1. Click vào đây để xem chi tiết

Hoàn thành Thuyền trưởng và đại úy - V. Ca-vê-rin

Thảo luận trong 'Wiki' bắt đầu bởi hanhdb, 21/5/15.

  1. Rafa

    Rafa SV

    Chương 6

    Những cô gái từ Xta-ni-xláp đến​

    Tôi chợt thấy có hai cô gái trong đám đông mà trước đây tôi chưa hề thấy mặt. Đấy là hai cô sinh viên của trường Đại học Sư phạm Xta-ni-xláp. Cả hai cô đều có dáng chắc nịch, màu da bánh mật, lông mi cong, giọng nói êm ái, tuy nhìn bề ngoài hai cô có vẻ bộc tuệch non nớt. Nhưng thực ra là hai cô gái đảm đang hiếm thấy. Hai cô vừa nhập bọn với chúng tôi đã gây được cảm tình với tất cả mọi người. Hai cô tìm cách lấy nước về và phân phát cho từng người một. Có lẽ cả Thượng đế cũng không thể biết được rằng hai cô đã kiếm ở đâu ra một giỏ lê, ngửi mùi thơm thoang thoảng từ những quả lê chín tỏa ra, sao mà cảm thấy dễ chịu quá! Những quả lê tươi rói!

    Tôi hoàn toàn không biết một chút gì về lai lịch của hai cô, ngoài cái tên Ca-chi-a của một trong hai cô đó. Nhưng tại sao tôi lại chỉ nhắc đến hai cô gái trong số hàng trăm hàng nghìn người tôi đã gặp trong những ngày ấy nhỉ?

    Vì rằng... có lẽ tôi phải nói dông dài, từ đầu câu chuyện.

    Tôi nằm bên cửa sổ toa tàu. Các cảnh vật bên ngoài không ngớt rời xa tôi, lùi về phía sau. Khi đoàn tàu của chúng tôi đã chạy quá một quãng, tôi mới chợt nhìn thấy ba chiếc xe tăng ở bên đường. Đó là ba chiếc xe tăng hạng trung không có gì đặc biệt. Người lính lái xe mở rộng của, nhô đầu ra ngoài nhìn chúng tôi. Vì những người lính ấy không đội mũ nên chúng tôi ngỡ rằng họ là bộ đội của ta. Một lát sau, cửa xe tăng sập đóng và ngay trong cái giây khắc cuối cùng khi cửa xe tăng sập đóng, thật không ngờ, lũ giặc dã man đã xả súng bắn ráo riết vào đoàn tàu cứu thương chở gần một nghìn thương binh.

    Toa tàu rung lên dữ dội, tôi bị văng lên, chân bị thương chạm vào thành tàu đau điếng người. Một cậu còn trẻ chống nạng hốt hoảng, chạy nhốn nháo trong toa tàu, bị mấy người gạt ngã xuống cạnh tôi. Tôi nhìn qua cửa sổ thấy một số thương binh nhảy bừa ra khỏi tàu chạy và ngã vật trên mặt đất gồ ghề. Các khẩu súng trên xe tăng của bọn Đức chĩa nòng về phía họ mà trút đạn.

    Cậu Xi-ma-cốp nằm cạnh tôi cũng len đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Khi hai chúng tôi cùng quay đầu lại và nhìn vào mặt nhau, tôi trông thấy mặt cậu ta tái nhợt.

    - Nhảy tàu thôi!

    - Cũng được, - tôi nói. - Nhưng muốn nhảy thì phải có một thứ tối thiểu: cái chân.

    Chúng tôi cố bò ra khỏi chỗ nằm và nhờ các đồng chí bị thương nhẹ cõng ra đầu toa tàu.

    Tôi cắn răng cố nhịn đau, lăn mình ra khỏi toa tàu với một cảm giác mãnh liệt mà không bao giờ có thể quên được. Nhiều người nằm quanh tôi với những tư thế kỳ quái. Một số khác đang chạy tản ra, và một số nữa chừng ngã vật xuống đất. Tôi đau đớn lặng người và bất lực đứng bên dưới toa tàu.

    Tôi móc khẩu súng lục ra cầm tay - không phải để tự sát, tuy lúc này, trong hàng trăm ý nghĩ lộn xộn cũng có những giây thoáng qua ý nghĩ này. Thình lình cánh tay tôi bị ai đó giữ chật...

    Đó là một trong hai cô gái khi nãy, đúng cái cô có nước da đen hơn và mang tên là Ca-chi-a. Tôi chỉ tay về phía Xi-ma-cốp, cậu ta đang nằm sấp mặt vùi xuống đất ở gần chỗ chúng tôi. Cô gái nhìn cậu ấy một lúc rồi lắc đầu. Xi-ma-cốp bị trúng đạn hy sinh rồi.

    - Mẹ kiếp, tôi chẳng đi đâu nữa cả! - tôi nói với cô gái thứ hai, không biết cô ta từ đâu hiện ra. Giữa mưa đạn ầm ĩ, cô vẫn rất ung dung bình tĩnh. - Mặc tôi, tôi có súng lục. Tôi không thể để chúng nó bắt sống được!

    Nhưng hai cô gái ấy vẫn tóm lấy tôi và kéo đi. Cả ba chúng tôi làn xuống chân đường sắt. Giữa lúc này tôi trông thấy Rô-ma-sốp, mặt anh ta tái xám. Anh ta đang lom khom bò trên mặt đất. Bên cạnh đường sắt có một con mương nhỏ. Chúng tôi cùng Rô-ma-sốp bò dọc theo con mương ấy, phía bên kia con mương là bãi lầy.

    Hai cô gái dìu tôi bò đã có vẻ kiệt sức, tôi nhiều lần van nài hai cô hãy bỏ tôi lại mà thoát thân. Ca-chi-a chẳng những không nghe lại còn gọi Rô-ma-sốp lại giúp chúng tôi. Nhưng anh ta chỉ quay đầu lại nhìn rồi lại tiếp tục bò đi, hai tay lòng khòng chống xuống đất trông như con khỉ.

    Mọi việc xảy ra lúc ấy là như vậy. Nhưng nó diễn ra chậm đến hàng nghìn vạn lần so với lời kể của tôi.

    Cuối cùng chúng tôi cũng đã vượt qua được bãi lầy và nấp trong một cánh rừng bạch dương nhỏ. Chữ "chúng tôi" ở đây là chỉ hai cô gái; tôi và Rô-ma-sốp cùng hai chiến sĩ nhập bọn với chúng tôi ở dọc đưòng. Vết thương của hai chiến sĩ ấy rất nhẹ, một người bị vào cánh tay phải, người kia bị vào cánh tay trái. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 7/6/15
  2. Rafa

    Rafa SV

    Chương 7

    TRONG CÁNH RỪNG BẠCH DƯƠNG NHỎ HẸP​

    Tôi cử hai chiến sĩ ấy đi trinh sát tình hình. Hai người trở về báo cáo rằng, xung quanh đây có gần bốn mươi chiến xa và một số xe nấu ăn dã chiến không biết vừa từ đâu tới. Vấn đề đã rất rõ ràng: những chiếc xe tăng vừa bắn vào đoàn tàu chúng tôi thuộc một đơn vị lính dù rất lớn.

    - Tất nhiên, bây giờ chúng ta đi chân cũng được. Nhưng đại úy không thể đi được thì tốt nhất là dùng xe kiểm tra đường sắt vậy.

    Hai người đã phát hiện ra chiếc xe ấy dưới chân đường sắt bên ngoài ga.

    Trong lúc chúng tôi bàn cách khiêng chiếc xe ấy đặt lên đường sắt, thì Rô-ma-sốp nằm lăn ra đất kêu đau toáng lên. Cũng có thể căn bệnh cũ của anh ta tái phát thật, vì khi hai cô gái vạch áo anh ta ra thì thấy nửa thân bên trái đỏ rần lên. Từ trước tới giờ chưa bao giờ tôi nghe nói đến cái bệnh lạ lùng như thế. Dầu sao đi nữa thì trong tình trạng ấy anh ta cũng không thể cùng đến ga tàu hỏa với hai chiến sĩ trinh sát được. Thế là hai cô gái phải đi thay. Hai cô vẫn bình tĩnh ung dung nói chuyện với nhau bằng tiếng U-cra-in, giọng trong trẻo dễ thương.

    Trong cánh rừng bạch dương nhỏ bé, giờ chỉ còn lại mỗi mình tôi và Rô-ma-sốp.

    Anh ta bị ốm thật hay giả vờ? Chắc là không phải giả vờ.

    Anh ta quằn quại vật vã một lúc, sau đó rên la rất dữ rồi đột nhiên nín lặng. Tôi gọi anh ta:

    - Rô-ma-sốp!

    Anh ta nằm lặng không lên tiếng, cũng không động đậy. Vòm ngực nhô lên rõ cao và chiếc mũi trắng bệch, giống hệt như một xác chết. Tôi lại gọi anh ta lần nữa, anh ta rên lên một tiếng rất yếu ớt, tuồng như giờ đây anh ta đã sang tới ranh giới cái thế giới hoàn toàn im lặng; nên không thể quay trở về với cái cánh rừng bạch dương nhỏ bé đang bị bọn Đức vây gắt này được nữa.

    - Bị một cơn dữ dội thật! - Anh ta gượng cười, nói giọng thều thào.

    Rồi anh ta hé mắt ra, lập cập đứng dậy, đưa tay run rẩy phủi những chiếc lá bạch dương bám trên mặt.

    Ngày hôm nay tuy rất căng thẳng nhưng cũng rất đơn điệu, nếu đem so sánh với nhũng sự kiện đã xảy ra trong buổi sáng ngày thứ hai, thì ngày hôm nay thực là vô vị. Chúng tôi chờ đợi, chờ đợi không một giới hạn nào. Tôi nằm trên lớp lá cây mục đã trải trên mặt đất từ mùa đông năm ngoái, còn Rô-ma-sốp thì ngồi xếp chân như kiểu ngồi của người Thổ Nhĩ Kỳ, đôi mắt giống như mắt chim nhắm nghiền lại. Hai cánh tay gác lên hai đầu gối gầy khẳng khiu như hai đầu thanh củi. Có ai mà biết được anh ta đang nghĩ gì.

    Trong cánh rừng vốn ẩm ướt, lại thêm những đợt mưa mới, trên khắp các cành cây long lanh những giọt nước to nom như những cái gút của chiếc mạng nhện khổng lồ, không ngớt rơi xuống mặt đất. Cũng may, thế này thì chúng tôi sẽ không bị khát!

    Có hai lần ánh mặt trời rọi về phía chúng tôi, lần đầu nó chiếu từ phía bên phải, còn lần sau thì chiếu từ phía bên trái, tựa hồ như vẽ một đường cánh cung. Như vậy là hai chiến sĩ trinh sát và hai cô gái đã ra đi được khoảng ba tiếng đồng hồ rồi.

    Cô gái có tên là Ca-chi-a ấy, trước lúc đi đã lót chiếc ba-lô của cô xuống dưới đầu tôi. Khi sửa lại chiếc ba-lô để được gối cao hơn, tôi nghe có tiếng kêu lạo xạo ở trong đó. Có lẽ đó là giấy gói bánh mì chăng? Rô-ma-sốp lại rên lên thảm thiết, lần này anh ta kêu đói toáng lên, tôi đe anh ta phải im lặng nhưng chẳng ăn thua gì.

    - Bọn họ không quay trở lại nữa đâu, - một lúc sau anh ta nói, giọng rền rĩ. - Họ bỏ rơi chúng ta lại đây rồi.

    Cơn đau của anh ta đã qua, bây giờ anh ta đã có thể đứng dậy đi lại. Mặc cho cành cây chằng chịt, anh ta đi băng qua từ góc này đến góc kia, nhiều khi phơi mình ra giữa quãng trống, rất dễ làm lộ mục tiêu.

    - Tại anh cả thôi. - anh ta ngồi xổm bên cạnh tôi, rít lên. - Anh đã sai lầm khi cử tất cả mọi người đi, mà lẽ ra là phải đế lại một cô gái.

    - Để làm con tin à?

    - Đúng thế. Bây giờ thì coi như xong đời rồi! Bọn họ sẽ không bao giờ quay lại đón chúng ta đâu. Xe kiểm tra đường sắt chỉ có thể chở được bốn người thôi.

    Hình như lúc ấy tôi không được tĩnh tâm lắm nên đã rút súng lục ra và chỉ vào mặt Rô-ma-sốp nói rằng, nếu anh ta còn nói những lời thô bỉ ấy ra nữa thì tôi sẽ bắn chết anh ta. Anh ta thôi không nói nữa, nhưng mặt đuỗn ra và chắc là đã phải tự kiềm chế rất nhiều để khỏi bật ra tiếng khóc.

    Nói tóm lại là tình hình rất gay go. Ánh hoàng hôn đã lén lút len vào cánh rừng mà các cô gái vẫn chưa về. Cố nhiên là tôi không có ý nghĩ đê tiện như Rô-ma-sốp cho rằng họ đã lên xe kiểm tra đường sắt thoát thân, bỏ rơi chúng tôi lại đây. Lúc này đây tốt nhất là chớ có nghĩ đến việc họ có trở về hay không.

    Tôi ngước mắt nhìn bầu trời mênh mông đang mỗi lúc một thay sắc xám. Những cành lá bạch dương đung đưa đẫm nước rời xa tôi dần. Tôi không nghĩ tới Ca-chi-a, nhưng có một cảm giác đặc biệt ấm áp, êm nhẹ bốc ra từ trong tim, khiến tôi cảm thấy "Ca-chi-a". Đó là một giấc mơ. Nếu trong giấc mơ ấy không có hình bóng Ca-chi-a thì tôi đã phá vỡ nó rồi. Tuy không biết rõ được vì sao phải thức giấc dậy, song tôi cũng có cảm giác rằng lúc này không được ngủ. Có một cảm giác hết sức lộn xộn quay đảo trong đầu óc tôi. Tôi ngỡ rằng đây là đất Tây Ban Nha, hoặc đây là bức thư tôi gửi đi từ Tây Ban Nha gì đó. Lúc này không phải là lúc đang đánh nhau mà là lúc tôi đang ở trong một vườn cây ăn quả ở ngoại ô Va-len-xi-a. Bà cụ chủ vườn sau khi biết chúng tôi là người Nga cứ lúng túng mãi không biết để chúng tôi ở đâu và đối đãi với chúng tôi thế nào. "Dẫu sao em cũng hãy nhớ rằng, - mặc dù lúc nào tôi cũng nghĩ rằng Ca-chi-a ở ngay bên cạnh tôi, song tôi vẫn viết câu này, - em vẫn được hoàn toàn tự do, không bị ràng buộc bởi một thứ nghĩa vụ nào".

    Trong lúc này hai chân bị ướt đầm của tôi lạnh cóng và chiếc áo khoác đắp trên người đã tuột hẳn ra ngoài, tôi vẫn lưu luyến giấc mơ. Tôi cầm chặt tay Ca-chi-a, tôi không muốn rời giấc mơ này ra. Nhưng một việc đáng sợ đã xảy ra, buộc tôi phải tỉnh dậy ngay.

    Tôi mở mắt ra, thấy ánh bình minh rạng rỡ chiếu rọi sáng cả cánh rừng. Mặt và hai cánh tay tôi đều bị ướt đẫm. Rô-ma-sốp vẫn ngồi với tư thế cũ ở một chỗ cách tôi không xa lắm. Mọi thứ hầu như vẫn như cũ, nhưng thực ra đã thay đổi rất nhiều.

    Anh ta không nhìn tôi. Một lát sau, anh ta liếc mắt nhìn nhanh về phía tôi, vẻ mất tự nhiên. Tôi chợt hiểu tại sao vừa rồi tôi có cảm giác khó chịu đến như thế. Hắn đã ăn cắp chiếc ba-lô có bánh mì tôi gối dưới đầu, cùng cái túi đựng bình-tông nước và súng lục.

    Tôi có cảm giác máu dồn lên mặt nóng bừng bừng. Hắn dám ăn cắp cả súng lục của tôi!

    - Đồ súc vật, trả súng lục đây, mau lên! - tôi nói giọng bình tĩnh.

    Hắn lặng thinh.

    - Này!

    - Có gì rồi anh cũng sẽ chết, - hắn nói giọng hấp tấp. - Anh không cần đến vũ khí làm gì nữa!

    - Sống hay chết là việc riêng của tao. Nếu mày không muốn bị tòa án quân sự trị tội thì hãy trả súng lục ngay cho tao, hiểu chưa?

    Tôi bắt đầu thở dốc.

    - Làm gì có tòa án quân sự ở đây! Ở đây bây giờ chỉ có hai chúng ta. Trên thực tế thì anh cũng như người đã chết. Chẳng có ai nghĩ rằng anh còn sống nữa đâu.

    Bây giờ hắn nhìn tôi trân trân chứ không lén lút như lúc nãy nữa. Đôi mắt của hắn sao mà kỳ dị đến thế, tròn xoe và dữ tợn như một kẻ điên.

    - Mày hãy uống một ngụm rượu trong bình-tông đi, - tôi nói. - Rồi sau đó bình tĩnh lại, xem tao là người sống hay chết.

    Nhưng hắn vẫn không nghe theo lời tôi nói.

    - Tao còn nán lại đây là để bảo cho mày biết rằng mày là kẻ cản trở tao, cản trở từng phút từng giở! Tao căm thù mày, căm thù đến điên người lên được!

    Đến lúc này thì rõ ràng là thần kinh của hắn đã mất thăng bằng. Tôi rất tin vào câu nói cuối cùng vừa rồi của hắn.

    - Nhưng bây giờ mọi việc đã kết thúc rồi, kết thúc vĩnh viễn! - hắn nói giọng hằn học và đầy thỏa mãn. - Mày trước sau rồi cũng sẽ chết, rất chóng thôi, có thể là ngay bây giờ, chỉ có thế thôi.

    - Cứ coi là như thế cũng được! - Chúng tôi lúc này cách nhau có ba bước, nếu dùng gậy đánh trúng, tôi có thể đánh gục hắn. Nhưng tôi vẫn cố nói giọng bình tĩnh: - Nhưng mày lấy cả ví của tao làm gì, trong đó chỉ toàn là giấy tờ riêng.

    - Làm gì à? Để khi người ta phát hiện ra mày thì chỉ còn là một cái xác không. Sẽ chẳng có người nào biết mày là ai - hắn nói thiếu mất một chữ trong câu này - xác chết trên vùng đất này nhiều lắm. Rồi mày cũng sẽ là một cái xác như thế thôi, - hắn dằn từng tiếng. - Và sẽ chẳng có ai biết được rằng chính tao là kẻ giết chết mày!

    Lúc này đây, cảnh tượng cũ hiện ra trước mặt tôi, hầu như rất lộn xộn, song tôi không hề thay đổi hoặc thêm bớt một chữ nào. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 7/6/15
  3. Rafa

    Rafa SV

    Chương 8

    Chẳng có ai biết cả​

    Tính tôi nóng nảy từ hồi còn bé. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ cái cảm giác đặc biệt qua những phút ấy. Giờ đây khi nghe những câu nói của Rô-ma-sốp, tôi cũng có cái cảm giác đặc biệt ấy, nó khiến tôi thoáng chút choáng váng. Cần phải tự ra lệnh cho mình tuyệt đối bình tĩnh. Tôi tự hạ lệnh cho mình như thế rồi khẽ đưa tay ra phía sau lưng, cầm chặt lấy chiếc gậy.

    - Mày nên biết rằng tao đã biên thư cho các đồng chí trong đơn vị, - không hiểu sao tôi lại có thể bắt đầu bằng một giọng trấn tĩnh đến như thế. - Vì vậy mày đừng hòng che giấu được sự thật!

    - Thế còn việc đoàn tàu quân sự bị đánh thì sao?

    Hắn đảo mắt nhìn tôi với một vẻ đắc thắng không hề giấu giếm. Hắn muốn nói rằng sau vụ đoàn tàu quân sự chở thương binh bị bọn Đức tập kích, việc giải thích về sự mất tích của tôi là rất dễ dàng. Lúc này tôi chợt hiểu ra, đã từ rất lâu, có thể là từ hồi còn học ở trường tiểu học, hắn đã luôn luôn mong tôi chết.

    - Cứ coi là như vậy đi, nhưng trong việc này mày không thể giành phần thắng được đâu! Tôi biết rằng tôi đang nói những câu không thiết thực. Song dẫu sao cái đó cũng không phải là cái chính, cái chính bây giờ là tìm cách kéo dài thời gian.

    Đống củi bên cạnh cản trở tôi. Cần phải dịch sang một bên thì mới có thể dễ dàng đánh trúng vào thái dương của hắn được.

    - Tao có giành được thắng lợi hay không, điều đó không quan trọng. Chỉ biết rằng mày đã tận số. Tao sẽ giết mày ngay bây giờ. Xem đây!

    Hắn móc khẩu súng lục của tôi ra.

    Nếu tôi tin rằng hắn sẽ giết tôi thật thì có lẽ lúc ấy hắn đã giở cái trò ấy ra rồi. Chưa bao giờ tôi trông thấy hắn phấn chấn như lúc ấy. Tôi nhổ một bãi nước bọt vào phía hắn và nói:

    - Bắn đi!

    Hắn gầm lên, hai hàm răng nghiến chặt lại trông vẻ rất dữ tợn. Nếu tôi không biết thóp đấy chính là những biểu hiện yếu hèn của hắn, thì có lẽ hắn đã dọa được tôi. Sự quay cuồng của hắn lúc này chứng tỏ hắn đang tự đấu tranh rất ghê: bắn hay là không? Khẩu súng lục như nóng lên trong tay hắn, nhiều lần hắn giơ súng lên chĩa về phía tôi, và toàn thân run lẩy bẩy. Lúc này tôi mới thấy chờn, biết đâu trong lúc mất tình bĩnh, ngón tay hắn sẽ chạm phải cò súng...

    - Đồ quỉ bắt! - hắn gào lên. - Lúc nào mày cũng ám ảnh giày vò tao! Mày có biết rằng tao đã ra tay cứu sống mày bao nhiêu lần rồi không? Đồ sống thừa! Nếu như tao có thể... Trời! Mày sống để làm gì, để làm gì kia chứ! Chân mày chắc chắn rồi sẽ bị què và mày sẽ chẳng bao giờ lái máy bay được nữa.

    - Như vậy có nghĩa là việc tao bay trên trời đã cản trở rất nhiều đến sự nghiệp của mày, - tôi cảm thấy giọng nói của tôi rất đáng sợ, song lúc ấy tôi vẫn giữ được bình tĩnh. - Vậy thì chúng ta hãy kết thành đôi bạn thân ở dưới mặt đất vậy.

    Lúc này hắn đứng quay nghiêng người về phía tôi, tay trái đưa lên che mắt, tuồng như vì không thể làm cho tôi chết ngay được mà thất vọng vậy. Đây là thời cơ tốt nhất, tôi cầm chắc chiếc gậy trong tay và ném thẳng về phía hắn. Ném gậy cũng tựa như phóng lao, toàn thân dồn vê phía sau, lấy sức vươn tới trước và bỏ tay ra cho thanh lao bay đi. Những động tác có thể làm được tôi đều đã làm, song rất tiếc, chiếc gậy không chọc đúng vào thái dương mà lại chạm vào vai, và hình như không mạnh lắm.

    Rô-ma-sốp giật mình, hắn thu mình lại như một con chuột rồi chồm lại phía tôi.

    - Khá lắm! - Hắn gầm lên.

    Hắn chậm rãi thu nhặt các thứ cho vào ba-lô, rồi thong thả đi qua cạnh tôi. Hắn cúi xuống nhặt một cành cây, rồi vừa xoay xoay trong tay vừa đi thẳng ra phía đầm lầy. Năm phút sau, cái bóng cao lênh khênh của hắn mất hút trong cánh rừng bạch dương phía trước mặt. Tôi chống hai tay xuống đất ngồi nhỏm dậy, hai mắt ráo hoảnh và nóng phừng phừng như có lửa đốt. Tôi cố ghìm lại để không gọi to lên "Rô-ma-sốp, quay trở lại!" bởi đấy là điều không thể xảy ra được đối với tôi. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 7/6/15
  4. Rafa

    Rafa SV

    Chương 9

    Một mình​

    Bỏ tôi lại một mình trong rừng trong đói rét, tay không một tấc sắt, vết thương nặng đang hành hạ, lại ở sát nách chỗ đóng quân của bọn Đức... Tôi tin chắc rằng đấy là một mưu mô mà hắn đã nghĩ chín từ tối hôm qua. Còn những lời hắn nói và những việc hắn làm vừa qua chỉ là để dọa dẫm và làm nhục tôi mà thôi. Nhưng những tính toán của hắn đã chẳng đi tới đâu, nên hắn đã phải bỏ đi một cách lặng lẽ. Hắn không giết tôi, song hành động này của hắn chẳng khác gì hắn đã giết tôi, thậm chí còn tàn nhẫn hơn thế nữa.

    Tôi không dám nói rằng sau khi bình tĩnh lại, tôi cảm thấy trong lòng được nhẹ nhõm hơn. Cần phải tìm cách rời khỏi nơi này, nếu không thì sẽ đúng như lời Rô-ma-sốp, rằng mãi mãi tôi sẽ phải nằm lại trong cánh rừng bạch dương nhỏ bé này.

    Tôi cố đứng lên. Đôi nạng chống như chiếc cao chiếc thấp. Tôi thử bước lên một bước. Cảm giác của tôi lúc này không phải như bị ai đánh vào gáy, lập tức ngất lịm đi mà tuồng như có hàng trăm nghìn chiếc kim quái dị xăm nát vết thương tôi ra. Lưng cũng đau buốt như bị lưỡi dao lách vào tủy sống. Tôi bước lên bước thứ hai, rồi bước thứ ba.

    - Thế nào, có cản trở được ông không? - tôi nói với những chiếc kim quái dị kia.

    Tôi bước lên bước thứ tư.

    Khi tôi gắng sức ra được đến bìa rừng thì mặt trời đã lên cao. Đã có thể nhìn thấy đám đồng lầy ở phía ngoài khu rừng mà chiều hôm trước chúng tôi đã đi qua. Một con đường nhỏ được vạch ra giữa cánh đồng cỏ, và tôi nhớ lại cảnh lá cỏ bị đè dạt sang hai bên khi các cô gái dìu tôi bò đi.

    Ở bờ bên kia có bóng người đang đi - người mình hay bọn Đức nhỉ? Đoàn tàu của chúng tôi vẫn còn đang cháy. Ngọn lửa dưới ánh nắng mặt trời pha sắc trắng, bò lan theo những tấm gỗ sơn màu đen của thành tàu.

    Chẳng lẽ lại về chỗ tàu bị cháy ư? Về đó để làm gì bây giờ? Tiếng nổ của đạn pháo vọng đến nghe nặng nề và xa lắc, như tận chân trời phía đông, ở phía đông đang có cuộc đánh nhau, vậy thì ở đó chắc chắn có người của ta. Về phía ấy có một ga tàu hỏa gần đây nhất, chừng hai mươi cây số. Nếu như cái việc dò dẫm bước từng bước một và phải chịu bao nhiêu đau đớn của tôi cũng được gọi là đi, thì tôi đang đi về hướng đông.

    Tôi đã vượt khỏi cánh rừng. Phía trước mặt là một vườn cây có quả màu xanh sẫm. Tôi không còn nhớ tên loại cây này, quả của nó tựa như cam châu Âu, có điều to hơn một chút. Thật may mắn, vì đã hơn một ngày đêm tôi chẳng được tí gì vào bụng. Trên thửa ruộng phía sau khu vườn có một vật gì màu đen nằm im không động đậy. Có lẽ là một người chết. Mỗi lần tôi lấy cây nạng khều quả, cái người chết ấy lại khiến tôi băn khoăn suy nghĩ. Sau đó tôi dường như quên đi, nhưng không lâu tôi lại nghĩ tới nó với một cảm giác khá rùng rợn. Mấy quả rơi xuống cỏ, tôi thận trọng cúi xuống nhặt lên, và lúc này lòng tôi nhói lên như bị kim châm: đó là một người phụ nữ.

    Tôi cố lê bước nhanh về phía cô gái.

    Cô nằm ngửa, mặt trông lên trời, hai tay dang rộng ra hai bên. Không phải Ca-chi-a mà là một cô gái khác. Viên đạn xuyên qua mặt cô, đôi lông mày đẹp đẽ co sát vào nhau đầy vẻ đau đớn.

    Trong giây phút ấy tôi chợt nhận ra là mình đang lẩm nhẩm những câu chuyện rất kỳ thú. Tôi sực nhớ ra cái thứ quả màu xanh sẫm giống hệt như cam châu Âu này gọi là gì, nó gọi là gô-nô-bô-ben hay là gô-lu-bi-ca (việt quất nước)(1). Tuy đó không phải là một phát hiện gì ghê gớm, song nó khiến tôi hớn hở hẳn lên. Tôi hứng chí, bắt đầu nói thành lời câu chuyện về cái chết của cô gái này. Rất có thể là cô ta đang trên đường trở lại đón tôi thì bị một loạt đạn của bọn Đức từ trên bờ đất cao bắn xuống. Tôi nói với cô rất nhiều lời an ủi, tôi cố an ủi cô, tựa như cô chưa hề chết vậy.

    Sau đó tôi đã quên cô gái ấy đi. Tôi lê tiếp về phía trước, miệng luôn lẩm bẩm những lời chẳng đâu vào đâu. Đó là những lời gần như nhảm nhí tự nó phát ra chứ không phải do tôi chủ tâm nói tới. Lúc này tôi muốn dứt bỏ ngay những ý nghĩ đó để chống chọi với một ý muốn đang thúc giục tôi là vứt bỏ đôi nạng đi và nằm lăn xuống mặt đất yên tĩnh và hạnh phúc.

    ... Trước khi ngất đi, hình như có một quãng thời gian khá dài tôi chẳng nhìn thấy gì ở chung quanh nữa. Tôi nằm trong một vườn cây ăn quả, đôi mắt mệt mỏi ngắm nhìn một gốc chè to tướng. Nếu cái hình nộm bện bằng cỏ khô kia không lắc lư liên hồi ở bên cạnh tôi thì tốt biết chừng nào. Một chú chim non đỗ lên vai cái hình nộm ấy. Tôi nghĩ, nếu đôi mắt đen tuyền của chú chim kia không chớp nháy thì mọi thứ trên đời sẽ đẹp đẽ biết chừng nào! Tôi kêu lên một tiếng với chú chim nọ. Nhưng tiếng kêu của tôi quá yếu ớt, quá khẽ khàng. Chú chim quay lại nhìn tôi rồi vẫn ung dung chớp chớp đôi mắt và điềm nhiên vỗ nhẹ đôi cánh như không có chuyện gì xảy ra.

    Quả thực là nếu như tôi có thể ghìm giữ lại, không cho mọi vật xung quanh quay đảo nữa thì mọi việc sẽ tốt đẹp biết chừng nào! Lúc ấy chắc chắn là tôi sẽ có thể nhìn thấy rõ ngôi nhà gỗ không quét hắc ín, những bậc tam cấp và cái giá treo gầu cao cao bên cạnh giếng ở giữa sân kia, tất cả nằm ở phía sau một thửa rau xanh rờn. Và chắc chắn là tôi sẽ nhìn thấy bóng người đi lại ở đằng sau khung cửa sổ lúc tối lúc sáng ấy, cái bóng đương hốt hoảng nhìn ra phía cửa sổ.

    Tôi cố đứng lên. Từ đây đến cổng ngôi nhà kia chừng bốn chục bước. Nếu đem so với đoạn đường mà tôi đã đi qua trong ngày hôm trước thì chẳng thấm vào đâu. Thế mà tôi đã phải trả một giá đắt biết nhường nào mới có thể vượt qua bốn chục bước ấy! Tôi đã hoàn toàn kiệt sức. Tôi ngã vật xuống bậc tam cấp, chiếc nạng gỗ va vào bậc thềm vang lên một tiếng kêu chói tai.

    Cánh cửa hé mở. Một chú bé chừng mười hai tuổi ngồi xổm phía sau một chiếc ghế đẩu vuông. Sàn ngôi nhà này rất thấp, bên trên lót một lớp nệm cỏ phủ vải hoa. Tôi nằm liệt trên bậc tam cấp. Trong một lúc khó có thể nhìn thấy rõ diện mạo của chú bé đang ngồi trong nhà tối tăm ấy. Chú ta chĩa súng vê phía tôi, má tì sát vào báng và một mắt nhắm lại như chực nhả đạn vào tôi.

