Truyện kiều

Thảo luận trong 'Tủ sách Thi ca' bắt đầu bởi whatcsvt100, 4/10/13.

Moderators: Ban Tang Du Tử
  1. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    Nếu sinh ra và lớn lên ở Việt Nam thì không ai không biết đến truyện Kiều, chí ít cũng vài câu. Tuy nhiên các bạn trẻ lớn lên ở nước ngoài thì đa số chỉ biết đến cái tên "Truyện Kiều" qua lời ông bà cha mẹ. Một phần thì do không có sách tiếng Việt trong các thư viện công cộng. Phần khác, do tác phẩm khá dài, lại bằng thể loại thơ lục bát nên cũng khó có thời gian nghiền ngẫm.

    Nay thì các bạn có PDA, nên tôi post cái file .prc lên để các bạn có dịp gọi là thưởng thức văn hóa dân tộc.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link


    Note : lội hết 4 trang sẽ có vài quyển prc trong các comment ^.^
     

    Các file đính kèm:

    Chỉnh sửa cuối: 5/10/13
  2. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    SẦU ĐONG CÀNG LẮC CÀNG ĐẦY...

    Tôi xin bắt đầu cái topic nầy. Mong các bạn nào từng "trót yêu nàng Kiều" cùng tham gia nhé.

    Bàn về chữ "Sầu", người ta có nhiều chữ để diễn tả nỗi sầu ở các mức độ khác nhau: sầu da diết, sầu thê lương, sầu vạn cổ, sầu man mác, sầu đau sầu đớn,....

    Nhưng tả được nỗi sầu một cách cụ thể, rất bình dân nhưng cũng rất văn hoa thì chỉ có Nguyễn Du:

    "Sầu đong càng lắc càng đầy,
    Ba thu dọn lại một ngày dài ghê."

    Tôi vốn là học sinh chuyên toán. Khi nghe câu nầy lần đầu thì chẳng hiểu gì cả. Lại nghĩ "sầu đong" là cái gì nhỉ? Có lẽ "sầu đông" mà người ta in nhầm chăng? Mà cây sầu đông mà "càng lắc" thì chỉ có nước ... rụng lá chứ càng đầy là nghĩa gì? Hay là lá rụng đầy sân? Cụ Tố Như có linh thiêng thì xin thứ cho chứ thực tình hồi trung học tôi nghĩ như vậy.

    Cho đến khi lên lớp, thầy Phan An, giáo viên kỳ cựu về Kiều của trường cấp ba TX Thủ Dầu Một, giảng nghĩa, tôi mới "vỡ" ra và khâm phục cách dùng chữ của cụ Tố Như quá xá.

    Thường cái gì đong trong lon, trong thúng, khi ta "càng lắc "thì nó "càng vơi" xuống. Không tin thì bạn thử xúc một .. lon gạo rồi lắc thử xem. Rõ ràng là "càng lắc càng vơi" Thế nhưng nỗi sầu thì không biết Nguyễn Du đong bằng cái gì nhưng lại "càng lắc càng đầy"! Quả thật nỗi buồn khi ta càng gặm nhấm nó thì nó lại càng lớn thêm lên chứ chẳng bớt đi chút nào.

    Sầu đong "càng lắc càng đầy"

    Mà đối với tuổi mới lớn thì còn nỗi buồn nào thấm thía cho bằng chia tay với người yêu. Gặp nhau cả ngày trời, vừa mới chia tay đã nhớ, đã muốn gặp lại ngay. Trong lòng lúc nào cũng bồn chồn, không yên, chỉ muốn gặp lại người yêu ngay lập tức. Mà gặp không được thì sinh buồn sầu, xem mỗi giờ trôi qua dài cả thế kỷ (mà nhất là khi không có cả cái "a-lô" thì còn khổ đến mức nào). Chỉ mong sao trời mau sáng để có dịp gặp lại người yêu.

    Vừa mới sáng đã mon men đến nhà em (hay nhà anh) thì mới hay cả nhà em ... đi chơi xa, lâu lắm đến ... chiều mai mới về. Ối giời ơi, sao không bảo nhau tiếng nào ...

    Kinh Thi có câu "Nhất nhật bất kiến như tam thu hề" nghĩa là "một ngày không gặp dài như ba năm" mà cụ Nguyễn Du đã "phiên dịch" sang Việt ngữ rất tài tình, rất chuẩn và cũng rất bình dân: "Ba thu dọn lại một ngày dài ghê."

    Thế mà em đến mãi tối mai mới về. Cơ khổ. Cứ mỗi lần nhớ là mỗi lần "lắc" (lắc cái nỗi sầu chứ không phải thuốc lắc nhé, đừng có mà vớ vẫn) và càng lắc thì cái nỗi buồn cứ thế mà dâng lên, đầy lên mãi, muốn không nghĩ cũng không được.

    Sầu đong càng lắc càng đầy

    Thời gian trôi qua thật mau, thoắt cái đã gần ba chục năm, nhưng tôi vẫn còn cái cảm giác như tiết học văn vừa mới tan sáng nay. Khi thầy Phan An nói lời cuối sau tám tiết học truyện Kiều.

    Đứng trên bục giảng, thầy chầm chậm nhìn quanh cả lớp và nhè nhẹ gấp quyển sách giáo khoa trên tay. Giọng thầy chẫm rãi nhưng thật ấm áp và trân trọng: "Thôi. Chúng ta đã khuấy động và làm phiền nàng Kiều suốt mấy tuần qua. Giờ thì chúng ta hãy khép cánh cửa lại để nàng Kiều bạc mệnh của chúng ta được nghỉ một giấc bình yên. Vâng, một giấc thật bình yên trong lâu đài văn chương văn học Việt Nam."

    Xin cảm ơn thầy đã truyền cho chúng em sự hiểu biết, niềm cảm hứng và say mê với truyện Kiều.


    Sầu đong "càng lắc càng đầy"
     
    kobomini and TrangNguyen162171 like this.
  3. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    THIÊN HẠ AI CƯỜI VỚI TỐ NHƯ?

    Nhà thơ, theo Octavio Paz, là người giải thoát cho ngôn ngữ, đưa ngôn ngữ trở về tính nguyên sơ của nó. Ngôn ngữ không còn bó buộc trong tính thực dụng mà trở nên toả sáng, lại là cái nó vẫn là, cái "tố như" của nó. Tố Như là tên tự của Nguyễn Du.

    Cái tên trong veo, sáng ngời của một nhà thơ lớn, người đưa thơ trở về với những giấc mộng sơ nguyên.

    Tri giao quái ngã sầu đa mộng,
    Thiên hạ hà nhân bất mộng trung.
    (Mộng sầu bạn cứ cười ta
    Vòng mơ mộng ấy ai là thoát đâu)

    Chẳng phải là tri giao đang cười mà là tiếng cười của nhà thơ. Tiếng cười vang thinh không, bay suốt thiên thu. Chẳng phải là giấc mộng đã làm ra Trang Chu, làm ra bạn, làm ra ta hay sao?

    Tố Như vẫn thường cười như thế. Dường như bí ẩn, dường như không.

    Tiếu ngạo giang hồ yên dã thảo trung.
    (Cười ngạo trong khói hồ cỏ nội)

    Trong khói sương sông hồ và cỏ dại đồng hoang thì còn có gì phải bận tâm. Thế nên nhà thơ buông tiếng cười. Tiếng cười dường như ngạo nghễ, dường như không.

    Cười vì biết cái tâm vốn là không, khi nghiệp chướng tan rồi (Chướng tiêu thời giác tức tâm không).

    Tố Như đeo kiếm rất buồn, Tố Như làm quen rất buồn, Tố Như đi sứ rất buồn.

    Nhà thơ chỉ cười với khói sương, với cỏ.

    Sương khói thì cười mà chi, cỏ hoang thì cười mà chi. Vậy mà, dường như đó là cái cười hạnh phúc nhất trong đời Tố Như.

    Tiếu ngạo không cần thiết là cười ngạo nhân gian, cũng không phải là cười ngạo bản thân. Chỉ cười, thế thôi.

    Nếu như có những dòng lệ bay trong thơ Nguyễn Du thì cũng có những nụ cười bay trong đó.

    Và nụ cười, ở Tố Như, thì thâm trầm hơn giọt lệ.

    Có thể bắt chước Tố Như mà khóc. Nhưng dễ gì bắt chước Tố Như mà cười.

    Tương phùng vô biệt thoại
    Nhất tiều ý hà như ?
    (Gặp nhau mà chẳng nói,
    cười thôi, ý thế nào?)

    Ý hà như? Ý Tố Như? Chỉ cười thôi.

    Lúc sắp chết, khi được cho biết thân xác mình đã lạnh, Tố Như chỉ nói: Được! Và qua đời.

    Chữ "Được!" ấy thật ra là nhất tiếu. Có cái cười huyền bí trong tiếng nói sắc gọn ấy.

    Ba trăm năm sau đó, ta có lãnh hội nổi cái nhất tiếu đó không? Cái im lặng vô ngôn đó không?

    Cùng trắng như tóc Tố Như là nụ cười đó. Có mênh mông sương khói và cỏ đồng hoang là nụ cười đó.

    Chính là nụ cười đòi hỏi sự tương phùng, đòi hỏi tri giao - chứ không phải gặp nhau là cười.

    Và như thế, Tố Như cười với Lưu Linh, cười với Đỗ Phủ…

    Với một trong "Trúc Lâm thất hiền" là Lưu Linh, Tố Như đùa:

    Lưu gia chi tử bất thành tài
    Hạ sáp dương ngôn tử tiện mai.
    Tuỳ lý dĩ năng tề vạn vật,
    Tử thời hà tất niệm di hài?...
    (Chàng họ Lưu ơi quả bất tài
    Rêu rao sẵn cuốc chết chôn ngay
    Khi say đã biết hoà theo vật
    Lúc chết sao còn nghĩ tới thây?…)

    Lưu Linh đi chơi, uống rượu, thường nói mình có mang theo cái cuốc, chết đâu chôn đó. Tố Như cười ông hiền này dù đã biết "tề vật" nhưng vẫn còn phân biệt sống chết. Hơi đâu mà nghĩ tới hình hài để lại.

    Lưu Linh và vạn vật như nhau trong cơn say. Trong mộng cũng thế. Trong tiếng cười cũng thế.

    Cái cười đó giải thoát cho sự vật.

    Sự vật trở về với nguyên tính, với nhất thiết bình đẳng, với Tố Như.

    Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên
    Y y bất cải cựu thuyền quyên.
    (Sân trống trăng đầy đêm nguyên tiêu
    Không đổi nghìn năm bóng dáng Kiều)

    Sự trở về với đêm trăng nguyên sơ, với cái sân trống không của vũ trụ, với nụ cười của Tố Như.

    Nguồn: Văn hóa Phật giáo
     
  4. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    PHẬT GIÁO TRONG TRUYỆN KIỀU


    Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích


    Có lẽ người đầu tiên đặt vấn-đề Phật-giáo trong Truyện Kiều là sử-gia Trần Trọng Kim. Viết trong tập-san Khai Trí Tiến Đức số 1 (Octobre-Décembre) năm 1940, ông đã có bài “Lý-thuyết Phật-học trong Truyện Kiều.” Dù như ta biết ông là một học-giả uyên bác, không riêng gì trong ngành sử-học mà còn cả trong văn-học - ông đã cùng Bùi Kỷ hiệu đính một bản Kiều nổi tiếng từ năm 1927, sau này được nhà Tân Việt in lại rất nhiều lần - cũng như ông đã có tay trong việc phục-hưng Phật-giáo ở nước ta trong thập niên 30-40, trong bài viết nói trên, ông chỉ nêu ra được có “thuyết nhân quả” và đi vào đề-tài “cái thuyết nhân quả diễn ra ở trong Truyện Kiều” một cách tương-đối sơ sài. Dù không nói ra, ông xem chừng như muốn bác bỏ quan-niệm cho rằng Truyện Kiều là một minh-họa của thuyết “Tài mệnh tương đố” nghĩa là Tài và Mệnh tranh với nhau, dễ ghen nhau như trong câu thứ 2 trong Kiều đã nói, “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.” Trái lại, ông viết:
    “Theo đạo Phật thì ở đời không có gì là không có nhân duyên (loi de causalité), mà cái nhân duyên đó kết hợp thành cái nghiệp. Cái phần tốt, phần hay của nàng Kiều là ở chỗ dù khổ sở thế nào, cũng giữ được cái tâm trong sạch, cái bụng nhân nghĩa và cái sức cố gắng mà phấn đấu với cái nghiệp chướng của mình. Cái giá trị của con người ta ở đời cốt ở chỗ ấy, mà cái nhân cách của con người ta có rõ rệt ra là cũng ở chỗ ấy.”

    Ông còn nói: “Cái thuyết nhân quả và cái nghiệp của nhà Phật gần giống như cái thuyết định mệnh (déterminisme) của triết học bên Tây. Nhưng chỉ khác ở chỗ cái định mệnh của nhà Phật là do tự mình định ra, chứ không phải tự ở sức ngoài sai khiến. Thành thử cái thuyết nhân quả vẫn để cho mình có cái hoàn toàn tự do. Mình phải theo cái nghiệp tự mình gây ra cho mình, chứ không phải cái nghiệp tự đâu gây ra mà bắt mình phải chịu.”

    Nhưng Nguyễn Du, tác-giả Truyện Kiều, đã không muốn chỉ cho Kiều đến sông Tiền-đường gieo mình xuống là chết, là hết. Ông đã cho Kiều được cứu vớt vì, theo Trần Trọng Kim, “nếu đời cô đến đó là hết, thì cái nghĩa chữ ‘nghiệp’ không rõ là cái nghiệp ấy hết lại đến cái nghiệp khác, mà mỗi cái nghiệp là do việc đã làm trước mà thành ra.” Do đó nên vì Kiều có làm tốt, do “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” của cô, nên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, cô có đổi được cái nghiệp 15 năm lưu lạc nơi chốn giang hồ, thanh-lâu của cô thành một cái nghiệp sum họp một nhà, tái-hợp với Kim Trọng và gia-đình. Đây, như chữ của ta nói ngày nay, là cái nhân-bản (humanisme) trong Nguyễn Du.

    Có hiểu như thế mới trông ra là Nguyễn Du thực-sự bác bỏ lối suy nghĩ máy móc cho rằng “tài mệnh tương đố” của nhà Nho mà thực-sự đã đến cùng kết-luận với thuyết-lý nhà Phật. Trần Trọng Kim viết, “cứ như ý tôi thì Truyện Kiều bày tỏ một cách rất rõ ràng cái lý thuyết nhân quả của nhà Phật.” Một tác-phẩm như thế, theo Trần Trọng Kim, là một tác-phẩm “văn dĩ tải đạo” thật sâu sắc, “a profoundly moral work” như ta nói trong tiếng Anh ngày hôm nay.

    Để củng cố cho ý-kiến của mình, Trần Trọng Kim cho rằng Nguyễn Du không chỉ “giải diễn cái tư tưởng của Phật học ở trong Truyện Kiều mà thôi, tiên sinh còn làm bài Văn tế thập loại chúng sinh cũng theo đúng cái tư tưởng ấy.” Điều này chứng tỏ “tiên sinh là một người học rộng, tinh thông cả Nho học và Phật học.”

    Trình bầy như trên là Trần Trọng Kim hoàn-toàn bác bỏ nhận-định của một người như Đào Duy Anh khi ông này viết sau, vào năm 1943, trong sách Khảo luận về Kim Vân Kiều rằng “tư tưởng chủ yếu của Nguyễn Du trong [Truyện Kiều] là ‘tài mệnh tương đố’ tư tưởng ấy làm cái nòng cốt tinh thần cho toàn truyện, mà mỗi chương, mỗi một tiết, mỗi một đoạn chỉ là để chứng minh cho nó thôi. Tư tưởng ấy là gốc ở thuyết thiên mệnh của Nho giáo,” một thuyết mà theo Đào Duy Anh là “bằng vào kinh nghiệm do những điều trông thấy ở đời mà suy ra huyền bí của trời.”

    Vẫn theo suy nghĩ của ông Đào, “đến như đàn bà con gái đẹp, dẫu là ‘thiên hương quốc sắc,’ dẫu là ‘nhất tiếu thiên kim,’ thì cũng không khỏi là cái đồ chơi của kẻ đàn ông phú quý. Món đồ chơi càng đẹp càng hiếm chừng nào lại càng bị người ta tranh giành xâu xé nhau, khiến nó khó tránh khỏi tay dày vò của xã hội.” Cho những điều trớ trêu ấy, ông Đào do tin ở thuyết duy vật nên cho rằng “người ta không chịu tìm nguyên nhân trong xã hội mà lại theo cái khuynh hướng duy tâm, thần bí thông thường mà suy ra rằng sở dĩ có những điều bất bình như thế... là bởi đạo trời vốn ghét cái gì trọn vẹn đầy đủ: phàm trời cho dồi dào bề này thì bắt thiếu thốn bề khác. Cái lẽ ‘phong thử sắc bỉ’ [nghĩa là dồi dào cái này thì phải kém cái kia] ấy ta có thể gọi là luật thừa trừ mà người ta thường nhận thấy chứng cớ ở trong xã hội. Khi gặp một người học trò giỏi mà chết non, khi gặp người đông con mà nghèo túng, hay một người giàu có mà hiếm con, khi gặp cặp vợ chồng ‘được vợ mất chồng’ hay ‘được chồng mất vợ’ thì tất người ta cho rằng do tạo hóa thừa trừ. Thúy Kiều tài sắc như thế mà phải lưu lạc đọa đày là bởi vì trời đã sinh cho tài sắc mười phần thì lại gia cho mười phần nghiệp chướng để bù lại. Không những Thúy Kiều, Đạm Tiên cũng vậy, cho đến Tây Thi, Điêu Thuyền, Chiêu Quân, Dương Quý Phi, đều thế cả, mà ‘hồng nhan, tự thuở xưa: Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.’ (Kiều 107-08) Vì cái luật ấy mà người ta xem như ‘trời ghét má hồng.’ Toàn truyện Đoạn trường tân thanh chỉ là chứng minh cho cái lòng ghen ghét của Tạo hóa.”

    Rồi Đào Duy Anh lấy cả những tỷ-dụ rút trong văn-học phương Tây để ủng hộ quan-điểm của ông, nào là Hélène trong sử-thi Iliad của Homère, Hy-lạp, Héloise trong truyện tình với Abélard ở Pháp, Elvire trong kịch của Shakespeare v.v. Đưa lên tầm lý-thuyết, ông Đào nhắc đến thuyết Némésis của cổ-Hy-lạp hay thuyết thừa trừ của nhà triết-học Azais ở thế-kỷ XIX—là một người mà tôi cũng không biết là ai. Tóm lại, ông mở rộng sự diễn giải Truyện Kiều ra đến cả bốn phương Đông, Tây, Kim Cổ.

    Tuy-nhiên, nói thế rồi, Đào Duy Anh cũng phải ghi: “Nhưng Nguyễn Du không phải là một nhà nho thuần túy. Cái tình đa cảm, những kinh nghiệm đau đớn đã đem Nguyễn Du đến Phật giáo. Ông không thỏa mãn đối với cái luật ‘bỉ sắc tư phong,’ vì nó mới chỉ là một nhận xét tuồng như đúng mà chưa cắt nghĩa rõ ràng về lý do. Người ta vẫn chưa hiểu tại sao lại có cái luật thừa trừ như thế. Ông không chịu rằng người ta không có trách nhiệm gì về sự cân nhắc họa phúc của Trời. Ông bèn lấy chữ nghiệp của nhà Phật mà phát huy cho chữ mệnh của nhà nho. Theo luật nhân quả của Phật thì những điều người ta làm ở kiếp này là nguyên nhân sẽ sinh ra kết quả ở kiếp sau, mà những điều người ta làm ở kiếp trước là nguyên nhân sinh ra kết quả ở kiếp này. Những việc làm trước sinh ra kết quả ở sau gọi là nghiệp.”

    Rồi Đào tiên-sinh nhắc lại ít nhiều những luận-điểm của Trần Trọng Kim trong bài đã được tóm lược trình bầy ở trên. Và ông trích dẫn Nguyễn Du (Kiều 2659-66):

    Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,

    Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.

    Lại mang lấy một chữ tình,

    Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.

    Vậy nên những chốn thong dong,

    Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng.

    Ma đưa lối, quỷ đưa đường,

    Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.

    để kết-luận: “Vậy thì Thúy Kiều tuy là một cái đồ chơi của vận mệnh, nhưng là cái đồ chơi có ý thức, có trách nhiệm, chứ không phải là một cái bù nhìn.” Song chính lối diễn giải duy vật này của Đào Duy Anh làm cho ta không thỏa mãn: Đã là đồ chơi để cho bàn tay người khác nặn thì làm sao lại thành “đồ chơi có ý thức” được? Cái xe hơi, hay ngay cả cái com-piu-tơ, chẳng hạn, là một thứ “đồ chơi” song một cái com-piu-tơ hay một cái xe hơi “có ý thức” là nghĩa làm sao?

    Đào Duy Anh cũng còn sửa nhẹ quan-điểm của cụ Trần Trọng Kim khi ông viết: “Thực ra tư tưởng nhờ thiện tâm mà giảm nhẹ bớt được nghiệp chướng để hưởng thụ ngay ở kiếp này thì không đúng hẳn với quan niệm nhân quả thuần túy của nhà Phật, nhưng nó lại rất đúng với quan niệm nghiệp báo hay báo ứng phổ thông trong dân gian. Chính như cái tư tưởng ‘trời định’ (tỷ-dụ, khi Đạm Tiên báo cho Kiều là ‘Đoạn trướng [đã] sổ rút tên ra’ hoặc khi sư Tam Hợp cho rằng Kiều tuy có ‘hại một người [Từ Hải, nhưng] cứu muôn người’ thì ‘khi nên, trời cũng chiều người’) ... cũng không có quan hệ gì với Phật lý, nhưng vốn là điều người mình tin lắm, vô luận là người theo Phật hay theo Nho. Vậy ta nên nói rõ rằng tư tưởng Phật giáo của Nguyễn Du ở đây là theo tín ngưỡng thông thường của dân chúng.”

    Theo tôi, điều đáng chú ý ở đây không phải là theo ông Đào hay theo cụ Trần mà là: Nguyễn Du căn-bản là một tác-giả Việt-nam, ông dung-hòa những điều Nho-Phật nhưng không hề lẫn lộn giữa các phạm-trù khác nhau của hai đạo này, và trong mọi trường-hợp ông đều nêu lên ý-thức tự do và trách-nhiệm đi kèm với tự do của đạo Phật hiểu một cách thật sâu sắc, cũng như cái lạc-quan cố-hữu trong “điều người mình tin lắm,” đó là ta có thể trông thấy “nghiệp báo hay báo ứng” nhỡn-tiền ngay trong cuộc sống của chúng ta hôm nay, một niềm tin rất “phổ thông trong dân gian.” Chính niềm tin này giúp cho ta lạc-quan ngay trong sự khốn khó, đọa đầy, cũng như Kiều đã được phỉ nguyền khi Từ Hải cho nàng báo ân trả oán.

