình cũng sắp trở về Mát-xcơ-va đấy. Còn cậu?

    - Mình cái gì?

    - Tại sao cậu không lấy Vợ?

    Tôi im lặng.

    - O, mình thuộc loại đặc biệt. Mình có một cuộc đời riêng. Cậu nghĩ xem, những người như mình: hôm nay ở đây, còn ngày mai sẽ ở tít tận trời nam biển bắc đâu đâu ấy. Mình không được lấy vợ.

    - Không, cậu cũng cần phải lấy vợ, - Va-li-a bác lại. - Cậu nghe đây, - cậu ta bỗng phấn khởi nói, - cậu có nhớ cái lần cậu đến vườn bách thú tìm mình, Ca-chi-a đến với một cô bạn nữa không? Cô ấy tên là gì? Cái cô người cao cao, có bím tóc ấy mà.

    Nét mặt cậu ta lúc đó sao mà hiền lành, ngây thơ. Tôi nhìn không nhịn được cười.

    - Sao lại không nhớ! Ki-ren! Rất đẹp, có đúng không nào?

    - Rất đẹp, - Va-li-a nói. - Rất đẹp!

    Va-li-a định nhường giường của nó cho tôi ngủ, nhưng tôi không cho nó làm như thế, tôi ngủ trên sàn. Giường bao nhiêu cũng có, nhưng tôi bao giờ cũng thích ngủ trên sàn. Cái đệm cỏ cao kêu lạo xạo, tôi reo lên “ô hồ”, - Va-li-a lo lắng, tưởng tôi khó nằm. Thực ra, tôi nằm rất dễ chịu. Từ dưới nhìn lên có thể nhìn thấy bầu trời yên tĩnh, hình như trên đó cũng hoàn là rừng và đầy những tuyết. Nằm nhìn trời mà nói chuyện thì thật tuyệt. Chẳng muốn ngủ tí nào cả.

    Chẳng có chuyện gì là chúng tôi không bàn đến! Thậm chí chúng tôi còn nhớ lại cả con nhím mà Va-li-a đã bán cho Trường đại học Tổng hợp được hai mươi cô-pếch. Sau đó lại quay lại chuyện thầy Cô-ra-bơ-li-ốp.

    - Cậu có biết không, - tự nhiên Va-li-a nói, - tất nhiên, có thể là mình sai, mình cảm thấy hình như thầy ấy yêu bà Ma-ri-a Va- xi-li-ép-na. Cậu thấy thế nào?

    - Có thể.

    - Bởi vì việc đó rất kỳ quặc, Có một lần mình đến chỗ thầy, mình thấy ở trên bàn có tấm ảnh của bà. Mình đến hỏi thầy một việc gì đấy, mà hôm sau mình định đến nhà Ta-ta-ri-nốp, thế là thầy nói chuyện ngay về bà ấy. Sau đó thầy im lặng, nhưng nét mặt thầy thế nào ấy... Mình đoán ở đây có cái gì không ổn.

    - Va-li-a, xin đủ cậu đi! - Tôi bực bội nói. - Thật tình mà nói, mình không hiểu cậu sống ở đâu! Ông ta có yêu bà ấy thật! Ông ta không thể sống không có bà ấy! Toàn bộ câu chuyện chẳng đã xảy ra ngay trước mắt cậu đó sao! Ô, hồi đó cậu còn mải nghiên cứu rắn độc, điều đó cũng dễ hiểu thôi.

    - Cậu bảo sao? Thầy là người đáng thương!

    - Đúng, ông ta là một người thật đáng thưdng!

    Chúng tôi im lặng. Sau đó tôi hỏi:

    - Cậu có thường đến nhà Ta-ta-ri-nốp?

    - Không thường xuyên lắm. Mình đến tất cả ba lần.

    - Thế họ sống thế nào.

    Va-li-a chống người trên khuỷu tay. Hình như nó muốn nhìn tôi trong bóng tối, mặc dù tôi nói câu ấy rất bình tĩnh.

    - Chẳng sao cả. Hiện nay Ni-cô-lai An-tô-nứt là giáo sư.

    - Thế đấy! Ông ta dạy môn gì?

    - Giáo dục học, - Va-li-a nói. - Cậu hãy tin mình nói, ông ấy là một giáo sư rất được tôn kính... và nói chung...

    - Nói chung cái gì?

    - Theo mình, trong chuyện này cậu đã lầm.

    - Thật đúng như thế sao?

    - Ừ, ừ, - Va-li-a nói một cách khẳng định. - Trong việc này cậu đã lầm! Ví dụ, cậu hãy xem ông ấy đôi xử với học trò của mình như thế nào. ông ấy sẵn sàng vì học sinh của mình mà nhảy xuống nước hoặc lao vào lửa. Thằng Rô-ma-sôp nói với mình rằng, năm ngoái...

    - Rô-ma-sốp? Thằng cha ấy ở đâu ra thế?

    - Sao lại ở đâu ra? Chính nó dẫn mình đến nhà Ta-ta-ri-nốp mà.

    - Nghĩa là, nó cũng thường đến nhà Ta-ta-ri-nốp?

    - Nó ấy à? Nó là trợ lý của Ni-cô-lai An-tô-nứt. Ngày nào nó chẳng ở đấy. Nói chung, nó là người gần gũi nhất trong gia đình này.

    - Hượm đã, cậu bảo sao? Mình không hiểu, Rô-ma-sca như thế à?

    - Ừ phải, Va-li-a nói. - Nhưng cậu có hiểu không, hiện nay không ai gọi nó như thế nữa. Và theo mình thì nó chuẩn bị lấy Ca-chi-a.

    Hình như có cái gì đâm trúng trái tim tôi, tôi ngồi phắt dậy. Va-li-a cũng ngồi lên giường, mắt ngơ ngác nhìn tôi.

    - Sao thế? - Nó hỏi. - À, ừ, khỉ thật? Mình quên khuấy đi mất!

    Nó lẩm bẩm rồi cuống quít nhìn quanh và tụt xuống khỏi giường. Nó nói tiếp:

    - Không phải chuẩn bị...

    - Không nên thế, tốt nhất cậu nên nói hết đi, - tôi nói rất bình tĩnh.

    - Sao lại “nói hết”? - Va-li-a nói lắp bắp. - Mình chẳng giấu cậu điều gì cả. Chẳng qua mình chỉ nghĩ thế thôi, nhưng mình suy nghĩ cũng chẳng ít đâu! Đôi khi còn những ý nghĩ nảy ra trong đầu óc mình mà chính bản thân mình cũng thấy ngạc nhiên.

    - Va-li-a!

    - Mình thật không biết! - Va-li-a nói vẻ tuyệt vọng. - Cậu níu lấy mình làm gi? Chẳng qua đây chỉ là cảm giác, nhưng cũng có khi khó mà biết được mình cảm thấy cái gì. Cậu có thể không tin mình - cũng được.

    - Cậu cảm thấy thằng Rô-ma-sốp muốn cưới Ca-chi-a à?

    - Không! Khỉ thật! Mình nói với cậu là không? Chẳng có chuyện gi như thế cả! Hiện nay nó ăn mặc có sang trọng hơn, thế thôi.

    - Va-li-a!

    - Minh xin thề với cậu là mình không biết tí gì hơn nữa.

    - Nó có nói với cậu không?

    - Ừ, có nói! Ví dụ như nó kể ràng, nó bắt đầu gom góp tiền từ năm mười ba tuổi,thế mà hiện nay không ngờ chỉ trong vòng nửa năm đã tiêu hết sạch, chuyện đó, theo cậu cũng có liên quan, có phải không?

    Tôi không nghe thấy Va-li-a nói thêm gì nữa. Tôi nằm xuốhg sàn, nhìn lên trời. Tôi cảm thấy tôi đang nằm dưới cái hố sâu kinh khủng, cả thế giới đang nói chuyện ồn ào trên đầu tôi, còn tôi nằm một mình, chẳng có ai nói với tôi một lời nào. Bầu trời vẫn tối đen như mực, sao vẫn sáng, không biết từ đâu chiếu đến một tia ánh sáng yếu ớt, xa xăm. Tôi nghĩ, chúng tôi đã nói chuyện thâu đêm, bỗng chúng tôi thỏa thuận với nhau!

    - Chúc cậu ngủ ngon!

    - Chúc cậu ngủ ngon, - tôi máy móc trả lời.

    Giá tôi cùng trở về với Vô-lô-đi-a thì hay quá! Có cái gì đó tắc nghẽn trong cổ họng tôi. Tôi rất muốn đứng dậy đi ra ngoài, nhưng tôi vẫn nằm, chỉ xoay ngươi lại, nằm sấp hai tay chống cằm. À, thì ra như thế! Việc này khó mà tin được, nhưng không thể nào quên nó được dù chỉ trong một phút. Chỉ có thằng Rô- ma-sca là khó tin, bởi vì tôi không thể hình dung được tình hình nó ở bên cạnh Ca-chi-a. Nhưng tại sao tôi có thể cho rằng cho đến nay cô ta vẫn còn nhớ tôi? Đã bao nhiêu năm nay chúng tôi không gặp nhau!

    Tôi nằm đó và suy nghĩ miên man, suy nghĩ về tất cả nhưng lại không nghĩ đến việc này, Tôi nhớ lại chuyện Va-li-a không thích người ta nhìn nó ban đêm, có một lần thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói đùa với nó, hỏi nó: “thế nếu có người nhìn với con mắt yêu đương thì sao?” Sau đó hình như tôi lại nghĩ đến Ca-chi-a. Tôi bỗng nhớ lại một cách da diết - không phải nghĩ đến cô ta mà là nghĩ đến tâm trạng diệu kỳ mỗi khi gặp cô tôi thường cảm thấy. Trong những giây phút ấy, mong muốn lớn nhất trên đời của tôi là ngủ ngay được một giấc. Nhưng không những tôi không thể nhắm được mắt, mà thậm chí còn không thể rời mắt khỏi bầu trời, mắt cứ nhìn bầu trời sáng dần, tuy rất chậm nhưng dù sao cũng đã bắt đầu sáng.

    Va-li-a ngủ say, nếu tôi đi ra có lẽ cậu ta sẽ tỉnh dậy. Nhưng tôi không muốn nói chuyện thêm với cậu ta nữa, do đó tôi cứ nằm và nằm sấp, sau đó nằm ngửa về sau lại nằm sấp hai tay chống cằm.

    Sau đó - đại khái đã vào khoảng bảy giờ sáng - có tiếng chuông điện thoại reo. Va-li-a vùng dậy, vẫn còn đang ngái ngủ, chạy sang buồng bên, quấn chăn trên người.

    - Tôi nghe đây! Tê-lê-phôn gọi cậu đấy, - sau một phút nó quay lại và nói.

    - Gọi mình?

    Tôi khoác áo bành tô và đi đến chỗ máy nói.

    - Xa-nhi-a đấy à? Tôi là bác sĩ đây. Anh biến đi đâu thế? Tôi gọi từ Ban chấp hành khu đây, Bây giờ anh nói chuyện với người khác nhé.

    - Vâng, cháu nghe đây, - tôi nói.

    - Đồng chí Gri-gô-ri-ép, - giọng người khác nói. Đó là đại biểu toàn quyền của nhân dân ủy viên hội Bộ nội vụ đóng ở Da-pô-li- a-ri-e. - Có việc khẩn cấp. Đề nghị đồng chí cùng với bác sĩ Páp- lôp bay ngay đên thôn Va-nô-can. Đồng chí có biết Lét-cốp không?

    Ai chẳng biết ông ấy! Ông ấy là ủy viên ban chấp hành khu, một trong nhũng người được kính trọng nhất ở miên Bắc. Ai cũng biết ông ta.

    - Ông ấy bị thương, cần phải cấp cứu. Khi nào đồng chí có thể cất cánh?

    - Sau một tiếng đồng hồ, - tôi trả lời.- Bác sĩ, còn bác?

    Tôi không nghe thấy bác sĩ trả lời.

    - Dụng cụ đều chuẩn bị đầy đủ cả rồi chứ? Hay lắm, sau một tiếng đồng hồ nữa cháu sẽ chờ bác ở sân bay.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 9/6/15
  7. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 11

    Bay

    Sáng ngày mồng năm tháng Ba, chúng tôi cất cánh từ sân bay Da-pô-li-a-ri-e nhằm hướng đông - bắc. Đi trên máy bay gồm có: bác sĩ với vẻ rất sốt ruột. Ông đeo kính đen, trông thay đổi lạ lùng, anh thợ máy Lu-ri của tôi - bất cứ ở Da-pô-li-a-ri-e hay ở một nơi nào khác, anh chỉ cần ở lại ba, bốn ngày là trở thành một trong những người được hoan nghênh nhất, - và sau cùng là tôi.

    Đây là chuyến bay thứ mười lăm của tôi ở miền Bắc, nhưng là lần đầu tiên tôi bay đến cái nơi chưa bao giờ được nhìn thấy máy bay. Thôn Va-nô-can là một vùng hẻo lánh nhất trên dòng sông Pa-a-xi-na. Nhưng bác sĩ đã từng đến Pa-a-xi-na và nói rằng tìm Va-nô-can không khó.

    Ủy viên Ban chấp khu bị thương. Việc này xảy ra trong khi đi săn, mà cũng có thể không phải là trong khi đi săn. Tóm lại vị đại biểu toàn quyền của nhân dân ủy viên hội Bộ nội vụ yêu cầu chúng tôi, tức là tôi và bác sĩ xác minh sự kiện này xảy ra trong trường hợp nào. Đến Va-nô-can, chúng tôi phải bay vào khoảng ba giờ sáng, tức là lúc trời vừa sáng. Để đề phòng những bất trắc có thể xảy ra, chúng tôi đã đem theo: lương thực đủ cho ba người ăn trong ba mươi ngày, bếp đèn cồn, lều bạt, súng bắn pháo hiệu và đạn pháo hiệu, súng trường và đạn, xẻng, rìu. Về tình hình thời tiết tôi chỉ biết có một điều là ở Da-pô-li-a-ri-e thời tiết rất đẹp. Nhưng thời tiết trên tuyến đường bay thế nào thì tôi không biết. Còn công tác “thăm dò” thời tiết thì giờ đây chẳng có thời gian mà cũng chẳng có ai để mà thăm dò nữa.

    Như thế là mọi việc đâu vào đấy cả, chúng tôi cất cánh từ Da- pô-li-a-ri-e, bay theo hướng đông - bắc. Mọi việc đâu vào đấy cả và tôi không còn nghĩ ngợi gì đến những chuyện đêm qua Va-li-a kể cho tôi nghe nữa. Bên dưới đã trông thấy dòng sông Ê-ni-xây - một dải màu trắng rộng mênh mông kẹp giữa hai bờ sông trắng xóa. Dọc hai bờ sông là rừng trùng trùng điệp điệp, lúc ngay cạnh bờ sông, lúc chạy xa khỏi bờ. Sau một đêm mất ngủ, giờ đây tôi thấy hơi nhức đầu, thỉnh thoảng lại thấy tiếng о о ở trong tai, nhưng chỉ ở trong tai mà thôi, còn động cơ máy bay làm việc vẫn rất tốt.

    Về sau chúng tôi rời khỏi con sông, bắt đầu bay đến đồng rêu, một vùng bằng phẳng, mênh mông, tuyết trắng xóa, không có chấm đen, chẳng có cái gì hấp dẫn đôi mắt....

    Tại sao tôi lại tin rằng không thể xảy ra việc như thế được? Đáng lẽ tôi phải viết thư cho cô ấy nhờ Xa-nhi-a chuyển lời hỏi thăm mới phải. Nhưng chừng nào tôi chưa chứng minh được là tôi không có lỗi lầm gì đối với cô ấy, thì tôi chưa chịu nhượng bộ cô một điều gì. Nhưng cũng đừng bao giờ quá tin chắc rằng người ta yêu anh. Đừng quá tin chắc rằng bất kỳ như thế nào người ta cũng yêu anh, thậm chí có chờ đợi năm năm hay mười năm nữa người ta vẫn yêu anh, không có gì thay đổi.

    Bất cứ nhìn đâu đâu cũng chỉ toàn thấy tuyết là tuyết. Phía trước có những đám mây, tôi lên cao và lao vào đám mây ấy: bay mò vẫn còn hơn là bay trên cái nền mênh mông bát ngát, thê lương, trắng xóa, chẳng nhìn thấy gì thật ở đằng xa.

    Tuy tôi đối với thằng Rô-ma-sca chẳng có sự thù hằn đặc biệt, nhưng nếu nó có mặt ở đây lúc này, có lẽ tôi vẫn nện cho nó một trận. Tôi không cảm thấy căm thù nó, bởi vì không thể có chuyện đó được. Một thằng đầu tóc bù xù như tổ quạ, tai đỏ như gấc, ngay từ năm mười ba tuổi đã nghĩ đến chuyện gom góp tiền để làm giàu, lúc nào cũng tính toán số tiền của mình, lại có thể sông cạnh Ca-chi-a! Điều đó cũng vô nghĩa lý như chuyện nó muốn biến thành một con người hoàn toàn khác hẳn - chứ không phải là nó nữa - một con người cũng xinh đẹp, chính trực như Ca-chi-a!

    Chúng tôi bay qua lóp mây này lại chui vào lớp mây khác đang có tuyết rơi. Phía dưới ở đâu đây bắt đầu lấp lánh ánh mặt trời, nhưng mây đen lại che mất mặt trời làm cho chúng tôi không nhìn thấy nữa.

    Chân tôi bị tê cóng. Tôi rất ân hận vì mình không đi đôi giày bay rộng rãi mà lại đi đôi giày chật bó chân này.

    Như thế là tôi đã quyết định, tôi sẽ về Mát-xcơ-va. Có điều là phải báo trước cho cô ấy biết về chuyến đi này. Tôi phải viết cho cô ta một bức thư, viết thế nào đó để cô ta đọc xong sẽ không bao giờ quên được.

    Chúng tôi bay ra khỏi những lớp mây đen, và bao giờ cũng thế, mỗi khi bay ra khỏi đám mây, người ta cảm thấy mặt trời đặc biệt chói chang, - vậy mà trước sau tôi vẫn không thể quyết định được là nên mở đầu bức thư như thế nào, chỉ viết "Ca-chi-a” không thôi hay là viết “Ca-chi-a thân yêu”.

    “Đã lâu lắm chúng mình không viết thư cho nhau. Ca-chi-a, khi cậu nhìn thấy chữ ký này, chắc cậu ngạc nhiên lắm. Cậu sống thế nào? Mình lâu lắm không viết thư cho cậu, vì mình nghĩ rằng cậu vẫn còn giận mình. Tất nhiên là cậu đúng. Chúng ta lâu lắm không gặp nhau, đó là lỗi tại mình. Đáng lẽ ở En-xcơ về, mình phải rẽ vào Mát-xcơ-va thăm cậu, mà không nên lang thang chung quanh nhà cậu như hồi mình còn mười tám tuổi...”

    Tôi lại quên bẵng chuyện bức thư. Đáng lẽ hồi đó tôi phải dứt khoát lôi cô ấy đi, bởi vì tôi hiểu rất rõ, cô ấy không nên ở lại trong cái gia đình bất hạnh và giả tạo này cùng cái lão quân tử giả hiệu đáng sợ là Ni-cô-ìaì An-tô-nứt mà cô ấy tín nhiệm.

    Trước mặt là núi! Những ngọn núi cao vọt lên trên những đám mây, lấp lánh ánh mặt trời, ngọn thì trọc lốc, ngọn phủ đầy tuyết trắng lóa cả mắt. Tôi nhìn vào gương, thấy Lu-ri giơ tay như vẫy chào dãy núi và nói gì với bác sĩ. Bác sĩ lãnh đạm gật đầu. Trông dáng điệu ông thật buồn cười, giống như một con vật gì tròn trĩnh ngộ nghĩnh.

    Qua ánh sáng mù mờ có thể nhìn thấy những khe núi - những khe núi chạy dài trông rất đẹp, nếu chẳng may phải hạ cánh xuống đây thì chỉ có chết. Vô tình tôi nghĩ đến chuyện đó, nhưng sau lại nghĩ đến chuyện viết thư, tôi cứ nghĩ mãi cho đến khi tôi buộc phải làm việc khác, khẩn cấp hơn mới thôi.

    Hình như trời chưa nổi gió khi những đám mây to lớn có tuyết đầu tiên rời khỏi đỉnh núi và quay tít bốc lên ngày càng cao.

    Bất thình lình, tấm gương mà vừa rồi tôi nhìn thấy Lu-ri và bác sĩ trong đó đã mờ đi, phủ một lượt băng và sau khoảng mười phút nữa thì không tài nào tưởng tượng được rằng trên đầu chúng tôi vừa rồi lại có mặt trời và bầu trời. Giờ đây không và còn nhìn thấy cả bầu trời nữa. Tất cả đều đã thay đổi. Gió đang đuổi kịp chúng tôi, thoạt đầu thì từ bên trái ập tới, sau đó từ trước mặt bổ về, bị dồn ngay về một phía. Ở đây cũng có sương mù và có tuyết, tuyết nhỏ và rắn như đá quật vào mặt rất rát và bám ngay vào những đường chỉ khâu và những khe hở trên quần áo. Tiếp đó trời bắt đầu tối, khi tôi nhìn lại lên tấm gương: chẳng còn nhìn thấy gì trong đó nữa. Chẳng nhìn thấy một tí gì ở xung quanh và nhiều lúc tôi đã phải lái máy bay mò trong đêm tối mù mịt. Gió từ bốn phía đổ lại, vừa gió, vừa tuyết hình thành từng lớp tường tuyết thật sự, Hình như tôi cứ đâm bừa vào những bức tường bằng gió, bằng tuyết ấy, lúc thì vượt được qua, lúc phải né tránh chúng, rồi tôi lại xuyên qua. Cũng có khi bị tụt xuống một khoảng cách khá xa bên dưới chúng. Bất thình lình máy bay tụt xuống một, hai trăm thước, đó thật là điều kinh khủng vô cùng. Tôi không biết những ngọn núi ở đây cao thấp thế nào, tại sao không thấy ghi trên bản đồ của tôi. Tất cả điều tôi có thể làm được là quay ngoặt một trăm tám mươi độ để bay về sông Ê-ni-xây. Tôi nhìn thấy bờ sông, bay cao dọc theo bờ sông, như vậy chúng tôi có thể thoát được cơn bão tuyết, nếu bất đắc dĩ lắm thì chúng tôi bay trở về Da-pô-li-a-ri-e.

    Quay ngoặt! Nói thì thật là dễ khi tôi đạp bàn lái bên trái, không hiểu sao máy bay lại rùng lên một cái và thế là chúng tôi lại bị xô về một phía. Nhưng tôi vẫn tiếp tục quặt tay lái. Hình như tôi có nói với máy bay mấy câu gì đó. Chính lúc ấy tôi cảm thấy động cơ máy bay có cái gì không ổn. Điều bất hạnh nữa là phía dưới lại là những khe núi mà lúc nãy tôi đã rất cảnh giác và đã tụt lại phía đằng sau chúng tôi rất xa. Chúng thoáng hiện lên rồi biến mất, sau đó lại hiện lên dài dằng dặc, khiến người ta cảm thấy hoàn toàn vô hy vọng, - nếu rơi xuống đây không ai có thể tìm được chúng tôi và vĩnh viễn không có ai biết được việc này đã xảy ra như thế nào. Phải mau mau rời khỏi những khe núi này ngay, tôi bay đi, mặc dù máy bay như bị treo trong không khí, cơn bão tuyết chết tiệt ấy hình như vẫn cố tình trêu chúng tôi, nhưng có lúc lại bay như thường. Cuối cùng tôi cũng bay ra khỏi những khe núi, nhưng động cơ máy bay vẫn có cái gì không ổn, cho nên buộc lòng phải hạ cánh. Cần phải hạ cánh thật chậm phải luôn luôn chú ý những đồng hồ chỉ độ nghiên đường vòng. Không được nghiêng ngả, phải luôn luôn chú ý đến mặt đất ở phía dưới, bởi vì tuy mặt đất ở dưới, nhưng không biết nó ở chỗ nào, và hình dáng nó ra sao. Có cái gì gõ nhịp trong đầu tôi у như cái đồng hồ. Tôi nói rất to với bản thân mình và với máy bay. Nhưng tôi không sợ. Tôi nhớ trong nháy mắt tôi thấy nóng ran khi một mảng gì to tướng bay cạnh máy bay, tôi vội vàng tránh nó và suýt nữa thì cánh máy bay chạm đất.
    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 3/6/15
  8. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 12

    Bão tuyết

    Tôi không định kể về ba ngày đêm chúng tôi ở Đồng rêu, một nơi cách bờ sông Pi-a-xi-na không xa lắm. Đây là một kỷ niệm đau khổ nhất trong đời tôi và điều chính, đây là một kỷ niệm tẻ ngắt. Giờ này cũng giống như giờ sau, giờ sau lại giống như giờ sau nữa, và chỉ có những phút đầu tiên là không bị lặp lại, bởi vì lúc đó chúng tôi phải tìm mọi cách để cố định máy bay một chỗ, bằng không thì bão tuyết sẽ cuốn đi mất.

    Xin các bạn hãy thử làm việc này ở Đồng rêu chẳng có cây cối gì ngoài trời gió bão mạnh đến cấp Mười mà xem! Không tắt động cơ máy bay, tôi đặt đuôi máy bay về hướng gió. Có lẽ chúng tôi có thể chôn máy bay xuống, nhưng cái xẻng vừa chạm đến tuyết là gió lại cuốn đi hết rồi. Máy bay vẫn tiếp tục lúc lắc rất mạnh, phải mau mau nghĩ cách gì cho ổn hơn, nếu không gió mỗi lúc một mạnh, chỉ sau nửa tiếng đồng hồ nữa là chậm mất. Lúc đó chúng tôi chỉ làm một việc đơn giản như sau (để nghị các nhà phi hành Bắc cực cùng tham khảo) chúng tôi đem dây ra buộc vào cánh máy bay, sau đó đem bàn trượt tuyết, va-li da, nhũng hòm đựng đồ đạc. thậm chí cả cái phễu - tóm lại là tất cả những cái gì có thể để cho tuyết nhanh chóng tích lại thành đống thì buộc ở một bên đầu dây. Chỉ mười lăm phút sau đã có một đống tuyết đọng lại chung quanh đống đồ đạc này. Còn những chỗ khác ở dưới thân máy bay, tuyết vẫn bị gió cuốn đi không ngừng.

    Giờ đây, ngoài việc chờ đợi ra chúng tôi chẳng còn việc gì khác nữa. Chờ đợi là một việc chẳng thích thú gì nhưng đó lại là công việc duy nhất của chúng tôi. Chờ, chờ và chờ. Nhưng chờ bao lâu nữa, nào ai biết!

    Như trên kia tôi đã nói, chúng tôi có mang theo tất cả những thứ cần thiết để dùng nếu bắt buộc phải hạ cánh. Nhưng làm gì bây giờ, chẳng hạn, dựng lều ư, làm sao làm được khi mà anh chỉ bò ra khỏi máy bay cũng khó khăn, khổ sở lắm rồi, nên chỉ có thể mỗi ngày bò ra một lần và cũng bởi vì mỗi ngày chỉ cần phải chui ra khỏi máy bay một lần thôi.

    Chưa cởi được sợi dây ở túi ra thì tay đã lạnh cóng rồi, cho nên muốn cởi phải chia làm ba đợt. Gió mạnh đến nỗi không buớc đi được nữa. Do đó chúng tôi phải sáng tạo ra một cách đi đặc biệt là cúi người bốn mươi nhăm độ ngược chiều gió.

    Ngày đầu tiên trôi qua là như thế đấy. Trong người giảm mất một ít ca-lo Đã thế lại muốn ngủ nhiều hơn chút nữa. Để cho khỏi ngủ say quá, tôi đã nghĩ ra đủ trò tiêu khiển, nhũng trò này chiếm nhiều thời gian. Có điều những biện pháp này cũng chẳng có tác dụng gì mấy. Ví dụ tôi đã thử đốt bếp đèn cồn, ra lệnh cho Lu-ri thắp chiếc đèn hàn. Công việc gian nan quá chừng! Thật khó mà đốt đèn cồn khi mỗi một phút bạn đều cảm thấy da thịt mình từ đầu đến chân hình như đều hở ra ngoài, khi mà trong tận cùng lỗ tai bạn cũng thấy lạnh, hình như cả màng tai bạn bị đóng giá, khi phút chốc tuyết bám đầy mặt bạn và biến mặt bạn thành cái mặt nạ bằng băng, Lu-ri muốn pha trò, nhưng trời lạnh năm mươi độ dưới không độ thì lời bông đùa cũng phải đóng băng. Cậu ta chẳng còn cách nào khác, đành phải chế giễu cái tài năng của mình pha trò trong mọi hoàn cảnh và mọi lúc.

    Đêm đầu tiên trôi qua như thế đấy. Lại mất thêm một ít ca-lo nữa. Lại muốn ngủ nhiều hơn chút nữa. Tuyết vẫn quét qua cạnh người chứng tôi. Cuối cùng chúng tôi bắt đầu cảm thấy hình như có bao nhiêu tuyết trên mặt đất này đều bay qua cạnh chúng tôi cả...


    Trong những ngày ở bờ sông Pi-a-xi-na, tôi càng hiểu thêm về bác sĩ I-van I-va-nứt.