    - Giúp chú với nào! - Tôi nói, và cố sức trấn tĩnh để làm cho ngôi nhà trước mặt tôi không quay đảo nữa. - Chú là phi công bị thương, chú vừa nhảy từ trên tàu hỏa xuống và thoát khỏi vòng vây của bọn Đức.

    - Ki-rin, không được bắn! - Chú bé giữ khẩu súng nói. - Người của mình đấy.

    Lúc này tôi có cảm giác như chính chú bé đã tách ra làm hai, một chú bé khác giống hệt như chú ta thận trọng lách đầu ra khỏi tấm rèm, nhìn ra ngoài. Chú ta cầm trong tay một con dao kiểu Phần Lan, vừa hớp mắt nhìn, vừa thở rất mạnh. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 7/6/15
  5. Rafa

    Rafa SV

    Chương10

    Các chú bé​

    Những việc xảy ra sau đó tôi không còn nhớ rõ nữa. Những ngày sống với các chú bé ở đây tôi cảm thấy như mình sống trong luồng hơi nước ấm áp. Mà đấy cũng là sự thực vì ở đây có một chiếc lò hơi ba chân kiểu Nga được các chú đun nước sôi sùng sục suốt ngày. Nhưng ngoài ra hình như còn có một thứ hơi nước khác nữa, rất lạ và không thể nhìn thấy được. Nó khiến tôi thở nặng nề và toàn thân toát đẫm mồ hôi. Song có lúc nó lại trở nên hết sức loãng nhẹ, và lúc ấy tôi chợt nhận ra là mình đang nằm trên giường, bên dưới chân bị thương lót rất nhiều gối như một quả núi con. Đấy là cách không cho máu tiếp tục tuôn ra từ vết thương mà các chú đã nghĩ ra được. Bây giờ tôi đã biết tên các chú, một chú gọi là Ki-ra, còn chú kia gọi là Vô-va. Cả hai là con trai của người bẻ ghi đường sắt tên là I-ô-na Pê-trô-vích Le-xcốp. Hôm qua người bố đi ra ga và dặn chúng là phải luôn luôn đóng kín cửa không để cho bất cứ ai vào nhà. Hai chú bé này là anh em sinh đôi - điều đó tôi đã đoán được từ đầu. - Nhưng mỗi khi trông thấy chúng đứng cạnh nhau, tôi lại giật mình ngạc nhiên: tại sao chúng lại có thể giống nhau một cách lạ lùng như thế, đến nỗi tôi ngỡ rằng mình đã nhìn một hóa ra hai...

    ... Trong con người tôi lúc này tuồng như có hai cơ thể đang đấu tranh vật lộn nhau: một cơ thể sảng khoái minh mẫn, nó luôn luôn suy tưởng đến những gì đẹp đẽ của cuộc sống và hồi nhớ lại những kỷ niệm êm đềm đã qua. Còn cơ thể kia thì là một cơ thể bệnh tật, đau đớn, nó luôn luôn nhớ đến những vết thương nặng nề trên người và luôn nuôi chí phục thù, và vì không thể phục thù được nên rất đỗi đau khổ.

    Có lúc, tôi như nhìn thấy một con người cao lớn, râu xồm xoàm bước vào ngôi nhà này và tiến về phía chỗ tôi nằm. Ông ta bị cóng lạnh, đến nỗi không thể cài nổi chốt cửa. Nhưng ông ta không phải là bác sĩ I-van I-va-nứt mà chính là tôi. Tôi kiệt sức ngã vật ra bậc tam cấp, cánh của hé mở, hai chú bé ngắm súng về phía tôi, và sau đó một chú kêu lên: "Người của mình đấy!"

    Tôi cứ nghĩ rằng sở dĩ các chú bé đối xử với tôi tốt đến như thế là vì trước kia tôi và em gái tôi đã từng cứu sống bác sĩ. Lúc ấy anh em chúng tôi còn là những đứa trẻ mồ côi cô đơn, bị ném vào một làng quê hẻo lánh ngập đầy tuyết.

    Có lúc tôi lại thấy mình đang nấp ở bên dưới toa tàu, tay cầm súng lục và răng nghiến lại vì tức giận. Một số người nằm rải rác quanh tôi, hai tay dang rộng một cách mất tự nhiên. Tôi đã làm gì? Tôi đã phạm lội lỗi gì mà buộc tôi phải từ bỏ cái quí giá nhất, không thể thiếu được trong một đời người? Tại sao lũ giặc lại xô vào đất nước tôi và lại dám bắn một cách dã man vào những người bị thương? Chẳng lẽ trên đời này không còn có công lý, không còn có lương tâm, không còn những lẽ phải mà từ hồi còn bé tôi đã được học ở trường, đã quen tôn trọng và yêu thương nữa sao?

    Tôi cố trả lời những câu hỏi ấy, mà không tài nào trả lời nổi, vì hơi thở của tôi lúc này lại yếu hẳn đi. Hai chú bé đăm đăm nhìn tôi lo lắng và luôn mồm nói rằng nếu bố chúng về thì chắc chắn ông sẽ có cách làm cho tôi khỏe lên.

    Người bố quả đã trở về thật. Không còn nghi ngờ gì nữa, người này chính là ông ta. Vì cũng như hai đứa bé, ông cũng có một dáng vẻ vụng về tương tự, một khuôn mặt dài giống hệt nhau và một đôi mắt màu xanh thẳm sáng ngời ngợi. Khi ông buông thõng tay, hơi khom lưng đứng bên cạnh tôi nằm, đôi mắt ông chợt sáng lên.

    - Bọn lính nhảy dù Đức đã bị đánh tan, - ông nói. - Chúng ta đã bao vây chặt chúng ở cạnh ga "Sen mới". Tất cả bọn chúng đều đã bị diệt sạch, không một mống nào chạy thoát.

    Sau đó ông ngồi lặng đi một lúc, chau mày nhìn tôi. Tôi nghĩ bụng, chắc bệnh tình của mình nguy ngập lắm nên người khác mới nhìn bằng con mắt thương xót như thế. Sau đó ông hỏi tên tuổi, cấp hàm của tôi, thở một hơi dài não ruột rồi ghi tất cả vào một mảnh giấy con và treo lên tường cho khỏi quên. Tôi kéo tay người bẻ ghi đường tàu hỏa và bắt đầu kể cho ông nghe một cách hào hứng về cuộc đón tiếp tôi của hai chú bé. Hình như tôi đã nói quá nhiều và bị nhầm lẫn nhiều chỗ nên ông đắp lên trán tôi một vật gì mát rượi và khuyên tôi cần phải ngủ một giấc thật ngon.

    - Ngủ đi, ngủ đi đã!

    Tôi biết rằng nếu lúc này tôi ngủ say thì ông sẽ rất hài lòng, vì thế tôi liền nhắm mắt lại và nằm im, giả vờ như đã ngủ. Trong đầu óc tôi lúc này vẫn còn in rõ nét những cảnh tượng mà tôi vừa kể cho người bẻ ghi đường sắt nghe. Nó không chỉ bó hẹp trong ngôi nhà nhỏ này mà bao gồm cả những cảnh tượng ở nơi xa xôi vô cùng tận.

    Tôi mường tượng thấy có hàng nghìn hàng vạn ngôi nhà nhỏ giống như ngôi nhà này. Có hàng nghìn hàng vạn chú bé ngồi xổm sau những chiếc ghế đẩu vuông, và từ đó đều chĩa ra những khẩu súng. Lại thấy có hàng nghìn hàng vạn chú bé tay cầm dao nấp sau tấm rèm vải hoa. Trên những bình nguyên của nước Nga vĩ đại, từ chân trời bên này đến chân trời bên kia, từ những góc tối trong những ngôi nhà tối mịt, có rất nhiều chú bé đương sẵn sàng chờ địch. Chỉ cần lũ giặc dẫn xác đến là sẽ bị tiêu diệt ngay. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 7/6/15
  6. Rafa

    Rafa SV

    :rose:
    Chương 11

    Câu chuyện về tình yêu

    Nếu có thổ vì cuộc đòi là một con dường dài như các nhà thơ thường nói, thì trên con đường dài ấy, hễ cứ mỗi lần gặp một chỗ rẽ ngoặt, nguy hiểm, tôi đểu tìm thấv một người chi đường rất chính xác. Chỗ rẽ ngoặl lần này trong cuộc đòi tôi. sơ dì khác VỚI nhữnự lần trước, chi vì ngươi cứu tôi là một ngưòi bẻ ghi đưòng sát. nghề nghiệp, chức trách của ông là bảo đảm an toàn giao thông, điều chỉnh tàu xe chạv đúng đường.

    Tôi nghi lại trong nhà ông hai ngàv hai đêm, lúc tỉnh, lúc mê. Lần nào mơ mắt ra tôi cũng nhìn thấy người đàn ông có vẻ mặt buồn buồn, không bao giờ chịu rời khỏi chỗ nằm của tôi một bước. Có lúc ông lại biến thành chú bé có đôi mắt sáng rực đã từng đón tiếp tôi lúc đầu. Chú bé ấv cũng ngồi liên miên bên cạnh tôi. giữ chặt tôi lại trong ngôi nhà bé nhỏ và thấp kín này. Không ai chịu buông tôi ra. để tôi đi sang thế giới bên kia. Nếu đúng như lời tường thuật của báo “Chim ưng đỏ” thì hầu như tôi đã đi dạo một lượt trong cái thế giới ấv.

    Tâ't cả mọi thòi gian, lúc tỉnh cũng như lúc mê, tôi đều không nghĩ đến Rô-ma-sốp. Đó là diều hết sức tốt đối vối tòi. Phải chăng đó là bản năng tự vệ? Có lẽ đúng thế. Vì nghĩ tới hắn tôi sẽ càng bị kiệt sức hơn.

    Sau khi đường sắt được khôi phục, ngươi bẻ ghi đường sắt dùng xe kiểm tra (rõ ràng đây là chiếc xe mà hai cô gái Xta-ni- xláp không thể nào tìm ra) đưa tôi đến Da-ô-de-re. Ba đôi mắt xanh lam cùng ánh lên, ngượng nghịu từ biệt tôi. Tôi lại một lần nữa được đi tàu cứu thương, và lần này mới đích thực là tàu cứu thương, có nhà tắm, có loa phóng thanh, có phòng đọc sách. Tói tắm xong, được thav băng mới, ăn một bụng thật đẫy rồi gác chân bị thương lên băng treo, đánh một giấc dài qua hết miến trung nước Nga. Tóm lại là được hưởng đúng chê độ điểu trị khoa học. Khi tôi tinh dậy thì con tàu đã đến một vùng nào đó ở ngoại vi thành phô Ki-rôp. ở miền hậu phương này, như ở một thế giói khác, điều đầu tiên khiến tôi ngạc nhiên là các eửa sổ không có tấm rèm đen che ánh đèn. Trong giây phút đó tôi chợt nhớ tới một việc gì đã từng xảy ra giữa tôi vối Rô-ma-sôp.

    Tôi nhổ tới cuộc nói chuyện giữa hai ngưòi trong ngày đầu tiên sau khi xe tăng bọn Đức tấn công vào đoàn tàu chở thương binh.

    - Cậu cần phải tự nhận thấy rằng, trong đài cậu, cậu đã làm nhiều việc đê tiện, - tôi nói. - Những việc đó, đôi với riêng cậu cũng hết sức đê tiện.

    - Cứ cho là như vậy cũng được, ' hắn đáp lời một cách lạnh lùng. - Nhưng đê tiện là cái gi kia chứ? Tôi COI cuộc đời như một trồ đùa. Ngay lúc này đây cũng thế thôi. Chẳng phải vị thần vận mệnh đã trao tận tay chúng ta tấm thẻ số phận đó sao?

    Nêu không có cuộc rút lui này thì hắn làm sao có thể đánh cãp dược tài liệu *1' cũng như súng lục của tôi, và bỏ rời tôi trong giữa rừng bạch dưdng hoang vang.

    Tôi phân tích các hành VI của hắn từ các góc độ khác nhau, như kiểu mộl quan tòa.

    Tỏi nhớ lại toàn bộ mối quan hệ từ trước đến nav giữa tôi với hắn. Đấy là một câu chuyện hếl sức phức tạp. đặc biột là việc hắn đã từng thực tâm định cưới Ca-chì-a làm vợ (bây giò nghĩ lại cũng thấv việc ấy không thể nào xảy ra được).

    Hắn đã cam tâm đế mất Ca-chi-a rồi ư? Điều đó tôi không rõ. Han đã lây một người phụ nữ tên là A-lép-ti-na Xéc-ghê-ép-na làm vợ. bà Ni-ca Ca-pi-tô-nôp-na kể lại ràng, trong lễ cưài hắn đã uông rượu đến say nhèm và khóc nức nở. Khi nghe bà Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na kể lại câu chuyện này, Ca-chi-a cỏ vẻ rất khó xử. mặt đỏ lên. Tại sao như vậv? Phải chãng qua câu chuyện ấy nàng đoán rằng Rô-ma-sốp vẫn còn vêu mình chăng?

    Khi han chĩa súng lục vào tôi và gầm lên: “Mày nén biết rằng kẻ nào cứu sống mày là kẻ đê nhục!” thì có lẽ hắn đã quên hết mọi thứ trên đời.

    Song rốt cuộc ai là kẻ đê nhục?

    Rõ ràng là tòa án quán sự sẽ không khó khăn gì khi tìm ra một điều luật thích hợp để xử bắn tên sĩ quan hậu cẩn Rô-ma- sôp này.

    Song, trên thế giói này, có thê nào tìm ra một tòa án mà lòi phán quyêt của nó lại không đếm xỉa gì đến lương tâm không? Trong phiên xử của tòa án ấy. bị cáo sẽ tự nhận rằng:

    - Vâng, đúng là tôi đã có ý định giết nó.

    Sau đó lại nói thêm:

    - Nhưng- tỏi đã không giẽt nó. vì người đàn bà mà tôi yêu SC không thổ nào chịu đựng 1101 cái tin nó bị chết!

    Không có một tòa án nào như thế! Hắn không giết tôi, chẳng phải vì tình yêu sâu nặng của hắn đôi vổi Ca-chi-a, mà chính vì hắn non gan thô;! Khôn khổ, tình yêu là gì lại như thế! Tình yêu khiến cho người ta Ircỉ nên cao thượng và trong sạch. Tình yêu đem đến cái mới mẻ và diều dẹp đẽ. Tình yêu không cần đến sự cầu xin, tự nó sẽ làm cho cơn người trở nôn dáng yêu và lương thiện. Chang lẽ tình yêu của hắn lại như thế hay sao?

    Không, đấy không phải là tình yêu. Có ai mà biết được cái thứ tình cảm phức tạp ấy của hắn là thứ tình cảm gì. Trong thứ tình cảm ấy, tình dục hòa lẫn với lòng hư vinh bị sứt mẻ cùng với những tính toán khác nữa. Tôi tin chắc rằng trong lòng của con người ti tiện này không có lúc nào không quanh quẩn với những tính toán ích kỷ. Song tôi vẫn cố tưởng tượng đến cái tòa án không thể có trong thực tế kia.

    Tôi ne'hr rằng thầy I-van Pa-vơ-lứt sẽ phán tội Rô-ma-sốp, vì леи không phải là nguỶi ■ nay nghiêm khắc này của chúng tôi thì còn ai có thể phán xử lì-;'Tỏi mường tượng thấy cảnh thầy I-van Pa-vơ-lứt mặc bộ qi ;■) áo làm việc dày cộp đang ngồi trong gian phòng cá nhân. Chòm, râu bạc trắng của ông rung rung, đôi mắt nghiêm nghị nhìn phía trước. Ổng ngồi ở phía sau chiếc bàn, Rô-ma-sốp đứng ngay phía trước mẳ ông, hai mắt hắn nhắm nghiền lại như kẻ đang ngủ say. Hắn đinh ninh rằng tôi đã chết từ lâu. Vì thế người thầy cừ của chúng tôi nói gì, hắn cũng trơ ra, bình chân như vại!

    Nhưng trong phòng còn có một người nữa. Nàng luôn chân đi đi lại lại trong phòng, chốc chốc dừng lại hơ đôi lay vào lò sưởi. Người phụ nữ ấy là một nhân chứng. Nàng vừa hơ tay, vừa đăm chiêu suy nghĩ...

    Nữ nhân chứng của tôi giờ đây sao mà ở cách xa tôi đến thế! Nào ai biết được rằng nàng có còn sống hay không. Đã hơn hai tháng nay tôi không được chút tin tức nào về nàng. Hai tháng của mùa thu năm 1941 ấy xiết bao gian khổ!

    Nàng sống trong một thành phố đang bị bao vây kín bốn bề. Chúng tôi đã từng dự định với nhau rằng, nếu sau này có điều kiện, sẽ xây dựng cái tổ ấm của mình ở đấy. Giờ đây lũ giặc đương tìm cách phá tan thành phố này. Để bức những người dàn kiên cường không chịu khuất phục của thành phố phải chết đói và chết rét, chúng mang xi-măng từ bên Đức sang xây công sự kiên cố và ngày đêm dồn dập nã pháo vào thành phố. Hầu như suốt ngày đêm mặt sông Nê-va được soi sáng bởi ánh pháo của giặc. Chúng cố tìm cách ngăn chặn những con tàu chở lương thực tiếp tế đến cho thành phố. Chúng chủ tâm làm cho Ca-chi- a của tôi phải chết trong cái thành phố ấy.
     
    Last edited by a moderator: 7/6/15
  7. Rafa

    Rafa SV

    :rose:
    Chương 12

    Trong Quân у viện

    Tôi vẫn thường hình dung Quân у viện như thế này: bó hoa hồng trên chiếc bàn đêm, những căn phòng sáng trưng, những cô у tá điềm tĩnh đi lướt qua giữa các giường bệnh như những bóng ticn. Chính tôi cũng không rõ ấn tượng ấy đã từ đâu đến với tôi, có lẽ từ một quyển tiểu thuyết nào đó chăng. Trong thực tế, Quân у viện giản dị hơn nhiều.

    Đây là một tòa nhà lớn, trong đó đầy những bệnh nhân. Trên hành lang, thậm chí cả trong nhà ăn (tuy nhà ăn là một gian phòng xép) đều chật ních các giường bệnh. Trước kia đây là trường Đại học Y khoa, bây giờ trên tường vẫn còn treo những bức vẽ phân bố thần kinh trong cơ thể con người. Bộ mặt của những con người trong bức vẽ trông thực đáng sợ, một nửa mặt bị lột mất da, để lộ những sợi thần kinh chằng chịt. Trong tủ kính còn giữ lại bảng thời khóa biểu và tờ in mệnh lệnh của đồng chí chủ nhiệm khoa.

    Tôi nằm ngay trong gian phòng trước dùng làm hội trường. Đây là một phòng bệnh khí lớn một chút. Tôi cảm thấy như đầu bên kia của gian phòng bị che mờ bởi một làn sương loãng và xa đến nỗi không sao nhìn rõ được. Mà thực ra cũng đúng như vậy. Những tia ánh sáng mặt trời rọi vào căn phòng rộng có vẻ run rẩy e ngại, như bị trùm trong sương mù dày đặc. Có đến gần một trăm con người nằm trong phòng này, hầu hết là chiến sĩ. Tôi không mang giấy tờ gì theo người và trong khi đơn vị chưa gửi chứng minh thư đến chứng nhận rằng trên đời này còn có một đại úy là tôi; nên tôi phải nằm chung với anh em chiến sĩ. Song chỗ khác biệt duy nhất là chúng tôi được phát thuốc lá rời, còn các sĩ quan thì được nhận thuốc lá vấn.

    Trong phòng bệnh của chúng tôi, có rất nhiều người từ khắp các mặt trận đến. Không ít người đã từng chiến đấu ở mặt trận Lê-nin-grát. Mùa đông năm ấy, câu chuyện kể của những người đến từ mặt trận Lê-nin-grát làm cho người ta lo lắng.

    Trên đường về đây tôi gửi cho Ca-chi-a một bức thư, và sau khi vào viện, hầu như ngày nào tôi cũng biên thư cho nàng. Tôi không gửi về nhà Be-ren-stanh ở phố Pê-trô-grát, mà gửi cho Pê-chi-a qua đường dây bưu điện quân đội, hoặc gửi thẳng đến Học viện Quân y; vì hồi giữa tháng bảy, trong một bức thư gửi cho tôi, Ca-chi-a nói rằng cô ấy và Va-ri-a Trô-phi-mô-va cùng công tác trong Học viện Quân y. Đường tàu hỏa tuy không nối liền với Lê-nin-grát nhưng thư từ thì có thể dùng máy bay chuyển đi. Tôi không rõ là tại sao thư tôi gửi không đến nơi. Tôi không biết rằng trại nhi đồng của Viện bảo tàng nghệ thuật đã sơ tán về vùng Xi-bê-ri, nên thư gửi về nhà cho bà tôi toàn phải gửi qua người khác, rồi nhờ chuyển hộ. Chỉ có một điểm tôi có thể tự an ủi được, là nếu Ca-chi-a gặp điều không may thì thế nào cũng có người viết thư báo cho tôi biết...

    ... Ngày hai mốt tháng Hai năm 1942, đấy là một ngày rủi ro mà tôi sẽ mãi mãi ghi vào tâm khảm. Một chi hoạt động xã hội (tất cả mọi người trong quân у viện đều gọi những người phụ nữ tự nguyện đến chăm sóc chúng tôi bằng một cái tên chung như thế) chạy đến, kể cho chúng tôi nghe cảnh đón tiếp học sinh trường kỹ nghệ vừa được tàu hỏa đưa từ Lê-nin-grát đến. Chị ta có vẻ rất nghiêm nghị. Một lần, chị ta nói rằng chồng và con của chị đều đã hy sinh ngoài mặt trận. Khi nói những câu ấy thái độ của chị vẫn rất bình thản, khiến tôi rất đỗi ngạc nhiên. Nhưng khi kể rằng chị đã bế con từ trên tàu hỏa xuống, thì lại khóc òa lên.

    Ngày hôm ấy tôi phải cố gắng lắm mới tự buộc được mình ăn hết một bữa cơm. Chân bị thương của tôi đã bó bột hơn một tháng nay, hôm nay đột nhiên nhức nhối không tài nào chịu nổi. Bác sĩ quyết định soi điện cho tôi.

    Một là, kết quả soi điện chỉ rõ rằng xương chân của tôi nối lại không khớp, nên cần phải bóc thạch cao ra, và nắn lại xương, nghĩa là phải làm lại từ đầu. Hai là, đưa tôi vào nằm một tiếng rưõi đồng hồ trong phòng mổ lạnh cóng để mổ lại chân: và có lẽ vì thế, tôi bị cảm lạnh. Đến tối, thân nhiệt của tôi lên cao và tôi bắt đầu nói nhảm.

    Nói tóm lại là tôi bị viêm phổi. Và thế là rất trở ngại cho cuộc mổ lần thứ hai, các bác sĩ đều lo tôi bị què.

    Tôi đã viết quá lộn xộn về tình hình bệnh tật của mình. Thực ra đấy là một đề tài quá khô khan và vô vị, nhất là khi nghĩ rằng mới sau ba tháng khai chiến, mình đã bị thương, chưa kịp làm nên công cán gì.

    Tôi chưa kịp làm nên công trạng gì. Nhưng trong thời gian ấy, như báo chí nước ngoài nói, xuất hiện “một chuyện lạ bên thành phố Mát-xcơ-va". Cách Mát-xcơ-va ba trăm cây số về phía tây, một cái chân người mang giày đinh đã lạnh cứng bị vùi trong tuyết. Tôi chưa kịp làm nên công trạng gì, nhưng công việc của các đội hàng không hải quân tầm xa vừa được tổ chức lại vẫn tiến nhanh; trong những công việc đó không có phần của tôi. Tôi có cảm giác như đã mười lăm năm rồi tôi chưa được bay trên mặt biển! Tôi chưa kịp làm nên công trạng gì, tôi cảm thấy dường như cái cảm giác chiến tranh trong con người tôi đang ngày một mai một đi, và bao nhiêu việc vô nghĩa của cuộc sống bệnh viện đương ngày một tăng lên.

    Ở những trang trước: tôi đã viết về chuyện đơn vị gửi giấy chứng minh đến cho tôi. Sau khi nhận được chứng minh thư, tôi nhận được thư của Mi-sa Gô-lôm-bơ. Anh ta là bạn cũ của tôi. Trước đây khi còn học ở trường hàng không, sau khi thành lập ngành hóa học hàng không quốc phòng, chúng tôi đã từng cùng nhau lái loại máy bay "quan tài”. Khi đọc đến tên ký ở cuối thư, tôi thực không tin ở mắt mình. Nhưng đây đích thực là Mi-sa, hiện nay cậu ấy đương phục vụ trong trung đoàn của chúng tôi. Cậu ấy đến trung đoàn sau hai ngày khi báo chí đăng tin tôi hy sinh.

    “Xa-nhi-a, cậu làm tớ hết cả hồn! - Cậu ta viết. - Cậu nên nhớ rằng điều làm cho tớ kinh ngạc không phải là bức thư của cậu gửi đến, tỏ rõ cậu vẫn còn sống: mà là cái tin cậu bị hy sinh vì máy bay bị cháy trước đây. Bởi vì một con người như cậu tớ tin là không thể hy sinh dễ dàng như thế. Và cậu thử nghĩ xem, bây giờ đây, tất cả mọi người, trong đó kể cả cậu, sẽ không có ai phản đối mẩu tin đã từng được đăng trên báo trước đây. Hồi ấy ai cũng viết một dòng chữ trên lựu đạn của minh "Trả thù cho Gri-gô-ri-ép". Cho nên tuy đã chết rồi, cậu vẫn còn tiếp tục chiến đấu, Đồng chí đại tá có nói rằng sẽ đề nghị tặng huân chương Cờ đỏ cho cậu. Cậu hãy cho mình chức mừng cậu, chúc cậu hạnh phúc, hạnh phúc mãi mãi”.

    Đầu mùa xuân, tôi bắt đầu tập đi, hay nói một cách chính xác, tôi bò ra ngoài vườn hoa nhỏ của bệnh viện để chơi. Đến lúc này tôi mới được nhìn thấy bộ mặt của thành phố mà tôi đang sống ở đó hàng nửa năm qua. Tuy tôi chỉ nhìn thấy con đường rợp bóng cây bồ đề ở trước mặt. Nhưng từ con đường này, hầu như tôi nhìn thấy được bộ mặt của toàn thành phố, về sau, khi được phép ra phố chơi - lúc đầu tôi phải chống nạng, sau chỉ cần một chiếc gậy - tôi mới biết rằng những điều tôi hình dung trước đây rất gần với sự thật. Đây là một thành phố quang quẻ, yên tĩnh. Tất cả những đường phố tương đối đẹp đều như cất lên, vươn ra phía bờ sông M. Nhìn những cảnh này tôi lại nhớ đến những bờ đá bên dòng sông Pét-trin-ca và sông Chi-khai-a ở nơi quê nhà. Trước đây tôi có bay qua bầu trời của thành phố này đôi ba lần, nhưng chưa có dịp nào ghé lại.

    Sau khi đoàn ca kịch và đoàn múa ba-lê của Lê-nin-grát sơ tán về đây, tôi có đến nhà hát xem họ biểu diễn. Khi tấm màn kéo lên, nhìn thấy các diễn viên nam nữ ăn mặc đẹp đẽ, ung dung và uyển chuyển trong các động tác biểu diễn, tuồng như không hề có chiến tranh xảy ra. Một cảm giác kỳ lạ xâm chiếm tâm hồn, khiến tôi nghĩ rằng thời gian đang chảy ngược lại.

    Lẽ ra việc tôi xem hát không đáng viết ra trong sách này. Nhưng có một sự việc trong cuộc sống lại cứ móc xích vào nhau như những bánh xe trong lòng chiếc đồng hồ. Trong khi xem vở “Hồ thiên nga”, tôi chợt nhìn thấy I-li-na A-nhi-a, vợ của một bạn đồng ngũ của tôi khi còn ở Viễn Đông. Tôi và Ca-chi-a rất mến I-li-na. Cả hai người đều rất điềm đạm, lịch sự, sõng cởi mở, chồng cũng như vợ đều say mê sân khấu và thể thao, đặc biệt là môn quần vợt. Tôi còn nhớ mãi hình ảnh I-li-na mặc chiếc áo liền váy màu trắng và trong tay cầm chiếc vợt. Nhưng cũng vì hai người quá lễ độ, đối với ai cũng thưa hay gửi giống như một đôi vợ chồng lý tưởng trong tiểu thuyết nên nhiều người không gần gũi và íl tin tưởng ở họ. Song tôi và Ca-chi-a thì bao giờ cũng nghĩ rằng họ là những người hoàn toàn xứng đáng được hưởng hạnh phúc lý tưởng. Nhiều người bàn luận rằng I-li-na gặp vận đỏ. Quả thế thực, chuyện gì anh ta cũng gặp may. Cái vận đỏ ấy kéo dài mãi cho đến thời kỳ chiến tranh. Khi chiến tranh nổ ra, anh ta là trung tá, nhưng đến mùa xuân năm 1942 thì đã trở thành thiếu tướng rồi.

    Khi gặp nhau trong rạp hát, tôi và I-li-na đều hết sức mừng rỡ, hẹn sẽ gặp lại nhau vào ngày hôm sau ở nhà chị ấy. Chị là người chính gốc địa phương này. Sau khi chiến tranh bùng nổ, chồng chị đã đưa chị cùng đứa con gái về nhà mẹ.

    Đây là một gia đình chưa hề bị tang tóc vì chiến tranh. Sau thời gian ra mật trận và nằm bệnh viện, đây là lần đầu tiên tôi gặp một gia đình như thế. Chúng tôi ngồi trong phòng ăn. Trên bàn ăn trải một tấm khăn. Trên tường treo mấy bức phù điêu tinh vi. Mặt đi-văng phủ tấm dạ khâu tay. Rõ ràng là tất cả những thứ này đều còn lại từ trước chiến tranh và được giữ gìn, xếp đặt như cũ. Tôi nhìn người thiếu phụ hồn nhiên đôn hậu xinh đẹp ngồi trong gian phòng lộng lẫy này mà trong lòng nhói lên nỗi nhớ thương Ca-chi-a của tôi.

    - Nếu được trở về Lê-nin-grát, dù chỉ vài ba ngày, nhất định tôi cũng sẽ tìm được Ca-chi-a. Tôi tin là cô ấy vẫn ở Lê-nin-grát. Nhưng nghiệt nỗi là họ không cho phép tôi. Đơ-mi-tri đang ở Mát-xcơ-va phải không nhỉ?

    (1) I-lin là chồng của I-li-na.

    - Vâng.

    Người thiếu phụ hiểu ngay dựng ý của tôi khi tôi hỏi chồng chị.

    - Aih ấy có thế giúp anh được đấy. Tôi sẽ viết thư cho anh ấy ngay bây giờ. Cần anh ấy làm cái gì nhỉ?

    - Bảo anh ấy điều tôi về Mát-xcơ-va vậy, - tôi nói. - Nếu không thì Hội đồng giám định Y khoa sẽ ném tôi về hậu phương mất.

    - Bao giờ hội đồng giám định у khoa đến đây.

    - Tháng năm.

    - Thế thì tốt rồi. Tôi sẽ có đủ thì giờ nhận thư trả lời của Mi-chi-a. Việc này anh ấy sẽ phải liên hệ với ai?

    - Với Phòng Cán bộ tổ chức quản lý phi công thuộc Hội đồng Nhân dân hải quân.

    Người thiếu phụ ghi vào quyển sổ tay: “Phòng Cán bộ tổ chức...”

    - Đáng tiếc là anh không thể bay trực tiếp từ đây đến Lê-nin- grát được. Trên tuyến đường này, trước có loại máy bay “Đu- giál” vẫn chở khách đi về. Nhưng hiện nay không còn nữa. Song có lẽ sắp tới sẽ có trở lại. Chỉ cần sân bay khô ráo là có thể khai trương. Lúc ấy thế nào tôi cũng sẽ tìm cách giúp anh.

