Tin tức Truyện Kiều và những tranh cãi

Thảo luận trong 'Tin tức - Sự kiện' bắt đầu bởi Heoconmtv, 8/12/15.

  1. Heoconmtv

    Heoconmtv Moderator Thành viên BQT

    Người đời sau làm méo mó "Truyện Kiều"?

    Từ khi sinh thành cách đây 180 năm, Truyện Kiều đã trở thành tác phẩm văn học thẩm thấu vào tâm trí người Việt với biết bao dạng thức như ngâm Kiều, bói Kiều, lẩy Kiều…

    Truyện Kiều cũng là một tác phẩm văn học kiệt xuất của dân tộc Việt Nam trên diễn đàn văn hóa thế giới. Bản thân tác giả của Truyện Kiều là đại thi hào Nguyễn Du cũng trở thành Danh nhân văn hóa thế giới. Thế nhưng, nhiều ý nghĩa của tác phẩm này đã bị hậu thế hiểu sai đi hoặc làm “méo mó” không chỉ một lần.

    Vua Tự Đức “sửa” Truyện Kiều

    Nhiều tài liệu viết rằng, sau khi Nguyễn Du viết xong Truyện Kiều, bạn hữu của ông đọc rồi đem khắc bản gỗ và bán tại các cửa hàng sách. Sau đó, người ta thêm, bớt, sửa chữa và lại đem khắc in.

    [​IMG]
    Tượng đài thi hào Nguyễn Du

    Chẳng hạn, trong bài tựa Đoạn trường tân thanh, ông Đào Nguyên Phổ, một vị quan nhà Nguyễn, viết rằng: “Mùa Hè năm Mậu Tuất 1898, tôi ở Kinh về vinh quy, có đem quyển Truyện Kiều ấy biếu ông Kiều Oánh Mậu. Ông Kiều Oánh Mậu đã theo bản Kinh ấy mà tham khảo, chép theo một số chữ và còn ghi thêm những câu của bản Kinh khác với bản Phường…”.

    Vị quan họ Đào này viết tiếp: “Truyện giai nhân diễn thành giai tác, lại đượm hương trời càng là thêm vẻ, nên chi người ngâm vịnh quý hơn được ngọc bích, tranh nhau sao chép đến nỗi giá giấy đắt như giấy quý Lạc Đô”. Như vậy, Truyện Kiều đã không còn nguyên bản như Nguyễn Du viết. Bởi ngoài nguyên bản của Nguyễn Du còn có bản Phường của Phạm Quý Thích, bản Kinh do vua Tự Đức sửa chữa mà thành và nhiều bản quốc ngữ khác nhau.

    Vua Tự Đức “mê” Truyện Kiều. Điều này đã được dân gian vì von: Mê gì? Mê đánh tổ tôm/Mê ngựa hộ bổn, mê nôm Thúy Kiều. Và tuy là người hay bắt bẻ nhưng đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, Tự Đức cũng phải công nhận đúng là “hàng hàng châu ngọc lời lời gấm thêu”. Có giai thoại rằng, sau khi đọc Truyện Kiều, vua Tự Đức bỗng dưng đùng đùng nổi giận: “Nếu Tố Như (tên tự của Nguyễn Du) mà còn sống, phải nọc nằm xuống đánh cho 30 roi!”.

    Bởi khi viết về Từ Hải, Nguyễn Du đã viết: “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!”, đó là hình ảnh của Nguyễn Huệ ngày xưa trong liên tưởng của Tự Đức. Bởi qua thơ, vua Tự Đức thường xét lập trường chính trị của tác giả. Còn một điều nữa là vua Tự Đức tên là Nguyễn Phúc Thì. Nhưng trong Truyện Kiều chỗ nào có chữ “Thì” thường là xấu xa bỉ ổi: “Khi thì lừa đảo, nơi thì ai thương?” (2.291), “Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng” (1.729), “Thôi đà mắc lận thì thôi đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh” (1.157).

    Đặc biệt, câu: Thì con người ấy ai cầu làm chi đã được ngắt thành: “Thì/con người ấy/ai cầu làm chi” và được hiểu theo nghĩa: “Một con người như Tự Đức thì chẳng ai cầu làm gì!”. Như vậy là Nguyễn Du đã mắc vào tội vừa phạm húy, vừa phạm thượng, một tội rất nặng trong chế độ phong kiến! Cũng may là Nguyễn Du đã mất và vua Tự Đức cũng cảm phục tài ông nên chỉ tức giận vài câu mà thôi.

    Kiều thành Phật bà nghìn tay nghìn mắt?

    Tháng 2.2012, vở kịch Nguyễn Du với Kiều do NSND Lan Hương đạo diễn và dàn dựng được công diễn. Nhiều sáng tạo và đột phá của vở kịch được khán giả đón nhận nhưng cái kết với hình ảnh nàng Thúy Kiều hóa thân thành Phật bà nghìn mắt nghìn tay khiến dư luận khó đồng tình.

    [​IMG]
    Thúy Kiều thành Phật bà nghìn tay nghìn mắt

    NSND Lan Hương lý giải: “Kiều là người kiếp này tu và kiếp sau sẽ tu tiếp. Ý tứ tôi đưa ra chỉ muốn nói Kiều sẽ đi lên trong vòng tay che chở của Đức Phật bởi ngài là người hiếu thấu trái tim nhân hậu, trong sáng và quá đỗi nhân ái của Kiều”.

    Việc Thúy Kiều được thành Phật bà là một điều không thể xảy ra. Đọc kỹ đoạn kết Truyện Kiều chúng ta sẽ thấy rõ hơn về điều này. Đến cuối cùng Kiều vẫn chưa thoát khỏi phong trần. Bởi câu 3.243 - 3.244 của Truyện Kiều cũng là: Bắt phong trần phải phong trần/Cho thanh cao mới được phần thanh cao. Kiều đến cuối cùng vẫn phải sống ở chốn hồng trần, vẫn phải kết hôn với Kim Trọng chứ không thể “thanh y” để trở thành Phật được.

    Kể cả đại thi hào Nguyễn Du cũng không muốn Thúy Kiều trở thành tiên thành Phật. Trong câu kế cuối của Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết rằng: “Thiện tâm ở tại lòng ta”. Như vậy Nguyễn Du có muốn Kiều thành Phật đâu!

    Chữ “trinh” bị hậu thế hiểu sai

    Đề thi của Đại học FPT ngày 8/4/2012 có nội dung để thí sinh bàn về chữ “trinh” xưa và nay với những câu trong Truyện Kiều làm dẫn chứng. Tuy nhiên, sự khập khiễng về logic đã khiến đề thi trở thành câu chuyện “râu ông nọ cắm cằm bà kia” và “đầu voi, đuôi chuột” khá khôi hài. Bởi lẽ chữ “trinh” trong Truyện Kiều không phải là việc “Ngày xưa, nếu cô dâu bị mất trinh thì coi như mất hết, hôn nhân đổ vỡ, người vợ bị đem trả lại” như người ra đề khẳng định.