    Cảm thấy mình hoàn toàn bất lực, nhận thấy mình hoàn toàn không có khả năng vượt ra khỏi cảnh tuyệt vọng này - đó là điều đau khổ nhất! Giá tôi đừng khỏe mạnh, lực lưỡng như thế này có lẽ tâm hồn tôi còn nhẹ nhõm được đôi chút. Cảm tưỏng này quyện với một cảm tưởng không vui khác: tôi đã không hoàn thành nhiệm vụ được trao. Lại còn thêm cảm tưởng thứ ba chẳng có liên quan đến ai cả, cảm tưởng lòng tự tôn bị làm nhục và bị xúc phạm tâm trạng tôi lúc ấy như thế. Trong tâm trạng ấy, ăn cũng không thấy ngon và thực tình mà nói, thà rằng chết cóng đi cũng không kinh khủng như vậy.

    Tất cả tình hình đó bác sĩ đều hiểu, đều thấy!. Cả đời tôi chưa bao giờ được trông nom tỉ mỉ đến thế. Ông có từng phương thuốc cho mỗi cảm giác của tôi và hình như còn có cả phương thuốc cho cả loại cảm giác chẳng có liên quan gì đến ai của tôi nửa.

    Ngày thứ ba. Tôi rất buồn ngủ. .Ca-lo càng ngày càng giảm.

    Cái áo da lông càng ngày càng ẩm ướt. Một thứ lạnh thần kinh nào đó sẽ truyền ngay đến tận xương tủy, khi anh nghĩ rằng thứ nước này có thể đóng băng lại.

    Chúng tôi buộc phải luôn tay gạt những hạt băng ở trong áo khoác da lông ra, như vậy có lẽ lại còn tốt, bởi vì chỉ ngồi xuống và suy nghĩ vơ vẩn, nghĩ những chuyện không cùng thì cũng buồn tẻ quá. Sau đó số ca-lo trong người càng giảm đi - cũng chẳng có cách nào thoát, gió lạnh cứ thổi dần ca-lo đi - thế là tôi lấy đôi găng tay bay xỏ vào chân và đi đôi giày bay ra ngoài. Điều chủ yếu là phải kiên trì không được ngủ. Điều chủ yếu nhất là không được để cho người thợ máy trên máy bay ngủ, cậu ta là người yếu nhất trong chúng tôi, mặc dù bề ngoài có vẻ là khỏe nhất. Bác sĩ luôn luôn đập vào người cậu ta làm cho cậu tỉnh táo. Về sau cả bác sĩ cũng bắt đầu ngủ gật, và tôi đã buộc lòng phải luôn luôn lay bác dậy, tuy có hơi khách khí một tí, nhưng lay thật sự làm cho bác tỉnh táo.--

    - Xa-nhi-a, chẳng việc gì đâu, tôi có định ngủ đâu, - bác lắp bắp và cố gắng mở mắt.

    Nhưng tôi lại không muốn ngủ nữa. Tuyết rít bên tai và thỉnh thoảng khi được một phút yên yên thì hình như sự yên tĩnh vận động còn to hơn cả tiếng gầm rít rùng rợn quằn quại, vu vơ. Hình như ở đâu xa tít, những nhân viên vô tuyến điện ở Đích-xơn, ở Da-pô-li-a-ri-e đang nói chuyện về chúng tôi.

    - Họ đang ở đâu? Có bay qua vùng X không?

    - Họ không bay qua.

    Ngồi xuống và đợi chờ xem bao giờ đợt bão tuyết này kết thúc thì rất chán. Cuối cùng tôi nhớ ra là tôi có một quyển sách. Tôi quấn cái áo lông cao hơn đầu gối một tí rồi chui cả đầu, cả tay vào trong đó. Căn “nhà nhỏ” này đúng là chật chội thật, nhưng nếu tay trái cầm đèn pin giơ cao quá mang tai, tay phải cầm sách thì vẫn có thể xem sách được! Tôi có một cái đèn bấm chạy bằng nam châm. Muốn đèn sáng thì phải nắm trong tay bóp liên tục. Nhưng ngón tay không thể làm việc liên tục mãi được, mà hễ rời tay ra là tất cả lại trở nên lạnh lẽo, tất cả lại trở lại tình trạng cũ và tôi lại bắt đầu cảm thấy tuyết luồn qua những kẽ hở trên máy bay thổi vào người tôi.

    ít năm sau, đọc hết cuốn “Bắc cực mến khách” của Xti-ven- xôn, tôi mới hiểu ra rằng ít ngủ như thế là một sai lầm. Nhưng hồi đó tôi là một phi công Bắc cực chưa có kinh nghiệm, cho nên mới nghĩ rằng trong tình huống như vậy, ngủ cũng chẳng khác gì chết.

    Có lẽ cuối cùng tôi cũng ngủ say, hoặc là có một ảo giác trong lúc ngủ không say. Tôi cảm thấy mình đang ở trong một cái hòm rất hẹp, ở một nơi rất sâu dưới đất, bởi vì tôi nghe thấy rất rõ bên trên có tiếng ồn ào của phố xá, tiếng chuông và tiếng ầm ầm của xe điện. Những cái đó không đáng sợ lắm nhưng tôi cảm thấy rất đau khổ, bởi vì lúc này mình lại nằm ở đây một mình, chân tay không sao cử động được mà đáng lẽ ra phải bay ngay đi đâu đó không được có một phút rỗi rãi. Sau đó không hiểu sao hình như tôi lại có mặt ở trên phố, đứng trước cửa sổ một hiệu buôn đèn sáng choang và trông thấy Ca-chi-a đang đi đi lại lại trong đó, chân bước đều, bình thản, nhưng không nhìn tôi. Đúng là cô ta, không còn nghi ngờ gì nữa. Mặc dù tôi hơi sợ, rất có thể sau đó sẽ không phải là cô ta hoặc là có người nào đó đến làm cản trở việc tôi nói chuyện vói cô ta. Thế là tôi chạy bổ vào hiệu buôn - nhưng tất cả bỗng trống rỗng, tối om và trên cửa kính có hàng chữ “ĐÓNG CỬA”.

    Tôi mở mắt - rồi lại nhắm mắt: những cảnh tôi vừa nhìn thấy sao mà hạnh phúc vậy. Bão tuyết đã dịu. Tuyết nằm lặng lẽ trên mặt đất, không còn làm cho chúng tôi chói mắt nữa. Trên tuyết là mặt trời và bầu trời, bầu trời bao la. Chỉ có thể nhìn thấy bầu trời như vậy ngoài biển cả và ở vùng Đồng rêu này mà thôi. Trên nền tuyết và trời ấy có một người đang đứng cách chiếc máy bay khoảng hai trăm bước. Tay ông ta cầm một cái gậy dài dùng để đuổi hươu, đằng sau ông ta có mấy con hươu mắc vào xe trượt tuyết. Phía xa xa là hai ngọn núi tuyết nhỏ và dốc nổi bật lên rất rõ nhưng không gãy gọn cho lắm. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là nhà lều của người Nê-nét. Đó chính là cái vật đen đen đã làm tôi sợ toát mồ hôi lúc hạ cánh. Giờ đây những chiếc nhà lều ấy đã bị tuyết phủ kín, Chỉ còn cái hình nón có cái miệng ở phía trên là lộ ra ngoài đen chùi chũi. Chung quanh lều còn có nhiều người nữa, người lớn trẻ con đều có cả. Họ đứng ngây ra bất động, nhìn chằm chằm vào chiếc máy bay của chúng tôi.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 4/6/15
  9. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    :rose:
    Chương 13

    Bếp đèn Cồn là cái gì

    Từ xưa đến nay tôi chưa bao giờ nghĩ rằng hơ đôi chân lạnh cóng vào lửa lặi là một điều hạnh phúc. Mà đây quả là một hạnh phúc thật sự, không gì có thể so sánh được! Anh sẽ cảm thấy hơi ấm dâng lên người anh càng ngày càng cao và cuối cùng nó sưỏi ấm trái tim anh lúc nào không biết.

    Ngoài ra tôi không cảm thấy gì nữa, cũng chẳng nghĩ ngợi gì nửa. Bác sĩ lẩm bẩm gì đó sau lưng tôi, nhưng tôi không nghe bác nói, bác khuyên tồi uống cái rượu bác bảo người ta dùng để xoa chân cho tôi.

    Hơi khói của các lùm cây vùng Đồng rêu bao quanh bếp lò, giống như khói của những cành thông tươi đốt cháy, tôi rất ghét loại khói làm nhức mũi ấy, nhưng chỉ cần ấm là được, Tôi cảm thấy ấm, đó là việc hầu như không thể tin được.

    Những người Nê-nét ngồi vắt chân chữ ngũ xung quanh đông lửa nhìn chúng tôi. Mặt người nào cũng rất nghiêm trang. Bác sĩ đang giải thích cái gì đó cho họ nghe bằng tiếng Nê-nét. Họ chăm

    cbú lắng nghe bác nóỉ và cớ vẻ rất hiểu íiên cứ gật đầu lia lịa. Về sau mới biết, thì ra họ chẳng hiểu tí gì, bác sĩ bực bội hoa tay, rồi bắt đầu bắt chước một người bị thương và chiếc máy bay, bay đến cấp cứu cho người ấy. Tình cảnh đó lẽ ra sẽ rất buồn cười, giá t,ôi không ngủ sớm một phút. Lức thì bốc ôm bụng nằm xuống, lúc bác lại giơ hai tay lên nhảy bổ về phía trước. Bỗng dưng bác quay lại chỗ tôi nói:

    - Hay quái Họ hiểu tất cả đấy. Thậm chí họ còn hiểu Lét-cốp bị thương ồ đâu. Đây là một vụ mứu sát. Chúng nó đã bắn ông.

    Bác lại nói bằng tiếng Nê-nét, Trong lúc mơ màng tôi nghe thấy bát hỏi họ có biết ai đã bắn chết Lét-cốp kháng.

    - Họ nói: kẻ bắn đã chạy về nhà rồi. Hắn về rỉhà suy nghĩ. Suy nghĩ một ngày, hai ngày, nhưng nhất định hắn sẽ quay lại.

    Giờ đây thì không thể không ngủ. Mọi vật bổng hiện cả lên ngay trước mắt tôi, tôi cảm thây buồn cườỉ rằng mình vui mừng là cuối cùng mình đã ngủ say...

    Khi tôi tỉnh dậy, trời đã sáng bạch. Tấm đa trên lếu bị ai bẻ ra một miếng, từ cái lỗ tam giác sáng chói mắt này có thể nhìn ra ngoài thấy bác sĩ đang đứng, còn những người Nê-nét thì ngồi xổm chung quanh ông. Xa riỉột chót nữa thấy rõ một ehiếc máy bay. Tất cả những cáỉ đó kết hớp lại khiến cho tôi nhớ đến một đoạn phim quen thuộc, thậm chí tôi dã phải sợ nó sẽ thơáng hiện lên rồi biến mất. Nhưng đây không phải là phim ảnh. Đó là bác sĩ đang hỏi những người Nê-nét xem Va-nô-can ở đâu.

    - Ở đằng kia à? - Ông gắt lên và chỉ tay về phương nam.

    - Ở đằng kia à? - Ông chỉ tay về phía đông.

    -Ừ!

    Về sau người Nê-nét nhất trí chỉ tay về phía đông nam. Bác

    sĩ vẽ trên tuyết một cái bản đồ bờ biển Bắc băng dương rất lón. Nhưng cũng vô ích, bởi vì người Nê-nét xem bản đồ cũng như là tác phẩm nghệ thuật. Trong bọn họ có một người thanh niên còn rất trẻ, để tỏ ra là người cũng biết vẽ, cậu liển vẽ luôn một con hươu ở bên cạnh tâ'm bản đồ...

    Việc cần phải làm trước hết là máy bay ra khỏi tuyết. Nếu không có người Nê-nét giúp đỡ chúng tôi thì chúng tôi không bao giờ có thể làm được việc này. Từ thuở bé đến giò tôi chưa hề trông thấy thứ tuyết chẳng giống gì tuyết cả ãhư thế này! Chúng tôi phải dùng búa, dìu để chặt, dùng.dao để cắt. Nhưng rốt cuộc mảnh tuyết cuối cùng cũng được cắt ra ném sáng một bên, thế là cái công sự mà tôi giới thiệu vổi các nhà phi hành Bắc cực đã hoàn toàn tan vở. Tất cả nồi,'siêu đều được đem ra đun nước để khởi động máy nổ. Cậu chàng Nê-nét trẻ tuổi, chính cái cậu đã vẽ con hươu bên cạnh tấm bản đồ trên mặt tuyết giờ đây được mời ra làm hoa tièu cho chúng tôi, dẫn đườngcho chúng tôi đến Va-nô-can. Cậu ta đang từ biệt người vợkhóc íóc thảm thiết. Chị vợ rất trẻ này cũng mặc quần da lông hươti, chỉ khác nam giởi à chỗ trên bím tóc có sợi dây vải nhiều màu sắc hơn một chút, đó cũng lại là việc rất thú vị. Mặt tròi ló ra khỏi những đám mây cao - dấu hiệu thời tiết sẽ đẹp, - tôi nói vối bác sĩ đạng tra thuốc đau mắt cho một người nào đó, rằng “xong việc rồi”. Đúng lúc đó thì Lu-rì đi đến chỗ tôi và nói, chúng tôi không thể bay được nũa.

    Một chiếc càng máy bay bị gãy. Rõ ràng là lúc hạ cánh, tôi tránh cái nhà lều hiện ra bất thình lình và nó đã làm gãy cái càng ây. Những người Nê-nét đã đào ở dưối tuyết lên cho chúng tôi cái càng này, thế mà trước đây tôi và Lu-ri không phát hiện ra.

    Từ hôm cất cánh bay ở Da-pô-li-a-ri-e đến nay đã trọn bốn ngày đêm. Dứt khoát là người ta đang đi tìm chúng tôi và cuối cùng người ta có thể tìm thấy chúng tôi mặc dù bão tuyết đã thổi chúng tôi bay chệch đường bay dự định. Nhưng ai dám nói rằng người ta nhất định sẽ tìm thây chúng tôi? Chưa biết chừng, bây giờ bay đến Va-nô-can thì đã muộn mất rồi, hoặc giả bay đến chỉ là để chở xác về?

    Đây là “trận chiến đấu đầu tiên” của tôi ở miền Bắc. Tôi bỗng phát sợ vì tôi chẳng làm được gì cả và trở về với hai bàn tay trắng. Hoặc là - điều này còn đáng sợ hdn - người ta sẽ tìm thấy tôi đang bất lực như con chó con ở Đồng rêu bên cạnh chiếc máy bay cũng vô dụng nốt. Làm gì đây?

    Tôi gọi bác sĩ và đề nghị ông tập hợp những người Nê-nét lại.

    Đây là một cuộc họp lớn không thể quên được trong cái nhà lều chung quanh đống lửa, hay nói cho đúng hdn thì chung quanh đống khói, đang tỏa ra từ một ông tròn trên đầu chúng tôi. Thực không thể hiểu được, tại sao có thể chứa được nhiều người như thế này trong một căn nhà lềul Để chào mừng chúng tôi, người Nê-nét đã giết một con hươu. Họ ăn thịt sống, ngậm miếng'thịt ở trong mồm lấy tay kéo rồi cắn đứt miếng thịt một cách rất điêu luyện. Sau đó họ không cần dao mà cắt được cái mũi cao hươu.

    Tôi không kinh tởm, nhưng dù sao tôi cũng cố gắng không nhìn cách họ nhúng miếng thịt sông vào bát tiết rồi bỏ vào mồm một cach ngon lành...

    - Sự việc rất xấu, - tôi bắt đầu nói như vậy, - chúng tôi phải đi cứu một người bị thương, một người rất được kính trọng, thế mà phải ngồi ở đây đã bôn ngày đêm” và không thể giúp gì được cho ông ta. Bác I-van I-va-nứt, bác dịch đi!

    Bác sĩ dịch xong.

    - Nhưng sự việc cang xấu hơn nữa vì đã mất nhiều thời gian rồi mà chúng tôi vẫn còn cách Va-nô-can quá xa, thậm chí cũng không biết rõ phải bay về hướng nào, lén phía bắc hay là xuông phía nam, bay sang phía đông hay là về phía tây.

    Bấc sĩ dịch xong.

    - Nhưng sự việc càng xấu hơn nữa vì máy bay của chúng tôi bị hỏng. Nó đã bị hỏng, nếu không có sự giúp đ3 của các vị thì chúng tôi không tài nào có thể chữa được.

    Những người Nê-nét nói nhao nhao lên, nhưng bác sĩ giơ tay, họ liền im lặng. Ngay từ lúc tròi còn sáng tôi đã nhận thấy họ rất kính trọng bác sĩ.

    - Nếu không có các cụ, các ông, các bà và các bạn thì chúng tôi' rất nguy, - tôi nói tiếp. ~ Nếu không có các vị thì chúng tôi đã bị chết cóng. Nếu không có các vị thì chúng tôi không tài nào lôi được chiếc máy bay ra khỏi tuyết. Bác dịch đi, bác I-van I-va-nứt!

    Bác sĩ dịch xong.

    - Và còn một đề nghị nữa. Chúng tôi cần một cây gỗ. Chúng tôi không cần cây gỗ to, nhưng cần phải thật chắc, dài độ một mét. Có thế chúng tôi mối chữa được máy bay và mói bay tiếp được để giúp đỡ con người đáng kính.

    Tôi cố gắng nói kiểu na ná như trong óc đã dịch sẵn từ tiếng Nê-nét sang tiếng Nga.

    - Tất nhiên, tôi hiểu rằng, gỗ là thứ rất hiếm và rất quí ở đây. Tôi rất muốn trả бис vị rất nhiều tiền vi một khúc gỗ dài khoảng một mét này. Nhưng hiện nay tôi không có tiền. Vì vậy tôi xin biếu các vị cái bếp đèn cồn.

    Lu-ri - việc này chúng tôi đã hẹn trước vói nhau - lôi chiếc bếp đèn cồn ở trong áo khoác da lông ra và giơ cao lên đầu.

    - Tết nhiên, các vị cũng biết bếp đèn cồn là cối gì. Đây là một cái máy có thể đun nưốc, nấu thịt và đun nưâc trà. Muốn đốt một đống lửa thì cần bao nhiêu thòi gian? Nửa tiếng đồng hồ... Nhưng với cái bếp đèn cồn, các vị có thể đốt- trong một phút ìà cháy ngay. Các vị có tbể nướng bánh trên bếp này, và nói tóm lại đây là một vật rất tuyệt, làm được rất nhiều việc trong gia đình.

    Lu-ri rót dầụ hỏa vào bếp đèn cồn, đánh diêm châm, ngọn lửa liền phụt lên tí nữa thì tớí đỉnh lều. Song cái bếp đèn cồn chết tiệt này như cố tình không muốn cháy và chúng tôi phải làm ra vẻ cần phải như thế để nó khỏi cháy ngay. Song cái trò này cũng không phải dễ làpi, bỏi vì vừa rồi tôi đã nói là đốt bếp đèn cồn chẳng khó khăn gì.

    - Xin các vị cho chúug tôi một khúc gỗ dài khoảng một mét, chúng tôi sẽ đổi tặng các vị cái bếp đèn cồn này.

    Tôi hơi sợ nhũng người Nê-nét lại giận vì món quà nhỏ nhặt quá, nhưng họ không giận. Họ im lặng, nhìn cái bếp đèn cồn một cách nghiêm trang. Lu-ri ra sức bơm đèn, cái đèn xì bí đốt rất nóng. Ngọn lửa đỏ rực đảo đi đảo lại. Thực tình mà nói, trong khoảnh khắc đó, ở cái nơi Đồng rêu xa xôi vắng vẻ này, trong căn lều của người Nê-nét, tôi cảm thấy bỗng nhiên cái bêp đèn cồn ấy trở thành một vật kỳ diệu, sinh động, nóng bỏng, ồn ào! Mọi người im lặng nhìn cái bếp đèn cồn với lòng kính trọng chân thành.

    Sau đó có một cụ già mồm ngậm tẩu thuôc rất dài đầu quấn khăn vuông của phụ nữ, tuy vậy cũng không hể ảnh hưỏng gì đến việc cụ giữ thái độ tôn nghiêm lạ thường, đứng dậy và nói gì đó bằng tiếng Nê-nét, tôi cảm thấy cụ nói một câu rất dài. Tuy lúc nói cụ quay về phla Dác sĩ, nhưng lại là để trả lời tôi. Bác I- van I-va-nứt đã dịch lời của cụ ra như sau:

    - Có ba biện pháp để đối phó với khói: bịt lỗ ống khói phía có gió thổi và ngọn lửa sẽ càng mạnh lên. Có thể bỏ miệng da thú chắn làm cửa đi. Cũng có thể khoát một cái lỗ phía trên cửa để cho khói bay ra. Nhưng dể tiếp khách, chúng tôi ở đây chỉ có một biện pháp: biếu họ tất cả nhũng gì mà khách muốn... Bây giò chúng ta sẽ ăn thịt hươu rồi đi ngủ. Sau đó chúng tôi sẽ đem cho anh tất cả gỗ chúng tôi có thể tìm được ở trong lều của chúng tôi. Còn cái bếp đèn cồn quí hóa ấy thì tùy anh, thích làm thế nào thì làm.
     
    Last edited by a moderator: 29/5/15
  10. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 14

    Cái câu liêm cũ bằng đồng thau

    Vừa ăn hết toàn bộ thịt sống cùng đầu, tai, mắt một con hươu xong, nguời Nê-nét liền đem tất cả những đồ đạc bằng gỗ ra cho chúng tôi. Những cái đĩa bằng gỗ, những cái cọc để treo nồi, một bộ phận của khung cửa, một tấm ván để treo nồi, một bộ phận của khung cửi, một tấm ván hai đầu có lỗ tròn, gậy trượt tuyết và bàn trượt tuyết

    - Dùng không vừa à?

    Họ ngạc nhiên.

    - Nhưng gỗ rất bền đấy, dùng hàng trăm năm không hỏng đâu.

    Thậm chí họ mang cả cái lưng ghế ra, có giời biết cái lưng ghế ấy lọt vào cái vùng Đồng rêu rộng lớn này thế nào. Anh chàng hoa tiêu tương lai của chúng tôi mang cả tượng thánh - một tượng thánh thật sự chùm vải màu sắc sặc sỡ có cái đầu nhọn hoắt và cái đinh đóng ở chỗ rốn.

    - Không dùng được à? Nhưng đó là những gỗ rất bền đấy, dùng hàng trãm năm không hỏng đâu.

    Phải thừa nhận rằng khi tôi nhìn thấy người Nê-nét rất nghiêm nghị nói với người vợ đang khóc thật đáng thương câu gì đó rồi mang cái hòm có đóng đai sắt thì ra rõ ràng đây là vật trang sức duy nhất trong căn lều này, lúc đó tôi cảm thấy thật hổ thẹn về cái bếp đèn cồn của mình. Anh ta khoái trá đi đến trước mặt tôi, đặt hòm gỗ lên trên tuyết.

    - Lấy cái hòm gỗ này đi, - bác sĩ dịch lại. - Bốn tấm ván rất bền. Tôi là đoàn viên thanh niên cộng sản, tôi không cần gì cả. Tôi cần gì cái bếp đèn cồn của anh.

    Tôi không biết, rất có thể bác sĩ không dịch thật đúng câu cuối cùng. Nhưng dù sao đây cũng là cử chỉ rất cảm động, cho nên tôi đã bắt tay người đoàn viên thanh niên cộng sản với tất cả tấm lòng.

    Không biết các bạn đã từng có cảm giác như thế này hay chưa, khi trong óc bạn đang chỉ có một ý nghĩ, thậm chí bạn rất lấy làm lạ tại sao trên đời lại còn có những mong muốn và những ý nghĩ khác nữa, bỗng nhiên những mong muốn và những ý nghĩ khác nhảy xổ vào cuộc sống của bạn như vũ bão, khiến cho bạn trong khoảnh khắc quên phắt ngay cái mà vừa mới đây bạn còn hết lòng theo đuổi.

    Khi tôi nhìn thấy một cái câu liêm cũ bằng đồng thau nằm chỏng gọng trên mặt tuyết, giữa những cây cọc dùng để dựng lều, lúc đó cảm giác của tôi đúng là như vậy.

    Tất nhiên mọi việc đều không bình thường, kể từ phút tôi bắt đầu bài giảng về cái bếp đèn cồn của mình và những người Nê- nét nghe tôi một cách chăm chú, nghiêm túc và giữa chúng tôi, như trong một giấc mộng, là một cột khối rất thẳng, hệt như được tạo nên bằng những dải màu xám rất dài.

    Những đồ đạc bằng gỗ trong gia đình như thế này lại nằm ngổn ngang trên mặt tuyết xung quanh chiếc máy bay trông đến kỳ quặc. Một điều nữa làm cho tôi cũng cảm thấy kỳ lạ là có một ông cụ Nê-nét sáu mươi tuổi, mồm ngậm tẩu thuốc nói như ra lệnh cho một bà cụ già đem cho chúng tôi một khúc xương chó biển.

    Nhưng kỳ lạ nhất vẫn là cái câu liêm này. Có lẽ trên cả thế giới này không có cái gì lạ lùng hơn nó.

    Đúng lúc đó thì Lu-ri thò đầu từ trong ca-bin ra và gọi tôi, và tôi đã thẫn thờ đáp lại như từ một nơi rất xa, từ cái thế giới xa tít mà cái câu liêm này đột nhiên đã đưa tôi tới đó.

    Cái câu liêm này là loại như thế nào? Kỳ thực cũng chẳng có gì đặc biệt cả! Một cái câu liêm, cũ bằng đồng thau. Nhưng trên miếng đồng thau cũ kỹ đã gỉ xanh lên rồi có khắc hàng chữ rất rõ “Tàu buồm “Xanh Ma-ri”“.

    Tôi nhìn xung quanh: Lu-ri vẫn từ trong ca-bin nhìn ra, không còn nghi ngờ gì nữa, anh ta đúng là Lu-ri có bộ râm rậm mà ngày nào tôi cũng trêu anh ta về bộ râu này. Anh ta để râu là để bắt chước một nhà phi hành bắc cực tên là F. đã từng nổi tiếng nhưng bộ râu ấy không tương xứng tí nào với gương mặt trẻ trung, hoạt bát của anh.

    Bác sĩ I-van I.-va-nứt bị rất nhiều người Nê-nét vây xung quanh đang đứng cạnh cái lều ở đầu kia.

    Mọi thứ vẫn ở nguyên chỗ cũ - đúng như một phút trưóc không sai. Nhưng trước mặt tôi là chiếc câu liêm có khác dòng chữ “Tàu buồm “Xanh Ma-ri”.

    - Lu-ri, - tôi rất bình tĩnh gọi, - lại đây.

    - Dùng được à? - Lu-ri từ trong ca-bin hét lên.

    Cậu ta nhảy xuống, đi đến chỗ tôi và nhìn cái câu liêm có vẻ thắc mắc.

    - Đọc đi!

    Lu-ri đọc.

    - Của một cái tàu buồm nào đó, - cậu ta nói. - Của chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri”.

    - Không thể như thế được! Không thể như thế được, Lu-ri ạ!

    Tôi nhấc chiếc câu liêm lên, cầm nó trong tay như ôm một đứa trẻ, còn Lu-ri có lẽ nghĩ rằng tôi điên, bởi vì cậu ta nói lắp bắp cái gì đó rồi ba chân bốn cẳng chạy đến chỗ bác sĩ. Bác sĩ đi đến lo lắng ôm đầu tôi, tay run run và nhìn mãi vào mắt tôi.

    - Các đồng chí, các đồng chí khỉ lắm! - Tôi giận dữ nói. - Các đồng chí tưởng tôi điên à? Chẩng phải thế đâu! Bác sĩ, đây là chiếc câu liêm ở trên chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri”!

    Bác sĩ bỏ kính ra và bắt đầu ngắm nghía cái câu liêm.

    - Rõ ràng là những người Nê-nét đã tìm được cái câu liêm này ở trên Bắc địa, - tôi xúc động nói tiếp. - Nếu không thì nhất định phải ở trên một vùng nào đó trên bờ biển ngoài Bắc địa. Bác sĩ, bác có hiểu, thế này nghĩa là thế nào không?

    Những người Nê-nét từ lâu đã đến đứng vây quanh tôi, dường như người nào cũng như đã hàng nghìn lần thấy tôi xúc động hò hét và chỉ cho bác sĩ xem chiếc câu liêm.

    Bác sĩ hỏi cái câu liêm này của ai. Một cụ già Nê-nét buớc ra, mặt cụ ngây ngô, những nếp nhăn rất sâu giông như một bức tượng gỗ, cụ nói những câu gì bằng tiếng Nê-nét.

    - Bác sĩ, cụ ấy nói gì thế? Cái câu liêm cùa cụ ấy lấy ở đâu ra?

    Bác sĩ hỏi bằng tiếng Nê-nét:

    - Cái câu liêm này của cụ lấy ở đâu ra.

    Cụ già trả lời; bác sĩ dịch lại:

    - Cụ ấy bảo - bắt được.

    - Bắt được ở đâu?

    - Ở trên một chiếc thuyền.

    - Trên chiếc thuyền như thế nào? Cụ thấy chiếc thuyền đó ở đâu?

    - Trên bờ.