    Tôi cám ơn chị và tỏ ý rằng nếu được như vậy thì không còn gì hơn nữa. Song trên đời này lại có một quyển “điều lệnh” tai ác, mà trong đó qui định rõ ràng rằng tất cả các phi công sau một thời gian tương đối dài không lái, nay muốn lái lại thì phải qua kiểm tra và được cơ quan chuyên môn phê chuẩn.

    Thế nhưng, thực hoàn toàn không ngà, chỉ sau đó mấy ngày, tôi đã thoát ra khỏi sự ràng buộc cứng nhắc của quyển điều lệnh ấy. tha hồ muốn bay đi đâu thì bay.
     
    Last edited by a moderator: 7/6/15
  8. Rafa

    Rafa SV

    :rose:
    Chương 13

    Bản án

    Đối với tôi, Hội đồng Giám định у khoa cũng là một thứ tòa án. Lần nào ở trước mặt cái tòa án này tôi cũng phải thú nhận rằng mình có tội. Vì tôi sinh ra không được là một chàng trai cao lớn đẫy đà, vai rộng ngực nỏ cằm vuông. Khi bị lột hết quần áo và đứng trình diện trước mặt hội đồng, tôi lại có cái ý nghĩ không lấy gì làm hào hứng ấy. Tôi co chân hạ thấp người xuống, nhắm mắt lại và đưa thẳng hai tay ra phía trước. Tôi cố sức giữ để hai tay không bị run. Sau đó kiểm tra sức hoạt động của cái chân bị thương rồi phải đứng từ thật xa để đọc những dòng chữ cái nhỏ li ti. Cuối cùng một bà bác sĩ tóc đã hoa râm đến nghe tim tôi, đồng thời dùng ngón tay hết gõ vào ngực lại gõ vào lưng tôi. Rõ ràng là trong ngực tôi có cái gì đó làm cho bà ta không hài lòng. Bà dừng lại, cau mày, rồi lại gõ một lượt nữa như thử đàn dương cầm. Sau đó bà ra lệnh:

    - Thở mạnh!

    Khi đến Hội đồng Giám định у khoa, điều làm tôi lo lắng hoàn toàn không phải là cái phổi. Tuy hồi bé tôi có bị cúm Tây Ban Nha và sau đó bị biến chứng, nhưng phổi vẫn rất tốt. Thế mà bây giờ, không biết tại sao cùng chính cái phổi ấy lại làm cho bà thiếu tá bác sĩ già nghi ngờ. Bà ta hết gõ vào ngực tôi, lại xoay người tôi qua lại như cái máy; tuồng như bà muốn chứng minh rằng tôi đã bị ốm, đã bị ốm... Và không thể nào tiếp tục bay được nữa.

    Tôi giấu cái ý nghĩ đáng sợ rằng không thể tiếp tục bay được nữa vào góc kín nhất của tâm hồn. Tôi giấu kín nó và dùng những sự việc hàng ngày để che lấp nó. Song cái ý nghĩ ấy vẫn không chịu chết, nó cũng chẳng chịu rời đi chỗ khác, mà cứ bám chặt vào một chỗ nào đó bên cạnh nỗi nhớ thương Ca-chi-a để giày vò tôi.

    Nhưng lúc này đây, khi tôi đứng trần trước Hội đồng Giám định у khoa, tất cả các vết thương trên chân và trên lưng đều để lộ ra ngoài thì cái ý nghĩ trên kia cũng càng lộ ra rõ rệt không tài nào giấu giếm nổi, dù đối với tôi hay đối với người khác. Hình như một nữ bác sĩ đã đọc được cái ý nghĩ ấy từ trong đáy mắt của tôi, nên tuy bà cầm bút lên, bà lại lưỡng lự khi viết những lời kết luận về sức khỏe của tôi. Cuối cùng bà phải đưa tấm phiếu khám cho chủ tịch hội đồng. Vị bác sĩ to béo đeo kính lão liền cầm búa nhỏ gõ vào các khớp xương và xương vai của tôi. Tiếng búa gõ vang lên lúc cao lúc thấp, như đang cất tiếng hỏi:

    - Anh bị bệnh phổi rồi phải không? Bệnh rồi phải không? Anh không thể tiếp tục bay được nữa phải không?

    - Bình tĩnh, đồng chí đại úy, - vị bác sĩ già nói. Ông ngước mắt nhìn tôi và đeo ống nghe vào tai. - Chỉ cần điều trị thêm ít lâu nữa thì rồi sẽ tốt cả thôi.

    Ông nghe tim tôi một lúc rồi ghi một số ký hiệu lên phiếu khám. - Xong ông nói với tôi, giọng rất thân mật,

    - Mọi việc rồi sẽ tốt cả thôi.

    Nhưng ông lại cho tôi nghỉ hẳn nửa năm. Tôi biết rất rõ rằng trong nhũng năm như năm 1942 ấy mà Hội đồng Giám định y khoa lại quyết định cho một chỉ huy bộ đội chiến đấu nghỉ dài hạn như thế, thì đủ biết tình trạng sức khỏe của tôi như thế nào rồi.

    Khi tôi trở về quân y viện, sắc mặt hình như không được bình thường. Người nằm bên cạnh tôi là một đồng chí ở lục quân, tuy hai chân anh không còn nhưng sau mỗi lần anh tắm xong và được khiêng từ trong nhà tắm ra, sắc mặt anh hồng hào đến nỗi khiến ai cũng phát ngạc nhiên. Lúc này, anh ta bỏ quyển sách đang cầm trên tay xuống, ngước nhìn tôi và chẳng hỏi han gì cả. Sau đó một lúc, tưởng như không ghìm được, anh ta hỏi tôi:

    - Này, thế nào?

    Rõ ràng là trong lời kết luận, các bác sĩ không hề viết rằng tôi đã bị tàn phế, nhưng không hiểu sao tôi đã trả lời với anh ta đúng như thế. Bữa cơm trưa hôm ấy tôi đã cố gắng ăn hết, nhưng chẳng thấy ngon chút nào. Tuy lúc này tôi rất muốn nằm và vùi đầu vào gối, nhưng tôi lại đi ra ngoài. Trong lời kết luận không có chữ ấy thì người ta nghĩ ngợi đến nó làm gì? Mỗi lần nghĩ đến tình hình sức khỏe của mình, tôi lại cảm thấy đau khổ và khó chịu như phải nhúng đầu vào trong vũng bùn bẩn.

    Lẽ ra lúc ấy tôi phải nói khó với họ, nói khó với người bác sĩ già đã dùng búa gõ vào các khớp xương của tôi và trước sau chỉ nói mỗi một câu rằng tôi không thể tiếp tục bay được nữa. Hay tôi cần phải yêu cầu họ chuyển tôi sang cho Hội đồng Giám định у khoa của quân đội giám định lại nhỉ?

    Tôi đi theo con đường dốc đến bờ sông Ca-ma. Tôi huýt sáo mồm nhưng cố thật khẽ để không ai nghe thấy. Ở đây, trên bức tường của trường Hàng không lớn nhất thành phố, tôi lại một lần nữa đọc những dòng chữ trạm trên mặt đá: “Nhà khoa học, nhà phát minh vô tuyến điện Nga thiên tài Pô-pôp đã từng học ở đây”.

    Tôi bước khập khiễng từng bước lên bờ sông vừa cao vừa dốc, dòng sông Ca-ma đẹp đẽ bày ra trước mắt tôi. Lúc này thủy triều đang xuống, màu nước nhờ nhợ, chẳng ra xanh cũng chẳng ra vàng. Đằng kia là bến tàu, là chiếc ca-nô kéo theo đằng sau chiếc sà-lan to kềnh. Tiếng còi tàu ồn ã cùng với tiếng người lao xao lan trên mặt nước, ra tận nơi xa...

    “Rất tiếc là anh không thể bay từ đây đến Lê-nin-grát được. Nếu không thì tôi đã có thể giúp anh”.

    Không sao, rồi mọi việc sẽ tốt lành cả. Hãy chuồn lên máy bay thôi, chẳng cần thủ tục phê chuẩn gì cả! Bây giờ thì mày sẽ phải chuyển từ ghế của người lái xuống ghế hành khách rồi. Ghế ngồi êm lắm, hãy ngã người ra và nghỉ ngơi cho thật khỏe!

    Hình như tôi đã buột miệng nói ra những lời đó, vì một nhóm “học sinh công nghệ” đang đứng trên bờ sông - họ mặc những bộ quần áo và đội những chiếc mũ rộng thùng thình - bỗng nhìn tôi cười rộ lên và bám theo sau tôi một đoạn đường. Việc đó khiến tôi chợt nhớ đến cảnh tôi cùng Ca-chi-a về En-xcơ sau khi tôi từ Tây Ban Nha trở về. Có một đám trẻ con En-xcơ bám theo sau lưng tôi và bắt chước mọi động tác của tôi. Khi tôi dừng lại và vào quầy hàng mua thuốc lá, chúng cũng dừng lại và vào mua cùng một loại thuốc lá ấy. Tôi muốn bơi, liền tiến ra bờ sông, để Ca-chi-a ỏ lại trong vườn hoa nhà thờ, tôi cởi áo quần và nhảy xuống nước. Bọn chúng cũng đến một chỗ cách tôi không xa, cởi áo quần và nhảy xuống nước. Lúc ấy tôi là một phi công vừa chiến đấu từ Tây Ban Nha về, trên ngực đỏ rực những chiếc huân chương cờ đỏ. Còn bây giờ?

    Những ngón tay của tôi run lên, nhưng tôi vẫn cố vấn xong điếu thuốc và châm lửa hút. Tôi đứng trơ ra hồi lâu trên bờ sông, nhìn cuộc sống nhiều vẻ và hoàn toàn xa lạ đối với tôi đang diễn ra trên mặt sông kia. Một chiếc tàu khách màu xám chạy lướt qua. Tôi đọc được tên của nó “Li-a-pi-đép-xki” và nghĩ bụng: “Tại sao mình không là Li-a-pi-đép-xki nhỉ?” Lát sau, một chiếc tàu khác không lớn lắm lại chạy qua, tên của chiếc tàu này là “Ca-ma-nin”, tôi lại nghĩ bụng: “Anh chàng xấu số ơi, anh cũng không được là Ca-ma-nin đâu!” Chiếc tàu “Ma-du-rúc” đang cập vào một bến xa, tôi bất giác bật cười và nghĩ, nếu tất cả các chiếc tàu này đều mang tên các phi công nổi tiếng thì có lẽ tôi sẽ tự than thân trách phận đến hết đêm mất.

    Dù sao đi nữa thì bây giờ cũng không có ai ngăn nổi tôi đáp máy bay về Lê-nin-grát để tìm Ca-chi-a hoặc để biết rõ rằng nàng đã vĩnh viễn rời khỏi tôi.

    Tôi chầu chực chờ máy bay đã đến ba tuần lễ. Không rõ vì tôi đã quen với bệnh của mình hay vì niềm hy vọng đã len vào tim và nói với tôi những lời êm ái, rằng mọi việc rồi sẽ trôi qua êm đẹp, mà bây giờ đây tôi đã dần dần bình tĩnh trở lại và bắt đầu sống với những tình cảm và ý nghĩ quen thuộc trước đây của mình.

    Lúc này đây mọi ý nghĩ của tôi đều dồn vào Ca-chi-a. Khi nghe đài phát thanh phát đi khúc nhạc Ca-chi-a hằng ưa thích: “Bản tình ca của Ni-na”, tôi lại nhớ nàng. Khi xem các thương binh biểu diễn, tôi lại cũng nhớ đến nàng. Trước đây chúng tôi ít đi xem hát với nhau quá. Trong phòng bệnh rộng lớn, mọi người đều đã ngủ say, chỉ có tiếng thở, tiếng rên cùng tiếng nói mê. Lúc này tôi lại chớ đến Ca-chi-a.

    Cuối cùng A-nhi-a I-li-na đã gọi điện đến bệnh viện báo cho tôi biết là máy bay đã tới. Chị giới thiệu tôi làm quen với đồng chí phi công. Anh ta là một thiếu tá cao to được Bộ tư lệnh Mặt trận Lê-nin-grát cử bay đến thành phố này. Anh vui vẻ nhận đưa tôi về Lê-nin-grát.
     
    Last edited by a moderator: 7/6/15
  9. Rafa

    Rafa SV

    :rose:
    Chương 14

    Tôi đi tìm Ca-chi-a

    Thế là tôi đã phải nằm lì dưới mặt đất đến hơn sáu tháng trời nay! Làm sao có thể diễn đạt được cảm xúc của tôi khi rời mặt đất bay lên bầu trời? Mọi thứ vẫn không khác xưa. Chỉ có điều là khi tôi nghĩ rằng đây là lần đầu tiên mình phải đi máy bay với tư cách là một hành khách thì tôi bỗng cảm thấy buồn khổ vô cùng. Qua nhiều năm bay, tôi có cảm giác ở trên không dễ chịu hơn ở mặt đất. Tôi nhìn qua cửa sổ máy bay với những ý nghĩ hết sức vui vẻ. Bên dưới là những cánh đồng màu xám; những quãng sông lấp lánh quanh co cùng những cánh rừng xanh tốt. Tôi khoan khoái đi vào buồng lái, tuy ở đây không được rộng rãi, song tôi cảm thấy hết sức quen thuộc và thoải mái. Tôi hồi hộp chờ xem anh bạn phi công của tôi sẽ cho máy bay tránh cơn dông như thế nào. Chúng tôi gặp cơn dông này ở trên bầu trời Tre-ra-pốp-xe. Cơn dông này tạo ra một cảnh tượng đẹp vô cùng, các tầng mây sáng rực lên, mang những màu sắc lộng lẫy như cảnh trang trí trong cung điện và những ánh chớp liên tiếp lao đến xé tung chúng tôi. Tôi bất giác nhớ đến những ngày đầu liên tôi mới “đặt chân” lên bầu trời. Đấy là những chuyến bay không đơn giản nhẹ nhàng chút nào.

    ... Tôi vô tình bắt gặp chiếc ô-tô đến Bác-ga-đốp-ca để chở báo “Sự thật”. Tôi xin đi nhờ đến phố Li-tây-nưi. Từ đây trở đi chỉ có thể đi bộ, hoặc phải chờ chiếc tàu điện số Ba là chiếc tàu điện duy nhất còn chạy trên phố Pê-trô-grát. Nhưng những hành khách đang đứng chờ tàu nói rằng: “nếu chờ, có khi phải mất hàng tiếng đồng hồ”. Một đồng chí thiếu tá cứ nhất định giữ tôi lại chờ tàu vì thấy tôi mang một cái ba-lô nặng trĩu. Đấy là ba-lô đựng thực phẩm tôi mang đến cho Ca-chi-a. Lúc này trong đầu tôi chỉ có một ý nghĩ, rằng cuối cùng tôi và Ca-chi-a đã cùng ở trong một thành phố. Giờ phút này nàng đang làm gì. Ngóng chờ tôi hay nằm liệt trên giường bệnh, hay đã từ giã cõi đời từ lâu rồi? Tôi không sao biết được, Những ý nghĩ đè nặng lên ngực tôi làm tôi tức thở và không thể nào có đủ bình tĩnh đứng chờ tàu được.

    Tôi đi như chạy trên con đường hẹp dọc theo vườn hoa. Tôi hiểu rõ những gì tôi đang nhìn thấy; những khẩu Cao xạ được ngụy trang đặt trong vườn hoa nằm giữa quảng trường Mác-xốp, một màu xanh nhạt khác thường bao phủ khắp nơi mà từ xưa đến nay chưa bao giờ có như thế ở Lê-nin-grát. Cả thành phố được quét dọn rất sạch sẽ, trưóc khi đến đây tôi có đọc một mẩu tin nói rằng vào mùa thu năm 1942 đã huy động hơn ba mươi vạn người dân Lê-nin-grát dọn sạch thành phố. Nhưng tất cả những gi tôi đã nhìn thấy kia lại cũng chỉ tập trung vào một điểm: hiện nay Ca-chi-a ở đâu và tôi sẽ tìm được nàng không? Tôi thấy mặt kính trong các khung cửa sổ đều bị vỡ nát, các tòa nhà đứng im lìm và như buồn bã nhìn xuống. Tôi chợt nghĩ, có lẽ mình không tìm được Ca-chi-a mất. Và kìa trên tất cả các bức tường đều có vết đạn làm rạn nứt, thì chắc là tôi sẽ không tìm được Ca-chi-a. Nhưng sau đó tôi lại cảm thấv là tôi sẽ tìm được Ca-chi-a vì ngay cả trên quảng trường có đài kỷ niệm Xu-vô-rốp cũng trồng đầy dưa và rau. Chúng xanh tốt mượt mà vô cùng, tuồng như điều kiện thiên nhiên ở đây là thích hợp nhất đối với chúng. Tôi đi ra phía bò sông Nê-va, bất giác đưa mắt nhìn lên đỉnh tòa nhà lâu đài của Bộ Hải quân. Tôi không biết tả cái cảm giác của mình trong giờ phút này như thế nào. Cái đỉnh của tòa nhà Bộ Hải quân như được vẽ lên trên một bức tranh cũ kỹ, đã phai hết màu. Song nó không tách rời khỏi hình ảnh của Ca-chi-a. Khi bắt đầu chiến tranh, chúng tôi đã phải xa nhau một cách đột ngột. Nhưng trong chuyến chia tay lần khác để tôi đi Tây Ban Nha, bây giờ tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Lúc này đây tôi lại như nhìn thấy Ca-chi-a, nàng đứng trong gian phòng ngoài sáng lờ mờ của bà Be-ren-stanh giữa những chiếc áo khoác lông và áo măng-tô. Phải làm gì bây giờ để mọi việc có thể lặp lại như trước đây? Để tôi lại có thể ôm nàng vào lòng và nàng lại có thể hỏi tôi: “Xa-nhi-a, anh đấy ư? Có phải là anh thật đấy không?”

    Từ xa tôi đã nhìn thấy ngôi nhà của Be-ren-stanh. Ngôi nhà vẫn nằm nguyên ở chỗ cũ và có điều lạ là tôi cảm thấy nó đẹp hơn trước rất nhiều. Các cửa sổ đều còn nguyên lành, phía mặt chính của ngôi nhà rất tráng lệ, đẹp đẽ, mầu nước sơn mới tinh lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời. Nhưng càng đến gần tôi càng không yên tâm trước cái vẻ đẹp thần bí của nó. Tôi bước thêm lên mười bước, mười lăm bước, rồi hai mươi bước nữa. Như có một bàn tay nào đó chộp mạnh lấy trái tim tôi, giữ chặt hồi lâu rồi bỏ ra. Tim tôi lồng lên thình thình... Ngôi nhà. thực ra không còn nữa. Những cái vừa rồi tôi nhìn thấy chỉ là hình vẽ trên một bức tranh ghép rất lớn mà thôi.

    Giữa những ngày hè dài đằng đẵng này, trong tai tôi luôn vọng lên tiếng đại bác từ xa dội đến lúc to, lúc nhỏ, tựa như tiếng va chạm đinh tai của một tảng đá lớn bị kéo đi.

    Tôi đi tìm Ca-chi-a suốt cả ngày.

    Tôi gặp một thiếu phụ mặt hình tam giác, nưóc da xanh mướt ở bên cạnh một ngôi nhà đổ nát, chị bày tôi đi tìm gặp bác sĩ о- va-ne-xi-an, ủy viên Xô Viết quận. Một ông già người Ác-mê-ni- a hiền lành, râu không cạo và tóc bạc phơ ngồi trong phòng làm việc trước kia là của rạp chiếu bóng “E-lít” (bây giờ là nơi đóng trụ sở của cơ quan Phòng không phu phố và Bộ tư lệnh Phòng chống chất độc hóa học). Tôi hỏi ông có biết Ê-ca-tê-ri-na I-va- nốp-na Ta-ta-rí-nô-va Gri-gô-ri-ê-va không, ông trả lời rằng tất nhiên là có biết và thậm chí hồi đầu chiến tranh ông còn mời cô làm у tá giúp việc cho ông nữa.

    - Kết quả thế nào ạ?

    - Cô ấy không đồng ý, mà lại đi tham gia đào chiến hào. - bác sĩ nói. - Rất tiếc là từ đó về sau tôi không gặp cô ta đâu nữa.

    - Bác có quen bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na không ạ?

    Ông nhìn tôi bằng đôi mắt nhân từ của người già, khẽ cắn môi rồi nói:

    - Anh là người thế nào vớii bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na?

    - Chỉ là người quen thôi ạ.

    - À.

    Ông im lặng một lúc lâu.

    - Chị ấy là một người đàn bà kiệt xuất, - ông thở dài nói. - Chúng tôi đưa chị ấy đến bệnh viện, nhưng không kịp, chị ấy đã hy sinh rồi...

    Tôi quay trở về góc sân của ngôi nhà đổ nát. Mặt chính của nó đã hoàn toàn sụp đổ, nhưng phía nhìn ra góc sân này vẫn còn nguyên. Chính tôi cũng không biẽt vì cớ gì mà lúc ấy tôi đã bước theo dãy cầu thang đầy vôi vữa và gạch vụn lên tầng hai. Từ đây trở lên, có nhiều thanh sát tủa ra ngăn ngang lối, chỉ từ tầng ba trở lên mới có vẻ sạch sẽ thông suốt hơn.

    Cô em gái yêu quí của tôi đã từng sống trong ngôi nhà này. Chúng tôi đã từng chúc mừng nhân ngày lễ cưới của nó, cũng ngay trong ngôi nhà này. Hồi ấy tôi còn là sinh viên. Trường Hàng không, mặc quần áo màu xanh công nhân, luôn đắm chìm trong niềm hạnh phúc của những ước vọng sẽ được tham gia vào những phát hiện lớn và hầu như ngày nghỉ nào tới cũng có mặt ở đây. Lần nào về Lê-nin-grát, tôi và Ca-chi-a cũng đều trú ngụ ở ngôi nhà này, và bất cứ lúc nào, trong những ngày sống chung với nhau, chúng tôi cũng là đôi bạn gần gũi, thân thiết nhất.

    Trong thời gian tôi chiến đấu ở Tây Ban Nha, Ca-chi-a đã sống trong ngôi nhà này hơn một năm trời. Trong thời gian bị bao vây, nàng lại đã có lúc sống ở đây, nàng chịu đựng đói rét, cố gắng công tác, giúp đỡ mọi người: nàng phân phát cho mọi người tấm lòng thanh khiết và ánh sáng của sức mạnh tâm hồn mình. Bây giờ nàng ở đâu? Nỗi lo lắng siết chặt lấy lôi. Tôi cắn chặt răng, cố không để bị run.

    Giữa lúc ấy, tôi nghe có tiếng gọi của trẻ em. Đó là một chú bé khoảng mười hai tuổi; nước da đen bủng vừa hiện ra giữa khe hở của bức tường vỡ ngay trên đầu tôí.

    - Đồng chí chỉ huy, đồng chí tìm ai đấy ạ?

    - Em ở đây à?

    - Vâng.

    - Một mình?

    - Sao lại một mình ạ, em ở cùng với mẹ em chứ.

    - Mẹ em có nhà không?

    - Có ạ.

    Em bé chỉ lối cho tôi đi, một mảnh gỗ hẹp được lót trên bức tường để làm lối đi - Mấy phút sau tôi bắt đầu nói chuyện với mẹ em, một người đàn bà có đôi mắt sưng và trông dáng rất mệt mỏi. Bà ta vừa nói: tôi đã nhận ra ngay là người Tác-ta. Bà ta vốn là công nhân quét dọn ở số nhà 79 và dĩ nhiên là bà rất quen thuộc Rô-da-li-a Na-u-mốp-na và Ca-chi-a.

    - Khi nhà số 9 bị sập, cô ấy liền đi đào đất cứu sập, - bà ta nói về Ca-chi-a, và chú bé nói tiếng Nga rất sõi chen vào giải thích rằng “nhà số 9” chính là cửa hàng thực phẩm số chín. - Cô ấy đã cứu được một người quen có bộ tóc đỏ, về sau người này sống ở nhà cô ấy.

    - Chị ấy đã cứu được một ngưòi quen tóc đỏ, - chú bé nhanh nhẩu xen vào giải thích. - về sau người này sống trong nhà chị ấy.

    - Một bà già thứ hai bị chết. Kha-kim đã đi chôn bà ấy.

    - Bà già thứ hai ấy là chị của bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na, - chú bé giải thích, - Còn Kha-kim là em. Sau khi bà ấy chết, mọi người đã đưa bà ấy đến nghĩa trang công cộng ở Xmô-len-xcô-e và chôn ở đấy. Anh gì tóc đỏ cũng đến đấy. Chính anh ấy đã nhờ chúng em. Anh ấy cũng là bộ đội, là thiếu tá.

    Bây giờ đã đến lúc phải hỏi thăm tình hình của Ca-chi-a. Tôi cảm thấy rất đáng sợ, nhưng cuối cùng tôi cũng đã hỏi. Người đàn bà lắc đầu có vẻ giận dữ, bà nói rằng chính bà trong thời gian qua đã phải nằm viện ròng rã ba tháng trời. Lúc ấy bà đã tìm người đến nhà trông nhà hộ nhưng chẳng tìm được ai cả. Khi bà ta trớ về thì ngôi nhà của bà Rô-da-li-a Na-u-môp-na đã trống hoang trống hoác.

    - Có lẽ nên hỏi thăm Hợp tác xã Quản lý nhà đất xem, - bà ta ngừng lại suy nghĩ một lúc rồi nói tiếp. - Nhưng người của Hợp tác xã đều chết cả rồi. Hay là cô ấy đã đi đâu rồi chăng? Cái anh chàng bộ đội được cô ấy cứu mang theo người một ba-lô rất lớn, trong đó đựng đầy bánh mì. Lúc nào anh ta cũng kè kè сái ba-lô bên lưng, không chịu đưa cho tôi cầm. Tôi bảo anh ta; “Anh là con người ích kỷ, bần tiện. Chúng tôi đã cứu sống anh. Anh không nên chỉ nghĩ có bánh mì, mà phải nghĩ đến chuyện báo đáp nữa chứ. Anh cần phải đọc kinh cầu nguyện đi!”

    Tất cả tình hình mà tôi biết được chỉ có thế. Khi ngôi nhà của Rô-da-li-a Na-u-môp-na bị đánh phá, Ca-chi-a không còn ở đấy nữa. Tôi còn nói chuyện với mấy phụ nữ khác, bà nào cũng cảm động chảy nước mắt khi nhắc lại việc Ca-chi-a đã giúp đỡ các bà như thế nào. Kha-kim gọi đám bạn của nó đến, đứa nào cũng trách cái anh chàng tóc đỏ nào đó đã hứa sẽ trả “công chôn cất” người chết ba trăm gam bánh mi, nhưng sau đó gã lại nuốt lời hứa, chỉ trả có hai trăm gam cho mỗi đứa.

    Có trời mà biết được cái gã tóc đỏ mang hàm thiếu tá ấy là ai. Pê-chi-a ư? Nhưng Pê-chi-a không phải là thiếu tá? Vả lại không thể nào tưởng tượng được rằng Pê-chi-a lại có thể ăn quịt một trăm gam bánh mì của lẽ trẻ đang bị đói kia. Thôi, mặc xác hắn ta là ai! Dù sao thì người ấy cũng đã giúp bà Rô-da-li-a Na-U- mốp-na chôn cất bà chị xấu số chu đáo. Chưa biết chừng trong những ngày gian nan này, anh ta cũng đã từng giúp đỡ Ca-chi- a? Trong buổi đưa đám ma, Ca-chi-a cũng ở bên cạnh anh ta. Ca-chi-a đã đi bộ từ nhà đến nghĩa trang công cộng, như thế đủ biết sức khỏe của nàng không đến nỗi tồi lắm. Và từ đó trở đi, không ai ]Ịầ'm thấy nàng nữa, không biết nàng đã chết hay còn sống.

    Lúc này đã quá năm giờ, đầu nhức buốt khó chịu, tôi mệt mỏi đi vê phía học viện Quân у. Cả học viện dã rút về khu an toàn từ ngày đầu chiến tranh, chỉ để lại bộ phận bệnh viện trực thuộc, và giờ đây cái bệnh viện trực thuộc ấy đã trở thành bệnh viện hậu phương. Khoa Răng Hàm Mặt, nơi Ca-chi-a làm việc cũng để lại. Tôi được dẫn vào văn phòng. Một bà đánh máy chữ từa tựa giống dì Đa-sa nói rằng lúc ấy tình trạng sức khỏe của Ca-chi-a rất kém, nên bác sĩ Trô-phi-mô-va đã giúp cô rời khỏi Lê-nin-grát.

    - Đi đâu kia ạ?

    - Cái đó thì tôi chịu, không biết.

    - Bác sĩ Trô-phi-mô-va có còn ở Lê-nin-grát không ạ?

    - Chị ấy ra mặt trận rồi, - người đàn bà đánh máy chủ đáp. - Từ đó đến nay tôi không biết một chút tin tức gì về hai người.
     
    Last edited by a moderator: 7/6/15
  10. Rafa

    Rafa SV

    :rose:
    Chương 15

    Cuộc gặp gỡ nhà địa lý thủy văn Rế

    Giờ đây tôi mới vỡ lẽ rằng những ý nghĩ trước đây của mình là quá ngây thơ. Suốt cả nửa năm qua tôi viết thư đều đặn cho Ca-chi-a, tuy không nhận được một lời đáp lại, song tôi luôn luôn tin rằng khi tôi đến Lê-nin-grát thì nàng sẽ chờ sẵn ở cửa và giơ hai tay ra đón tôi. Tuồng như cái mùa đông khủng khiếp của năm 1941, những toa tàu chở đầy trẻ em, những bệnh viện đặc biệt thiết lập khắp nơi dành riêng cho dân Lê-nin-grát, giờ đây không còn tồn tại nữa. Tuồng như tôi chưa bao giờ trông thấy những bộ mặt có đôi mắt sưng mọng, giàn giụa nước. Và tuồng như tôi cũng không hề nghe thấy những tiếng vọng ầm ĩ của đại bác lúc từ phía đông, lúc từ phía tây truyền đến.

    Tôi ngồi trong văn phòng khoa Răng Hàm Mặt vừa suy nghĩ miên man, vừa nghe những lời kể của người đàn bà đánh máy chữ. Bà ta kể rằng dạo ấy bà bị đói đến nỗi không còn đủ sức đứng dậy nữa. Bỗng một chiến sĩ hải quân trẻ tuổi giống như đúc đứa con trai đã hy sinh của bà chạy đến, đưa cho bà ba trăm gam bánh mì.

    - Sẽ tìm được E-ca-tê-ri-na I-va-nốp-na thôi, - bà ta nói. - Trước đây cô ấy chiêm bao thấy có một con chim ưng rất to bay đến. Tôi bảo rằng đấy là điềm báo chồng cô sẽ đến, nhưng cô ấy không tin. Đấy anh xem, tôi nói có sai đâu. Bây giờ tôi cũng nói với anh rằng chắc chắn sẽ tìm được cô ấy!

    Vâng, có thể tìm được. Tôi im lặng nhìn người đàn bà, nghĩ bụng: "Lúc ấy mình sống ở bên ngoài rất đầy đủ, còn Ca-chi-a thì phải vật lộn với cái chết”. Người dàn bà không ngớt an ủi tôi rằng “thế nào cũng tìm được Ca-chi-a”. Mình được mọi người quan tâm, được chạy chữa chu đáo. Còn Ca-chi-a? Đến nỗi một trăm gam bánh mì cũng không có để trả công cho lũ trẻ đã giúp nàng chôn cất bà Béc-ta. Tôi suy nghĩ rất lung, lẽ ra lúc đó tôi phải kiên quvết giữ lấy ý kiến của mình và bay đến Lê-nin-grát vào hồi tháng Giêng. Như thế có lẽ sức khỏe của tôi còn khá hơn bây giờ, có lẽ tôi đã tìm và cứu được Ca-chi-a của tôi.

    Song có hối hận với việc đã trôi qua cũng muộn rồi. Trong một bức thư gửi từ Lê-nin-grát đến cho tôi, Ca-chi-a viết: “Em cũng như tất cả mọi người”. Bây già tôi mới hiểu hết ý nghĩa của cái câu đơn giản ấy.

    Rõ ràng là người đàn bà này đã phải trải qua nhiều đau khổ hơn tôi. Bà luôn miệng an ủi tôi. Tôi xin bà một cốc nước nóng rồi lấy thịt khô ra biếu bà. Trong thời gian này, thứ ấy ở Lê-nin-grát rất hiếm.