    Cá nhân người viết cũng “thông cảm” cho người ra đề. Bởi cách hiểu của người ra đề được đặt trong bối cảnh xã hội và dân gian còn nặng cách hiểu một chiều. Như: “Gái khôn tránh khỏi đò đưa, Trai khôn tránh khỏi vợ thừa người ta!".

    Nhưng chữ “trinh” của Truyện Kiều lại là quan niệm riêng của Nguyễn Du thông sự bày tỏ quan điểm của các nhân vật. Đặc biệt là quan điểm của hai nhân vật Thúy Kiều và Kim Trọng. Với Thúy Kiều, lúc yêu Kim Trọng, nàng đã dám trèo tường sang người yêu để gặp người yêu nhưng vẫn:

    “Thưa rằng đừng lấy làm chơi,



    Đã cho vào bậc Bố-kinh,

    Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.

    Ra tuồng trên Bộc trong dâu,

    Thì con người ấy ai cầu làm chi!”.

    (câu 499 - 508).

    Sau này, mặc dù bị sa vào chốn bùn nhơ nhưng cuộc đời đó không do ý muốn của Thúy Kiều. Và khi trở về với gia đình sau 15 năm lưu lạc hồng trần thì món quà tiết hạnh cao quý còn lại mà nàng muốn dâng hiến cho Kim Trọng để chu toàn cho cả hai lại là chữ “hiếu” và chữ “tình”:

    “Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng

    Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương

    Chữ trinh đáng giá nghìn vàng

    Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa”.

    (câu 3.093 - 3.096).

    Vì thế, đối với Kim Trọng thì chữ “trinh” của Kiều chính là:

    “Xưa nay trong đạo đàn bà,

    Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường.

    Có khi biến có khi thường,

    Có quyền nào phải một đường chấp kinh.

    Như nàng lấy hiếu làm trinh,

    Bụi nào cho đục được mình ấy vay?”.



    “Gương trong chẳng chút bụi trần,

    Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm”.

    (câu 3.115 - 3.122).

    Như vậy, thi hào Nguyễn Du, qua vai trò Kim Trọng, một đại diện điển hình của chế độ phụ quyền phong kiến (nho sĩ, quan lại) đã làm một cuộc cách mạng về tư tưởng và đem lại giá trị sống cho phụ nữ, không còn xem việc trai tơ lấy gái mất “cái màng trinh” là xấu nữa.

    Chữ “trinh” của người xưa vì thế cũng không hẳn là còn trinh theo nghĩa xác thịt như Đại học FPT đã nhầm lẫn trong đề Văn ngày 8/4/2012.

    Truyện Kiều còn, tiếng ta còn…

    Thời gian gần đây, chuyện ông Đỗ Minh Xuân, một kỹ sư, đã sửa hơn 1.000 chỗ trong 3.254 câu Truyện Kiều, nghĩa là đã làm méo mó đi 1/3 kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du đã khiến dư luận bàng hoàng. Lý do ông Xuân đưa ra là người đọc Truyện Kiều ngày nay có rào cản về điển tích, từ Hán, từ cổ, từ địa phương. Trong khi đó chữ nghĩa của Truyện Kiều lại rườm rà, trùng lặp, không hay, thiếu logic, trái văn cảnh… nên ông sửa lại cho phù hợp (?).

    Nguyễn Du tự nhận về “đứa con tinh thần” của mình là những “lời quê”, “chắp nhặt”, “dông dài”, chỉ là để “mua vui”. Nhưng 3.255 câu Kiều đã thành công vượt bậc hơn cả nguyên bản của nó từ Trung Quốc.

    Truyện Kiều cũng đã góp phần đưa tác giả của nó thành một đại thi hào của thế giới. “Mua vui” như vậy mới đáng mặt bậc thi sĩ nước Nam. Chỉ mong sao hậu thế về sau đừng có ai như ông Đỗ Minh Xuân làm “méo mó” thêm Truyện Kiều nữa. Bởi những việc làm này rõ ràng là hạ thấp giá trị tác phẩm văn học đã được xem là kiệt xuất của dân tộc Việt Nam trên bản đồ định vị giá trị văn hóa của thế giới.

    Theo Nguyễn Văn Toàn (Thể thao & Văn hoá)
     
    gaumisa, dragonking91, Fish and 4 others like this.
  2. cfcbk

    cfcbk Lớp 2

    Hôm này mới biết chuyện ông Đỗ Minh Xuân này, chắc ông ý làm thơ theo công thức: Kỹ sư + thi hào = su hào :D
     
    gaumisa and Heoconmtv like this.
  3. Heoconmtv

    Heoconmtv Moderator Thành viên BQT

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Mỗi từ, mỗi câu trong Truyện Kiều là mỗi viên ngọc long lanh trong kho tàng ngôn ngữ và văn chương Việt Nam, điều đó có lẽ không cần phải bàn. Nhưng nay có lẽ phải bàn lại vì có người… chê dở, và đã sửa tới 1/3 tác phẩm!

    “Trăm năm trong cõi người ta
    Chữ Tài, chữ Mệnh khéo là ghét nhau
    Trải qua mỗi cuộc bể dâu
    Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
    Mỗi người thứ có thứ không
    Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen…”

    Đọc những câu thơ trên, ắt hẳn người ta sẽ nghĩ: “Sao mang máng như Truyện Kiều, mà sao hình như không phải Truyện Kiều?

    [​IMG]
    Ngôn từ Truyện Kiều đang bị người ta dùng bạo lực can thiệp!

    1/3 kiệt tác bị sửa!

    Vâng, nói sao cũng đúng. Là Truyện Kiều cũng đúng, bởi cái gốc là đại thi hào Nguyễn Du viết ra. Nhưng nói không phải Truyện Kiều cũng không sai, vì nó đã được/bị ông Đỗ Minh Xuân, một kỹ sư, sửa đi rồi.

    Ngay những câu đầu tiên mở đầu kiệt tác, đã bị ông Đỗ Minh Xuân chọc bút vào. Một câu ông sửa một từ (Trải qua mỗi cuộc bể dâu); còn một câu ông thay đổi hoàn toàn. Chắc chắn những người đã thuộc câu thơ lấp lánh ánh ngọc “Lạ gì bỉ sắc tư phong” của đại thi hào, nay trở thành “Mỗi người thứ có thứ không”, có lẽ không thể nào không bị… sốc phản vệ!