    - Trên bờ nào?

    - Ti-mua.

    - Bác ơi Ti-mua! - Tôi nói như gào lên, làm cho ông lại phải lo lắng nhìn tôi. - Ti-mua! Đó là một bờ biển rất gần Bắc địa! Thế cái thuyền đâu?

    - Cái thuyền không còn nữa, - bác sĩ dịch tiếp.

    - Chỉ còn những mảnh ván thuyền.

    - Mảnh như thế nào?

    - Mảnh ván của chiếc thuyển.

    - Xin cho xem!

    Lu-ri gọi bác sĩ ra một chỗ và thì thầm gì đó với bác sĩ trong khi cụ già đi tìm mảnh ván thuyền. Hình như Lu-ri vẫn chưa yên tâm, vẫn cho tôi là bị thần kinh thất thường.

    Cụ già Nê-nét đì tìm mất mấy phút rồi mang ra một miếng vải thô không thấm nuớc. Rõ ràng là chiếc thuyền con cụ tìm thấy ở Ti-mua được làm bằng vải thô không thấm nước.

    - Cái này không bán đâu, - bác sĩ dịch lại.

    - Bác I-van I-va-nứt, xin bác hỏi hộ xem trên thuyền có có cái gì nữa không? Nếu có thì có những gì, những thứ ấy ở đâu cả rồi?

    - Còn có những vật khác nữa, - bác sĩ dịch lại. - Tôi không biết những thứ ấy ở đâu cả. Lâu lắm rồi. Có lẽ đã mười năm rồi. Có một lần tôi đi săn, nhìn thấy một cái xe trượt tuyết. Trên xe trượt tuyết có một cái thuyền con, trong cái thuyền con có một số đồ đạc. Có một khẩu súng săn rất tồi, không thể bắn được nữa, không có đạn. Bàn trượt cũng rất tồi. Còn có cả một người.

    - Một người à?

    - Chờ một lát, có lẽ tôi nói nhỡ miệng, - bắc sĩ vội vàng nói tiếp và hỏi lại câu gì đó bằng tiếng Nê-nét.

    - Phải, có một người, - ông cụ nhắc lại. - Tất nhiẽn là người chết, gấu đã ăn mất mặt. Cũng nằm ở trong thuyền. Hết.

    - Sao lại hết?

    - Ngoài ra không còn gì nữa.

    - Bác I-van I-va-nứt, bác hỏi cụ xem cụ ấy có lục soát người này không, và có cái gì ở trong túi không: có thể là giấy tờ tài liệu gì đó?

    - Có.

    - Những thứ ấy đâu?

    - Những thứ ấy đâu? - Bác sĩ hỏi.

    Cụ Nê-nét im lặng nhún vai. Hình như cụ cho rằng chính câu hỏi này ngu ngốc lắm.

    - Chẳng lẽ trong tất cả những đồ đạc ấy chỉ còn lại có một cái câu liêm? Dù sao người ấy cũng phải mặc quần áo gì chứ? Vậy những quần áo đó đâu?

    - Quần áo không có.

    - Sao lại không có?

    - Rất đơn giản thôi, - bác sĩ bực mình nói. - Hay là anh cho rằng ông cụ phải nhìn xa mười năm sau, chỗ anh và chiếc máy bay của anh sẽ rơi xuống đầu ông cụ, nên cụ phải giữ những quần áo ấy lại cho anh? Mười năm! Thậm chí có thể người ấy đã chết trước đấy mười năm nữa!

    - Bác I-van I-va-nứt thân yêu, xin bác đừng giận. Tất cả đã rõ ràng! Chỉ cần ghi lại câu chuyện này - ghi lại tất cả và bác chú thích thêm là chính bác đã trực tiếp nghe kể câu chuyện này. Xin bác hỏi xem cụ ấy tên là gì.

    - Tên cụ là gì ạ? - Bác sĩ hỏi bằng tiếng Nê-nét.

    - Vưn-ca I-van.

    - Cụ bao nhiêu tuổi?

    - Một trăm tuổi, - cụ người Nê-nét trả lời.

    Chúng tôi im lặng. Còn Lu-ri cứ ôm bụng mà cười.

    - Bao nhiêu?- Bác sĩ hỏi lại.

    - Một trăm tuổi, - cụ Nê-nét nhắc lại.

    Bác sĩ ngơ ngác nhìn xung quanh.

    - Có ma quỉ biết, tiếng một trăm nói bằng tiếng Nê-nét như thế nào, - ông lẩm bẩm. - Có thể tôi đã nhầm?

    - Một trăm tuổi, - cụ I-van Vưn-ca nhắc lại thẳng bằng tiếng Nga chính cống.

    Trong khi chúng tôi ghi lại câu chuyên cụ kể ra ở trong căn nhà lều, cụ cứ nhắc đi nhắc lại mãi là mình một trăm tuổi. Rất có thể, cụ ít tuổi hơn hay ít nhất thì bề ngoài trông cũng có vẻ trẻ hơn. Nhưng càng ngắm nghía tỉ mỉ khuôn mặt như khắc bằng gỗ và cái nhìn đờ đẫn của cụ tôi càng tin cụ quả đã rất già. Một trăm tuổi - đó là niềm tự hào của cụ. Cho nên cụ mới nhắc đi nhắc lại nhiều lần câu đó cho đến khi chúng tôi ghi vào biên bản câu “Cụ I-van Vưn-ca, người thợ săn một trăm tuổi” cụ mới thôi.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 4/6/15
  11. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 15

    Va-nô-can

    Thật tình mà nói, cho đến bây giờ tôi vẫn không biết những người Nê-nét đã kiếm ở đâu ra khúc gỗ để cho chúng tôi làm càng máy bay. Ban đêm họ mang giày trượt tuyết đi đến một khu du mục nào đó ở gần đấy và khi trời sáng chúng tôi chui ra khỏi cái lều ở đấy tôi đã nằm một đêm thấp thỏm nhất trong tất cả đời tôi, chúng tôi đã thấy khúc gỗ cây bá hương này nằm ngay cạnh lối ra vào.

    Quả thật đó là một đêm chẳng vui vẻ tí nào cả. Chỉ có bác sĩ I-van I-va-nứt ngủ được ở bên cạnh đống lửa. Hai cái tai mũ dài vểnh lên trên đầu, thò ra ngoài cái áo khoác da lông giống như tai thỏ trông rất buồn cười. Lu-ri cứ trằn trọc và ho mãi. Tôi không ngủ. Một chị người Nê-nét ngồi bên cạnh cái nôi. Tôi nghe rất lâu chị ta hát một bài hát đơn điệu, hững hờ nhưng đồng thời lại có vẻ say mê, vẫn những từ ấy cứ lặp đi lặp lại từng phút một và cuối cùng tôi cảm thấy cả bài hát của chị chỉ gồm khoảng vài từ mà thôi. Đứa trẻ đã ngủ từ ỉâu mà chị vẫn hát. Thỉnh thoảng khuôn mặt tròn trĩnh của chị lại sáng lên khi những cành liễu tươi bốc cháy và khi đó tôi nom thấy chị vừa nhắm mắt vừa hát. Chị hát như thế này - sáng ra bác sĩ đã dịch lại bài hát đó cho tôi nghe:

    Đang độ mùa đông,

    Nhìn ra từ phía,

    Con yêu của tôi,

    Khắp trời trắng xóa,

    Con yêu của tôi.

    Tôi nhìn ra hổ,

    Chỉ thấy nước đá

    Lấp lánh màu xanh

    Con yêu của tôi.

    Đồng rêu tuyệt vời,

    Khắp trời trắng xóa.

    Con yêu của tôi.

    Tai con xinh thế,

    Con yêu của tôi.

    Mắt con xinh thế,

    Con yêu của tôi.

    Mũi con xinh thế,

    Con yêu của tôi.

    Nhìn ra ngoài trời,

    Trời mây trắng xóa.

    Đồng rêu tuyệt vời.

    Cái cảm giác mà tôi đã thể nghiệm khi nói chuyện với Ca-chi-a, nay lại đến với tôi. Nó mãnh liệt đến nỗi tôi cứ muốn vùng dậy đi ra khỏi nhà lều, để khỏi phải nghe cái bài hát sầu não mà chị con gái người Nê-nét vừa hát vừa nhắm mắt. Nhưng tôi không dậy. Chị ta hát chậm dần, khẽ dần và rồi im bặt, ngủ thiếp đi. Trừ tôi ra còn cả thế giới đều đang ngủ. Chỉ có mình tôi nằm trong bóng tối và cảm thấy trái tim mình đang than vãn nỗi cô đơn và lạnh lẽo. Nếu mọi việc đều đã kết thúc rồi, nếu giữa chúng tôi đã không có và sẽ không thể có bất kỳ mối quan hệ nào, mà chỉ như người dưng nuớc lã thì cái vật tìm thấy này để làm gì? Tôi cố gắng kìm chế mình, nhưng không tài nào kìm chế nổi. Tôi cứ phải cố mãi, cố mãi cho đến khi cuối cùng ngủ thiếp đi.

    Đến khoảng trưa thì chúng tôi chữa được cái càng máy bay. Chúng tôi đem khoan mấy lỗ ở khúc gỗ tròn rồi lắp vào máy bay thay càng. Để cho chắc chắn hơn, chúng tôi lấy dây buộc thêm vào. Hiện nay máy bay như bị nạn, trông rất đáng thương. Tôi và Lu-ri bước xa ra mấy bước, đánh giá công việc này một cách lạnh lùng.

    - Thế nào?

    Lu-ri hoa tay có vẻ khó chịu.

    Chẳng sao cả, cứ cho là mọi việc đều tốt đẹp đi, Phải đun ít nước nóng để phát động máy nổ.

    Chúng tôi bỏ tuyết vào những chiếc bi-đông rồi đặt bi-đông lên bếp đèn cồn. Thật là một việc khổ sở! Cái bếp đèn cồn của chúng tôi cháy tồi quá, cái “máy quí hóa” mà mỗi gia chủ không thể thiếu được này tồi quá.

    Nhưng rồi tất cả cũng đâu vào đấy, động cơ đã nóng. Có thể khởi động được rồi. Những người Nê-nét kéo sợi dây khởi động

    - Chú ý!

    - Sẵn sàng.

    - Hai, ba nào - kéo!

    Sợi dây tuột ra, những người Nê-nét ngã lăn ra tuyết.

    Làm lại:

    - Chú ý!

    - Sẵn sàng!

    - Hai, ba nào - kéo!

    Phải làm đi làm lại đến bốn lần. Cái máy nổ rung lên kêu bành bạch quay được khoảng hai chục vòng rồi lại tắt. Nhưng cuối cùng cũng khởi động được. Giờ chia tay đã đến! Những người Nê-nét vây chặt lấy chiếc máy bay. Tôi đi bắt tay từng người, cám ơn họ đã giúp đỡ, chúc họ săn bắn được nhiều kết quả... Họ cười rất hả hê. Còn vị hoa tiêu của chúng tôi cười ngượng nghịu, chui vào máy bay. Tôi không biết lúc chia tay, anh ta đã nói những gì với vợ, nhưng chị đứng bên cạnh máy bay phấn khởi lắm. Chị mặc cái áo khoác da lông to có viền nỉ nhiều màu ở dưới thắt cái thắt lưng to bản, đội cái mũ gió bằng lông rộng vành làm cho gương mặt chị sáng sủa hẳn lên.

    Cái mũ gió này phải cao đến nửa thước, bên trên cắm những vật gì nho nhỏ. bên dưới mũ là khuôn mặt nhỏ nhắn tròn trĩnh, đó là tất cả những gì tôi nhìn thấy lúc chia tay.

    Theo thói quen, tôi giơ tay như xin phép những người Nê-nét cho tôi được cất cánh.

    - Xin chào tạm biệt, các đồng chí nhé!

    Chúng tôi cất cánh...

    Tôi không định kể lại chúng tôi đã bay đến Va-nô-can như thế nào, khả năng quan, sát địa hình của người hoa tiêu của chúng tôi khiến tôi phải khâm phục như thế nào. Anh ta nhìn xuống bình nguyên phủ tuyết trắng xóa một màu mà thành thạo cứ như người ta xem bản đồ vậy. Khi bay trên không phận một đội du mục, anh ta đề nghị tôi dừng lại một lát, nhưng anh đã rất buồn khi biết máy bay không thể dừng lại được.

    Tôi không định kể lại chúng tôi đã hạ cánh xuống Va-nô-can như thế nào. Những phi công lái máy bay thí nghiệm đều rất quen thuộc với cảm giác đặc biệt có tính chất nghề nghiệp này, một cảm giác pha trộn gồm tính mạo hiểm, tinh thần trách nhiệm, cộng với sự phấn chấn. Cuối cùng chúng tôi đã bay trên một chiếc máy bay có cấu trúc mới với cái càng bằng gỗ - quả là một tin mới lạ đối với giới chế tạo máy bay! Hình như tôi đã đặt toàn bộ trọng lượng máy bay lên cái bánh còn tốt, cho nên khi máy bay còn chưa dừng lại hẳn, Lu-ri đã nhảy ra khỏi máy bay và giơ ngón tay cái lên với tôi.

    Tôi không định kể lại ở Va-nô-can, người ta đã đón tiếp chúng tôi như thế nào. Có ba nhà cùng đặt bếp nấu nước trà, còn nhà thứ tư thì có một em bé rơi ra khỏi cái nôi làm cho bác sĩ phải đến chữa bệnh ngay lập tức. Tôi không định kể lại họ đã thết đãi chúng tôi bằng món cá hồi và bánh ga-tô như thế nào, tôi đã tổ chức một tiểu tổ mô hình máy bay ra sao, và đã cho các em thiếu nhi đội thiếu niên nhi đồng ngồi lên máy bay như thế nào. Nhân dân Va-nô-can đã khẳng định với tôi rằng, đúng ngày và giờ chúng tôi bay đến, trên không phận của thôn đã có hai chiếc máy bay nữa cũng bay qua. về sau tôi đã đoán đúng, thì ra đó chính là máy bay của tôi, bởi vì trước khi hạ cánh tôi đã lượn ba vòng.

    Nhưng có một việc tôi không thể không kể lại ở đây, đó là việc bác sĩ I-van I-va-nứt ở Va-nô-can.

    Chúng tôi tìm được Lét-cốp trong tình trạng rất xấu. Không phải tôi chỉ gặp ông có một lần ở các hội nghị mà có một lần tôi còn đưa ông từ Cra-xnô-i-a-rơ-xcơ về I-ga-rơ-ca. Thêm vào đó kiến thức văn nghệ của ông đã làm cho tôi phải khâm phục. Thì ra ông đã tốt nghiệp Trường đại học Sư phạm ở Lê-nin-grát và nói chung ông là một người có văn hóa, có giáo dục. Truớc năm hai mươi ba tuổi ông đã từng là mục đồng ở Đồng rêu. Chả trách người Nê-nét nói về ông đều tỏ vẻ tự hào và yêu mến.

    Nhưng con người tuyệt vời, thông mình, nhà hoạt động chính trị xuất sắc ấy hiện nay đang nằm ở đây bị một tên chó má nào đó bắn bị thương. Lúc tôi vừa bước vào cửa, tôi không nhận được ra ông, bởi vì ông thay đổi ghê quá.

    Thậm chí không thể nói được là ông đang nằm nữa. Ông ngồi ở trên giường, nghiến răng lại vị đau đớn. Và nỗi đau đớn nhấc ông lên: ông đứng dậy, tay nắm lấy thành giường, rồi nhảy tót lên một chiếc ghế. Nhìn nỗi đau đớn giày vò một con người cao lớn, khỏe mạnh như thế thật là đáng sợ. Thỉnh thoảng nỗi đau đớn dịu đi vài phút, lúc đó trông mặt ông mới ra hồn người. Sau đó lại tái diễn như thế! Ông cắn chặt môi trên, đôi mắt - đôi mắt khủng khiếp của người tráng sĩ không còn đủ sức để kìm chế mình được nữa - cũng khác hẳn đi. Thế rồi ông đứng phắt lên trên cái chân còn lành mạnh và lấy đà quăng mình lên giường. Nhưng ngay ở trên giường ông cũng luôn luôn vật vã thân mình. Không biết có phải vì viên đạn bắn trúng một hệ thần kinh nào đó hay là vết thương mưng mủ đau quá không chịu nổi. Nhưng cả đời tôi, tôi chưa bao giờ trông thấy cảnh nào kinh khủng hơn. Trông ông thật đáng thương khi ông quằn quại ở trên giường, đau đớn cố gắng ngồi dậy thì ai nấv đều bất giác cau mày lại, Bỗng nhiên ông lại đem toàn lực ra nhảy phắt một cái lên chiếc ghế.

    Nhìn thấy những người bệnh như thế thường làm cho người ta mất hết lý trí. Nhưng bác I-van I-va-nứt lại không như thế mà trái lại, bác bỗng trở nên trẻ ra, bác dẩu môi ra và trở thành giống như một người bác sĩ quân у trẻ tuổi mà ai cũng sợ. Bác liền đuổi ngay tất cả mọi người ra khỏi buồng người bệnh, cả đến vị chủ tịch ban chấp hành khu bác cũng không từ. Vịnnày không hiểu sao cứ nhất dịnh đòi tham gia vào việc chẩn đoán bệnh cho Lét-cốp. Khi bà у sĩ địa phương một bà già gày gò đeo kính vội vàng đến trước mặt bác, bác hỏi bà một cách khách sáo:

    - Bà đã tham gia việc cưa ông chân lần nào chưa?

    Với động tác khéo léo, tự nhiên bác sắp xếp lại toàn bộ đồ đạc trong phòng trong một phút. Bác đưa chiếc bàn thừa ra ngoài, khiêng cái bàn dùng để chuẩn bị mổ vào giữa phòng dưới chiếc đèn treo.

    Bác ra lệnh tập trung đèn toàn thôn lại, nhưng “không ngọn đèn nào được bốc khói”. Bác treo đèn rải trên bốn bức tường. Thế là căn phòng này lập tức sáng rực lên như xưa nay ở Va-nô-can chưa hề thấy.

    Bác vừa mới nhướn lông mày lên thì bà у sĩ gày gò đã chạy đi lấy chiếc khăn mặt mà bác cho là không được sạch cho lắm. Tôi nghe ở dưới bếp bà ta cũng nói giọng gay gắt nhưng cũng lịch thiệp như bác sĩ:

    - Các bạn nhỏ ôi, các bạn muốn đưa tôi vào quan tài đấy phỏng?

    Nhưng chẳng có ai muốn đưa bà vào quan tài cả. Mọi người đều ba chân bốn cẳng chạy đi chạy lại và đều gọi bác sĩ là “nó”.

    Bác sĩ lấy bàn chải, rửa tay bằng xà phòng có tới nửa tiếng đồng hồ. Bác căn dặn người này, người khác rất lịch thiệp. Sau đó bác không lau khô tay, cứ thế đi vào phòng người bệnh, bác dừng chân, dạng chân, xòe tay ra. liếc nhìn chung quanh có vẻ bình phẩm. Sau đó cánh cửa đóng lại. Cả phòng sáng như tuyết, người bệnh nằm trên cái bàn trắng như tuyết và những người mặc áo choàng trắng như tuyết - cái cảnh tượng kỳ diệu đối với Vi-nô-can liền biến mất.

    Đây bác sĩ I-van I-va-nứt của chúng tôi ở Va-nô-can xử sự như thế đấy. Sau bốn mươi phút bác từ trong phòng mổ đi ra. Quá trình mổ chắc chắn là tốt đẹp, cho nên bác vừa cởi áo choàng vừa nói mấy câu tiếng La-tinh với tôi, và sau đó trích dẫn mấy câu của Cô-dơ-ma Prút-cốp:

    - “Nếu bạn muốn là một người hạnh phúc thì xin cứ việc!”

    Từ mờ sáng chúng tôi cất cánh từ Vô-nô-can và sau ba giờ ba mươi phút chúng tôi đã hạ cánh ở Da-pô-li-a-ri-e không gặp trở ngại gì.

    Về trường hợp này, tức là về cuộc mổ xuất sắc mà bác sĩ đã thành công trong điều kiện khó khăn như vậy, và nói chung về chuyến bay của chúng tôi, sau này báo “Tin tức” có đăng một bài bút ký. Bài báo kết thúc bằng câu “sức khỏe của bệnh nhân đang được khôi phục nhanh chóng”. Thật vậy, bệnh nhân bình phục rất nhanh.

    Tôi và Lu-ri cũng nhận được thư khen, còn bác sĩ thì được bằng khen của khu dân tộc Nê-nét.

    Chiếc câu liêm cũ bằng đồng thau hiện đang treo trên tường trong phòng tôi bên cạnh tấm bản đồ lớn. Trên bản đó có đánh dấu tuyến đường bị trôi của chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri”.

    Đầu tháng sáu tôi về Mát-xcơ-va. Thật tiếc là tôi có rất ít thì giờ: tôi chỉ được nghỉ có mười ngày. Trong mười ngày đó tôi không những phải làm công việc của cá nhân mà còn phải làm những công việc riêng và chung của vị thuyền trưởng kia nữa.

    Trên dọc đường tôi suy nghĩ rất nhiều, nghĩ về mình, nghĩ về quan hệ giữa tôi và Ca-chi-a, rồi câu chuyện của cha cô lại hiện lên trên tất cả nhũng ý nghĩ nầy, hình như nó đòi hỏi phải đặc biệt chú ý và tôn kính. Dù muốn hay không tôi vẫn gặp ông trong mỗi bước ngoặt của cuộc đời mình. Cuối cùng từ những mảnh trong câu chuyện của ông mà tôi đã thu thập được, tôi có thể ghép thành một bức tranh hoàn chỉnh. Chiếc câu liêm cũ bằng đồng thau chính là bằng chứng của nét vẽ cuối cùng đầy tính lô-gích trong bức tranh này. Trong đó vấn đề phức tạp nhất cũng đã được giải quyết vì có được vật này.

    Thực ra sau khi đọc xong cuốn nhật ký của người hoa tiêu tôi tự hỏi: “Liệu sau này mình có biết điều gì đã xảy ra đến với thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp không? Ông có bỏ tàu để đi nghiên cứu dải đất mà ông đã phát hiện ra không? Hay đã cùng chết đói với những người của mình trên chiếc tàu buồm bị băng trôi giạt năm này qua năm khác đến bên bờ Gren-lan?

    - Đúng, - bây giờ tôi có thể trả lời được. - Ông đã bỏ tàu. Tạm- thời chúng tôi còn chưa biết việc này xảy ra trong hoàn cảnh như thế nào - vì một bộ phận thủy thủ đã hy sinh hay vì tàu bị băng xô vỡ? Nhưng ông đã thực hiện cái ý nghĩ “trẻ con”, “nông nổi” của mình.

    Tôi tự hỏi: "Ông có đến được Bắc địa không?”

    - Phải, - bây giờ tôi có thể trả lời được. - Ông đã đến gần Bắc địa. Nếu không cái xe trượt tuyết và cái thuyền con bằng vải thô không thấm nước làm sao có thể xuất hiện ở vùng bờ biển này để cho cụ thợ săn I-van Vưn-ca nhặt được?

    Tôi đã từng tự hỏi: “Nên đi đâu để tìm vết tích của đội thám hiểm này? Có nên đi tìm hay không?

    - Đúng, - bây giờ tôi có thể trả lời được.. - Nên đi tìm những vết tích của họ, bởi khi phân tích một cách lô-gích có thể khẳng định một cách chính xác - có sai cũng không sai quá nửa độ - vị trí của khu vực cần tìm. Còn ý nghĩa khoa học của công tác này thì không phải nghi ngờ gì nữa.

    Đây là một cuộc đối thoại như ở tòa án, toàn là những câu hỏi và trả lời. Nhưng đằng sau những lời khô khan, lạnh lùng này hình như tôi cảm thấy còn có nhũng lời khác hẳn, tôi đã nhìn thấy Ca-dhi-a mà tôi hằng mong nhớ.

    - Cậu quên mình rồi à? Có đúng không?

    - Không, - cô trả lời. - Nhưng cuộc đời tuổi mười bảy, mười tám của chúng ta đã kết thúc rồi và cậu đã đi đâu mất cho nên mình cứ tưởng tình yêu của chúng mình cũng đã kết thúc cùng với quãng tuổi đời ấy.

    - Cuộc sống chẳng kết thúc cái gì cả, - tôi nói với cô. - Giờ đây mình biết về ba cậu nhiều hơn cậu, nhiều hơn tất cả mọi người trên trái đất. Cậu xem đây, mình mang về cho cậu những gì đây: đây là toàn bộ cuộc sống của ba. Mình đã đi thu thập những sự tích về cuộc đời của ba và chứng minh đây là một cuộc đời của một con người vĩ đại. Cậu có biết tại sao mình lại làm những việc ấy không? Tại vì mình yêu cậu đấy.

    Thế là cô hỏi:

    - Như vậy có nghĩa là cậu không quên mình? Có đúng thế không?

    Thế là tôi đáp:

    - Dù cho cậu không yêu mình nữa, mình cũng không quên cậu.

    Đây là cuộc đối thoại kỳ diệu do tôi nghĩ ra trên đường đi. Tuy vậy cũng không thể nói nó hoàn toàn không giống buổi nói chuyện thật sự giữa tôi và Ca-chi-a sau đó ít lâu. Buổi nói chuyện đó vừa giống lại vừa không giống - cũng như một giấc mơ vừa giống lại vừa không giống với cuộc sống hiện thực.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 4/6/15
  12. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    :rose:
    Phần thứ năm

    VÌ LƯƠNG TÂM

    Chương 1

    Gặp Ca-chi-a

    Mười ngày để phá một đám cưới và tổ chức một đám cưới khác, thời gian đó không phải là nhiều. Huống hồ ở Mát-xcơ-va tôi lại có nhiều công việc khác nữa: tôi chuẩn bị đọc một bản báo cáo ở Hội địa lý học “Về một đội thám hiểm Bắc cực bị lãng quên”, nhưng lúc đó tôi vẫn chưa viết xong bản báo cáo ấy. Ngoài ra tôi còn phải đến Tổng cục đường Hàng không Bắc cực để đặt vấn để đi tìm chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri”.
    Va-li-a đã chuẩn bị một số việc: ví dụ như nó đã trao đổi với Hội Địa lý học về bản báo cáo của tôi. Nhưng còn việc viết báo cáo, tất nhiên là nó không thể làm được.
    Tôi định ở lại nhà thầy Cô-ra-bơ-li-ốp, nhưng sau tôi nghĩ lại và đến ở khách sạn, chính cái khách sạn mà hai năm trước đây, khi tôi từ Ba-la-sốp về đã ở đó. Đó là một sai lầm, bởi vì tôi không thích ở khách sạn, mặc dù điều này đối với một người đang lang thang, như vậy là kỳ quặc, ở khách sạn, tâm trạng tôi bao giờ cũng buồn bã.
    Tôi gọi dây nói cho Ca-chi-a. Cô đến chỗ máy nói.
    - Tôi nghe đây.
    - Tôi là Xa-nhi-a.
    Cô im lặng. Sau đó cô hỏi giọng rất bình thường:
    - Xa-nhi-a?
    - Đúng, tôi là Xa-nhi-a đây.
    Cô lại im lặng.
    - Ở Mát-xcơ-va có lâu không?
    - Không, chỉ vài ngày thôi, - tôi trả lời, cũng cố gắng nói giọng bình thường, tựa hồ như không cảm thấy mình đang trông thấy cô vẫn đội cái mũ bịt tai nhưng không buộc dây, vẫn mặc cái áo bành tô bị tuyết ngấm ướt mà cô đã mặc hôm chúng tôi gặp nhau lần cuối cùng ở phố Tri-um-phan-nai-a ấy.
    - Nghỉ phép à?
    - Vừa nghỉ phép vừa đi công tác.
    Tôi phải cố gắng lắm mới không bật ra câu hỏi: “Mình nghe nói cậu thường gặp Rô-ma-sốp luôn phải không?”. Tôi đã cố gắng kìm được nên không hỏi.
    - Thế Xa-nhi-a thế nào? - Đột nhiên cô hỏi về em gái tôi. - Mình và Xa-nhi-a vẫn thư từ cho nhau, nhưng sau đó bị gián đoạn.
    Chúng tôi nói chuyện về Xa-nhi-a. Ca-chi-a nói rằng cách đây mấy hôm có một đoàn kịch ở Lê-nin-grát đến Mát-xcơ-va, trình diễn vở “NGƯỜI MẸ” của Mắc-xim Goóc-ki, và trong tờ chương trình có viết: “Họa sĩ: P.xcô-vô-rốt-ni-cốp”.
    - Thật à?
    - Trang trí rất đẹp. Rất mạnh dạn nhưng đồng thời cũng giản dị.
    Tôi cảm thấy cô cố tình không gọi tôi bằng tên, chỉ có một lần gọi như thế thôi, nhưng giọng rất bé, hình như cô không muốn cho người nhà biết cô đang nói chuyện với ai. Chẳng lần nào cô gọi tôi là “cậu” cả. Chúng tôi nói hết chuyện này đến chuyện khác giọng rất bình thường cho đến lúc tôi bỗng cảm thấy sợ hãi: tất cả sắp kết thúc mất rồi, tức là chúng tôi nói chuyện với giọng bình thường như thế này rồi sẽ chia tay, thậm chí tôi không còn cớ gì để mà lại gọi dây nói cho cô nữa.
    - Ca-chi-a, chúng mình cần gặp nhau một buổi. Khi nào cậu có thể cho gặp được?
    Tôi nói: “Khi nào cậu có thể?” Như thế là rõ, nếu tôi gọi “chị” thì thật là ngu xuẩn.
    - Rất may tối nay mình rất rỗi.
    - Chín giờ nhé?
    Tòi chờ xem cô có bảo tôi đến nhà cô không, nhưng cô không bảo gì. Chúng tôi hẹn gặp nhau ở đâu?
    - Có lẽ đến vườn hoa phố Tri-um-phan-nai-a nhé?
    - Hiện nay không còn vườn hoa ấy nữa, - Ca-chi-a lạnh lùng nói.
    Chúng tôi hẹn gặp nhau giữa những hàng cột ở Nhà hát lớn.
    Toàn bộ nội dung cuộc nói chuyện của chúng tôi bằng điện thoại là như vậy, chẳng có gì đáng nhớ lại từng lời tôi đã nói suốt cái ngày dài đằng đẵng ở Mát-xcơ-va.
    Trước hết tôi đến Cục Hàng không dân dụng, sau đó đến Học viện Động vật thăm Va-li-a. Hình như lúc đó tôi lơ đễnh lắm nên Va-li-a phải nhắc đi nhắc lại mấy lần rằng ngày mai là ngày kỷ niệm hai mươi nhăm năm dạy học của thầy giáo Cô-ra-bơ-li-ốp, nhà trường sẽ tổ chức cuộc họp mặt chúc mừng thầy.
    Cuối cùng cũng đến chín giờ tối, tôi đi đến Nhà hát lớn...
    Ca-chi-a vẫn là Ca-chi-a như trước, cô vẫn quấn hai cái đuôi sam ở trên đầu, vẫn có mớ tóc quăn trước trán mà lúc nào tôi cũng nhớ mỗi khi nghĩ đến cô. Cô có xanh hơn một chút và người cao hơn. Tất nhiên bây giờ cô không còn là cô gái như hồi nào đã hôn tôi ở vườn hoa phố Tri-um-phan-nai-a. Giờ đây cô có cái nhìn nhẫn nhục và giọng nói cũng nhẫn nhục. Nhưng dù sao cô cũng vẫn là Ca-chi-a, lớn lên chẳng có chút nào giống bà Ma-ri-a Va- xi-li-ép-na, mà không hiểu tại sao tôi rất sợ nếu cô giống mẹ. Trái lại tất cả những đặc điểm của Ca-chi-a trước đây, nay càng rõ nét hơn, và giờ đây cô càng đúng là Ca-chi-a hơn trước. Cô mặc chiếc áo sơ-mí lụa cộc tay màu trắng, trước ngực có đính một cái nơ màu xanh điểm những hạt đậu trắng. Trong khi nói chuyện, tôi nhìn lên mặt cô, cô liền trở nên nghiêm nghị.
    Lần nói chuyện này gây cho tôi một cảm giác hình như chúng tôi ở hai buồng khác nhau, nói chuyện với nhau qua một bức tường và chỉ thình thoảng Ca-chi-a mới nhìn qua khe cửa hé mở để xem tôi có phải là tôi không. Chúng tôi lang thang ở Mát-xcơ-va suốt cái ngày buồn bã ấy. Tôi cứ nói thao thao bất tuyệt, - tôi không nhớ cô bao giờ tôi lại nói nhiều như thế hay không. Nhưng tất cả những điều đó lại hoàn toàn không phải điều tôi muốn nói với cô. Tôi đã kể cho cô nghe, tôi đã lập được “bảng chữ cái của người hoa tiêu” như thế nào và muốn đọc hết được cuốn “nhật ký” là cả một công việc gian khổ. Tôi đã kể cho cô nghe, tôi đã tìm được cái câu liêm cũ bằng đồng thau có khắc chữ “Tàu buồm Xanh Ma-ri” như thế nào.