    Từ giờ phút đó, người tôi luôn bị bàng hoàng. Bất kể làm gì, nghĩ gì, tôi đều liên tưởng đến Ca-chi-a.

    Những ngày còn ở trong thành phố tôi đã cố vắt óc, nhớ lại hầu hết các số điện thoại của tất cả những bạn bè quen biết của tôi ở Lê-nin-grát. Thế mà bây giờ, từ trong bệnh viện gọi đi, tôi chẳng được ai trả lời cả. Tuồng như tất cả mọi số điện thoại đều bị rơi vào một khoảng không bí ẩn của Lê-nin-grát. Cuối cùng tôi giở đến số điện thoại duy nhất còn lại mà tôi không dám tin là đúng. Tôi cầm chặt ống nghe chờ hồi lâu, từ bên kia đầu dây vang lên những tiếng loạt xoạt, sau đó bỗng vang lên một giọng nói rất miễn cưỡng:

    - A-lô, ai có việc gì thế? - Giọng một người đàn ông trầm trầm.

    - Xin cho tôi hỏi...

    Tôi nói tên một người.

    - Tôi đây.

    - Tôi là phi công Gri-gô-ri-ép đây ạ.

    Im lặng một lát.

    - Không thể như thế được! Anh là A-lếch-xan-đrơ I-va-nô-vích?

    - Vâng, chính tôi đây ạ.

    - Trời đất, thế thì tin làm sao vào số phận được! Anh A-lếch- xan-đrơ I-va-nô-vích ạ, đến nay là ngày thứ ba tôi nghĩ cách làm thế nào để tìm được anh đấy.

    Sáu năm về trước, sau khi có quyết định thành lập đội thám hiểm tìm kiếm thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp, tôi được chỉ định phụ trách việc tổ chức đội thám hiểm này ở Lê-nin-grát. Hồi ấy giáo sư V. giới thiệu tôi làm quen với một đồng chí hải quân, ông ta là giáo viên Trường quân sự Phơ-run-đe và là một nhà bác học địa lý thủy văn.

    Chúng tôi chỉ ở bên nhau một buổi tối. Nhưng về sau tôi rất hay nghĩ đến ông. Hồi ấy ông đã vẽ ra cho tôi quang cảnh của cuộc đại chiến thế giới mới một cách hết sức rõ ràng.

    Lần ấy ông đến chỗ chúng tôi rất khuya. Ca-chi-a đã nằm cuộn tròn trên ghế đi-văng và ngủ say. Tôi định đánh thức Ca-chi-a dậy, nhưng ông ngăn lại. Chúng tôi đun nước uống với nhau.

    Ông có một mối tình cảm sâu sắc đối với Bắc cực. Ông quả quyết rằng ở đó có những nguồn nguyên liệu chiến lược dùng không bao giờ cạn. Nó sẽ giữ vai trò trọng đại trong chiến tranh tương lai. Ông coi con đường biển ở phương bắc là con đường chiến tranh, và nhận định rằng, trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật, sở dĩ nước Nga bị thất bại là do kết quả của việc không hiểu cái tư tưởng mà Men-đê-lê-ép đã từng phát biểu, ông yêu cầu xây dựng căn cứ quân sự trên tất cả các tuyến đường có các đội thương thuyền đi qua.

    Còn nhớ, hồi ấy quan điểm này đã khiến tôi hết sức ngạc nhiên. Nhưng đến ngày mười bốn tháng sáu năm 1942, mấy ngày trước khi tôi đến Lê-nin-grát, một hôm ngồi bên bờ sông Са-па nghe những lời tuyên đọc long trọng bản hiệp ước Nga - Anh của người phát thanh, tôi chợt đánh giá lại quan điểm này. Không khó nhìn thấy những con đường nào đã được vạch ra trong hiệp ước, vì thế, tôi thường nghĩ đến hình ảnh của nhà địa lý thủy văn mà sau này Ca-chi-a thường gọi là “người khách đêm khuya ấy”.

    Từ năm 1936 đến giữa năm 1940, chúng tôi gặp nhau khá nhiều lần. Tôi có dịp đọc các luận văn của ông và một quyển sách tên là “Biển bắc của Xô Viết”. Quyển sách này đã từng chấn động một thời, được dịch ra các thứ tiếng châu Âu. Tôi luôn luôn giữ một mối cảm tình tốt đẹp đối với ông, luôn quan tâm đến số phận của ông, như ông quan tâm đến số phận của tôi vậy. Tôi có được biết, sau khi rời khỏi Trường quân sự Phơ-run-de, ông chỉ huy một chiếc tàu đo đạc thủy văn và cũng đã từng, làm việc trong Cục địa lý thủy văn của Hội đồng nhân dân Hải quân.

    Trước khi nổ ra chiến tranh không lâu, ông tiến hành bảo vệ luận án tiến sĩ. Tôi biết tin này qua báo Mát-xcơ-va buổi chiều.

    Sau này tôi gọi ông là đồng chí R.

    ... Lần này tôi tìm gặp được ông tại chính nhà của ông, thật là một điều “kỳ diệu”, theo như lời ông nói.

    - Anh có chuẩn bị đi đâu không đấy?

    - Có, sẽ đi rất xa. Anh đến đây tôi sẽ nói cho anh biết. Hiện giờ anh sống ở đâu?

    - Tạm thời chưa có chỗ nào cá.

    - Tốt lắm. Tôi chờ anh.

    Ông sống trong một gian phòng rộng rãi trong một ngôi nhà mới xây cạnh cầu Li-tây-nưi. Một năm lại đây, kể từ ngày nổ ra chiến tranh, gian phòng không được chăm sóc thu dọn như trước nữa. Nhưng từ bên trong vẫn toát ra một vẻ gì rãt nên thơ, tựa như đây là gian phòng của một diễn viên vậy. Có lẽ chính vì mấy thứ đồ chơi được khâu rất đẹp đặt trên chiếc đàn dương cầm, cũng có thể vì những chồng sách dày cộp trên sàn nhà và trong giá sách, cũng có thể do chính chủ nhà. Ông chỉ mặc độc chiếc áo lót cổ hở để bộ bộ ngực rậm lông và đón tiếp tôi rất xuềnh xoàng, khiến tôi có ý nghĩ như trên.

    Hình như tôi đã từng được xem một bức tranh ở đâu đấy, trong đó có vẽ rất giống cái dáng của ông. Nhưng ông không phải là nhà thơ, mà là một vị thiếu tướng hải quân. Chỉ cần nhìn vào bộ quân phục khoác trên thành ghế là có thể nhận ra ngay điều đó. Bất cứ ở đâu và bất cứ vào lúc nào, hễ hai chúng tôi gặp nhau, thì câu nói đầu tiên của ông là đề cập đến một việc gì đấy mà ông cho là quan trọng nhất. Rõ ràng là, những điều mà chúng tôi thích thú luôn luôn tập trung vào những việc “quan trọng nhất”. Chúng tôi rất ít đụng đến những chuyện cá nhân và những mặt công tác vụn vặt thường ngày.

    Nhưng lần này, câu hỏi đầu tiên của ông là một năm nay, từ sau chiến tranh, tôi ở đâu và đã làm những việc gì.

    - Quả thế thật, số anh không may, - sau khi nghe tôi kể về cái số phận long đong của mình, ông nói. - Nhưng, anh vẫn còn có thể ngẩng đầu xông tới nữa. Anh làm thế nào mà lúc ở biển Ban- tích, lúc lại đến biển Đen, “bội phản” Bắc cực rồi ư? Thế mà tôi vẫn coi anh là người luôn luôn trung thành vối Bắc cực đấy.

    Tôi nói rằng nguyên nhân khiến tôi "bội phản” Bắc cực thực ra rất phức tạp. Nên tôi chỉ có thể nói một cách vắn tắt rằng, chỉ sau khi tôi hoàn toàn không còn hy vọng trở về Bắc cực, tôi mới rời khỏi Cục hàng không dân dụng.

    Đồng chí R. không lên tiếng. Ông nhắm đôi mắt đen và linh hoạt lại và đưa tay vuốt mớ tóc kiểu Ca-dắc đã bắt đầu điểm bạc rủ trước trán. Tôi không biết lúc này ông đang nghĩ gì. Chúng tôi ngồi trên ghế bành gần sát cửa sổ. Chiếc cửa này, cũng giống như tất cả những chiếc cửa khác, kính đã bị vỡ toang vì bị chấn động mạnh. Ngồi ở đây có thể nhìn thây cầu Li-tây-nưi. Phía đầu cầu bên kia, dọc theo bờ, rất nhiều tàu bè thả neo đứng im, thân tàu ánh lên màu nước sơn sáng sủa, khiến ta rất khó nhận ra bắt đầu từ đâu là nhà cửa trên bờ và bắt đầu từ đâu là tàu bè. Đường phố vắng tanh không một bóng người, tôi nghĩ bụng, cảnh này giống như cảnh đường phố vào lúc năm giờ sáng. Sau đó tôi chợt nhớ ra rằng có một lần Ca-chi-a nói với tôi rằng, đối với nàng, không được sinh ra ở Lê-nin-grát là một sai lầm.

    Tôi đang mãi suy nghĩ mông lung, chợt nghe đồng chí R. gọi, tôi giật nảy người.

    - Này, anh ngủ đi, - ông nói. - Anh mệt rồi đấy. Mai chúng ta sẽ nói chuyện.

    Ông mang gối đến, lót đệm lên ghế đi-văng và ép tôi ngủ. Tôi vừa nhắm mắt lại là ngủ thiếp đi ngay. Tuồng như có một người nào đấy đi chân đất từ đằng kia lại, anh ta ầm è trong cổ họng một lúc rồi tung tấm chăn dày đen kịt phủ lên tất cả những gì vừa xảy ra trong ngày.

    Khi tôi mở mắt ra, trời hãy còn rất sớm, chừng như vào lúc bốn giờ. Nhưng đồng chí R. đã trở dậy, ông đang dùng báo cũ che bụi cho giá sách. Tôi sực nhớ ra hôm nay ông phải ra đi rồi, bất giác cảm thấy rất buồn, ông ngồi xuống cạnh tôi, không cho tôi ngồi dậy và bắt đầu nói. Rõ ràng là ông đang nói vấn đề “quan trọng nhất”, vấn đề này, nếu hôm qua tôi không quá mệt mỏi thì ông đã nói rồi.

    ... Ngày ấy, tuy còn là một chú học trò nhỏ, tôi cũng đã có những khái niệm chung chung về cái sự kiện đã từng xảy ra vào mùa hè năm 1942 trên con đường biển rộng mênh mông đi từ Anh - Mỹ đến Liên Xô. Hồi ấy, tuy chưa có lúc nào lòng say mê của tôi đối với Bắc cực bị gián đoạn và tôi thường thu thập tích trữ từng mẩu tin nói về hoạt động của đội Hàng không trên hạm tàu phương bắc. Nhưng khi nghe đồng chí R. kể cho tôi nghe về sự kiện mùa hè năm 1942, tôi lại cảm thấy hết sức mới mẻ.

    Ông mở rộng tấm bản đồ kèm trong quyển sách do ông viết, nhưng chưa tìm được ngay tấm bản đồ trong đó có thể chỉ rõ khu vực xảy ra chiến sự. Theo lời ông, khu vực xảy ra chiến sự ác liệt mà không quân và hải quân hoạt động không ngừng là một khu vực khá rộng lớn. Ông tả lại cho tôi nghe khá tỉ mỉ vể một trận ác chiến xảy ra trên mặt biển Ba-ren-xép, ông kể rất gọn, gọn hơn cả những bài tường thuật và chuyện luận mà sau này tôi có dịp đọc dược. Tôi chăm chú lắng nghe đoạn ông kể về vụ chiếc tàu ngầm của ta đột nhập vào căn cứ hải quân chủ yếu của địch ở vịnh Pét-xa-mô, về sự tích bắn rơi hai mươi lăm chiếc máy bay địch trên mặt biển của Ха-phô-nôp, về trận tấn công của các phi công chúng ta vào đoàn tàu vận tải của địch nhờ có mưa tuyết dày đặc. Đến bây giờ tôi vẫn chưa quên thế nào là những trận mưa tuyết dày đặc ở phương Bắc. Trong khi nghe ông kể, trong tôi dấy lên một cảm giác gần như là tê tái mà từ trước đến nay tôi chưa hề gặp, cảm giác đó cắn rứt vò xé trái tim tôi. Nơi mà đồng chí R. nói đến, chính là phương Bắc, nơi tôi hằng hướng tới.

    Qua ông, lần đầu tiên tôi được biết thế nào là “đội vận tải”. Ông chỉ cho tôi xem điểm “tập họp” có thể xảy ra qua bản đồ. Đó cũng là điểm tập họp của các hạm tàu Anh - Mỹ mà họ đã bí mật ấn định. Ông còn giải thích cho tôi rõ ràng các hạm tàu đó đã tiến hành công tác giao tiếp như thế nào dưới ngọn cờ bảo vệ của chúng ta.

    - Anh xem đây, đây là khu vực vận hành của họ, - tất nhiên, ông chỉ vạch ra cho tôi hình dung một đường viền chung nhất. Vì vào năm 1942 ấy, con đường biển này còn phải giữ kín. - Sẽ có khoảng một hoặc hai trăm hạm tàu hợp thành một trung đội. Anh thử đoán xem, ở những nơi nào đoàn hạm tàu sẽ gặp khó khăn nhiều nhất? - Vừa nói ông vừa chỉ vào một điểm. Nhưng chúng ta không cần hao tổn tâm trí về con đường phía tây, nhất là ở đây - ông lại chỉ vào một địa điểm - đã có những con người tài trí đóng giữ. Chúng ta hãy bàn đến những vấn đề cũng có tầm quan trọng không kém vấn đề này... Đấy là vấn đề bọn Đức đang tìm hết cách phong tỏa cửa mở của chúng ta, - ông nói giọng sinh động, một bàn tay ập xuống vùng cửa mỏ từ biển Ba-ren-xép thông đến biển Ca-ra. - Vì bọn chúng biết rất rõ tác dụng của hành động ấy hoặc ít ra thì chúng cũng hiểu rằng một số vùng mỏ ở đây đóng một vai trò rất lớn đối với nền công nghiệp chế tạo động cơ máy bay của chúng ta. Cố nhiên là tác dụng vận chuyển của con đường biên phía bắc khiến cho bọn chúng rất khó chịu, vì vậy mùa xuân năm nay chúng đã mưu đồ...

    Ông không nói hết câu nhưng tôi hiểu hết ý ông. Trước đây, trong một dịp ngẫu nhiên tôi đã được biết rằng vào mùa xuân bọn Đức đã phá hoại nghiêm trọng một bến cảng có ý nghĩa hết sức lớn đối vối con đường vận chuyến phía tây.

    - Anh thử nghĩ xem, chiến cuộc đã lan đến tận đâu rồi, - đồng chí R. nói tiếp. - Gần đây thậm chí tàu ngầm của bọn Đức đã bắn vào máy bay của chúng ta ở cạnh vùng Đất Mới. Song sự việc không chỉ có thế. Ngay hôm nay tôi sẽ phải đáp máy bay do Hội đồng quân sự của hạm đội miền Bắc phái đến đón đi Mát-xcơ-va. Thiếu tá phi công Ca-ri-a-kin nói với tôi rằng, anh ta đã săn lùng một chiếc tàu săn biển của bọn Đức có đến hai tuần nay rồi... Anh thử đoán xem, ở đâu nào? Ở vùng... - Ông nói tên một vùng rất xa. - Nói một cách vắn tắt, chiến sự đã lan đến những vùng mà trước kia chỉ xuất hiện các nhà địa lý thủy văn và lũ gấu trắng. Vì thế họ đã nhớ đến tôi, - đồng chí R. mỉm cười. - Chẳng những nhớ đến, mà còn... - Một niềm vui hồn hậu hiện lên trên nét mặt ông, - Mà còn giao cho tôi hoàn thành một công việc thú vị và hết sức quan trọng. Cố nhiên là tôi không thể nói cho anh rõ về cái công việc ấy được vì nó là bí mật quân sự. Tôi chỉ muốn nói một điểm rằng ngay lúc đó tôi đã nghĩ đến anh trước tiên. Vừa may lúc ấy anh gọi điện đến. Thật là khéo, - ông nói nghiêm túc và có phần trịnh trọng. - A-lếch-xan-đrơ I-va-nô-vích, tôi đề nghị anh cùng bay với tôi lên Bắc cực.
     
    Last edited by a moderator: 7/6/15
  11. Rafa

    Rafa SV

    :rose:
    Chương 16

    Quyết định

    Sau khi ông đi rồi, tôi còn lại một mình trong căn phòng trống không và tựa như không có chủ này. Cả ba gian phòng này d9ều do tôi quản 15', tôi hoàn toàn có thể đi lại tự do, sống và suy nghĩ ở đó. Đồng chí R. sẽ quay trở về đây vào lúc mười lăm giờ, khi ấy tôi phải nói với ông một câu ngắn gọn:

    - Được!

    Hoặc có phần phức tạp hơn, dài hơn:

    - Không được.

    Giữa hai câu trả lời kia là một con đường xa xăm và gian khổ biết bao. Tôi dò theo con đường ấy đi miết, đi rồi nghỉ, rồi lại đi mà vẫn không nhìn thấy bờ, thấy bến đâu cả!

    Bọn Đức đang nã đại bác vào vùng này. Viên đạn bắn thử đầu tiên đã nổ từ lâu, tuy đám khói dày đặc đã tan loãng dần ra, nhưng nó vẫn còn phủ đen cả vùng trời trên cầu Li-tây-nưi. Một tiếng nổ vừa vang lên từ xa bỗng ập đến gần, nó gầm rú một cách lỗ mãng và bay vút vào thành phố như hướng thẳng đến ngôi nhà trống không mà tôi đang đắn đo lựa chọn giữa hai chữ cách nhau xa lắc: “được” và “không được”.

    ... Gian phòng này tuồng như đã biến thành phòng nuôi trẻ. Chú gấu đen một mắt do xưởng chế tạo đồ chơi trẻ con sản xuất ngồi ủ rũ trong một góc tủ, một chiếc xe đẩy của trẻ con vứt chỏng chơ ở góc nhà, nhũng thứ đồ chơi bằng gỗ bày la liệt trên một chiếc bàn tròn và thấp. Trong óc tôi chợt hiện lên hình ảnh của một đồng chí R. con, chú ta cũng hăng hái, say sưa, cũng có mái tóc Ca-dắc thú vị và khuôn mặt tròn như bố. Trong chốc lát, tôi quên biến sự lựa chọn dằn vặt giũa hai con đường “được” và “không được”, thở một hơi dài. Thậm chí ở đây có thể gợi nhớ đến cái phút mà tôi và Ca-chi-a đã từng đặt kế hoạch với nhau sẽ lập cơ sở gia đình ở Lê-nin-grát như thế nào, ở đâu có nhà, ở đó chúng tôi sẽ có con.

    Tiếng nổ của đạn đại bác mỗi lúc một gần. Một quả đạn nổ ngay bên cạnh. Cánh cửa bị chấn động mạnh, tiếng kính vỡ rơi loảng xoảng vang lên ở đâu đó. Trong giây lát yên tĩnh sau đó, vang lên tiếng bưởc chân chạy ngoài hè phố, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ thấy hai chú bé đang chạy đến ngôi nhà tôi đang ở, mặt chúng trông rất dễ sợ. Hai chú bé đã chạy sát vào nhau, chú thứ nhất đập mạnh vào lưng chú thứ hai rồi cười vang lên và chạy ngược trở lại. Chúng đang chơi mèo bắt chuột.

    ... Lúc mười lăm giờ, đồng chí R. trở về, tôi sẽ nói với ông:

    - Được!

    Đối với mỗi người Liên Xô trong thời gian chiến tranh không có gì nặng tội và nhục nhã bằng buông tay ngồi không. Tôi cố quên đi nửa năm trời ăn không ngồi rồi và hết sức khó chịu vừa qua, nhất định tôi phải đi lên phía bắc. Mấy năm nay, miền bắc càng ở xa tôi thì tôi lại càng cảm thấy nó gần gũi và hấp dẫn lạ thường. Chẩng lẽ ở miền tây và miền nam tôi không dốc hết sức để chiến đấu hay sao? Song dẫu sao tôi cũng cần phải đi ra miền bắc, bảo vệ vùng biên cương mà tôi hiểu biết và hằng mến yêu khôn xiết.

    Lúc ấy đột nhiên tôi dừng bước lại và lẩm bẩm:

    - Nhưng còn Ca-chi-a?

    Rời khỏi đây, bỏ mặc cô ta mà đi chu du mải miết ở nơi xa hết tháng này qua năm nọ ư? Tại sao lại không tìm Pê-chi-a? Biết đâu hòm thư của cậu ấy chẳng đã thay đổi ít nhiều? Tại sao không tìm thêm ở ngay trong thành và các chiến hào Lê-nin- grát này rồi sau đó sẽ quyết định? Cho dù Ca-chi-a có lưu lạc nơi đâu, trong bất cứ tình huống nào, cô ấy cũng tìm mọi cách liên lạc với bà Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na và Pê-chi-a. Các đầu mối này tuy lúc này còn ẩn kín khó lần ra, nhưng rất có thể qua đó có thể tìm ra nơi ở của Ca-chi-a. Chắc chắn nàng đang chịu đau khổ triền miên, bởi cái mẩu tin chết tiệt đã đăng trên mặt báo kia mà thể nào nàng cũng đã đọc được.

    Thế là quyết định rồi, tôi quyết định ở nán lại Lê-nin-grát mấy ngày nữa, sau khi tìm gặp được Ca-chi-a sẽ ra miền bắc.

    Đúng mười lăm giờ, đồng chí R. trở về. Tôi nói với ông quyết định của tôi. Nghe xong lời tôi nói, ông nói rằng nếu ở vào địa vị tôi, ông cũng sẽ xử lý như thế.

    - Nhưng chúng ta cần phải cùng bay về Mát-xcơ-va. Tôi đã làm đủ mọi giấy tờ cho anh. Sau đó Xle-pu-skin sẽ cho anh nghỉ phép hai tuần lễ để lo liệu việc gia đình. Chuyện vợ con, không phải là chuyện đùa đâu! Nhất là đối với một người vợ tốt như thế. Tôi còn nhớ Ê-ca-tê-ri-na I-va-nốp-na. Chị ấy là một phụ nữ thông minh và hết sức hiền hậu, là một con người đức, tài, sắc chu toàn!

    Ngày hôm sau tôi trở về phố Pê-trô-grát. Lại đến thăm các bạn ở ngôi nhà 79. Tôi đến học viện Mỹ thuật, định hỏi thăm địa chỉ của Pê-chi-a, nhưng chỉ được biết rằng cậu ấy bị thương và có lưu lại điều trị tại trạm quân у trên đảo Va-xi-li-ép-xki. Nhà điêu khắc Cô-xôt-skin có đến thăm cậu ta. Nhưng về sau nhà điêu khắc nãy bị chết, còn Pê-chi-a (nghe người ta nói) thì lại quay ra mặt trận. Tôi gửi thư đến cho trại nhi đồng của Sở bảo tàng mỹ thuật, nhưng thư không đến nơi vì cả trại đã sơ tán về vùng Nô-vô-xí-biếc rồi. Bác sĩ Ô-na-va-xi-an đưa tôi đến trụ sở của Xô Viết quận và ở đó, ông nổi cáu cãi nhau một trận ầm nhà với một gã béo phì có vẻ thờ ơ với mọi thứ xung quanh, vì gã ta từ chối không chịu lục tìm tin tức Ca-chi-a. Đại loại những chuyện tương tự như thế tôi không chuẩn bị kể thêm nữa.

    Tại I-a-rô-xláp có xây dựng một số bệnh viện dành riêng cho người Lê-nin-grát. Vào tháng Giêng, rất nhiều đoàn tàu hỏa đã chạy về hướng đó. Một sự thật duy nhất không thể tranh cãi được, đúng với điều tôi đoán và hợp với lời khuyên của nhiều người Lê-nin-grát, sau khi nói chuyện với tôi, là nên về I-a-rô- xláp để tìm Ca-chi-a.

    Có hai điểm khiến tôi tin chắc rằng làm như thế là đúng. Một là, trước lần sơ tán thứ hai, trại nhi đồng của sở bảo tàng mỹ thuật ở làng Gơ-ni-lôi I-a-rơ. Hai là bà Lu-ke-rí-an I-li-nít-sna - tên bà đánh máy chữ ở bệnh viện Răng Hình Mặt đột nhiên nói với tôi rằng bà vừa sực nhớ ra là chính bác sĩ Trô-phi-mô-va đã đưa Ca-chi-a đi I-a-rô-xláp.

    - Trời đất! - bà nói giọng bực tức. - Có mỗi việc như thế mà tôi quên mất. Sức nhớ của tôi bị sa sút ghê quá, nguyên nhân của nạn thiếu đường đây, hiện nау tôi chẳng được nếm tí đường nào cả. Nhưng lần này may sao không ăn đường mà tôi vẫn nhớ ra được. Tôi mách anh, hãy đến I-a-rô-xláp mà tìm cô ấy.

    Máy bay của đồng chí R. cất cánh vào lúc nửa đêm. Tôi gọi điện thoại để hẹn giờ, sẽ có mặt ở sân bay mười phút trước khi máy bay cất cánh.
     
    Last edited by a moderator: 7/6/15
  12. Rafa

    Rafa SV

    :rose:
    Chương 17

    Những người bạn vắng nhà

    Nếu ghi lên bản đồ Mát-xcơ-va những tuyến đường mà tôi đã đi qua trong mấy tiếng đồng hồ từ sau khi tôi xuống máy bay đến khi tàu hỏa khởi hành, thì rất có thể gây cho người ta ấn tượng rằng tôi đã cố ý tìm mọi cách tránh mặt những người mà tôi hằng mong gặp gỡ. Tuy lý do tôi mong được gặp họ không giống nhau, song điều mong ước ấy ở trong tôi là rất thiết tha và thành thực. Vào thời gian ấy họ đều có mặt ở Mát-xcơ-va. Nếu theo dõi qua bản đồ, có thể thấy rằng ngày hôm ấy, lúc thì họ đi song song bên tôi, lúc thì họ đi đến nơi mà tôi vừa đi qua chỉ vài phút, cách nhau một vật kiến trúc nào đấy, và trượt nhau, không gặp. Nói tóm lại, ngày hôm ấy tôi không gặp may, trừ một trường hợp ngoại lệ, còn thì tôi chẳng gặp được ai cả.

    Tôi đi thẳng từ sân bay, qua đường công viên đến ngõ Vô-rốt-ni-cốp-xki đến nhà thấy Cô-ra-bơ-li-ốp, - may mà toàn bộ hành lý của tôi chỉ có một chiếc va-li con.

    ... Ngôi nhà gỗ hình hộp dựng khá công phu đã bị đổ nghiêng sang một bên, nổi bật giữa những tòa nhà cao xây theo kiểu mới, trông nó giống như một ngôi nhà cũ truyền thống ở nông thôn. Thầy I-van Pa-vơ-lứt Cô-ra-bơ-li-ốp không còn chiếm cả nửa gian nhà hầm như trước nữa. Tuy cảm giác chung của tôi là Mát-xcơ-va rất vắng người, nhưng ở đây thì khác hẳn. Hầu như sau các cửa sổ đều có những cái đầu thò ra nhòm ngó. Trên bậc thềm có mấy bà đương đan len. Khi tôi vừa ló mặt, ít nhất cũng có đến hai chục đôi mắt cùng đón nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên, giống như hồi tôi xuất hiện trong sân nhà chúng tôi ở En-xcơ.

    - Anh tìm ai?

    - Tôi tìm ông Cô-ra-bơ-li-ốp.

    - Ông I-van Pa-vơ-lứt ấy à? Thế thì đi dọc hành lang đến cửa thứ hai bên trái.

    - Vâng, tôi biết, - tôi nói và bước lên bậc tam cấp. - Ông ấy có nhà không ạ?

    - Anh cứ gõ cửa xem, hình như có nhà đấy.

    Lần cuối cùng tôi gặp mặt thầy Cô-ra-bơ-li-ốp là vào dạo trước chiến tranh. Tôi và Ca-chi-a mang bánh ngọt và rượu nho Pháp đến nhà thầy mà không báo trước. Thầy đứng cạo râu ở phòng bên cạnh và nói chuyện với chúng tôi rất lâu, còn chúng tôi thì lật xem những tấm ảnh cũ của trường tiểu học. Mãi lúc lâu thầy mới trở ra, thầy mặt bộ quần áo mới tinh, cổ áo hồ cứng, bộ ria mép cuốn lên theo kiểu của thanh niên. Hôm nay trên dãy hành lang mờ tối này, chắc cái dáng của thầy cũng sẽ giống như cái đêm đẹp đẽ đáng ghi nhớ hôm nào. Thầy sẽ bước ra lập tức nhận ra tôi và sẽ reo lên: “Em đấy à, Xa-nhi-a?”.

    Tôi dừng lại trước một cánh cửa quen thuộc và gõ cửa hai ba lần. Bên trong lặng yên không một tiếng động. Thầy I-van Pa-vơ-lứt không có nhà.

    “Kính gửi thầy I-van Pa-vơ-lứt, - các bà đều tò mò nhìn tôi, tôi không muốn để họ trông thấy tôi đang rất sốt ruột, nên tránh sang một bên và viết một mẩu giấy con cho thầy. - Em không biết còn có dịp quay trở lại đây nữa không. Ca-chi-a đã sơ tán đến I-a-rô-xláp vào giữa tháng Giêng. Ngay hôm nay em sẽ đến đấy tìm Ca-chi-a. Cũng có thể em phải đi xa hơn nữa, cho đến khi nào tìm thấy Ca-chi-a mới thôi. Em không thể viết hết những gì em đã gặp phải và nguyên nhân đứt liên lạc giữa hai thầy trò ta trong thời gian qua, trên mảnh giấy con này. Nếu thầy hoặc Va-li-a (em hy vọng có thể gặp được cậu ta trong ngày hôm nay) biết tin tức của Ca-chi-a thì thầy hãy viết thư cho đồng chí R., thiếu tướng hải quân theo địa chỉ như sau:

    Thành phố Bắc cực, Bộ chính trị Đồng chí thiếu tướng Hải quân R. để đồng chí ấy chuyển cho em. Thầy I-van Pa-vơ-lứt kính mến, cái tin tử trận của em chắc cũng đã đến tai thầy, nhưng người viết bức thư nhỏ này đích thực là em, là Xa-nhi-a thân yêu của thầy đây".

    ít ra cũng có đến mười cánh tay cùng đưa ra một lúc để cầm bức thư của tôi...

    Các ga tàu điện ngầm dường như trở nên đẹp đẽ tráng lệ hơn trước. Tôi đáp tàu đến Cung Xô Viết. Có mấy người già ngồi bên con đường rợp bóng cây mang tên Gô-gôn. Mỗi người cầm trên tay một chiếc gậy thô dành riêng cho người già. Nét mặt người nào cũng bình thản. Nhìn những nét mặt đó tưởng сhừng như chiến tranh đã kết thúc từ lâu rồi. Một đám trẻ con đùa giỡn ở đầu phố - ngay trong giây phút ấy, tôi mới chợt nhận ra chính nơi đây là Mát-xcơ-va, Mát-xcơ-va!

    Trước cửa nhà Va-li-a treo một tấm biển bằng đồng khắc chữ: “Giáo sư Va-len-tin Ni-cô-lai-e-vích Giu-cốp”. A ha, thế là cậu ấy đã trở thành giáo sư rồi! Tôi bấm chuông, rồi gõ cửa, sau đó dùng chân đạp mạnh mấy cái...

    Vào những ngày hè năm 1942, hầu như tất cả mọi người dân Mát-xcơ-va đều ăn ngủ tại nơi làm việc. Vậy việc tôi không tìm thấy giáo sư Giu-cốp vào giữa ban ngày, lại đúng vào giờ làm việc là một việc chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng giờ đây cái ấn tượng cũ cho rằng hễ lúc nào tôi cần nhất thì cậu Va-li-a ấy của tôi lại biến đi đằng nào, làm cho tôi khó chịu. Tôi lại đạp mạnh chân vào giữa cửa lần nữa. Cánh cửa chợt vang lên một tiếng két nhỏ rồi từ từ hé ra như một kẻ biết điều. Tôi luồn tay rút chốt rồi mở toang cửa ra.