    Chuyện cứ tưởng như đùa nhưng lại là có thật 100% ở xứ ta! Xin đừng nóng vội, “dẽ cho thưa hết một lời đã nao” (Kiều - Nguyễn Du). Đó là trong cuộc hội thảo Dòng chảy văn hóa xứ Nghệ - Từ Truyện Kiều đến phong trào Thơ mới, tổ chức vào ngày 15/12/2012 tại khu di tích Nguyễn Du (Hà Tĩnh), mỗi đại biểu tham dự được phát một cuốn sách (bản photo) có nhan đề Truyện Kiều Nguyễn Du với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng, do Đỗ Minh Xuân khảo dịch - NXB Văn hóa - Thông tin in năm 2012.

    Ông Đỗ Minh Xuân, được biết là một kỹ sư. Không rõ kỹ sư gì, nhưng thông thường danh từ này dành cho giới kỹ thuật, khoa học tự nhiên. Thế nhưng ông đã “dày công nghiên cứu, nghiền ngẫm, đối chiếu, so sánh…”, và ông đã sửa hơn 1.000 chỗ trong Truyện Kiều như thế. Cứ cho là mỗi đơn vị sửa sẽ rơi vào 1 câu, thì với Truyện Kiều 3.524 câu, ông Xuân đã sửa đến 1/3 kiệt tác của đại thi hào!

    Thật là ngạc nhiên, chưa nói là việc này có giúp làm cho tác phẩm hay hơn hay dở hơn, thì việc sửa tác phẩm của người khác là điều xưa nay chưa bao giờ có trong giới văn chương và kể cả các lĩnh vực học thuật khác. Trước hết, bởi quyền tác giả và trí tuệ của tác giả đã bị xâm phạm.

    Lý do ông Xuân đưa ra là, vì người đọc Truyện Kiều ngày nay, không còn thịnh như trước đây do rào cản về điển tích, từ Hán, từ cổ, từ địa phương…, trong khi đó chữ nghĩa của Truyện Kiều lại rườm rà, trùng lặp, không hay, thiếu logic, trái văn cảnh…, nên ông sửa lại cho phù hợp!

    Cười đến… dào mạch Tương!

    Nói vòng vo không bằng chỉ ra trực diện. Ngoài câu mở đầu “Lạ gì bỉ sắc tư phong” lấp lánh ánh văn chương đã bị hãm hiếp bởi câu “Mỗi người thứ có thứ không” đầy cục súc, thì hàng loạt câu, từ, điển cố điển tích… đã bị ông kỹ sư này ra tay sát hại không thương tiếc. Chiếc cầu Lam, được gọi là “Lam kiều” một cách thướt tha sang trọng trong câu “Xăm xăm đè nẻo Lam kiều lần sang”, được ông thay bằng từ “đánh liều”, thì quả thật không có sự… liều mạng nào bằng!

    “Thời trân” thì sửa thành “quả ngon”, “sẵn bày” thành “xách tay”, nên câu thơ miêu tả hành động của Thúy Kiều, một người con gái khuê các với mỗi động tác đều dịu dàng thanh nhã, cao sang “Thời trân thức thức sẵn bày”, thành ra một hành động dung tục “Quả ngon thức thức xách tay”! Nghe cứ như là nàng Kiều đang ăn trộm trái cây nhà mình cho vào giỏ rồi lén lút mang sang cho tình lang Kim Trọng!

    [​IMG]
    Trộm nghe thơm nức hương lân,
    "Buồng đào nơi tạm khóa Xuân hai Kiều"! (Đỗ Minh Xuân)

    Nhưng chưa! Điều đáng sợ là ông Xuân… sợ điển cố điển tích, nên cứ gặp điển cố là ông cố tình gạt ra và thay vào đó là thứ từ ngữ dung tục của ông! Cái đài Đồng Tước mà Tào Tháo xây lên để tính vui thú với 2 nàng con gái sắc nước hương trời Đại Kiều và Tiểu Kiều - vợ của Tôn Sách và Chu Du - hiện lên trong câu thơ của đại thi hào một cách nên thơ, đẹp đẽ và sang trọng:

    Trộm nghe thơm nức hương lân
    Một nền Đồng Tước khóa Xuân hai Kiều”
    đã bị ông Xuân hô biến thành “Buồng đào nơi tạm khóa Xuân hai Kiều”, nghe cứ như là cái buồng tạm giam tội phạm hình sự!

    Không thể nào nói hết cái ngô nghê, ngớ ngẩn với hành động “sát phạt điển cố” đến kỳ dị của ông kỹ sư. Trong đêm gió mát trăng thanh, lửa tình nồng nàn, chàng thư sinh Kim Trọng cũng muốn thụ hưởng cái thơm tho của xác thịt người con gái đẹp như hương như hoa. Để giữ tiết trinh, nàng Kiều đã dẫn chuyện của cặp đôi Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy trong “Tây Sương ký”. Cặp đôi này vì quá yêu nhau mà đã ăn nằm với nhau trước khi thành hôn, để rồi sau đó chán nhau, bỏ nhau, khiến người đời sau cứ tiếc mãi cho đôi trai tài gái sắc mà không thành duyên giai ngẫu:

    “Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
    Lứa đôi ai dễ đẹp tày Thôi – Trương
    Mây mưa đánh đổ đá vàng
    Quá chiều nên đã chán chường yến anh
    Trong khi chắp cánh liền cành
    Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên
    Mái Tây để lạnh hương nguyền
    Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng…”

    Ấy thế nhưng ông Xuân sẵn sàng chém ngay cái điển cố:

    “Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
    Lứa đôi từng thấy những ngày trái ngang”!
    Nàng Kiều thông minh tuyệt đỉnh đã lấy truyện "Tây Sương ký" để thuyết phục Kim Trọng. Như vậy Kim Trọng mới thực sự bị thuyết phục và “Thấy lời đoan chính dễ nghe / Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân”. Còn nay, khi ông Xuân cắt quách đi cái điển cố văn học này, thì có nghĩa những lời Kiều nói chỉ là lý luận suông của nàng. Thử hỏi trong đêm gió mát trăng thanh, người yêu như hoa như ngọc, rượu đã ngấm, tình đã nồng, có ông thánh nào chịu chấp nhận những lời lý lẽ suông của người yêu như vậy không?

    Lệch lạc, ngớ ngẩn, sai kiến thức, quy chụp… là những thứ nhan nhản trong “bản sửa” của ông kỹ sư. Vua Thuấn đi tuần thú sông Tương và chết, hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm, và ngồi bên bờ sông khóc, rồi trầm mình tự vẫn. Từ đó “mạch Tương”, “giọt Tương” chỉ giọt nước mắt, là khóc. Thúy Kiều khóc cho thân phận mình: “Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương”. Ấy thế nhưng ông kỹ sư ngang nhiên sửa thành “trời đã sáng”: “Chưa xong điều nghĩ đã chào vừng dương”!