    Nhưng tôi không hề nói một câu nào về việc tôi đã làm tất cả những việc đó để làm gì! Không nói một câu nào hết. Hình như câu chuyện cũ đã chết từ lâu rồi, mà trong đó không có tình yêu và cái chết của bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na, sự ghen tuông của Rô- ma-sca, toàn bộ bầu máu nóng sục sôi trong tôi và Ca-chi-a.

    Ở Mát-xcơ-va đang xây đựng đường tàu điện ngầm và ở những nơi quen thuộc nhất đã có những hàng cọc chắn nên bắt buộc phải đi dọc theo những hàng rào đó trên những tấm ván gồ ghề và rồi lại phải quay lại, bồi vì ở đầu bên kia đã có một cái hố lớn. Hôm qua vẫn chưa có những hố này, thế mà giờ đây đã nghe thấy tiếng người ở dưới và tiếng làm việc ồn ào ở dưới đường hầm.
    Cuộc nói chuyện của chúng tôi cũng na ná như vậy, chúng tôi cũng đi vòng qua những nơi quen thuộc nhất, những nơi quen thuộc từ thời thơ ấu và thời còn đi học, chúng tôi phải đi vòng quanh và phải quay trở lại vì đến đâu cũng gặp những hàng rào chắn ngang, đặc biệt là những lúc chúng tôi đi gần đến chỗ nguy hiểm gọi là chỗ “Ni-cô-lai An-tô-nứt” là chúng tôi bị chặn đứng.
    Tôi hỏi Ca-chi-a có nhận được những bức thư của tôi không - một bức thư tôi gửi từ Lê-nin-grát, một bức tôi gửi từ Ba-la-sốp. Khi cô nói là không, tôi lại nói bóng nói gió là liệu những bức thư đó có rơi vào tay người nào khác không.
    - Trong nhà mình chẳng có người lạ nào cả, - Ca-chi-a nói gắt.
    Chúng tôi quay lại quảng trường Nhà hát. Trời đã về khuya, nhưng trong các quầy vẫn còn bán hoa. Sau khi ở Da-pô-li-a-ri-e vể, tôi cảm thấy là lạ khi nhìn thấy ở đây lắm thứ như thế - nào người, xe cộ, nhà cửa và không biết bao nhiêu là đèn điện đang đung đưa ở những góc khác nhau.
    Chúng tôi ngồi trên chiếc ghế dài. Ca-chi-a nghe tôi nói, một tay chống đầu. Lúc đó tôi nhớ ra là cô vẫn có thói quen thích ngồi ngay ngắn để nghe cho thoải mái. Giờ đây tôi mới hiểu trong cô đã có điều thay đổi, đó là đôi mắt. Đôi mắt cô có vẻ buồn buồn.
    Đây là giây phút êm đềm duy nhất. Sau đó tôi hỏi cô có còn nhớ buổi nói chuyện cuối cùng của chúng ta ở vườn hoa phố Tri-em-pha-nai-a không, cô không nói gì. Đó là câu trả lời đáng sợ nhất đối với tôi. Đó là dự báo sẽ trả lời: “Chúng ta sẽ không nói về chuyện ấy nữa”.
    Nếu tôi được nhìn kỹ vào mắt cô, có lẽ tôi có thể hiểu được nhiều điều hơn. Nhưng trong suốt thời gian đó cô cứ quay mặt đi, nên tôi cũng không định tìm cách nhìn nữa.
    Tôi chỉ cảm thấy càng ngày cô càng lạnh nhạt hơn. Cô chỉ gật đầu khi tôi nói:
    - Mình sẽ mãi mãi quan tâm đến cậu về mọi mặt.
    Khi tôi mời cô đến nghe buổi báo cáo của tôi thì cô cám ơn tôi một cách lịch sự.
    - Cám ơn, mình nhất định sẽ đến.
    - Mình sẽ rất vui.
    Chúng tôi im lặng.
    - Xa-nhi-a ạ, mình muốn nói với cậu rằng, thái độ này của cậu làm cho mình rất cảm động. Mình cứ tưởng cậu đã quên việc này từ lâu rồi.
    - Cậu thấy đấy, quên sao được!
    - Nếu mình kể lại cho Ni-cô-lai An-tô-nứt nghe những chuyện chúng mình đã nói với nhau, cậu sẽ không phản đối chứ?
    - Trái lại! Ni-cô-lai An-tô-nứt sẽ rất phấn khởi nếu được biết những phát hiện này của mình. Bởi vì những phát hiện này có liên quan hết sức mật thiết với lão, còn mật thiết hơn là lão tưởng tượng rất nhiều.
    Thực ra những phát hiện này chẳng có quan hệ mật thiết đối với lão ta đến thế và tôi cũng chẳng có cơ sở gì để nói bóng gió như vậy. Nhưng lúc đó tôi rất bực.
    Ca-chi-a nhìn tôi chằm chằm và có vẻ suy nghĩ. Hình như cô còn muốn hỏi tôi điều gì, nhưng còn do dự. Chúng tôi chia tay nhau. Tôi ra về lòng nặng trĩu, bực bội và mệt mỏi và về khách sạn chưa bao giờ trong đời tôi lại đau đầu đến như vậy.
     
    Last edited by a moderator: 2/6/15
  13. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    :rose:
    Chương 2

    Lễ kỷ niệm của thầy Cô-ra-bơ-li-ốp
    Tổ chức lễ kỷ niệm của một giáo viên trung học vào những ngày nghỉ, quả là một ý nghĩ kỳ quặc, bởi vì lúc đó học sinh đều về cả và nhà trường cũng đã đóng cửa. Thậm chí tôi còn nói với Va-li-a là, theo tôi sẽ không có ai đến dự.
    Thực tế lại hoàn toàn không phải như vậy! Trường chật ních người. Anh em học sinh còn lấy cành thông và cành bạch dương về trang hoàng cầu thang. Một đống cành cây đặt trên sàn phỏng treo mũ áo và con số “25” rất lớn đung đưa trước cửa ra vào căn phòng dự định làm phòng tổ chức lễ kỷ niệm. Các nữ sinh ôm những bó hoa đi đâu đó, vẻ mắt nào cũng nghiêm trang, chăm chú. Do không khí tấp nập, phấn khởi ấy, và chủ yếu là do cảm giác tôi được về trường cũ, tôi bỗng cảm thấy lòng vui rạo rực.
    Song các bạn không để cho tôi say sưa với những kỷ niệm của mình được lâu. Khi tôi mặc quần áo đồng phục vào, các bạn liền vây chặt lấy tôi. A ha, phi công đã đến! Tôi không còn kịp trả lời những câu hỏi của các bạn nữa.
    Sau đó có một nữ sinh lớp trên, cô này làm cho tôi nhớ đến cô Va-ri-a “Ban kinh tế" của chúng tôi, cũng béo, cũng hồng hào như thế, đi đến chỗ tôi và đỏ mặt lên nói rằng thầy I-van Pa-vơ-lứt đang chờ tôi.
    Ông đang ngồi trong phòng giáo viên, già đi, hơi còng, tóc bạc
    - tóc đã bạc rồi! Giờ đây ông đang giống người nào? Giống Mác Toen! Tất nhiên ông già đi, nhưng tôi cảm thấy ông khỏe chắc hơn khi tôi gặp ông lần cuối cùng. Râu ông tuy cũng đã bạc trắng, nhưng lại rậm hơn và lại vểnh lên trông rất có sinh khí và bên trên cái cổ áo mềm và rộng là cái cổ hồng hào khỏe khoắn.
    - Chào thầy ạ, xin chúc mừng thầy! - Tôi nói, chúng tôi ôm hôn nhau rất lâu. - Xin chúc mừng thầy, - tôi nói trong lúc hôn, - mong rằng những học sinh của thầy cũng sẽ biết ơn thầy như em.
    - Cám ơn, Xa-nét-sca (1)
    (1) Tức Xa-nhi-a gọi một cách âu yếm - N.D.

    Ông lại ôm tôi rất chặt một lần nữa. Ông xúc động vô cùng, môi ông run run.
    Sau đó một tiếng đồng hồ, ông ngồi trên bục sân khấu ở trong chính cái phòng mà trước kia chúng tôi đã mở phiên tòa xử Ép-ghê-ni Ô-nê-ghi. Còn chúng tôi với danh nghĩa là khách danh dự ngồi trên bàn chủ tịch ở bên phải và bên trái người được kỷ niệm. Chúng tôi bao gồm: Va-li-a, nhân ngày lễ trọng thể này, cậu ta đã thắt chiếc cà-vạt màu xanh tươi; kỹ sư xây dựng Ta-ni-a Ve-lích-cô, giờ đây cô ta đã trở thành một thiếu phụ cao lớn đấy đà làm người ta khó có thể tin rằng đó lại chính là cô Ta-ni-a gày còm, có tính nguyên tắc rất cao thuở trước; và một vài học sinh nữa của thầy I-van Pa-vơ-lứt mà hồi chúng tôi còn học, họ chỉ là những học sinh lớp dưới, bé tí tẹo, thậm chí hồi đó chúng tôi còn không coi họ ra gì. Trong thế hệ học sinh này có rất nhiều học sinh trường quân chính, và tôi rất hài lòng được biết có ba người là đội viên thuộc trung đội Thiếu niên tiền phong của tôi hồi đó.

    Sau đó có một vị rất chi là hào hoa trang nhã, đi đôi giày ống màu trắng, mặc áo gi-lê sợi thô, đó là Gri-sca Pha-be, diễn viên của nhà hát Mát-xcơ-va. Quả thật anh chàng này không hề thay đổi tí nào. Cậu ta làm ra vẻ như mọi việc xảy ra trong hội trường này đều có liên quan đến cậu ta cả. Cậu ta trang trọng hôn lên má chủ nhân rồi ngồi xuống, bắt chân lên nhau. Cậu ta chiếm một chỗ rất rộng trên hàng ghế chủ tịch khiến cho người ta cảm thấy rằng buổi lễ này là để kỷ niệm cậu ta chứ không phải lễ kỷ niệm của thầy Cô-ra-bơ-li-ốp. Với dáng điệu mơ mơ màng màng, cậu ta nhìn những người dự họp rồi lấy lược ra chải đầu. Tôi viết cho cậu ta một mảnh giấy: “Gri-sca, thằng đểu, cậu có khỏe không!”. Nó đọc xong, nhìn tôi cười khách khí và vẫy tay chào.
    Đó là một buổi dạ hội rất tuyệt, sở dĩ nó rất tốt là bởi vì người nào phát biểu cũng rất thật. Không có một người nào nói những lời giả dối. Rõ ràng là nói những điều thành thật về thầy Cô-ra- bơ-li-ốp không có gì là khó. Vả lại ông đối với học trò của mình xưa nay cùng chỉ yêu cầu họ trở thành người trung thực ngoài ra không có yêu cầu gì khác.
    Tôi cũng chỉ muốn, sau hai mươi nhăm năm công tác, người ta cũng sẽ nói về tôi như người ta đã nói về thầy Cô-ra-bơ-li-ốp trong buổi liên hoan này thôi.
    Bố mẹ học trò, công nhân xưởng đồ dùng gia đình, Ủy ban Xô Viết khu, Sở giáo dục thành phố đều tặng những lẵng hoa, lẵng sau to hơn lẵng trước. Và đây chủ tịch tuyên bố: “Bây giờ xin mời Gri-gô-ri I-va-nô-vích Pha-be, thay mặt cho các diễn viên đã tốt nghiệp ở trường ta lên phát biểu ý kiến”. Tiếp đó hai chàng trai lực lưỡng khiêng ra một lẵng hoa khiến mọi người phải kinh ngạc, cả hội trường nhốn nháo hẳn lên.
    Gri-sca đứng dậy. Cũng như mọi khi, cậu ta nói rất hay, chỉ có điều là hơi gào lên quá và tôi lấy làm lạ là sao ở nhà hát người ta không dạy cho nó nói nhẹ nhàng đi một tí. Nó gọi thầy I-van Pa-vơ-lứt là “ông thầy của cuộc sống nghệ thuật” và nhấn mạnh rằng điều đó có tác dụng rất lớn đối với cá nhân nó. Sau đó nó lại ôm thầy Cô-ra-bơ-li-ốp một lần nữa rồi ngồi xuống rất chi là thỏa mãn.
    Trên sân khấu càng ngày càng có nhiều hoa, thầy I-van Pa- vơ-lứt ngồi đó, mặt đỏ bừng, luôn tay vuốt bộ râu. Hình như ông ngượng vì cảm thấy mình hạnh phúc quá. Khi người ta ca ngợi ông thì đôi mắt ông trở nên buồn.
    Sau đó có một trung úy lên phát biểu. Hồi tôi còn ở trường, anh này học lớp năm. Anh nói, vừa rồi đồng chí Pha-be đã thay mặt cho các diễn viên, vậy anh cũng mạo muội thay mặt cho các học viên và cán bộ chỉ huy trường hồng quân công nông trước đây cũng học ở trường này ra đứng lên chúc mừng.
    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt thân yêu, - tôi nói khi chủ tịch cho phép tôi phát biểu, - bây giờ xin cho phép tôi thay mặt những phi công lên phát biểu vài lời, bởi vì trong không phận nhà nước Xô Viết vĩ đại của chúng ta cũng có rất nhiều học trò của thầy đang bay, chắc chắn rằng tất cả bọn họ đều sẽ tán thành mỗi lời tôi nói. Người ta thường nói, nhà văn là kỹ sư tâm hồn của nhân loại. Nhưng thầy cũng là kỹ sư tâm hồn của nhân loại. Ví dụ có một lần, tôi tỉnh dậy từ sớm và thấy anh bạn tôi đang chăm chú nhìn lên trần nhà, thậm chí tôi hỏi cũng không trả lời. Tôi nhìn theo hướng nhìn của anh ta và thấy trên trần nhà có vẽ một vòng tròn đen bé bằng đồng năm mươi cô pếch. Ngày hôm sau cũng lại như vậy. Sáng nào anh bạn láng giềng của tôi cũng nhìn cái vòng tròn đen như vậy suốt hai tháng liền. Các bạn thử nghĩ xem anh ta làm như vậy để làm gì? Tất nhiên là bản thân anh ta có thể trả lời được câu hỏi này, bởi vì hiện nay anh ta đang ngồi bên cạnh tôi trong gian phòng này, - Va-li-a cười ngượng nghịu, sau đó là chủ tịch đoàn và toàn thể hội trường đều cười vang. - Thôi được, tôi xin trả lời thay cho anh ta: anh luyện sức nhìn. Nhãn quang của ai đã làm cho anh ta bái phục như vậy? Đó là nhãn quang kỷ diệu của thầy Cô-ra-bơ-li-ốp I-van Pa-vơ-lứt. Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt thân yêu! Giờ đây tôi xin thú thật với thầy rằng, chúng tôi không chịu được cái nhìn của thầy. Đôi khi định làm liều một cái gì đó hay định nói dối điều gì đó nhưng gặp thầy hoặc là chỉ nghĩ đến thầy thôi thế là cũng buộc phải nói ra sự thực. Tôi cho rằng đây cũng là điều quan trọng nhất mà trường ta nên dạy bảo cho chúng tôi.
    Tôi dứt lời và đi đến ôm hôn thầy I-van Pa-vơ-lứt. Va-li-a cũng đứng bên kia ôm hôn thầy, thế là chúng tôi cộc đầu vào nhau.
    Trước đó tiếng vỗ tay rất thưa thớt, nhưng khi thấy chúng tôi cộc đầu vào nhau thì tiếng vỗ tay bỗng vang lên như sấm.
    Sau tôi đến Ta-ni-a Ve-lích-cô phát biểu, nhưng tôi không nghe được gì bởi vì lúc đó Ni-cô-lai An-tô-nứt đến.
    Ông ta bước vào hội trường - người mập mạp, đáng điệu uy nghi, mặc cái quần rộng thùng thình hơi cúi về phía trước, lách qua hàng người đi về phía chủ tịch đoàn. Tôi nhìn thấy bà Xê-ra-phi-ma già nua, đáng thương, chính cái bà trước kia đã dùng phương pháp dạy học tổng hợp để dạy chúng tôi bài “con vịt” đang chạy trước mở đường cho ông, nhưng ông cũng không thèm nhìn bà, cũng chẳng buồn cười mà chỉ đi thẳng.
    Từ cái tấn kịch tồi tệ trong đó ông ta quát tháo, bẻ ngón tay và nhổ vào mặt tôi lần trước, tôi không hề gặp lại ông ta lần nào nữa. Giờ đây tôi thấy ông ta so với hồi ấy thay đổi đến kinh khủng. Có một người nào đó đi sau ông ta, cũng khá đấy đà, cũng hơi khom lưng về phía trước nhưng không mỉm cười.
    Nếu lúc đó Va-li-a không nói thầm bên tai tôi thì rõ ràng là không tài nào đoán được ra người đó là ai. Va-li-a bảo: “Chính thằng Rô-ma-sca đấy”. Thế nào, Rô-ma-sca à? Thằng Rô-ma-sca mà lại chải chuốt, bệ vệ, có cái mặt to béo, trắng trẻo và lịch thiệp thế kia, lại có bộ com-lê màu tro sang trọng thế kia? Thế bộ tóc vàng hoe, rối bù như tổ quạ của nó đâu? Thế đôi mắt tròn xoe kỳ quặc, đôi mắt cú mèo, đôi mắt ngủ không nhắm lại được của nó đâu?
    Tất cả đều chải chuốt, chỉnh tề, mềm mại đến cực điểm, thậm chí đến cái cằm vuông bạnh của nó, giờ đây cũng không thấy vuông lắm nữa mà lại có vẻ đầy đặn và tao nhã, Nếu thằng Rô-ma-sca có mong muốn nặn lại bộ mặt mới, có lẽ nó cũng không thể nặn được đẹp hơn thế nữa. Nếu một người chưa hiểu nó mà gặp nó lần đầu, bây giờ thậm chí có thể gây nên ấn tượng tốt nữa kia.
    Ni-cô-lai An-tô-nứt đi thẳng đến bàn chủ tịch, nó cũng đi theo ông ta và tất cả những gì Ni-cô-lai An-tô-nứt đã làm, thằng Rô-ma-sca đều làm theo. Ni-cô-lai An-tô-nứt miễn cưỡng, nhưng nói chung cũng nhiệt tình chúc mừng thầy Cô-ra-bơ-li-ốp, không hôn mà chỉ chìa tay ra bắt tay thầy Cô-ra-bơ-li-ốp. Thằng Rô- ma-sca cũng chỉ bắt tay thầy Cô-ra-bơ-li-ốp. Ni-cô-lai An-tô-nứt nhìn đoàn chủ tịch một lượt, trước hết lão chào vị giám đốc sở Giáo dục nhân dân thành phố. Theo sau, thằng Rô-ma-sca cũng đến chào ông. Nhưng có điều rất lạ kỳ là động tác của thằng Rô- ma-sca lại kiên quyết, mạnh mẽ hơn.
    Ni-cô-lai An-tô-nứt không để ý đến tôi, cũng có nghĩa là lão ta làm ra vẻ như tôi không có ở đây. Nhưng thằng Rô-ma-sca thì đi đến chỗ tôi, dừng lại và xòe hai tay ra có vẻ như rất ngạc nhiên có phải là tôi thật không? Hình như chưa bao giờ tôi lấy chân đá vào cái mặt chó đểu của nó cả.
    - Chào cậu, Rô-ma-sca! - Tôi thờ ơ nói.
    Nó hơi trù trừ, nhưng tôi lại làm ra vẻ như chúng tôi là những người bạn cũ đã lâu năm, cho nên phải gọi nhau một cách thân mật là “Xan-ca và Rô-ma-sca”. Nó ngồi xuống cạnh tôi và bắt đầu nói gì đó, nhưng tôi hết sức khinh bỉ quay đi, ra vẻ như đang nghe Ta-ni-a nói.
    Tôi cũng chẳng nghe Ta-ni-a! Những mạch máu trong tôi đều đang sôi lên, tôi phải đem hết nghị lực ngoan cường ra để cố giữ cho được vẻ bình tĩnh ban đầu.
    Phần nghi thức của buổi lễ đã kết thúc. Khách khứa được mời vào bàn ăn. Thằng Rô-ma-sca đuổi kịp tôi ngoài hành lang.
    - Lễ kỷ niệm của thầy I-van Pa-vơ-lứt tổ chức rất hay có phải không?
    Giọng nó trở nên mềm mại, tròn trạnh.
    - Ừ, rất hay.
    - Thật ra rất tiếc là chúng ta ít gặp nhau quá. Dù sao cũng là bạn cũ cả. Cậu làm việc ở đâu?
    - Ở Cục Hàng không dân dụng.
    - Cái đó mình biết, nó nói và cười. - Không, “ở đâu” là ý khác cơ, nghĩa là ở vùng nào.
    - Ở vùng Cực Bắc.
    - Đúng rồi! Khỉ thật! Mình quên bẵng đi mất! Ca-chi-a đã từng nói với mình rồi! Ở Da-pô-li-a-ri-e!
    - Ca-chi-a! Ca-chi-a đã từng nói với nó. Người tôi bỗng nóng bừng, nhưng tôi vẫn trả lời nó rất bình tĩnh:
    - Ừ, ở Da-pô-li-a-ri-e.
    Nó lặng im. Sau đó nó hỏi thận trọng:
    - Ở lại có lâu không... đến đằng mình chứ?
    - Mình chưa biết, - tôi cũng trả lời thận trọng. - Cái đó còn tùy thuộc ở nhiều hoàn cảnh.
    Tôi rất mừng là tôi đã trả lời bình tĩnh và thận trọng như vậy và từ phút đó trở đi tôi không còn hồi hộp nữa. Tôi trở nên lạnh lùng, khách khí và ranh mãnh như con rắn.
    - Ca-chi-a nói rằng cậu chuẩn bị đọc báo cáo. Hình như ở Câu lạc bộ Bác học phải không?
    - Không, ở Hội Địa lý học.
    Rô-ma-sca nhìn tôi vẻ hài lòng - như nó đã thỏa mãn vì tôi chuẩn bị đọc báo cáo ở Hội Địa lý học chứ không phải ở Câu lạc lộ Bác học. Sự thực cũng đúng là như vậy, nhưng lúc đó tôi chẳng biết gì cả.
    - Báo cáo về vấn đề gì?
    - Cậu đến nghe sẽ rõ, - tôi thờ ơ trả lời, - Cái đó cậu sẽ thú vị đấy.
    Nó lại có vẻ trù trừ, lần này thì rất rõ.
    - Ừ, - nó nói, - cần phải ghi lại, nếu không lại lỡ mất cơ hội. - Nói đoạn nó giở sổ tay ra ghi mấy chữ rất chân phương. - Tên bản báo cáo là gì?
    - Một đội thám hiểm Bắc cực bị lãng quên.
    - Thong thả! Đó là nói về đội thám hiểm của I-van Li-vô-vích?
    - Về độ thám hiểm của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp, - tôi bác lại thẳng thừng.
    Nhưng nó để ngoài tai lời đính chính của tôi.
    - Theo những tài liệu mới?
    Một quỉ kế ngu xuẩn, quen thuộc thoáng hiện lên trong ánh mắt nó và tôi lập tức đoán ra đó là chuyện gì.
    “À, thằng đểu, - tôi lạnh lùng suy nghĩ, - mày lại được Ni-cô-lai An-tô-nứt phái đến đây. Nó cử mày đến để thăm dò xem tao có chuẩn bị chứng minh sự hy sinh của đội thám hiểm hoàn toàn là do sai lầm của nó chứ không phải của lão Phôn Vư-si-ma-xki nào cả hay không chứ gì.”
    - Ừ, hoàn toàn mới.
    Rô-ma-sca nhìn tôi chăm chú. Trong giây phút đó nó lại hiện nguyên hình thằng Rô-ma-sca cũ. Nó đang tính toán xem nếu tôi để lộ đó là những tài liệu gì, thì nó sẽ kiếm được bao nhiêu lợi nhuận.
    - Về đội thám hiểm này, - nó nói, - thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt cũng có những tài liệu. Thầy có rất nhiều thư từ trong đó có rất nhiều thứ rất thú vị, thầy có cho mình xem một lần. Cậu nên tìm thầy mà хem.
    “À, hiểu rồi, - tôi lại nghĩ. - Ni-cô-lai An-tô-nứt lại lại xui mày đến dụ dỗ tao, để thương lượng về việc này. Lão ấy đang sợ mình. Lão muốn để cho mình đi trước một bước. Đâu có chuyện như vậy!”
    - Chẳng cần, - tôi lãnh đạm trả lời. - Thực ra ông ấy biết rất ít. Nói ra cũng hơi kỳ, nhưng về vấn đề ông ấy tham gia vào công việc của đội thám hiểm, mình còn biết nhiều hơn bản thân ông ấy rất nhiều.
    Đó là một cú rất thích đáng, thằng Rô-ma-sca mặc dù hiện nay đã tiến bộ nhiều nhưng dù sao vẫn cứ là thằng ngu xuẩn, bỗng nhiên nó há hốc mồm ra nhìn tôi, rõ ràng là rất lúng túng.
    “Ca-chi-a, Ca-chi-a”, - tôi nghĩ và cảm thấy tim như thắt lại vì cả mình lẫn Ca-chi-a đều bị xúc phạm.
    - Ừ, - ừ, - Rô-ma-sca kéo dài giọng. - Sự việc như vậy.
    - Đúng, sự việc như vậy đấy.
    Chúng tôi đi đến bàn ăn, cuộc nói chuyện chấm dứt. Tôi miễn cưỡng ngồi cho đến hết buổi dạ hội - chỉ vì để không làm phật ý thầy I-van Pa-vơ-lứt. Tâm trạng tôi thật buồn, tôi rất muốn uống thật nhiều rượu, nhưng tôi lại chỉ uống có một, cốc, để mừng ngày kỷ niệm.
    Lần này thằng Rô-ma-sca đứng lên chúc rượu. Nó đứng lên và trịnh trọng chờ rất lâu, chờ cho đến khi cả bàn đều im lặng. Có một câu nó nói rất trôi chảy, thế là vẻ đắc chí hiện nay lên nét mặt. Nó nói “tình bạn đã gắn bó tất cả học sinh của chủ nhân thân yêu của chúng ta”. Lúc đó nó quay sang phía tôi và giơ cốc rượu lên, tỏ ý cũng cạn chén vì tôi nữa, Tôi cũng hơi nâng cái cốc lên một cách lịch sự. Có lẽ lúc đó nét mặt tôi không được tươi tỉnh lắm nên thầy I-van Pa-vơ-lứt chăm chú nhìn nó, rồi quay sang nhìn tôi rồi ông đặt ngay tay lên bàn và mắt nhìn vào tay để ra hiệu, nhưng lúc đó tôi không hiểu việc đó có ý nghĩa gì. Bàn tay nhấc lên, khẽ gõ xuống bàn, rồi lại lặng lẽ đặt xuống. Đó chính là ám hiệu của chúng tôi trước đây. Không được xúc động! Cả hai chúng tôi cùng cười và tôi cảm thấy lòng cũng vui vui.
     