    Lối suy nghĩ “eclectic” nghĩa là biết chọn lựa những cái hay từ mọi truyền-thống tư tưởng mà ta bắt gặp, một lối suy nghĩ đôi khi bị xem là “ba phải” nhưng chính thật là có chọn lựa kỹ càng nên vượt lên trên sự ba phải rất nhiều để đến một sự dung-hợp có ý-nghĩa, đã giúp người Việt chúng ta mà trong đó tất-nhiên có đại-văn-hào Nguyễn Du tìm được ra cái độ dung-hợp lý-tưởng, tương-tự như trong hợp-kim thì phải có bao nhiêu phần chì, phần sắt, phần măng-gan, phần đồng thì mới thành ra được một món hợp-kim tuyệt-hảo (tỷ như để đúc một cái chuông lớn hay một cái trống đồng).

    Nhưng lối suy nghĩ dung-hợp của Nguyễn Du cũng đã làm mất phương-hướng, tức là “dérouter” một người như học-giả Vân Hạc Lê Văn Hòe khi ông bình về hai câu “Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (Kiều 3251-52) như sau:
    “Thiện-căn là cái gốc điều thiện, điều lành, điều hay. Thiện-căn không ở đâu xa, ở ngay trong lòng người. Và trái lại, ác-căn, tức là tội-nghiệp cũng ở trong lòng người, như lời Tam Hợp Đạo-cô đã nói (Kiều 2655-56):

    ... Phúc họa đạo trời.

    Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.

    “Làm thiện thì được phúc. Làm ác thì chịu họa.

    “Đến đây, người ta thấy tác-giả lại muốn thừa-nhận cả thuyết Họa Phúc, hoặc thuyết số-mệnh của Đạo-giáo.

    “Có lẽ tác-giả muốn dung-hiệp Tam-Giáo chăng? Hay là ảnh-hưởng Tam-Giáo đã làm cho tư-tưởng tác-giả phức-tạp, khó hiểu?”

    Rồi “tác-giả lại nói: Tâm đáng quí gấp ba tài. Vì sao? Có lẽ vì Tâm có thể khiến Tài Mệnh khỏi ghét nhau. Tâm có thể dành cho Tài địa-vị và phần hưởng-thụ xứng-đáng, tức là một Mệnh tốt.

    “Có Tài mà lại có Tâm (tức là không cậy tài) thì có lẽ Mệnh:

    “Chữ tài chữ mệnh [có thể] dồi dào cả hai. (Kiều 3246)

    “Nếu tác-giả quan-niệm như thế thì quan-niệm này lại mâu thuẫn với quan-niệm Thiên-mệnh nhà Nho ở trên

    Có đâu thiên vị người nào... (Kiều 3245)

    “Như vậy tác-giả định nói gì? Tác-giả có một quan-niệm rất lờ mờ khó hiểu về Mệnh và vì thế, người ta thấy Đoạn-Trường Tân-Thanh hình như viết ra để chứng-minh một tư-tưởng triết-học, tôn-giáo, nhưng chứng-minh chưa đúng xác, chưa khúc-triết.” (Truyện Kiều chú giải, lần đầu in ở Hà-nội năm 1953, Houston, TX: Zieleks tái-bản, 1976, trang 599-600)

    Sự lẫn lộn hay lờ mờ mà Vân Hạc nói đến ở đây, tôi e chính lại là sự thiếu thông-cảm, cái chưa đạt trong ông Lê Văn Hòe đối với nhà thơ lớn của chúng ta dù như ông đã bỏ ra một thời-gian rất lớn trong đời ông để làm ra một trong những sách chú-giải kỹ càng nhất về thơ Truyện Kiều.

    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,

    (ngày 11/10/2003)

    PHẬT-GIÁO TRONG TRUYỆN KIỀU (tiếp theo - kỳ 2)

    (Bài thuyết trình của Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích cho chương trình chuyên đề của Phật Học Ðường Vạn Hạnh Online - Kỳ II - ngày 01 tháng 11 năm 2003)



    Năm 1965 đánh dấu đúng hai thế-kỷ sau khi Nguyễn Du sinh ra đời. Kỷ-niệm này, kỷ-niệm 200 năm sinh đại-thi-hào của chúng ta, được đánh dấu trọng-thể cả ở miền Bắc lẫn ở miền Nam. Đáng kể nhất trong những tác-phẩm ra đời năm đó ở miền Bắc là cuốn Thơ chữ Hán Nguyễn Du (Nhà xb Văn Học), một tác-phẩm mẫu mực gom hầu hết thơ chữ Hán của ông do một nhóm học-giả biên soạn dưới sự hướng-dẫn của hai học-giả Hán-Nôm hàng đầu, hai cụ Lê Thước và Trương Chính. Còn ở trong Nam thì đáng kể nhất là cuốn Thư mục về Nguyễn Du, 1765-1820, do hai học-giả Lê Ngọc Trụ và Bửu Cầm biên soạn (574 đơn-vị sách và bài báo) do Bộ Giáo-dục in ra, một thư-mục đầy đủ nhất tính cho đến lúc bấy giờ. Ở Pháp, Trường Viễn-đông Bác-cổ (Ecole française d’Extrême-Orient) cũng đánh đấu kỷ-niệm này bằng cuốn Mélanges sur Nguyễn Du do nhiều tác-giả Pháp-Việt đóng góp, G.S. Maurice Durand biên-tập nhưng sang đến năm sau mới in ra.

    Trong một không-khí như vậy, không lạ là ở cả hai miền, dù như chiến-tranh leo thang, các nghiên cứu về Nguyễn Du và Truyện Kiều vẫn tiến-hành một cách khá đều đặn. Ở miền Bắc, Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh, bản thảo xong từ tháng 11-1965 song phải đợi đến năm 1971 mới được nhận in và đến ba năm sau (1974) Nhà xb Khoa học xã hội mới chịu tung ra thị-trường. Ở trong Nam, không-khí có cởi mở tự do hơn nên trong thập niên 60 và đầu 70, ta đã thấy những tác-phẩm như Ý niệm Bạc mệnh trong đời Thúy Kiều của Đàm Quang Thiện (Nam Chi Tùng Thư, 1965), Đọc lại Truyện Kiều (Cảo Thơm, 1966) của Vũ Hạnh hay quyển Thúy Vân, Tam Hợp Đạo Cô, Từ Hải, Hoạn Thư, Thúy Kiều: Phần vô môn trong tư tưởng Nguyễn Du của Bùi Giáng (Sài-gòn: Quế Sơn Võ Tánh xb, 1969) sau khi ông đã có Một vài nhận xét về Truyện Kiều và Truyện Phan Trần cách đó hơn 12 năm (Tân Việt, 1957), rồi Tố Như thi (An Tiêm xb, 1971) do Quách Tấn dịch một cách khá bay bướm, và đặc-biệt nhìn từ quan-điểm “Phật-giáo trong Truyện Kiều” thì phải kể cuốn Thế giới thi ca Nguyễn Du của cụ Nguyễn Đăng Thục (Kinh Thi, 1971).

    Vì đây không phải là chỗ để bàn rộng tán dài về hai đề-mục mênh mông là Nguyễn Du và Truyện Kiều (cuốn Thư mục Nguyễn Du của cụ Đặng Cao Ruyên ở hải-ngoại mà Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ đang thu xếp để được in ra trong tương-lai không xa hiện đã lên tới con số đáng nể là 3733 mục, cả sách lẫn bài báo) nên chúng tôi chỉ xin tập trung vào đề-tài “Phật-giáo trong Truyện Kiều.”



    Cao Huy Đỉnh: Gò ép

    Sở dĩ có sự khác-biệt khá nổi giữa học-thuật của hai miền là do ở chỗ miền Bắc cái học bị lệ-thuộc vào ý-thức-hệ của chính-quyền lúc bấy giờ, một chính-quyền rất gắt gao về mặt tư-tưởng, đòi hỏi mọi người phải đi vào hàng dù như việc làm đó có thể dẫn đến những sự gượng ép khó coi. Điển-hình là những bản Kiều do Hà Huy Tập coi sóc và Nguyễn Khánh Toàn viết tựa, tuy đồ sộ song khiên cưỡng, và người có cái học thật ở trong đó, G.S. Nguyễn Thạch Giang, chỉ đóng một vai trò thứ-yếu. Ngược lại, trong cái không-khí tự do hơn, mà có người còn gọi là vô-tổ-chức, của miền Nam, vì không có một định-chế nào cầm trịch tương-đương với Ban Tư tưởng Văn hóa của Đảng CSVN, không lạ là Vũ Hạnh tuy nằm vùng vẫn được nhà xuất bản Cảo Thơm in sách, Đàm Quang Thiện vẫn có thể đi theo vết chân của Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa (trong nhóm Hàn Thuyên) mà đem tâm-phân-học của Sigmund Freud vào phân-tích Truyện Kiều, Bùi Giáng vẫn có thể đem Sartre (“L’être et le néant”) và Heidegger (“Dasein”) vào nghiên cứu các nhân-vật trong Truyện Kiều, và cụ Nguyễn Đăng Thục, một người có vốn chữ Hán và triết-học Đông-phương khá vững vàng, đã có thể đem Vivekananda, Bergson, và Alan Watts vào phân-tích thơ chữ Hán và thơ Nôm của Nguyễn Du.

    Trong một bài viết trên Tạp chí Văn Học (tháng 11-1965), Cao Huy Đỉnh ở miền Bắc đã tỏ ra khá hiểu biết và nắm vững vấn-đề khi ông viết:

    Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài là một bài thơ triết lý. Văn tế thập loại chúng sinh vừa có ý nghĩa tôn giáo, vừa có tình cảm thiết tha của nhà thơ. Đến Truyện Kiều mô tả rất sinh động cuộc đời của con người cụ thể thì triết lý Phật giáo của Nguyễn Du không còn giữ nguyên hình thức thuần ý niệm nữa. Nó không phải chỉ ẩn dưới những câu thơ thuyết lý. Nó thấm vào hình tượng nhân vật, bố cục và biện pháp nghệ thuật. Nó không tồn tại riêng rẽ mà hòa lẫn hoặc đối lập với những tư tưởng, tình cảm khác. Vì vậy chúng ta không thể thỏa mãn với cái lối diễn giảng một vài nguyên lý trong Kinh Phật rồi đối chiếu với những câu thơ tương tự trong Truyện Kiều để kết luận tác phẩm có triết lý Phật giáo như một số người đã làm trước đây.

    Ông trách Trần Trọng Kim cũng như Đào Duy Anh đã làm điều mà ông mô-tả ở đoạn cuối phần trích dẫn. Luận-cứ của ông cũng có phần vững chắc nếu như ta yên tâm được rằng tư-tưởng của Nguyễn Du về Phật-giáo quả có đi theo một trình-tự thời-gian, một sự tiến-triển từ “Lương Chiêu Minh thái-tử phân kinh thạch-đài” (viết khoảng 1813-14 vì có trong Bắc-hành thi-tập) đến Văn tế thập loại chúng-sinh rồi mới đến Truyện Kiều. Nhưng điều này chưa chắc hẳn đã đúng vì ngay giờ đây vẫn còn có người chủ-trương là Truyện Kiều có thể đã được viết ra, hoàn-tất trước cả khi Nguyễn Du đi sứ sang Trung-quốc. Mà như vậy thì không khéo trình-tự có thể là ngược lại: Truyện Kiều rồi mới đến Văn tế thập loại chúng-sinh rồi mới đến bài thơ nọ.

    Một khuyết-điểm nữa của lập-luận Cao Huy Đỉnh là tuy có nhắc tên đến bài thơ, ông lại cho là không cần nói rõ bài thơ kia nội-dung ra làm sao, làm như đó là một bài thơ mọi người đều quen thuộc. Sự thực không phải vậy và đây là một thiếu sót nơi ông. Tuy bài “Lương Chiêu Minh thái-tử phân kinh thạch-đài” (nghĩa: “Đài đá nơi Thái-tử nhà Lương [tên] Chiêu Minh phân phát kinh”) có là một trong những bài quan-trọng nhất cho ta thấy sự hiểu biết sâu sắc của Nguyễn Du về Phật-pháp, học-giả Nguyễn Đăng Thục trong Thế giới thi ca Nguyễn Du cho ta thấy là tư-tưởng Phật-giáo xuyên suốt những tác-phẩm, Hán cũng như Nôm, của Nguyễn Du. Và bài “Lương Chiêu Minh...” chỉ cho ta thấy cái hiểu biết thâm sâu của Nguyễn Du về đạo Phật, nhất là bốn câu cuối:

    Ngã độc Kim Cương thiên biến linh,

    Kỳ trung áo chỉ đa bất minh;

    Cập đáo phân kinh thạch đài hạ,

    Chung tri vô tự thị chân kinh.

    (Ta đã đọc kinh Kim Cương có cả ngàn lần,

    Cái uyên áo trong kinh ấy có nhiều điều ta không hiểu.

    Đến nay, tới dưới đài đá [Lương Chiêu Minh] dùng để phân phát kinh,

    Cuối cùng ta mới ngộ, vỡ lẽ ra chân-kinh chính là kinh không chữ.)

    Trong một bài thơ chữ Hán khác, bài “Tam Thanh Động,” thi-sĩ cũng kết-luận:

    Mãn cảnh giai không, hà hữu tướng?

    Thử tâm thường định bất ly thiền.

    (Khắp cảnh vật đều là không thì lấy đâu ra tướng?

    Tim này thường-định, nhất quyết không rời Thiền.)

    Nhận-định của Cao Huy Đỉnh có phần khá sâu sắc. Ông sâu đủ để trông ra những điều mâu thuẫn, hay xem như mâu thuẫn trong Truyện Kiều, để từ đó rút ra những kết-luận khá độc-đáo. Ông nêu ra những câu như:

    Đã mang lấy nghiệp vào thân,

    Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa.

    Hoặc

    Kiếp xưa đã vụng đường tu,

    Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi!

    Để cho thấy là ở Nguyễn Du, ở Truyện Kiều, “đạo Phật đã bổ sung cho đạo Nho” khi nêu ra được cái thuyết nhân quả (đời này ảnh-hưởng qua đời khác), khả-năng tự-giác ở con người, và trách-nhiệm của mỗi cá-nhân đối với cái “nghiệp” của mình.

    “Trong cái khối thế giới quan tiêu cực hỗn hợp của Truyện Kiều,” ông viết, “triết lý Phật chiếm một liều lượng lớn, vì chất bi quan yếm thế của nó dễ diễn tả nhất những nỗi day dứt siêu hình ở trong tâm trạng con người, nhất là phụ nữ, nạn nhân cực khổ nhất của xã hội phong kiến, càng là nạn nhân cực khổ nhất của thời đại Nguyễn Du. Đạo Nho lúc này đây chỉ còn có những con người đa tình, phong nhã hào hoa như Kim Trọng, những con người tầm thường sống trong khuôn phép tầm thường như Thúy Vân, như Vương Quan, những con người biết yêu biết khóc nhưng không dám hành động như Thúc Sinh, những ông quan lừng chừng như viên tri phủ, những vị trọng thần ‘mặt sắt cũng ngây vì tình’ như Hồ Tôn Hiến. Đạo Nho rõ ràng đang suy sụp cùng với cả cái nền tảng xã hội phong kiến của nó. Cương thường đạo lý của nó không còn sức hấp dẫn nữa.”

    Theo Cao Huy Đỉnh, “chữ ‘mệnh’ của [đạo Nho] chỉ là một ý niệm thuần lý khô khan, không có hào quang của một miền xa lạ nào để cho tâm hồn phiêu diêu, không đập mạnh vào trí tưởng tượng và cảm quan tôn giáo của con người. Đạo Phật trái lại có cả một thế giới thần thoại u linh, huyền bí, phản chiếu tâm trạng đau khổ và niềm vui đạo của con người lên trên đó thành những ảo ảnh lung linh, có hình thù, có động tác khiến con người rợn cả gáy hoặc nhẹ lâng lâng:

    Ma đưa lối, quỷ đem đường,

    Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.

    hay là:

    Cho hay giọt nước cành dương,

    Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.”

    Ở một đoạn khác, Cao Huy Đỉnh viết: “Phải chăng đây là mối cảm tình đặc biệt của Nguyễn Du và thời đại ông đối với Phật giáo? Nó át hẳn cái lý của Nho giáo mà ông phải theo một cách gượng gạo. Chữ ‘nghiệp’ [làm] mê muội và an ủi tâm hồn yếu đuối quả đã hấp dẫn được lòng người đang sợ hãi cái thực tại đầy đau thương và thổi thêm luồng gió bi quan vào trong cơn bão táp thời đại Nguyễn Du và trong Truyện Kiều.”

    Theo Cao Huy Đỉnh, trong hơn một trăm năm, cách đọc bi-quan của Truyện Kiều đã ảnh-hưởng đến cảm-quan của chúng ta. Theo ông, một đệ-tử của Marx (tuy bài viết khá khéo, không nói ra điều này), dù là tự-giác hay theo chỉ-thị của Đảng, thì Nguyễn Du có “nhân dân tính” và “tư tưởng tiến bộ” ở điểm xuất phát của đạo Phật, “đó là mối đồng cảm sâu sắc đối với những khổ đau của con người, đó là mối bất bình đối với những dục vọng xấu xa của xã hội cũ.” Theo ông, “người dẫn dắt Nguyễn Du,” theo đúng cách nhìn Mác-xít, “lại chính là hiện thực của xã hội và tình cảm tiến bộ của bản thân nhà thơ phản ứng nhạy bén, tinh vi trước cuộc đời.” Và để chứng minh điều này, Cao Huy Đỉnh nêu ra ba yếu-tố:

    Một, “nghiệp báo” của Kiều không phải là do “cái khổ kiếp trước để lại” mà “là cái khổ do xã hội tàn nhẫn trong đó nàng đang sống gây ra.” Và có vượt được cái khổ ngay trong đời này thì Truyện Kiều mới có được một cái hậu loại “happy ending” là sum họp với Kim Trọng và những người thân yêu.

    Hai, Kiều không kết án cái “tài” và cái “tình,” thậm chí Nguyễn Du “chỉ phê phán những dục vọng xấu xa” mà thôi, chứ chính Kiều vẫn sống theo cái “tài” và cái “tình” cho đến phút chót. “Lòng yêu cuộc sống đã đưa nghệ thuật Nguyễn Du tới một mức trữ tình tuyệt diệu, cá thể hóa được muôn vàn tâm trạng phổ biến, tổng hợp được tất cả nghệ thuật thơ trữ tình của ca dao và dân ca.”

    Ba, sự thưởng phạt trong Truyện Kiều không xảy ra ở thiên-đường hay địa-ngục mà là “ngay trên trần thế.”

    Với những lập-luận trên, Cao Huy Đỉnh đã lôi được Nguyễn Du thành con người của ngày hôm nay, hiểu theo Đảng và Marx, với nào “nhân dân tính,” tính lạc-quan, “triết lý hành động, tư tưởng nhân đạo tích cực” v.v. Song Nguyễn Du, nhất là trong Truyện Kiều, Nguyễn Du với những câu thét lên “Đau đớn thay phận đàn bà”—câu thơ duy nhất được lập lại trong tổng-tác-phẩm của ông—liệu có phải là con người như Cao Huy Đỉnh muốn mô-tả không? Nguyễn Du mà trước khi chết còn hỏi người trong gia-đình xem chính thân ông đã lạnh đến đâu để nói “Thôi được” rồi đi, liệu con người Nguyễn Du thật ấy có phải là Nguyễn Du như Cao Huy Đỉnh mường tượng không? Và rồi giải thích làm sao câu “Thiện căn ở tại lòng ta, / Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài” mà Nguyễn Du dùng để kết-luận Truyện Kiều?

    Thành thử, theo Cao Huy Đỉnh, Truyện Kiều là “một khối triết lý hỗn tạp” dù như trong đó Nguyễn Du có một “mối thiện cảm đặc biệt đối với Phật giáo.” Điều đó có thể đúng phần nào nhưng tôi thiết nghĩ, ta khó lòng có thể chấp-nhận được kết-luận của Cao Huy Đỉnh khi ông tuyên-bố: “Qua ba mâu thuẫn vừa phân tích, ta thấy Nguyễn Du tự mình phủ định những quan điểm tôn giáo của chính mình và khẳng định một cách chân thành chủ nghĩa nhân đạo tích cực của nhân dân.” Vô lý!

    Một bộ óc lớn như của Nguyễn Du không thể tự mâu thuẫn một cách thô lậu như thế được. Cả ba điều mà Cao Huy Đỉnh nêu ra đều có một nguồn gốc đơn sơ hơn nhiều: Cũng tựa như Nguyễn Du lấy một truyện từ đời nhà Minh trước thời ông gần 300 năm để nói về xã-hội đương-thời, hoặc lý-thuyết về kịch-nghệ cổ-điển của Pháp đòi hỏi toàn-thể câu chuyện phải diễn được ra trong vòng 24 giờ đồng-hồ, những nhượng bộ của Nguyễn Du đối với cảm-quan và công-thức của truyện Nôm—nghĩa là của người bình-dân—không thể coi là ý-tưởng thâm sâu hay mâu thuẫn của ông được. Cả ba điều Cao Huy Đỉnh nêu ra đều có thể giải thích như thế được: người bình-dân mong được thấy “ác-giả ác-báo” nhỡn-tiền, chấp nhận nghiệp xấu hay tốt là do chính mình tạo ra hay mang lấy vào thân, và con người khó gác bỏ sang bên cái “tài” Trời cho cũng như cái “tình” mà đến với mình. Do vậy mà truyện của Kiều có một tính-cách bắt buộc—cái gì đến tất phải đến—như bi-kịch của Hy-lạp vậy!

    Vì thế cho nên dù bài viết của Cao Huy Đỉnh viết khá nghiêm túc, song ta vẫn phải hỏi: Ai mâu thuẫn hơn, Nguyễn Du như ta được biết—qua lịch-sử, qua tác-phẩm, qua Truyện Kiều—hay Nguyễn Du như Cao Huy Đỉnh cố gượng ép và khiên cưỡng mà vẽ ra? Không lẽ ta tin thật lời của Nguyễn Du khi ông nói về đại-tác-phẩm của ông: “Mua vui cũng được một vài trống canh”?