    Than ôi, còn sự hàm hồ nào bằng!

    Còn nhiều, nhiều lắm, vô kể. Thiếp Lan Đình thì gọi là “thiếp xem tình” (?), Lãm Thúy (có lý giải đây là danh từ riêng) đổi thành “kiểu dáng”; “đỉnh Giáp, non Thần” ngụ ý chuyện nam nữ mây mưa thì bị cưỡng hiếp đổi thành “tiên nữ giáng trần”, Chung (Tử) Kỳ - danh từ riêng, một người nghe đàn giỏi - được biến thành “ngưỡng vì”, lạ hoắc chẳng ăn nhập gì với nhau!...

    Đọc những câu từ được ông kỹ sư sửa lại, người ta không khỏi ôm bụng mà cười! Thế nhưng, cười nhưng mà đau xót. Cười nhưng mà không thể không… dào mạch Tương, tức không thể không khóc! Không thể nào nghĩ ra được rằng, người ta có thể dám ngang nhiên mạo phạm văn chương, mạo phạm tiền nhân đến như vậy! Nhà thơ Nguyễn Quang Thân gọi hành động này là “vô đạo”, còn ông Thế Anh, trên tạp chí “Thơ” của Hội Nhà văn Việt Nam, gọi việc làm, hành động này là “vô lối”, “hỗn hào”; có người nói đây là hành động bất kính, người thì cho là hành động phản văn hóa, phản văn chương.

    [​IMG]
    Hiện nay Truyện Kiều có quá nhiều dị bản. Người ta cố giữ những bản Kiều cổ vì muốn tìm về đúng nguyên bản của nó.

    Được cổ xúy bởi nhà nghiên cứu văn hóa lừng danh!

    Cứ như vậy, đến hơn 1.000 chỗ sửa, 1/3 tác phẩm chứ không phải ít ỏi, tức gần như bất cứ chỗ nào trong Truyện Kiều, cũng bị ông kỹ sư cắt xé, bức tử!

    Điều đáng nói là, việc sửa thơ này của ông kỹ sư lại nhận được cổ xúy của một bậc giáo sư lừng danh: Anh hùng lao động, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, Giáo sư Đặng Vũ Khiêu!

    Người ta đã kinh ngạc với hành động của ông kỹ sư, thì lại càng kinh hãi hơn khi biết rằng, hành động này được một bậc danh tiếng, “đức cao vọng trọng” trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa khuyến khích và tán dương! Quả thật giới văn chương và học thuật không khỏi ngỡ ngàng rồi kinh sợ, khi đọc những dòng đề tựa của vị giáo sư này:

    Với một tinh thần khoa học rất nghiêm túc, ông tìm lại hầu hết các bản Truyện Kiều từ trước đến nay, so sánh các dị bản, ông tìm đọc hầu hết các bài đã bình luận, phân tích tác phẩm và tác giả Truyện Kiều. Từ đó, ông đã có ý tưởng lớn là làm thế nào để phổ cập hóa Truyện Kiều cho quảng đại công chúng, ông gạt bỏ những câu chữ khó hiểu từ tiếng Hán để thay bằng ngôn ngữ thuần Việt trong Truyện Kiều… Tôi hoan nghênh công phu nghiên cứu của ông Đỗ Minh Xuân và tin rằng cuốn sách này của ông là một đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Truyện Kiều…”

    Chính vì vậy chả trách tại sao, cứ mỗi chỗ sửa, ông Xuân tự khen là hay hơn cả chữ của Nguyễn Du, đến nỗi còn nói nếu cụ Nguyễn Tiên Điền mà sống dậy thì ắt phải thốt lên “hậu sinh khả úy”!

    Quả thật đây là lối nói hàm hồ! Ngày nay, người ta dùng Truyện Kiều để bói, còn gọi “bói Kiều”. Điều này không phải do nàng Kiều linh thiêng linh ứng, mà bởi chính vì tác phẩm của đại thi hào quá súc tích, nó đã chứa đựng tất cả mọi mặt của cuộc sống, của đời người trong đó. Đồng thời, cũng có nghĩa bất cứ người dân nào cũng biết Truyện Kiều, chứ không phải như ông Xuân nói là ít người đọc.

    Còn việc hiểu, thẩm thấu, phải nói Truyện Kiều là một hiện tượng đặc biệt: Ngôn ngữ Truyện Kiều là thứ ngôn ngữ văn chương bác học nhưng diễn đạt lại rất giản dị, khiến mọi người, tất cả những ai, khi đọc đều hiểu. Người học ít thì hiểu theo mức của người học ít, người học cao thì hiểu theo cách của người học cao, còn người không biết chữ cũng hiểu được, theo cách của người không biết chữ. Chẳng vì thế mà ông bà ta xưa, dù không biết đọc chữ Nôm, vẫn thuộc làu làu 3.524 câu một mạch không vấp. Thậm chí có người mê Truyện Kiều đến mức, thuộc và đọc ngược nguyên tác phẩm! Thậm chí, dân gian còn thạo Truyện Kiều đến mức còn tập Kiều, vịnh Kiều, đố Kiều... Biết bao nhiêu là hoạt động phong phú, thể hiện dân ta đâu có... dốt Kiều, như ông Xuân nói.

    Sở dĩ, trong văn học Việt Nam, chúng ta có một khối lượng đồ sộ tác phẩm, bài viết, công trình nghiên cứu Truyện Kiều, cũng bởi độ uyên bác, thâm sâu của tác phẩm này, mà tất cả đều nằm trong văn chương, ngôn từ của tác phẩm. Vậy thì, khi ông Xuân làm một cái việc là "làm cho dễ hiểu", thì có còn gì là cái bản thể, cái tinh hoa của Truyện Kiều nữa!
    Phải nói, ngôn ngữ trong Truyện Kiều cô đọng, súc tích, thâm sâu đến mức, cố học giả Đào Duy Anh đã phải viết một cuốn "Từ điển Truyện Kiều", giải nghĩa từng từ một theo nội dung tác phẩm. Như vậy, khi ông Xuân kỹ sư dùng bạo lực can thiệp vào Truyện Kiều thế này, thì có nghĩa công trình của ông Đào Duy Anh đành phải... vứt sọt rác?

    Cách đây gần trăm năm, Phạm Quỳnh, cố học giả, nhà báo, nhà văn, đã viết: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn…”. Một thời quan điểm của học giả Phạm Quỳnh bị ta chỉ trích kịch liệt. Nhưng đến giờ, ngẫm lại câu nói của ông vẫn cứ nguyên giá trị.