    Last edited by a moderator: 2/6/15
  14. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    :rose:
    Chương 3

    Vô đề

    Hôm đó tôi đã hẹn gặp một cán bộ của báo “Sự thật”: tôi muốn kể cho ông nghe về những phát hiện của mình. Ông ấy phải hoãn hai lần, lần nào cũng nói là rất bận, nhưng cuối cùng ông ấy gọi dây nói đến và tôi đi đến tòa báo “Sự thật”.
    Đó là một bác người cao cao, làm việc rất nhiệt tình, đeo kính cận thị, mắt hơi lác, làm cho người ta cảm thấy như lúc nào bác cũng nhìn đi chỗ khác và suy nghĩ việc gì riêng của mình. Bác nói rằng bác có hiểu đôi chút về các phi công. Hình như bác thật sự thích thú câu chuyện của tôi, cho nên ngay từ câu thứ hai bác đã ghi chép vào sổ tay. Bác bảo tôi vẽ lại bức tranh về cách cổ định chiếc máy bay trên tuyết trong thời gian bị bão tuyết và nói rằng tôi cần phải viết một bài báo về việc này và gửi cho tờ tạp chí “Hàng không dân dụng”. Ngay lúc đó bác gọi dây nói cho tòa báo “Hàng không dân dụng” và thỏa thuận khi nào tôi sẽ gửi những tài liệu ấy và gửi cho ai. Tôi cảm thấy bác hiểu rất rõ ý nghĩa của đội thám hiểm của tàu “Xanh Ma-ri” và nói rằng hiện nay tất cả mọi người đều cảm thấy vô cùng hứng thú đối với Bắc cực, cho nên đây là một đề tài rất cần thiết và rất hợp thời.
    - Nhưng đã có một bài báo viết về vấn đề này rồi, - bác nói. - Hình như ở trên báo “Bắc cực Xô Viết” thì phải.
    - Ở báo “Bắc cực Xô Viết?”
    - Phải, đăng năm ngoái.
    Đây là một sự kiện rất mới! Một bài báo viết về đội thám hiểm của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp đăng trên tờ “Bắc cực Xô Viết” năm ngoái?
    - Tôi không đọc bài báo này, - tôi nói. - Nhưng dù sao thì tác giả của bài báo này cũng không biết những điều mà tôi đang biết. Tôi đã dò được quyển nhật ký của người hoa tiêu - một thành viên duy nhất của đội thám hiểm đến được đất liền.
    Lúc này tôi mới biết, trước mặt tôi là một nhà báo chân chính. Mắt bác bỗng sáng bừng lên, bác ghi rất nhanh, thậm chí đến gãy cả bút chì. Rõ ràng đây là một sự kiện lớn gây ấn tượng mạnh mẽ. Chính bác cũng nói thế này:
    - Đúng, đây là một sự kiện gây ấn tượng mạnh!
    Sau đó bác khóa cửa buồng làm việc của bác lại để dẫn tôi đến gặp “thủ trưởng”, như bác đã nói với tôi khi đi qua hành lang.
    Ở chỗ “thủ trưởng” tôi kể lại vắn tắt câu chuyện của tôi, và chúng tôi ước định với nhau:
    a) Ngày mai tôi sẽ mang quyển nhật ký đến tòa soạn.
    b) Tòa báo sẽ cử một cán bộ đến nghe bản báo cáo của tôi.
    c) Tôi sẽ viết một bài báo về những phát hiện của mình, đến lúc đó “Chúng tôi sẽ xem, nên đăng bài ấy ở đâu”.
    Lẽ ra tôi phải bàn với tòa báo “Sự thật” về vấn đề đi tìm đội thám hiểm, nhưng không hiểu tại sao lúc đó tôi lại cho rằng vấn đề đặc biệt này không có liên quan đến giới báo chí. Thật là đáng tiếc, nếu không các đồng chí phóng viên lúc đó đã có thể giới thiệu tôi nên đến gặp ai ở Tổng cục đường Hàng không Bắc cực, hoặc giả đã có thể gọi ngay dây nói giúp tôi rồi.
    Tôi ngồi ở phòng khách hai tiếng đồng hồ - chỉ để chờ được gặp một trong những vị thư ký của Tổng cục. Cuối cùng tôi cũng chờ được. Người ta dẫn tôi vào phòng làm việc và tôi lại ngồi ở đây nửa tiếng đồng hồ nữa. Người thư ký không có thì giờ nào rỗi nữa, nào thủy binh, phi công, vô tuyến điện viên, kỹ sư, thợ mộc, kỹ sư canh nông, các nhà họa sĩ nối đuôi nhau ra vào phòng làm việc của đồng chí ấy, và lúc nào đồng chí ấy cũng phải làm ra vẻ mình rất thành thạo về ngành Hàng không, về Nông nghiệp, về Hội họa và Vô tuyến điện. Cuối cùng đồng chí ấy tiếp tôi.
    - Thật là một câu chuyện rất thú vị về mặt lịch sử - đồng chí nói, khi tôi kết thúc câu chuyện của mình. - Song hiện nay chúng tôi đang có những nhiệm vụ hiện thực hơn.
    Tôi biện bạch rằng, tôi cũng rất hiểu, nhiệm vụ của Tổng cục tuyến đường hàng không Bắc cực không phải là đi tìm đội thám hiểm đã mất tích. Nhưng vì năm nay có một chi đội thám hiểm Bắc cực sẽ khởi hành đi lên Bắc địa, cho nên có thể giao cho họ một nhiệm vụ phụ không lớn lắm là điều tra khu vực thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp bị nạn.
    - Ta-ta-ri-nốp, Ta-ta-ri-nốp.... - Người thư ký nhớ lại và nói. - Ông ấy đã viết về vấn đề này?
    Tôi nói rằng ông ấy không thể viết về vấn đề này được, bởi vì đội thám hiểm này rời khỏi Pê-téc-bua cách đây đã gần hai mươi năm và những tin tức cuối cùng nhận được là vào năm 1914.
    - Thôi được, vậy thì Ta-ta-ri-nốp nào đã viết về vấn đề này?
    - Ta-ta-ri-nốp là thuyền trưởng, - tôi nhẫn nại giải thích. - Ông ra đi vào mùa thu năm 1912 trên chiếc tàu buồn “Xanh Ma-ri” với mục đích là định đi qua tuyến đường biển phía Bắc tức là chính tuyến đường của Tổng cục đường hàng không Bắc cực của chúng ta hiện nay. Công cuộc thám hiểm tuy không thành công, nhưng thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp lại hoàn thành một cách thuận tiện một phát hiện quan trọng về mặt địa lý học. Ví dụ hiện nay có đầy đủ căn cứ để khẳng định rằng Bắc địa là do ông phát hiện ra chứ không phải do Vin-kít-xki.
    - Phải, rất đúng - người thư ký trả lời. - Đã có một bài báo viết về cuộc thám hiểm này, chính tôi đã đọc bài báo đó.
    - Bài báo của ai?
    - Theo tôi thì cũng của Ta-ta-ri-nốp. Đội thám hiểm của Ta-ta-ri-nốp, bài báo của Ta-ta-ri-nốp. Vậy thì anh đề nghị gì?
    Tôi nhắc lại đề nghị của tôi.
    - Thôi được, anh hãy viết một bản báo cáo, - người thư ký nói với cái giọng hình như ông cảm thấy rất tiếc là tôi buộc lòng phải viết bản báo cáo này và sau đó nó lại nằm ở trong ngăn kéo của ông...
    Tôi đi ra.
    Không thể có sự trùng lặp như thế được! Tôi đi đến một hiệu sách ở phố Goóc-ki, giở xem tất cả những số tạp chí “Bắc cực Xô Viết” xuất bản năm ngoái. Nhan đề bài báo là: “Về một đội thám hiểm đã bị lãng quên” - đầu đề bản báo cáo của tôi cũng chẳng như thế đó sau! - Và ở dưới ký tên “N. Ta-ta-ri-nốp” Thì ra chính Ni-cô-lai An-tô-nứt đã viết bài báo này!
    Đây là một bài báo rất dài, viết dưới dạng hồi ký đồng thời cũng có tính chất khoa học. Bài báo bắt đầu bằng câu chuyện, chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri” đậu ở chân cầu Ni-cô-la-ép-xki ở Pê-téc-bua vào mùa hè năm 1912. “Nước sơn trắng trên tường và trần khoang tàu còn tươi mới. Những đồ dùng bằng gỗ hồng trên tàu được đánh bóng, sáng loáng như những tấm gương, trên các lối đi trong khoang tàu để trải thảm. Buồng kho và khoang hàng hóa chật ních những thực phẩm dự trữ đủ các loại. Trong đó thật chả thiếu thứ gì! Nào quả khô, kẹo, sô-cô-la, nào hộp nước quả đủ các loại, dứa, những hòm đựng hộp mật hoa quả, bánh bích qui, bột nhào lòng trắng trứng và nước quả cùng rất nhiều thứ khác nữa, cho đến những thứ tối cần thiết như thịt hộp và từng đống bột mì và tấm.”
    Đọc thấy Ni-cô-lai An-tô-nứt bắt đầu viết từ vấn đề thực phẩm mà cảm thấy nực cười, - đối với tôi đó chỉ là những tang vật thừa. Nhưng về sau ông ta viết có thông minh hơn một chút. Ông ta vạch ra rằng đội thám hiểm này được nhiều người trang bị cho. Ông ta ám chỉ một cách khiêm tốn rằng ông ta là người đầu tiên nảy ra ý nghĩ “đi theo dấu chân của Noóc-đen-sen-đơ”. Ông ta giận dữ vạch ra rằng các báo chí phản động và Bộ Hải quân đã cản trở ông rất nhiều. Ông ta trích dẫn lời phê trong bản báo cáo của bộ trưởng Bộ Hải quân vổ chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri” bị mất tích như sau: “Rất tiếc là thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp đã không trở về. Nếu không, vì tội coi thường những tài sản của nhà nước như thế, tôi sẽ đưa ông ta ra tòa ngay lập tức”.
    Ông càng cay đắng viết, vì bị ốm nên ông buộc lòng phải chia tay người em họ, thế là có một tên chủ xưởng ở Ác-khan-ghen- xcơ đã lừa dối người em họ của ông, bán cho người em ông những con chó rất tồi, chưa được huấn luyện gì cả, chẳng khác gì những con chó mà bọn trẻ con bán ở đầu phố “hai mươi cô-pếch một đôi”, do đó mà ảnh hưởng đến toàn bộ việc tổ chức công tác. Ông ta không nêu tên họ chủ xưởng này - như vậy chẳng đã rõ lắm rồi sao! Ông ta chỉ gọi một người trong bọn đó là V. Ni-cô-lai An-tô- nứt, kết thúc tội lão V. này vì lão vớ được một món lời to trong việc bán thịt, mà món thịt này đội thám hiểm chưa đi đến Iu-go Sa-rơ đã phải đổ tất cả xuống biển.
    Trong cả bài báo, đoạn này viết dại nhất. Thậm chí Ni-cô-lai An-tô-nứt còn trích dẫn cả A-mun-xen: “Sự thành bại của bất kỳ đội thám hiểm Rô-da-li-a Na-u-mốp-na cũng hoàn toàn phụ thuộc và sự trang bị của nó” và ông ta đã lấy đội thám hiểm của “người em đã quá cố của ông ta ra để chứng minh một cách xuất sắc sự đúng đắn của tư tưởng này. Ông ta trích một số đoạn trong những bức thư của “người em đã quá cố đã chỉ trích một cách cay đắng bọn thương nhân đã lợi dụng cơ hội tàu của ông đỗ lại ở Ác-khan- ghen-xcơ được ít thời gian và vội khởi hành ngay để làm những chuyện xấu xa ấy.
    Còn chính cuộc thám hiểm ấy thì Ni-cô-lai An-tô-nứt hầu như không viết tí gì. Ông ta chỉ nhắc đến chuyện ở Iu-go Sa-rơ tàu “Xanh Ma-ri” có gặp mấy chiếc tàu buôn đang thả neo nằm chờ băng tan ở phía nam biển Ca-ra thì sẽ đi tiếp. Theo lời một trong những người thuyền trưởng ấy thì sáng sớm ngày mười bảy tháng Chín, tàu “Xanh Ma-ri” đã dũng cảm tiến vào biển Ca-ra và biến mất sau đường chân trời, sau cả một biển băng liên miên”. Nhiệm vụ mà thuyền trưởng I.L.Ta-ta-ri-nốp đặt ra cho mình, - Ni-cô-lai An-tô-nứt viết tiếp - đã không thực hiện được. Nhưng ông đã có một phát hiện tuyệt vời. Đó là sự phát hiện ra Bắc địa mà thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp đặt tên là “Đảo Ma-ri-a”.
    Tôi đã mua số báo “Bắc cực Xô Viết” này, bởi vì trong những bài báo này còn dẫn chứng những bài báo khác của cùng tác giả cũng về vấn đề này. Sau đó tôi trở về khách sạn.
    Không thể nói rằng tôi trở về khách sạn với tâm trạng vui vẻ. Không hiểu sao tôi cảm thấy những điều giả dối này đã được đăng lên báo và lại đăng lâu quá mất rồi - hơn một năm - như vậy có nghĩa là mọi việc đều kết thúc rồi! Bây giờ có bác lại cũng đã muộn và cũng chẳng có ai nghe tôi bác lại chuyện đó. Ông ta đã báo trước cho mọi người. Những điều ông ta viết tuy là giả dối, nhưng trong những điều giả đối ấy lại có những sự thực. Ông ta là người đầu tiên chỉ ra tầm quan trọng của đội thám hiểm tàu “Xanh Ma-ri”, Ông ta là người đầu tiên chỉ ra rằng Bắc địa đã được thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp phát hiện ra trước khi Vin-kít-xki trông thấy đảo này nửa năm. Tất nhiên ông ta lấy những tin này trong bức thư của thuyền trưởng mà tôi đưa cho Ca-chi-a. Ông ta đã vượt lên trước tôi trong mọi vấn đề.
    Tôi vừa huýt sáo vừa đi đi lại lại mãi trong căn phòng của tôi.
    Thật tình mà nói, lúc đó tôi chỉ có một ý nghĩ duy nhất là muốn ra ngay ga mua vé từ Mát-xcơ-va đi Cra-Xa-nhi-a-i-a-rơ- xcơ, rồi từ đó đáp máy bay đi Da-pô-li-a-ri-e. Nhưng tôi không đi ra ga, - trái lại tôi đã ngồi xuống viết bản báo cáo. Tôi đã viết bản báo cáo suốt cả ngày, và khi đã làm việc suốt cả ngày thì những ý nghĩ không vui cứ đến rồi lại đi, chẳng còn cách nào hơn nữa, bởi vì trong óc cũng không còn chỗ nữa.
     
    Last edited by a moderator: 2/6/15
  15. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    :rose:
    Chương 4

    Rất nhiều tin mới

    Khi tôi bước vào, thầy I-van Pa-vơ-lứt đang ngồi xổm nhóm lò. Một bức tranh quen thuộc quá - thầy I-van Pa-vơ-lứt mặc bộ quân phục cũ đã xù lông đang ngồi nhóm lò. Thậm chí tôi còn cảm thấy hình như không có những năm qua, hình như tôi vẫn là một cậu học trò nhỏ và như ông ấy lại sắp “nổi trận lôi đình” như hồi học lớp chín, tôi đi về En-xcơ để tìm Ca-chi-a vậy. Nhưng ông đã quay lại. “Ông ấy già đi nhiều quá”, - tôi nghĩ và trong nháy mắt mọi việc lại đâu trở về đấy.

    - Cũng đến đấy à! - Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp bực bội nói. - Tại sao anh không rẽ vào nhà tôi chơi?

    - Xin cám ơn thầy I-van Pa-vơ-lứt!

    - Anh chẳng đã viết thư là sẽ rẽ vào nhà tôi đó sao?

    - Tôi sợ gây thêm phiền phức cho thầy.

    Ông nhìn tôi, thậm chí còn nhắm một mắt lại để quan sát tôi cho thật tỉ mỉ. Đó là con mắt của người chủ - như đang nhìn công việc của mình. Có lẽ dầu sao cũng thú vị bởi vì ông đã chải ria một cách phấn khởi và mời tôi ngồi xuống.

    - Hôm qua tôi chưa nhìn anh được kỹ - ông nói, - không có thì giờ.

    Ông bày bàn ăn, ông lấy ở tủ trong tường ra một chai rượu, cắt bánh mì, rồi lấy thịt bò ướp lạnh ngoài cửa sổ vào và cũng thái ra. Ông vẫn sống độc thân như cũ, nhưng trong căn phòng cũ trước kia rất ẩm thấp, nay đã đủ tiện nghi hơn và hình như không ẩm thấp như trước nữa. Điều làm cho tôi không phấn khởi là trong khi tôi còn đang nói chuyện thì ông đã uống hết chai rượu rồi mà chang ăn tí gì cả. Việc đó làm cho tôi hơi buồn...

    Tôi nói hiện nay tôi chỉ có thể kể lại cho ông nghe những chuyện quan trọng nhất. Nhưng trải qua bao nhiêu năm trời, nay được gặp lại người thân, liệu anh có nhớ được cái gì là cái chủ yếu nhất hay không? Thầy I-van Pa-vơ-lứt hỏi tôi về miền Bắc, về việc lái máy bay và rất không hài lòng về việc tôi trả lời vắn tắt quá.

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt, tôi kể gì về chuyện này được? Chính vì tội bay còn ít quá. À, có một lần tí nữa thì tôi chết cóng! Thầy có nhớ ông bác sĩ đã chữa cho tôi khi tôi trốn trường đi không? Hồi đó thầy cũng đến nhà thương thăm tôi ấy mà.

    - Có nhớ.

    - Ông ấy cũng đang sống ở Da-pô-li-a-ri-e. Tôi tìm thấy ông ấy, và đây là ngôi nhà duy nhất tôi thường đến. Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt, tôi cảm thấy hình như suốt đời tôi toàn sống dựa vào gia đình người khác. Hồi còn nhỏ, tôi sống trong gia đình Xcô-vô- rôVni-cốp, - thầy có nhớ không, tôi đã kể thầy nghe rồi. Sau đó đến gia đình Ta-ta-ri-nốp. Và bây giờ thì gia đình bác sĩ.

    - Chú em ạ, cũng đã đến lúc lập gia đình được rồi đấy, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói rất nghiêm.

    - Thưa thầy không ạ!

    - Sao lại thế?

    - Về vấn đề này tôi không gặp thuận lợi.

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp im lặng. Ông rót rượu cho mình, chúng tôi nâng cốc, uống một hơi cạn. Ông lại rót rượu. Sau đó ông cởi áo quân phục ra - chuẩn bị một cuộc nói chuyện dài.

    - Xa-nhi-a, аnh hãy nghe tôi, anh có nhớ anh đã nói gì với tôi khi anh đi khỏi Mát-xcơ-va không? Anh nói rằng: “Bây giờ dù có chết cũng phải chứng minh rằng tôi đúng”. Vậy thế nào? Đã chứng minh được chưa?

    Đó là một câu hỏi thật bất ngờ nên tôi không trả lời-được ngay. Tất nhiên tôi nhớ cuộc nói chuyện của chúng tôi. Tôi còn nhớ, thầy Cô-ra-bơ-li-ốp hét lên: “Anh làm gì thế, Xa-nhi-a! Trời ơi, anh làm gì thế!”. Ông đã vừa khóc vừa nói rằng mọi cái đều do lỗi lầm của tôi, bởi vì tôi đã khẳng định rằng trong thư thuyền trưởng nói về Ni-cô-lai An-tô-nứt, nhưng thực ra là nói về cái lão Phôn Vư-si-mia-xki nào đó.

    Nếu ở địa vị thầy Cô-ra-bơ-li-ốp thì tôi đã chẳng nhắc đến cuộc nói chuyện này làm gì! Nhưng xem chừng ông ấy lại rất muốn tôi nhớ lại được cuộc nói chuyện ấy. Ông nghiêm khắc nhìn tôi và hình như ông đã thầm hài lòng về điều gì đó.

    - Tôi không biết có ai cần tôi phải chứng thực điều gì không, - tôi buồn rầu bác lại. - Tôi không thấy có người nào cần tôi làm như vậy.

    - Xa-nhi-a, như vậy là anh sai rồi, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói. - Việc đó rất cần - cả anh cả tôi và còn cả một người khác nữa. Huống hồ anh rõ ràng là đúng.

    Tôi trợn tròn mắt nhìn ông. Cuộc nói chuyện của chúng tôi đã qua năm năm rồi. Giờ đây tôi biết về đội thám hiểm của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp nhiều hơn tất cả mọi người-trên trái đất. Tôi đã tìm được quyển nhật ký của người hoa tiêu và đã đọc được quyển nhật ký ấy - đó là một công việc khó khăn trong đời tôi. Tòi lại may mắn được gặp cụ Nê-nét già, một người cuối cùng đã chính mắt nhìn thấy chiếc xe trượt tuyết của đội thám hiểm. Cái xác chết ở trên chiếc xe trượt tuyết này rất có thể chính là thuyền trưởng. Nhưng tôi đã không tìm được bằng chứng gì để chứng minh rằng trong vấn đề này tôi đã đúng.

    Nhưng hiện nay khi tôi trở về Mát-xcơ-va rẽ vào thăm người thầy giáo cũ mà tôi cho rằng thầy đã quên câu chuyện này từ lâu, thì thầy lại nói với tôi: “Quả thật là anh đã đúng!”

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt, - tôi bắt đầu nói giọng không được cương quyết lắm, - thầy cũng chẳng cần phải xác nhận những cái đó, nếu thầy không...

    Tôi muốn nói: “Không còn những bằng chứng xác đáng”, nhưng ông đã ngăn lời tôi lại. Hình như có ai bấm chuông điện. Thầy Cô-ra-bơ-li-óp lo lắng cắn môi, nhìn bốn phía rồi nắm vai tôi nói:

    - Thế này nhé, Xa-nhi-a... Bây giờ tôi phải nói chuyện với một người. Anh hãy cứ ngồi ở đây nhé.

    Ông dẫn tôi sang buồng bên cạnh. Căn buồng này trông giống như một cái tủ lớn nhét đầy sách. Ngoài cửa có treo một bức rèn màu xanh thủng lỗ chỗ.

    - Lắng nghe nhé - việc đó có lợi cho anh ấy.

    Tôi còn quên chưa nói, buổi tối nay, ngay từ đầu thầy I-van Pa-vơ-lứt đã làm cho tôi cảm thấy là lạ. Mấy lần ông khe khẽ huýt sáo. Hai tay ôm đầu, ông đi đi lại lại. Cuối cùng ông nhai cả cuống quả lê ông dùng làm tăm xỉa răng. Giờ đây, ông đặt tôi ngồi vào “tủ” rồi vội vàng dọn những cái chai rượu vốt-са trên mặt bàn, sau đó lấy cái gì ở trong ngăn bàn giấy ra ăn một tí rồi lại há mồm ra thở. Sau đó mới đi ra mở cửa.

    Các bạn thử nghĩ xem, ông ấy đã đi cùng ai vào phòng treo mũ áo? Cùng cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na! Đó chính là cụ Ni-na Ca- pi-tô-nốp-na lưng còng, càng gày hơn, có nhiều vết nhăn của người già chung quanh mắt hơn, vẫn còn mặc chiếc áo nhung không có tay cụ thường mặc.

    Cụ nói gì đó nhưng tôi không nghe thấy, tôi chỉ chú ý xem thầy I-van Pa-vơ-lứt ân cần mời khách như thế nào. Ông đang định rót nước trà mời cụ, nhưng cụ ngăn lại nói:

    - Tôi không uống. Tôi vừa mới uống rồi. Nào, tình hình ra sao?

    - Dạ, cũng không được khỏe lắm, cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na ạ, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói. - Đau lưng lắm.

    - Thật thế sao? Già rồi à! Lại nghĩ ngợi lắm chứ gì! Đau lưng cứ xoa ít Bom-ban-gơ là khỏi ngay thôi.

    - Thế nào? Cụ bảo sao? Bom-ban-gơ?

    - Phải, Bom-ban-gơ, đó là một loại dầu xoa. Thế ông có uống rượu vốt-ca không?

    - Thật thà mà nói, tôi không uống, cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na ạ. Tôi hoàn toàn cai rượu rồi. Thỉnh thoảng làm một cốc con trước khi ăn trưa thôi. Nhưng bác sĩ cũng khuyên như thế cơ mà.

    - Không đúng, ông vẫn còn uống. Hồi tôi còn trẻ tôi sống ở nông thôn. Bố tôi là một người cô-dắc. Nhiều khi ở ngoài về, chân đứng không vững mà còn nói: “Không sao, chính trước mỗi bữa ăn trưa uống một cốc rượu con mới chết”.

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp cười. Cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na nhìn và cũng cười theo.

    Sau đó cụ kể chuyện một bá tước phu nhân nào đó nghiện rượu, bà ta “sáng dậy vừa bảnh mắt ra đã uống một cốc rượu vốt- ca! Sau đó mới ra khỏi phòng. Bà ta chẳng quàng khăn, mặt bủng da chì. Đi dạo chán rồi quay về lại uống. Buổi sáng bà ta còn bình thường, đến bữa ăn trưa là bà ta đi không vững nữa. Còn buổi tôi thì khách đầy nhà. Bà ta mặc rất đẹp, ngồi trước đàn dương cầm và hát. Bà ta là người tốt bụng. Ai có việc gì cũng đến tìm bà. Động một tí là đến nhà bà bá tước đi! Thật là một con người đẹp! Chỉ phải cái nghiện rượu!”

    Hình như thầy Cô-ra-bơ-li-ốp không thích ví dụ này lắm, vì thế nên ông có” lái câu chuyện sang để tài khác. Ông hỏi Ca-chi- a có khỏe không.

    Cụ Ni-na Ca-pi-t.ô-nốp-na khẽ phủi lay.

    - Tôi cãi nhau với nó suốt ngày. Nó tự ái khiếp lắm. Việc này chưa thành công đã làm sang việc khác. Vì thế mà lúc nào nó cũng vội vội vàng vàng, không bình thường.

    - Không bình thường?

    - Không bình thường. Và kiêu hãnh, Và cứ lầm lì suốt ngày, - cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na nói. - Tôi gặp những người lầm lì như thế đủ lắm rồi. Tôi rất không thích cái tính nó cứ lầm lì suốt ngày. Tôi thật không hiểu tại sao người ta lại không nói chuyện. Có gì buồn phiền, cứ nói ra. Nhưng nó - nó không nói,

    - Thế cụ đã hỏi cô ấy chưa, cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na.

    - Nó sẽ không nói. Chính tôi đây cũng là người như vậy. Không bao giờ tôi nói ra những chuyện ấy.

    - Có một lần tôi gặp cô ấy, tôi cảm thấy chẳng có chuyện gì cả, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói. - Cô ấy đi xem hát, chỉ có một mình, thật vậy, và chính vì thế mà tôi rất ngạc nhiên. Song cô ấy rất vui vẻ. Cô còn nói Trường đại học Địa chất đã trả lời sẽ cấp cho cô một phòng ở.

    - Người ta đã nhận lời. Nhưng nó không dọn đến.

    - Tại sao?

    - Nó thương người ấy.

    - Thương à? - Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp hỏi lại.

    - Nó thương. Vì nó nhớ đến mẹ nó, mẹ nó cũng thương... Người ấy cũng vậy, không rời khỏi con bé được một bước, ông thấy đấy, hễ cứ về đến nhà là: “Ca-chi-a đâu? Có gọi dây nói về không?”

    Tôi hiểu ngay, “người ấy” là ai: Ni-cô-lai An-tô-nứt.

    - Vì thế mà con bé không chịu dọn đi. Và hình như nó vẫn chờ một người nào đó.

    Cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na chuyển sang ngồi trên chiếc ghế bành khác, càng gần hơn,

    - Có một lần, tôi được xem thư của nó, - bà cụ thì thào và ngó nhìn xung quanh, cứ như sợ Ca-chi-a có thể nom thấy cụ. - Hình như hồi con Ca-chi-a về En-xcơ trong những ngày nghỉ, chúng nó thân nhau lắm thì phải. Anh ta có một đứa em gái. Cô này viết thư nói: “Mỗi lần anh ấy viết thư về đều yêu cầu mình báo cho anh ấy biết: “Ca-chi-a ở đâu? Cô ấy thế nào? Anh có thể hy sinh tất cả, chỉ cần được nhìn thấy cô ấy”. Anh ấy không thể sống thiếu cậu được đâu, mình không hiểu cuộc cãi nhau vô cớ này của các cậu”.

    - Xin lỗi, cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na, tôi không hiểu. Em gái ai?

    - Còn của ai nữa. Chính là của cái thằng học trò của ông ấy.

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp bất giác quay nhìn về phía tôi. Qua những lỗ thủng của bức rèm cửa, tôi nhìn ra vừa đúng bắt gặp cái nhìn của ông. Em gái tôi? Xa-nhi-a?

    - Có lẽ việc đó cũng thường xảy ra, nhưng trên thực tếlà như thế này, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói, - có lẽ không sống nổi thật. Rất đơn giản thôi.

    - “Lần nào cũng yêu cầu, - cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na nhắc lại với điệu bộ. - Và không thể sống thiếu cậu được”. Thế đấy! Còn con bé thiếu nó mới thật là không sống nổi.

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp lại nhìn về phía tôi.

    Tôi cảm thấy hình như ông đang cười dưới bộ ria.

    - Thì ra thế đấy. Thế cô ấy không lấy người khác được sao?

    - Nó không có ý định như thế. Nó không chọn người như vậy.

    - Bà cụ nói là “chọn”. - Con bé không muốn lấy thằng Rô-ma-sốp. Tôi cũng không muốn nó lấy thằng ấy. Một ông cố đạo.

    - Sao lại cố đạo?

    - Nó là cố đạo. Nó là thằng da bò. Bất cứ nói cái gì nó cũng cứ phải thêm thắt vào, Tôi rất ghét cái loại người ấy. Lại còn lừa dối nữa.

    - Đủ rồi đấy, cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na ạ. Cụ làm sao thế?

    - Quân lừa đảo. Nó lấy của tôi bốn mươi rúp, nó làm như tôi phải biếu nó không bằng, nó chẳng trả tôi gì cả. Tất nhiên tôi không thèm nhắc. Cứ suốt ngày chạy ngược chạy xuôi. Lạy trời! Giá tôi không già...

    Bà cụ cay đắng phủi tay.

    Bây giờ các bạn thử tưởng tượng xem, sau khi nghe những câu chuyện ấy cảm giác của tôi như thế nào! Tôi nhìn bà cụ qua những lỗ thủng của bức rèm cửa. Cái lỗ thủng đó у như một cái ống kính, tất cả những gì xảy ra giữa tôi và Ca-chi-a đều hiện lên trong ống kính này càng ngày càng rõ nét cứ như nằm đúng vào tiêu điểm vậy. Mọi cái của quá khứ cứ dần dần tiến gần lại và đều trở về nguyên dạng của nó. Tất cả những cái đó sao mà nhiều thế, sao mà nhiều cái tốt đẹp thế, đến nỗi tim tôi đập rất dữ và tôi hiểu rằng tôi đang xúc động. Chỉ có một điều tôi hoàn toàn không hiểu gì cả, đó là tôi không bao giờ “Lần nào cũng yêu cầu cô em gái” và không bao giờ tôi viết cho cô ấy câu “Nếu thiếu Ca-chi-a thì tôi không sống nổi”.

    - Xa-nhi-a đã bịa ra câu này, nhất định là như vậy, - tôi tự giải thích cho mình. - Cô này vẫn đánh lừa Ca-chi-a. Song, tất cả những điều đó lại là sự thật.

    Cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na còn kể thêm được những gì đó, nhưng tôi không nghe thêm được gì nữa. Tôi quên bẵng đi mất, nên đã đi đi lại lại trong “cái tủ” của mình, cho đến khi nghe thấy tiếng ho nghiêm nghị của thầy Cô-ra-bơ-li-ốp, tôi mới tỉnh người ra.

    Tôi cứ ngồi trong “cái tủ” như vậy cho đến khi cụ Ni-na Ca-pi- tô-nốp-na ra về. Tôi không hiểu cụ đến để làm gì - có lẽ chỉ để cho khuây khỏa. Lúc chia tay, thầy Cô-ra-bơ-li-ốp đã hôn tay cụ, còn cụ thì hôn lên trán ông - trước đây bao giờ họ cũng chia tay nhau như vậy.

    Tôi đang mải suy nghĩ nên không nghe thấy ông đã quay về phòng treo áo lúc nào, bỗng nhiên tôi nhìn qua khe hai tấm rèm cửa thấy cái mũi và bộ ria của ông.

    - Còn sống không?

    - Còn sống, thầy I-van Pa-vơ-lứt ạ.

    - Anh muốn nói gì?

    - Tôi muốn nói rằng, tôi là một thằng đại ngốc, không còn hy vọng gì nữa, - tôi trả lời, tay ôm đầu. - Tôi đã nói với cô ấy như thế nào! Ồ, tôi đã nói như thế nào với cô ấy! Tại sao tôi chẳng hiểu gì cả! Tại sao tôi chẳng nói gì với cô ấy, còn cô ấy thì vẫn cứ chờ! Cô ấy sẽ cảm thấy thế nào, thầy I-van Pa-vơ-lứt! Giờ đây cô ấy sẽ nghĩ về tôi như thế nào!

    - Chẳng sao cả, cô ấy sẽ nghĩ lại.

    - Không, không bao giờ! Thầy có biết tôi đã nói gì với cô ấy không! “Mình sẽ mãi mãi quan tâm đến cậu về mọi mặt”.

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp cười.

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt!

    - Anh chả đã viết, thiếu cô ấy anh không sống nổi đó sao.

    - Không viết như vậy! - Tôi thất vọng bác lại. - Đó là em gái tôi bịa ra. Nhưng đó lại là sự thật! Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt! Đó là sự thật hoàn toàn. Tôi không thể sống thiếu cô ấy, và giữa chúng tôi đã xảy ra cuộc cãi nhau vô cớ, vì tôi cho rằng đã từ lâu cô ấy không yêu tôi nữa. Nhưng bây giờ tôi phải làm gì? Phải làm gì?

    - Xa-nhi-a, thế này nhé, đến chín giờ tôi có một cuộc gặp mặt nữa ở một rạp hát, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói. - Vậy anh sẽ...

    - Thôi được, tôi sẽ đi ngay bây giờ. Tôi sẽ đi tìm Ca-chi-a ngay bây giờ, có được không?

    - Cô ấy sẽ đuổi anh ra ngay lập tức và cô ấy đuổi cũng hoàn toàn đúng.

    - Thì cứ để cho cô ấy đuổi, thầy I-Van Pa-vơ-lứt ạ! - Tôi nói và bỗng ôm hôn ông. - Có ma quỉ biết, tôi không hiểu giờ đây tôi phải làm gì! Thầy nghĩ nên như thế nào?

    - Bây giờ tôi cần thay quần áo, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói và đi vào “cái tủ”, còn về anh, tôi cho rằng anh phải mau mau tỉnh lại.

    Tôi trông thấy ông cởi chiếc áo quân phục ra, dựng cổ áo sơ- mi lên rồi thắt cà-vạt,

    - Thầy I-van Pa-vơ-lứt! - Tôi bỗng gào lên. - Thầy chờ một lát! Tôi quên bẵng đi mất! Khi chúng tôi cãi nhau về vấn đề trong thư của thuyền trường nói về ai, thầy bảo rằng tôi nói đúng có phải không?

    - Phải.

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt!

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp tóc chải mượt, đi từ “trong tủ” ra. Ông mặc bộ com-lê mới màu tro, trông điệu bộ rất trẻ trung, rất oai nghiêm.

    - Bây giờ chúng ta cùng đi đến rạp hát, - ông nói nghiêm trang, - rồi anh sẽ hiểu tất cả. Anh sẽ có nhiệm vụ như thế này: ngồi chờ và im lặng. Chịu khó nghe. Có hiểu không?

    - Tôi chẳng hiểu gì cả. Thôi đi đi.
     
    Last edited by a moderator: 4/6/15
  16. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    :rose:
    Chương 5

    Trong rạp hát

    Nhà hát kịch nói Mát-xcơ-va! Nếu theo sự suy luận của Gri-sa Pha-be, người ta có thể cho rằng đây là một rạp hát to lớn; hiện đại, tất cả các diễn viên ở đây đều đi ủng dài màu trắng rất đẹp, giọng nói rết hay, tiếng vang rất lớn. Nghĩa là giống như nhà hát nghệ thuật Mát-xcơ-va vậy. Nào ngờ đây chỉ là một nhà hát bé tẹo ở trong ngõ gì đó ở phố Xrê-ten-ca.

    Trong tủ kính nơi cửa ra vào đèn điện sáng trưng giới thiệu cho mọi người biết đang diễn vở “Đường chó sói”. Trong bản phân vai tôi tìm thấy ngay tên Gri-sa, nó đóng vai bác sĩ: “Bác sĩ G.Phe-be”. Không hiểu sao vai này lại để ở dưới cùng.

    Gri-sa gặp chúng tôi ở phòng ngoài. Trông nó vẫn lộng lẫy như xưa. Nó liền mời chúng tôi vào phòng hóa trang của nó.

    - Chờ khi nào màn hai bắt đầu, tôi gọi ông ấy đến, - nó nói với thầy Cô-ra-bơ-li-ốp có vẻ thần bí.

    “Ông ấy” là ai? Tôi nhìn thầy Cô-ra-bơ-li-ốp, nhưng lúc đó ông đang cuộn lại điếu thuốc lá rất dài và làm ra vẻ không để ý gì đến cái nhìn của tôi.

    Trong phòng hóa trang của Gri-sa có ba diễn viên nữa đang ngồi ở đấy, không hiểu sao trông họ có vẻ như đang ngồi trong buồng của mình vậy. Nhưng khi Gri-sa mời chúng tôi vào thì họ bèn khách khí đi ra, lúc đó Gri-sa mới xin lỗi về chỗ của nó. Nó nói:

    - Hiện nay phòng hóa trang của tôi đang sửa chữa.

    Chúng tôi nói chuyện về đội kịch của trường, nhớ lại vở bi kịch “Thời gian đã đến”. Trong vở kịch này, Gri-sa đóng vai người Do-thái. Tôi nói, theo tôi thì nó đóng vai này rất đạt. Gri-sa cười và thôi không lên mặt nữa,

    - Xan-ca, mình không hiểu, lúc đó cậu rất thích hội họa cơ mà. Tại sao bỗng dưng cậu lại bay lên trời như thê? Đến rạp hát với chúng mình đi, khỉ thật! Chúng mình sẽ bồi dưỡng cho cậu trở thành một nhà nghệ thuật. Thế nào không tốt sao?

    Tôi nói là đồng ý. Và sau đó Gri-sa lại xin lỗi một lần nữa - nó sắp phải ra sân khấu, người hóa trang đang chờ nó, nói đoạn nó đi ra. Hai chúng tôi ở lại.

    - Thầy I-van Pa-vơ-lứt! Thầy thân yêu, thầy hãy giải thích cho tòi, rốt cuộc thế này là thế nào? Thầy đưa tôi đến đây để làm gì? “Ông ấy là ai?” Thầy muốn giới thiệu tôi với ai?

    - Anh sẽ không làm điều gì ngu xuẩn chứ?

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt!

    - Anh đã làm một điều ngu xuẩn, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói. - Thậm chí những hai điều. Thứ nhất, anh không đến chỗ tôi. Còn thứ hai, anh đã nói với Ca-chi-a: “Mình sẽ mãi mãi quan tâm đến cậu về mọi mặt”.

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt, nhưng lúc đó tôi chẳng biết gì cả! Thầy chỉ viết có mấy chữ “đến chỗ tôi”. Tôi không ngờ sự việc lại quan trọng đến như vậy. Xin thầy cho biết, chúng mình ngồi đây chờ ai? Người đó là ai? Tại sao thầy muốn tôi gặp người ấy?

    - Thôi được, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói. - Nhưng anh phải nhớ đến điều chúng ta đã ước hẹn với nhau: ngồi yên và không được nói một câu nào. Người đó là Phôn Vư-si-mia-xki.

    Các bạn đã biết, lúc đó chúng tôi đang ngồi trong buồng hóa trang của Gri-sa trong Nhà hát kịch nói Mát-xcơ-va. Nhưng lúc đó tôi cảm thấy tất cả những việc ấy không xảy ra ở trong phòng hóa trang mà xảy ra ở trên sân khấu, bởi vì thầy I-van Pa-vơ-lứt vừa nói dứt lời thì Phôn Vư-si-mia-xki đã bước vào phòng, ông cúi người xuống, sợ cộc đầu vào khung cửa thấp.

    Lúc đó tôi hiểu ngay đó là ông ta, mặc dù trước đó trong óc tôi chưa bao giờ nghĩ rằng trên thế gian này lại có con người như thế. Tôi vẫn cho rằng Ni-cô-lai An-tô-nứt bịa ra cái tên Phôn Vư-si-mia-xki để đổ mọi lời chỉ trích của tôi lên đầu người đó. Trước kia đó chỉ là một cái tên, nhưng hiện nay bỗng trở thành hiện thực, biến thành một ông già gầy đét, cao kều, lưng còng có bộ ria bạc. Hiện nay chúng tôi mới rõ, ông ta chỉ là Vư-si-mia-xki, chứ chẳng có “Phôn phiếc” gì cả. Ông là ngươi coi mũ, áo ở rạp hát. Tóc phía trước đã đốm bạc, da cằm có những vết nhăn rất dài.

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp chào ông ta, ông ta nhẹ nhàng, thậm chí còn rất kính cẩn chìa tay ra.

    - À, thì ra đồng chí Cô-ra-bơ-li-ốp, tôi cứ tưởng ai đang đợi tôi, - ông ta nói, - mà không phải chỉ có một mình, lại mang cả công tử đi nữa. Có phải lệnh lang không? - Ông ta hỏi rất nhanh rồi thoáng cái nhìn sang tôi, rồi lại nhìn thầy Cô-ra-bơ-li-ốp, sau đó lại nhìn tôi, rồi lại nhìn sang thầy Cô-ra-bơ-li-ốp.

    - Không, đây không phải là con trai tôi, mà là học trò cũ của tôi. Bây giờ anh ấy đã là phi công. Anh ấy muốn làm quen với bác.

    - Phi công lại muốn làm quen với tôi, - ông ta cười gượng, nói.

    - Tôi có điều gì thú vị đối với người phi công?

    - Điều bác làm cho anh ta cảm thấy hứng thú là ở chỗ này, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói, - bác có biết không, anh ta đang viết về lịch sử đội thám hiểm của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp. Còn bác, như mọi người đã biết, bác đã tích cực tham gia vào công tác của đội thám hiểm này.

    Hình như điều nhận xét đó không làm cho Vư-si-mia-xki thích lắm. Ông ta lại nhìn tôi một cách rất nhanh. Trong cái mơ hồ, già nua của ông ta có một cái gì thoáng hiện lên rất nhanh, sự sợ hãi hay sự nghi ngờ? Tôi không biết.

    Nhưng ông ta nghiêm chỉnh ngay và nói thao thao bất tuyệt. Mỗi câu ông ta lại gọi thầy I-van Pa-vơ-lứt là “đồng chí Cô-ra-bơ-li-ốp” và tự khoe khoang đến nỗi không ai chịu nổi. Ông ta nói đó là đội thám hiểm vĩ dại, có ý nghĩa lịch sử, rằng ông ta đã làm nhiều, rất nhiều “để cho mọi việc đều được hoàn hảo”. Lúc đó ông ta không ngồi yên được lấy một phút, chốc lại đứng dậy, tay luôn luôn làm các cử động, vân vê ria mép bên trái, nhìn xuống chân vân vân.

    - Nhưng đó là việc lâu lắm rồi, - cuối cùng ông ta nói có vẻ ngạc nhiên.

    - Không, cũng không lâu quá đâu, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp bác lại. - Trước cách mạng không lâu,

    - Phải, trước cách mạng không lâu. Tôi hồi đó không làm việc ở tổ hợp tác thương binh. Nhưng đó chỉ là tạm thời, chỉ là phục vụ. Bởi vì tôi có công lao lớn. Hồi đó chúng tôi làm việc rất nhiều. Đó là những công việc quan trọng.

    Tôi định hỏi ông ta những công việc ấy cụ thể là những việc gì, nhưng thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nhìn tôi với cái vẻ bình thường, hình như chẳng tỏ ra ý gì cả, thế là tôi ngoan ngoãn ngậm mồm lại.

    - Bác Ni-cô-lai An-tô-nứt, bác đã kể cho tôi nghe về đội thám hiểm này, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói. - Tôi còn nhớ bác còn giữ cả những giấy tò và thư từ gì đó. Tôi đề nghị với bác một điều: bác hãy kể lại câu chuyện của bác cho anh chàng trẻ tuổi này nghe. Bác cứ gọi anh ta là Xa-nhi-a, thế thôi. Bác hãy hẹn ngày, giờ khi nào có thể đến gặp bác được và ghi cho anh ta địa chỉ.

    - Xin mời. Tôi sẽ rất sung sướng! Tôi xin mời các vị đến nhà tôi, mặc dù tôi phải xin lỗi trước là nhà cửa chẳng ra sao. Trước kia tôi cũng có nhà riêng, có những mười một buồng, tôi không giấu giếm gì điều đó, trái lại tôi cũng đã viết vào phiếu điều tra, bởi vì tôi đã cống hiến rất nhiều cho nhân dân. Chính vì thế mà tôi đã làm đơn xin tiền trợ cấp dưỡng lão. Tôi nghĩ chắc người ta sẽ phê chuẩn bởi vì tôi đã có rất nhiều công lao. Cuộc thám hiểm này - chỉ là một giọt nước trong biển cả. Tôi cũng đã từng xây dựng cầu qua sông Von-ga.

    Ông ta cứ thế nói thao thao bất tuyệt. Trên đầu ông ta mọc một mớ tóc trắng xám rất nhọn, trông ông ta giống một con chim già đã dày dạn phong sương!

    Sau đó đèn điện trong phòng hóa trang của Gri-sa bỗng vụt tắt, - đã hết một màn kịch! Và cái ảo ảnh của thế kỷ trước này cũng biến mất đột ngột у như nó đã xuất hiện.

    Toàn bộ cuộc nói chuyện chỉ kéo dài có năm phút, nhưng tôi cảm thấy cứ như nằm mơ nó kéo dài rất lâu. Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nhìn tôi cười, hình như trông tôi có vẻ ngu đần lắm.

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt!

    - Cái gì?

    - Ông ấy đấy à?

    - Có thể như thế được không?

    - Được lắm.

    - Chính người này?

    - Chính người này.

    - Ông ấy đã kể những gì với thầy? Ông ấy biết Ni-cô-lai An- tô-nứt? Ông ấy đến nhà ông này rồi?

    - Không, chính vì ông ấy không muốn đến.

    - Tại sao?

    - Tại vì ông ấy căm thù Ni-cô-lai An-tô-nứt.

    - Vì lẽ gì?

    - Vì nhiều chuyện.

    - Vậy rốt cuộc ông ấy nói với thầy những gì? Rốt cuộc cái thư ủy nhiệm mang tên Phôn Vư-si-mia-xki ấy lấy ở đâu ra? Thầy có nhớ thầy đã nói chuyện với tôi về bức thư ủy nhiệm ấy không?

    - Ồ - ồ! Tất cả vấn đề là ở chỗ này đây! - Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói. - Ở bức thư ủy nhiệm ấy đấy! Khi tôi hỏi đến bức thư ủy nhiệm thì ông ta giận dữ phát run người lên.

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt, xin thầy hãy kể lại cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện này đi! Thầy tưởng rằng đến phút cuối cùng thầy mới cho tôi biết người đó là Vư-si-mia-xki, như vậy là tốt lắm hay sao? Tôi cuống cả lên và có lẽ ông ấy cho tôi là thằng ngốc mất.

    - Trái lại, ông ấy rất thích anh, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói nghiêm túc. - Ông ta có một cô con gái đã lớn, vì thế ông ta nhìn tất cả các chàng trai đều bằng một quan điểm: có xứng đáng là chồng chưa cưới của con gái ông không? Không còn nghi ngờ gì nữa, anh là người hoàn toàn xứng đáng: trẻ, đẹp trai, lại là phi công.

    - Thầy I-van Pa-vơ-lứt, - tôi nói giọng trách móc, - tôi không hiểu, tôi xin nói thật đấy... Thầy đã thay đổi nhiều quá, rất nhiều! Thầy biết rằng tất cả những cái đó đối với tôi rất quan trọng, thế mà thấy còn đùa tôi.

    - Thôi được, Xa-nhi-a, đừng cáu kỉnh nữa, tôi sẽ nói tất cả. Nhưng bây giờ phải chuồn khỏi đây cho mau, nếu không Gri-sa sẽ tóm được và sẽ bắt chúng ta phải xem kịch ở nhà hát kịch nói Mát-xcơ-va...

    Nhưng chúng tôi không chuồn kịp. Đèn đã bật sáng. Gri-sa hấp tấp chạy vào buồng hóa trang. Nó đeo bộ râu màu hung, cái mũi dài màu trắng và phải nói rằng nó giống vai hề trong rạp xiếc hơn là vai bác sĩ, nhưng là vai hề có vẻ mặt dũng cảm và lương thiện. Tôi và thầy I-van Pa-vơ-lứt không nhận ra hắn ngay và rất buồn là câu cuối cùng “giữ lại xem kịch ở Nhà hát kịch nói Mát-xcơ-va”, rõ ràng là đã đến tai hắn. Nhưng rõ ràng là Gri-sa không nhận ra trong câu nói này có ý gì làm người ta không vui, mà trái lại, nó lại hiểu đâu đó như chúng tôi đang tha thiết mong muốn được đến ngay rạp để xem kịch và xem cái vai bác sĩ do nó đóng. Nó nói:

    - Việc đã thế này, tôi đi tìm cho các vị chỗ ngồi ngay bây giờ.

    Nó dẫn chúng tôi đi theo con đường riêng của các diễn viên.

    Trên đường đi tôi hỏi nó, tại sao người ta lại hóa trang cho nó vai bác sĩ kỳ quái đến như vậy. Không ngờ nó lại trả lời vẻ rất quan trọng:

    - Đây là một dụng ý sâu xa đây.

    Tôi chẳng còn biết bác lại nó thế nào nữa.

    Hình như thầy I-van Pa-vơ-lứt không đánh giá cao tài năng của Gri-sa. Nhưng tôi lại thích nó thật sự. Tôi thấy nó là một đứa có tài. Trong vở kịch này nó chỉ đóng một vai rất nhỏ, nhưng theo tôi thì nó đóng rất xuất sắc. Lúc nó rời khỏi bệnh nhân đi ra, nó trầm ngâm một lát, nó đứng lại phía trước sân khấu rất lâu. Đó là lối “chơi đòn cân não” và để cho khán giả phỏng đoán xem nó sẽ nói những gì. Rất đáng tiếc là vai nó đóng chỉ cho phép nó nói những câu hoàn toàn không tương xứng với nét mặt và điệu bộ dũng cảm của nó. Nó diễn lúc kê đơn thuốc trông rất đạt và khi nó nhận tiền, bàn tay nó không tự nhiên, đúng là một bác sĩ thật sự. Giá nó đừng nói to quá thì hay hơn. Nói chung nó đóng vai này rất khá, tôi nói với thầy I-van Pa-vơ-lứt một cách nghiêm túc rằng rồi đây nó có thể trở thành một diễn viên giỏi.

    Khi nó nhận tiền rồi đi ra, nó vấp phải cái ghế cũng rất tự nhiên. Sau đó tôi và thầy I-van Pa-vơ-lứt không xem tiếp màn sau nữa.

    Tôi vẫn cứ muốn nói chuyện về Vư-si-mia-xki nhưng trong lô có tiếng suỵt suỵt làm cho tôi phải ngậm miệng lại, tôi chỉ mới kịp hỏi có một câu:

    - Làm sao thầy tìm được ông ấy?

    Thầy I-van Pa-vơ-lứt vừa kịp trả lời:

    - Rất đơn giản: con trai ông ấy học ở trường chúng ta.
     
    Last edited by a moderator: 4/6/15
  17. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    :rose:
    Chương 6

    Lại có nhiều điều mới


    Từ trước đến nay tôi vẫn chẳng hiểu tí gì về giấy vay nợ - khi tôi mới bắt đầu học thì bản thân chữ này cũng không có. “Văn tự vay tiền” là gì? “Hối phiếu” là gì? “Đơn bảo hiểm” là gì? Chính là “Đơn bảo hiểm” chứ không phải chữ “Bắc cực”, chữ Bắc cực thì mọi người đều đã biết. “Sổ nợ” là gì? Không phải giọng cao mà là “sổ nợ”(1).

    (1)Trong tiếng Nga, chữ “pô-li-xơ” là đơn bảo hiểm và chữ pô-li-u-xơ” là Bắc cực gần giống nhau, cũng như chữ “đi-xcôn-tơ” là sổ nợ và chữ “đi-xcan-tơ” là giọng cao của trẻ con rất gần nhau. – N.D


    Khi tôi đọc sách gặp phải những từ này, không hiểu sao tôi cứ nhớ đến cái “phòng hậu thẩm” ở En-xcơ - đến những chiếc ghế dài bằng sắt trong hành lang nhá nhem tối to rộng, lão nhân viên tòa án không ai trông thấy đang ngồi đằng sau hàng lan can gỗ mà mẹ cứ phải van nài mãi. Đó là cuộc sống đã qua, cuộc sống đã bị lãng quên từ lâu rồi, nay nó lại dần dần hiện ra trước mắt từ khi Vư-si-mia-xki kể cho tôi nghe câu chuyện bất hạnh của mình.


    Chúng tôi ngồi trong căn nhà hầm bé nhỏ có cửa sổ. Ở đây lúc nào cũng có thể trông thấy cái chổi và đôi chân. Có lẽ người quét sân đang đứng đó. Trong căn phòng này cái gì cũng cũ kỹ, cái chân ghế đã phải lấy dây buộc. Tôi vừa tì tay lên cái bàn ăn đã phải rụt ngay lại vì tấm ván ở đầu bàn ăn chỉ chực đổ. Chỗ nào cũng có những miếng vải bọc rất bẩn - trên cửa sổ thì vải bọc này treo thay rèm cửa, trên ghế đi-văng thì trải miếng vải bọc rách, quần áo treo trên tường cũng che bằng thứ vải này. Những cái mới ở trong gian phòng này chỉ có cái bảng con, lõi cuộn chỉ và vòng dây thép của thằng con trai Vư-si-mia-xki - một thằng bé mười hai tuổi, mặt tròn, da bánh mật - nó vứt những thứ này ở trong góc tường sau bàn học của nó. Chính thằng bé này cũng hoàn toàn mới mẻ và rất xa lạ đối với cái thế giới mà giờ đây tôi đang nhớ lại lờ mò trong khi nghe ông Vư-si-mia-xki kể chuyện về những sổ nợ và hối phiếu của ông ấy.


    Đây là một câu chuyện rối rắm rất dài, trong đó có rất nhiều điều vô lý. Lão già coi tất cả những việc lão đã làm từ xưa đến nay đều là công lao, bởi vì “tất cả những việc này đều là vì nhân dân, vì nhân dân”. Lão đặc biệt nhấn mạnh việc lão đã từng làm thư ký cho đại giáo chủ I-xi-đo-rơ, lão tuyên bố là lão biết rất rõ đời sống của tầng lớp cha cố, thậm chí lão còn đặc biệt nghiên cứu nó để mong nó sẽ “có lợi cho nhân dân”. Lão luôn luôn sẵn sàng vạch mặt tên đại giáo chủ này.


    Lão còn coi một chức vụ khác của lão, tức là phục vụ cho tên thượng tướng hải quân Hê-kéc-ta nào đó cũng là công lao. Tên thượng tướng hải quân này có một “thằng con trai bị bệnh thần kinh”, Vư-si-mia-xki phải dẫn nó đến các khách sạn để cho người ta khỏi đoán nó bị bệnh thần kinh, bởi vì “họ che giấu việc này”...


    Đến lúc lão kể chuyện về Ni-cô-lai An-tô-nứt thì tôi liền vểnh tai lên nghe. Trước đây tôi vẫn cho rằng Ni-cô-lai An-tô-nứt là một nhà giáo dục. Một nhà giáo dục điển hình! Bởi vì ở trong nhà ông ta bao giờ cũng dạy người, bao giờ cũng giải thích, cũng dẫn chứng những ví dụ nọ kia.


    - Chẳng phải thế đâu, - Vư-si-mia-xki căm giận, cau mày bác lại. - Đó là bước đường cùng, bất đắc dĩ phải làm đó thôi. Trước kia hắn ta là tay buôn bán. Một mặt hắn làm ở Sở Giao dịch, mặt khác vẫn buôn bán. Hắn là một tay giàu có vừa làm ở Sở Giao dịch, vừa buôn bán.