    PHẬT-GIÁO TRONG TRUYỆN KIỀU

    (Bài thuyết trình của Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích cho chương trình chuyên đề của Phật Học Ðường Vạn Hạnh Online - Kỳ III - ngày 22 tháng 11 năm 2003)


    QUAN-ĐIỂM CỦA G.S. NGUYỄN ĐĂNG THỤC

    Khác với cụ Trần Trọng Kim hay học-giả Đào Duy Anh, cụ Nguyễn Đăng Thục không chỉ tập trung vào Truyện Kiều, hay nói đúng hơn là Đoạn Trường Tân Thanh, để chứng minh quan-điểm Phật-giáo của Nguyễn Du. Cụ đã chọn lấy một cái nhìn toàn-diện hơn, nhìn ra toàn-bộ tác-phẩm của Nguyễn Du để tìm cách phân định cái ảnh-hưởng Phật-giáo ở trong tư-duy của con người bằng xương bằng thịt là đại-thi-hào của chúng ta.

    Trong Thế giới thi ca Nguyễn Du, cuốn sách do nhà Kinh Thi xuất bản ở Sài-gòn năm 1971, cụ đã mở sách bằng cách cho ta thấy “cảnh huống xã hội [thời] Lê mạt Nguyễn sơ” (Chương I) để dẫn chúng ta, cũng như Nguyễn Du, trông ra cái “cuộc bể dâu” trong đó “những điều trông thấy đã đau đớn lòng.” Nào loạn “Kiêu binh” đến Chúa không ra “chúa” bị lính mắng cho, đến Quận Huy “vào mò chính cung” để cuối cùng phải chết do chính bàn tay lính dưới quyền, Tuyên-phi Đặng Thị Huệ không chịu lạy Thái-phi, vợ cả Trịnh Sâm, để đến nỗi phải ép uống thuốc độc, rồi Nguyễn Hữu Chỉnh đưa Tây-sơn ra Bắc xong lại làm loạn, Hoàng-thượng Lê Chiêu Thống tìm đường trốn sang Tàu khi qua sông Như-nguyệt bị ngay thuộc-hạ là Nguyễn Cảnh Thược trấn lột (đến không cả còn cái áo ngự-bào mà mặc), rồi chết thảm ở nước người.

    Ngay trong gia-đình Nguyễn Du, thuộc một dòng dõi lẫy lừng và là con của một đại-thần, Nguyễn Nghiễm, làm đến tể-tướng, và là em của Lại-bộ Thượng-thư, Toản Quận-công Nguyễn Khản, một nhà nho nổi tiếng phong lưu theo như lời chứng trong Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ và là người thân-tín của Chúa Trịnh Sâm. Mặc dầu vậy, khi quân Tam phủ nổi lên làm loạn, dinh của Nguyễn Khản cũng bị đốt cháy nên sau đó, Khản cũng phải đi lánh nạn ở Sơn-tây.

    Được chứng-kiến tất cả những cảnh bể dâu đó, ta không nên lấy làm lạ là Nguyễn Du đã trở nên bi-quan như một con người, chưa kể phải chịu bao nhiêu năm lưu lạc và bần hàn do không nỡ thờ hai chúa và ra làm quan với nhà Tây-sơn, như một người anh của chính nhà thơ (Nguyễn Nễ) và một người anh vợ (Đoàn Nguyễn Tuấn) dù như chính Nguyễn Du đã phải tá túc ở Quỳnh-côi, quê người anh vợ. Để hiểu được phần nào tình-trạng rối ren như thời bấy giờ, có lẽ ta phải trở về giai-đoạn chiến-tranh Quốc-Cộng ở Việt Nam mới thấu hiểu được những tình-huống mà ở trong đó hai anh em trong một gia-đình vẫn có thể phải đối-diêän, bắn giết nhau trên chiến-trường, một điều “đứt ruột” với những bà mẹ Việt Nam phải chứng-kiến những tình-cảnh như thế.



    Tâm-sự “cô trung”


    Người xưa làm thơ để gởi gắm một điều gì. Rất ít có thơ loại phù phiếm, bông lơn. Do đó nên đọc thơ của tiền-nhân, ta nên nhìn xem tác-giả muốn nhắn nhủ ta điều gì là chính? Điều đó, theo sự nghiên cứu của cụ Nguyễn Đăng Thục, là hai chữ “cô-trung.” “Cô-trung” đây không có nghĩa, như một số người đã hiểu, là “trung với độc-nhất một triều-đại,” trong trường-hợp này là nhà Lê hay chúa Trịnh, một triều-đại mà trong đó gia-đình thi-sĩ đã hưởng nhiều bổng lộc. Vì nếu thế thì không thể có chuyện, như Gia-phả nhà họ Nguyễn Tiên-điền đã kể lại là, khi Nguyễn Ánh ra Bắc-hà, Nguyễn Du đã chạy ra trước xa-giá vua để xin đi theo, thuần-phục triều-đại mới.

    Về điểm này, các tài-liệu lịch-sử có phần mâu thuẫn với nhau. Theo Đại Nam chính-biên liệt-truyện thì chuyện ông ra phục-vụ nhà Nguyễn là chuyện bất đắc dĩ, có lẽ vì các sử-gia nhà Nguyễn đã dựa vào câu trong Kiều theo đó Nguyễn Du mô-tả suy nghĩ của Từ Hải trước khi về hàng Hồ Tôn Hiến: “Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu?” (c. 2466) Theo tôi nghĩ, chứng-tích của Gia-phả nhà họ Nguyễn Tiên-điền đáng tin cậy hơn vì một lẽ: Gia-phả thuộc loại gia-bảo, chỉ cất giữ trong nhà, trong họ thôi, không phải là một tài-liệu dùng để công-bố ra ngoài, do vậy nên không có lý-do gì người chép gia-phả lại tìm cách “lấy điểm” cho Nguyễn Du bằng cách bịa ra chuyện nhà thơ đã tìm cách yết-kiến Nguyễn Ánh để xin theo ra Bắc. Vả lại, người chép gia-phả thường là người đến sau, hàng con cháu nên khi ai đó chép đến đây thì lại càng không có lý-do gì để gán cho Nguyễn Du những tình-cảm đặc-biệt đối với nhà Nguyễn Gia Long. Do đó, theo tôi, Gia-phả có nhiều khả-năng trung thực hơn trong chuyện này.

    Nếu điều tôi nghĩ là đúng thì có lẽ ta phải bác bỏ quan-điểm của hai cụ Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ cho rằng Nguyễn Du có tư tưởng “hoài Lê” và như một trung-thần theo mẫu Nho-giáo (“trung-thần bất sự nhị quân,” một người trung-thần không thờ hai vua”), ông không thể nghĩ đến đi thờ một triều-đại mới, dù là Tây-sơn hay Nguyễn Gia Long, trừ phi... là chuyện bất đắc dĩ. Không đúng!

    Vì nếu như ta biết, Nguyễn Du có thể một lúc, trong khoảng “10 năm gió bụi” (1787-1796) ở quê vợ Quỳnh-côi, đã nghĩ đến chống Tây-sơn để phục hồi nhà Lê, chính ông sau đó đã bỏ cuộc và về quê Tiên-điền để tìm vui trong săn bắn (“Hồng-sơn Liệp-hộ,” phường săn ở núi Hồng, một biệt-hiệu ông dùng vào thời-gian ở quê nhà) hay đi câu (“Nam-hải Điếu-đồ,” nhà chài biển Đông, một biệt-hiệu khác). Lại theo Gia-phả, “mùa đông năm Bính-thìn (1796), Nguyễn Du toan vào Gia-định giúp Nguyễn Ánh. Việc tiết lộ, bị tướng Tây-sơn là Quận-công [Nguyễn] Thận bắt giam. Thận là bạn thân của Nguyễn Nễ, vả lại ông cũng tiếc tài [của Nguyễn Du] nên chỉ giam ba tháng rồi tha.”

    Như vậy, ta thấy câu chuyện đời của Nguyễn Du như kể trong Gia-phả có lý hơn vì nó nhất-quán hơn. Đến 1796 thì Nguyễn Du đã dứt khoát bỏ ý định phục Lê (nếu như thật là ông đã có ý định này trong thời-gian “10 năm gió bụi”) mà đi tìm một chúa mới, đó là Nguyễn Ánh, dù như ở thời-điểm đó chuyện giữa hai nhà Nguyễn—Tây-sơn và Nguyễn Ánh—chưa thực ngã ngũ. Có câu chuyện đi tìm Nguyễn Ánh vào năm 1796 thì sáu năm sau, chuyện Nguyễn Du ra đón xa-giá khi Nguyễn Ánh cầm quân ra Bắc-hà mới hoàn-toàn là chuyện ăn khớp, và chuyện “hoài Lê” nếu có thì cũng là chuyện của quá-khứ.

    Sở dĩ tôi phải ngừng hơi dông dài ở điểm này là vì cách nhìn của chúng ta trong quá-khứ, bị ảnh-hưởng quá nhiều từ Đại Nam chính-biên liệt-truyện và những học-giả cỡ lớn như Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ, đã làm cho ta hiểu lầm Nguyễn Du. Ông không phải là một loại hủ-nho hay nói như ngôn-ngữ ngày nay quen thuộc ở trong nước, là người phản-động, đi ngược lại hướng đi của lịch-sử. Trái lại, không những ông không theo thuyết “trung-thần bất sự nhị quân” hay ít nhất cũng đã bỏ nó, dù như đó là một quan-niệm trung-tâm của Nho-học, ông đã tỏ ra nhìn xa, thấy rộng khi từ 1796 đã trông ra sự thắng thế tất-yếu của Nguyễn Ánh—Gia Long sau này—trong cái thế nhiễu nhương của triều-đình Tây-sơn hồi bấy giờ.

    Nhưng ông cũng thừa hiểu là đối với người đương-thời, những bạn bè của ông, những người được hun đúc trong lò “trung-thần bất sự nhị quân” thì việc đổi chúa, đổi chủ như ông được xem như là một sự phản-bội. Cũng vì thế mà ông trở nên âm thầm, ít giao-tiếp rộng rãi, được xem là lầm lầm lì lì, chỉ khi vua hỏi mới “dạ dạ, vâng vâng” để đến nỗi Gia Long phải quở trách.

    Lý-tưởng “cô-trung” của Nguyễn Du như ta thấy trong bài “Vịnh Khuất Nguyên”:

    Kim cổ thùy nhân lân độc tỉnh?

    Tứ phương hà xứ thác cô trung?

    có nghĩa là:

    Xưa nay, ai kẻ thương người một mình thức tỉnh?

    Bốn phương biết gửi lòng “cô-trung” về đâu?

    Lý-tưởng đó, mà cụ Nguyễn Đăng Thục dịch là “tấm lòng riêng” thì chưa thật là chính-xác. Lý-tưởng đó, có lẽ ta phải hiểu là tấm lòng “trung” với một quan-niệm sống chứ không phải là “trung” với một ông vua X, Y hay Z. Nhưng vì chỉ có Nguyễn Du biết đó là “trung” với cái gì nên nó mới thành “cô-trung,” trung mà chỉ có một mình mình biết. Thảm-kịch đời của Nguyễn Du, xem đó, là không có tri âm: không ai đương-thời hiểu ông hết! Do thế có nói ra cũng vô ích, chỉ tổ hiểu lầm thôi, do vậy mà Nguyễn Du giữ cái bí-mật đó xuống đến tuyền-đài.

    Có hiểu thế ta mới thấy được sự đồng-cảm vĩ đại giữa Nguyễn Du, nhà thơ lớn, với cô Kiều, sống cách ông gần 300 năm vào đầu nhà Minh và đã được Dư Hoài và nhất là Thanh Tâm Tài Nhân đem tiểu-thuyết-hóa:

    Bất tri tam bách dư niên hậu

    Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

    (“Không hiểu rồi ba trăm năm nữa,

    Thiên-hạ còn ai khóc Tố Như?”)

    Hai câu này, theo sự truyền-tụng trong họ Nguyễn Tiên-điền, là hai câu khẩu-khí của Nguyễn Du trước khi mất chứ không phải là thuộc một bài thơ nào—như người ta đã gán ghép vào thành hai câu cuối của bài “Độc Tiểu Thanh Ký” đâm ra thành thất niêm và hoàn-toàn sai về thời-gian-tính. Từ nàng Tiểu Thanh (1573-1620) đến Nguyễn Du (1765-1820) chỉ có 200 năm thôi, và khi Nguyễn Du làm ra bài thơ “Độc Tiểu Thanh Ký” (khoảng 1813-14) thì chắc chắn chưa đến 200 năm! Không lẽ mới ở tuổi chưa đầy 50, đang làm “chánh-sứ” của Việt Nam sang Bắc-kinh, mà Nguyễn Du đã có thể lẫn tới hơn 100 năm (“tam bách dư niên hậu”)?

    Thành thử để phục-hồi sự thật ở đây, có lẽ ta nên chấp nhận truyền-thuyết trong gia-đình họ Nguyễn Tiên-điền mà xem hai câu trên quả là hai câu đứng riêng biệt, hai câu khẩu-khí của nhà đại-thi-hào chúng ta trước khi nhắm mắt ra đi. Còn bài “Độc Tiểu Thanh Ký” đành phải xem là thiếu mất hai câu kết—một tai-nạn không hiếm trong sự truyền-đạt thơ văn cổ của nước nhà—thay vì gán ghép một cách uổng công!



    Từ Nguyễn Du đến Kiều


    Hiểu như trên rồi thì chuyện “cô-trung” của cô Kiều với Kim Trọng trong Đoạn Trường Tân Thanh không còn có gì là khúc mắc nữa.

    Chính chuyện “cô-trung” của Kiều này mới thành một trong những “thème” chính của đại-thi-phẩm của Nguyễn Du, trở thành sợi dây xuyên suốt suốt Truyện Kiều gần như từ dòng đầu cho đến dòng cuối. Chủ-đề “Hợp-Tan-Hợp” này trong mối tình lớn Kiều-Kim Trọng đã được nối kết thành một truyện tình lớn nhất trong lịch-sử văn-học Việt Nam dù như văn-học chúng ta không hiếm truyện tình vĩ đại như truyện Trương Chi-Mỵ Nương, truyện Chử Đồng Tử với Tiên Dung, hay chuyện tình thật giữa Phạm Thái và Trương Quỳnh Như. Có thể nói, Truyện Kiều còn hay hơn truyện “Romeo and Juliet” của Shakespeare rất nhiều vì nó không chỉ có mối tình đầu (từ lúc Kim Trọng và Kiều gặp nhau trong lễ Tảo mộ đến lúc Kiều lẻn sang nhà Kim Trọng để hai người tình tự với nhau) mà còn có cả những lúc ray rứt (c. 791-92):

    Biết thân đến bước lạc loài,

    Nhị đào thà bẻ cho người tình chung!

    một nét tâm-lý rất con người, rất đàn bà dù như có người dựa vào những câu như thế này để mà lên án Kiều là một tâm-hồn đĩ thõa.

    Đàn ông chớ kể Phan Trần,

    Đàn bà chớ kể Thúy Vân-Thúy Kiều.

    Các cụ ngày xưa đã nhắn con cháu như vậy là vì các cụ không thể giải thích được một cách êm xuôi chuyện họ Phan vào nhà chùa mà lại đi tán sư-cô để thành chuyện loạn-luân hay chuyện cô Kiều đã tỏ ra quá táo bạo khi chờ lúc gia-đình vắng nhà để lẻn sang với trai, rồi đến khi gặp chuyện chẳng lành lại mơ đến chuyện đi “bẻ” nhụy đào cho người tình là Kim Trọng!

    Nhưng nếu đã không có mối tình lớn với Kim Trọng thì Truyện Kiều còn gì ngoài chuyện một cô điếm 15 năm lăn lóc ở chốn lầu xanh, dù như có lúc lên voi cũng như có lúc xuống chó. Chính mỗi lần gặp cái vui cũng như chuyện buồn thì bao giờ cũng là lúc Kiều nhớ nhà, nhớ bố mẹ, nhớ đến người yêu để tự hỏi: Chuyện gì đang xảy ra với những người thân của mình? Chính những lúc này là những lúc Nguyễn Du đã tỏ được cái tài kiệt-xuất của ông để mô-tả những trạng-thái tâm-lý rất đặc-biệt của Kiều trong từng giai-đoạn của cuộc sống đời cô.

    Chính mối tình xuyên suốt này của Kiều đối với Kim Trọng, chủ-yếu là một chiều hướng về người yêu đầu đời của mình, đã làm nên tất cả cái tuyệt-diệu của Đoạn Trường Tân Thanh dù như đây là một đại-tác-phẩm của văn-học thế-giới mà chịu ảnh-hưởng sâu đậm của Phật-giáo, tương-tự như cuốn Tây Du Ký của Ngô Thành-ân (1500-khoảng 1582), một trong những tiểu-thuyết lớn nhất không những của Trung-hoa mà còn của cả nhân-loại nữa. Nhưng nếu Tây Du Ký là truyện “picaresque” trường-thiên viết bằng văn xuôi, một đặc-điểm nổi bật của văn-học Trung-quốc, thì Truyện Kiều hay Đoạn Trường Tân Thanh lại rất Việt Nam ở chỗ là thơ, cũng thơ trường-thiên mà ta có thói quen gọi là truyện thơ, nhưng trước hết vẫn phải là thơ đã.

    Phật-giáo trong Truyện Kiều trước hết là thơ. Và vì là thơ nên nó thi-vị-hóa tư tưởng Phật-giáo như ta sẽ có dịp xem trong một lần khác và làm thăng-hoa, làm đẹp hết cả những cái gì có thể gọi được là nhơ nhuốc trong câu chuyện đời của Kiều! Madame Bovary của Gustave Flaubert của Pháp, chẳng hạn, cũng không phải là một truyện đẹp nhìn theo con mắt luân-thường đạo-lý, vì đó là một chuyện ngoại-tình, nhưng nó đẹp biết bao khi ta xem đó là một mô-tả chân thật nhất, đúng với tâm-lý nhất của người đàn bà trong cùng tình-huống—một cách đi sâu vào và mở rộng thêm sự hiểu biết của tất cả chúng ta về một thực-tế nhan nhản trong cuộc sống, nếp sống ngoại-tình.
     
    Prince04 thích bài này.
  5. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    NGUYỄN DU VÀ ÐẠO PHẬT


    (Bài viết của Giáo sư Doãn Quốc Sỹ)


    Nói đến Nguyễn Du là nói đến Truyện Kiếu trước hết và dĩ nhiên chúng ta cũng không quên bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh của ngườì nữạ. Vậy tốt hơn hết chúng ta hãy “Cảo thơm lần giở trước đèn” để xem đạo Phật đã thể hiện ra sao qua nội dung truyện Kiều.

    Chúng ta hãy ôn lại Truyện Kiều từ đầu tới cuối

    Vào dịp: Thanh minh trong tiết tháng ba
    Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh

    Kiều đã cùng hai em là Vương Quan và Thúy Vân đi chơi xuân, gia nhập vào cảnh:

    Dập dìu tài tử giai nhân
    Ngựa xe như nước áo quần như nêm

    Và Kiều đã chúng kiến cảnh nấm mồ hương khói vắng tanh của nàng Ðạm Tiên, một ca nhi tài sắc một thời. Và nàng Kiều đã nói:

    Ðã không kẻ đoái người hoài
    Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương

    Rồi đối cảnh sinh tình:

    Rút trâm sẵn giắt mái đầu
    Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần

    Và Ðạm Tiên đã hiển linh để tạ lòng ngưới tri kỷ khiến Kiều càng xúc động:

    Lòng thơ lai láng bồì hồi
    Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.

    Kế đó là cuộc gặp gỡ Kim Trọng – (bạn của Vương Quan) – lần đầu tiên:

    Chàng Vương quen mặt ra chào
    Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa

    Tuy nhiên với Kiều thì tình ý có tế nhị hơn:

    Người quốc sắc kẻ thiên tài
    Tình trong như đã mặt ngoaì còn e

    Ðêm đó Kiều mơ thấy Ðạm Tiên tới báo cho Kiều hay là:

    Một mình lưỡng lự canh chầy
    Ðường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh

    Vương bà chợt thức giấc hỏi Thúy Kiều vì sao trằn trọc khóc thầm trong lúc canh khuya như vậỵ, và Thúy Kiều đã thành thực thưa với mẹ về việc Ðạm Tiên báo mộng cho biết số kiếp đoạn trường sau này của cuộc đời nàng. Và Vương Bà đã nói với con:

    Dạy rằng “Mộng huyễn chắc đâu
    Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao!

    Trở lại với chàng Kim thì lòng chàng cũng

    Mành tương phân phất gió đàn
    Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình
    Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người
    Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi.

    Nhưng mấy lần tới trước cổng nhà Kiều thì:

    Thâm nghiêm kín cổng cao tường
    Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh

    Kim Trọng bèn thuê căn nhà của một thương gia ngay sát bên nhà Kiều:

    Lấy điều du học hỏi Thuê
    Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang

    Nhưng đã hai tuần trăng qua mà chàng Kim vẫn chưa có dịp đươc thấy mặt nàng Kiềụ

    Cho đến một hôm:

    Cách tường phải buổi êm trời
    Dưới đào dường có bóng ngườì thướt tha
    Buông cầm xóc áo vội ra
    Hương còn thơm nức người đà vắng tanh
    Lần theo tường gấm dạo quanh
    Trên đào nhác thấy một cành kim thoa

    Kim Trọng đã vội lấy cành kim thoa chờ lúc Thúy Kiều từ trong nhà trở ra tìm mới lên tiếng:

    Thoa này bắt được như không
    Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về

    Và vào dịp Thúy Kiều xin lại cành kim thoa, Kim Trọng mới có dịp bày tỏ nỗi lòng tương tư của chàng và xin được hứa hôn cùng nàng. Thúy Kiều đã đáp lời chàng:

    Dù khi lá thắm chỉ hồng
    Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha

    Tuy nhiên chàng Kim đã nhân dịp đó mà cùng nàng Kiều:

    Sẵn tay khăn gấm quạt qùy
    Với cành thoa ấy tức thì đôi trao
    Sau đó nhân ngày sinh nhật ngoại gia, cả nhà đi dự duy có nàng Kiều ở nhà một mình mới có dịp

    Cánh hoa sẽ đặng tiếng vàng
    Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông

    Và Thúy Kiều đã gặp Kim Trọng ngay tại căn phòng thuê của chàng, ngắm bức họa mới vẽ của chàng, và theo lời đề nghị của chàng, Kiều đã:

    Tay tiên gió táp mưa xa
    Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu

    Câu chuyện cứ tiếp diễn như vậy, Kiều đã có lần đánh đàn cho Kim Trọng nghe. Lần đó Kim Trọng đã:

    Xem trong âu yếm có chiều lả lơi
    Và Kiều đã phải cảnh giác chàng:
    Thưa rằng: Ðừng lấy làm chơi
    Dễ cho thưa hết một lời đã nao
    ..
    Ra tuồng trên Bộc trong dâu
    Thì con người ấy ai cầu làm chi

    Rồi sau đó Kim Trọng phải về quê Liêu Dương thọ tang chú
    Vương Ngoại bị vu oan, Thúy Kiều lâm cảnh bán mình chuộc tội cho chạ Thế là bắt đầu 15 năm lưu lạc cuả nàng, bán mình cho Mã Giám Sinh – tay sai cuả mụ Tú Bà. Ði một tháng tròn mới tới Lâm Truỵ Kiều đã dùng dao tử vẫn trước Tú Bà. Trong cơn ngất bằn bặt này, Kiều đã gặp lại Ðạm Tiên và được nàng cho hay:

    Rỉ Rằng: “Nhân quả dở dang
    Ðã toan trả nợ đoạn trường được sao
    Số còn nặng nghiệp má đào
    Nàng dù muốn quyết trời nào đã cho
    Hãy xin hết kiếp liễu bồ
    Sông Tiền Ðường sẽ hẹn hò về sau.”