    Nhưng, nếu vậy thì hiện “tiếng ta” có lẽ bị lung lay bởi việc làm ngông cuồng của một ông kỹ sư! Bởi những viên ngọc long lanh trong Truyện Kiều đang bị chà đạp bằng một thứ ngôn ngữ cục súc, mà được giáo sư Vũ Khiêu cho là kết quả của một một việc làm “với một tinh thần rất khoa học và nghiêm túc”, để thực hiện một “ý tưởng lớn”! Nếu thứ sản phẩm của trí óc điên loạn này mà đem phổ biến ra, tức là thực sự Truyện Kiều đã mất! Mà, cứ tam đoạn luận theo kiểu Đề-các, thì “Truyện Kiều còn – tiếng ta còn”, nên Truyện Kiều mất thì tiếng ta… còn đâu! Rồi “tam đoạn luận” nữa: Tiếng ta mất thì nước ta… Hỡi ôi! Nghĩ đến đây thấy giật mình, không dám nghĩ tiếp nữa! Sợ quá!

    Theo Đặng Vỹ (Đời sống & Pháp luật)
     
    Chỉnh sửa cuối: 8/12/15
  4. takeshima

    takeshima Lớp 1

    Tôi có vài thắc mắc nhỏ, hi vọng ai đó giải đáp giúp:

    - diễn đàn văn hóa thế giới là gì?

    - so sánh giá trị một tác phẩm văn học sao không đặt vào hệ qui chiếu đúng của nó là văn học, mà đặt vào trong văn hóa, vậy cái phẩm định từ "kiệt xuất" là dành cho tác phẩm văn học hay là sản phẩm văn hóa? cái nào đúng hơn?

    "Truyện Kiều cũng là một tác phẩm văn học kiệt xuất của dân tộc Việt Nam trên diễn đàn văn hóa thế giới"
     
    Last edited by a moderator: 8/12/15
    thanhbt and sannyas60 like this.
  5. sannyas60

    sannyas60 Lớp 8

    Nhà tôi có quyển từ điển truyện Kiều dày cộp, cũ lắm rồi. Truyện Kiều có mấy chục trang mà từ điển để tra nó dài cả nghìn trang chứ chả chơi...
     
    tran ngoc anh, Fish and Heoconmtv like this.
  6. Heoconmtv

    Heoconmtv Moderator Thành viên BQT

    Do cụ Nguyễn Du sử dụng quá nhiều điển tích cho nên nếu không lý giải rõ ràng thì không hiểu được. Chính vì vậy mà có bản "cải biên" truyện Kiều như trên. Em post lên để rộng đường dư luận. Các bác có ý kiến gì về bản truyện Kiều của kỹ sư Đỗ Minh Xuân không?
     
  7. Heoconmtv

    Heoconmtv Moderator Thành viên BQT

    Bìa sách 'Truyện Thúy Kiều' bán nude: Không đáng tranh cãi!

    Bức tranh vẽ cảnh Thúy Kiều tắm của danh họa Lê Văn Đệ bỗng trở thành tâm điểm của dư luận khi được thiết kế thành bìa cuốn văn họa 'Truyện Thúy Kiều'.

    Bức tranh vẽ cảnh Thúy Kiều tắm của danh họa Lê Văn Đệ bỗng trở thành tâm điểm của dư luận khi được thiết kế thành bìa cuốn văn họa Truyện Thúy Kiều. Giới mỹ thuật đánh giá cuốn sách là “ấn bản đáng chờ đợi” còn rất nhiều ý kiến của cộng đồng mạng cho rằng cuốn sách “đi ngược thuần phong mỹ tục”.

    Những ồn ào nực cười!

    Trao đổi với Thể thao & Văn hóa, họa sĩ Lương Xuân Đoàn, Phó vụ trưởng Vụ Văn hóa Văn nghệ của Ban Tuyên giáo Trung ương chia sẻ: Văn họa Truyện Thúy Kiều ngoài việc in ấn bản đặc sắc do học giả Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo còn bao gồm 11 bức tranh màu in trên giấy dó của các họa sĩ thuộc “thế hệ vàng” của mỹ thuật Việt Nam như: Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí, Lê Văn Đệ, Lưu Văn Sìn, Nguyễn Đỗ Cung… Đây là một ấn phẩm quý, đáng mong chờ nhất trong đợt kỷ niệm 250 ngày sinh của đại thi hào Nguyễn Du. Những ồn ào dư luận đang đổ dồn về bìa của cuốn sách là rất nực cười và không đáng có.

    [​IMG]
    Bìa cuốn “Truyện Thúy Kiều” (tranh của Lê Văn Đệ)

    Theo họa sĩ Lương Xuân Đoàn, bìa cuốn sách là tác phẩm bán nude duyên dáng, nghệ thuật, đúng tinh thần Truyện Kiều. Bức tranh tái hiện câu thơ của Nguyễn Du mô tả vẻ đẹp của Thúy Kiều: “Rõ ràng trong ngọc trắng ngà/ Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”. Đơn vị xuất bản lấy bức tranh ra làm bìa cũng rất đẹp và ý nghĩa.

    “Còn nếu nói tranh cụ Đệ “đi ngược thuần phong mỹ tục”, “lõa lồ”, “xúc phạm Truyện Kiều” là những quan điểm rất hạn hẹp trong thẩm mỹ. Thêm nữa, những bình luận đều xuất phát từ mạng xã hội với cái nhìn hời hợt và quy chụp” - ông Lương Xuân Đoàn nói.

    [​IMG]
    Tranh "Tú bà ghé lại thong dong dặn dò" của Tô Ngọc Vân

    Chờ sự công tâm của cơ quan quản lý

    Theo nhà sưu tập Nguyễn Minh - người đang giữ nhiều tranh của lớp đầu trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương - trước khi đánh giá, cộng đồng cần bình tâm nhìn lại tác giả bìa sách. Cụ thể, Lê Văn Đệ, một họa sĩ nổi tiếng, từng là thủ khoa khóa I Trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1930, từng là người phụ trách việc trang trí kỳ đài trong lễ Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình.

    “Trong các bức tranh của “thế hệ vàng” mỹ thuật Đông Dương lấy cảm hứng từ Kiều, bức tranh trên bìa sách của cụ Đệ có phần “hiền”. Có nhiều bức khác, các danh họa vẽ Kiều táo bạo hơn rất nhiều. Tiêu biểu như bức vẽ cảnh “Tú Bà ghé lại thong dong dặn dò” của Tô Ngọc Vân. Bởi vậy, bức tranh trên bìa sách của Lê Văn Đệ không đáng phải tranh cãi” - ông Nguyễn Minh nói.