    Đây là một tin mới thứ nhất. Sau đó còn có tin thứ hai. Tôi hỏi, đội thám hiểm của thuyền trưởng Ta-ta-rì-nốp có quan hệ gì với Sở Giao dịch? Tại sao Ni-cô-lai An-tô-nứt lại nắm công việc của đội thám hiểm? Chẳng lẽ ở đây cũng có lời hay sao?


    - Nếu đội thám hiểm bị tan vỡ thì hắn lại càng thích, - Vư-si-mia-xki nói. - Hắn mong muốn như vậy, rất mong muốn như vậy. Kết quả đúng như vậy thật!


    - Tôi không hiểu.


    - Hắn đã yêu bà vợ của thuyền trưởng. Hồi đó đã có rất nhiều dư luận về việc này. Người ta đã nói nhiều, rất nhiều. Đây là cả một câu chuyện dài. Nhưng thuyền trưởng chẳng hề nghi ngờ gì cả. Ông ta là một người rất tốt, nhưng rất mộc mạc. Thật là một người rất tốt, rất nhiệt tình và có tài!


    Tôi sửng sốt.


    - Yêu bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na? Ngay từ những năm đó?


    - Phải, phải, phải, - Vư-si-mia-xki vội vàng nhắc đi nhắc lại.


    - Trong này có những lý do cá nhân. Anh có hiểu không - cá nhân. Lý do cá nhân, cá nhân, cá nhân. Hắn ta muốn đưa thuyền trưởng sang thế giới bên kia, cho nên có thể hy sinh được tất cả gia tài. Kết quả hắn đã đưa đi được.


    Nhưng tình yêu rốt cuộc vẫn là tình yêu mà buôn bán vẫn là buôn bán. Ni-cô-lai An-tô-nứt chẳng hy sinh tí tài sản nào của hắn cả. Trái lại, tài sản của hắn đã tăng gấp đôi. Ví dụ hắn đã mua những quần áo mục cho đội thám hiểm. Hắn đã mua thứ sô-cô-la người ta vứt đi vì bị ngấm dầu hỏa. Tất cả những thứ này đều là của ăn đút lót của bọn con buôn.


    - Đó là sự phá hoại, đó là sự phá hoại! - Vư-si-mia-xki nói. - Kế hoạch! Một kế hoạch phá hoại!


    Nhưng trước kia Vư-si-mia-xki đối với cái kế hoạch này rõ ràng là có thái độ khác bây giờ, bởi vì lão có tham gia vào kế hoạch này và được Ni-cô-lai An-tô-nứt cử đi Ác-khan-ghen-xcơ để gặp đội thám hiểm và cung cấp cho đội thám hiểm.


    Chính lúc đó đã xuất hiện bức thư ủy nhiệm mà Ni-cô-lai An- tô-nứt đã đưa cho thầy Cô-ra-bơ-li-ốp xem. Cùng với bức thư ủy nhiệm này, Vư-si-mia-xki đã nhận được một số tiền - vừa hối phiếu, vừa tiền mặt...


    Sau đó lão già cáu kỉnh khịt khịt mũi, lão rút trong ngăn kéo ra mấy tờ hối phiếu. Nói chung hối phiếu là một tờ giấy biên lai bảo đảm theo thời hạn quy định phải trả lại số tiền đó. Nhưng tờ biên lai đó phải viết trên giấy của Nhà nước, rất bền có bóng chìm trông rất hoa mỹ, làm cho người ta rất tin tưởng. Vư-si- mia-xki giải thích cho tôi, những hối phiếu này hồi ấy có thể lưu thông thay tiền mặt được. Nhưng cái đó hoàn toàn không phải là tiền, bởi vì “người phát hành phiếu” có thể bất thình lình tuyên bố họ hết tiền.


    Trong đó có thể có rất nhiều trò lừa bịp. Vư-si-mia-xki tố cáo Ni-cô-lai An-tô-nứt là vì lão mắc một trong những trò lừa bịp ấy.


    Lão tố cáo Ni-cô-lai An-tô-nứt bởi vì Ni-cô-lai An-tô-nứt đã gửi cho một số hối phiếu cùng thư ủy nhiệm cho lão, nhưng những hối phiếu này đều “vô hiệu lực”, nghĩa là Ni-cô-lai An-tô-nứt đã biết trước rằng “người phát hành phiếu” đã phá sản không thể trả tiền mặt được nữa. Nhưng Vư-si-mia-xki không biết điều đó nên đã nhận hối phiếu coi như tiền mặt bởi vì “người phát hành phiếu” là những nhà buôn các ngành các nghề khác nhau, hồi đó có một số rất có tiếng tăm. Mãi sau khi tàu nhổ neo rồi, còn lại một khoản nợ là bốn mươi tám nghìn rúp, lúc đó lão mới biết là bị mắc lừa. Lúc đó tất nhiên chẳng có ai chịu nhận cái thứ hối phiếu “vô giá trị” ấy để trả món nợ này.


    Thế là Vư-si-mia-xki buộc phải bỏ tiền túi ra trả món nợ này. Sau này lão còn phải trả món nợ này một lần nữa bởi vì Ni-cô-lai An-tô-nứt đã đưa lão ra tòa án đã xử lão phải truy hoàn toàn bộ số tiền mà Ni-cô-lai An-tô-nứt đã giao cho lão khi đi Ác-khan- ghen-xcơ.


    Tất nhiên tôi kể lại câu chuyện này một cách rất vắn tắt thế thôi, chứ lão già kể cho tôi nghe những hai tiếng đồng hồ và cứ đứng lên ngồi xuống hoài.


    - Tôi đã kiện lên đến tận tòa án tối cao, - cuối cùng lão nói vẻ dọa nạt. - Nhưng người ta bác đơn kiện.


    Lão bị bác đơn kiện, thế là công việc kết thúc vì tài sản của lão đã bán sạch rồi. Ngôi nhà - lão có một ngôi nhà - cũng đã bán đi rồi và lão phải dọn sang ở một căn phòng khác, nhỏ hơn. Vợ lão vì đau khổ mà chết, chỉ còn lại mấy đứa trẻ thơ. Về sau lão lại sang một căn phòng khác càng nhỏ hơn chỉ còn lại có một buồng mà lão hiện đang ở một cách miễn cưỡng. Tất nhiên “đây chỉ là tạm thời”, bởi vì “chính phủ sắp coi trọng công lao của lão đã cống hiến cho nhân dân”. Nhưng hiện nay lão buộc lòng phải sống ở đây. Lão có một cô con gái đã trưởng thành, cô ta biết những hai thứ tiếng nước ngoài, chính vì căn phòng này mà cô ta chưa đi lấy chồng được: phu quân không có lối ra vào. Chờ khi nào được phát tiền trợ cấp dưỡng lão, lúc ấy lão sẽ dọn đi nơi khác.


    - Đi đâu cũng được, dù là vào trại thương binh cũng được, - lão cay đắng phủi tay nói.


    Rõ ràng là cô con gái đã luống tuổi này muốn ở một mình để dễ lấy chồng.


    - Bác Ni-cô-lai I-va-nứt, - tôi nói với lão. - Bác cho tôi hỏi một câu nhé: bác bảo rằng ông ấy gửi giấy ủy nhiệm này đến Ác- khan-ghen-xcơ cho bác, tại sao nó lại rơi vào tay ông ấy?


    Vư-si-mia-xki đứng lên. Lão có cái mũi rất to và những mớ tóc đã điểm bạc đều rung lên vì căm giận.


    - Tôi đã ném tờ giấy ủy nhiệm ấy vào mặt hắn, - lão nói. - Hắn đi rót nước, nhưng tôi không thèm uống. Tôi đi ra đến ngoài phố thì ngất đi. Đấy còn nói gì nữa!


    Lão lại cay đắng phủi tay một lần nữa,


    Tôi nghe lão kể mà lòng nặng trĩu. Trong câu chuyện này có một cái gì nhơ bẩn giống như tất cả những cái chung quanh đây vì thế mà tôi cứ muốn đi rửa tay. Tôi cho rằng cuộc nói chuyện lần này sẽ là một bằng chứng mới để chứng minh sự đúng đắn của tôi, nó mới mẻ và kỳ lạ cũng như sự xuất hiện đột ngột của người này. Kết quả đúng là như vậy. Nhưng tôi cảm thấy rất khó chịu vì trong những bằng chứng mới này có lẫn những vết tích nhơ bẩn.


    Sau đó lão lại nói về chuyện dưỡng lão “nhất định người ta sẽ cho tôi tiền trợ cấp dưỡng lão, bởi vì tôi đã có bốn mươi nhăm năm công tác”. Đã có một người trẻ tuổi đến nhà lão và lấy đi tất cả giấy tờ. Ni-cô-lai An-tô-nứt cũng rất thích anh chàng này, nhưng sau đó không thấy đến lần nào nữa.


    - Nó hứa sẽ chạy chọt, chạy chọt - Vư-si-mia-xki nói, - nhưng sau đó chẳng thấy đến.


    - Ni-cô-lai An-tô-nứt cũng thích?


    - Phải, phải, phải! Hắn thích lắm, sao lại không!


    - Người đó là ai?


    Vư-si-mia-xki xòe hai bàn tay ra.


    - Nó đã đến mấy lần. Con gái tôi nó biết, chúng nó đã uống trà và nói chuyện ở đây. Nó biết, nó biết!


    Một nụ cười yếu ớt chạy trên khuôn mặt lão, đại khái kiểu quen biết này gắn liền với những hy vọng nào đó.


    - Phải, thật là tò mò, - tôi nói. - Hắn lấy hết giấy tờ đi rồi?


    - Vâng, để làm trợ cấp dưỡng lão, để làm trợ cấp dưỡng lão. Để anh ấy chạy cho mà.


    - Có hỏi về Ni-cô-lai An-tô-nứt?


    - Đúng, đúng. Còn hỏi tôi có biết người nào khác... Rất có thể còn có người nào đó biết việc anh ta làm... công việc của con chim này... Tôi giới thiệu anh ta đến một người.


    - Thú vị thật. Vậy anh chàng trẻ tuổi ấy là ai?


    - Một con người oai nghiêm, - Vư-si-mia-xki nói. - Hứa sẽ chạy chọt hộ. Anh ta nói tất cả những cái đó cần để làm thủ tục xin trợ cấp dưỡng lão, chính là vì cá nhân chứ không phải vì cái gì khác!


    Tôi hỏi tên anh là gì, nhưng ông già không thể nhớ ra được nữa. Ông lão nói:


    - Hình như tên “sa” gì ấy.


    Sau đó cô con gái lớn chạy vào. Đúng là cô ta đã đến lúc cần lấy chồng thật. Song đó không phải là việc dễ, ở đây tuyệt đối không phải vì “phu quân không có cửa ra vào”, vấn đề là ở chỗ cô gái có cái mũi to quá, cô thở bằng mũi một cách rất hung hăng khác thường. Tôi không biết có bị bệnh ngạt mũi mãn tính hay vì một tập quán xấu làm cho cô phải luôn luôn làm như vậv. Nhưng khi tôi nhìn thấy cô quay về phía ông bố hít hít rất mạnh bằng mũi, tôi hiểu ngay tại sao ông lão muốn vào trại thương binh ngay lập tức.


    Tôi chào cô rất lịch sự, cô chạy đi đâu đó và lúc quay lại thì khác hẳn: lúc nãy cô mặc bộ quần áo Ả-rập, còn bây giờ cô đã mặc chiếc váy áo thường.


    Chúng tôi chuyện trò với nhau: thoạt đầu nói về thầy Cô-ra- bơ-li-ốp - đó là người duy nhất chúng tôi cùng biết, - sau đó đến người học trò của ông, cậu bé vẫn đùa nghịch những cuộn chỉ của mình ở trong góc nhà, chẳng thèm để ý gì đến chúng tôi. Nếu không có những động tác mũi của cô, có lẽ cuộc nói chuyện của chúng tôi cũng thú vị. Cô nói rằng cô không thích xem phim bởi vì trong phim người nào cũng “trắng bệch như người chết”, nhưng lúc đó ông già lại đưa vấn đề tiền dưỡng lão của ông vào.


    - Niu-tô-sca, tên cái anh chàng ấy là gì nhỉ? - Lão sợ hãi hỏi. .


    - Cái anh chàng nào?


    - Cái anh chàng hứa chạy hộ khoản trợ cấp dưỡng lão ấy.


    Niu-tô-sca chau mày. Môi cô run run, lập tức trên mặt cô hiện lên nhiều tình cảm. Trong đó thái độ chính là căm phẫn.


    - Con không nhớ, hình như Rô-ma-sốp thì phải, - cô ta lơ đãng trả lời.
     
    Last edited by a moderator: 4/6/15
  18. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    :rose:
    Chương 7

    “Nhà tôi có khách”


    Rô-ma-sca! Thằng Rô-ma-sca đã đến nhà họ! Nó đã hứa chạy tiền dưỡng lão cho ông già. Nó đã ve vãn cô Niu-ta có cái mũi to! Cuối cùng nó lấy hết giấy tờ và trôn biệt. Thậm chí ông già cũng không nhớ rõ là những giấy tờ gì. Thoạt đầu tôi nghĩ đó là một Rô-ma-sca nào khác, một người trùng tên. Không, Chính là nó. Tôi tả lại nó một cách tỉ mỉ, Niu-ta nói bằng giọng căm thù.


    - Chính nó!


    Nó đã ve vãn cô ta, điều đó đã quá rõ. Nhưng sau lại thôi, nếu không cô ta đã chẳng chửi nó cay độc như hiện nay cô đang chửi. Nó đến với ông già để thăm dò về chuyện Ni-cô-lai An-tô-nứt. Nó thu thập những tài liệu. Để làm gì? Nó lấy những tài liệu giấy tờ của Vư-si-mia-xki đi để làm gì? Qua những tài liệu này. ít nhất cũng rút ra được một kết luận trước cách mạng, Ni-cô-lai An-tô- nứt không phải là một nhà sư phạm, mà là một tên đầu cơ bẩn thỉu ở Sở Giao dịch.


    Tôi ở nhà Vư-si-mia-xki ra về mà đầu thấy choáng váng, ở đây chỉ có thể có hai ý đồ: hoặc là thủ tiêu tất cả những tang chứng của quá khứ, hoặc là nắm Ni-cô-lai An-tô-nứt.


    Nắm lão ta ư? Để làm gì? Rô-ma-sốp chẳng đã là người học trò trung thành nhất, đáng tin cậy nhất của ông ta đó sao! Ngay từ hồi còn học tiểu học nó đã như thế, đi nghe trộm những cuộc nói chuyện của học sinh về Ni-cô-lai An-tô-nứt, để rồi đi báo cáo lại cho ông ấy. Đó là việc được giao, Ni-cô-lai An-tô-nứt đã trao cho nó nhiệm vụ tìm hiểu tất cả những gì Vư-si-mia-xki biết về ông ta. Ông ta ngầm cử Rô-ma-sốp đến để lấy đi tất cả những giấy tờ có hại cho một nhà sư phạm Xô Viết như ông ta.


    Tôi rẽ vào hiệu cà phê ăn kem. Sau đó uống cái gì đó. Tôi cảm thấy rất nóng, và tôi cứ suy nghĩ miên man. Sau khi tốt nghiệp, tôi và Rô-ma-sca xa cách nhau đã nhiều năm rồi. Hồi đó nó quả là một con vật đê tiện, lạnh lùng. Nhưng đối với Ni-cô-lai An-tô- nứt nó lại rất chân thành, hay là tôi chỉ tưởng như thế thôi? Giờ đây tôi không biết nó, Rất có thể nó đã thay đổi rồi? Rất có thể nó giấu Ni-cô-lai An-tô-nứt, vì nó yêu mến ông ta nên muốn thủ tiêu những giấy tò xem ra có thể làm tổn hại đến tên tuổi đẹp đẽ của ông thầy và người bạn của nó.


    Đó chỉ là điều nhảm nhí, chỉ cần nhớ lại cái mặt trắng bệch và đôi mắt tròn không tự nhiên của thằng Rô-ma-sca là có thể nhận thức về nó một cách đúng đắn.


    Tôi ăn một cây kem nữa. Khi tôi hỏi mua chiếc kem thứ ba thì cô bán hàng cười. Có lẽ cô lấy làm thú vị thấy tôi ăn nhiều kem như thế, cho nên cô, đã đến trước gương sửa lại mái tóc.


    Không, không bao giờ nó làm một việc gì do sự gắn bó với người này. Ở đây phải có một mục đích bí mật gì, tôi tin chắc như vậy. Tôi chỉ không đoán ra mục đích ấy là gì, bởi vì tôi chỉ có thể phán đoán theo quan hệ cũ giữa Ni-cô-lai An-tô-nứt và Rô-ma-sca, còn quan hệ mới của họ tôi biết rất ít.


    Đây có thể chỉ là một mục đích rất đơn giản liên quan đến vấn đề đề bạt chức vụ gì đó. Vì Ni-cô-lai An-tô-nứt là giáo sư, Rô- ma-sca là trợ lý của ông ta. Cũng có thể là vì tiền, bởi vì ngay từ hồi còn học ở trường, hễ nói đến tiền là nó đỏ tai lên, việc đó cùng không phải là vô cớ. Hay vì vấn đề công xá, chuyện đó có trời biết!


    Tôi gọi dây nói cho Va-li-a, tôi muốn bàn với nó một số việc, vì mấy năm gần đây nó có đến nhà Та-ta-ri-nốp mấy lần. Nhưng nó lại đi vắng, Cũng như mọi khi, lúc cần đến nó thì nó lại đi chơi đâu mất.


    “Không, không phải vì tiền công, cũng không phải vì địa vị - tôi tiếp tục suy nghĩ. - Muốn đạt được mục đích này, nó hoàn toàn có thể dùng biện pháp khác đơn giản hơn, chỉ cần nhìn vào con người nó là có thể đoán được việc này”.


    Đã đến lúc phải về nhà, nhưng hoàng hôn vừa buông xuống, đây là buổi hoàng hôn rất Mát-xcơ-va, nó không giống tí nào với buổi hoàng hôn của tôi ở Da-pô-li-a-ri-e. Chính vì thế mà tôi rất muốn đi bộ, mặc dù khách sạn còn cách rất xa.


    Tôi lững thững bước đi, đầu tiên tôi đi ra phố Goóc-ki, sau đó rẽ vào ngõ Vô-rốt-ni-cốp-xki. Những nơi quen thuộc quá! Khách sạn lùi lại một bên. tôi vẫn đi theo ngõ Vô-rốt-ni-cốp-xki, sau đó rẽ sang phố Xa-đô-vô Trí-um-phan-nai-a, đi qua trường cũ của tôi. Còn từ Xa-đô-vô Tri-um-phan-nai-a đến Tve-rơ-xcai-a I-am- xcai-a thứ hai, rõ ràng là rất gần. Tôi đã đi qua phố đó và chỉ vài phút sau tôi đã dừng lại trước cái cổng một ngôi nhà quen thuộc. Tôi nhìn vào trong cổng và thấy cái sân nho nhỏ quen thuộc. Hồi nào tôi đã từng bổ củi giúp bà cụ ở đây. Kia là cầu thang, tôi đã từng trượt từ trên đó xuống, kia là của ra vào bọc vải sơn đen và tấm biển con bằng đồng, trên đó viết kiểu chữ hoa tên họ: “N.A. Ta-ta-ri-nốp”...


    - Ca-chi-a, mình đến tìm cậu, cậu không đuổi mình ra chứ?


    Sau này Ca-chi-a nói rằng, khi cô trông thấy tôi, cô biết ngay tôì “thay đối rất nhiều so với hôm mồng Ba ở Nhà hát lớn”. Nhưng có một điều cô không thể biết được: tại sao tôi lại đến với cô một cách bất ngờ thế này và “thay đổi rất nhiều” như thế. Cả buổi tối tôi không rời mắt khỏi Ni-cô-lai An-tô-nứt và Rô-ma-sca.


    Tất nhiên nói thế có phóng đại lên một chút, nhưng quả thật tôi nhìn họ chằm chằm. Tôi hôm đó đầu óc tôi căng thẳng, chẳng khác gì hôm vào thi. Người ta vừa bắt đầu nói tôi đã cứ muốn đoán ra và hiểu ngay lập tức.


    Tôi quên nói một điều, lúc ngồi ở quán cà phê tôi đã mua một bó hoa tươi. Tôi đi đến nhà Ta-ta-ri-nốp với bó hoa trong tay. Tôi rất ngượng. Từ ngày tôi và Pê-chi-a đi hái trộm hoa lan tím ở vườn Nhà thò ở En-xcơ, chờ sau khi tan rạp bán cho những người đi xem hát năm cô-pếch một bó, đến nay chưa bao giờ tôi cầm hoa đi ngoài phố. Giờ đây tôi đến nhà họ và phải trao cho Ca-chi- a bó hoa tươi này... Nhưng không hiểu sao tôi lại đặt bó hoa lên bàn bên cạnh cái mũ.


    Có lẽ tôi đã quá xúc động, cho nên sau khi nói được vài câu tiếng tôi đã oang oang lên khiến cho Ca-chi-a phải nhìn thẳng ngay vào mặt tôi.


    Chúng tôi đi sang phòng của cô, nhưng lúc đó cụ Ni-na Ca-pi- tô-nốp-na từ trong phòng ăn đi ra. Tôi cúi chào. Bà cụ nhìn tôi vẻ kinh ngạc và cũng gật đầu chào lại rất lịch sự.


    - Bà ơi, cháu là Xa-nhi-a Gri-gô-ri-ép đây. Bà không nhận ra cháu à?


    - Xa-nhi-a! Trời ơi! Có thật không?


    Cụ giật mình ngắm nhìn tôi. Vì cửa phòng ăn mở nên tôi nhìn thấy Ni-cô-lai An-tô-nứt đang ngồi trong chiếc ghế bành, tay cầm tờ báo. Ông ta có nhà!


    - Chào bà, bà Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na thân yêu! - Tôi nói. - Bà còn nhớ cháu không? Có lẽ bà quên cháu từ lâu rồi phải không?


    - Hừ! Quên rồi! Tôi chẳng quên tí nào cả, - bà cụ trả lời.


    Chúng tôi đang hôn nhau thì Ni-cô-lai An-tô-nứt từ trong phòng ăn đi ra và dừng lại ở cửa.


    Đó là phút chúng tôi đánh giá lại nhau. Ông ta có thể không nhìn thấy tôi cũng như ông ta đã không nhìn thấy tôi tại buổi lễ kỷ niệm của thầy Cô-ra-bơ-li-ốp. Ông ta có thể nhấn mạnh rằng chúng tôi không quen nhau. Và cuối cùng ông ta có thể chỉ ra cửa và đuổi tôi đi, mặc dù làm thế quá mạo hiểm, ông ta chẳng làm cách thứ nhất chẳng làm cách thứ hai, cũng chẳng làm cách thứ ba.


    - A, con đại bàng trẻ, - ông ta niềm nở nói. - Cuối cùng cũng bay đến chỗ chúng tôi à? Đáng lẽ phải đến từ lâu rồi đấy.


    Ồng sảng khoái chìa tay cho tôi.


    - Chào ông, Ni-cô-lai An-tô-nứt!


    Ca-chi-a nhìn chúng tôi ngạc nhiên. Cụ bà thì chớp mắt lia lịa. Còn tôi lại rất phấn khởi, giờ đây tôi có thể nói chuyện thoải mái.


    - Phải... Chẳng còn gì đáng nói nữa, thật tuyệt, - Ni-cô-lai An-tô-nứt nghiêm nghị nhìn tôi. - Trước kia còn là một đứa trẻ con, thế mà bây giờ đã là phi công Bắc cực rồi. Lại chọn cái nghề như thế! Cừ lắm!


    - Nghề bình thường thôi ông Ni-cô-lai An-tô-nứt ạ, - tôi đáp. - Cũng như mọi nghề khác.


    - Cũng thế à? Thế còn tinh thần tự chủ? Còn tinh thần dũng cảm, khi nguy hiểm. Rồi còn kỷ luật, không phải chỉ trong lúc làm việc mà phải có kỷ luật trong lòng, như người ta thường nói là kỷ luật tự giác!


    Nghe những lời nói giả dối rỗng tuếch của ông ta, theo trí nhớ cũ tôi cảm thấy lộn mửa, nhưng tôi vẫn chăm chú nghe, nghe một cách rất lễ phép. Tôi cảm thấy ông ta già đi rất nhiều so với hôm dự lễ kỷ niệm của thầy Cô-ra-bơ-li-ốp, sắc mặt ông ta cũng đầy vẻ mệt mỏi. Khi chúng tôi đi vào phòng ăn, ông ta ôm vai Ca-chi-a và cô ấy hơi né tránh.


    Trong phòng ăn còn có một bà cô Bu-ben-tri-cốp đang ngồi, nhưng tôi không nhớ rõ đó chính là bà đã cầm cái cán bàn chải ra định đánh tôi hay đó là bà đã mắng con dê. Nhưng dù sao bây giờ bà cụ cũng đón tiếp tôi rất ân cần.


    - Đấy, chúng tôi đang chờ anh đấy! - Ni-cô-lai An-tô-nứt nói khi cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na săn đón tiếp tôi, rót nước trà cho tôi và đem đến cho tôi tất cả những món ăn có trên bàn. - Chúng tôi đang chờ anh kể chuyện Bắc cực đấy. Hãy kể chuyện lái máy bay mò, chuyện những vùng quanh năm băng tuyết, chuyện rừng tuyết núi băng bồng bềnh trôi!


    - Mọi việc đều rất tốt, ông Ni-cô-lai An-tô-nứt ạ, - tôi rất phấn khởi nói. - Núi băng vẫn là núi băng, rừng tuyết vẫn là rừng tuyết.


    Ni-cô-lai An-tô-nứt cười,


    - Có một lần tôi gặp một người bạn cũ, hiện nay ông có công tác trong đoàn đại biểu thương mại của ta ở La mã, - ông nói. - Tôi hỏi ông ta: “Này, La-mã thế nào?”. Ông ta đáp: “Chẳng sao cả! La-mã vẫn là La-mã”. Câu đó rất giống với câu anh vừa nói, có phải không?


    Ông ta nói giọng rất khách sáo. Ca-chi-a buông mắt nhìn xuống, nghe chúng tôi nói chuyện, cần phải tìm cách duy trì cuộc nói chuyện này, thế là tôi đã kể chuyện người Nê-nét thật, kể lại phong cảnh Bắc cực, thuận mồm tôi kể cả chuyện tôi và bác sĩ đã bay đến Va-nô-can như thế nào. Cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp- na luôn luôn quan tâm hỏi tôi bay có cao không, việc đó làm cho tôi nhớ đến bức thư của dì Đa-sa tôi nhận được hồi còn học ở Trường Hàng không Ba-la-sốp. Trong thư nói: “Nếu số phận đã không cho cháu được đi lại trên mặt đất như người thường thì Xa-ne-sca ạ, dì cầu xin cháu hãy bay thâm thấp xuống một chút”.


    Tôi kể lại rằng Mi-sa Cô-lôm-bơ đã xoáy của tôi bức thư này, thế là từ đó trở đi, hễ tôi cứ đội mũ bay vào là cả sân bay lại vang lên tiếng gọi tôi:


    - Xa-nhi-a, bay thấp xuống một tí nhé!


    Cũng chính anh chàng Mi-sa này đã tổ chức ở trong Trường Hàng không tờ tạp chí hài hước lấy tên là “Bay thấp”. Trong tạp chí này có một mục đặc biệt “Kỹ thuật bay trên hình vẽ”, trong đó có bài thơ như sau:


    Có độ cao

    Mới dễ lao,

    Bằng mái nhà

    Sẽ lao đao

    Xa-nhi-a hỡi

    Chớ có liều,


    Dì khuyên cháu

    Bay thấp nhiều

    Có lẽ tôi kể lại chuyện này rất hay nên mọi người đều cười vang, cười rất to nhất là Ni-cô-iai An-tô-nứt. Ông ta cứ cười suốt! Do đó mặt trắng bệch ra, - bao giờ ông ta cười mặt cũng trắng bệch ra.


    Ca-chi-a hầu như không ngồi yên ở bàn, cô cứ đứng dậy luôn và xuống nhà bếp mãi không lên. Tôi cảm thấy cô đi ra chỉ là để cho một mình thì dễ suy nghĩ, bởi vì khi cô quay lại thì nét mặt cô như vậy. Có một lúc cô quay lên, đi đến chỗ tủ buýp-phê để làm gì đó, tay cầm cái đĩa đan bằng mây, nhưng xem chừng cô lại quên không biết đến tủ để làm gì. Tôi nhìn thẳng vào mắt cô, cô cũng nhìn lại tôi bằng con mắt lo lắng, băn khoăn.


    Hình như Ni-cô-lai An-tô-nứt có nhìn thấy chúng tôi trao đổi bằng mắt với nhau. Một bóng đen hiện trên khuôn mặt ông, thế là ông bắt đầu nói chậm rãi hơn, tròn trĩnh hơn.


    Về sau Rô-ma-sca đến. Cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na ra mở cửa cho nó. Tôi nghe thấy tiếng cụ nói ở phòng ngoài, giọng cay độc:


    - Trong nhà tôi có khách đấy!