    Tới đây chúng ta mới thấy Nguyễn Du đề cập tới nhân quả của nhà Phật, nghiệp cuả Nhà Phật
    Trước ý chí cương quyết cuả Kiều, Tú Bà nhượng bộ, và Kiều được ra ở lầu Ngưng Bích. Tại đây Sở Khanh xuất hiện nói là sẽ ra tay tế độ cưú nàng. Nhưng khi Kiều đã ưng theo lời Sở Khanh thì Sở Khanh lẩn trốn và Tú Bà đã bắt Kiều trở lại lầu xanh tại Lâm Truỵ. Nơi đây Kiều gặp được Thúc Sinh - đã có vợ Cả là Hoạn Thư - ra tay tế độ cứu nàng ra khỏi chốn lầu xanh. Cha mẹ Thúc Sinh nổi giận đòi trả lại Kiều về chốn lầu xanh. Nhưng qua lời thú thực cuả Thúc Sinh, phủ Quan được biết Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn, có tài làm thơ. Phủ Quan ra lệnh Kiều đề thơ và khi xem bài thơ của Kiều phủ Quan đã phải thốt lên:

    Khen rằng giá đáng thịnh đường
    Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân

    Và Thúc Ông cũng đổi thái độ mà:

    Thương vì hạnh trọng vì tài
    Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba

    Suốt một năm ròng hương lửa, Kiều khuyên Thúc Sinh nên về thăm vợ cả Hoạn Thư:

    Xin chàng kíp liệu lại nhà
    Trước người đẹp ý sau ta biết tình

    Nhưng Thúc Sinh đã không làm theo lời khuyên của nàng
    Vì nghĩ rằng “Nào ai có khảo mà mình lại xưng”
    Sau khi đã xum họp vợ Chồng với Hoạn Thư, đã tới thời Thúc Sinh trở lại Lâm Truy gặp lại Kiềụ Thúc Sinh đi theo đường bộ, Hoạn Thư sai gia nhân đi đường biển gần hơn tới Lâm Truy trước đó để bắt Kiều về. Trong khi đó với Kiều thì:

    Ðêm thu gió lọt song đào
    Nửa vành trăng khuyết ba sao trên trời
    Nén hương đến trước Phật đài

    Nỗi lòng khấn chưả cạn lời vân vân

    Dưới hoa dậy lũ ác nhân
    Ầm ầm khốc quỷ Kinh thần mọc ra

    Kiều bị tưới thuốc mê mang đi, và để khiến mọi người sau đây tưởng lầm là Kiều đã chết bèn bày bàn thờ:

    Sẵn thây vô chủ bên sông
    Ðem vào để đó lộn sòng ai hay

    Quả Nhiên khi đám gia nhân cuả Thúc Ông tới dập tắt lưả cháy thì:

    Chạy vào chốn cũ phòng hương
    Trong tro thấy một đống xương cháy tàn

    Thì ngay tình tin là Kiều đã chết cháỵ Thúc Ông bèn cho thu lượm gom lại, khâm liệm làm tang lễ. Thúc Sinh cũng vừa về tới và dĩ nhiên cũng tin là Kiều đã chết cháỵ. Nhưng gần miếu có một Thầy “Cao tay thông huyền” Thúc Sinh bèn tìm đến hỏi thì được Thầy cho biết: Kiều “Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho”. Hãy đợi một năm nưã thì sẽ biết tin! Và chính vào dịp này Thúc Sinh sẽ lâm vào tình trạng trớ trêu:

    Hai bên giáp mặt triền triền
    Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay

    Thúc Sinh không tin lời ông Thầy và nghĩ rằng

    Chẳng qua đồng cốt quàng xiên
    Người đâu mà lại thấy trên cõi trần

    Trong khi đó Khuyển Ưng đã khiêng Kiều xuống thuyền và:

    Buồm cao lèo thẳng cánh suyền
    Dè chừng huyện tích băng mình vượt sang

    Kiêu bị đánh đòn rồi bị chuyển thành thị tì với tên là Hoa Nô.
    Bà quản gia thương Kiềụ, Hoạn Thư vào dịp nghe Kiều đàn cũng cảm thương mà nới taỵ
    Thế là Kiều không được dip gặp Thúc Sinh ở Lâm Truỵ. Thúc Sinh đành rời Lâm Truy trở về gia hương. Hoạn Thư đón mừng sai Kiều ra chàọ Thúc Sinh biết mình đã mắc mưu ai rồị. Vị trí Kiều với Thúc Sinh nay đã biến đổi thành con ở và chủ nhà. Và khi Kiều bị Hoạn Thư bắt gãy đàn thì Hoạn Thư và Thúc Sinh ở hai tâm cảnh khác nhau:

    Cũng trong một tiếng tơ đồng
    Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.

    Sau đó Hoạn Thư nguôi ngoai cơn ghen và theo lời Thúc Sinh cho Kiều tu tại Quan Âm Các ở ngay vườn nhà với pháp danh Trạc Tuyền:

    Áo xanh đổi lấy Cà Sa
    Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền

    Nhân dịp Hoạn Thư về nhà vấn an cha mẹ, Thúc Sinh vội tìm gặp Kiều, khuyên Kiều hãy nên cao chạy xa bay:

    Liệu mà cao chạy xa bay
    Ái ân ta có ngần này mà thôi
    Bây giờ kẻ ngược người xuôi
    Biết bao giờ lại nối lời nước non
    Dẫu rằng sông cạn đá mòn
    Con tằm đến thác cũng còn vương tơ

    Vừa lúc đó Hoạn Thư xuất hiện, nói là:
    Tìm hoa quá bước xem người viết kinh
    Nhưng sau đó hỏi hoa tì Kiều được hoa tì cho hay:

    Hoa rằng bà đến đã lâu
    Nhón chân đứng nép độ đâu nửa giờ

    Do đó Kiều hốt hoảng tự nhủ thầm:

    Thân ta ta phải lo âu
    Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này

    Và Kiều đã trốn khỏi Quan Âm Các vào khoảng canh ba mang theo chuông vàng khánh bạc để phòng thân. Ði miệt vừa rạng sáng thì:

    Chuà đâu trông thấy nẻo xa
    Rành rành Chiêu Ẩn Am ba chữ bài

    Tại dây Kiều đã gặp Sư Trưởng Giác Duyên nói thác là:

    Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh
    Quy sư quy Phật tu hành bấy lâu
    Bản sư rồi cũng đến sau
    Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh
    Rày vâng diện hiến rành rành
    Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra

    Trong thời gian được lưu trú lại chùa Kiều đã:

    Kệ kinh câu cũ thuộc lòng
    Hương đèn việc trước trai phòng quen tay
    Sớm khuya lá bối phiến mây
    Ngọn đèn khuê nguyệt tiếng chày nện sương
    Thấy nàng thông tuệ khác thường
    Sư càng nể mặt nàng càng vững chân

    Chẳng may có người tới thăm chùa nói với sư trưởng “chuông vàng khánh bạc sao giống loại chuông vàng khánh bạc đã mất cắp tại chùa nhà Hoạn Thư.

    Chờ đêm thanh vắng Giác Duyên hỏi Kiều, Kiều thực tình thưa lại sự tình. Giác Duyên khuyên Kiều hãy sang ở tạm nhà Bạc Bà – một Phật tử thường hay lui tới chùa nàỵ

    “Ai ngờ Bạc Bà cùng với Tú Bà đồng môn”. Bạc Bà khuyên Kiều hãy lấy cháu mình là Bạc Hạnh tính tình thực thà, có cửa hàng buôn bán ở Châu Thai, 2 người lấy nhau rồi sẽ trở về Châu Thaị
    Ngay phút đầu gặp mặt Kiều đã sinh nghi:

    Thiếp như con én lạc đàn
    Phải cung rày đã sợ làm cây cong

    Quả thực sau này vỡ lẽ: Bạc Hạnh cũng là người buôn người và y đã bán Kiều vào lầu xanh. May thay lần này Kiều gặp được Từ Hải và được Từ Hải chuộc ra khỏi lầu xanh để:

    Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên
    Phỉ Nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng

    Nhưng:

    Nửa năm hương lửa đương nồng
    Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

    Thế là Từ Hải lại ra đi mong sớm thực hiện chí lớn. Ở lại một mình Kiều nhớ nhà, nhớ các em, nhớ chàng Kim.

    Từ Hải đã thành công. Binh tướng cuả Từ Hải tới đón Kiều để làm lễ vu quy. Ðây là dịp để Kiều trả ân báo oán. Trước hết Kiều báo ân Thúc Sinh, Giác Duyên…sau đó báo oán: Bạc Hạnh , Bạc Bà, Sở Khanh, Khuyển, Ưng, Tú Bà, Mã Giám Sinh.

    Giác Duyên – Vì trước đó đã được gặp sư Tam Hợp có tài tiên tri nên khi từ biệt Thúy Kiều đã khẳng định với Kiều là trong 5 năm nữa sẽ lại gặp nhaụ.

    Hồ Tôn Hiến thuyết Từ Hải hãy quy hàng triều đình để được hưởng công danh phú quý. Từ Hải không muốn hàng, nhưng Kiều nhẹ dạ cả tin cố thuyết phục Từ Hải. Vì nghe theo Kiều, Từ Hải đã mắc mưu Hồ Tôn Hiến. Từ Hải chết đứng vì uất ức. Kiều gắng xin Hồ Tôn Hiến một mảnh đất để chôn Từ Hải:

    Xin cho tiện thổ một đời
    Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh

    Tối hôm đó vào lúc tiệc mừng chiến thắng Hồ Tôn Hiến đã ép Kiều phải vào đánh đàn:

    Trong quân mở tiệc hạ công
    Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan
    Bắt nàng thị yến dưới màn
    Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu
    Một cung gió thảm mưa sầu
    Bốn dây nhỏ Máu năm đầu ngón tay
    Ve ngâm vượn hót nào hay
    Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu

    Và Hồ hỏi Kiều có muốn làm lại cuộc đời kết duyên cầm sắc với ai không? Kiều đã trả lời:

    Thưa rằng: chút phận lạc loài
    Trong mình nghĩ đã có người thác oan
    Còn chi nữa cánh hoa tàn
    Tơ lòng đã đứt dây đàn Tiểu Lâm
    Rộng thương còn mảnh hồng quần
    Hơi tàn đuốc thấy gốc phần là may

    Ðến lúc rạng ngày Hồ Công hối hận việc ép Kiều đánh đàn cho mình nghe hôm trước:

    Nghĩ mình phương diện quốc gia
    Quan trên nhắm xuống người ta trông vào
    Bèn gán ép Kiều cho một người thổ quan:
    Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền

    Và:

    Triều đâu nổi tiếng đùng đùng
    Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền Ðường

    Kiều sực nhớ lại lời Ðạm Tiên xưa đã nói với mình trong mộng:

    Sông Tiền Ðường sẽ hẹn hò về sau
    Thế là Kiều quyết định ngay:
    Thôi thì 1 thác cho rồi
    Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông
    Trông vời non nước mênh mông
    Ðem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang
    Thổ quan theo vớt vội vàng

    Thì đà đắm ngọc chìm hương mất rồi
    Trở lại với Giác Duyên, từ thuở giã biệt Kiều để tiếp tục trên đường vân du, Sư bà đã có dịp gặp Tam Hợp đạo cô bèn hỏi Ðạo cô về trường hợp của Kiều:

    Người sao hiếu nghĩa đủ đường
    Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi

    Sư bà được đạo cô cho hay là:

    Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan
    Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
    Lại mang lấy một chữ tình
    Khư khư mình buộc lấy mình vào trong

    Khi thầy Giác Duyên nghe nói rụng rời đạo cô bèn trấn an ngay:

    Sư rằng song chẳng hề chi
    Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều
    Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều
    Mắc điều tình ái khỏi đường tà dâm
    Lấy tình thâm trả nghĩa thâm
    Bán mình đã động hiếu tâm đến trời
    Hại một người cứu muôn người
    Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng
    Thửa công đức ấy ai bằng
    Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi

    Như vậy là Kiều đã “đức năng thắng số”. Ðạo cô khuyên:

    Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau
    Tiền đường thả một bè lau rước người

    Giác Duyên làm đúng theo lời chỉ dẫn của Tam Hợp đạo cô
    Vì vậy đã cứu được Thúy Kiều khi nàng gieo mình xuống sông Tiền Ðường và mời Kiều về thảo lư ở với mình:

    Một nhà chung chạ sớm trưa
    Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng
    Bốn bề bát ngát mênh mông
    Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau

    Trở về chuyện chàng Kim. Chàng ở Liêu Dương nửa năm, khi chàng trở về chốn cũ mới hay Kiều đã bán mình chuộc tội cho cha Vương Quan với Thúy Vân sống nghèo túng, may thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi. Ông bà Viên ngoại còn sống. Thấy chàng Kim thương nhớ Kiếu, Vương Ông quyết định vội vàng sắm sưả chọn ngày để:

    Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng
    Sau đó Vương Quan, Kim Trọng thi đỗ. Kim Trọng đi nhậm chức tại Lâm Truy, gặp Thúc Sinh mới hay về chuyện Từ Hải chết đứng. Và Kim Trọng quyết định đi tìm Kiều:

    Rắp mong treo ấn từ quan
    Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha
    Dấn mình trong áng can qua
    Vào sinh ra tử họa là có nhau

    Vừa lúc đó có chiếu vua cải nhận Kim Trọng tới Nam Bình, Vương Quan tới Phú Dương. Hai chàng cùng chuẩn bị lên đường thì vưà hay thế giặc đã tan:

    Sóng êm Phúc Kiến lửa tàn Chiết Giang

    Và:

    Ðược tin Kim mới rủ Vương
    Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa

    Tới Hàng Châu tìm hỏi tin tức mới hay chuyện Từ Hải chết đứng, Thúy Kiều bị ép duyên cho thổ quan đã trầm mình xuông sông Tiền Ðường. Thật tội nghiệp: cả nhà vinh hiển riêng oan một nàng! Hai chàng bèn làm lễ chiêu hồn giải oan ngay bên bờ sông Tiền Ðường thì may sao:

    Cơ duyên đâu bỗng lạ Sao
    Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi

    Vì gặp Giác Duyên mọi người mới biết Thúy Kiều còn sống. Kiều gặp đủ mặt người thân:

    Tưởng bây giờ là bao giờ
    Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao

    Nhưng khi Vương Ông bảo Kiều hãy theo mọi người cùng về thì Kiều đã thưa lại:

    Nàng rằng: Chút phận hoa rơi
    Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay
    Tính rằng mặt nước chân mây
    Lòng nào còn tưởng có rày nữa không
    Ðược rày tái thế tương phùng
    Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay
    Ðã đem mình bỏ am mây
    Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừa

    Mùi thiền đã bén muối dưa
    Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng
    Sự đời đã tắt lửa lòng
    Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi

    Vương Ông vẫn khuyên Kiều hãy quay về xum họp, vì chấp kinh cũng phải tòng quyền rồi:

    Ðộ Sinh nhờ đức cao dày
    Lập am rồi sẽ rước Thầy ở chung
    Và Kiều đã:
    Nghe lời nàng phải chiều lòng
    Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra

    Về tới nhà trong bữa tiệc xum họp nàng Vân tuyên bố là xưa vì nạn nhà mà mối duyên của chị với chàng Kim nàng phải đứng ra thay chị nhưng:

    Bây giờ gương vỡ lại lành
    Khuôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi
    Còn duyên may lại còn người
    Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa

    Kiều gạt phắt lời em, vì nghĩ thân mình dãi gió dầm mưa đã nhiều
    Chàng Kim khăng khăng góp ý với Kiều:

    Một lời đã chót thâm giao
    Dưới dày có đất trên cao có trời
    Dẫu rằng vật đổi sao dời
    Tử Sinh cũng giữ lấy lời tử Sinh

    Kiều vẫn cương quyết khước từ và thưa thẳng với chàng Kim:

    Thiếp từ ngộ biến đến giờ
    Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa
    Bấy chầy gió táp mưa sa
    Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn

    Và nàng đề nghị hãy từ tình duyên đổi sang tình bạn:

    Chàng dù nghĩ đến tình xa
    Ðem duyên cầm sắt ra duyên cầm kỳ

    Chàng Kim vẫn cương quyết nói với nàng là chữ trinh kia cũng có ba bảy đường:

    Như nàng lấy hiếu làm trinh
    Bụi nào cho đục được mình ấy vay
    Trời còn để có hôm nay
    Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời
    Hoa tàn mà lại thêm tươi
    Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa

    Cả Vương Ông, Vuơng Bà cùng chàng Kim dồn Thúy Kiều vào thế hết lời khôn lẽ chối lời

    Cúi đầu nàng những ngắn dài thở than
    Và nàng chịu làm lễ đủ đôi với chàng.

    Nhưng đêm hôm đó trong phòng chỉ còn riêng hai người nàng mới thỏ thẻ nói lại với chàng lý lẽ của mình. Em Vân đã thay nàng trả nợ tình xưa, còn mình thì:

    Chữ trinh còn một chút này
    Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan

    Còn nhiều ân ái chan chan

    Hay gì vẫy cánh hoa tàn mà chơi

    Sau cùng Kim Trọng hoàn toàn đồng ý với nàng đem duyên cầm sắt ra duyên cầm kỳ. Chàng cũng khẳng định là

    Bấy lâu đáy bể mò kim
    Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa
    Ai ngờ lại họp một nhà
    Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm

    Và Kiều đã sửa áo cài trâm khấn đầu lạy tạ Chàng Kim:

    Thân này gạn đục khơi trong
    Là nhờ quân tử khác lòng người ta

    Sau đó Kim Trọng lại yêu cầu cho nghe lại tiếng đàn xưa của nàng. Nàng thuận tình chiều ý chàng nhưng lần này thì

    Khúc đâu đầm ấm dương hòa
    Ấy là hồ điệp hay là Tráng sinh
    Khúc đâu êm ái xuân tình
    Ấy hồn Thục đế hay mình Ðỗ Quyên
    Trông sao châu nhỏ duềnh quyên
    Ấm sao hạt ngọc Lam Ðiền mới đông
    Thúy Kiều cũng không quên
    Nhớ lời lập một am mây
    Khiến người thân tín rước Thầy Giác Duyên

    Nhưng:

    Ðến nơi đóng cửa cài then
    Rêu trùm kẽ ngạch cỏ lên mái nhà
    Sư đà hái thuốc phương xa
    Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu
    Nặng vì chút nghĩa bấy lâu
    Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai

    Thúy Kiều tiếp tục cuộc sống thảnh thơi hạnh phúc của kẻ đã trả nợ xong nghiệp cũ:

    Một nhà phúc lộc gồm hai
    Nghìn năm dằng dặc quan giai lần lần
    Thừa ai chẳng hết nàng Vân
    Một cây cù mộc một sân quế hòe

    Và Nguyễn Du đã kết thúc Truyện Kiều với những lời thơ đề cập tới chữ tài, chữ mệnh , chữ tâm, thiện căn và nghiệp nơi con người:

    Ngẫm hay muôn sự tại trời
    Trời kia đã bắt làm người có thân
    Bắt phong trần phải phong trần
    Cho thanh cao mới được phần thanh cao
    Có đâu thiên vị người nào
    Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai
    Có tài mà cậy chi tài
    Chữ tài liền với chữ tai một vần
    Ðã mang lấy nghiệp vào thân
    Cũng đừng trách lẫn trời gần xa
    Thiện tâm ở tại lòng ta
    Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
    Lời quê chắp nhặt dông dài
    Mua vui cũng được một vài trống canh

    Như vậy là đọc lại từ đầu đến cuối Truyện Kiều, chúng ta thấy cụ Tiên Ðiền đã 6 lần đề cập đến đạo Phật hoặc qua nhân vật hoặc qua tình tiết truyện.

    Lần thứ nhất: Khi Kiều dùng dao tự vẫn trước Tú Bà, trong cơn ngất bằn bặt Kiều đã được Ðạm Tiên báo cho hay:

    Rỉ Rằng: Nhân quả dở dang
    Ðã toan trốn nợ đoạn truờng được sao
    Số còn nặng nợ má đào
    Người dù muốn quyết trời nào đã cho
    Hãy xin hết kiếp liễu bồ
    Sông Tiền Ðường sẽ hẹn hò về sau

    Như vậy là lần thư nhất này qua lời báo mộng của Ðạm Tiên , Nguyễn Du đã đề cập đến luật nhân quả và chữ nghiệp cuả nhà Phật

    Lần thứ hai: Khi biết Thúc Sinh “vườn mới thêm hoa” (gian díu với Thúy Kiều), Hoạn Thư đã:

    Lửa tâm càng dập càng nồng
    Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa

    Hai chữ lửa tâm trên đây cũng đượm phần giáo lý cuả Nhà Phật

    Lần thứ ba: Khi Thúc Sinh trở lại Lâm Truy bằng đường bộ để gặp lại Thúy Kiều thì Hoạn Thư đã sai lũ gia nhân đi bằng đuờng biển gần hơn bắt Thúy Kiều

    Trong khi đó với Kiều khi chưa bị lũ gia nhân cuả Hoạn Thư tới bắt thì

    Ðêm thu gió lọt song đào
    Nửa vành trăng khuyết ba sao trên trời
    Nén hương đến trước Phật đài
    Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân

    Theo lời bàn xưa thì hình ảnh “nửa vành trăng khuyết ba sao trên trời cũng là gián tiếp nhắc đến chữ Tâm của đạo Phật

    Lần thứ tư: Khi Kiều đã bị bán mình cho Mã Giám Sinh tay sai của Mụ Tú Bà, tới đây Nguyễn Du qua lời Ðạm Tiên nói với Thúy Kiều đã đề cập tới Luật nhân quả và chữ Nghiệp trong đạo Phật:

    Rỉ Rằng: Nhân quả dở dang
    Ðã toan trả nợ đoạn trường được sao
    Số còn nặng nghiệp má đào
    Nàng đà muốn quyết trời nào đã cho

    Lần thứ năm: Khi Kiều trầm mình xuống sông Tiền Ðường nàng được sư bà Giác Duyên cứu sống và Kiều đã theo về thảo lư chung sống với sư bà.