    Cuốn Truyện Thúy Kiều cho đến nay vẫn chưa lên kệ. Mọi ồn ào đều xuất phát từ việc hình bìa cuốn sách được công bố ra ngoài. Trao đổi với phóng viên, ông Vũ Hoàng Giang, Phó GĐ Nhã Nam, cho hay: “Cho đến lúc này, chúng tôi vẫn chưa có ý định đổi hình bìa. Nhiều người nhiều quan điểm và quan điểm của số đông chưa hẳn đã là đúng”.

    Còn ông Lương Xuân Đoàn chia sẻ: “Tôi rất sợ cơ quan quản lý đưa ra một kết luận gì đó theo dư luận. Và nếu tranh của họa sư Lê Văn Đệ mà còn không được xuất bản trên bìa sẽ tạo tiền lệ rất xấu với ngành xuất bản và ngành mỹ thuật. Tôi chờ đợi sự công tâm của các cơ quan quản lý trong thời khắc thử thách bản lĩnh này”.

    Cuốn Truyện Thúy Kiều cho đến nay vẫn chưa lên kệ. Mọi ồn ào đều xuất phát từ việc hình bìa cuốn sách được công bố ra ngoài. Trao đổi với phóng viên, ông Vũ Hoàng Giang, Phó GĐ Nhã Nam, cho hay: “Cho đến lúc này, chúng tôi vẫn chưa có ý định đổi hình bìa. Nhiều người nhiều quan điểm và quan điểm của số đông chưa hẳn đã là đúng”.

    Còn ông Lương Xuân Đoàn chia sẻ: “Tôi rất sợ cơ quan quản lý đưa ra một kết luận gì đó theo dư luận. Và nếu tranh của họa sư Lê Văn Đệ mà còn không được xuất bản trên bìa sẽ tạo tiền lệ rất xấu với ngành xuất bản và ngành mỹ thuật. Tôi chờ đợi sự công tâm của các cơ quan quản lý trong thời khắc thử thách bản lĩnh này”.

    Nhã Nam khẳng định không “chơi chiêu”

    Khi được hỏi về việc chọn bức tranh bán nude của danh họa Lê Văn Đệ (trong số 11 bức tranh của các danh họa nổi tiếng), Nhã Nam có “chơi chiêu” PR? Ông Vũ Hoàng Giang cho hay: “Chúng tôi khẳng định việc lựa chọn bức tranh của cụ Đệ hoàn toàn là do tinh thần của bức tranh chứ không do một nguyên nhân nào khác. Chúng tôi không PR theo hướng phản cảm, lố lăng. Bởi trong 11 bức tranh, bức tranh của Lê Văn Đệ vẫn không “sốc” bằng bức tranh của Tô Ngọc Vân. Nếu cố tình PR theo hướng “trần trụi hóa” nghệ thuật, chúng tôi đã có lựa chọn khác”.

    Phạm Mỹ
    Thể thao & Văn hóa
     
    thanhbt thích bài này.
  8. tauvequehuong

    tauvequehuong Lớp 10

    Đọc chủ đề và nhìn cái hình tượng Nguyễn Du mà lại nhớ tới tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm ở thư viện thành phố Hải Phòng. 3D_42 3D_42 3D_42 3D_42

    Đây là ảnh tượng Nguyễn Du:
    1.jpg 2.jpg

    Đây là ảnh tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm:
    95297661.jpg

    Mấy tay làm văn hóa tạc tượng bừa. :3D_70: :3D_70:

    Phạm Quỳnh có câu nói nổi tiếng:
    "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; Tiếng ta còn, nước ta còn."
    Theo nhận định của mình thì câu đó Phạm Quỳnh sai, trước đây sai, hiện nay sai, sau này vẫn sai.
    Tiếng ta có trước Truyện Kiều, Truyện Kiều không phải là thứ quyết định "Tiếng ta" còn. Và rồi vế sau nữa chớ, 3D_42 3D_42

    Kim Vân Kiều truyện của Tàu không nổi tiếng vì nó không là gì khi nó sinh ra ở Tàu, vì Tàu họ có nhiều tác phẩm kinh điển, không đến lượt Kim Vân Kiều truyện. Còn ai đó nói Truyện Kiều của Nguyễn Du nổi tiếng hơn Kim Vân Kiều truyện của Tàu thì đúng rồi, giống như "thằng chột làm vua xứ mù", chứ nếu đặt Truyện Kiều vào nền văn học Tàu thì lại khác, có lẽ chìm xuống không chừng.
     
    thanhbt, cfcbk and cxz27 like this.
  9. cxz27

    cxz27 Lớp 7

    Khi Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều để về quê sau một thời gian say sưa ân ái, Nguyễn Du tả cảnh chia tay bằng hai câu thơ bất hủ:

    Người lên ngựa, kẻ chia bào
    Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san.

    Kẻ ra đi, người còn bịn rịn nắm áo giữ lại, đến lúc biệt ly mới ngỡ ngàng nhận ra là mùa thu đã đến từ lúc nào không hay, lá vàng đã phủ đầy lối đi. Thì ra đôi uyên ương đã quá say sưa đến quên cả thời gian.

    Những vần thơ trác tuyệt như vậy đầy rẫy trong truyện Kiều. Thiên tài của Nguyễn Du là đã vừa viết truyện vừa sáng tác ra ngôn ngữ để viết. Và những sáng lạo ngôn ngữ của ông quả là tuyệt vời. Nhưng cụm từ của ông đã trở thành những thành tố quan trọng của tiếng Việt. Sắc đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”, “rạch đôi sơn hà”, “hàng thần lơ láo”, “đội trời đạp đất”, “tài tử giai nhân”, “sở khanh”, v.v… Kiến thức về văn học của tôi không có bao nhiêu, nhưng tôi cũng đã đọc khá nhiều tác giả lớn bằng tiếng Pháp và tiếng Anh và nhiều truyện Tàu. Tôi chưa hề thấy một nhà văn nào sáng tạo ra ngôn ngữ nhiều như Nguyễn Du.

    Nhưng về một khía cạnh khác, truyện Kiều lại đem đến cho tôi một tâm sự chua chát. Đoạn Trường Tân Thanh là tên của một tiểu thuyết vô danh của một tác giả vô danh bên Trung Quốc, Thanh Tâm Tài Nhân. Nguyễn Du đã giữ nguyên tên tác phẩm và, theo một số nhà nghiên cứu văn học, cũng giữ nguyên cả cốt truyện, kể cả những chi tiết ngớ ngẩn như hồn ma Đạm Tiên, Từ Hải chết đứng, Thuý Kiều chết đi sống lại và gặp vãi Giác Duyên… Ông cũng giữ nguyên cái triết lý “tài mệnh tương đố” bi quan và rẻ tiền. Nói chung, Nguyễn Du không có cảm hứng và tư tưởng của chính mình mà chỉ hòa nhịp theo cảm hứng của một tác giả tầm thường của Trung Quốc và đi theo mạch tư tưởng rất tầm thường của người này.