    Trong phòng vắng vẻ không bóng người. Cái hy vọng mỏng manh rằng Va-li-a ngủ say liền tan biến mất. Tôi bước vào căn phòng nguyên là phòng ăn đồng thời là phòng nuôi trẻ. Lạ thật, không hiểu tại sao trong căn phòng này được dọn dẹp bày biện rất sạch sẽ ngăn nắp. Trên mặt bàn trải một tấm khăn sạch và trên trần treo những chuỗi giấy màu cắt hoa rất khéo. Cứ trông bốn bức tường được phủi bụi sạch bóng, mấy chậu hoa được chăm sóc tươi tốt đặt trên bậu cửa sổ, là có thể biết ngay rằng ở đây đã từng có bàn tay chăm lo của người phụ nữ. A, thì ra cái anh chàng Va-li-a này lại yêu hoa đến thế! Chỉ có nhà nghệ thuật vĩ đại mới có thể tưởng tượng ra cái cảnh Va-li-a cũng biết yêu hoa và trồng hoa!

    Tôi bước vào “bếp riêng”. Một chiếc giường sắt kê sát chân tường. Trên đầu giường đặt một chiếc áo liền váy đã được xếp ngay ngắn. Trước đây Ca-chi-a cũng có một chiếc áo liền váy màu thanh thiên điểm màu trắng hoa cà. Người đàn bà nào sống trong căn phòng bỏ không này nhỉ? Qua nhũng bức thư đầu tiên của Ca-chi-a, tôi biết rằng Ki-ra đã đưa con đi sơ tán từ ngày đầu xảy ra chiến tranh, “Kẻ nào đã trói buộc anh, anh yêu quí của em?”. Tôi bất giác nhớ đến một bức thư của Ca-chi-a. Trong bức thư đó, nàng chế giễu Ki-ra, kể rằng Ki-ra đã ngậm đắng nuốt cay vì anh chồng rất say mê nghiên cứu một loại cáo lai màu nâu xám với loại “Gien-ca Côn-pắc-tri” nào đó có những đôi mắt không to bằng nhau. Gien-ca Côn-pắc-tri có đôi mắt không to bằng nhau đã không mất thì giờ vô ích.

    Dù thế này hay thế khác, cuối cùng tôi vẫn không tìm gặp được Va-li-a.

    “Va-lét-sca thân yêu", - tôi viết thư cho cậu ta, trên đường đi đến I-a-rô-xláp, mình hy vọng sẽ tim được Ca-chi-a ở đấy hoặc ít ra cũng biết được tin tức của cô ấy, mình ghé vào thăm cậu, nhưng cãi tiếc là không gặp được nhau. Đã nửa năm nay mình chẳng nhận được tin tức gì của Ca-chi-a cả. Hồi còn ở Lê-nin- grát, cô ấy và Ki-ra có viết thư cho nhau. Cũng có thể Ki-ra hoặc cậu biết tin tức của Ca-chi-a chăng? Sau khi bị thương, mình đi nằm viện và cứ viết thư cho cậu, nhưng không nhận được thư trả lời. Minh đã phải kinh qua muôn vàn gian nan, nhưng nếu biết được tin tức của nhau, biết rằng các cậu vẫn khỏe mạnh thì cho dù không gặp được mặt nhau, trong lòng mình cũng nhẹ nhàng đôi chút. Gửi thư cho mình thì gửi ra hạm đội miền Bắc, địa chỉ là nhờ đồng chí R. thiếu tướng Bộ chính trị Hải quân ở thành phố Bắc cực chuyển. Đấy là đìa chỉ tin cậy duy nhất của mình, hiện nay mình chưa có địa chỉ nào khác. Va-li-a thân yêu, chúc cậu mạnh khỏe luôn. Mình đã tự mở cửa để vào nhà. Bây giờ mình đóng chặt, cậu chỉ có cách phá tung ra mà vào - như thế vẫn còn hơn là để nhà trống cửa. Có lẽ trước khi đi Bắc cực, mình sẽ ghé lại cậu một lần nữa”.

    Tôi để mảnh giấy trên mặt chiếc bàn đặt ở “bếp chung”. Sau đó tôi nâng cái chốt cửa lên, để sau này nó có thể rơi đúng vào lỗ cài. Xong tôi lách người ra bên ngoài, đóng mạnh cửa lại. Và thế là cánh cửa đã được chốt cứng.

    Còn một việc quan trọng nữa tôi phải làm. Tôi cần phải đến nhà một người ở cách nhà Va-li-a không xa lắm. Việc chủ nhà có hoan nghênh chuyến đến thăm của tôi hay không tôi không quan tâm lắm.

    Lẽ ra tôi phải đến thăm anh ta từ lâu kia!

    Trong Quân у viện, nhũng đêm dài không ngủ được và những khi trăn trở trong giấc mơ, tôi đã nghĩ đến cuộc gặp gỡ này. Tôi cần đến anh ta vô cùng, đến nỗi nếu chưa tìm thấy anh ta thì chết cũng không sao yên lòng được.

    Đã nhiều lần tôi tự vẽ ra cho mình cảnh tượng của cuộc gặp gỡ này. Có khi, tôi mơ tưởng rằng tôi sẽ đột ngột xuất hiện ngay trước mặt anh ta, chính khi anh ta cảm thấy thoải mái nhất trong cuộc sống, giả dụ như lúc anh ta đang ở trong nhà hát và hoàn toàn không nghĩ đến tôi. Có lúc tôi lại tưởng tượng rằng trong khách sạn, tôi bước vào phòng, khóa trái cửa lại và nhìn anh ta mỉm cười. Lại có lúc, tôi như thấy anh ta nằm vắt chân trong ánh sáng ban mai nửa mờ nủa tỏ, tôi liền ngồi xuống chiếc giường bên cạnh. Đôi mắt hé mở của anh ta với những tia sáng thật đáng sợ.
     
    Last edited by a moderator: 7/6/15
  13. Rafa

    Rafa SV

    :rose:
    Chương 18

    Người quen cũ - tấm ảnh của Ca-chi-a

    Có một lần, khi đi qua quảng trường Xô-ba-tri, Ca-chi-a nói cùng tôi:

    - Rô-ma-sốp sống ở đây.

    Nàng chỉ cho tôi một ngôi nhà quét vôi màu xanh sẫm và giống hệt như hai ngôi nhà ở hai bên. Dù là lúc ấy, hay ngay cả bây giờ, tôi hầu như có cảm giác rằng trong những bức tường loang lổ kia đang tồn tại một cái gì hết sức đê tiện mà không sao biết rõ được.

    Bảng danh sách khách trú ngụ không còn treo ở cửa như hồi trước chiến tranh nữa, nên tôi đành phải vào Phòng quản lý để hỏi số phòng của anh ta.

    Sự việc xảy ra trong Phòng quản lý như thế này. Người phụ trách việc đăng ký chứng minh thư là một bà già cổ lỗ có nét mặt đầy vẻ giận dữ. Bà đeo kính trắng, khi nghe tôi hỏi đến Rô-ma-sốp, bà ta bỗng rùng mình và mở to hai mắt. Trong ngôi nhà gỗ nhỏ nhắn này lúc ấy có rất nhiều người, kẻ ngồi, người đứng, ai cũng đeo trước ngực một chiếc tạp dề, trông họ có vẻ là những công nhân quét đường và hình như giữa họ vừa xảy ra một chuyện ồn ào gì đó.

    - Anh nên gọi điện thoại trước cho anh ta, - bà đăng ký chứng minh thư dịu giọng nói. - Phòng anh ta vừa được mắc điện thoại ngày hôm qua.

    - Không cần đâu ạ, cứ đến thẳng như thế này tốt hơn, - tôi cười nỏi. - Như thế này mới bất ngờ. Tôi là bạn cũ của anh ấy, một người bạn mà anh ấy tưởng rằng đã chết từ lâu.

    Câu nói trên đây của tôi thực ra không có ngụ ý gì, nhưng bà đăng ký chứng minh thư nở một nụ cười rất miễn cưỡng. Từ phòng bên cạnh, một người đàn ông có vẻ rất đạo mạo, đầu đội chiếc mũ cát-két rất đẹp bước ra, ngắm nghía tôi một lúc lâu.

    Muốn qua cửa chính để vào nhà, phải băng qua đường phố. Tôi bước chậm lại khi đi đến gần cửa chính. Tôi không mang vũ khí theo người, có lẽ nên báo cho người cảnh sát đang đứng ở góc phố kia biết trước chăng? Sau đó tôi suy nghĩ và thay đổi ý định. “Thôi, không cần, hắn không thể chạy đi đâu được!”

    Tôi vẫn luôn luôn tin rằng hắn có mặt ở Mát-xcơ-va. Có thể hắn không còn phục vụ trong quân đội thì hắn cũng ăn ngủ ở nhà riêng, nếu không thì ở trong biệt thự hay khách sạn. Bao giờ hắn cũng thích mặc quần áo ngủ vào buổi sáng. Tuồng như tôi trông thấy hình ảnh thực sự của một Rô-ma-sốp: hắn vừa mới tắm xong, mình ướt đẫm nước, mặc quần áo ngủ, tóc rối bù phủ xuống trán. Đấy chỉ là ảo giác, nó khiến tôi choáng váng mặt mày. Cần phải trấn tĩnh lại, nghĩa là phải nghĩ đến một việc khác để tạm quên hắn đi. Thế là tôi nhớ đến việc khoảng mười bảy giờ, đồng chí R. sẽ chờ tôi ở Cục địa lý thủy văn.

    - Ai đó?

    - Có thể gặp Rô-ma-sốp được không ạ?

    - Một giờ sau anh hãy quay trở lại đây.

    - Xin ông cho phép tôi được đợi anh ta ở đây, - tôi nói giọng rất khách sáo. - Rất tiếc là tôi không thể đi đâu được nữa. E rằng anh ta sẽ rất buồn nếu không được gặp tôi.

    Tiếng dây xích khóa cửa kêu loảng xoảng. Nhưng không tụt hẳn ra mà chỉ nới lỏng để cánh cửa có thể hé ra một chút và người chủ nhà thò đầu ra nhìn tôi. Sau đó tiếng xích sắt lại vang lên một lần nữa, và lần này nó mới thực sự tụt ra. Nhưng cái chốt bên dưới vẫn còn cài. Tôi nghe tiếng sắt ma sát và tiếng vận chìa khóa. Ông ta mặc quần áo ngủ rộng thùng thình dây treo quần mang trên vai, áo để hở ngực dẫn tôi vào cửa. Ông ta khom lưng nhìn ngắm tôi chằm chằm. Trên bộ mặt nhẵn nhụi với cái mũi quặp mỏ cú của ông ta lộ rõ dáng nét kênh kiệu và tang thương kiểu quí tộc. Những mớ tóc vàng điểm bạc rủ xuống trước trán, những lớp da béo phì mỡ xếp chồng lên nhau quanh cái cổ dài.

    - Ông là Phôn Vư-si-mìa-xki phải không ạ? - Tôi hỏi giọng ngạc nhiên. Ông ta khẽ giật mình. - Thôi cứ coi như không phải “Phôn”, nhưng cũng thế cả thôi. Ông là Vư-si-mia-xki Ni-cô-lai I-va-nô-vích phải không?

    - Cái gì?

    - Ông Ni-cô-lai An-tô-nô-vích kính mến, ông quên tôi rồi sao? - tôi nói giọng hết sức sung sướng. - Tôi đã từng đến nhà ông kia mà.

    Ông ta khẽ khịt mũi.

    - Khách đến nhà tôi rất đông, có đến hàng trăm, hàng nghìn, - ông ta nhăn mặt nói. - Quanh cái bàn này có thể ngồi một lúc bốn chục người.

    - Trước đây ông đã từng làm việc ở nhà hát Mát-xcơ-va, ông đã từng mặc những chiếc áo có những chiếc cúc rực rỡ. Trong cái lần cậu bạn Gri-sa Pha-be của tôi đóng vai bác sĩ tóc đỏ và ông I-van Pa-vơ-lứt Cô-ra-bơ-li-ốp đã giới thiệu chúng ta làm quen nhau trong phòng hóa trang của anh ta.

    Tại sao tôi lại hứng khởi như thế nhỉ? Tôi đứng giữa nhà của Rô-ma-sốp như một ông chủ. Chỉ một tiếng đồng hồ nữa hắn sẽ trở về. Tôi há nửa mồm thở nhẹ. Tôi sẽ đối phó vói hắn như thế nào đây?

    - Tôi không biết, tôi không biết! Tên anh là gì?

    - Đại úy Gri-gô-ri-ép, tôi sẵn sàng làm theo lời chỉ bảo của ông. Bây giờ ông ngụ ngay ở đây, trong nhà Rô-ma-sốp này phải không?

    Vư-si-mia-xki lại chăm chăm nhìn tôi,

    - Tôi đăng ký hộ khẩu ở đâu thì sống ở đó, - ông ta nói. - Tôi không sống ở đây. Người quản lý biết tôi sông ở đâu, không phải ở đây.

    - Rõ rồi.

    Tôi rút bao thuốc lá ra và vui vẻ mời ông ta hút. Ông ta rút một điếu. Cánh cửa thông sang phòng bên cạnh mở toang, tất cả đồ đạc trong đó: đi-văng và chiếc bàn tròn nhỏ nhắn đặt trước nó đều rất sạch sẽ, chúng hiện ra trong bóng sáng lờ mờ. Ngay cả bức chân dung của một người nào đó treo phía trên đi-văng cũng được lồng cẩn thận trong một chiếc khung sạch sẽ, màu tro nhạt. “Mọi thứ đều xếp đặt rất ngăn nắp, hài hòa”. Tôi vui vẻ nghĩ như vậy.

    - Ai là I-van Pa-vơ-lứt? Ông ta là giáo viên phải không? - đột nhiên Vự-si-mia-xki hỏi.

    - Phải, là giáo viên.

    - Đúng rồi, ông ấy là Cô-ra-bơ-li-ốp, một con người tất tốt, một người kiệt xuất. Va-li-a đã từng học ông ta. Nhiu-ta không học ông ấy, nó tốt nghiệp trường nữ trung học Brơ-giô-dốp-xcai-a. Nhưng Va-li-a thì học ông ấy. Ông ta là một con người rất tốt, đã từng luôn luôn giúp đỡ, giúp đỡ... - Trên bộ mặt già nua của ông ta hiện lên một thứ tình cảm chỉ có quỉ mới hiểu nổi, nhưng đó là thứ tình cảm lương thiện.

    Ông già làm ra vẻ vừa mới nhận ra người quen, đon đả đưa tôi vào phòng - lúc này chúng tôi còn đứng ở phòng ngoài - và hỏi tôi có phải vừa từ trên tàu xuống không.

    - Nếu anh vừa mới đến đây, - ông già nói, - thì có thể đến nhà ăn quân đội, trình công lệnh là có thể kiếm được một bữa trưa rất đàng hoàng có cả bánh mì, mà không tốn bao lăm tiền...

    Ông ta lảm nhảm nói mãi, nhưng lúc này tôi không còn chú ý nghe lời ông ta nói nữa. Tôi kinh ngạc đứng sững lại ở cửa. Thì ra bức ảnh lồng trong khung màu tro nhạt treo trên đi-văng kia là ảnh của Ca-chi-a. Lần đầu tiên tôi được nhìn thấy một bức ảnh đẹp như thế. Đấy là bức ảnh chụp toàn thân, nàng khoác chiếc áo bành-tô da màu lông chuột vừa khít, may xong trước ngày nổ ra chiến tranh. Vì chiếc áo ấy mà nàng đã từng phải bỏ ra nhiều công sức, đi tìm một thợ may nổi tiếng tên là Ma-nê. Tôi còn nhớ hồi ấy vì tôi không hiểu rằng đi với chiếc áo ấy, cần phải đội mũ và đeo găng tay cùng một loại da màu ấy, mà nàng đã giận tôi. Trời ơi, bức ảnh này chứng tỏ có cái gì đây?

    Lúc này trong đầu óc tôi nổi lên ngổn ngang bao nhiêu ý nghĩ khác nhau, trong đó có cả những ý nghĩ mà cho đến bây giờ mỗi khi nhớ lại tôi còn xấu hổ, bồn chồn. Tôi đã suy nghĩ hết mọi đường trừ sự thực của vấn đề, mà cái sự thực ấy thì lại còn nhảm nhí hơn cả những ý nghĩ nhảm nhí của tôi.

    - Ông Ni-cô-lai I-va-nô-vích, thú thực, tôi không ngờ gặp ông ở đây, - tôi nói. Sau đó, ông già không ngớt giới thiệu với tôi về tình hình của mình, rằng sau khi rời khỏi nhà hát ông vào làm việc ở phòng giữ áo mũ của Bệnh viện thần kinh.

    - Như vậy nghĩa là ông ở đây để giúp việc cho Rô-ma-sốp, hay ở đây chỉ vì quan hệ bạn bè?

    - Đúng, vì quan hệ bạn bè. Anh ấy muốn nhờ tôi và tôi đã nhận lời. Trước kia tôi đã từng làm thư ký cho giáo chủ I-xi-đo-rơ. Tôi không hề giấu giếm chuyện này, ngược lại, còn ghi rõ vào trong bản điều tra của mình. Đấy là một công việc to tát, một quá trình lao động lớn lao. Chỉ riêng thư từ, hồi ấy, hàng ngày chúng tôi nhận được có đến một nghìn năm trăm chiếc. Bây giờ ở đây cũng xấp xỉ như thế. Nhưng có điều tôi làm việc ở đây là do quan hệ tình cảm. Tôi đã nhận được thẻ công tác. Rô-ma-sốp đã bố trí tôi làm việc trong cơ quan anh ấy. Mọi người trong cơ quan cũng đã biết tôi đã đến đây công tác.

    - Chẳng lẽ bây giờ Rô-ma-sốp không còn phục vụ trong quân đội nữa ư? Hồi chung tôi chia tay nhau, anh ấy còn mặc quân phục kia mà.

    - Vâng, anh ấy không còn ở trong quân đội nữa. Anh ấy có công tác đặc biệt gì đấy mà tôi không được biết rõ. Anh ấy được miễn quân dịch cho đến khi kết thúc chiến tranh.

    - Hằng ngày ông nhận được những bức thư gì?

    - Đây là một thứ văn kiện hết sức quan trọng. - Vư-si-mia-xki nói. - Hết sức quan trọng, vì hiện nay chúng tôi đang có một nhiệm vụ lớn là tìm kiếm một người đàn bà, một vị phu nhân. Nhưng tôi nghi rằng đây không phải là nhiệm vụ mà là một việc cá nhân, cũng có thể nói là chuyện yêu đương gì đó.

    - Người đàn bà ấy là ai?

    - Là con gái của một nhân vật lịch sử. Tôi rất quen thuộc nhân vật lịch sử này, - Vư-si-mia-xki nói giọng đầy tự hào. - Chắc anh đã có nghe đến cái tên Ta-ta-ri-nốp rồi chứ? Hiện nay chúng tôi đang tìm kiếm con gái của ông ấy. Đáng lẽ chúng tôi đã tìm ra chị ấy từ lâu rồi, nhưng đầu mối lung tung quá. Chị ấy đã lấy chồng nên chị ấy có hai họ.
     
    Last edited by a moderator: 7/6/15
  14. Rafa

    Rafa SV

    Chương 19

    “Anh không thể giết chết được tôi”​

    Cuộc sống như đột nhiên dừng lại trong khi nó đang lao nhanh về phía trước. Vì tôi không dự kiến trước quán tính của sự vận động nên bị bất ngờ đập trán vào bức tường suy tưởng. Tôi nhìn ông già đứng trước mặt tôi, nghĩ rằng lúc này ông ta còn là người minh mẫn. Ông đứng giữa một căn phòng sáng láng và bảo cho tôi biết rằng Rô-ma-sốp cũng đang tìm kiếm Ca-chi-a, nghĩa là hắn ta cũng làm cái việc mà tôi đang làm.

    Nhưng cuộc nói chuyện giữa hai chúng tôi vẫn cứ tiếp tục như không có gì xảy ra. Từ chuyện Ca-chi-a, Vư-si-mia-xki nói dây sang một ủy viên địa phương nào đó, rằng ông ủy viên kia không có quyền gọi ông ta là "viên chức cũ". Sau đó ông ta lại đắm mình trong những hồi ức xa xưa. Ông kể rằng hồi năm 1908, cứ mỗi lần ông từ nhà hát đi ra, người soát vé liền gọi to: "Xe ngài Vư-si-mia-xki" và chiếc xe ngựa bóng nhoáng liền hiện ra trước mắt ông. Hồi ấy ông đội chiếc mũ đại lễ, khoác áo đuôi tôm... Tất cả những thứ ấy giờ đây không còn hợp thời trang nữa, ông cảm thấy "rất đáng tiếc", vì chúng rất đẹp.

    - Ông ấy mất từ hồi nào nhỉ? - Đột nhiên ông ta hỏi, giọng khác hẳn.

    - Ai kia?

    - Ông Cô-ra-bơ-li-ốp.

    - Sao lại mất? Ông ấy còn sống rất khỏe mạnh đấy chứ, ông Ni-cô-lai I-va-nô-vích ạ! - Tôi nói giọng bông đùa nhưng trong lòng run lên, nghĩ bụng: "Hãy chuẩn bị sẵn sàng, mọi việc sắp vỡ ra rồi". - Ông nói đây là một việc cá nhân, phải không nào, còn người đàn bà kia thì sao?

    - Vâng, đây là một việc cá nhân. Nhưng là một việc cá nhân rất cần kíp. Thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp là một nhân vật lịch sử. Mi-kha-in Va-xi-li-e-vích Rô-ma-sốp đã từng tìm đến Lê-nin-grát. Trong thời gian thành phố bị phong tỏa, anh ấy đã ăn đến cả hồ dán giấy trên tường. Bí quá, anh ấy ra đi kiếm thịt, nhưng khi quay về thì mọi người đã đi sơ tán cả rồi.

    - Sơ tán ở đâu?

    - Vấn đề chính là ở chỗ đó, - ông già nói giọng nghiêm trang.

    - Anh có biết chuyến ấy người ta đi sơ tán như thế nào không? Anh hãy thử đi tìm họ xem! Vấn đề chính là, nếu chị ấy đi bằng tàu hỏa thì chỉ cần dò ra tàu chở đơn vị nào là có thể tìm ra. Giả dụ là chuyến chuyên xa của xí nghiệp liên hợp làm lạnh, thì họ đi Xi-bê-ri. chỉ cần đến đó tìm gặp. Nhưng đằng này chị ấy lại đi bằng máy bay!

    - Sao đi bằng máy bay ư?

    - Đúng thế, rõ ràng là chị ấy đã được hưởng quyền ưu tiên trong khi đi sơ tán. Vì thế mà đứt liên lạc, không còn ai có thể biết chị ấy hiện ở đâu nữa. Đấy, anh xem, tìm bằng cách nào bây giờ. Chỉ biết được có một điều là chiếc máy bay ấy đã bay qua ga Khơ-vôi-nai-a, tức là chính cái ga mà Mi-kha-in Va-xi-li-e-vích Rô-ma-sốp đến để kiếm thịt ấy.

    Đến lúc này chợt trong tôi hình thành một cảm giác bản năng rằng lúc nào thì nên im lặng, và lúc nào chỉ nên nói vài ba câu để khơi chuyện. Tôi đương là một quân nhân, hình như vừa từ bệnh viện ra, người vừa gầy vừa đen, đến thăm một người bạn đã từng chia tay nhau ngoài mặt trận, để biết giờ đây bạn ấy làm gì và sống như thế nào... "Hãy chuẩn bị sẵn sàng, mọi việc sắp vỡ ra rồi".

    - Vậy đến bây giờ đã tìm được người đàn bà ấy chưa?

    - Chưa. Nhưng theo kế hoạch của tôi thì thế nào cũng tìm được, - Vư-si-mia-xki đáp. - Tôi viết thư cho sở hỏi tin trung ương Bu-gu-ru-xlan, nhưng kết qủa không ra gì. Họ gửi cho chúng tôi một bản danh sách gồm có hàng chục cái họ Ta-ta-ri-nốp và hàng trăm cái họ Gri-gô-ri-ép. Chúng tôi không biết cần phải bắt đầu tìm từ người nào trong cái danh sách ấy. Và thế là tôi trực tiếp đến gặp các chủ tịch hội đồng hành chính của các tỉnh thành. Việc này quả là một nhiệm vụ trọng đại, một sự lao động lớn lao, nhưng Ta-ta-ri-nốp là bạn của tôi, nên tôi có tìm ra con gái của ông ấy. Vì vậy ba tháng nay tôi đã viết hàng ngàn bức thư cùng một nội dung như nhau, nào là xin đồng chí chỉ giúp, nào là nhân vật lịch sử, vân vân và vân vân để gửi đi khắp nơi. Kết quả là chúng tôi đã nhận được những thứ này.

    Bỗng chuông cửa vang lên một hồi đinh tai. Vư-si-mia-xki nói:

    - Anh ấỵ về rồi đấy!

    Mặt ông ta có vẻ biến sắc, mớ tóc trắng trên đầu khẽ rung lên và bộ ria chổi sể như cụp xuống. Ông ta đi vào phòng trong. Tôi chậm rãi đứng lên bên bức tường cạnh cửa ra vào, để khi bước vào Rô-ma-sốp không nhìn thấy ngay.

    Vư-si-mia-xki đã báo cho hắn từ phòng treo áo:

    - Có người đang chờ anh đấy.

    Hắn liền hỏi ngay:

    - Ai thế?

    Ông già đáp:

    - Một người tên là Gri-gô-ri-ép.

    Hắn không bước lùi trở ra, mặc dù lúc ấy hắn có đủ thì giờ để làm việc ấy. Còn tôi thì vẫn ung dung chậm rãi. Hắn đứng trong một góc tối giũa cái tủ mắc áo với bức tường. Sau khi nhìn thấy tôi, hắn kêu lên một tiếng kinh hãi rồi đưa hai tay bưng lấy mặt như trẻ con. Trên ổ khóa cạnh cửa ngoài có một chiếc chìa khóa dài, tôi vặn một vòng khóa trái cửa lại rồi rút ra, cất vào túi. Ông già Vư-si-mia-xki đứng giữa hai chúng tôi. Tôi cầm lấy cánh tay ông ta và ôm lấy ông ta đẩy sang một bên. Sau đó không biết vì duyên cớ gì, tôi lại chạm mạnh vào ông ta một lần nữa, khiến ông ta ngã ngồi xuống chiếc ghế bành một cách máy móc.

    - Nào, chúng ta nói chuyện với nhau đi, - tôi nói vói Rô-ma-sốp.

    Hắn nín thít. Hắn đưa chiếc mũ lên miệng, cắn chặt. Tôi lại nói tiếp:

    - Thế nào?

    Hắn hốt hoảng lắc đầu.

    - Không đi à?

    Hắn kêu lên:

    - Không!

    Nhưng lúc này hắn đã có vẻ bình tĩnh hơn lúc mới trông thấy tôi. Tôi cầm tay hắn kéo đi. Hắn ưỡn thẳng ngực, cùng tôi đi vào phòng. Lúc này ngoài cái ánh mắt dè chừng, sắc mặt hắn đã khác hẳn, trở nên bình thản và lì lợm.

    - Đã nhìn thấy chưa, tao vẫn còn sống nguyên đây, - tôi nói khẽ.

    - À, thấy rồi.

    Tôi nhìn kỹ hắn. Hắn mặc bộ âu phục màu tro, trên ve áo gắn chiếc huy hiệu màu vàng, dấu hiệu của người đã từng bị trọng thương. Song sự thực thì hắn chỉ bị chân thương xoàng. Bên dưới tấm huy hiệu có một chiếc cúc ánh lên trong bóng tối lờ mò. Hắn đã phát phì. Nếu không có đôi tai đỏ tía dựng ngược lên, như đang thi tài với chiếc cúc áo tỏa ánh sáng hồng kia, thì có thể nói rằng từ trước đến nay chưa bao giờ hắn làm một con người tự trọng.

    - Súng lục đâu đưa đây.

    Tôi ngỡ hắn sẽ nói láo rằng khi phục viên đã nộp trả kho. Nhưng trên khẩu súng ấy có khắc tên tôi, đây là giải thưởng mà đồng chí trung đoàn trưởng đã trao cho tôi sau trận oanh kích cầu Na-rô-va. Nếu Rô-ma-sốp đem nộp súng vào kho thì hắn sẽ tự làm lộ mình. Chính đó là nguyên do vì sao lúc ấy hắn lặng lẽ và ngoan ngoãn kéo ngăn tủ, lấy khẩu súng lục ấy ra. Trong súng không có đạn.

    - Các thứ giấy tờ đâu?

    Hắn im lặng.

    - Thế nào?

    - Bị ướt và mất cả rồi, - hắn nói giọng hấp tấp. - Tôi bị ngập nước trong hầm phòng không ở Lê-nin-grát. Lúc ấy tôi bị ngất. Chỉ còn giữ được tấm ảnh của đồng chí TR. Tôi đã giao tấm ảnh ấy cho Ca-chi-a. Chính tôi đã cứu sống cô ấy.

    - Thật ư?

    - Đúng thế, chính tôi đã cứu sống cô ấy. Vì vậy nên không có gì đáng làm cho tôi sợ hãi cả. Dầu sao thì anh cũng không thế giết chết tôi được.

    - Đế rồi xem sao. Đồ súc sinh, mày hãy kể lại tất cả mọi chuyện đã xảy ra cho tao nghe, - tôi túm chặt lấy cổ áo hắn, hắn thở hổn hển khó nhọc, nên tôi liền bỏ ra.

    - Khi cô ấy hấp hối, tôi đã đem đến cho cô ấy tất cả mọi thứ cần thiết. Anh có thể không tin tôi, - hắn quay người sang một bên, vừa nhìn vào mắt tôi, vừa nói như gào lên. - Nhưng rồi anh sẽ phải tin lời tôi nói, tôi sẽ kể tất cả. Anh chẳng biết gì hết. Tôi không ưa anh.

    - Chẳng lẽ lại như thế ư?

    - Tại sao tôi lại phải thích anh? Anh tước hết mọi thứ tốt đẹp nhất của đời người từ trong tay tôi. Tôi có thể làm được mọi thứ chuyện. - hắn nói giọng kiêu ngạo. - Số tôi đỏ lắm, vì chung quanh tôi toàn là những đứa ngốc. Tôi có thể bay lên tận trời xanh, nhưng tôi không màng đến cái đó!

    "Tôi không màng đến cái đó" - câu này hắn nhỡ nói quá chắc nịch. Theo chỗ tôi biết, Rô-ma-sốp chẳng những coi trọng cái đó, mà còn mải miết theo đuổi nó, theo đuổi danh vọng. Và trong phương diện này thì bước đi của hắn khá thuận buồm xuôi gió. Số phận của hắn quả là may mắn, nhất là khi nghĩ đến sự ngu đần tột độ của hắn hồi còn là học sinh tiểu học.

    - Hãy bình tĩnh nghe tôi nói, - hắn nói, mặt trắng bệch đến nỗi tôi có cảm giác không thể nào trắng hơn được nữa. - Hãy tin tôi, tôi sẽ nói tất cả sự thật. Chính tôi đã phá đám công việc của đội thám hiểm đi tìm kiếm thuyền trưởng Ta-ta-ri-nôp. Thoạt đầu tôi đã giúp Ca-chi-a tổ chức việc này vì lúc ấy tôi nghĩ rằng anh sẽ ra đi một mình. Nhưng sau đó Ca-chi-a quyết định cùng đi với anh, nên tôi đã thọc gậy bánh xe, làm tan rã đội thám hiểm. Tôi đã viết một bản báo cáo, đó là một bản báo cáo rất mạo hiểm. Nếu trong bản báo cáo đó tôi không thể chứng minh được tính chính xác của nó, thì tôi có nguy cơ bị lộ chân tướng. Nhưng tôi đã thành công.

    Bên trong cái cặp da màu tro có hằn hai chữ "M. R." bằng kim tuyến, cặp một số giấy tờ. Tôi rút ra một tờ, Rô-ma-sốp đớ người ra, đôi mắt tròn xoe của hắn nhìn đóng đinh vào một điểm nào đó trên đầu tôi. Tuồng như hắn cố vượt lên trước thời gian, nhìn vào tương lai của mình, hắn muốn đoán biết trong cái động tác đơn giản rút tờ giấy từ trong cặp ra và đặt ngay trước mặt hắn kia của tôi có mối đe dọa gì đối với hắn.