    Lần thứ sáu: Với sáu câu sau cùng cuả Truyên Kiều cụ Nguyễn Du đã dùng đến chữ Nghiệp và chữ Tâm cuả Nhà Phật để hàm ý khuyên chúng ta một nếp sống tâm linh lành mạnh:

    Ðã mang lấy nghiệp vào thân
    Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
    Thiện căn ở tại lòng ta
    Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
    Lời quê chắp nhặt dông dài
    Mua vui cũng được một vài trống canh.
     
  6. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    Trao duyên - tiếng thơ của Nguyễn Du - tiếng lòng của nàng Kiều

    --- Hà Quang Năng ---

    Đoạn trích Truyện Kiều này có nhan đề "Trao duyên" gồm 34 câu (từ câu 723 đến câu 756) được in trong sách giáo khoa môn Văn lớp 10. Đây là một trong những đoạn thơ mở đầu cuộc đời lưu lạc đau khổ của Thúy Kiều. Khi Vương Ông và Vương Quan bị bắt do có kẻ vu oan, Thúy Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền đút lót cho quan lại cứu cha và em. Đêm cuối cùng trước ngày ra đi theo Mã Giám Sinh, Thuý Kiều nhờ cậy Thuý Vân thay mình trả nghĩa, lấy Kim Trọng.

    Nhan đề đoạn trích là Trao duyên nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, "Trao duyên", ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Thúy Kiều trước phút dấn thân vào quãng đời lưu lạc, bán mình cứu cha, nghĩ mình không giữ trọn lời đính ước với người yêu, đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng Kim. Đoạn thơ không chỉ có chuyện trao duyên mà còn chất chứa bao tâm tư trĩu nặng của Thúy Kiều.

    Mở đầu đoạn thơ là 8 câu tâm sự của Thúy Kiều, về mối tình của mình với chàng Kim. Kể ra, với người xưa, một mối tình thiêng liêng như Thúy Kiều - Kim Trọng thường được giấu kín trong lòng ít khi người ta thổ lộ với người thứ ba. Vậy mà, ở đây, Thúy Kiều phải bộc lộ tất cả với Thúy Vân. Hơn thế nữa, nàng phải lạy em như lạy một ân nhân, một bậc bề trên, phải nói với em bằng những lời lẽ nhún nhường gần như van vỉ:

    Cậy em, em có chịu lời,
    Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

    Không phải nhờ mà là cậy, chị nhờ em giúp chị với tất cả lòng tin của chị. Nhờ em nhưng cũng là gửi gắm vào em. Bao nhiêu tin tưởng bao nhiêu thiêng liêng đặt cả vào từ cậy ấy! Cũng không phải chỉ nói mà là thưa, kèm với lạy. Phải thiêng liêng đến mức nào mới có sự "thay bậc đổi ngôi" giữa hai chị em như thế. Nguyễn Du thật tài tình, như đọc thấu tất cả nỗi lòng nhân vật. Nỗi đau khổ vì không giữ trọn lời đính ước với chàng Kim đã buộc Thúy Kiều phải nói thật, nói hết với em, phải giãi bày tất cả. Bởi vì không có cách nào khác là phải nhờ em. Gánh tương tư đâu có nhẹ nhàng gì, thế mà vì mình giờ đây bỗng giữa đường đứt gánh, ai mà không đau khổ. Nhưng, gánh nặng vật chất thì san sẻ được, nhờ người khác giúp đỡ được, còn gánh tương tư mà nhờ người khác giúp đỡ cũng là điều hiếm thấy xưa nay. Vì vậy, Kiều mới phải cậy em, mới phải lạy, phải thưa, vì nàng hiểu nỗi khó khăn, sự tế nhị của gánh nặng này. Rõ ràng, Thúy Vân cũng phải hi sinh tình yêu của mình để giúp chị. Trong hoàn cảnh bi thương của mình, Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em gái. Tuy nhiên, Thúy Vân vốn là cô gái vô tư, thơ ngây trong gia đình họ Vương lúc vạ gió tai bay, Thúy Kiều phải giành cho mình phần hi sinh lớn hơn; không chỉ hi sinh tình yêu mà hi sinh cả cuộc đời để cứu cha, cứu em.

    Trao duyên cho em nhưng nào đã dễ trút đi gánh nặng? Bao nhiêu kỉ niệm ngày xưa của mối tình đầu, kỉ niệm đẹp đẽ của một thời ào ạt trở về. Những kỉ vật thiêng liêng nàng vẫn giữ, minh chứng cho tình yêu của nàng với chàng Kim, dễ gì trong phút chốc lại phải trao sang tay người khác, cho dù người đó chính là em gái mình? Tình yêu đôi lứa vốn có chút ít ích kỉ bên trong, đó cũng là lẽ thường tình. Chiếc thoa với bức tờ mây, Phím đàn với mảnh hương nguyền... vốn là kỉ vật riêng của Thúy Kiều, kỉ vật ấy có ý nghĩa tượng trưng cho hạnh phúc của nàng. Bây giờ, những kỉ vật thiêng liêng ấy, nàng phải trao cho em, không còn là của riêng của nàng nữa mà đã trở thành của chung của cả ba người. Đau xót làm sao khi buộc phải cắt đứt tình riêng của mình ra thành của chung! Biết vậy nhưng Thúy Kiều cũng đã trao cho em với tất cả tấm lòng tin cậy của tình ruột thịt, với tất cả sự thiêng liêng của tình yêu với chàng Kim. Nàng thuyết phục em mới khéo làm sao:

    Ngày xuân em hãy còn dài,
    Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
    Chị dù thịt nát xương mòn,
    Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

    Trên hết giữa chị với em là tình máu mủ; vì tình máu mủ ai nỡ chối nhau? Vì vậy, suốt từ đầu đến cuối đoạn thơ không hề thấy lời nói của Thúy Vân. Thúy Kiều như người đang dốc bầu tâm sự, nàng phải dốc cạn với em mới có thể thanh thản ra đi. Nàng tưởng tượng đến lúc mình đã chết, oan hồn trở về lẩn quất bên chàng Kim. Khi đó, âm dương cách biệt, chỉ có chén nước mới giải được mối oan tình. Lời tâm sự sao mà thương!

    Cuối đoạn thơ nàng tưởng như mình đang nói với người yêu. Nỗi lòng vẫn ngổn ngang tâm sự, vẫn còn trăm nghìn điều muốn nói với chàng, vẫn không làm sao kể cho xiết muôn vàn ái ân giữa nàng với chàng; không giữ được trọn lời thề nguyền với chàng, nàng đành gửi chàng trăm nghìn lạy. Nàng gọi Kim Trọng là tình quân, nàng xót xa cho duyên phận của mình tơ duyên ngắn ngủi, nàng tự coi mình là người phụ bạc. Thật đau khổ biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim rồi mà nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng nàng Kiều. Phải chăng, một lần nữa Nguyễn Du đã thể hiện đúng quy luật tâm lí của con người: cái gì đong mà lắc thì vơi, nhưng: sầu đong càng lắc càng đầy là như thế! Tình duyên dẫu có cố tình dứt bỏ vẫn còn vương tơ lòng là như vậy. Cuối đoạn thơ, mặc dù Kiều đã giãi bày hết nỗi khổ tâm riêng của mình với em, đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng những đau khổ vì tình duyên tan vỡ trong tâm trí nàng vẫn không nguôi. Vẫn còn mang nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc, Thúy Kiều vẫn phải thốt lên đau đớn:

    Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
    Thôi thôi thiếp dã phụ chàng từ đây!

    Phải chăng đây là tiếng thơ kêu xé lòng mà sau này nhà thơ Tố Hữu đã nói thay bao người, bao thế hệ!

    Đoạn thơ, trừ những câu đầu tâm sự với Thúy Vân, trao duyên cho Thúy Vân, còn thực chất là đoạn độc thoại nội tâm của Thúy Kiều. Với nghệ thuật thể hiện tài tình, Nguyễn Du giúp người đọc nhìn thấu tâm trạng đau khổ của Thúy Kiều. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương nàng bấy nhiêu, cảm phục nàng bấy nhiêu. Bởi vì người ta có thể hi sinh mọi thứ vì tình yêu, còn nàng thì lại hi sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều đó chẳng đáng cảm phục lắm sao?
     
  7. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    Truyện Kiều qua các thời đại

    --- không rõ tác giả ---

    Truyện Kiều ra đời đã được chừng một trăm tám mươi năm (1). Những ý kiến phát biểu về Truyện Kiều nhiều không kể xiết. Bài này chỉ điểm qua một số thơ văn khen chê Truyện Kiều viết trước Cách mạng Tháng Tám.

    Tương truyền khi sáng tác xong Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh), Nguyễn Du đưa bản thảo cho người bạn văn chương tri kỷ của mình là Phạm Quý Thích xem. Phạm rất tán thưởng, nhuận sắc lại một vài chỗ, đổi tên sách thành Kim Vân Kiều tân truyện, làm bài thơ ề từ, rồi cho đem khắc ván in ở phố Hàng Gai, Hà Nội.

    Bài thơ đề từ ấy, sau này được khắc lên đầu tất cả các bản Kiều nôm, và hơn một trăm năm sau được in lại nguyên văn trên bản Kiều quốc ngữ của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim, Vĩnh Hưng Long xuất bản năm 1925:

    Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường
    Bản thế yên hoa trái vị thường
    Ngọc diện khởi ưng mai thủy quốc
    Băng tâm tự khả đối Kim lang
    Đoạn trường mộng tỉnh căn duyên liễu
    Bạc mệnh cầm chung oán hận trường
    Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy
    Tân thanh đáo để vị thùy thương

    Dịch nghĩa:

    Người giai nhân (Kiều) ví chẳng đến sông Tiền Đường (thì) cái nợ yên hoa nửa đời vẫn chưa trả xong. Nét mặt ngọc của nàng sao lại phải vùi xuống dưới nước; tấm lòng trong sạch của nàng lúc nào cũng không thẹn với chàng Kim. Giấc mộng đoạn trường khi đã tỉnh ra thì cái căn duyên cũng đã giũ sạch; tiếng đàn bạc mệnh tuy đã hết khúc mà nỗi oán hận vẫn còn dài. (Thế mới hay) một mảnh tài tình là cái lụy chung muôn đời. (Vậy thì) quyển Tân thanh này cốt để thương xót ai? (2)

    Bài thơ trên đây là bài thơ vịnh Kiều đầu tiên, cũng là bài tựa Truyện Kiều đầu tiên.

    Ngày từ khi ra đời, Truyện Kiều đã được dùng làm đề tài cho một trào lưu văn nghệ cung đình. Ngoài bài thơ đề từ của Phạm Quý Thích còn có những lời bình luận của Vũ Trinh và Nguyễn Lượng, bài tổng thuyết của Minh Mệnh, 30 bài thơ đề vịnh của Hà Tông Quyền, tập Kim Vân Kiều án của Nguyễn Văn Thắng, bài tổng từ của Tự Đức...

    Nhưng đánh giá cao nhất Truyện Kiều lại là một bài tựa Truyện Kiều, bài của Tiên Phong Mộng liên đường (3) viết vào cuối thời Minh Mệnh.

    Mộng liên đường hết sức đề cao tầm nhìn của Nguyễn Du, hết lời ca ngợi tấm lòng của Nguyễn Du: "Nếu không có con mắt trông thấu cả sáu cõ, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có các bút lực ấy (4). Có thể nói Mộng liên đường đã khám phá được tâm sự của Nguyễn Du vậy.

    Mộng liên đường cũng hết lời ca ngợi thiên tài nghệ thuật của Nguyễn Du thể hiện qua Truyện Kiều "Dẫu đời xa người khuất, không được mục kích tận nơi, nhưng lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía, ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột". (5)

    Cuối thế kỷ XIX, với bài tựa Đoạn trường tân thanh viết năm 1898, Đào Nguyên Thổ cũng hết sức đề cao thiên tài Nguyễn Du và nêu tác dụng kỳ diệu của Truyện Kiều:

    (Truyện Kiều) "Nói tình thì vẽ được hình trạng hợp ly cam khổ, mà tình không rời cảnh, tả cảnh thì bày hết thú vị tuyết nguyệt phong hoa mà cảnh tự vướng mình, mực muốn múa mà bút muốn bay, chữ hay phô mà câu hay nói, khiến người khóc, khiến người vui, khiến người buồn, khiến người giở đi giở lại ngàn lần, càng đọc thuộc lại càng không biết chán, thật là một khúc Nam âm tuyệt xướng. Ngày nay nào khách văn chương, bạn thoa quần, cho đến kẻ buôn bán, người thôn hào, không ai là không có một quyển Kiều cầm tay để thưởng thức. Ngay như cả những người không biết lấy một chữ mà cũng học thuộc dăm câu, cũng thường khi nằm khi ngồi đem ra ngâm ngợi. Ôi! Sao mà lại có thứ văn làm say người đến thế!..." (6)

    Thật đúng! Biết bao nhiêu người đã mê Truyện Kiều. Ngay Tự Đức tuy rất bất bình khi đọc những câu ca ngợi "tên giặc" Từ Hải (7) cũng phải nói:

    Mê gì? - Mê đánh tổ tôm
    Mê ngựa hậu bổ, mê nôm Thúy Kiều

    Nhưng mê Truyện Kiều thì không ai bằng Chu Mạnh Trinh. Chu Mạnh Trinh không chỉ mê Truyện Kiều, mê văn chương Truyện Kiều, mà chính là mê cả nàng Kiều, y như mê một giai nhân có thật.

    Chu Mạnh Trinh ca ngợi đạo đức Thúy Kiều là "Người thục nữ đủ đường hiếu nghĩa", ca ngợi tài sắc Thúy Kiều "hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh, vậy nên khách đa tình say chuyện phong lưu trăn măm cũ còn ghi tên tuổi hão, người chép sách tiếc vì tài sắc, ngàn thu sau còn nhặt chút phấn hương thừa". Chu Mạnh Trinh mơ tưởng sẽ dựng một ngôi nhà vàng cho Kiều, mơ tưởng mượn cỏ thơm gọi hồn Kiều về, rồi như thấy bóng Kiều hiện về đâu đó: "Hỡi ơi! Hồn còn biết hay chăng? Bóng hoàn bội tưởng ra vào Lạc Phố!" (8)

    Mê Kiều không ai bằng Chu Mạnh Trinh thì bênh vực Kiều, Chu Mạnh Trinh cũng đã bênh vực một cách tài tình hơn ai hết. Để bênh vực cái việc Kiều tự tiện thề thốt với Kim, Chu Mạnh Trinh đã mượn ý hai câu thơ cổ (9) tả một cái vườn đóng kín với một cành hạnh đỏ vươn ra ngoài tường nở hoa. Hoa hạnh đã nở ngoài tường chỉ vì sắc xuân trong vườn đầy dẫy không sao giữ lại được. Kiều tự tình với Kim thì chẳng qua cũng như bông hạnh kia. Ai lại nỡ khe khắt với một cành hoa vươn ra nở ngoài tường, nhất là nó vẫn giữ được tiết sạch giá trong: "Cũng có kẻ bảo tại nước chảy mây trôi lỡ bước, nên cành đưa lá đón quen thân. Nào biết đâu bông hạnh nở ngoài tường chưa để con ong qua tới".

    Nếu có nhiều người mê Truyện Kiều thì số người chê Thúy Kiều cũng không phải ít. Trong số những người ấy ta thường nhắc đến Nguyễn Công Trứ. Trong một bài hát nói, Nguyễn Công Trứ đã dõng dạc lên án Thúy Kiều:

    Bạc mệnh chẳng làm người tiết nghĩa
    Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm!

    Ai tà dâm? Người con gái phải bán mình chuộc cha hay người khách làng chơi đi tìm thú vui trụy lạc? Phong tình có tiếng như Nguyễn Công Trứ đáng lẽ nên dè dặt mới phải!

    Tản Đà rất thích Truyện Kiều nhưng đối với nhân vật Thúy Kiều, nhà thơ mang một thành kiến nặng nề thể hiện trong bài Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến:

    ... Đôi hàng nước mắt, đôi làn sóng
    Nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan
    Tổng đốc có thương người bạc phận
    Tiền đường chưa chắc mả hồng nhan...

    Thật là tàn nhẫn! Rõ ràng Tản Đà không thông cảm một chút nào với nỗi đau đớn của Thúy Kiều sau khi Từ Hải bị giết.

    Chê Thúy Kiều không chỉ có Nguyễn Công Trứ, Tản Đà mà còn nhiều nhà nho nữa. Ngay trong thôn xóm ngày xưa cũng lưu hành lời lên án Truyện Kiều:

    Đàn ông chớ kể Phan Trần
    Đàn bà chớ kể Thúy Vân Thúy Kiều

    Nói về thân phận Thúy Kiều, sư Tam Hợp có câu:

    Vậy nên những chốn thong dong
    Ở không yên ổn ngồi không vững vàng.

    Có thể nói lịch sử Truyện Kiều cũng long đong như thế!

    [...]

    Đúng là tiếng thơ ấy, yêu thương như tiếng ru của mẹ, thân thiết như tiếng gọi của quê hương, nghìn năm sau sẽ còn vọng mãi.


    -------------------------------------------------------------------

    (1) Cho đến nay vẫn chưa biết đích xác năm ra đời của Truyện Kiều.
    (2) Bản dịch trong quyển Truyện Kiều - Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích.
    (3) Tên thật là Nguyễn Đăng Tuyển, người huyện Tiên Du - Bắc Ninh (không rõ năm sinh và năm mất), đậu tú tài năm Minh Mệnh thứ 17, làm sử quán biên tu rồi tri phủ Thuận Thành (theo Lược truyện tác gia Việt Nam).
    (4, 5) Theo bản dịch của Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim.
    (6) Theo bản dịch của Trần Lê Nhân.
    (7) Tương truyền Tự Đức đòi đánh Nguyễn Du ba chục roi giá thử Nguyễn Du còn sống, vì Tự Đức không thể chịu được cái ngang tàng của Từ Hải.
    (8) Thanh Tâm tài nhân thi tập tự Đoàn Tư Thuật dịch.
    (9) Xuân sắc mãn viên quan bất trú
    Nhất chi hồng hạnh xuất tương lai
    (Sắc xuân đầy vườn đóng cửa không giữ được
    Một cành hồng hạnh vươn ra ngoài tường).
     
  8. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    Truyện Kiều: chuỗi nghĩa lịch đại, chuỗi nghĩa đồng đại

    --- không rõ tác giả ---


    Việc nghiên cưú, phê bình, tiếp nhận "Truyện Kiều" đã gần hai trăm năm mà vẫn chưa bao giờ kết thúc. Dù có ý thức hay không có ý thức, các nhà nghiên cứu và bạn đọc qua nhiều thời đại đã tiếp nhận "Truyện Kiều" và đem đến cho tác phẩm những cách hiểu khác nhau, những quan niệm khác nhau về giá trị của nó. Đó là những "Chuỗi nghĩa lịch đại" và "Chuỗi nghĩa đồng đại".

    Ngay từ khi mới ra đời "Truyện Kiều" đã được dân gian tiếp nhận khá đa dạng. Cảm nhận của dân gian về "Truyện Kiều" vừa gần gũi vừa thiêng liêng nhưng cũng rất chân thành với các hình thức bói Kiều, thơ vịnh Kiều, hát tuồng Kiều, diễn kịch Kiều... Người dân biết Kiều, hiểu Kiều, thưởng thức Kiều như thế nhưng họ đã từng bảo nhau:

    Đàn ông chớ đọc Phan Trần
    Đàn bà chớ đọc Thúy Vân, Thúy Kiều

    (Việt Nam văn học sử yếu - Dương Quảng Hàm)

    Tự Đức trong bài "Dục Tông Anh hoàng đế ngự chế tổng tứ" cũng đi đến kết luận giá trị cơ bản của "Truyện Kiều" là ở chỗ nó phát ngôn cho đạo đức phong kiến:

    Ngẫm lại cổ kim người hào kiệt
    Một thân mà gánh đạo cương thường
    Được thua sướng khổ, thôi đừng nói
    Hẵng đem lời ngọc phủ văn chương!

    Ở đây Kiều được tiếp nhận như là hiện thân của sự hy sinh thân mình để bảo vệ "luân thường đạo lý" phong kiến. Sức thuyết phục của "Truyện Kiều" đối với Tự Đức là rất đáng kể:

    Mê gì như đánh tổ tôm
    Mê ngựa hậu bổ, mê nôm Thuý Kiều

    (Vịnh Kiều)

    Đứng trên quan điểm đạo đức, tiêu biểu cho quan niệm "trung, hiếu, tiết, nghĩa", "tam cương, ngũ thường", Minh Mệnh trong bài "Thánh Tổ Nhân hoàng đế ngự chế tổng thuyết" đã ca ngợi Thúy Kiều là con người biết giữ tròn "đạo hiếu", "biết tiết, biết nghĩa".

    Nguyễn Văn Thắng cũng ca ngợi Thuý Kiều:

    Xét sau trước đủ trung trinh, tiết nghĩa

    Còn đối với Nguyễn Công Trứ thì trái lại, Thuý Kiều chẳng có hiếu hạnh, tiết nghĩa gì cả:

    Đã biết mà hồng thời phận bạc
    Trách Kiều nhi chưa vẹn tấm lòng vàng
    Chiếc quạt thoa đành phụ nghĩa Kim lang
    Nặng vì hiếu, nhẹ vì tình thời cũng phải.

    (Vịnh Kiều)

    để rồi

    Từ Mã Giám Sinh cho đến chàng Từ Hải
    Tấm thân tàn đem bán lại thanh lâu
    Bấy giờ Kiều còn hiếu vào đâu
    Mà bướm chán ong chường cho đến thế.

    (Vịnh Kiều)

    Nguyễn Công Trứ đã lên án Thúy Kiều một cách gay gắt:

    Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa
    Đoạn tường cho đáng kiếp tà dâm
    Bán mình trong bấy nhiêu năm
    Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai
    Nghĩ đời mà ngán cho đời.