    Nguyễn Du là khuôn mặt văn học lớn nhất và cao nhất của nước ta cho tới ngày nay, cho nên nhưng thiếu sót của ông càng đáng tủi hổ cho chúng ta hơn là nơi những tác giả khác. Hình như không có câu thơ nào trong Cung Oán Ngâm Khúc mà lại không có một điển tích văn hóa hay lịch sử Trung Hoa và quyết nhiên không có một qui chiếu Việt nam nào cả. Chinh Phụ Ngâm là tác phẩm hoàn toàn của người Việt nam, bản chữ Nho của Đặng Trần Côn cũng như bản chữ Nôm của Đoàn Thị Điểm, nhưng đó lại là một truyện Tàu, bối cảnh và các nhân vật của nó đều là Trung Hoa. Tâm hồn của người chiến sĩ lên đường được diễn tả qua hai câu thơ:

    Săn lâu lan rằng theo Giới Tử
    Tới Man Khê bàn sự Phục Ba.

    Nhưng “sự Phục Ba” là sự gì? Đó là việc tướng nhà Hán Mã Viện, có tước Phục Ba Tướng Quân, đem quân đánh bại Hai Bà Trưng, dẹp cuộc khởi nghĩa giành độc lập đầu tiên của Việt nam, và đặt ách đô hộ một ngàn năm trên nước ta. Một sự kiện như vậy mà lại gây hứng khởi trong lòng hai danh sĩ xuất sắc bậc nhất của nước ta đủ chứng tỏ cảm hứng của sĩ phu Việt nam vào thời đó đều chỉ hoàn toàn là vay mượn.

    Trong thế kỷ 19 thơ văn Việt nam đã làm một bước nhảy vọt vĩ đại cả về phẩm lẫn lượng. Bước nhảy vọt này đã được tiếp nối và tăng cường trong thế kỷ 20 với sự bành trướng của chữ quốc ngữ, thơ mới và tiểu thuyết theo kiểu phương Tây. Cũng trong thế kỷ 20 mà chúng ta bắt đầu làm quen với văn nghị luận và biên khảo. Nhưng chúng ta vẫn chưa có một tác phẩm nào lớn, có tầm vóc quốc tế. Cảm hứng vụn vặt, đam mê chốc lát – di sản của một nền văn hóa nhàn dư – đã chỉ đẻ ra những tác phẩm nhỏ, hoặc họa hiếm lắm là trung bình như trường hợp truyện Kiều. Chúng ta thiếu óc sáng tạo và thiếu sự dài hơi. Tại sao?

    Không phải chúng ta thiếu tài năng. Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, v.v… đều đáng được coi là những thiên tài của ngôn ngữ.

    Không phải chúng ta thiếu đề tài và chất liệu. Mười lăm thế kỷ đấu tranh với thiên nhiên để khai mở đồng bằng sông Hòng, đấu tranh với ngoại bang, vua quan và sĩ phu để giữ gìn căn cước. Cả một cuộc nam tiến vĩ đại kéo dài bảy thế kỷ trong đó những tấm áo nâu đã dắt dìu nhau vào tới Cà Mau. Hơn một trăm năm Trịnh – Nguyễn phân tranh, ba mươi năm tranh hùng Nguyễn ánh – Tây Sơn; cuộc xâm lăng của người Pháp và gần một thế kỷ Pháp thuộc mang theo một cuộc đụng độ dữ dội chưa từng có giữa hai thế giới và hai nền văn hóa khác hẳn nhau. Thế rồi cuộc chiến đấu giành độc lập, cuộc can thiệp của Hoa Kỳ, cuộc chiến tranh Nam – Bắc kéo dài hai mươi năm, nhưng cuộc di tản lịch sử đem người Bắc vào Nam và đem người Việt trải rộng ra khắp thế giới, v. v… Biết bao đổi thay bị hùng tráng lệ, biết bao đau khổ, mừng vui, tình nghĩa, phản trắc. Tất cả những đảo lộn dồn dập đó, nhất là trong hơn bốn thế kỷ gần đây, đã có thể cũng cấp đề tài cho những tác phẩm tầm cỡ lớn hơn Chiến Tranh và Hòa Bình, Anh em Karamazov, Les Hommes de Bonne Volonté, Les Thibault, Gon withthe Wind, Grapes of Wrath, A Farewell to Arms

    Chúng ta không sáng tác được vì chúng ta thiếu tầm nhìn và cách nhìn để thấy được cái vĩ đại ngay chung quanh chúng ta. Chúng ta thiếu tư tưởng.

    Sự thiếu tư tưởng của chúng ta là quá rõ rệt. Chúng ta không có một đóng góp nào cho tư tưởng thế giới đã đành nhưng chúng ta cũng không nhận thức được về chính mình. Việc du nhập một cách cuồng tín chủ nghĩa cộng sản vào Việt nam, cũng như sự kéo dài dai dẳng của nó, và của lập trường chống cộng, tố giác một cách phũ phàng sự yếu kém về tư tưởng của chúng ta.

    Hiện tượng Kim Dung trong thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 mới thực là kỳ quái! Truyện kiếm hiệp của Kừn Dung chỉ có giá trị tương đương với một bộ truyện giải trí nhi đồng, một bộ truyện bằng tranh hay một phim hoạt họa. Nó không dựa trên một sự thực nào, không có một giá trị văn học nào mà cũng không chuyên chở một tư tưởng nào, hay một nhãn quan nào về cuộc sống và thế giới. Nó chỉ có cái khác với các bộ sách kiếm hiệp cổ điền ở chỗ nó tương đối hóa tất cả, pha trộn thiện ác, chính tà. Hình như nó cũng có tham vọng qua các nhân vật và phe phái phản ảnh phần nào thế tranh hùng trên thế giới. Nhưng nó trình bày một cách ngây ngô hời hợt. Và nhất là nó hoàn toàn không có giá trị văn học. Vậy mà cả miền Nam say mê, ngay cả các trí thức được coi là lớn cũng bỏ công nghiên cứu và bàn luận. Tôi cũng có đọc một số truyện nổi tiếng nhất của Kim Dung với mục đích phân tích tâm lý của trí thức miền Nam lúc đó. Thể thực là tôi rất thất vọng, thất vọng về truyện Kim Dung thì ít vì dầu sao nó cũng có giá trị giải trí, nhưng thất vọng lớn về sự thấp kém bi đát của trí thức miền Nam lúc đó.

    Thiếu tư tưởng và cảm hứng thì dĩ nhiên ta không thể sáng tạo mà phải đi vay mượn của nước ngoài. Nhưng có những bộ môn nghệ thuật trong đó chúng ta bắt buộc phải sáng tạo, phải có cảm hứng của chính mình, dựa trên những chất liệu quanh mình, chẳng hạn như hội họa, điêu khắc và, ở một mức độ bớt gay gắt hơn, ca múa. Chúng ta yếu trong những bộ môn này là lẽ dĩ nhiên.