    - Được, anh cứ viết đi, - hắn nói. - Cái con người ra tay ngăn trở công việc của đội thám hiểm ấy về sau đã bị đào thải và chết trong im lặng. Không hề gì, nếu anh cảm thấy những việc này còn có một thứ giá trị nào đó thì hãy ghi lấy.

    - Chả có giá trị nào cả. - tôi lạnh lùng đáp.

    - Tôi đã báo cáo rằng anh là kẻ bị bệnh thần kinh, lúc nào cũng tâm niệm mỗi một điều là tìm tung tích của vị thuvền trưởng Ta-ta-ri-nốp đã mất tích ở một nơi nào đó không ai biết những hai mươi năm về trước. Rằng hồi còn học ở trường tiểu học, tôi đã quen anh và biết anh mắc bệnh thần kinh từ ngày ấy. Nhưng trong những hoạt động này của anh, cũng còn một nguyên nhân khác nữa. Đó là vì anh đã cưới con gái thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp làm vợ, anh muốn leo cao nên khăng khăng dựa vào tên tuổi của thuyền trưởng để kiếm chác uy tín và danh dự cho mình. Bản báo cáo ấy không chỉ một mình tôi viết.

    - Tất nhiên rồi!

    - Anh còn nhớ bài báo "Để bảo vệ nhà bác học" không? Đó là bài của Ni-cô-lai An-tô-nô-vích. Trong bản báo cáo của mình, chúng tôi đã trích bài báo ấy để làm dẫn chứng.

    - Và cũng để vu khống nữa, phải không?

    Tôi bắt đầu ghi lại những lời hắn nói, và cố ghi thật nhanh.

    - Vâng, cũng có thể nói như vậy. Chúng tôi đã cố chứng minh rằng những luận điểm của mình đều chính xác. Tôi đã đưa bản báo cáo ấy cho bà Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na và lừa bà ấy ký tên vào. Lạy Chúa, về sau tôi đã phải vất vả như thế nào mới làm cho người ta không gọi bà ấy đến trực tiếp làm chứng! Thật là khó hết chỗ nói. Anh không thể biết được rằng cú ấy đã hại anh đến mức nào đâu. Nhất định là nó đã ảnh hưởng rất nhiều đến uy tín của anh trong thời gian công tác ở Cục hàng không dân dụng, và sau này phục vụ trong quân đội. Chắc chắn là như thế.

    Làm sao có thể diễn đạt được những cảm giác của tôi sau khi nghe những lời cung khai trên đây của Rô-ma-sốp? Tôi thực tình không hiểu nổi tại sao hắn lại để lộ cái sự thực ghê tởm ấy ra. Song cái ý đồ không lấy gì làm phức tạp ấy của hắn đã bị khám phá một cách nhanh chóng. Từ trước đến nay, bất cứ ở đâu và khi xảy ra việc gì, tôi đều có thói quen suy nghĩ, phân tích và lúc này mọi việc như hiện ra một cách rõ ràng dưới một luồng phản quang. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 7/6/15
  15. Rafa

    Rafa SV

    Chương 20

    Bóng tối

    - Chuyện nói lại từ đầu rất dài, nó xảy ra từ hồi chúng ta còn ngồi ở ghế nhà trường tiểu học, - Rô-ma-sốp nói tiếp. - Hồi ấy, đêm nào tôi cũng phải cặm cụi học mới có thể lên lớp trả lời thầy giáo một cách lưu loát như anh. Tôi cố kiềm chế mình không nghĩ đến tiền tài, vì tôi thấy nó chẳng lôi cuốn được anh. Tôi đã từng mong được như anh, được trở thành anh. Tôi cảm thấy rất đau khổ vì anh luôn luôn hơn tôi một cái đầu, anh vững vàng hơn tôi.

    Bàn tay run run của hắn thò ra rút một điếu thuốc trong chiếc hộp thủy tinh đặt trên mặt bàn rồi quờ quạng tìm lửa.

    Tôi bật máy lửa cho hắn. Hắn châm thuốc, hít một hơi dài rồi ném điếu thuốc ra xa.

    - Có lúc thấy anh trên đường phố, tôi thường phải giấu mình vào một góc nào đó và sau đó bám theo phía sau như một cái đuôi. Trong nhà hát, tôi thường ngồi đằng sau anh. Lạy Chúa, không biết tôi với anh khác nhau ở chỗ nào mà những điều tôi nhìn thấy không thể nào giống như các anh, cách nhìn của tôi đối với mọi chuyện đều khác các anh. Đúng rằng chẳng những Ca-chi-a là giao điểm tranh giành của chúng ta, mà tôi có cảm giác rằng bất cứ việc gì ở bất cứ nơi nào, tôi đều phải giành giật đấu tranh với anh. Chính đấy là nguyên do tại sao tôi hiểu cặn kẽ mọi chi tiết sinh hoạt của anh. Anh đã từng làm việc trong Đội Hàng không nông nghiệp Von-ga, sau đó đến Viễn Đông. Khi anh xin ra Bắc cực không được, đã sung vào đoàn quân sang Tây Ban Nha. Ôi, đấy chính là điều tôi hằng ao ước, nhưng về sau anh lại trở vê an toàn, - hắn gào lên một cách phẫn uất. - Hơn nữa, từ đó về sau, con đường anh đi cứ thuận buồm xuôi gió. Anh sống cùng Ca-chi-a và hai người trở về En-xcơ. Đấy anh xem, ngay cả những việc có thể anh đã quên, tôi vẫn còn nhớ rạch ròi. Anh có thể quên đi, bởi anh là con người hạnh phúc! Còn tôi thì không thể được, bởi tôi là con người bất hạnh.

    Hắn chán nản thở dài, khép hai mắt lại rồi lại mở ra. Trong khoảnh khắc, như có một luồng ý nghĩ tỉnh táo, sắc bén, khác hẳn với cái nhiệt tâm muốn bộc bạch tâm trạng của mình loáng qua trong đầu óc hắn. Tôi im lặng nghe hắn nói tiếp.

    - Đúng là tôi muốn tách lìa anh với Ca-chi-a ra. Vì mốì tình yêu đó là hạnh phúc lớn nhất trong đời anh. Tôi ghen tức đến cùng cực. Tôi nghĩ rằng anh yêu cô ấy chỉ đơn thuần vì tình yêu thôi. Còn tôi thì còn vì muốn dành cô ấy ra khỏi tay anh. Bây giờ tôi lại đi nói chuyện tình yêu với anh, thực là nực cười! Nhưng kết quả của cuộc tranh đoạt ấy là sự thất bại của tôi. Đối với tôi, cái nhục này còn cay đắng hơn cả việc anh vẫn còn sống trở về và số phận lại lừa dối tôi.

    Tiếng chuông điện thoại đặt ở cửa ra vào bỗng vang lên. Tiếng Vư-si-mia-xki trả lời:

    - Vâng, anh ấy về rồi. Ông là ai ạ?

    Nhưng không hiểu sao ông ta không gọi Rô-ma-sốp ra nói chuyện.

    - Lúc ấy chiến tranh nổ ra, tôi cũng ghi tên tòng quân. Chính ra là tôi được miễn quân dịch nhưng tôi đã từ chối việc ấy. Nếu trong thời gian ấy mà tôi bị trúng đạn chết thì hay biết chừng nào! Nhưng tự trong đáy lòng tôi vẫn mong anh chết. Chính thế, mong anh chết! Một hôm, trong lúc tôi đang nằm trong một gian nhà kho, một phi công mang báo đến đứng ở cửa đọc. “Ô, cừ khôi thật!” - anh ta reo lên - “Nhưng thật tiếc bị hy sinh mất rồi” - “Ai thế?” - “Đại úy Gri-gô-ri-ép cùng toán bay của đồng chí ấy”. Tôi đã đi đọc lại mẩu tin ấy có đến hàng nghìn lần, cho đến khi thuộc làu từng chữ một. Không ngờ mấy ngày sau, tôi lại gặp anh trên đoàn tàu quân sự.

    Thực là một việc lạ lùng, tuồng như vì tôi không làm thỏa mãn sự mong muốn của hắn, cứ ngang nhiên sông mãi, nên bây giờ hắn có quyền buộc tội tôi phải đồng tình với hắn. Nhưng hắn nói rất hăng hái, không mảy may chú ý đến cái vị trí mà hắn đương lâm vào.

    - Những việc này xảy ra về sau thì anh đã biết cả rồi. Thật đúng là một cơn ác mộng, hễ nhớ đến là cảm thấy hổ thẹn vô cùng! Khi còn trên tàu hỏa, điều khiến tôi hết sức ngạc nhiên là hầu như anh không hề nhớ đến Ca-chi-a. Tôi thấy điều mà anh quan tâm lúc ấy là tình hình hỗn loạn của mặt trận. Đấy là tác phong của anh, tôi biết vậy. Anh có thể sằn sàng hy sinh thân mình chứ không chịu rút lui. Cái đó đối với tôi, lại một lần nữa chứng minh rằng anh cao hơn tôi một cái đầu, rằng anh vững vàng hơn tôi.

    Hắn bỗng im bặt không nói nữa. Hắn ngồi ngay trước mặt tôi, mặc bộ quần áo màu tro, trông hệt như một bức tượng. Tuồng như trên thế giới này, từ xưa đến nay chưa bao giờ tồn tại những cánh rừng bạch dương, những lớp lá rụng ẩm ướt, cùng đống cành khô đã ngăn trở chiếc gậy khi ném tới. Tuồng như chưa có lúc nào tôi nằm chống khuỷu tay trên mặt đất, gắng sức cưỡng lại một câu gọi cứ muôn bật ra mồm: “Rô-ma-sốp, hãv quay lại”. Lúc ấy thậm chí tôi đã bóp chặt nắm tay đến phát đau lên, tức nỗi không thể dùng súng lục giết chết hắn.

    - Đúng thế, đúng là mày đã tìm hết mọi mưu ma chước quỉ để định hại tao, - tôi nói. - Bây giờ mày hãy ký vào tờ giấy này.

    Trong lúc hắn kể thao thao bất tuyệt, tôi đã ghi lại lời “cung khai” của hắn, đấy cũng chính là tóm tắt quá trình phá hoại công việc tìm kiếm của đội thám hiểm. Tôi không biết viết công văn, đối với tôi, đó là một công việc hết sức rắc rối. Nhưng tôi có thể viết hết “Lời khai của Rô-ma-sốp” theo như lời hắn nói: “Lừa dối lãnh đạo của Tổng cục Đường hàng không Bắc cực một cách bỉ ổi” vân vân.

    Rô-ma-sốp đọc lướt qua một lượt bản ghi của tôi.

    - Được. - hắn hạ thấp giọng nói. - Nhưng trước hết tôi cần phải giải thích cho anh rõ...

    - Hãy ký đi rồi sau sẽ giải thích.

    - Nhưng anh sẽ không hiểu...

    - Ký đi, đồ đê tiện! - Giọng nói của tôi khiến hắn hốt hoảng. Hai hàm răng của hắn va vào nhau lập cập.

    - Ký đi!

    Hắn ký xong, hằn học ném cây bút sang một bên.

    - Anh cần phải cám ơn tôi mới phải, nhưng bây giờ anh lại muốn lợi dụng lòng chân thành của tôi để hại tôi. Được lắm!

    - Đúng thế, mày là kẻ cần phải trừng trị xứng đáng.

    Hắn nhìn tôi. Lúc này hình như hắn lại hối hận là đã không kết liễu tôi ngay trong khu rừng bạch dương.

    - Sau khi về đến Mát-xcơ-va, - hắn lại tiếp tục kể, - tôi liền tích cực tìm cách đến Lê-nin-grát. Tôi đi qua hồ La-đô-ga, ở đấy nhiều tàu bè đã bị đắm vì bom đạn của bọn Đức. Nhưng cuối cùng tôi đã đi đến nơi, và đến đúng như ngày giờ đã định trước. Thật là ơn Chúa, ơn Thượng đế, - hắn dừng lại giây lát rồi vội vã nói thêm. - Chỉ cần đến chậm một ngày, không biết sẽ xảy ra việc gì, chắc là tôi chỉ có thể đến để đưa ma cô ấy thôi.

    Việc ấy có thể là sự thực. Khi nghe Vư-si-mia-xki nói hắn đã từng đến Lê-nin-grát, tôi liền nhớ đến cái viên thiếu tá tóc đỏ mà chị quét đường và các em nhỏ đã kể lại: “Cô ấy gặp một người tóc đỏ, anh ta có mang theo bánh mì. Cả một ba lô to những bánh và thức ăn, lúc nào cũng cõng trên lưng, không chịu đưa cho tôi giữ hộ”. Nhưng có một điều khiến tôi băn khoăn không yên tâm. Chắc chắn là hắn đã nói cho Ca-chi-a biết rằng tôi đã hy sinh, tất nhiên là hy sinh trong lúc chiến đấu chứ không phải trong cánh rừng bạch dương.

    - Tôi đến Lê-nin-grát như thế đấy. Anh không thể hình dung ra tình hình lúc ấy đâu. Tôi lĩnh được ba trăm gam bánh mì, đã đưa cho Ca-chi-a một nửa. Đến cuối tháng chạp, tôi lại xoay được một ít đường mạch nha. Khi tôi đưa cho Ca-chi-a, tôi đã cắn gần như nát cả ngón tay của mình. Tôi ngã quị xuống ngay trước giường của cô ta, cô ta kêu lên “Mi-sa”, nhưng tôi không còn đủ sức để đứng dậy được nữa. Tôi đã cứu sống cô ấy, - hắn cố nhấn mạnh cái ý cuối cùng ấy, vì sợ tôi không tin lời hắn. - Còn bản thân tôi tại sao lại không chết, vì chính tôi thực sự hiểu rằng cô ấy và anh đều cần đến tôi.

    - Cả tao cũng cần đên mày kia ư?

    - Phải, anh cũng cần đến tôi. Xcô-vô-rốt-ni-cốp viết thư cho cô ấy nói rằng anh đã bị bắn chết. Khi tôi đến, cô ấy đã thân tàn ma dại vì quá đau thương. Nhưng khi tôi nói rằng tôi đã gặp anh còn sống thì sức sống của cô ấy... chà, chỉ cần anh nhìn thấy một chút thôi! Chính trong giây khắc ấy tôi đã thấy rõ hết nỗi đê tiện của mình, - hắn hét to lên. Giọng hắn to đến nỗi căn phòng dội lên một hồi âm vang động, khiến ông già Vư-si-mia-xki giật mình ngã từ trên ghế xuống. - Đứng trước một mối tình nhu thế, tôi trở nên đê tiện quá. Lúc ấy tôi đau khổ như bị thắt cổ, hối hận là đã nuôi ý nghĩ giết hại anh. Nếu anh chết, cái chết ấy sẽ không mảy may mang đến hạnh phúc cho tôi.

    - Nói hết chưa nào?

    - Vâng, hết rồi. Vào giữa tháng Giêng tôi bị cử đi công tác ở Khơ-vôi-nai-a. Hai tuần sau, khi tôi mang được thịt trở về thì căn phòng vắng tanh. Chắc anh cũng biết Va-ria Trô-phi-nô-va, bà ấy đã đưa Ca-chi-a lên máy bay đi mất rồi.

    - Đi đâu?

    - Tôi đã hỏi rõ đến Vô-lô-gơ-đa, sau đó chuyển đến l-a-rô- xláp.

    - Mày đã hỏi ai ở I-a-rô-xláp chưa?

    - Đã hỏi trường trạm sơ tán, ông ta quen tôi.

    - Đã nhận được thư trả lời rồi chứ?

    - Rồi, nhưng trong thư ông ta cho biết là Ca-chi-a chỉ lưu lại trạm ấy trong một thời gian ngắn, sau đó lại được chuyển đến bệnh viện dành riêng cho người Lê-nin-grát.

    - Đưa thư ra xem nào.

    Hắn mở ngăn kéo lấy đưa tôi mội bức thư. “Trạm Phơ-xpô-li-e, - tôi đọc. - Về việc anh hỏi...

    - Tại sao lại Phơ-xpô-li-e?

    - Trạm sơ tán đóng tại đó, cách I-a-rô-xláp hai ki-lô-mét.

    - Bây giờ tất cả đã nói hết rồi chứ?

    - Hết rồi.

    - Thế thì hãy nghe tao nói đây. - tôi cố tự kiềm chế để khỏi để lộ sự xúc động, nói với Rô-ma-sốp. - Dù mày đã tận tình chăm sóc Ca-chi-a đến mức nào, việc tha thứ cho mày hay không tao cũng không thể quyết định được. Vì những hành động mà mày đã đối xử với tao vừa qua không còn là sự tranh chấp cá nhân giữa hai người nữa. Khi mày định giết chết tao, giết chết một người đang bị thương nặng, cướp đi tất cả của cải tài liệu, bỏ rơi tao một mình trong rừng vắng, là không phải mày đấu trí với tao nữa. Hành động đó đã trở thành hành vi phạm tội mang tính chất nhà binh. Mày đã phạm một tội như vậy, nên trước hết cần phải xét xử như một tên đào ngũ đã phản bội lời thề.

    Tôi ném một cái nhìn giận dữ vào giữa mặt hắn. Nhưng ngay lúc đó tôi cảm thấy rất lạ, hắn không hề nghe tôi nói. Có tiếng bước chân của hai ba người nào đó đang đi lên cầu thang. Rô-ma-sốp hốt hoảng nhìn bốn chung quanh và đứng bật dậy.

    Bên ngoài có tiếng gõ cửa, sau đó ấn chuông.

    - Có mở không ạ? - Vư-si-mia-xki từ phòng bên hỏi vọng sang.

    - Không! - Rô-ma-sốp dằn giọng. - Hãy hỏi xem họ là ai đã. - Hắn như người mất hồn, giọng nói lắp bắp, run run. Hắn nói thêm một câu rồi khẽ khàng xoay chân đi một vòng trong phòng như khiêu vũ.

    - Ai đấy?

    - Mở cửa, chúng tôi ở Phòng Quản lý nhà đất đây.

    Rô-ma-sốp hắt ra một hơi thở bị nén trong hai hàm răng nghiến chặt.

    - Bảo họ là tôi không có nhà.

    - Khi nãy họ gọi điện thoại đến, tôi không biết nên đã bảo với họ là anh có nhà.

    - Tất nhiên là có nhà rồi, - tôi nói lớn.

    Rô-ma-sốp nhảy bổ về phía tôi, chụp giữ lấy cánh tay tôi. Tôi đẩy hắn ra. Hắn rít lên qua kẽ răng rồi đi theo sau tôi ra hành lang, và giống như khi nãy, hắn đứng như phỗng giữa bức tường và chiếc tủ áo.

    - Xin chờ một tí, - tôi nói. - Tôi mở ngay bây giờ đây.

    Hai người từ bên ngoài bước vào - một người đàn ông trạc trung niên, nom vẻ mặt đăm chiêu với cái dáng đủng đỉnh chủ nhân của ông ta, có thể đoán biết ông ta là nhân viên quản lý nhà đất. Còn người thứ hai chính là người mà tôi đã gặp trong Sở Quản lý nhà đất, anh ta còn rất trẻ, đầu đội chiếc mũ “phớt” loại hảo hạng, động tác chậm chạp. Người trẻ tuổi ấy thoạt tiên nhìn tôi rồi thong thả nhìn sang phía Rô-ma-sốp.

    - Ông là công dân Rô-ma-sốp phải không?

    - Vâng.

    Vư-si-mia-xki sợ xanh mặt. Giọng nói của người trẻ tuổi rất vang, đến nỗi làm cho mọi người đều phải quay lại nhìn về phía anh ta.

    - Có vũ khí trong người không?

    - Không. - Rô-ma-sốp trả lời như một cái máy, các thớ thịt trên mặt hắn giật lên từng cơn.

    - Thôi được, hãy chuẩn bị hành lý đi. Không cần mang theo nhiều. Chỉ cần quần áo thay đổi. Đồng chí quản lý, nhờ đồng chí dẫn phạm nhân đi. Đồng chí đại úy, đề nghị đồng chí đưa tất cả chứng từ ra xem...

    - Ni-cô-lai I-va-nô-ních, đây là chuyện nhảm nhí, chuyện vớ vẩn! - Rô-ma-sốp hét lên từ phòng bên cạnh, hắn đang thu xếp đồ đạc vào trong túi xách. - Chỉ vài ngày là tôi trở về thôi. Còn phải lo cho cái chuyện hạ thủy chết tiệt kia nữa. Bác phải nhớ chuyện hạ thủy mà tôi đã nói với bác đấy nhé.

    Hai hàm ràng ông Vư-si-mia-xki lại va vào nhau lập cập. Rất dễ dàng nhận ra rằng ông ta chưa hề được nghe nói về cái chuyện hạ thủy gì đó bao giờ.

    - Xa-nhi-a, mong rằng anh có thể tìm được cô ấy ở I-a-rô-xláp, - giọng Rô-ma-sốp cất cao hẳn lên. - Hãy chuyển lời hỏi thăm của tôi...

    Tôi nhìn thấy hắn ném cái túi xách xuống sàn nhà và nhắm nghiền hai mắt, đứng lặng hồi lâu.

    - Được lắm, chả có gì ghê gớm cả, - hắn lẩm bẩm trong miệng.

    - Xin lỗi, ông có thể cho xin cốc nước uống không ạ? - Người trẻ tuổi hỏi ông Vư-si-mia-xki.

    Vư-si-mia-xki đem ra một cốc nước cho người trẻ tuổi. Lúc này mọi người đã đứng ngoài hành lang. Rô-ma-sốp đeo túi xách trên lưng, người quản lý nhà đất vẫn im lặng không nói một câu nào, ông già Vư-si-mia-xki thì kinh hoàng cầm chiếc cốc không trong tay. Mấy giây im lặng nặng nề trôi qua. Chợt người trinh sát viên mặc thường phục đẩy cửa ra.

    - Xin chào. Xin lỗi là đã làm phiền đến ông. - Sau đó anh ta lịch thiệp dẫn Rô-ma-sốp đi.

    *
    * *​

    Lần này, thần vận mệnh thông qua người đại diện của Cục cảnh sát Mát-xcơ-va ập đến nhà Rô-ma-sốp, làm gián đoạn cuộc nói chuyện của chúng tôi. Nếu lúc ấy có nhiều thì giờ, chắc tôi cũng sẽ tìm cách thăm dò những nguyên do và sự phát triển của chuyện ấy. Nhưng tàu hỏa đi I-a-rô-xláp sẽ khởi hành vào lúc 20 giờ hai mươi phút, mà tôi còn mấy việc sau đây cần phải làm:

    a) Đi gặp Xle-pu-skin. Chẳng những chỉ gặp mà còn phải làm thủ tục, có thể phải mất một tiếng rưỡi đồng hồ.

    b) Đến Cục Khen thưởng. Khi còn ở thành phố M., tôi đã nhận được giấy báo rằng cấp trên đã phê chuẩn việc tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ hạng hai cho tôi. Có thể đến Hội đồng nhân dân lĩnh giấy chứng nhận.

    c) Chuẩn bị thức ăn mang theo dọc đường. Các thứ thực phẩm tôi mang từ M. đến đều nhường lại cho một phi công bạn chiến đấu của tôi, trước kia cùng trung đoàn ở Lê-nin-grát, và hiện nay cậu ấy công tác ở vùng biển Ban-tích.

    d) Mua vé tàu. Nhưng vấn đề này không đáng lo lắm, vì dẫu không có vé tôi cũng đi được.

    Ngoài ra tôi còn phải viết vài nét về Rô-ma-sốp theo yêu cầu của chánh án Tòa án quân sự.

    Tất cả những công việc đó tôi đều phải hoàn thành, có nghĩa rằng đây là nội dung cuộc sống của tôi trong bốn, năm tiếng đồng hồ trước khi lên tàu đi I-a-rô-xláp. Nhưng ngay bây giờ tôi phải đến nhà Va-li-a Giu-cốp. Từ đây đến đó phải mất khoảng năm phút, tôi quyết định dùng số thời gian này để suy nghĩ về những lời nói nửa giả nửa thật để hòng thoát thân vừa rồi của Rô-ma-sốp.

    Tôi dừng lại trên quảng trường A-rơ-bát một lúc, suy nghĩ xem có cần đến nhà Va-li-a một lần nữa không. Cuối cùng tôi quyết định đi cắt tóc, vì trước khi đến Cục Địa lý thủy văn, cần phải cạo mặt, thay bộ quần áo sạch, bởi vì thiếu tướng hải quân định giới thiệu tôi làm quen với một vị tướng khác.

    Đúng mười bảy giờ tôi có mặt ở nhà Xle-pu-skin. Lúc mười tám giờ đã làm xong mọi thứ thủ tục tại phòng cán bộ của Cục Địa lý thủy văn, lĩnh giấy chứng nhận đi công tác vùng Bắc cực, làm việc dưới sự lãnh đạo của đồng chí R.. Nếu là hai ba năm về trước đây, chỉ cần nhìn thấy những dòng chữ khô khan này, thì trước mắt tôi sẽ hiện ngay lên cảnh những đỉnh núi xa mờ hoang vắng bị ánh nắng yếu ớt ở vùng Bắc cực rọi chiếu rồi. Nhưng bây giờ trong lòng tôi tràn đầy phấn chấn và niềm tự tin. Tôi cất giấy chứng nhận vào túi áo nghĩ bụng: chà, sao lại không đề nghị đồng chí R. dùng điện báo quân sự liên lạc với l-a-rô-xláp nhỉ? Liên lạc được lắm chứ! Tôi vừa nghĩ vừa bước ra khỏi trụ sở Cục Địa lý thủy văn.

    Tôi không định kể về những việc đã ngốn mất một tiếng rưỡi đồng hồ ở Cục Khen thưởng. Nhưng cần phải kể về cuộc gặp gỡ cuối cùng với người Mát-xcơ-va đáng ghi nhớ.

    Tôi bước vào con đường hầm dẫn vào tàu điện ngầm. Lúc này tôi đã mệt lử, một tay xách va-ly, một tay xách ba-lô. Vào giờ tan tầm, tuy đến năm 1942, đường tàu điện ngầm đã được mở rộng, nhưng trước đầu thang máy vẫn còn ùn lại một đám đông người. Chiếc thang máy đưa tôi lên cao dần, tôi chú ý quan sát bộ mặt của những ngươi dân Mát-xcơ-va và bất giác nhận ra rằng trong cái ngày bận rộn, mệt nhọc vừa qua, tôi đã không có đủ thì giờ để nhìn kỹ bộ mặt của thành phố. Lúc ấy tôi chợt nhìn thấy một người đàn ông to béo, đầu đội mũ phớt, mình mặc áo bành tô vai cứng, ông không bước bộ lên bậc thang mà như đang bơi giữa đám đông, thân hình được dần dần nâng lên cao, nhờ bộ máy cực khỏe của chiếc thang máy.

    Người ấy là Ni-cô-lai An-tô-nô-vích.

    Ông ta đã nhận ra tôi chưa nhỉ? Cho dù ông ta đã nhận ra, thì cái anh đại úy quèn, mặc bộ quân phục rách chưa kịp vá, xách chiếc ba-lô cũng rách tươm, để lộ cả một đầu bánh mì ra ngoài như tôi đây, liệu có liên quan gì đến ông ta?

    Ông ta nhìn lướt qua mặt tôi bằng một ánh mắt lơ đãng và nghiêm trang.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 7/6/15
  16. Rafa

    Rafa SV

    Phần thứ chín

    QUYẾT ĐẠT MỤC ĐÍCH CHỨ KHÔNG ĐẦU HÀNG

    Chương 1

    Người vợ

    Trên cánh đồng đêm khuya trùm phủ một thứ im lặng đặc biệt của ngày hò. Tôi đi dọc theo cánh đồng đêm khuya, thong thả tiến vào thành phố. Ánh đèn phòng không quét những luồng sáng dài qua bầu trời đầy sao và yên tĩnh. Thành phố đây rồi. Trên mọi đưòng phố đều gặp các đội tuần tra của Bộ Tư lệnh bảo vệ. Họ chặn tôi lại và kiểm tra giấy tờ. Đây là bệnh viện được xây dựng dành riêng cho người Lê-nin-grát. Cô hộ lý trực ban nghiêm trang giải thích cho tôi biết rằng, đã ba tháng nay bệnh viện của cô không thu nhận một người Lê- nin-grát nào.

    - Chín giờ văn phòng bệnh viện sẽ bắt đầu làm việc - cô ta nói - Mà bây giờ mới có ba giờ rưỡi sáng.

    Tôi ngã lưng xuống chiếc đi-văng ngắn và thấp, mơ màng nửa thức nửa ngủ. Ca-chi-a của tôi lúc này ở đâu?

    Sáng sớm hôm sau, đồng chí bác sĩ chủ nhiệm dẫn tôi vào phòng làm việc của ông. Tất cả mọi thứ dồ đạc trong phòng đều phủ một màu trắng: bàn trắng, cửa số trắng, trên chiếc giường trắng phủ một tấm “đra” cũng trắng tinh. Tôi chìm đắm trong một hồi ức xa xăm. Hồi ấy tôi là một chú bé mười bảy tuổi, tôi ngồi im lặng trong phòng khám và ở buồng trong, qua cánh cửa hé mở, tôi nhìn thấy bà Ma-n-a Va-xi-ép-na nằm trên một chiếc giường phủ ‘‘dra” trắng, sắc mặt bà trắng bệch ra tựa như đẽo bằng ngà voi.

    - Chị ấv tên gì, họ gì và họ bố là gì? Bao nhiêu tuổi? - Đồng chí bác sĩ chủ nhiệm hỏi.

    Tôi nói tên, họ và tuổi của nàng. Lúc ấy một cô hộ lý bước vào, tay đang buộc dây áo “bờ-lu”, bác sĩ liền giao cho cô ta tìm phiếu khám bệnh của Ca-chi-a.

    Chúng tôi ngồi chờ, hút thuốc và trao đối với nhau dăm ba câu chuyện. Gần đây có hơn một nghìn máy bay Anh oanh tạc Brê-men. Có tin đồn tiêu chuẩn cung cấp bánh mì ở Mát-xcơ-va lại nâng cao, tin ấy có đúng không? Hiện nay tuy chúng ta đã ký hiệp định với Anh - Mỹ, nhưng liệu mặt trận thứ hai có được nhanh chóng mở ra không?

    Lúc này cô hộ lý đang lục tìm phiếu khám ở phòng bên cạnh; những tấm phiếu của người còn sống và của người đã chết.

    Chuông điện thoại reo vang, đồng chí bác sĩ chủ nhiệm gắt với ông trưởng phòng Y vụ nào đó hồi lâu. Tôi lặng lẽ ngồi chờ. Cô hộ lý sẽ mang tin gì đến cho tôi đây? Cái chết của Ca-chi-a hay tin vui nàng vẫn còn sống? Sự lặng lẽ đợi chờ này liệu có thể đem đến cho người ta bao niềm thoải mái?

    Cuối cùng cô hộ lý đã trở lại. Đồng chí bác sĩ chủ nhiệm vẫn chưa kết thúc cơn giận dữ của mình qua điện thoại, cô cầm chiếc phiếu trong bàn tay thon nhỏ như tay trẻ con của mình.

    - À. không sao cả - bác sĩ chủ nhiệm nói. - Tình hình sức khỏe của chị ấy rất tốt, đã ra viện hồi tháng ba năm 1942.

    Hình như lúc đó sắc mặt tôi càng tái hơn trước nên ông liền đứng dậy, đi vòng qua chiếc bàn đến cạnh, đặt tay lên vai tôi và nhắc lại rành mạch: “Tình hình sức khỏe rất tốt. Đã ra viện hồi tháng ba năm 1942”.

    Ông nhìn thấy vẻ bối rối lo lắng của tôi khi nghe nói rằng giữa tháng hai, hồng huyết cầu của Ca-chi-a chỉ còn lại bốn mươi hai phần trăm, liền cười vui vẻ.

    Bây giờ đã rõ rồi, nàng đã đi Nô-vô-xi-biếc cùng với trại trẻ. Nếu quả là nàng đã đến thành phố ấy thì cũng tốt biết bao, nhưng không phải! Trại trẻ đóng trong một nông trường cách thành phố Nôvô-xi-biếc những hai trăm cây số.