    (Vịnh Thuý Kiều)

    Đứng trên quan đểm nhân sinh, quan điểm xã hội để bình luận, nhiều nhà tri thức không chịu sự ràng buộc bởi quan niệm đạo đức, lễ giáo phong kiến và ít nhiều bất mãn với xã hội đương thời thì trong chừng mực nào đó, họ tìm thấy hình bóng cuộc đời mình trong cuộc đời chìm nổi của Thuý Kiều. Phạm Quý Thích đã than thở:

    Đoạn trường mộng lý căn duyên liễu
    Bạc mệnh cẩm chung oán hậu trường

    "Caí nợ sầu của hai chữ tài tình tuy khác đời mà cùng chung một dạ..." là vậy. Chu Mạnh Trinh thì đau xót và cũng nói đến "tình thương người đồng điệu":

    Than ôi! Một bước phong trần mấy phen chìm nổi
    Trời tình mù mịt, bể hận mênh mông
    Sợi tơ nhành theo gió đưa đi
    Cánh hoa rụng chọn gì đất sạch

    (Vịnh Kiều)

    Chu Mạnh Trinh tỏ ra thông cảm và thương xót đối với cuộc đời bất hạnh của Thúy Kiều.

    Nếu như "Mộng Liên Đường chủ nhân" cắt nghĩa "Tài mà không được gặp gỡ, tình mà không được hả hê, đó là căn nguyên của hai chữ đoạn trường vậy" thì Chu Mạnh Trinh cao hơn một mức: ông cho rằng nguyên nhân sâu xa của bấy nhiêu đau khổ trong cuộc đời Thúy Kiều cũng như cái chết của Từ Hải là do bất công của xã hội. Chu Mạnh Trinh thì nhất định biện hộ cho Kiều trước những lời kết án gay gắt của những người đứng trên quan điểm phong kiến cố chấp.

    Còn Nguyễn Khuyến thì nhận thức sâu sắc về thế lực ma quái của đồng tiền. Đó là nguyên nhân sâu xa của muôn vàn tội ác:

    Số kiếp ở đâu mà lận đận
    Sắc tài cho lắm cũng lôi thôi
    Cành hoa vườn Thúy duyên còn bén
    Ngọn nước sông Tiềh nợ chẳng xuôi

    (Tống vịnh Kiều)

    Nhưng Tản Đà lại thông cảm với nỗi lòng đầy bi kịch của Thúy Kiều:

    Đôi hàng nước mắt đôi làn sóng
    Nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan

    (Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến)

    Phạm Quỳnh cũng ca ngợi Thúy Kiều "phong tình mà tiết hạnh". Phạm Quỳnh đã lớn tiếng rằng: "Một nước không thề không có quốc hoa, "Truyện Kiều" là quốc hoa của ta, một nước không thể không có quốc tuý, "Truyện Kiều" là quốc túy của ta, một nước không thể không có quốc hồn, "Truyện Kiều" là quốc hồn của ta... Truyện Kiều còn tiếng ta còn, có gì mà lo, có gì mà sợ" (Nam Phong tạp chí)

    Phạm Quỳnh cho rằng "Thúy Kiều có cái đức nghiêm của người phụ nữ mà lại có cái vẻ phong tình của khách phong lưu, đức hạnh đủ khiến kính, tài tình đủ khiến yêu, giá trị đủ khiến quý, thân thể đủ khiến thương, vì cảnh ngộ mà nặng kiếp đào hoa, trọng tình ý vẫn người tiết nghĩa ; ở nơi ô nhục mà vẫn giữ được tiết hạnh thanh cao, gặp gian nan mà không hề đắm đuối, Kiều nương thật là gồm được bấy nhiêu tư cách nên ai cũng phải kính, phải thương, phải yêu, phải trọng" (Nam Phong số 30-1919)

    Cụ Huỳnh Thúc Kháng lại ví "Truyện Kiều" với chiếc hộp sơn son thiếp vàng, "Về mặt mỹ thuật rõ là cực tốt, mà ở trong lại đựng những vật có chất độc". Rồi mấy lần cụ gọi Thúy Kiều là "Con đĩ Kiều", "Cái giống độc con đĩ Kiều"

    Theo trai gác xỏ lời cha mẹ
    Làm đĩ đành phận kiếp ngựa trâu.

    Cụ Huỳnh Thúc Khánh cho rằng: "Chuyện phong tình hồi tâm kia không đáng làm sách dạy, gieo cái nộc gió trăng hoa liễu trong tâm não thiếu niên nam nữ ta". (Tạp chí Tiếng Dân - 1934)

    Do ý thức yêu nước và quan niệm đạo đức phong kiến, Ngô Đức Kế cho rằng "Truyện Kiều tuy hay mà truyện là truyện phong tình, thì cái vẻ ai, dâm, sầu, oán, đạo dục, tăng bi, tám chữ ấy không tránh đằng naò cho khỏi. Thế mà ngày nay đức văn sĩ giả dối ta biểu dương "Truyên Kiều" lên để khai hoá cho quốc dân, đem "Truyện Kiều" mà làm sách "Quốc văn giáo khoa" (sách dạy), làm sách "Sư phạm giảng nghĩa" (sách thầy)". Ông còn chê Phạm Quỳnh là "Một anh giả dối lóp lép đứng đầu sùng bái Kiều, một bọn u mê hờ hững gào hơi, ráng sức để hoạ theo, còn một lớp người chỉ nghe lóm, nhìn mồm thì vỗ tay tán thưởng, khiến người bịt tai, bưng mũi, phải nhức đầu long óc vì những tiếng hô "Quốc văn! Kim Vân Kiều! Nguyễn Du!".

    Ngô Đức Kế còn cho rằng "Truyện Kiều là sách quốc văn ăn vào trong óc, thấm vào trong đầu tỉ như ngoại tà đã nhập vào ngũ tạng, quỷ tà ám mất linh hồn thời dù lang y giỏi đến đâu, pháp sư cao tay ấn đến đâu cũng không cưú được nữa" (tạp chí Hữu Thanh - 1924)

    Hoài Thanh thì nói về "Truyện Kiều" như sau: "Cái đẹp ở "Đoạn trường tân thanh", cái chất thơ bàng bạc ở trong "Truyện Kiều" cũng cần phải được cảm thấy một cách hồn nhiên. Cứ phân tích, cứ giảng giải, nó sẽ tan đi. Đến đây phải im hơi, phaỉ nhẹ bước mới hòng nhận thấy cái đẹp khi dịu dàng, thùy mị, khi tráng lệ, huy hoàng" (Nghìn thu vọng mãi Hoài Thanh. Tháng 3-1974)

    "Truyện Kiều" trước hết là tiếng kêu bi thương, một lời nguyền rủa, một giấc mơ, tất cả bắt nguồn từ tấm lòng yêu thương vô hạn đối với con người.

    Tiếp nhận "Truyện Kiều" qua "cảm hứng tố cáo chế độ phong kiến", Hoài Thanh đề cao "Từ Hải đã thực hiện một cách gián tiếp ước mơ có lẽ tha thiết nhất trong cuộc đời của Nguyễn Du". Đó chính là ước mơ công lý "Giữa cuộc đời cơ cực của Kiều, Từ Hải đã xuất hiện như một vì sao lạ làm sáng rực cả đời Kiều"

    Lan Khai cho rằng cái đẹp của "Truyện Kiều" là ở chỗ nó diễn đạt được "cái hay nhất của lòng người qua thời gian, cái con người vĩnh viễn":

    Vầng trăng ai xẻ làm đôi
    Nửa in gối chiếc nữa soi dặm trường
    Lưu Trọng Lư tiếp nhận "Truyện Kiều với đầy đủ nghĩa "Kiều như một người của nhân tính muôn thuở".

    Xuân Diệu, với tư cách là một nhà thơ, ông có những rung động thật rằng "Chết mà không nhục, mà còn đánh lại quân thù cho đến hơi thở cuối cùng, rồi ngang nhiên đứng sững đó. Từ Hải chết đứng, bao nhiêu người vùng lên đã bao phen chết đứng. Nhưng qua đời này đến đời nọ, gián tiếp rồi trực tiếp, họ đều đóng góp cho cuộc cách mạng cuối cùng thành công: cách mạng vô sản!"

    Đó chính là cảm hứng xuất phát từ hiện thực rối ren, thối nát của một thời đại đã qua. Nhưng ý kiến tiếp nhận của Trần Trọng Kim lại khác, ông viết "Tình ái như Kiều, trước sau biết nặng lời non nước, biết lấy hiếu làm trinh, biết nhân, biết nghĩa, thì làm sao không cho là luân lý cho được ?" (Minh Văn và Xuân Tước - 1964)

    Đó là những "lời nói", những "giá trị" đã tạo nên chuỗi nghĩa trong lịch sử tiếp nhận "Truyện Kiều" - "chuỗi nghĩa lịch đại".

    Từ sau 1945 đến nay, việc phê bình và tiếp nhận "Truyện Kiều" không đặt ra vấn đề luân lý, đạo đức, không đi vào những chi tiết vụn vặt, không tuyệt đối hoá giá trị văn chương của "Truyện Kiều", không thần bí hoá thiên tài nghệ thuật của Nguyễn Du.

    Ở Nguyễn Du, nếu là một tâm hồn không bị sóng gió vùi dập, một trái tim không hồi hộp trước những nỗi đắng cay của bức tranh thế sự, một lương tâm không phẫn nộ trước những thói đời vô nhân bạc nghĩa, thì nghệ sĩ, dẫu có tài ba lỗi lạc đến đâu cũng không tìm ra được nhưng âm điệu, những vần thơ khiến cho người đọc trong cuộc nghe như khóc, như than, như uất ức, như oán hờn.

    Chế Lan Viên thì thổn thúc trước số phận nàng Kiều:

    Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
    Sắc tài sao mà lắm truân chuyên
    Bỗng quý Kiều như đời dân tộc
    Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường

    (Văn học lớp 10)

    Lê Đình Kỵ lại có ý kiến thật là khác lạ: "Nguyễn Du không nặn ra một Thúy Kiều để làm rạng danh cho vấn đề đạo đức (tức nói về trung, hiếu, tiết, nghĩa) mà Nguyễn Du xây dựng nhân vật Thuý Kiều theo cái riêng của mình, khác xa chế độ phong kiến".

    Đặng Thanh Lê cho rằng: "Truyện Kiều là một thành tựu đạt đến giá trị mẫu mực cổ điển. Kiệt tác văn học đã tở thành sự kiện văn hoá lớn, thành một tổng thể giá trị văn hoá cộng đồng, xuất hiện và tái sinh trong nhiều lĩnh vực văn hoá khác của một đất nước".

    Nhận xét về Thúy Kiều, Nguyễn Lộc viết: "Thúy Kiều không còn là con người bình thường mà phải là một nhân cách, một thước đo, một nguyên lý cuộc sống để mọi giá trị thực hay giả của đời sống đối chiếu với nó hay soi mình vào đó sẽ bộc lộ tất cả những bản chất tuyệt vời, cao đẹp hay bỉ ổi, xấu xa không thể nguỵ trang che dấu được".

    Mạnh Quân thì bộc bạch cảm nghĩ riêng: "Truyện Kiều dù nhiều người khen tôi vẫn không thích vì các nhân vật trong đó chẳng có mống nào ra hồn, toàn thứ thư sinh ẻo lả hay man trá, lưu manh, chỉ được chút Từ Hải thì lại vì quá mê gái mà tiêu tan sự nghiệp và tính mạng" (Truyện ngắn: Thần tượng của tôi)

    Các nhà lý luận văn học lại nhận xét: "Truyện Kiều là vấn đề số phận con người bị áp bức trong xã hội, đồng thời là tiếng nói nhân đạo chủ nghĩa cất lên tha thiết từ xã hội đó. Đó là tiếng nói của tầng lớp người đau khổ, đòi tự do yêu đương, đòi công lý".

    "Chuỗi nghĩa lịch đại" và "Chuỗi nghĩa đồng đại" để trên đã tạo nên lịch sử tiếp nhận "Truyện Kiều". Lịch sử tiếp nhận "Truyện Kiều" sẽ còn được nối tiếp bằng ý kiến của bạn đọc hiện tại cũng như bạn đọc trong tương lại, kể cả "các bạn đọc" ở dưới mái nhà trường.
     
  9. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    Đòn ghen của Hoạn Thư
    Võ Thu Tịnh
    12/11/2005


    Một bi hài kịch chống tục đa thê

    Hoạn Thư là một nhân vật trong "Đoạn Trường Tân Thanh" của Nguyễn Du (1765-1820), cốt chuyện dựa vào quyễn "Kim Vân Kiều" của Thanh Tâm Tài Nhân, mà nhân dịp đi sứ ở Trung Hoa (1813) cụ đã đem về nước. Đầu đuôi chuyện Hoạn Thư đánh ghen Kiều thế nào? Tưởng có thể tóm lược lại như sau:

    Vương viên ngoại có hai gái Thúy Kiều và Thúy Vân rất đẹp. Nhân tiết thanh minh, Kim Trọng gặp Kiều, cả hai "tình trong như đã, mặt ngoài còn e ". Kim Trọng liền mượn cớ du học thuê nhà cạnh vườn họ Vương. Kiều và Kim Trọng có dịp hội ngộ, trao tặng thoa và quạt làm tin.

    Cha mẹ và cả nhà về quê ngoại, Kiều cáo bệnh không đi, đêm sang nhà Kim Trọng, cùng thề ước sẽ lấy nhau. Bất ngờ Kim Trọng phải về Liêu Dương phục tang. Trong lúc ấy, nhà họ Vương mắc nạn. Kiều quyết hy sinh bán mình cho Mã Giám Sinh để có tiền chuộc cha, rồi nhờ em là Thúy Vân thay nàng đáp tình Kim Trọng.

    Mã Giám Sinh lừa Kiều đưa vào lầu xanh. Kiều không chịu, bị Tú Bà đánh đập, nàng rút dao tự tử nhưng không chết. Tú Bà lo thuốc men, hứa gả chồng cho nàng. Kiều mắc mưu Sở Khanh dẫn đi trốn, bị Tú Bà bắt lại đánh đòn tàn nhẫn, cuối cùng nàng phải chịu tiếp khách.

    Thúc Sinh đã có vợ là Hoạn Thư, con quan Lại bộ, nhưng chàng lấy cớ theo cha kinh doanh, để đi xa vợ cho được tự do ăn chơi. Thúc Sinh đến lầu xanh gặp Kiều, nghe nàng đàn và họa thơ, thì say mê, bỏ tiền chuộc ra. Thúc ông biết con trai ăn ở với một gái giang hồ liền làm đơn kiện. Quan phủ xử phạt Kiều phải chọn hai điều: "Một là cứ phép gia hình. Một là lại cứ lầu xanh phó về". Kiều xin chịu "gia hình" bị đánh roi, nhất quyết không thuận trở về lầu xanh. Thúc Sinh thấy Kiều bị đòn tơi tả, động lòng khóc rằng: "Kiều đã nhiều lần khuyên chàng phải về xin phép cha và vợ cả, vì chàng không chịu nghe nên mới xảy ra oan khốc này!" Quan phủ hỏi lại nguồn cơn, rồi khen rằng: "Trăng hoa song cũng thị phi biết điều! " Lại nghe Kiều có ăn học, nên bảo làm một bài thơ vịnh cái gông mà Kiều đang mang ở cổ. Kiều tuân lệnh, làm xong trình lên, phủ đường khen hay và khuyên cha Thúc Sinh: "Ngoài thì là lý, song trong là tình", rồi truyền cho phép Thúc Sinh cưới Kiều làm bé. Thương vì nết, trọng vì tài của Kiều, Thúc ông chấp thuận.

    Vợ Thúc Sinh là Hoạn Thư, vốn con nhà quan, phong cách lịch sự, khôn ngoan:

    Ở ăn thì nết cũng hay,
    Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.

    Nàng ứng xử khéo léo, đúng khuôn phép, nhưng khi cần ra tay đối phó, nàng cũng thừa đủ mưu chước, thủ đoạn để làm cho ra lẽ mới thôi.

    Thúc Sinh vắng nhà đã một năm. Trong thời gian ấy, nghe được tin chồng lấy Kiều, miệng người đã lắm, tin nhà thì không, Hoạn Thư vẫn nhẫn nhịn, nhưng càng nhẫn nhịn, càng thấy căm tức, đau khổ. Nàng cho đó là trò trẻ con, làm sao Thúc Sinh có thể giấu được mãi. Nếu Thúc Sinh biết điều, xin phép, nàng cũng sẽ ưng thuận, để tỏ ra là một chính thất hiền đức, khoan dung.

    Thế kẹt của Hoạn Thư

    - Tuy vậy, là người khôn ngoan, hiểu biết, Hoạn Thư hẳn cũng thấy rằng mình hiện đang ở vào thế kẹt lớn: Cha Thúc Sinh và quan trên đã chính thức cho phép Thúc Sinh cưới Kiều rồi. May mà Thúc Sinh hèn nhát, quen thói sợ vợ, nên chưa dám nghĩ đến việc cùng cha đưa Kiều về nhà nàng. Nếu ở trường hợp ấy, nàng cũng khó mà từ chối.

    Hoạn Thư lại còn bị một thế kẹt nữa là nàng không có con. Đó là một cớ trong "thất xuất" ngày xưa để người đàn ông ly dị vợ (không con, dâm đãng và biếng nhác, bất hiếu với cha mẹ chồng, lắm điều, trộm cắp, ghen tuông, có ác tật). Đã không con mà còn cản không cho chồng lấy vợ bé để có con thừa tự nhà chồng, là bất hiếu ("Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại" : có ba điều bất hiếu với cha mẹ, mà điều lớn nhất là"vô hậu", không có con nối dòng). Rồi nếu sinh chuyện gây gổ, hành hung thì còn bị ghép vào tội ghen tuông trong "thất xuất" nữa.

    Cho nên, Hoạn Thư phải làm cách nào tránh không để cho ai có thể buộc mình vào các tội bất hiếu, ghen tuông thất lợi cho nàng. Điều đó cũng không khó khăn gì cho lắm, vì nàng vốn là con nhà nề nếp, có ghen cũng không dại gì ra mặt đánh ghen một cách lỗ mãng vũ phu, đã trái với gia phong, mà còn rước tiếng ghen vào người, cho thiên hạ cười chê. Điều khó, là Hoạn Thư phải làm sao cho Thúc Sinh phải tiếp tục giấu.

    Làm cho Thúc Sinh tiếp tục giấu, tức là chàng không mở miệng xin lấy Kiều, Hoạn Thư sẽ có thời gian dùng tình cảm lôi kéo chồng, làm cho chồng quên Kiều mà trở lại với nàng.

    Giải pháp tình cảm

    - Về phần mình, Hoạn Thư cũng giấu không cho ai biết là nàng đã biết việc Thúc Sinh lấy Kiều. Trái lại, nàng cố làm cho mọi người tưởng nàng đã triệt để tin vào lòng thủy chung của Thúc Sinh. Thủ hạ đứa nào báo tin Thúc Sinh có vợ bé, đều bị Hoạn Thư sai vả miệng bẻ răng. Sau một năm, theo lời Kiều khuyên, Thúc Sinh về nhà, định bụng xin phép cưới Kiều. Hoạn Thư dư biết, song không gây gổ, giận dữ, hay tra gạn gì, mà vẫn một mực vui vẻ, chiều chuộng, âu yếm, tỏ ra tin yêu, quí trọng chồng. Nàng còn cho Thúc Sinh biết ở nhà thiên hạ xấu miệng dèm pha chàng có vợ bé, mà nàng đâu có tin những lời xuyên tạc vu vơ ấy. Nàng không để cho bị lung lạc, làm tổn thương đến tình nghĩa vợ chồng, để phải mang tiếng xấu chung. Thúc Sinh thấy vợ không nghi ngờ gì, thì:

    Nghĩ đà bưng kín miệng bình.
    Nào ai có khảo mà mình lại xưng!

    Nhưng suốt một năm trời nàng tận lực dùng tình cảm giành lại chồng mà vẫn vô hiệu quả. Trái lại, Hoạn Thư nhận thấy Thúc Sinh càng ngày càng tưởng nhớ, yêu thương Kiều.

    Một năm trời nàng và Thúc Sinh sống với nhau có vẻ êm ấm, thuận hòa, đó chỉ là một cảnh "đồng sàng dị mộng", gần gũi xác thân mà không hảo hợp tâm hồn, ngàn lần sầu thảm, thê thiết, tủi thân hơn cả cảnh chồng lén đi khuất mắt ở riêng với vợ bé nào đó!

    Giải pháp cứng rắn

    - Nhu không được thì phải cương. Bây giờ phải cứng rắn đối phó thế nào làm cho Thúc Sinh và Kiều phải xa nhau: Hoặc làm cho Kiều biến đi, hoặc làm Kiều tự ý bỏ đi.

    1- Làm cho biến đi

    tức là làm cho mất tích, không tìm ra được, hay "thủ tiêu" (ám sát) như trong cổ tích "Vợ hai ghen ngược vợ cả" sau đây:

    "Xưa có một người lấy hai vợ. Hai người ngày nào cũng cãi nhau, đánh nhau, chồng không sao chịu được, cho mỗi người ở riêng một nhà, nhưng không cách xa nhau mấy. Có một thời gian, người chồng đi buôn bè vắng, vợ cả nghe thấy vợ hai ở bên nhà nghêu ngao hát rằng: "Chồng chung, chồng chạ, ai khéo hầu hạ, thì được chồng riêng! Chi mà sợ, chi mà kiêng!" Vợ cả biết nó gây sự với mình, tuy tức giận như vẫn làm thinh không nói năng gì.

    Hôm sau về nhà kể chuyện cho mẹ, cho em nghe. Mẹ khuyên: "Một sự nhịn là chín sự lành. Con đừng đối đáp nó làm gì. Đợi chồng con về sẽ hay!" Em gái cũng bảo rằng: "Cần chi phải để tâm. Người ta thường nói: Dù anh năm bảy nàng hầu, Em đây cũng cứ ngồi đầu chính thê". Vợ cả nghe mẹ, em nói như thế, nên không gây gổ gì với vợ hai.

    "Không ngờ vợ hai lại thuê côn đồ bắt vợ cả đem đi giết chết, chôn một nơi, rồi sẵn có thây chết trôi sông, chúng lôi bỏ vào nhà vợ cả phóng lửa đốt cháy. Sau chồng về, tưởng vợ cả bị chết vì nhà cháy, rất thương xót, không nghi ngờ gì.

    "Một hôm ngồi trong hiên trông ra, vợ hai đang giặt áo quần ngoài ao, bỗng có con xanh xanh bay đến đậu trên cây hót to lên:

    Phơi áo chồng tao thì phơi trên sào,
    Đừng phơi hàng rào, tao cào mặt ra.