    Điều đáng buồn là, ngoại trừ thơ văn, những sáng tạo ít ỏi của chúng ta cho đến dầu thế kỷ 20 này, dù là hội họa, kiến trúc, âm nhạc, múa, v.v… dều không do những phần tử sĩ phu mà do dân gian.

    Điều cũng đáng buồn là hầu hết những người lỗi lạc nhất của chúng ta, những Nguyễn Trãi, Mạc Đĩnh Chi, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, v. v… Đều nhờ đã từng đi sứ hay xuất ngoại và học hỏi được ở nước ngoài. Như thế phải nói ngay rằng nền giáo dục của chúng ta không đào tạo ra được nhân tài.

    Cái gì đã giam hãm trí tuệ Việt nam, không cho nó vượt thoát, sáng tạo và bay bổng?

    Giải thích đầu tiên là do lịch sử nước ta, mà chúng ta đã cùng nhau lược qua trong cuốn sách này. Chúng ta không phải là một dân tộc tự do. Trong hai ngàn năm sau công nguyên, nghĩa là gần như trọn chiều dài lịch sử đích thực của chúng ta, chúng ta đã bị ngoại thuộc hơn một ngàn năm, chúng ta đã phải chịu đựng những cuộc chiến thảm khốc trong phần lớn thời gian còn lại; ưu tư phải dành cho sự sống còn thay vì cho suy nghĩ và sáng tạo. Các chế độ tự chủ của ta chẳng qua cũng chỉ là những bạo quyền bản xứ. Chúng ta không có tự do. Và một con người không có tự do thì cũng không thể có óc sáng tạo.

    Giải thích thứ hai là do địa lý. Nước ta được dựng lên từ châu thổ sông Hồng. Các công trình thủy lợi, đắp đê ngăn nước, đào kênh dẫn nước là chuyện sinh tử của xã hội. Chúng ta cần những chế độ bạo ngược áp đặt những hy sinh tàn nhẫn để chống cự với thiên nhiên cho sự sống sót của tập thể. Đó là số phận nô lệ chung trong quá trình hình thành của mọi dân tộc sống quanh những con sông lớn, với lưu lượng thay đổi đột ngột. Sau hàng ngàn năm bị chà đạp và hành hạ như thế, chúng ta hấp thụ bản chất nô lệ cộng thêm với cuộc sống nông dân cơ cực phải vật lộn với đất để lấy từ đất ra miềng ăn cho từng ngày. Kết quả là chúng không biết nhìn xa và sáng tạo. Cái địa lý đã nuôi ta cũng đồng thời để lại cho chúng ta những tì vết.

    Vậy thì để vươn lên chúng ta phải thắng được di sản lịch sử và địa lý đó. Các tiến bộ kỹ thuật đã giải tỏa chúng ta khỏi ách nô lệ của đê điều. Còn lại là di sản tâm lý do quá khứ để lại. Chúng ta cần một quyết tâm sống như những con người tự do và xây dựng đất nước trên tự do, bởi vì chỉ có những con người tự do mới có khả năng sáng tạo.

    Lịch sử và địa lý không giải thích tất cả. Còn những yếu tố khác mà chúng ta có lẽ đã chấp nhận do hoàn cảnh lịch sử và địa lý, nhưng với thời gian chúng đã đóng một vai trò còn quan trọng hơn.

    Trích từ sách Tổ Quốc Ăn Năn - Nguyễn Gia Kiểng.
     
  10. Nhân Vô sự

    Nhân Vô sự Mầm non

    Sau khi đọc bài chia sẻ của bạn cxx27 mình thấy vài chỗ sách viết chưa thuyết phục:
    -Thứ nhất:Việc nói cụ Nguyễn Du không có tư tưởng và cảm hứng của riêng cụ,thử hỏi không có cảm hứng và tư tưởng riêng thì liệu có viết ra được tác phẩm Truyện Kiều không?
    -Thứ nhì:việc nói nước ta hình thành trên lưu vực sông Hồng đã làm dân tộc ta không biết nhìn xa và sáng tạo.Vậy thì giải thích thế nào về sự phát triển rực rỡ của những nền Văn minh cổ đại như Ai Cập,Lưỡng Hà,Trung Quốc.
    Mong được bạn giải thích!
     
    gaumisa, thanhbt, cxz27 and 1 other person like this.
  11. cxz27

    cxz27 Lớp 7

    Theo mình thì cảm hứng cụ Nguyễn Du mượn từ tác phẩm Kim Vân Kiều, bạn nói không có cảm hứng là không chính xác lắm. Ý của tác giả muốn nói Truyện Kiều là một mốc son lớn trong nền văn học Việt Nam, hậu thế không nên tôn thờ và đề cao nó quá.

    Còn về dân tộc mình so với Hy Lạp, Ai Cập, Trung Hoa thì họ cũng phải đấu tranh giữa các bộ lạc, đế quốc lớn, khí hậu khắc nghiệt, vô vàn điều điện khó khăn khác.
     
    thanhbt and Nhân Vô sự like this.
  12. summer_akarda

    summer_akarda Lớp 2

    Ông Nguyễn Gia Kiểng nói phét thì hay, chứ có thấy ông viết được cái gì đọc được đâu?
     
    gaumisa thích bài này.
  13. summer_akarda

    summer_akarda Lớp 2

    Ôi, lại còn dính tới "cuốc xư" Vũ Khiêu nữa thì .... sợ quá
     
    gaumisa and tauvequehuong like this.
  14. summer_akarda

    summer_akarda Lớp 2

    Những tác phẩm lớn ngày nay nhiều khi mang tính minh họa ...

    Ví dụ như Truyện Kiều, dù người Việt cứ mở miệng ra là ca ngợi (mình phải thẳng thắn nói rằng, ngoài Kiều ra thì cũng chả biết ca ngợi cái gì nữa - trong văn học thôi nhé, các bác đừng có chụp mũ là chớt), nhưng không biết có bao nhiêu người đã từng một lần đọc đủ 3254 câu Kiều (bản Kiều nào cũng được, còn các bậc chuyên gia cãi nhau từng chữ từng từ thì không tính)
     
    chis thích bài này.
  15. tran ngoc anh

    tran ngoc anh Cử nhân

    Cũng nhờ cái kỵ húy này mà tăng thêm biết bao nhiêu từ vựng cho vốn từ miền Nam :D
     
  16. quang3456

    quang3456 Lớp 10

    Sao không ai tách cái câu: Thì treo giải nhất chi nhường cho ai...
     
    tran ngoc anh thích bài này.

Chia sẻ trang này