    Tôi đến ủy ban hành chính tỉnh I-a-rô-xláp chép lại địa chỉ chính xác của trại trẻ: ga I-a-đôm-xeai-a thượng, làng Lúp-ni đại, huyện Su-kin-xki vân vân... Trong bức điện báo ngắn ngủi hai mươi lăm chữ gửi cho Ca-chi-a, địa chỉ của nàng đã chiếm mất mười bảy chữ, lại thêm cái địa chỉ của tôi, vì thế, cuối cùng chỉ còn lại bốn chữ để tôi bày tỏ toàn bộ tình cảm và ý nghĩ của mình đôi với nàng.

    Ngoài bức điện này ra, tôi còn đánh đi ba bức điện khác từ I- a-rô-xláp. Một bức cho dì Đa-sa, báo cho dì ấy biết rằng Ca-chi-a vẫn còn sống và tôi hy vọng là có thể nhanh chóng gặp được nàng. Bức thứ hai cho Va-li-a Giu-cốp ở Mát-xcơ-va, báo tin rằng tôi chưa tìm được Ca-chi-a, rằng có lẽ nàng đã chuyển đến Nô- vô-xi-biếc theo trại trẻ. Bức thứ ba cũng đánh về Mát-xcơ-va cho Xle-pu-skin đề nghị ông cho phép tôi được tiếp tục tìm vợ theo sự thỏa Ihuận riêng giữa ông và tôi.

    Tôi mong muốn được sống tách riêng một mình để nghỉ ngơi và suy nghĩ một số vấn đề. Nhưng rất tiếc là không thuê được phòng riêng. Nhưng cũng may là người ở cùng phòng với tôi là một thiếu tá lục quân đã có tuổi. Rõ ràng là ông ta cũng mong muốn được nghỉ ngơi yên tĩnh không hề kém hơn tôi, nên cứ đến tám giờ là ông ta đã đi nằm và ngủ rất say. Mặc cho suốt đêm tôi trằn trọc, làm cho chiếc giường kêu lên không ngớt, mặc cho hai lần người nữ trực ban vào phòng kiểm tra xem có tắt đèn không và mặc cho tiếng bước chân ồn ào, nhộn nhịp ngoài hành lang, giấc ngủ của ông vẫn không bị cắt đứt.

    Nửa đêm ông thức dậy hút thuốc. Ông ngồi xếp hai chân vào nhau rất lâu, như kiểu người Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi cũng hút thuốc theo. Tôi chẳng hiểu một chút gì về ông, và ông chắng hiểu một chút gì về tôi. Nhưng cả hai chúng tôi đều lặng lẽ nhìn đốm lửa đỏ sáng lên trong đêm tối ở đầu điếu thuốc mà cùng suy nghĩ về một chuyện như nhau. Chiến tranh đã đưa hai con người không quen biết nhau đến cạnh nhau, trong một gian phòng. Lúc này, vấn đề mà chúng tôi cùng nghĩ đến là chiến tranh. Sau cuộc chiến đấu bảo vệ hết sức anh dũng qua hai trăm năm mươi ngày, ngày hôm qua bộ đội của chúng ta đã rút lui khỏi Xê-va-xtô-pôn.

    Người bạn chung phòng của tôi hút xong thuốc liền ngủ tiếp. Tôi cũng ngủ theo. Nhưng sau đó có lẽ tôi nghe có tiếng ai đó nói lớn ngoài hành lang:

    - Một giờ rưỡi rồi.

    Cảnh tượng Xê-va-xtô-pôn chợt hiện ra trước mắt tôi. Nó không phải là cái thành phố trơ trụi, mù bụi và thâm nghiêm trong dáng vươn lên phía trước để đón lấy một số phận oai hùng mà tôi đã nhìn thấy vào tháng chín năm 1941; mà là một thành phố tươi vui, đầy những âm thanh trẻ trung trước kia. Hồi ấy tuần nào tôi cũng cùng với Ca-chi-a đến Xê-va-xtô-pôn. Chiếc xuồng máy dừng lại bên bến, một số lính thủv đi dạo trên con đường “Lịch sử" rợp bóng cây cùng với các cô gái choàng khăn voan mỏng, mặc áo liền váy màu trắng. Họ đi rất xa, đến những nơi mà tầm mắt không nhìn thấy được. Hai chúng tôi rất thích cái trò chơi do Ca-chi-a nghĩ ra: giả định nàng là cô gái tôi mê thích, chúng tôi vừa mới quen nhau, giống như những cặp trai gái dang đi đằng kia, chúng tôi giả vờ hò hẹn với nhau lần gặp mặt sau và viết thư tình cho nhau, gọi nhau bằng “anh”, “chị” rất khách khí. Hồi ấy cuộc sống đẹp đẽ làm sao! Hằng ngày tôi ngủ dậy vào năm giờ sáng, lúc ấy Ca-chi-a đã làm xong cơm sáng. Nếu hôm nào tôi phải bay cao thì nàng sẽ làm món ăn thanh đạm hơn ngày thường. Sau đó là một ngày đầy hứng thú. Chẳng những vì chuyến bay rất thú vị, mà còn vì tôi biết rằng, chỉ chốc nữa thôi sẽ là " thì giờ của chúng tôi”, chúng tôi sẽ cùng bơi trên mặl biển lặng sóng, cùng ngắm ngọn hải đăng Kha-rắc nhấp nháy.

    Làm vợ tôi hình như là một việc hết sức khó khăn. Nhưng Ca-chi-a lại nói rằng nàng chỉ cảm thấy khổ sở khi nào không biết tôi ở đâu và việc gì đang xảy ra đến với tôi.

    Tôi còn nhớ rất rõ cái lần cãi nhau duy nhất trong đời của chúng tôi ấy là vào năm 1936, lúc chúng tôi ở Lê-nin-grát, vấn đề thành lập đội thám hiểm đã được quyết định và chúng tôi sắp sửa xuất phát đi Bắc cực. Em gái tôi đột nhiên ốm chết để lại đứa con đang còn bú. Chúng tôi rất lo. không biết làm thế nào, cuối cùng may nhờ có bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na đã quá cố tìm giúp được một “bà bảo mẫu khoa học”, chúng tôi mới yên tâm và quyết định ra đi. Sau khi quyết định, chúng tôi liền chuẩn bị để có thể xuất phát ngay. Nhưng thình lình cháu bé bị ốm.

    ... Ca-chi-a mặt mày tái nhợt ngồi cạnh chiếc nôi đặt cháu bé đang ốm. Tôi vừa bước vào của, nàng khóc òa lên. Tôi ôm nàng vào lòng.

    - Không nên thế em ạ, - tôi vuốt ve đôi má đẫm nước mắt của nàng và nói. - Em đi sau cũng được. Đến Ác-khan-ghen-xcơ là có thể đuổi kịp bọn anh, cứ thế nhé.

    Tôi còn có thể nói vói nàng những gì trong lúc này? Thực ra thì đoàn thám hiểm chỉ dừng lại ở Ác-khan-ghen-xcơ nhiều lắm là một đêm.

    - Em không muốn rời xa anh chút nào cả.

    - Mọi việc rồi sẽ qua đi em ạ.

    - Không việc gì có thể qua đi được cả. Để thành lập đội thám hiểm, em đã tất bật suốt cả mùa đông. Để anh có thể đi được, em đã làm hết sức mình, rồi đây em sẽ chẳng được biết anh ở đâu, việc gì đang xảy ra với anh...

    - Ca-chi-a! Ca-chi-a!

    - Em chẳng thiết gì hết. Em chẳng thiết cái đội thám hiểm này nữa, dầu sao thì anh cũng sẽ chẳng tìm kiếm được gi đâu. Trời, chẳng lẽ em không đáng được hưởng thứ hạnh phúc nhỏ mọn mà từ trước đến nay những người đàn bà khác không thèm màng đến này thật ư? Trong lúc đó việc gì cũng có thể xảy ra đối với anh.

    Nàng nhìn tôi sắp nổi nóng. Nhưng lúc ấy nàng đã bị chìm trong nỗi tuyệt vọng đau đớn, nàng đứng lên, hai tay đè chặt trước ngực và đi đi lại lại cuống cuồng trong phòng.

    - Em biết, anh không muôn để еm cùng đi với anh, phải không nào?

    - Thôi, đừng nói cái giọng ấy?

    - Được, - dường như chính nàng cũng ngạc nhiên trước giọng nói đầy lạnh lùng của mình. - Chúng ta hãy kết thúc cuộc tranh cãi này đi thôi. Em cần phải đi. Em biết là anh không muốn để em cùng đi, vì anh không yêu em nữa.

    Chúng tôi tranh cãi với nhau cho đến sáng. Sáng ngày hôm sau, cháu Pê-chi-a khá hơn hôm trước và ngày sau nữa, cháu hoàn toàn bình phục.

    Đây là lần đầu tiên, cũng là lần cuối cùng chúng tôi tranh cãi với nhau về một vấn đề mà suốt đời mỗi khi nhớ đến là Ca-chi-a lại cảm thấy khổ tâm và ân hận. Mỗi khi nàng nhớ ra rằng không bao giờ nàng có thể xâm nhập vào cái thế giới riêng của tôi - сái thế giới mà trong đó nàng thường bị lãng quên - thì nàng lại vô cùng buồn rầu! Nhưng nếu buộc nàng lánh xa không suy nghĩ đến những chuyện ấy thì nàng lại còn khổ tâm hơn.

    Mỗi lần nàng tiễn đưa, như lần tiễn dưa tôi đi Tây Ban Nha dạo ấy, nàng đã phải tự kiềm chế lòng mình đến mức nào! Một lần khi còn ở Xa-ra-bu-dơ, sau khi chỉ huy một trung đội hoàn thành chuyến bay đêm trở về, tôi vô tình được vợ của đồng chí phi công hoa tiêu cho biết là nàng đã thức trắng đêm để chờ tôi.

    Ca-chi-a ơi, giờ em ở đâu? Tính mạng và tình yêu của chúng ta đã kết lại thành một. Em ơi, hãy mau chóng trở về bên anh. Cuộc chiến chỉ mới bắt đầu, còn bao nhiêu việc cần làm, bao nhiêu chuyện phải lo đang bày ra trước mắt chúng ta. Ca-chi-a, đừng bỏ rơi anh, em nhé! Anh biết rằng cuộc sống của chúng ta khá gian nan vất vả. Em luôn luôn phải băn khoãn lo âu vì anh. Cả đời hai chúng ta chỉ được đoàn tụ ở nhà người khác. Lẽ nào anh không hiểu rằng làm một người phụ nữ lại không quí trọng, yêu mến cảnh sống gia đình. Hình như anh yêu em, nhớ em chưa đủ... Ca-chi-a ơi, hãy tha thứ cho anh, em nhé!...

    ... Tôi không biết mình đang tỉnh hay mê, tôi van xin nàng chớ bỏ rơi tôi, tôi cầu mong được gặp nàng dẫu trong giấc mơ cũng được. Tôi năn nỉ nàng chớ tin vào những lời đồn nhảm nhí rằng mãi mãi tôi sẽ không trở về nữa.

    {:Bang Tang Du Tu 2:}
     
    Last edited by a moderator: 4/6/15
  17. Rafa

    Rafa SV

    Chương 2

    Sự Việc còn chưa kết thúc


    Vào lúc nửa đêm, không biết lúc ấy đã đến bốn giờ sáng chưa, tôi mở mắt ra và nhìn thấy người nữ trực ban đứng bên cạnh giường tôi với vẻ mặt còn ngái ngủ.

    - Anh là Gri-gô-ri-ép phải không?

    - Vâng.

    - Anh có điện báo. Cần phải ký nhận. Đồng chí bưu điện ơi, mời đồng chí vào đây, - chị ta ra ngoài gọi. Sau đó tôi thấy một chiến sĩ hồng quân đi ủng, rón rén bước vào và dừng lại bên cửa.

    - Đồng chí ấy từ cơ quan điện đài quân sự đến.

    Tôi ký tên rồi mở tờ điện báo ra đọc. “Đến Ác-khan-ghen-xcơ ngay và cho biết ngày đến nơi, Lô-pa-tin”.

    Chắc rằng mẩu điện báo này đã được đánh đi từ Cục Địa lý thủy văn. Nhưng tại sao người đánh điện cho tôi không phải là Xle-pu-skin, mà là một người nào đấy có tên là Lô-pa-tin? Tôi đã bàn kỹ với Xle-pu-skin rằng nếu tôi không tìm thấy Ca-chi-a ở I- a-rô-xláp thì sẽ tiến hành những bước sau như thế nào rồi kia mà! Tại sao phải "đến ngay” nhỉ? Và tại sao lại đến Ac-khan- ghen-xcơ. Đúng là khi tiến hành công tác thủy văn ở các biển miền bắc thì Ac-khan-ghen-xcơ luôn luôn được dùng làm căn cứ chính. Nhưng chẳng phải đồng chí R. đã nói rằng chúng tôi sẽ gặp mặt nhau ở thành phố Bắc cực, và ở đấy, đồng chí tư lệnh hạm đội Bắc cực sẽ phê chuẩn kế hoạch của đồng chí R, đấy sao?

    Nhưng sau đấy không lâu, tất cả những nỗi băn khoăn ấy đều đã tiêu tan nhanh chóng. Thế mà lúc bấy giờ, trong gian nhà chật hẹp ở I-a-rô-xláp, tôi lại chăm chú đọc đi đọc lại bức điện rất nhiều lần. Một dự cảm hỗn độn, mông lung, đe dọa niềm hy vọng sắp được gặp Ca-chi-a trong tôi lớn dần lên và giày vò tôi một cách ác nghiệt.

    Tôi nóng ruột, không biết làm gì, bèn chạy ra trạm bưu điện đánh một bức điện báo khẩn về Xô Viết làng Lúp-ni đại, huyện Su-kin-xki. Ngày hôm qua tôi đã đánh đi một bức điện báo thường vì lúc ấy tôi chỉ còn trong túi bảy trăm rúp mà đoạn đường cần đi tiếp lại còn rất dài. Bây giờ đoạn đưòng bày ra trước mắt tôi đã rút ngắn lại rất nhiều, từ chỗ Ca-chi-a đến Bắc cực chỉ còn khoảng một nghìn cây số nữa thôi...

    Kể từ ngày tôi ngồi vào máy bay chở khách từ thành phố M. đến hôm nay đã được tám ngày. Nhưng trong tám ngày đó, tôi đã nhìn thấy rất nhiều sự việc, tuy lòng tôi chỉ muốn thu nhận những gì có liên quan tới vận mệnh của tôi thôi. Suốt nửa năm nay tôi chỉ nhìn thấy mỗi một cảnh tượng: những bức tường của bệnh viện và thành phố U-ran bên dòng sông Ca-ma ở bên ngoài những bức tường ấy. Nhưng giờ đây không biêt cái cảnh tượng đó mất hút nơi đâu chẳng còn chút dấu vết nào, như bị chìm trong màn khói dày đặc. Trước mặt tôi đang lần lượt hiện ra hình dáng của những thành phố lớn: Lê-nin-grát, Mát-xcơ-va, I-a-íô-xláp. Những hình ảnh đó chỉ thoáng lướt qua nhưng in rất rõ trong ký ức tôi. Đặc biệt nơi mà tôi không thể nào quên được là thành phố Lê-nin nổi tiếng khắp thế giới. Bên trong những khung cửa sổ im lìm đã được che kín của nó đang ẩn náu một sức mạnh tinh thần chưa từng có.

    Bước xuống khỏi tàu hỏa, tôi đi thẳng đến Bộ Tư lệnh hạm đội khu biển Trắng. Đến lúc đó tôi mới vỡ lẽ rằng chính Lô-pa- tin- người bị tôi trách móc suốt dọc đường là trưởng phòng tổ chức của Cục Địa lý thủy văn. Và cũng đến lúc đó tôi mới chợt nhớ ra rằng lúc còn ở Hội đồng nhân dân tôi đã từng nghe đến cái tên này. Điện báo của anh ta rất chính xác. Sau khi tôi rời khỏi Mát-xcơ-va, ở vùng biên cương phía bắc xảy ra những sự kiện rất lớn lao. Vì vậy đồng chí thiếu tướng hải quân R. phải đáp máy bay đi nhận nhiệm vụ ngay. Và vì đồng chí tư lệnh hạm đội thân chinh đi kiểm tra các căn cứ ỏ Ác-khan-ghen-xcơ, nên lúc ấy tôi và đồng chí thiếu tướng trở nên vô sự trong cái thành phố Bắc cực này. Sang ngày thứ ba, đồng chí R. gặp tư lệnh. Có lẽ “kế hoạch công tác hết sức lý thú” đã được cấp trên phê chuẩn, nên sau khi gặp thủ trưởng, đồng chí R, liền đáp máy bay đi Đích-sơn ngay. Rõ ràng là chuyến này ông đi rất vội, nên không cần dùng đến tôi nữa, và vấn đề của tôi được chuyển sang cho Bộ Tư lệnh hạm đội.

    - Đồng chí đại úy, đồng chí đến chậm quá; - đồng chí trưởng phòng tổ chức có mái tóc hoa râm và bộ mặt hiền lành nói với tôi. Ông để hai chòm ria mép, trông hệt những lính thủy cũ thời chiến tranh bảo vệ Xê-va-xtô-pôn lần thứ nhất. - Tôi cũng không biết giải quyết vấn đề của đồng chí như thế nào cho tốt đây. Chúng tôi không định để đồng chí phải đuổi theo họ nữa.

    Và ông ra lệnh cho tôi mấy ngày sau quay lại.

    Tôi không thuê được chỗ ớ trong khách sạn, đành phải thuê tạm một căn buồng trong một ngôi nhà nhỏ của một kế toán viên nằm trên phố. Tôi trao một phần lương thực của tôi cho chủ nhà, thay tiền thuê trọ. Để tỏ lòng cám ơn tôi, suốt mấy ngày liền, viên kế toán già kể cho tôi nghe những mẩu chuyên không bao giờ dứt trong nghề kế toán của ông. Trong nghề này cũng có những điều lý thú và những chỗ làm rung động lòng người, chủ yếu là ở những mặt chính xác, định kỳ và đúng giờ giấc.

    Ác-khan-ghen-xcơ đã thay đổi khá lớn lao, tuy nó vẫn mang cái tên cũ ấy, song nó đã hoàn toàn khác xưa!

    Các lính thủy Mỹ đi dạo trên đường phố. Họ đội mũ lưỡi trai mặc quần rộng ống, để lộ một cách có ý thức ra ngoài quần một đoạn chiếc áo len thít sát bụng. Các lính thủy Anh đội mũ nồi có thêu dòng chữ “HMS” (Hải quân hoàng gia). Cử chỉ, thái độ của họ có vẻ nghiêm túc hơn, nhưng vẫn khác với lính thủy Nga bởi cái dáng ngạo nghễ quen thuộc của họ. Tất cả những điều đó khiến tôi rất lấy làm lạ. Khắp nơi đều thấy những người da đen, có những người da nâu - có lẽ là dòng máu lai của người da trắng và người da đen. Bên bờ sông Đuy-na bắc mấy người Trung Quốc đang cắm cúi giặt quần áo và đang nói chuyện với nhau bằng giọng cổ rất nặng, âm điệu rất trầm. Giặt xong, họ phơi quần áo ngay trên những tảng đá cạnh đó.

    Có lẽ trên thế giới này không có dòng sông nào in đậm màu sắc Nga như dòng sông Đuy-na bẳc này, nó trải mình ra một cách thoải mái và tải dòng nước đầy ăm ắp về nơi xa.

    Một chiếc thuyền máy xé những con sóng lấp lánh ánh mặt trời lao thẳng về phía bên kia bến cảng, như một con dao sắc...

    Mấy hôm nay, tuy bên ngoài tôi có vẻ chăm chú ngắm nhìn một cách tò mò những người nước ngoài này, nhưng thực ra họ không nằm trong ý nghĩ của tôi... Đây là thành phố mà Xê-đôp, Pa-khơ-t.u-xôp đã từng sống. Tôi đứng im khá lâu trước một “ngôi mộ của đội hàng hải trong nghĩa trang công cộng Xô-lôm-ban. Đội hàng hải này do Pi-ốt Cu-đơ-mích Pa-khơ-tu-xốp, người đã từng đóng hàm trung úy lục quân và được thưởng huân chương lãnh đạo. Ông ta đã qua đời trong một chuyến vận hành vì quá mệt nhọc và phiền não, thọ ba mươi sáu tuổi”. Thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp đã từ dây bắt đầu lái chiếc tàu buồm của mình đi vào con đường viễn chinh xa xăm. Hoa tiêu Cơ-li-mốp là người duy nhất tham gia cuộc thám hiểm này và trở về được đến đất liền, và ông đã chết trong bệnh viện của thành phố này. Viện bảo tàng địa phương dành riêng một gian trưng bày giới thiệu đội thám hiểm của tàu “Xanh Ma-ri”. Trong rất nhiều vật trưng bày quen thuộc, tôi nhận ra một tập hồi ký của một họa sĩ bạn của Xê-đốp. Những tài liệu này có ý nghĩa rất lớn, và đối với tôi nó hoàn toàn mới mẻ. Trong thiên hồi ký của mình, tác giả có kể lại cảnh tìm thấy ông hoa tiêu Cơ-li-mốp tại vịnh Phơ-lo-ra.

    Buổi sáng tôi viết một bức thư gửi đến làng Lúp-ni đại. Sau đó không biết làm gì hơn, tôi bèn đi ra phố Cu-đơ-ne-trích, Dọc theo bờ sông sực lên mùi ngai ngái của gỗ thông. Chiếc cầu nối liền hai bờ đã tách ra cho tàu bè trên sông qua lại. Một chiếc tàu con chở khách từ bên sông này sang bờ bên kia. Cây rừng trùng điệp nối tiếp nhau. Mây chiếc cầu nhỏ hẹp nằm bên cạnh ngôi nhà thấp lè tè được dựng lên từ thời vua Ni-cô-lai là những chiếc cầu làm bằng gỗ. Các ngôi nhà quanh đấy nay đã biến thành bệnh viện và trường học. Mặt đường được lát bằng gỗ. Những ngôi nhà nằm dọc bờ sông mang nặng màu sắc thần thoại này cũng được dựng lên bởi những mảnh gồ ván mới xẻ. Đây là vùng Xô-lôm-ban. Cuối cùng tôi đã tìm được ngôi nhà mà thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp đã ở để chuẩn bị cho cuộc xuất chinh của con tàu “Xanh Ma-n” vào mùa hè năm 1912.

    Tôi mường tượng thấy vị thuyền trưởng cao lớn có đôi vai rộng, mặc bộ quân phục màu trắng, để bộ ria vểnh ngược lên trên theo kiểu cũ, ông bước xuống từ bậc tam cấp của ngôi nhà gỗ và đi xuyên qua vườn hoa như thế nào. Ông hơi cúi đầu, lắng nghe một thương nhân tên là Đê-mi-đốp nói điều gì đó. Có lẽ gã thương nhân nọ đòi tiền thịt bò hoặc tiền giặt quần áo gì đấy. Phía đằng kia thương cảng, trong đám tàu buôn lắp máy hạng nặng, có thể nhận ra một chiếc thuyền buồm nhỏ nhắn đẹp đẽ - Một chiếc thuyền phải đi từ Ac-khan-ghen-xcơ dọc theo bờ biển Xi-bê-ri đến Vla-đi-vô-xtôc mà như thế thì quá nhỏ bé.

    Một sự việc chẳng lấy gì làm đặc biệt nhưng vô cùng quan trọng đối vôi tôi đã khiến tôi có thể nhìn thấy rõ những cảnh tượng mơ hồ kia.

    ... Hôm qua có một đoàn tàu hộ tống tàu vận tải vào cảng, tôi liền chạy ra bến cảng xem tàu nước ngoài bốc dỡ hàng hóa như thế nào.

    Chao ôi, bến cảng của cái thành phố cổ xưa này phát triển nhanh chóng làm sao! Nó rộng lớn, chắc chắn, đẹp đẽ làm sao! Vô số máy cẩu hàng đang làm việc, chúng nhấc bổng những đụn hàng quân sự và phi quân sự từ trên cao xuống. Tôi đi dọc theo cầu tàu có đến hai cây số mà vẫn chưa đi ra khỏi khu vực làm việc của những máy cẩu hàng. Các công trình xây dựng bến cảng vẫn còn đang tiếp tục triển khai. Tôi đi đến chỗ tận cùng của cầu tàu và đừng lại, ngắm nghía toàn cảnh tựa như một đường cong cân đối của bến cảng. Giữa lúc đó, một chiếc tàu kéo loại nhỏ nổ máy ầm ì chạy vòng qua đầu một chiếc tàu lớn của Mỹ mang tên là Ha-ri-canh bắt đầu cập bến. Tôi thoáng thấy tên chiếc tàu kéolà '‘Thiên Nga” và trong óc chợt hiện ra ý nghĩ rằng cái tên đẹp đẽ này rõ ràng là đã trở thành tên thông dụng đối với các đội tàu trên biến Вắс. Hồi ấy còn có một chiếc tàu cũng mang cái tên ấy. các bạn bè và người nhà của thuyền trưởng Ta-ta-n-nốp đã đi trên chiếc tàu này ra thuyền buồm, ôm hôn ông lần cuối và chúc ông ra đi may mắn và thành công. Có phải chính đó là con tàu mà một bài báo nào đó đã gọi nó là “chiếc tàu phá băng đầu tiên của nước Nga” không? Tất nhiên là không phải.

    Một thủy thủ đang lăn thùng dầu trên sàn tàu, tôi nhờ anh ta gọi thuyền trưởng ra. Lát sau, một chàng trai chạc hai mươi lăm tuổi, mặt đỏ hồng, mặc bộ quần áo công nhân màu xanh, vừa cầm khăn lau dầu trên tay vừa theo người thủy thủ đi ra sàn tàu.

    - Đồng chí thuyền trưởng, có một vấn đề lịch sử tôi muôn nhờ đồng chí giải đáp giúp, - tôi lên tiếng trước. - Chiếc tàu kéo này của đồng chí hồi trước cách mạng cũng mang tên Là "Thiên nga” phải không?

    - Vâng, đúng thế.

    - Nó được hạ thủy vào năm nào nhỉ?

    - Nàm 1907.

    - Từ trước đến nay nó chỉ mang một tên?

    - Vâng, chỉ mang một tên.

    Tôi giải thích cho anh ta rõ nguyên nhân của vấn đề tôi đặt ra. Anh ta chăm chú ngắm nghía con tàu của mình với cái vẻ đầy tự hào, tuồng như từ trước đến nay chưa bao giờ anh ta nghi ngờ về cái vị trí mà con tàu của anh ta sẽ chiếm giữ trong lịch sử tàu bè nước Nga. Chuyện cũng kỳ khôi, nhưng quả thực là việc gặp được tàu “Thiên nga” đã khiến tôi hết sức phấn chấn, vui vẻ. Tuy tôi đã rất quen thuộc với đời sống của thuyền trưởng Ta-ta-ri- nốp; nhưng tôi vẫn chưa rõ trang cuối cùng của cuộc đời ông.

    “Sự việc còn chưa kết thúc - vị thuyền trưởng trẻ tuổi có bộ mặt hồng hào như nói với tôi. Biết đâu sẽ có một ngày nào đấy, anh sẽ tìm thấy trang cuối cùng của cuộc đời Ta-ta-ri-nôp và anh sẽ đọc hết nó”.

    Lần thứ ba tôi đến gặp trưởng phòng cán bộ, yêu cầu ông cử tôi về trung đoàn, nếu không được thì tôi đến gặp thủ trưởng bộ đội hàng không của hạm đội Phương Bắc để nhận công tác.

    Hình như ông đã biết rõ tình cảnh riêng và chung của tôi, nên sau một lúc im lặng ông hỏi tôi bằng một giọng hết sức nhân ái:

    - Nhưng sức khỏe của cậu thế nào?

    Tôi trả lời rằng sức khỏe của tôi đã được hoàn toàn hồi phục. Đấy là những lời nói đúng sự thực hay căn bản là đúng sự thật. Vì khi ở miền Bắc tôi cảm thấy tốt hơn bất cứ là ở miền Nam, miền Đông hay miền Tây.

    - Thôi được, trong lúc này thà làm được ít còn hơn là chẳng làm gì. Mình sẽ bố trí để cậu có công ăn việc làm, - tuy câu nói của ông ta có vẻ nước đôi nhưng lại rất hợp lý.

    Tất nhiên ý ông ta là sẽ giao cho tôi công việc dưới mặt đất. Tôi chăm chú nhìn bàn tay già nua nhưng còn chắc khỏe của ông viết tên tôi lên trang giấy của quyển sổ nhân sự và bên dưới tên tôi, ông gạch hai nét bút rất đậm. Tôi nghĩ bụng; “Mặc xác tất cả, có gì mình cùng sẽ tìm cách để thay thôi!”.
    {:Bang Tang Du Tu 2:}
     
    Last edited by a moderator: 4/6/15
  18. Rafa

    Rafa SV

    Chương 3

    Tự do săn lùng

    Mọi thứ đều rất tốt đẹp. Đại úy trở về trung doàn. Trung đoàn trưởng giới thiệu anh ta với tất cả các đồng chí trong tổ bay. Sĩ quan hoa tiêu là một anh chàng người Lát-vi trầm lặng, anh ta ngậm chiếc tẩu khá to và mặc chiếc quần rộng thùng thình. Liệu anh ta có thay thế được Lu-ri thân yêu đã hy sinh không?

    Trong hàng ngũ các phi công, đại úy nhận ra khá nhiều người là học viên cũ của Trường Hàng không Ba-la-sôp. Anh ta sống cùng với nhóm bay của mình trong một gian nhà gỗ mới dựng rộng thênh thang. Cảnh sắc bên ngoài cửa sổ khiến anh ta chợt nhớ đến thời trẻ đã đi qua trong một thị trấn nằm ngoài vòng Bắc cực.

    Anh ta hết sức ngạc nhiên khi nhận thấy hầu hết các phi công đều có biết mình, thậm chí họ còn nêu ý kiến rằng nếu không thưởng Huân chương cho anh ta thì đấy là một việc không công bằng - tất nhiên đó là những ý kiến không có căn cứ. Cứ thế, mọi việc đến với anh ta đều rất tốt đệp. Nhưng thực ra vấn đề không giản đơn như thế. Tỉ dụ như tối nào anh ta cũng thức đọc đi đọc lại bức thư của bệnh viện trương Pe-rư-skin từ làng Lúp-ni đại gửi đến cho anh ta. Trong bức thư ấy, ông bệnh viện trưỏng viết rằng, theo chỗ ông ta biết thì Ê-ca-tê-ri-na I-va-nốp- na Ta-ta-ri-nô-va Gri-gô-ri-e-va đã rời khỏi trại trẻ vào hồi tháng năm, nghĩa là vào trước lúc trại trẻ chuyển đi Nô-vô-xi-bìếc. Về tin tức của bà và cháu bé Pê-chi-a thi không hiểu tại sao ông ta chẳng viết dòng nào cả.

    Một vấn đề không đơn giản khác nữa là Bộ tư lệnh Hàng không cử viên đại úy này về công tác trong một trung đoàn phóng ngư lôi, nên anh ta phải học từ đầu các thứ kỹ thuật mới.

    Còn một vấn đề khác nữa là lòng quyết tâm của anh ta, lúc này đã bị lung lay. Ngay trong chuyến bay đầu tiên anh ta đã cảm thấy rằng mình đã trở nên xa lạ với miền Bắc, xa lạ đến nỗi quên bẵng mất cái “cảm giác mặt đất” luôn ỉuôn không giống nhau giữa nơi này và những nơi khác.

    Nhưng tất cả những điều đó đều chưa có gi gọi là xúi quẩy. Ngoài những việc tự nó đến, không sao có thể tránh khỏi ấy, mọi việc đều có thể cứu vãn được.

    *

    * *​

    Tuy các trận không chiến ở vùng trời phương Bắc rất lý thú song tôi sẽ không kể nhiều. Bay ở phương Bắc, ngoài những khó khăn và nguy hiểm thông thường, còn phải chịu đựng cái khí hậu tai ác của miền Bắc cực mà hàng năm có đến sáu tháng “đêm Bắc cực”. Vì thế, không còn nơi nào có đủ điều kiện hơn vùng này để các phi công Nga thể hiện bản lĩnh cao cường của mình. Một sĩ quan không quân Anh nói với tôi: “Chỉ có người Nga mới có thể bay ở đây”... Rõ ràng là câu nói ấy có phần quá trớn, song chúng tôi không chút hổ thẹn về công việc của mình.