    "Người chồng nghe phảng phất như tiếng vợ cả xưa, liền đến gốc cây, rũ tay áo ra nói rằng:

    Xanh xanh kia hỡi xanh xanh!
    Có phải vợ anh, chui vào tay áo!

    "Thì quả nhiên chim xanh xanh bay vào trong tay áo thật, rồi một chốc biến đâu mất. Người chồng nghi ngờ, đem vợ hai ra tra khảo. Vợ hai phải thú tội, rồi sợ quá, đến đêm ra đâm đầu xuống ao tự tử." (1)

    Nhưng Hoạn Thư không giết Kiều như ở cổ tích nầy, nhưng...

    2- Làm cho Kiều tự ý bỏ đi,

    là chủ đích trọng yếu của Hoạn Thư. Trong kế hoạch nầy, đoạn đầu, (phải chăng do một trùng hợp nào?) lại giống như cốt truyện trong cổ tích trên, nhưng khác nhau là sau khi bắt cóc xong, nàng không giết Kiều mà tìm cách làm cho Kiều và Thúc Sinh phải bị nhục nhã, ê chề cho hả dạ trước đã:

    Làm cho nhìn chẳng được nhau
    Làm cho đày đọa cất đầu chẳng lên
    Làm cho trông thấy nhãn tiền
    Cho người thăm ván bán thuyền biết tay!

    Nàng mớm ý cho Thúc Sinh nên về Lâm Tri thăm cha cho phải đạo làm con. Khi Thúc Sinh vừa ra khỏi nhà, Hoạn Thư liền về bàn với mẹ sai hai tên Khuyển và Ưng đi đường tắt đến bắt cóc Kiều. Xong, đốt nhà, ném một thây chết vô chủ vào lửa để phi tang, xông thuốc mê cho Kiều ngất đi, nhưng không đem Kiều về nhà Hoạn Thư ngay cho khỏi bị lộ, mà đem về nhà mẹ nàng.

    Khi Kiều tỉnh dậy, mẹ của Hoạn Thư tra gạn lý lịch, Kiều vừa khai vốn là con nhà khá giả... thì bà liền cắt lời, quát mắng Kiều là đồ "trốn chúa lộn chồng" mà đến đây còn phách lối, và sai đánh 30 gậy để cho "biết tay một lần", rồi đổi tên Kiều ra "Hoa Nô" (đứa ở gái), ghép vào hàng tôi tớ trong nhà. Mụ quản gia thương tình thuốc men, an ủi và dặn Kiều rằng:

    Ở đây tai vách mạch rừng,
    Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi!

    Mấy ngày sau, Hoạn Thư đến thăm mẹ, nói cần một nữ tỳ. Bà mẹ sai Hoa Nô qua nhà Hoạn Thư giúp việc. Một hôm, Hoạn Thư hỏi Kiều nghề chơi biết được môn gì? Kiều thưa biết chơi hồ cầm. Nàng đưa đàn cho Kiều gảy. Nghe tiếng đàn:

    Nỉ non, thanh thót, dễ say lòng người!
    Tiểu thư xem cũng thương tài,
    Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.

    Bản Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Tử (2) cũng kể như vậy, nhưng nói rõ hơn là "Tiểu thư nghe xong tỏ ý vui mừng, bảo ngươi đã giỏi ngón đàn, vậy thì từ đây về sau cứ ở bên ta, để lúc thư nhàn giúp thêm cảm hứng, khỏi phải ở lẫn trong đám tôi đòi như trước. Kiều ngỏ lời cảm tạ tiểu thư có lòng cất nhắc, từ hôm ấy, ngày đêm được ở bên cạnh tiểu thư, nhờ có cung đàn cũng tạm bớt được nỗi bất bình".

    Thúc Sinh khi về thăm cha, thấy Kiều bị thiệt mạng vì nhà cháy, buồn rầu, than khóc một thời gian, rồi trở về quê. Hoạn Thư vồn vã đón Thúc Sinh vào nhà. Vợ chồng hàn huyên xong, Hoạn Thư cho gọi Hoa Nô ra chào ông chủ. Kiều sửng sốt, không ngờ đây là Thúc Sinh, biết ngay mình đã bị sa vào tròng rồi. Sực nhớ đến lời dặn của mụ quản gia, Kiều đành phải cúi đầu quì xuống thi lễ. Thúc Sinh chợt nhìn thấy Kiều thì phách lạc hồn xiêu, thấy mình đã bị mắc mưu Hoạn Thư, biết làm sao mà cứu nhau được, quá xúc động nước mắt tuôn ra tràn trề.

    Hoạn Thư gạn hỏi:

    - Mới về mà chàng có việc gì phải động lòng như thế?

    Thúc Sinh dối rằng:

    - Vì mẹ mất sắp hết tang, bỗng nhớ lại thân mẫu ngày trước mà ứa lệ.

    Hoạn Thư rằng: Nếu quả những giọt nước mắt của chàng vì thương thân mẫu nên mới trào ra, thực cũng đáng khen là bậc hiếu tử! Vậy thiếp xin bày tiệc rượu "tẩy trần" để chàng giải khuây (tiệc mừng "rửa bụi" cho người đi đường xa đến thăm).

    Rồi : Vợ chồng chén tạc, chén thù,
    Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.
    Bắt khoan, bắt nhặt đến lời,
    Bắt quì tận mặt, bắt mời tận tay.

    Thúc Sinh : ...Lại càng như dại, như ngây,
    Giọt dài, giọt ngắn, chén đầy, chén vơi.
    Ngảnh đi, chợt nói, chợt cười,
    Cáo say, chàng đã tính bài lảng ra.

    Thúc Sinh thấy không sao chịu nổi, muốn xô bàn rượu mà ôm lấy Kiều để khóc rống lên, nhưng... sợ vợ, nên không dám. Hoạn Thư thì cứ ngọt ngào mời mọc, mà chàng thì một mực cứ chối từ. Hoạn Thư liền thét bảo Kiều:

    Khuyên chàng chẳng cạn, thì ta có đòn!

    Thúc Sinh rụng rời chân tay, đành phải gắng uống cho hết một chén to đầy rượu. Tiệc chưa xong, Hoạn Thư đã bày ra trò khác: bảo Kiều đem đàn ra gảy cho Thúc Sinh nghe:

    Bốn giây như khóc, như than,
    Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.
    Cùng trong một tiếng tơ đồng,
    Người ngoài cười nụ,
    Người trong khóc thầm!

    Hoạn Thư lại quát mắng:

    - Hoa Nô! Tiệc vui mà ngươi lại đàn bài đoạn trường. Sao chẳng biết ý tứ gì? Làm cho ông buồn, tội ngươi khó tha!

    Thúc Sinh kinh hãi sợ Kiều bị hành hạ,vội vàng gượng nói, gượng cười cho qua... Tấn bi hài kịch kéo dài mãi đến canh ba:

    Tiểu thư nhìn mặt, dường đà cam tâm,
    Lòng riêng khấp khởi mừng thầm :
    "Vui nầy đã bõ đau ngầm xưa nay!".

    Hoạn Thư đau khổ suốt hai năm trời, nay chỉ đứng đạo diễn tấn bi hài kịch nầy chưa trọn một đêm mà đã hả lòng. Nhưng nàng lại thấy rằng để Thúc Sinh và Kiều ở gần nhau mãi cũng rắc rối. Phải làm thế nào cho Kiều tự ý bỏ đi, không đợi nàng mở miệng xua đuổi.

    Thế rồi, thường thấy đôi mắt Kiều sưng và đầy nước mắt, Hoạn Thư bảo Thúc Sinh tra khảo vì nguồn cơn gì ? Kiều viết tờ khai, đại ý nói quê nàng ở Bắc kinh, vì cha bị oan khiên, phải bán mình và bị lừa vào thanh lâu, có người chuộc ra làm vợ, rồi chồng đi vắng bị bắt đưa vào cửa nhà quan... buồn khổ, mong được vào chùa tu cho nhẹ nợ trần. Đọc tờ khai xong, Hoạn Thư:

    Dường có ngẩn ngơ chút tình.
    Rằng: Tài nên trọng, mà tình nên thương!
    Ví chăng có số giàu sang,
    Giá nầy dẫu đúc nhà vàng cũng nên.
    Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
    Hữu tài, thương nỗi vô duyên lạ đời!

    Hoạn Thư đồng ý cho Hoa Nô vào Quan Ăm các sau vườn để chép kinh.

    Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Tử, cũng kể y như thế, song đầy đủ chi tiết hơn: "Hôm sau, Thúc Sinh cùng Hoạn Thư tắm gội trai giới, cùng lên kiệu để tiễn Thúy Kiều vào Quan Ăm các. Nàng toan thi hành đại lễ (bái phục), tiểu thư rằng: "Bây giờ ngươi đã là hạng thượng nhân (tu đạo), chép kinh thay ta để tròn ý nguyện, tức là đệ tử của Phật, không cần thi hành đại lễ ấy nữa". Hoạn Thư khấn rằng: "Trước kia đã hứa sao lục bộ Hoa Nghiêm kinh, nay xin..." Vừa khấn đến hai tiếng trên, thì tiểu thư bỗng nhiên ngừng lại, quay hỏi Thúc Sinh: "Trước đức Bồ Tát mà nói hoa nô (đứa ở gái) chép thay, há chẳng khinh nhờn quyển kinh đó sao?" Thúc Sinh đáp: "Nếu nói về danh phận người chép kinh, thì nên xưng là cúng dạng mới phải." Hoạn Thư nói: "Nghĩ nên thay cho nàng một đạo hiệu gì?" Thúc Sinh nhìn trên biển treo thấy có hai chữ "Trạc Tuyền" bèn bảo vợ: "Thôi lấy hai chữ ấy đặt đạo hiệu cho nàng". Hoạn Thư khấn tiếp: "Nguyên trước đệ tử hứa chép bộ Hoa Nghiêm kinh, nay đặc biệt trao cho cúng dạng Trạc Tuyền, một tay sao lục, hôm nào hoàn thành, xin tu bổ công đức". Khấn xong Hoạn Thư truyền bảo hai nữ tỳ Xuân Hoa, Thu Nguyệt rằng: "Chép kinh không phải công việc tầm thường, hai ngươi phải siêng năng phục dịch, nếu có lỗi lầm, khi ta xét thấy, nhất định sẽ trị tội nặng." Hai thị nữ cúi đầu vâng dạ. Đoạn hai vợ chồng Thúc Sinh quay ra. Thúy Kiều toan đi tiễn chân. Hoạn Thư bảo: "Thôi, cứ ở lại chép kinh, đừng câu nệ lễ nghi lai vãng." (3)

    Rồi Hoạn Thư tạo hoàn cảnh cho Kiều bỏ trốn. Nàng tuyên bố về thăm mẹ. Thúc Sinh tưởng thật, lén đến chùa cùng Kiều kể lể, than khóc dông dài. Kiều hỏi có cách gì cứu nàng không? Thúc Sinh chỉ trả lời:

    Liệu mà xa chạy, cao bay,
    Ái ân ta có ngần nầy mà thôi!

    Vừa lúc đó, Hoạn Thư bước vào, cười cười nói nói ngọt ngào, hỏi Thúc Sinh "mới ở chốn nào lại đây?" Thúc Sinh đáp đi dạo ngắm hoa, quá bước tạt vào coi viết kinh thế nào.

    Hoạn Thư liền cầm bản chép kinh xem:

    Khen rằng: Bút pháp đã tinh,
    So vào với thiếp Lan-đình, (4) nào thua!
    Tiếc thay lưu lạc giang hồ,
    Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài!

    Hoạn Thư và Thúc Sinh ra về, Kiều hỏi hai tỳ nữ Hoạn Thư đến lúc nào? Đáp bà đến đã lâu, núp nghe câu chuyện giữa hai người từ đầu chí cuối. Kiều sợ hãi vô cùng, nghĩ rằng Hoạn Thư quả là một con người rất thâm độc, ở lâu chắc khó toàn tánh mạng. Câu "liệu mà xa chạy cao bay!" của Thúc Sinh lại hiện ra trong trí nàng. Phải, nàng phải tìm cách trốn thoát ra khỏi nơi nầy mới yên thân, nhưng đất khách quê người, ra đi tay không, ai mà chứa chấp? Buộc lòng nàng phải lấy trộm các đồ thờ bằng vàng, bạc trên bàn Phật đem theo hộ thân. Rồi thừa lúc hai nữ tỳ ngủ say, Kiều leo tường trốn đi. Nhưng Hoạn Thư bỏ qua, không cho người lùng bắt Kiều.

    *
    Về đòn ghen của Hoạn Thư, Nguyễn Du cho đó là một đòn: "nhẹ như bấc, nặng như chì " (câu 1879) và chỉ than một câu "Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen" (câu 1874). Còn những lời chỉ trích Hoạn Thư như "tinh ma, miệng hùm nọc rắn, nham hiểm giết người... " là của Kiều, nạn nhân của Hoạn Thư, chủ quan thốt ra. Rồi, vì thương Kiều, chúng ta hùa nhau lặp lại như thế mãi cho đến ngày nay. Có ai thông cảm được với nỗi đoạn trường của Hoạn Thư, một nạn nhân đáng thương của chế độ đa thê hà khắc ngày xưa không?

    Có người chồng ngoại tình, địch thủ lại tài hoa, nhan sắc hơn mình, cha chồng và quan trên tác hợp, còn mình, vợ cả, lại bị luật lệ "thất xuất", lễ tục "phụ quyền" kiềm cặp, ràng buộc. Tưởng không có nỗi đau khổ, uất ức, nhục nhã nào hơn!

    Mà "đố kỵ, ghen tuông là một trong bản chất con người tư hữu và chiếm hữu. Tình yêu là thứ đòi hỏi chiếm hữu mãnh liệt nhất. Nhất là khi đã thành vợ chồng, vì được luật pháp cho phép. Thúc Sinh đã tự ý làm mất sự phối hiệp giữa chàng và Hoạn Thư, nên Hoạn Thư đòi lại, thế thôi! Dù thương Kiều bao nhiêu, ta cũng khó trách cứ Hoạn Thư về mặt nầy. Nàng quá nặng tay với Kiều chăng? Có thể, nhưng nếu không thế thì làm sao dứt được Thúc Sinh khỏi Kiều? " (5)

    Thật ra, từ khi Kiều bước chân vào nhà Hoạn Thư cho đến khi bỏ trốn, Hoạn Thư không hề đánh Kiều một roi nào. Cách hành hạ trả thù của Hoạn Thư không phải là làm cho Kiều phải đau đớn mà làm cho Kiều phải nhục nhã, và Thúc Sinh phải lộ chân tướng hèn nhát, bội bạc ra:

    Liệu mà xa chạy cao bay,
    Ái ân ta có ngần này mà thôi!

    Khiến cho tình nghĩa giữa Thúc Sinh và Kiều ắt phải bị tan vỡ từ đây.

    Con người Hoạn Thư thiện ác thế nào? Một buổi tối làm cho Kiều và Thúc Sinh phải ê chề nhục nhã, Hoạn Thư đã hả lòng. Từ đó, nàng hòa hoãn hơn. Hai lần nàng nói với Kiều, ngay trước mặt Thúc Sinh, rằng nàng trọng tài, quí nết, cùng xót thương cho số phận truân chuyên của Kiều. Điều nầy, có kẻ cho là giả dối, nhưng riêng chúng tôi, thì thấy rằng Hoạn Thư đã có phần thành thật, vì nàng đâu có bắt buộc phải nói như thế để làm gì? Nếu không phải là để an ủi, đem lại cho Kiều một ít tự tin vào giá trị của mình đã bị chà đạp, mất mát!

    Thông cảm với nỗi khổ tâm của kẻ tình địch, phải là người có từ tâm và tri kỷ tri bỉ, mới có thể ứng xử như thế được. Xưa Hoàn Ôn đi đánh Hung Nô, đem về một công nương vùng ấy làm vợ hầu. Vợ cả ghen tìm đến tận nhà để hành hung. Nhưng vừa bước vào, thấy vợ hầu của chồng nhan sắc tuyệt trần, nhất là phong cách cung khiêm, lịch sự, dịu dàng, liền than rằng: "Con người như thế nầy, ta thấy còn phải mê thay, trách gì lão gia nhà ta!"

    Hoạn Thư có hiểm ác không? Kiều trộm đồ trốn đi, nàng có thể bắt để quan trên gia hình, tù tội. Sau, Kiều có ra tù, nàng có quyền không cho chồng lấy Kiều, vì Kiều đã trộm cắp, ("thất xuất" điều 5). Nhưng Hoạn Thư có làm như thế đâu?

    Hoạn Thư đã ứng xử theo thường tình hiện hữu của dân gian, là "chút dạ đàn bà, ghen tương thì cũng người ta thường tình!...Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai ?", nhưng đặc biệt Hoạn Thư ứng xử "ngoài thì là lý, song trong là tình ", có nhu mà có cương, có thù ghét mà cũng có xót thương, có cột mà cũng có mở, nặng tay đó nhưng vẫn giữ được "cái nhân hậu", chớ không "cạn tàu ráo máng", đúng theo bản tính trung hòa hằng hữu của con người Việt Nam.

    Đòn ghen của Hoạn Thư là một tấn bi hài chống chế độ đa thê, nhiều giá trị kịch tính, tình địch trực diện biết rõ lai lịch nhau, mà lại đứng vào những cương vị ngụy tạo để ứng xử, đối đáp "người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm".

    Đây cũng là một đoạn văn nhiều giá trị thẩm mỹ nghệ thuật nhất nhì trong Đoạn Trường Tân Thanh, đáng được nghiên cứu thấu đáo hơn. Chúng ta thương những nỗi đoạn trường của Kiều, nhưng sao lại quên được những nỗi đau khổ, nhục nhã của Hoạn Thư, một nạn nhân cũng như muôn vàn nạn nhân khác, của chế độ đa thê hà khắc phi nhân.


    CHÚ THÍCH

    (1)- Nguyễn Văn Ngọc, Truyện cổ nước Nam, Hà Nội 1932, t. 1, tr. 51.

    (2)- Phạm Đăng Quế, Truyện Kiều đối chiếu, Hà Nội, 1991, tr. 300, 301 - trình bày Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Tử (Nhân), hồi 14, (Nguyễn Đình Diệm dịch).

    (3)- Phạm Đăng Quế, s.đ.d., hồi 14.

    (4)- Lan-đình: xưa Vương Hy Chi, đời Tấn, viết tại Lan-đình bài tựa tập thơ, chữ rất đẹp, đời sau lấy làm mẫu, gọi là chữ "Lan-đình".

    (5)- Nguyễn Thùy & Trần Minh Xuân, Đoạn Trường Tân Thanh, Tiếng Vui Trong Lời Buồn, Mékong Tỵ Nạn, CA. H.K., 1983, tr.158-160.
     
  10. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    Dentis : TVE forum
    Rất cảm ơn bạn đã post tác phẩm này lên, tác phẩm mà ta có thể đọc và suy ngẫm không biết bao nhiêu lần. Có khi còn để... bói nữa cũng tốt :wink: . Mình có mạn phép bạn sửa đổi ebook này tí tẹo, thêm vào phần chú giải với hy vọng giúp cho người đọc hiện đại dễ đọc hơn. Mình cũng thêm luôn những bài viết bạn sưu tầm được ở trên vào phần cuối sách.
    Xin post luôn cả phần text tặng các bạn.
     

    Các file đính kèm:

    Hamilk and namphuong.hqh like this.
  11. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    Nguyễn Du

    Nguyễn Du (tên tự là Tố Như , tên hiệu là Thanh Hiên ) sinh năm 1765 và mất năm 1820. Quê ông gốc làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời niên thiếu ở Thăng Long. Ông thuôc dòng dõi trâm anh thế phiệt: cha là Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm đã làm tới chức tể tướng dưới triều Lê; mẹ là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, người xứ Kinh Bắc (Nguyễn Nghiễm có 8 vợ, 21 người con); anh là Toản Quận Công Nguyễn Khản cũng làm tới Tham Tụng, Thái Bảo trong triều. Lúc mười tuổi Nguyễn Du mồ côi cha, lúc mười ba tuổi mồ côi mẹ. Vì thế mang tiếng là con quan đại thần nhưng ngay từ thời thơ ấu Nguyễn Du đã phải sống vất vả thiếu thốn. Truyện Kiều và Văn chiêu hồn là hai kiệt tác chữ Nôm tiêu biểu của ông.

    Sinh ra trong một gia đình quan lại, có truyền thống văn học, năng khiếu thơ văn của Nguyễn Du sớm có điều kiện nảy nở và phát triển. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh dĩnh ngộ. Năm 1783, Nguyễn Du thi hương đậu Tam Trường. Vì lẽ gì không rõ, ông không tiếp tục thi lên nữa.

    Năm 1789, Nguyễn Huệ kéo binh ra Bắc, đại thắng quân Thanh. Nguyễn Du, vì tư tưởng trung quân phong kiến, không chịu ra làm quan cho nhà Tây Sơn.

    Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lật đổ nhà Tây Sơn Nguyễn Quang Toản, rồi mời Nguyễn Du ra làm quan; ông từ mãi mà không được nên miễn cưỡng tuân mệnh. Năm 1805, ông được thăng Đông Các điện học sĩ, tước Du Đức Hầu. Năm 1813, thăng Cần Chánh điện học sĩ, được cử làm Chánh Sứ đi Trung Quốc. Sau khi về nước, năm 1815, ông được thăng Lễ Bộ Hữu Tham Tri.

    Đường công danh của Nguyễn Du với nhà Nguyễn chẳng có mấy trở ngại. Ông thăng chức nhanh và giữ chức trọng, song chẳng mấy khi vui, thường u uất bất đắc chí.

    Theo Đại Nam Liệt Truyện: "Nguyễn Du là người ngạo nghễ, tự phụ, song bề ngoài tỏ vẻ giữ gìn, cung kính, mỗi lần vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như không biết nói năng gì..."

    Năm 1820, Minh Mạng lên ngôi, cử ông đi sứ lần nữa, nhưng lần này chưa kịp đi thì ông đột ngột qua đời.

    Đại Nam Liệt Truyện viết: "Đến khi đau nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi. Ông nói "được" rồi mất; không trối lại điều gì."