    Nó đi đi lại lại ở phòng ngoài rất lâu, có lẽ để sửa sang lại quần áo, sau đó bước vào phòng, khi nhìn thấy tôi; nó làm ra vẻ chẳng ngạc nhiên tí nào.


    - À thật ra vị khách này! - Nó cười gượng và nói. - Thật vui mừng, thật vui mừng! Hết sức vui mừng! Hết sức vui mừng!


    Thoáng nhìn cũng biết ngay là nó có vui mừng thật hay không. Còn tôi thì quả là có vui mừng thật! Ngay từ lúc nó mỏi bước vào tôi đã theo dõi mỗi cử chỉ của nó. Mắt tôi không rời khỏi nó. Nó là con người như thế nào? Nó đã trở thành người như thế nào? Quan hệ của nó với Ni-cô-lai An-tô-nứt, với Ca-chi-a ra sao? Kìa nó đang đi đến chỗ cô, nói chuyện với cô, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói của nó đều là những câu đố nhỏ đối với tôi, nhưng tôi đã đoán ra ngay. Càng ngày tôi càng thấy căng thẳng, tôi chăm chú theo dõi nó và suy nghĩ về nó.


    Giờ đây, khi tôi trông thấy họ đứng bên nhau - nó và Ca-chi- a ' tôi cảm thấy rất buồn cười: so với cô, trông nó sao nhỏ nhen, xấu xí và vô nghĩa thế. Nó nói lải nhải với Ca-chi-a một cách rất tự tin, tôi nghĩ bụng: “Chú này quá tự tin đây”. Nó nói đùa gì đó với cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na, nhưng chẳng có ai eười. tôi lại nghĩ bụng: “ngay Ni-cô-lai An-tô-nứt cùng không cười”.


    Nhưng họ đã nói ngay sang chuyện ngành nghề, về vấn đề bảo vệ luận án gì đó mà Ni-cô-lai An-tô-nứt cho là tồi, nhưng Rô- ma-sca thì lại bảo là rất hay.


    Tất nhiên họ cố ý làm như vậy để nhấn mạnh rằng sự có mặt của tôi, đổi với họ chẳng đáng chú ý. Nhưng tôi lại thích thú, bởi vì giờ đây tôi có thể ngồi im, nhìn họ, nghe và suy nghĩ.


    “Không, - tôi nghĩ, - đây không phải là thằng Rô-ma-sca trước kia, thằng Kô-ma-sca vẫn lấy làm vinh dự được phục tùng tuyệt đối những mệnh lệnh của Ni-cô-lai An-tô-nứt. Nó nói với ông ta với thái độ coi thường, gần như vô lễ, còn Ni-cô-lai An-tô-nứt thì lại chau mày. Trả lời nó một cách mệt mỏi. Đó là mối quan hệ phức tạp làm cho Ni-cô-lai An-tô-nứt rất không thích. Tôi đã đúng. Đó khóng phải là công việc được giao. Nó lấy những giấy lò của Vư-si-mia-xki không phải để thủ tiêu đi... Nó làm việc này là đổ bán những giấy tờ ấy cho Ni-cô-lai An-tô-nứt, đấy cái giống nó là như vậy. Có lẽ nó đã thu được khoản tiền lớn. Cũng có thể vẫn chưa bán mà còn đang mặc cả”.


    Ca-chi-a hỏi tôi câu gì đó, tôi trả lời cô. Rô-ma-sca vừa nghe Ni-cô-lai An-tô-nứt vừa nhìn chúng tôi và lo lắng. Bỗng một ý nghĩ lừ từ hiện lên giữa những ý nghĩ khác và hình như dừng lại một bên để chờ tôi đi đến gần ý nghĩ ấy. Đó là một ý nghĩ hết sức lạ lùng, nhưng đối với mọi người đã quen biết Rô-ma-sốp từ thuở bé lại là một ý nghĩ rất hiện thực. Nhưng giờ đây tôi không thế dừng lại ở ý nghĩ này, bởi vì nó rất đáng sợ, tốt nhất là giờ đây đừng có nghĩ về việc đó nữa. Hình như tôi chỉ nhìn nó từ xa.


    Sau đó Ni-cô-lai An-tô-nứt và Rô-ma-sca vào phòng làm việc làm gì đó. Chúng tôi ngồi lại với các bà già. Một bà chẳng nghe thấy gì cả, còn bà nữa thì làm ra vẻ chẳng nghe thấy gì hết.


    - Ca-chi-a, - tôi nói nhỏ. - Thầy I-van Pa-vơ-lứt mời cậu bảy giờ sáng mai đến chỗ thầy ấy. Cậu có đi không?


    Có im lặng gật đầu. .


    - Mình đến đây không sao chứ? Mình rất muốn gặp cậu.


    Cô im lặng gật đầu.


    Mong cậu hãy quên tối ngày mồng Ba đi nhé. Tóm lại tất cả đều không phải như thế và không xảy ra như vậy, thôi cứ coi như chúng ta chưa gặp nhau.


    Cô im lặng nhìn tôi và chẳng hiểu gì cả.
     
    Last edited by a moderator: 9/6/15
  19. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    :rose:
    Chương 8

    Trung thành với vật kỷ niệm

    Vậy đó là ý nghĩ gì? Tôi suy nghĩ về nó suốt cả một buổi tối và ngủ đi lúc nào không biết. Sáng ra tỉnh dậy cảm thấy hình như không ngủ, vẫn đang suy nghĩ.

    Suốt cả ngày hôm đó đều như vậy. Với ý nghĩ ấy trong đầu, tôi đi đến Tổng cục đường Hàng không Bắc cực, đến Hội Địa lý học, đến Bộ biên tập tạp chí Bắc cực. Thỉnh thoảng có quên đi, nhưng hình như tôi để nó đứng ở ngoài cổng, chờ khi tôi ra lại gặp nó cứ như gặp người quen cũ vậy.

    Khoảng sáu giờ tôi đến nhà thầy Cô-ra-bơ-li-ốp, người mệt mỏi, buồn bã. Lúc tôi đến, ông đang làm việc, đang chấm bài. Hai chồng vở dày cộm xếp trên bàn cạnh ông, ông đeo kính ngồi dọc tay cầm bút sắt luôn luôn thẳng tay gạch những chữ sai. Tôi không biết đó là những bài tập gì; lúc đó đang là mùa nghỉ, trường đang đóng cửa. Nhưng ngay trong mùa nghỉ ông cũng tìm được việc làm.

    - Chào thầy I-van Pa-vơ-lứt, thầy cứ làm việc đi, tôi ngồi chờ một lát. Có được không? Tôi mệt quá.

    Chúng tôi ngồi một lát trong sự tĩnh mịch hoàn toàn. Chỉ có tiếng ngòi bút kêu xoàn xoạt và tiếng rì rầm cáu kỉnh của thầy Cô-ra-bơ-li-ốp là phá tan sự tĩnh mịch ấy. Trước kia tôi không thấy ông càu nhàu trong khi làm việc như thế.

    - Thế nào, Xa-nhi-a, công việc ra sao?

    - Thưa thầy, tôi muốn hỏi thầy một câu.

    - Cái gì?

    - Thầy có biết gần đây Rô-ma-sốp đến nhà Vư-si-mia-xki không?

    - Biết.

    - Thầy có biết tại sao nó đến nhà ấy không?

    - Biết.

    - Thưa thầy, - tôi nói giọng trách móc. - Thực tình mà nói, tôi lại chưa hiểu thầy. Thầy biết rõ chuyện như vậy, nhưng lại không nói với tôi một điều gì.

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nghiêm nghị nhìn tôi. Ông rất nghiêm nghị như thế có lẽ vì đang chờ Ca-chi-a nên hơi hồi hộp, nhưng lại không muốn cho tôi thấy.

    - Xa-nhi-a, tôi còn nhiều điều chưa nói cho anh biết, bởi vì hiện nay, mặc dù anh đã là phi công, nhưng chưa biết chừng bỗng dưng anh lại lấy chân đá vào mặt người khác thì sao.

    - Việc đó xảy ra bao giờ thế! Thưa thầy, vấn đề là hiện nay trong óc tôi đang có một ý nghĩ. Tất nhiên, rất có thể tôi sai. Giá như tôi nghĩ sai thì đó lại là chuyện hay.

    - Thấy chưa, anh lại xúc động rồi, - thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói.

    - Tôi không xúc động, thầy ạ. Thầy chưa nghĩ đến sao? Rô- ma-sốp có thể yêu cầu ông ta, có thể nói rằng nó sẽ im lặng, nếu Ni-cô-lai An-tô-nứt giúp nó cưới Ca-chi-a được không?

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp không trả lời gì.

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt, - tôi gào lên.

    - Anh lại xúc động rồi.

    - Tôi không xúc động. Nhưng tôi không hiểu được một điều: Ca-chi-a làm sao có thể cho phép nó nghĩ được về chuyện ấy? Dù sao đó cũng là Ca-chi-a!

    Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp trầm ngâm suy nghĩ, đi đi lại lại trong phòng. Ông bỏ kính ra, mặt ông trông buồn xỉu. Tôi để ý thấy ông ấy nhìn tấm ảnh bà Ma-ri-a Va-xì-li-ép-na mấy lần, chính tấm ảnh bà đeo chuỗi hạt trân châu ở cổ, tấm ảnh ấy hiện nay vẫn đặt trên mặt bàn của ông như cũ.

    - Phải, Ca-chi-a, - ông chậm rãi nói. - Anh hoàn toàn không biết gì về cô ấy.

    Đây lại là một tin mới. Tôi không biết gì về Ca-chi-a!

    - Anh không biết cô ấy đã sống những năm vừa qua như thế nào. Còn tôi thì tôi biết, bởi vì... tôi quan tâm, - thầy Cô-ra-bơ-li- ốp nói nhanh. - Hơn nữa hình như chẳng có ai đặc biệt quan tâm đến cô ta cả.

    Ông ấy đang nói tôi.

    - Sau khi mẹ chết, cô ấy rất đau khổ. - Ông nói tiếp. - Thế mà bên cạnh cô ấy có một con người cũng đau khổ như cô ấy, và có thể còn hơn thế nữa. Anh có biết, tôi nói về ai đó không.

    Ông đang nói về Ni-cô-lai An-tô-nứt.

    - Một con người rất từng trải, rất nham hiểm. - Thầy Cô-ra- bơ-li-ốp nói tiếp. - Một con người đáng sợ. Nhưng đúng là suốt đời ông ta yêu mẹ cô ấy, suốt đời - đây không phải là một khoảng thời gian ngắn. Do đó cái chết của bà đã làm cho quan hệ của họ thêm gần nhau - vấn đề là ở chỗ ấy.

    Ông bắt đầu hút thuốc, những ngón tay ông hơi run run khi ông bật que diêm, sau đó khe khẽ đặt que diêm vào cái gạt tàn thuốc lá.

    - Lúc đó Rô-ma-sốp xuất hiện. Ông vẫn nói tiếp. - Tôi cần phải nói tiếp. - tôi cần phải nói để anh biết rằng, hiện nay đến nó anh cũng không hiểu nốt. Đây cũng là một Ni-cô-lai An-tô-nứt, chẳng qua chỉ là một loại hình khác mà thôi. Thứ nhất, nó có nghị lực. Thứ hai, nó chẳng cần đạo đức gì hết, chẳng tốt, cũng chẳng xấu. Thứ ba, nó có tài ở bước quyết định, nói một cách khác, nó là thằng làm việc thật sự. Cái thằng cha làm việc thực sự ấy biết rất rõ nó cần những gì. Rồi một hôm nó đến nhà ông thầy nó, mà cũng là bạn của nó và nói với ông ta: “Thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt, xin thầy hãy nghĩ lại đi, hình như thằng Gri-gô-ri-ép đã hoàn toàn đúng, Đúng là thầy đã ăn cắp của đội thám hiểm của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp. Ngoài ra, còn một số việc thầy chưa nhắc đến trong bản điều tra...” Cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na đã nghe được câu chuyện này. Cụ chẳng hiểu gì cả nên chạy đến tìm tôi. Nhưng tôi thì tôi hiểu.

    - Thì ra thế đấy, - tôi nói. - Thú vị thật.

    Chúng tôi im lặng.

    - Vậy sau đó thì sao nữa? - Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói tiếp. - Có thể căn cứ vào kết quả mà phán đoán. Anh cũng biết Ni-cô-lai An-tô-nứt - ông ta hành động không vội vã: có thể lúc đầu chỉ là nói đùa. Nhưng rồi câu chuyện đứng đắn hơn, thường xuyên hơn.

    - Thưa thầy I-van Pa-vơ-lứt, nhưng ông ta dầu sao cũng chưa thuyết phục được cô ấy, có đúng thế không?

    - Xa-nhi-a, Xa-nhi-a, anh thật là con người kỳ quặc! Nếu ông ta thuyết phục được cô ấy rồi, chẳng lẽ tôi lại còn kể cho anh nghe tất cả những điều đó hay sao? Nhưng ai biết được! Rất có thể đến một ngày nào đó ông ta đạt được mục đích cũng như ông ta đã...

    Tôi hiểu thấy muốn nói: “Cũng như ông ta đã đạt được kết quả là bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na đã trở thành vợ ông ta’’.

    Tôi không biết nên ở lại hay nên ra về, - đã bảy giờ rồi, Ca- chi-a có thể đến bấm chuông. Tôi chỉ cảm thấy khó mà dứt ra được. Tôi im lặng nhìn ông hút thuốc, cái đầu bạc gục xuống, cái chân dài duỗi ra. Tôi nghĩ ông đã yêu bà Ma-ri-a Va-li-ép-na say đắm như thế nào, số ông vất vả như thế nào và ông đã trung thành với những kỷ niệm của bà như thế nào, - đấy vì sao trong những năm gần đây ông quan tâm theo dõi cuộc sống của Ca- chi-a là như thế đấy.

    Sau đó ông bỗng nhớ ra và bảo tôi nên về thì hơn.

    - Không có anh tôi nói chuyện với cô ấy tiện hơn.

    Ông tiễn tôi về, chúng tôi hẹn nhau đến mai lại gặp.

    Tôi ra đến ngoài phố, trời vẫn còn sáng rõ, mặt trời chưa lặn, những tia nắng cuối cùng phản chiếu trên kính cửa sổ nhà bên kia phố Xa-đô-vai-a.

    Tôi đứng bên cạnh cổng và nhìn dọc dãy phố. Ca-chi-a sẽ phải đi qua phố này. Hình như tôi chờ đã lâu lắm rồi, bởi vì những cửa sổ trên phố đã lần lượt tối dần từ bên trái sang bên phải. Sau đó tôi nhìn thấy cô - thì ra cô không đi từ phố kia đến mà cô ở trong ngõ O-ru-giây-nưi ra và đang đứng trên vỉa hè chờ cho xe cộ đi hết để sang đường. Không hiểu sao tôi thấy sờ sợ khi nhìn thấy cô đi qua đường vẻ trầm ngâm. Cô vẫn mặc cái áo váy như hôm nào cô mặc đến Nhà hát lớn, trông cô rất buồn. Giờ đây cô đã đi đến gần tôi, nhưng cô vẫn đi, đầu cúi xuống, không nhìn thấy tôi. Nhưng tôi cũng không muốn để cô nom thấy mình. Tôi thầm chúc cô tinh thần sảng khoái và mọi điều tốt lành nhất mà lúc này đây tôi có thể chúc cô được và đưa mắt tiễn cô cho đến khi cô đi đến tận cổng. Cô đi khuất vào trong cổng, nhưng tôi vẫn đi theo cô trong tưởng tượng - tôi nhìn thấy thầy I-van Pa-vơ-lứt đã gặp cô như thế nào, ông xúc động và cố gắng tỏ ra rất bình tĩnh, và ông đã chậm rãi nhét điếu thuốc lá vào bót dài trước khi bắt đầu nói chuyện...

    Giờ đây các của sổ đã tối om nhanh chóng. Chỉ còn hai cửa sổ cuối cùng ở căn nhà tận cùng kia là còn ánh sáng đỏ quạch. Ngôi nhà này đi qua ngõ O-ru-giây-nưi. Hồi tôi còn học, tiểu ban văn nghệ của Xô Viết thành phố Mát-xcơ-va đóng ở ngôi nhà này.

    Lúc đó đã tám giờ mà tôi vẫn chưa muốn về nhà. Tôi ngồi rất lâu trong vườn một ngôi nhà nào đó. Từ khu vườn này có thể nhìn thấy cổng trường chúng tôi. Tôi đã vào trong sân mấy lần để xem căn phòng của thầy Cô-ra-bơ-li-ốp có bật đèn hay không. Nhưng họ nói chuyện trong ánh sáng mập mờ - thầy I-van Pa- vơ-lứt nói còn Ca-chi-a chỉ nghe và im lặng.

    Nhìn vào những cửa sổ tối om kia, trước mắt tôi lại hiện lên một cảnh nói chuyện khác. Thầy Cô-ra- bơ-li-ốp cũng khoanh tay trước ngực, đứng ngồi không yên, chốc chốc lại đứng lên đi đi lại lại trong phòng. Bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na ngồi thẳng người, nét mặt thản nhiên, thình thoảng lại đưa bàn tay gày gò lên sửa mái tóc đã được chải chuốt kỹ: “Môn-ti-gô-mô I-a-xtơ-re-bi-nưi Cô- gốt, hồi đó tôi gọi ông ấy như vậy”. Bà ngồi trước mặt chúng tôi, hút thuốc lá liên tục, tàn thuốc lá rơi khắp nơi, cả trên đùi bà cũng có. Sắc mặt bà không còn trắng bệch nữa mà là tái mét đi. Bà ngồi đó trầm tĩnh, bất động, chỉ thình thoảng khẽ đưa tay nâng chuỗi hạt trân châu đeo ở cổ, tựa hồ như chuỗi hạt làm bà nghẹt thở. Bà đang sợ sự thật bởi vì không có sức chịu đựng nổi. Còn Ca-chi-a thì không sợ sự thật, nếu cô biết được sự thật thì mọi việc sẽ rất tốt.

    ... Đèn đã sáng từ lâu. Tôi nhìn thấy cái bóng dài dài đen đen của thầy Cô-ra-bơ-li-ốp in trên tấm rèm cửa sổ. Sau đó Ca-chi-a xuất hiện bên cạnh ông, nhưng rồi lại đi ngay mất, hình như cô chỉ nói có một câu dài.

    Hiện nay ngoài đường phố đã tối hẳn. Như vậy lại càng hay, bởi vì tôi cứ ngồi mãi trong cái vườn con này và luôn luôn dán mắt vào nhìn cửa sổ kể cũng không tiện lắm.

    Bỗng nhiên Ca-chi-a đi từ trong cổng ra có một mình và đủng đỉnh đi về phố Xa-đô-vai-a.

    Không nghi ngờ gì nữa, cô đang đi về nhà. Nhưng rõ ràng là cô không vội về nhà, cô đang suy nghĩ điều gì đó trước khi về đến nhà. Cô vừa đi vừa suy nghĩ. Tôi đi theo sau cô. Hình như chỉ có hai chúng tôi đi trong cái thành phố rộng lớn - hoàn toàn chỉ có hai người : Ca-chi-a và sau cô là tôi, nhưng cô không nhìn thấy tôi. Tàu điện rầm rầm đinh tai nhức óc tiến vệ phía quảng trường, ô-tô rú máy dừng lại trước đèn đỏ. Tôi cảm thấy trong cái cảnh ồn ào náo nhiệt này khó mà nghĩ ngợi điều gì, càng không thể nghĩ cho chín vấn đề tôi đang cần nghĩ! Không thể nghĩ ra được vấn đề gì cần thiết cho tôi, cho Ca-chi-a, cho thuyền trưởng, nếu ông còn sống, cho bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na, nếu bà còn sống, cho tất cả những người đang sống và đã chết.
     
    Last edited by a moderator: 5/6/15
  20. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    :rose:
    Chương 9

    Tất cả đã được quyết định cô ấy dọn đi

    Trong căn phòng ở khách sạn, đèn đã sáng tỏ từ lâu, nhưng tôi quên không tắt đèn cho nên trông tôi ở trong gương hơi xanh xao. Tôi cảm thấy rất lạnh, sau lưng cảm thấy như nổi da gà. Tôi nhấc ống nghe điện thoại. Mãi chẳng thấy trả lời. Cuối cùng có tiếng trả lời, tôi biết ngay là tiếng Ca-chi-a.

    - Ca-chi-a. Mình đây. Sớm thế này, không can gì chứ?

    Cô nói không hề gì, mặc dù vừa mới tám giờ thôi.

    - Không làm mất giấc ngủ chứ?

    - Không.

    Tôi không ngủ đêm đó và tin rằng cô cũng không ngủ lấy một phút.

    - Ca-chi-a, mình có thể đến được không?

    Cô im lặng một lát.

    - Đến đi.

    Một cô gái hoàn toàn không quen biết, người mập mạp, tóc vàng tẹt bím quấn quanh đầu ra mở cửa cho tôi và đỏ mặt lên khi tôi hỏi:

    - Ca-chi-a có nhà không?

    - Có nhà.

    Tôi lao vào và chính mình cũng không biết là đi đâu, tóm lại là đi tìm Ca-chi-a, nhưng cô gái này đóng sập sửa ngay trước mũi tôi và nói đùa:

    - Sao thế, đồng chí chỉ huy! Đừng có vội thế.

    Rồi cô cười sằng sặc, cười đến đinh tai nhức óc, cười một cách rất bất ngờ, lúc đó không thể không nhận ra cô được nữa.

    - Ki-ren!

    Ca-chi-a từ phòng ăn đi ra đúng lúc chúng tôi bước qua những cái va-li nhảy bổ vào nhau tí nữa thì ôm chầm lấy nhau, nhưng Ki-ren ngượng quá lùi ngay lại cho nên tôi đành phải bắt tay cô thôi.

    - Ki-ren, có đúng cậu đấy không? Ở đâu về thế?

    - Chính mình đây. - Ki-ren nói, cười khanh khách. - Có điều, xin đừng có gọi mình là Ki-ren nữa. Bây giờ mình không còn là một con ngốc như xưa nữa.

    Chúng tôi lại thân ái nắm tay nhau lắc mạnh... Hình như cô ta ngủ ở nhà Ca-chi-a cho nên cô ta mặc áo ngủ của Ca-chi-a. Khi chúng tôi thu dọn đồ đạc, cái áo này bị đứt mấy cái cúc liền. Ở phòng ngoài có hai cái va-li mở nắp, rồi ở trong phòng ăn cũng có. Chúng tôi xếp vào va-li quần áo, sách vở, dụng cụ gì đó, tóm lại tất cả những thứ gì Ca-chi-a có ở trong ngôi nhà này. Cô ấy đi. Đi đâu? Tôi không hỏi. Cô ấy ra đi. Tất cả đã quyết định rồi. Cô ấy ra đi.

    Tôi không hỏi, bởi vì tôi đã biết từng câu trong cuộc nói chuyện với thầy Cô-ra-bơ-li-ốp và từng câu cô ấy nói với Ni-cô-lai An-tô- nứt khi cô ấy về nhà. Ni-cô-lai An-tô-nứt không có mặt trong thành phố, hình như ông ta đi đâu lên tỉnh, lên Vô-lô-cô-lam- xcơ. Nhưng dù sao thì cũng vậy, nếu sau khi ở chỗ thầy Cô-ra-bơ- li-ốp về mà cô tìm được Ni-cô-lai An-tô-nứt, tôi biết từng lời cô sẽ nói với ông ta.

    Cử chỉ của cô thật cương quyết, sắc mặt xanh xao, cô đi đi lại lại, nói chuyện tiếng rất to, sắp xếp mọi đồ đạc. Nhưng đây là sự trấn tĩnh của con người sau khi đã bị kích thích, tôi cảm thấy già đây không nên nói gì về điều đó. Tôi chỉ bắt tay cô thật chặt và hôn lên tay cô. Cô lặng lẽ siết chặt những ngón tay tôi để trả lời.

    Nhưng người hoang mang nhất là bà cụ. Lúc gặp tôi cụ rất nghiêm trang, chỉ gật đầu và kiêu hãnh đi qua bên cạnh tôi. Sau đó cụ đột nhiên quay lại, với vẻ căm thù, cụ nhét vào va-li cái áo cánh.

    - Như thế cũng rất tốt. Còn cách nào nữa? Cần phải như thế.

    Cụ ngồi trong nhà ăn rất lâu, chẳng làm gì cả, chỉ phê bình chúng tôi xếp va-li. Sau đó cụ bỗng đi ra, hình như chẳng có việc gì, cụ chạy xuống bếp mắng chị giúp việc, vì chị ta mua cái gì đó ít quá.

    - Tôi đã bảo nó có tới hàng nghìn lần: hễ thấy dầu gan thì mua, về nhà nó bảo tôi rằng, nó thấy khuỷu sau ngon, nó mua. “Như thế đấy. Vắng mặt bà, tôi không biết có nên mua hay không”. Ai mà biết được? Chẳng dứt khoát gì cả. Tôi không chịu được những người như thế.

    - Bà ơi chẳng cần gì cả, - Ca-chi-a nói.

    - Chẳng cần? Sao lại như thế được? Cầm lấy.

    Về sau cô không chú ý tới những đồ dùng sinh hoạt nữa, cô bắt đầu thở dài, và lén đến tủ buýp-phê uống mấy giọt nước nguyệt quế anh đào. Chốc chốc cô lại chạy ra chỗ vắng người và thầm nhủ không được xúc động. Nhưng những lời thầm nhủ ấy chẳng có tác dụng với cô được bao lâu - cô lại phải chạy đến cái tủ, lại len lén uống thuốc nước nguyệt quế anh đào...

    Sắp xếp đồ đạc cho Ca-chi-a chẳng mất mấy thời gian. Cô có rất ít đồ đạc, mặc dù cô đi khỏi nhà, ngôi nhà mà hình như cô đã sống gần cả đời mình. Tất cả mọi cái ở đây đều là của Ni-cô-lai An-tô-nứt. Nhưng những cái của riêng mình, cô cũng không để lại một tí gì, cô không muốn để lại bất cứ một thứ gì có thể gợi cho cô nhớ lại mình đã từng sống ở căn nhà này.

    Cô đem đi khỏi nơi đây tất cả - cả thời thơ ấu, cả những thư từ, cả những bức họa đầu tiên của cô, những bức tranh này bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na đã giữ lại được, cả cuốn “Ê-lê-na Rô-bin- sơn” và cuốn “Những phát hiện mới của thế kỷ” mà tôi đã mượn của cô hồi học lớp ba.

    Hồi ở lớp chín, tôi đã mượn cô những cuốn sách khác và khi chúng tôi xếp đến những cuốn sách này, cô gọi tôi đến và hơi khép cửa lại.

    - Xa-nhi-a, mình muốn tặng cậu những cuốn sách này, - cô nói giọng hơi run run. - Những cuốn sách này của ba, mình bao giờ cũng rất quý nó. Nhưng bây giờ mình muốn tặng nó cho cậu. Ở đây có sách của Nan-xen, có nhiều sổ tay hàng hải và cả sách do ba viết.

    Sau đó cô dẫn tôi vào phòng làm việc của Ni-cô-lai An-tô-nứt và lấy bức chân dung của thuyền trưởng treo trên tường xuống, đó là chân dung một nhà hàng hải trán rộng, hàm răng chặt và đôi mắt sinh động long lanh.

    - Mình không muốn để lại cho lão, - cô cương quyết nói với tôi mang tấm ảnh sang phòng ăn và thận trọng đặt vào trong một cái gói để giữa gối và chăn.

    Đó là vật duy nhất của Ni-cô-lai An-tô-nứt mà Ca-chi-a mang đi theo. Nếu có thể được cô đã đem cả cái kỷ niệm về thuyền trưởng khỏi cái nhà bẩn thỉu này.

    Tôi không biết cái la bàn hàng hải bé tí xíu thuộc về ai, cái la bàn trước đây đã làm tôi sửng sốt. Tôi liền nhét nó vào va-li mà không cho Ca-chi-a biết. Dù sao nó cũng thuộc về thuyền trưởng.

    Thế là hết. Sau khi chúng tôi thu dọn hết đồ đạc, lấy áo bành tô và chào cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na ở phòng ngoài thì nơi đây trở thành một nơi trống rỗng nhất trên trái đất. Cụ Ni- na Ca-pi- tô-nốp-na ở lại không đi, nhưng cũng không lâu, chờ khi nào Ca- chi-a dọn sang phòng do trường đại học phân cho cô thì cụ cũng sẽ đi.

    - Không lâu đâu, - bà cụ trịnh trọng nói, khóc và hôn Ca-chi-a.

    Ki-rа bị trượt chân ở cầu thang, cô ngồi lên chiếc va-li để khỏi trượt xuống và cười khanh khách. Ca-chi-a nổi cáu nói: “Ki-ra, ngốc lắm”. Tôi đi sau họ, hình như tôi trông thấy Ni-cô-lai An-tô- nứt đang đi trên cầu thang này, bấm chuông và im lặng nghe xem bà cụ nói gì với ông. Bàn tay run run, ông ta sờ cái đầu hói và đi về phòng làm việc, đôi chân bước đi một cách máy móc hình như chỉ sợ ngã. Trong ngôi nhà trống trải này chỉ có một mình ông ta.

    Nhưng ông ta cũng đoán biết rằng, Ca-chi-a sẽ không bao giờ trở về đây nữa.
     
    Last edited by a moderator: 5/6/15

Chia sẻ trang này