    Tình hình không chiến ở vùng trời miền Bắc phức tạp hơn các khu vực khác nhiều. Các đoàn tàu vận tải của bọn Đức luôn luôn vận hành sát bò biển dựng đứng, ở những quãng mực nước vừa đủ sâu. Muốn đánh đắm những đoàn tàu ấy là rất khó khăn, chẳng những vì nói chung đánh đắm tàu vận tải là việc không phải dễ, mà còn vì không thể, hoặc hầu như không thể bay vượt qua bờ biển dựng đứng và sau đó lập tức nhằm đúng vào các mục tiêu. Có đến 180 độ chúng tôi không thể nào sử dụng được. Nếu không tin thì bạn cứ thử хеm, trong điều kiện chỉ dùng một nửa hướng vị (180 độ) để công kích mục tiêu, đồng thời phải cố hết sức bay thật thấp qua ngay trên mục tiêu để các quả ngư lôi ném xuống rơi trúng đích, thì bạn sẽ biết là khó đến như thế nào. Lại thêm nửa là các đoàn tàu ấy không phải chỉ bó tay ngồi không, chúng vận hành cùng với những hạm tàu hộ tống có đầy đủ pháo cao xạ, súng máy và pháo lớn sẵn sàng nhả đạn vào máy bay. Trong cuộc chiến đấu sống còn ấy, chỉ có lao thẳng vào kẻ thù và tiêu diệt chúng!

    Nếu kể kết mọi chi tiết trong cuộc sống của chúng tôi ở đây thì sẽ đem đến cho người nghe cảm giác đơn điệu. Bởi vì lúc nào cũng chỉ có chuyện bay, thảo luận, học tập và diễn tập, mà kỳ thực diễn tập cũng là bay. Chúng tôi ăn cơm trong một gian nhà gỗ dài hun hút. Trong lúc ăn, câu chuyện trao đổi cũng chỉ xung quanh chuyện bay. Buổi tối, mọi người tụ tập vào câu lạc bộ sĩ quan, chính mắt tôi đã chứng kiến lễ khai trương cáu lạc bộ này. Đám trẻ đặc biệt thích nó. Và mới dó, họ còn xông pha nơi khói lửa nguy hiểm, thế mà bây giờ đã vui vẻ nhảy với các cô gái. Trong chốc lát mọi người trở nên hết sức nhẹ nhõm. Trong những buổi dạ hội như thế này, các nữ hạ sĩ quan được phép mặc thường phục.

    Những thay đổi như vậy trong cuộc sống tự nó nói lên rằng bản thân nó không hề đơn điệu, vô vị chút nào. mà ngược lại còn rất sinh động phong phú và nhiều màu vẻ. Thực ra cuộc sống của chúng tôi trong giai đoạn nàv chứa đựng biết bao nhiêu điều kỳ diệu hệt như trong thần thoại. Các cuộc không chiến tuy đã kết thúc, song dư âm của nó vẫn như còn ngân vang trong cơ thể của những chiếc máy bay đã dần dần nguội lạnh đi trong sương đêm sau những chuvến bay trên mặt biển mênh mông.

    Như tôi vừa kể, đám trẻ đặc biệt mê thích câu lạc bộ. Toàn trung đoàn, ngoài ba bôn “ông già” cỡ ngoài ba mươi như tôi ra, còn thì toàn là trai trẻ cả. Người chỉ huy trung đoàn chúng tôi là một thanh niên mặt đỏ hồng, mũi kiểu mỏ chim ưng và đôi mắt hết sức sắc sảo. Anh là anh hùng Liên Xô, tuổi trạc hai mươi bốn. Mọi người gọi anh bằng cái tên Pê-chi-a rất tùy tiện, bởi ngoài cái tên ấy ra không ai biết còn có thể gọi anh bằng tên nào khác nữa.

    Sau khi đến Bắc cực, tôi gặp khá nhiều chuvện không ngờ. Trong cuộc chiến tranh này, lớp phi công mới trưởng thành rất nhanh chóng, thậm chí có một số mặt chúng tôi phải học tập trở lại họ. Không hiểu sao, nói chung người ta vẫn nghĩ rằng giữa “hai thế hệ bố và con” có một cái hố ngăn cách. Nhưng rõ ràng là giữa hai thế hệ chúng tôi không có cái hố nào ngăn cách cả, mà chỉ có một số khác biệt. Ví như, ở đây, tôi không còn tỏ ra quá thận trọng, rụt rè như trước nữa mà luôn luôn lao thẳng vào những nhiệm vụ khó khăn nguy hiểm. Điều đó không phải ỉà không có nguyên do.

    Có lẽ bỏi tôi đã “trẻ lại” quá nhiều nên thần vận mệnh đã từng rất nghiêm khắc với tôi hồi đầu chiến tranh, nay đã thay đổi hẳn thái độ.

    Vào giữa tháng bảy, tôi vẫn thường xuyên mang bom đi oanh tạc vùng Ki-rơ-ki-nét, qua phim chụp được thấy kết quả khá tốt. Đến đầu tháng tám, tôi đề nghị trung đoàn trưởng cho phép “tự do săn lùng” kẻ địch. Ý nghĩa của loại hoạt động này là trong điều kiện không nắm được tình hình địch, bay thẳng vào các vùng thường có tàu bè của bọn Đức đi lại để tiêu diệt chúng. Có một lần, tôi xuất kích cùng một đồng chí trung úy, đã bắn chìm được một tàu vận tải bốn nghìn tấn của địch. Nói cho đúng ra thì chiếc tàu ấy là bị đồng chí trung úy bắn trúng. Vì quả thủy lôi do tôi phóng xuống, lao chệch sang một bên mạn tàu và sau đó chạy xiên sang phía bên trái. Qua cuộc chiến đấu đó chúng tôi được tôi luyện thêm lên, đặc biệt là cái chân bị thương cũ của tôi, nó đã tỏ ra rất khá. Mặc dù đại đội trưởng (trước kia khi còn học ở Trường Hàng không, đã có lần tôi suýt trừ anh ta ra khỏi đội vì động tác bay vòng của anh ta không chính xác) đã cố gắng chứng minh rằng vì cái chân ấy mà tôi đã “không bắn chìm được tàu địch” trong cuộc họp bình công. Song bản thân tôi vẫn cảm thấy rất thỏa mãn. Hai ba ngày sau anh ta lại lặp lại một lần nữa nhận xét của mình vì hôm ấy tôi đã cho máy bay bay thấp qua tàu địch, đuôi máy bay vướng vào đoạn dây điện căng cao trên tàu và mang cả đoạn dây ấy về sân bay. Có điều là lần ấy tôi đã bắn được chiếc tàu vận tải, đấy là chiến quả đầu tiên của tôi. Vì vậy, tuy nhận xét của anh ta chưa mất hết tính hoàn chỉnh của nó, nhưng nó cũng chỉ còn giá trị về mặt lý thuyết mà thôi.

    Đến trung tuần tháng tám tôi lại bắn chìm một tàu vận tải sáu nghìn tấn được một tàu bảo vệ và một khu trục hạm đi theo hộ tống. Lần ấy tôi xuất kích cùng vối đại đội trưỏng, điều khiến tôi lý thú là trong khi chiến đấu tôi đã phát hiện ra rằng chính anh ta bay còn thấp hơn cả tôi. Song anh ta không hề vì thế mà tự cảnh cáo mình.

    Cuộc sống của tôi lúc ấy là như thế, nói chung lại là không xoàng. Đến cuối tháng mười. Tư lệnh bộ đội Hàng không của hạm đội tặng cho tôi huân chương A-lếch-xan-đrơ Nép-xki.

    Tôi đã kết bạn với khá nhiều người ở thành phố. Anh chàng phi công hoa tiêu trầm lặng, ít nói, ít hoạt động, mặc chiếc quần rộng thùng thình và miệng luôn luôn ngậm chiếc tẩu thuốc lá là một trong số những người đó. Anh ta là một người thông minh, hiểu biết rộng. Anh ta quả là rất ít nói, trong khi bay thì hầu như không bao giờ mở miệng, nhưng khi trả lời câu hỏi “Hiện giờ chúng ta đang ở đâu?” thì anh ta trả lời rất rõ ràng và chính xác, chính xác đến nỗi tôi phải kinh ngạc. Phương pháp đột nhập mục tiêu của anh ta khiến tôi rất thích thú. Tuy tính tình của chúng tôi không giống nhau, nhưng điều đó không hề ảnh hưởng đến tình bạn thắm thiết giữa những người bạn chiến đấu đồng cam cộng khổ chúng tôi. Nếu phải hy sinh thì chúng tôi sẽ cùng hy sinh vào một ngày, một thời khắc như nhau. Là những người có thể chết cùng nhau, họ có cùng chung một sinh mạng.

    Ở thành phố N, tôi không phải chỉ quen thân có mỗi anh chàng hoa tiêu. Nhưng mối tình bạn của anh ta đối với tôi không phải là mối tình bạn sâu sắc gắn bó nhất. Bắt đầu từ thời kỳ ấy tôi giữ lại không gửi rất nhiều thư, tôi làm như vậy không phải là không có ý đồ, tôi hy vọng sau chiến tranh sẽ cùng Ca-chi-a đọc lại tất cả nhũng bức thư ấy.

    Nhưng trong lúc đó, có một người bạn của tôi, một người bạn chí thân ở sát ngay bên cạnh tôi mà tôi không biết. Ông ấy ở gần tôi đến nỗi chỉ cần đáp thuyền máy khoảng hai mươi phút là đã có thể ôm hôn ông ta và tâm sự với ông ta tất cả những gì tôi đã viết trong những lá thư cho Ca-chi-a mà chưa gửi đi.

    {:Bang Tang Du Tu 2:}
     
    Last edited by a moderator: 4/6/15
  19. Rafa

    Rafa SV

    Chương 4

    Bác sĩ làm việc ở thành phố Bắc cực

    Tôi nằm mơ suốt đêm. Hình như tôi lại bị thương một lần nữa. Bác sĩ I-van I-va-nứt khom lưng đứng cạnh tôi. Tôi muốn nói với ông ta: “A-bram, bão tuyết, uống rượu”, nhưng tôi không tài nào nói ra tiếng được. Tôi đã thành ngưòi câm. Tuy tôi thưòng gặp những cơn mê như thế. Nhưng đây là lần đầu tiên cái cảm giác mình bị câm hiện ra rõ ràng nhất trong cơn mê.

    Hôm ấy tôi dậy sớm hơn giờ qui định. Trong những phút ngái ngủ, mọi thứ đều cảm thấy và đều biết. Nhưng bản thân lại cứ tự cưỡng mình không cảm thấy và không biết gì cả. Tôi bắt đầu nghĩ đến bác sĩ và chợt nhớ đến chuyện bác sĩ tìm ra mặt trận thăm con trai do Rô-ma-sôp kể lại. Tôi không thể nào tự giải thích nổi hiện tượng này; chỉ biết rằng trong lúc hồi nhớ lại, có một cái gì đó mơ hồ đã tồn tại từ lâu và làm cho tôi không yên tâm. Tôi nhớ lại những lời kể của Rô-ma-sốp và sực nhớ hắn có nói rằng bác sĩ làm việc ở thành phố Bắc Cực.

    Cuộc nói chuyện ấy xảy ra trên tàu, hồi ấy tôi ngỡ đấy chỉ là những lời hươu vượn. Thử nghĩ mà xem, bác sĩ có thể rời bỏ cái
    thành phố mà ở đó, cả những con hươu khi gặp ông cũng quay đầu nhìn đầy thiện ý hay không? Lẽ nào ông có thể rời bỏ ngôi nhà thân yêu nằm trên dường phố mang chính tên của ông? Ông không thể nào rời bỏ những con người yêu mến quí trọng ông, gọi ông là “sứ giả trừ giun” và từ xa đến cầu cứu ông. Bác sĩ không làm việc ở thành phố Bắc cực, Rô-ma-sôp nhầm rồi, mà chính là ông làm việc ở thành phố Da-pô-li-a-ri-e.

    Nhưng sau đó không biết tại sao tôi lại nghĩ rằng: “Nhưng nhỡ Rô-ma-sốp nói đúng thì sao?”.

    Thành phố Da- pô-li-a-ri-e ở rất xa. Chẳng lẽ năm 1941 bác sĩ đã từ đó về Lê-nin -grát hay sao? Còn như nếu ông làm việc ở thành phố Bắc cực này thì có nghĩa là tôi đã sống bên cạnh người bạn cũ thân yêu ấy nhũng ba tháng nay rồi?

    Đồng chí trực ban bước vào phỏng nói khẽ:

    - Các đồng chí, dậy thôi!

    Thấy cử chỉ vội vàng của tôi, một tay gài thắt lưng quần, một tay với chiếc áo khoác một cách lúng túng, anh ta chăm chăm nhìn tôi.

    Thật tuyệt, chính ngày hôm ấy, trong cùng một thời khắc, bác sĩ đã nghĩ đến tôi. Sau này, khi gặp nhau, ông cứ cố thuyết phục tôi tin điều đó. Hôm qua ông đã biết tin tôi sẽ được thưởng Huân chương, còn tôi lúc đầu không tin vì nghĩ rằng: “trên đời này thiếu gì người cùng họ Gri-gô-ri-ép”. Thế mà sáng sớm ngày hôm sau, lúc còn nằm trên giường ông đã cầm chắc rằng người đó là tôi. Và thế là cũng như tôi, ông lao ngay đến chỗ đặt máy điện thoại.

    - Bác I-van I-va-nô-vích! - Tôi gọi rõ to. Ngay lúc đó vang lên trong ống nghe một giọng khàn khàn rất khó tin được rằng đó là tiếng nói của I-van I-va-nô-vích. Giọng nói đó như đang cố vượt
    qua một cách vất vả những cơn xoáy của ngọn gió thu đang quần đảo trên bầu trời buổi sáng để bay đến tai tôi.

    - Gri-gô-ri-ép đây. Bác nghe rõ tiếng cháu nói không? Xa-nhi-a đây!

    Giọng nói khàn khàn đã trở nên đều đều và quen thuộc. Không biết ông ta có biết cái tin tôi bị mất tích trước đây hay không. Tôi cố gào thật to, cô gái phụ trách tổng đài hình như cảm thông nỗi sôt ruột của tôi, bèn lên tiếng:

    - Bác sĩ trung tá quân у Ра-vơ-lôp báo cáo.

    - Có gì mà báo với chả cáo, nhờ chị nói hộ vói bác ấy tôi là Xa- nhi-a.

    - Vâng, tôi sẽ nói ngay, - cô ta đáp. - Tôi muốn hỏi anh hôm nay có bay không?

    Tôi hết sức ngạc nhiên.

    - Việc này có quan hệ gì đến chuyện bay đâu? Nhà chị nói hộ tôi là Xa-nhi-a.

    - Tôi đã nói anh là Xa-nhi-a rồi, - giọng cô tổng đài pha chút bực dọc. - Tối nay anh có bay đi thành phố N. không, và có thể tìm gặp anh ở đâu?

    - Tôi sẽ bay! - tôi hét lên. Mời ông ấy đến câu lạc bộ sĩ quan. Rõ chưa?

    Cô tổng đài không nói gi nũa. Trong ống nghe vang lên một tiếng động xê dịch đồ đạc và sau đó là một giọng nói hình như của người khác chứ không phải cô ta:

    - Ông ấy sẽ đến!

    Tôi vốn định nhờ bác sĩ ghé qua Phòng Chính trị xem có thư của tôi không, vì địa chỉ của tôi ghi trong các thư gửi đi đều là Phòng Chính trị thành phố Bắc cực. Nhưng sau đó chẳng nghe thấy gì nữa.

    Được biết bác sĩ ở đây và được biết nếu hôm nay không mưa bão thì tôi đã có thể đến gặp ông. Tôi mừng rỡ vô cùng. Song có một vấn đề đối với tôi trước sau vẫn là một bí ẩn: Tại sao khi đến câu lạc bộ sĩ quan tôi được uống rượu nho trắng trước, sau đó uống rượu đỏ và cuối cùng lại là rượu trắng vân vân. Tuy uống nhiều nhưng cũng không xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Mấy cô gái giữa các hiệp nhảy sà vào ngồi cạnh bàn tôi. Tôi giải thích cho các cô biết rằng, nếu biết nhảy thì đời tôi đã khác hẳn bây giờ, chắc chắn là đã phong phú đẹp đẽ hơn nhiều. Nghe xong các cô cười phá cả lên. Nguyên nhân đẻ ra những điều bất hạnh này đều ở chỗ bình sinh tôi không biết nhảy.

    Thực ra những điều tôi nói không có gì đáng cười cả. Ngay như cậu hoa tiêu của tôi kia cũng có thói quen riêng. Cậu ta ngồi đối diện với tôi và mồm luôn ngậm tẩu thuốc to tướng, ra chiều như đang suy nghĩ rất lung. Nhũng điều tôi nói đều là sự thực cả, và tôi nói rất nghiêm chỉnh. Thế mà không hiểu tại sao các cô cứ cười phá lên.

    Ngồi trong câu lạc bộ sĩ quan, lòng tôi không khỏi áy náy, nhưng tinh thần thì rất phấn chấn. Lúc ấy ở cửa ra vào chợt xuất hiện một sĩ quan hải quân cao to đã đứng tuổi. Ông ta thận trọng đi lách qua các dãy bàn. Tôi đoán đấy chính là bác sĩ I-van I-va-nô-vích.

    Có thể đã có lúc tôi suy nghĩ rằng ông ây đã già đi nhiều, lưng đã còng và râu đã bạc. Nhưng những ý nghĩ đó chỉ là những suy tưởng viển vông. Thực ra ông vẫn là người bác sĩ thần bí khó hiểu thời niên thiếu của tôi. Ông đẩy chiếc kính lên trán và đâm sầm về phía tôi, như thể muốn lập tức khám phá hoặc bắt tôi thè lưõi ra để khám.

    - Thưa bác sĩ, tôi muôn mời bác sĩ đến khám cho một bệnh nhân, - tôi nói giọng nghiêm trang. - Đây là một ca rất lý thú! Bệnh nhân này chỉ biết nói có sáu tiếng: gà, yên, hòm, bão, uống và A-bram!

    - Xa-nhi-a!

    Chúng tôi ôm chầm lấy nhau, nhìn nhau chằm chắm rồi lại ôm chầm lấy nhau.

    - Bác I-van I-va-nô-víc thân yêu, cháu hơi bị say rồi phải không? - Tôi cất tiếng hỏi. Tôi nhận thấỵ một nét buồn lướt trên bộ mặt hiền hậu đến mức ngớ ngẩn của ông. - Chúng tồi bị rét cóng trên sân bay, nên... Nào, xin giới thiệu, đây là thiếu tá Ô- dô-lin!

    - Xa-nhi-a, anh đến đây đã lâu chưa? - Bác sĩ hỏi... Lúc đó người hoa tiêu đang nói lắp bắp gì đó rồi cáo lui vì sợ cản trở cuộc nói chuyện của chúng tôi, - Xa-nhi-a, sao chúng ta lại có thể xa nhau lâu đến thế nhỉ?

    - Đã ba tháng rồi đây nhỉ? Đây là sai lầm của cháu.

    - Chẳng lẽ anh không biết tôi đang sống ở Bắc cực hay sao? Tôi chẳng để địa chỉ lại cho Ê-ca-tê-ri-na i-va-nốp-na rồi còn gì!

    - Để địa chỉ lại cho ai kia ạ?

    Có lẽ các thổ thịt trên mặt tôi khẽ rung lên, bác sĩ sửa lại kính và ngạc nhiên nhìn tôi:

    - Để lại cho vợ anh chứ còn ai nữa, - ông nói giọng rất dè đặt.

    - Tôi nghĩ rằng cô ấy rất khỏe mạnh. Hồi còn ở Lê-nin-grát tôi có đến chỗ cô ấy.

    - Bác đến vào lúc nào ạ?

    - Tháng tám năm ngoái. Hiện giờ cô ấy ở đâu? Ở đâu hả? - Ông quay hẳn người lại phía tôi và lo lắng hỏi dồn."

    - Cháu cũng không biết. Bác nhấp tí rượu nhé?

    Không chờ câu Irả lời, tôi đã cầm bình rượu lên.

    - Thôi. Xa-nhi-a, - bác sĩ nói giọng dịu dàng. Ông đẩy chiếc cốc của mình ra ngoài trước rồi đẩy chiêc cốc của tôi ra theo. - Hãy kể cho tôi nghe hết thảy mọi chuyện của anh đi đã. Anh còn nhớ Vô-lô-đi-a không? Nó hy sinh rồi, - đột nhiên ông báo cho tôi biết cái tin buồn ấy, tuồng như muốn khơi nguồn cho tôi tâm sự vậy. Lúc này đôi mắt sau lần kính của ông đã long lanh hai ngấn lệ.

    Hai chúng tôi cùng ngồi cúi đầu im lặng dưối ánh đèn sáng trưng và dầy những âm thanh huyên náo của câu lạc bộ sĩ quan. Đội nhạc tấu lên những điệu “van-xơ” quen thuộc, tiếng kèn đồng xả hơi ầm ĩ quá mức làm rung động cả căn nhà gỗ không lấy gì làm rộng lớn này.

    Các phi công trẻ đi lại, nói cười với nhau trên dãv hành lang giữa buồng ăn và phòng khách. Anh chàng phi công khoảng hai mươi tuổi có đôi vai rộng, cặp lông mày rậm này có lẽ ngay trong đêm nay thôi sẽ chạm trán với thần chết trên mặt biến lạnh lẽo và yên tĩnh, trong những đám sa mù dày đặc. Thần chết len vào chiếc ghế ngồi của anh ta như một người chủ... Tuồng như có một cái gì đó rất khó chịu, tựa như một hòn đá to nhọn chẳng hạn lọt vào giữa cuộc sống êm đẹp của chúng tôi. Vô-lô-đi-a đã từng làm thơ và mãi tới bây giờ tôi vẫn còn nhớ bốn câu thơ “Chú bé Sôn-ca đi từ trường về nhà”. Đó là một con người tự tin và hãnh diện, khi đoàn kịch Mát-xcớ-va đến biểu diễn ở thành phố Da-pô-li-a-ri-e, cậu ta đã được lên tặng hoa cho các diễn viên đế tỏ sự hoan nghênh. Bác sĩ đã có một người con như thế, và đấy là điều hạnh phúc của ông. Thế mà giờ đây, ông đang ngồi cúi đầu ủ rũ trước mặt tôi, cố kìm không cho nước mắt trào ra.

    - Rốt cuộc Ca-chi-a ở đâu? Chị ấy ra sao?

    Tôi kể cho ông nghe chuyện bị đứt liên lạc giữa hai chúng tôi.

    - Trời đất! Chuyện là chuyện anh mất tích chứ không phải chị ấy! - bác sĩ kêu lên giọng kinh ngạc. - Chính là anh đã đổi địa điểm ba lần trên ba biển, sau đó bị thương, nằm bệnh viện chứ không phải chị ấy. Chị ấy vẫn còn sống sờ sờ ra đấy kìa! - Ông nói giọng nghiêm trang. - Chị ấy đi tìm anh có thể nói là suốt ngày đêm. Chị ấy nhất định phải tìm được anh, nếu không thì tôi sẽ không hiểu nổi thế nào là người phụ nữ trong tình yêu. Bây giờ anh rót rượu đi, chúng ta sẽ cạn cốc chúc mừng sức khỏe Ca-chi-a...

    Đến lúc này những việc chính chúng tôi đều đã đề cập đến. Chúng tôi đều nhận thức được một cách đau khổ rằng tuy tôi chưa tìm được vợ, không biết nàng sống chết ra sao, và tuy con bác sĩ đã mất, cuộc sống vẫn tiếp tục bước tiếp những bước đi bình thường của nó. Hai chúng tôi đau khổ mãi, chưa dứt được ngay với những ám ảnh đau lòng. Những việc không may xảy ra trong mấy năm gần đây nhiều quá, nhiều đến nỗi có lúc tưởng chừng không sao chịu đựng nổi. Song chúng tôi cùng có chung một niềm hứng thú say sưa, khi nỗi buồn khổ vừa lùi xa, niềm hứng thú ấy lập tức len vào câu chuyện của chúng tôi.

    Dĩ nhiên niềm hứng thú ấy đổ dồn vào phương Bắc. Chúng tôi như hai thầy thuốc già dặn đang đứng trước giường bệnh nhân, bàn với nhau cách bảo vệ, giữ gìn phương Bắc và cách biến nó thành nơi đẹp đẽ, vui thú và mến khách nhất thế giới. Tôi kể cho bác sĩ nghe về những người bạn chiến đấu cùng trung đoàn của tôi, về lớp trẻ hiện nay. Tuy họ chiến đấu rất giỏi nhưng lại rất ít suy nghĩ đến tương lai của vùng đất phía Bắc này. Còn về quá khứ của nó thì họ càng ít nghĩ đến hơn nữa.

    - Họ không nghĩ đến nhiều vì thì giờ ít quá, - bác sĩ nói.

    Ông nhắc đến anh em của bà An-na Xtê-pa-nốp-na. Trước kia hai anh em phục vụ trên tàu vận tải, nhưng giờ đây đã trở thành những người lính thủy chiến đấu rất đũng cảm trên hạm săn tàu ngầm, tuồng như họ vốn là con nhà hải quân vậy.

    - Không, mọi sự nỗ lực đều không vô ích, - ông qui kết. - về vấn đề phương Bắc, như Men-đe-lê-ép đã nói là mặt chính của ngôi nhà chúng ta. Đối vối mình, điều này chưa bao giờ rõ ràng như trong thời gian chiến tranh hiện nay!

    Đã đến lúc phải đi ra. Trong nhà ăn lúc này chỉ còn lại hai chúng tôi. Bác sĩ chưa có chỗ ngủ nên cần về sớm một chút để tìm cho ông một chỗ ở trung đoàn.

    Nói chung, buổi tối đã trôi qua. Điều đó là hiển nhiên. Song chúng tôi không cam tâm công nhận. Vì cho đến lúc này, chúng tôi vẫn chưa nói được gi với nhau, tuy chỉ là một phần mười những chuyện cần nói! Nhưng không có cách nào hơn. Chúng tôi bước xuống cầu thang gác và khoác chiếc áo ấm quân phục lên người. Cả cái thế giới ấm cúng, sáng trưng, ngây ngất hơi men đã rơi lại phía sau, trước mắt bày ra quang cảnh tối mò như xi đen đánh giày của thành phố. Những ngọn gió bấc thô bạo, khó chịu, luồn lỏi, vần vũ khắp thành phố.

    {:Bang Tang Du Tu 2:}
     
    Last edited by a moderator: 4/6/15
  20. Rafa

    Rafa SV

    Chương 5

    Cạn cốc vì những người trên mặt biển

    Các nhân vật chính ở vùng này là những thủy thủ của các tàu ngầm. Vì chẳng những trong thời kỳ đầu chiến tranh họ đã phải gánh vác nhiều nhiệm vụ nặng nề hơn tất cả các đơn vị trong hạm đội Bắc cực, mà còn vì cách sống cùng những đặc điểm trong cuộc chiến đấu căng thẳng của họ. Họ đã mang đến cho đời sống của thành phố những dấu ấn đặc biệt. Không ở đâu có thể có một mối quan hệ tuyệt đối bình đẳng như giữa các chiến sĩ tàu ngầm. Hoặc là họ sẽ cùng hy sinh, hoặc là cùng giành thắng lợi với nhau. Tất cả mọi lao động quân sự đều nặng nhọc, nhưng lao động quân sự của các chiến sĩ tàu ngầm còn nặng nhọc khó khăn hơn. Nếu có ai đó đổi cho tôi mười chuyến bay nguy hiểm để lấy một cuộc “hành quân ngầm”, tôi cũng không muốn đổi. Hồi còn bé tôi đã từng nghĩ rằng giữa những người làm việc và chiến đấu trong lòng nước nhất định có một giao kèo ngầm bí mật nào đó, tựa như lời thề giữa tôi với Pê-chi-a.

    Cuối tháng tám năm 1942, tôi cùng với một đồng chí đại úy bắn chìm chiếc tàu vận tải thứ ba của bọn Đức. Và chiếc hạm nổi tiếng của đồng chí PH. được sự hợp sức của tôi, đã đánh chìm chiếc thứ tư. Quá trình diễn biến của cuộc chiến dấu này thực ra không đáng nêu ra đây. Lúc ấy máy bay của tôi không còn một viên đạn nào, điều duy nhất mà tôi có thể làm được là báo cáo tọa độ của tàu giặc cho Bộ tư lệnh. Song đồng chí PH. lại muốn tôi cùng hưởng cái con lợn quay ấy, và giờ đây câu chuyện mà tôi kể đến là xảy ra từ con lợn quay ấy.

    Ai cũng biết rằng, trong hải quân có một truyền thống nổi tiếng là sau khi đánh đắm tàu địch, đơn vị sẽ mở bữa tiệc lớn và trong bữa tiệc đó, thủ trưởng sẽ đãi những người anh hùng chiến thắng một con lợn quay. Chỉ riêng ngày hôm qua một tàu vận tải, một hạm hộ tống và một hạm khu trục của bọn Đức đã về chầu Diêm vương nơi đáy biển. Vì thế những người anh nuôi tốt bụng đầu đội mũ trang đã khiêng vào phòng ăn không phải một mà là ba con lợn quay. Bàn ăn được xếp theo hình chữ u. Đồng chí thượng tướng, tư lệnh hạm đội Phương Bắc ngồi đằng sau chiếc bàn giữa.

    Đồng chí thượng tướng nâng cốc đứng dậy. Lần chạm cốc đầu tiên là để mừng chiến thắng của đồng chí chỉ huy cùng các binh sĩ của anh. Tôi nhìn sang phía đồng chí chỉ huy - đã có lần anh đến đơn vị tôi - bất giác nhớ đến cái dáng và những động tác hăng hái, trẻ trung của anh khi anh nhận lệnh của trung đoàn trưởng qua điện thoại. Anh còn rất trẻ, chỉ lớn hơn tôi bốn tuổi... Tôi nghe tiếng anh từ hồi tôi còn ở Tây Ban Nha.

    “Vì những chiến sĩ ngày đêm vận hành trên mặt biển. Chúng tôi chạm cốc lần thứ hai. Tiếng cốc chạm vào nhau kêu lanh canh rất vui tai. Vì những người anh em đang lập nên công trạng ở miền Bắc cực xa xôi và tối tăm, cạn cốc! Cạn cốc vì những chiến thắng quân sự, vì những trái tim đã bình tĩnh kiên định trong những giờ phút nguy cấp!

    Lúc ấy đồng chí thượng tướng hải quản ngồi phía bên kia bàn đang nhìn tôi. Tôi ngồi hơi chếch về phía tay phải ông giữa những phóng viên được đặc biệt mời đến. Đồng chí PH. đang dùng dao và dĩa minh họa lại tình hình chiếc tàu giặc bị đánh đắm. Đồng chí thượng tướng nhìn tôi rất chăm chú và nói mấy câu gì đó với một người ngồi bên cạnh. Thế là, người ngồi cạnh thượng tướng, một đại đội trưởng của hạm đội bèn đứng lên, tuyên bố chạm cốc lần thứ ba. Anh đề nghị cạn cốc vì đại úy Gri-gô-ri-ép, vì anh “đã hướng dẫn hạm đội chúng ta tiến đến vùng biển có tàu vận tải của bọn Đức một cách rất tài tình”. Và đồng chí thượng tướng làm một động tác nhỏ, tỏ ý chạm cốc với tôi...

    Tôi hôm ấy chúng tôi đã uống khá nhiều, giờ đây tôi không định kể lại tất cả mọi lần chạm cốc. Điều duy nhất tôi muôn nhắc đến là việc đồng chí thượng tướng bất thình lình đứng lên và đi ra phía cửa. Khi đi qua cạnh tôi, không để tôi kịp đứng lên, đồng chí đã cúi xuống nói khẽ:

    - Đồng chí đại úy, mời đồng chí hôm nay đến chỗ tôi một chút!

    {:Bang Tang Du Tu 2:}
     
    Last edited by a moderator: 5/6/15

Chia sẻ trang này