    Tác phẩm tiêu biểu
    Ngoài Truyện Kiều nổi tiếng ra, Nguyễn Du còn để lại

    *Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh
    *Văn Tế Sống Hai Cô Gái Trường Lưu
    *Thác Lời Trai Phường Nón (bằng chữ Nôm)
    và ba tập thơ chữ Hán:

    *Thanh Hiên Thi Tập
    *Nam Trung Tạp Ngâm
    *Bắc Hành Tạp Lục

    Nhận xét
    Thơ chữ Hán Nguyễn Du cho thấy phần sâu kín trong tâm trạng ông. Nó như một thứ nhật ký, giãi bày mọi nỗi niềm, mọi ý nghĩ trong cảnh sống thường nhật của chính ông. Cả ba cuốn Thanh Hiên thi tập (viết trong khoảng 1785-1802, khi Nguyễn Du lánh ẩn ở quê vợ, Thái Bình, rồi trở về Hồng Lĩnh và ra lại Bắc Hà làm quan triều Gia Long) Nam trung tạp ngâm (1805-1812, khi Nguyễn Du làm quan ở Huế rồi cai bạ Quảng Bình) và Bắc hành tạp lục (1813-1814, thơ viết trên đường đi sứ Trung Hoa) đều có một giọng u trầm thấm thía, đầy cảm xúc nội tâm.

    Thơ chữ Hán Nguyễn Du như một tiếng thở dài luận bàn nhân tâm thế sự và xót thương thân phận. Một hình ảnh trở đi trở lại là mái tóc bạc, Nguyễn Du có mái tóc bạc sớm, mái tóc như biểu tượng của lo nghĩ, của những nghiền ngẫm buồn thương và bế tắc

    Tráng sỹ bạch đầu bi hướng thiên
    Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên
    Tạm dịch:

    Tráng sỹ ngẩng mái đầu tóc bạc bi thương than với trời xanh
    Chí lớn một đời và miếng ăn hàng ngày cả hai đều mờ mịt
    Với một tài năng, lại từng là con quan tể tướng, lời than ấy thật xót xa.

    Tây Sơn ra Bắc 1786, Nguyễn Du ôm mối ngu trung với nhà Lê, không cộng tác, tìm đường lánh ẩn chịu sống nghèo khổ. Những thiếu thốn vật chất đôi lúc lộ ra trong thơ:

    Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng
    Tạm dịch:

    Mười đứa con sắc mặt xanh như lá
    Hoặc:

    Trong bếp suốt ngày không có khói lửa
    Trước đèn phải mượn chén rượu cho gương mặt được hồng hào
    Do vậy, ông thấy:

    Nhất sinh từ phú như vô ích
    Mãn giá cầm thư đồ tự ngu
    Tạm dịch:

    Một đời chữ nghĩa thành vô ích
    Sách đàn đầy giá chỉ làm ta ngu dốt
    Lời nhận xét thật chua chát, bế tắc. Mái tóc bạc như một chứng tích tiều tụy cho cái nghịch lý ấy:

    Phơ phơ tóc bạc sống gửi ở nhà người
    rồi:

    Già đến, tóc bạc đáng thương cho ngươi
    Nói là già đến, nhưng lúc viết Thanh Hiên thi tập Nguyễn Du chỉ ở tuổi 20 đến 37.

    Trù trướng lưu quang thôi bạch phát
    Ngậm ngùi vì ngày tháng giục tóc bạc. Mái tóc bạc thành bạn tri âm cho Nguyễn Du than thở:

    Tóc sương là bạn đi cùng
    Mái tóc bạc bay trước gió thu. Mái tóc bạc nhuốm bụi hồng là chân dung tâm hồn của Nguyễn Du. Cả đời chưa thấy lúc nào ông đắc ý. Một sự chọn hướng trái chiều với bước đi của lịch sử làm Nguyễn Du ngùi ngẫm giằng xé cả một đời, ngay cả thời gian ra làm quan với Gia Long:

    Ơn vua chưa trả đỉnh đinh
    Mưa xuân nhuần thấm nhưng mình lạnh xương
    Tạ ơn mưa móc của vua nhưng lại thấy buốt lạnh trong xương cốt. Nỗi niềm ấy chúng ta hiểu cho Nguyễn Du. Nguyễn Du ôm một nỗi niềm éo le. Giáo lý Khổng Mạnh dạy: Tôi trung không thờ hai vua. Nhưng với Nguyễn Du, vua phải thờ thì hèn kém, thậm chí rước voi về giày mồ (Lê Chiêu Thống), còn vua phải chống thì lại anh hùng, bảo vệ độc lập dân tộc (Quang Trung). Đau đớn, bế tắc của Nguyễn Du là ở đấy. Biết mà không vượt qua được, ông mong được hậu thế cảm thông:

    Bất tri tam bách dư niên hậu
    Thiên hạ hà nhân khốc Tố Như
    Tạm dịch:

    Ba trăm năm nữa nào biết được
    Thiên hạ ai người khóc Tố Như
    Tương truyền: "Khi ốm nặng, ông không uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ nói: đã lạnh rồi. Ông bảo: Được! Rồi mất. Không trối lại một lời."

    Có một nỗi niềm đến phút cuối Nguyễn Du vẫn phải nén lại và mang đi. Buồn thương, cô đơn đã thành thuộc tính của đời ông như màu xanh là thuộc tính của cỏ:

    Nhân tự bi thê, thảo tự thanh
    Tạm dịch:

    Người tự buồn thương, cỏ tự xanh
    Hiện thực cuộc sống bi thương trong xã hội phong kiến cả ở nước ta lẫn ở Trung Hoa thuở ấy, từ cảnh ngộ dâu bể của cô Cầm đánh đàn ở Thăng Long đến nỗi cơ cực của ông già hát rong ở đất Thái Bình (Trung Quốc) đã cho Nguyễn Du thấy thân phận bèo bọt và những bất công mà kiếp người phải chịu. Từ chính cảnh ngộ của mình ông thông cảm sâu sắc, tạo nên tình cảm thấm thía cho những bài thơ thương đời. Thương đời và thương mình đều da diết như nhau.

    Nguyễn Du hay nói tới thân phận tha hương, lưu lạc. Nỗi nhớ quê nhà luôn luôn bàng bạc trong các bài thơ. Ông thấy tài năng văn chương như con chim phượng nhốt trong lồng nát và công danh thì cùng đường như con rắn đã chui trong hang.

    Bình sinh văn thái tàn lung phượng
    Phù thế công danh tẩu hác xà
    Ông viết bài thơ chống lại bài Chiêu hồn Khuất Nguyên của Tống Ngọc (bài Phản chiêu hồn), ông xui Khuất Nguyên đừng về vì thành quách vẫn còn nguyên mà người đã đổi khác, bụi bặm cuồn cuộn làm nhơ nhớp cả quần áo. Ông khái quát: Đời bây giờ người người đều đều là Thượng Quan (Thượng Quan là kẻ gièm pha làm hại Khuất Nguyên) và mặt đất thì chỗ nào cũng là sông Mịch La (con sông Khuất Nguyên trẫm mình).

    Ở các bài vịnh nhân vật và luận về các sự kiện lịch sử Trung Hoa trong Bắc hành tạp lục, Nguyễn Du đã xuất phát từ quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của con người để cân đo lại trọng lượng các vĩ nhân và các chiến công ầm ỹ một thời.

    Đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du, chúng ta hiểu cội nguồn chủ nghĩa nhân đạo của ông thể hiện trong Truyện Kiều và những ký thác đời ông vào hình tượng Kiều, nhân vật sắc tài mà bạc mệnh.

    (ST)
     
  12. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    Góp một cách nhìn về Nguyễn Du và 'Truyện Kiều'
    Nguyễn Sĩ Đại

    Trong hội thảo khoa học về Nguyễn Du tháng 12/2005 vừa qua, nhiều ý kiến khẳng định rằng, trong thời đại ngày nay, Nguyễn Du và Truyện Kiều mới được tôn vinh xứng đáng với giá trị của nó. Ý kiến đó có hoàn toàn chính xác?


    Nguyễn Du là một thiên tài. Thiên tài được hình thành không chỉ từ học vấn, từ bối cảnh xã hội cụ thể nào mà còn có yếu tố từ vũ trụ, từ một khoảnh khắc nào đó mà thôi... Truyện Kiều là một kiệt tác. Là kiệt tác, nó luôn ẩn chứa những thông tin vĩnh cửu. Không thể lấy thước đo của một thời mà đo chiều kích của thiên tài và kiệt tác. Nhưng mỗi thời, đánh giá và khai thác di sản quá khứ một cách khác nhau, âu cũng là lẽ thường tình. Với những kiệt tác, với những nhân vật kiệt xuất trong lịch sử, theo tôi, không nên tìm những “nhược điểm” theo cách nhìn của mình mà nên đi hết tầm xa, tầm rộng của họ.

    1. Truyện Kiều là truyện tình năm Gia Tĩnh triều Minh hay truyện thế sự, truyện về thân phận con người của muôn đời?

    Tôi được nghe cha tôi giảng Kiều từ nhỏ. Ấy là vì mẹ tôi mê Kiều đến nỗi, dù đã thuộc lòng, đêm nào cũng bắt cha tôi giảng giải kỹ từng đoạn. Có lần, hai người tranh luận sôi nổi quá, cha tôi quờ tay làm rơi cái đèn chai. Mảnh thủy tinh vỡ còn để sẹo ở tôi đến bây giờ. Thế nhưng ngay cả khi học xong đại học, tôi không bao giờ chú ý thấu đáo cái đoạn mở đầu của Truyện Kiều. Đến bây giờ, tôi thấy không hiểu cái đoạn “đơn giản” như một lời dẫn chuyện ấy thì không thể hiểu hết Truyện Kiều và Nguyễn Du.

    Đoạn mở đầu ấy là:

    Trăm năm trong cõi người ta,
    Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
    Trải qua một cuộc bể dâu,
    Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
    Lạ gì bỉ sắc tư phong,
    Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

    “Trăm năm” là thời gian, là khoảng sống của một đời người và cũng là từng trăm năm kiếp người một. “Cõi người ta” là không gian. Tóm lại, câu ấy gồm cả vũ trụ, là sự vĩnh cửu trong cõi người. Chữ “Tài” là tài năng, là cái vốn có, là khát vọng của con người cá nhân. “Mệnh” là điều kiện khách quan, mà khách quan thì có đáp ứng, có hạn chế. Đối với bậc tài hoa thì sự hạn chế ấy là phũ phàng vì nó vượt qua tầm thời đại, nó là sự bù lại “lộc trời” đã ban cho quá lớn. Trải qua một cuộc bể dâu - Những điều trông thấy mà đau đớn lòng là thế sự, là toàn bộ chuyện đời. Truyện Kiều do đó không phải là chuyện tình, mà là một “tiểu thuyết” luận đề. Vấn đề ở đây là quan hệ con người cá nhân với xã hội. Và cách giải quyết của Nguyễn Du là Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Có người cho rằng, để giải quyết nỗi khổ của con người, phải có một cuộc cách mạng triệt để. Nhưng thực tế, nỗi khổ và oan khuất của con người có bao giờ hết? Trong trăm năm cõi người, lấy chữ “tâm” để ứng xử, không chỉ là ảnh hưởng của đạo Phật mà là một triết lý sâu xa, là tinh hoa những tư tưởng mà Nguyễn Du tiếp thu được cộng với sự trải nghiệm của ông trong quãng đời ngắn ngủi của mình chứng kiến sự sụp đổ của nhiều triều đại, sự tạm bợ của nhiều điều, kể cả chính cả bản thân sự sống. Có người nói Nguyễn Du ảnh hưởng của giáo lý này, giáo lý khác. Không, ông đã đứng được ở bờ vĩnh cửu, đã không chỉ nói quan hệ xã hội của con người mà còn nói tới quan hệ của cõi sống với những cõi khác huyền diệu.

    2. Vì sao Nguyễn Du lại chọn Thúy Kiều, một phụ nữ tài sắc thuộc tầng lớp trung lưu, làm nhân vật chính?

    Không lấy nhân vật chính là người lao động bình thường không phải là hạn chế của Nguyễn Du theo quan điểm giai cấp mà là chỉ với sự lựa chọn ấy, Nguyễn Du mới có thể dẫn Thúy Kiều và chúng ta tới mọi cảnh ngộ của đời sống, mọi cung bậc của tình cảm. Theo tôi, đó là một lựa chọn thiên tài.

    3. Vì sao Nguyễn Du lại lựa chọn một câu chuyện Trung Hoa?

    Đây lại là một lựa chọn thiên tài nữa. Nó làm cho tác phẩm mang tính phổ quát. Thứ nữa, trong các xã hội, nhất là trong xã hội phong kiến, có những án văn tự dẫn đến việc đốt sách và mang họa tru di. Nguyễn Du là người biết rất rõ điều đó. Có một câu về Từ Hải thôi mà Tự Đức nói, nếu Nguyễn Du còn sống thì phải nọc ra đánh. Vậy viết một chuyện cụ thể Việt Nam, liên quan đến một dòng họ cầm quyền nào đó với sức tố cáo lớn như vậy, liệu Truyện Kiều có còn đến ngày nay?

    Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khốc Tố Như? - Đó là câu thơ trong bài Độc Tiểu Thanh ký. Nàng Tiểu Thanh là người tài sắc, sống vào thời nhà Minh, bị vợ cả ghen giam lỏng trên núi đến buồn mà chết. Nguyễn Du đọc được một bài thơ còn sót lại sau khi bị đốt của nàng, cảm kích mà làm bài này. Bài thơ được ông Vũ Tam Tập dịch là:

    Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang
    Thổn thức bên song mảnh giấy tàn
    Son phấn có thần chôn vẫn hận
    Văn chương không mệnh đốt còn vương
    Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
    Cái án phong lưu khách tự mang
    Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
    Người đời ai khóc Tố Như chăng?


    Tôi không dám không hiểu như các cụ túc nho đã dịch và lâu nay mọi người vẫn hiểu. Nhưng tôi cũng có một băn khoăn. Vì sao lại là ba trăm năm? Có thuyết cho rằng Tiểu Thanh sống cách Nguyễn Du ba trăm năm. Nhưng các cụ cũng nói rõ, đấy chỉ là giả thuyết, còn ý của Nguyễn Du thật như thế nào thì cũng chưa biết. “Tam bách dư niên” phải chăng là một con số ước lệ, chỉ một vòng triều đại, một cuộc biến thiên lớn của lịch sử? Quả là Nguyễn Du có hay nói về già bệnh, về cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân nhưng ngay cả đến lúc chết, ông cũng chỉ nói “Được” rất thanh thản. Ông có cần, có mong muốn người đời sau khóc thương mình hay không? Nếu nghi vấn ấy có lý thì câu thơ sẽ phải được hiểu khác, sẽ mang một trường nghĩa rộng hơn. Giả sử, Nguyễn Du đặt câu hỏi, ba trăm năm sau còn người ở vào chỗ phong vận kỳ oan như Nguyễn Du mà đồng bệnh tương liên?

    Và cuối cùng, tôi nghĩ rằng, tình cảm chính của chúng ta hôm nay và hậu thế cũng không phải là khóc thương ông, mà muôn vàn khâm phục, biết ơn những di sản tinh thần vô giá mà ông đã sáng tạo nên. Dẫu trong Truyện Kiều có bao nhiêu oan khuất thì sáng lên nhất vẫn là mối tình nồng thắm, đẹp đẽ của Kim - Kiều trong những ngày xuân. Nó làm sáng lên ước vọng yêu đời của không biết bao nhiêu thế hệ, nó hướng con người tới những vì sao của tình yêu và hạnh phúc.

    4. Đánh giá về Truyện Kiều theo dòng lịch sử

    Trong lời tựa của bản Kiều đem in năm 1820, Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân viết: “Ta lúc nhàn đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh như hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải con mắt trông cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy”.

    Vua quan thời Minh Mệnh, Tự Đức đều rất mê Kiều. Tự Đức muốn nọc Nguyễn Du ra đánh một trăm roi vì câu Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên đầu có ai. Nhưng cũng Tự Đức: Mê gì? Mê đánh tổ tôm, Mê ngựa Hậu bổ, mê Nôm Thúy Kiều.

    Tuy nhiên, có một luồng khác coi Truyện Kiều là một dâm thư: Đàn ông chớ kể Phan Trần, Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.

    Phạm Quỳnh trong bài diễn văn đọc tại Hội Khai trí tiến đức năm 1924 tại Hà Nội: “Truyện Kiều không chỉ đối với văn hóa nước nhà mà đối với văn học thế giới cũng chiếm được một địa vị cao quý... Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn...”.

    Để chống lại quan điểm này, quan điểm mà các nhà cách mạng cho nhằm để “ru ngủ” thanh niên, chí sĩ Ngô Đức Kế trong bài Luận về chánh học cùng tà thuyết, Quốc văn, Kim Vân Kiều, Nguyễn Du cùng năm đó viết trên tạp chí Hữu Thanh: “Văn tuy hay mà truyện là truyện phong tình, thì có vẻ ai dâm sầu oán, đạo dục tăng bi... Các gã thiếu niên chí khí chưa định, tình dục đang nồng, xem truyện thì mê, rồi sinh cái tư tưởng trộm ngọc cắp hương, khêu hoa ghẹo nguyệt, say đắm trong trời tình bể ái mà mềm nhũn cái gan lòng sắt đá, bỏ mất cái chí nguyện cao xa...”.

    Sau cách mạng, chỉ có bài của Ngô Đức Kế chứ không có bài của Phạm Quỳnh được dạy trong nhà trường. Một giáo trình đại học còn viết: Âm mưu của Phạm Quỳnh là ở chỗ này: “Truyện Kiều còn... nước ta còn”, như thế thì yêu nước chỉ lao đầu vào nghiên cứu Truyện Kiều chứ cần gì phải đấu tranh chống Pháp!

    Bên cạnh sự ngợi khen và tôn vinh, học tập và nghiên cứu nhiều nhất từ trước tới nay, nửa thế kỷ qua vẫn còn nhiều lời phê phán đối với Truyện Kiều và tác giả của nó.

    Trong bài Quyền sống của con người trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Hoài Thanh viết: “Nguyễn Du đã cảm thông được một phần nỗi khổ chung của con người bị chà đạp dưới một chế độ ngày càng thêm mục nát. Cố nhiên cũng chỉ cảm thông được một phần thôi. Rốt cuộc, Nguyễn Du vẫn là người của giai cấp phong kiến, của chế độ phong kiến”.

    Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai trong khi đề cao Truyện Kiều là tác phẩm ưu tú nhất, cũng viết: “Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du cố nhiên mới chỉ biểu hiện bằng những phương thức yếu ớt theo đạo lý chữ nhân của đạo Khổng hoặc theo tinh thần hiếu sinh của đạo Phật, chưa phải là chiến đấu tính cho nhân đạo, cho con người... Trong Truyện Kiều, tính chiến đấu chưa phải là tích cực và đúng với lập trường; mâu thuẫn chỉ giải quyết theo tinh thần thỏa hiệp với chế độ, tinh thần khuất phục với mệnh trời” (Đặc sắc của văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung Truyện Kiều).
     
  13. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    Nguyễn Du dưới góc nhìn lịch sử
    Hà Quảng

    Hồn vẫn đi về, cảo thơm sực nức...



    Nguyễn Du tên tự là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, sinh năm 1765 và mất năm 1820. Quê ông gốc làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời niên thiếu ở Thăng Long. Ông thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt, cha là Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm đậu nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ, phong tước Xuân quận công (tể tướng dưới triều Lê); mẹ là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm), con gái quan Câu kê họ Trần ở làng Hoa Thiền huyện Đông Ngạn xứ Kinh Bắc (nay là tỉnh Bắc Ninh).



    Câu ca dao “Bao giờ ngàn Hống hết cây, sông Rum hết nước họ này hết quan” là chỉ cái việc làm quan của họ Nguyễn Tiên Điền vậy.



    Anh đầu Nguyễn Du là Nguyễn Khản đậu đồng tiến sĩ, làm quan đến chức Tham tụng, cùng ở một triều với thân phụ. Anh thứ hai là Nguyễn Điều trúng tam trường thi Hội, làm quan đến chức Trấn thủ Hưng hoá, phong tước Điền Nhạc hầu. Anh thứ ba là Nguyễn Dao trúng tứ trường thi Hương, chịu chức Hồng lô Tự thừa. Anh thứ tư là Nguyễn Luyện trúng tam trường thi Hương. Anh thứ năm là Nguyễn Trước trúng tứ trường thi Hương. Anh thứ sáu là Nguyễn Nễ trúng tứ trường thi Hương, một nhà đều là khoa giáp xuất thân, cùng làm quan ở triều Lê cả.



    Dòng họ Nguyễn Du không những nổi tiếng về khoa hoạn mà lại còn chiếm nhiều danh tiếng trong lĩnh vực văn chương. Nguyễn Nghiễm còn để lại những tập Quân Trung liên vịnh, Xuân đình tạp vịnh, và quyển Việt sử bị lâm cung cùng nhiều tác phẩm chữ Nôm, từng làm bài phú Khổng tử mộng Chu công, nay còn truyền tụng. Nguyễn Nễ còn để lại Quê hiên giáp ất tập và Hoà trình hậu tập cũng sở trường về văn Nôm. Cháu Nguyễn Du là Nguyễn Thiện có tập thơ Đông phú và Nguyễn Đạm có tập thơ Quan hải, tập thơ Minh quyên đều là những văn hào đương thời. Danh sĩ trong nước bấy giờ truyền có năm người lỗi lạc, người đời gọi là “An Nam ngũ tuyệt” thì họ Nguyễn Tiên Điền có đến hai người là Nguyễn Du và Nguyễn Đạm rồi.



    Dòng họ này lại còn được người đời nể trọng về lòng trung nghĩa. Tổ tiên thuở xưa theo Mạc thì nhiều người tuẫn tiết khi nhà Mạc mất. Thời Lê, sau khi Lê mất, mấy anh em Nguyễn Khản, Nguyễn Điêu, Nguyễn Luyện, Nguyễn Du cho đến cháu là Nguyễn Đạm đều khởi nghĩa cần vương. Triều Tây Sơn sang đời Nguyễn nhiều người không chịu ra làm quan, kiên trinh giữ tiết với chúa cũ.



    Trong thiên tài của Nguyễn Du, ông đã thừa hưởng được cái tính dịu dàng, nhã nhặn và phong lưu của xứ Kinh Bắc nhờ ảnh hưởng của mẹ, đã hưởng được hào khí của đất Hồng Lam, hùng tâm của người xứ Nghệ, cùng là lòng tiết nghĩa, khiếu văn chương, do gia phong truyền xuống trải bao nhiêu đời nhờ ảnh hưởng của cha.



    Lúc mười tuổi Nguyễn Du mồ côi cha, lúc mười ba tuổi mồ côi mẹ, thời niên thiếu ở với bác tại Thăng Long, dấu vết đài các hoa lệ của kinh đô để lại nhiều dấu vết trong ký ức Nguyễn. Nhưng bao nhiêu yếu tố kể đó cũng chưa đủ tạo thành cái tính cách phức tạp và mâu thuẫn của ông, nếu ta không kể đến những ngày tháng loạn ly ông phải sống điền dã nơi hang cùng xóm vắng, trong sự thiếu thốn, lạnh rét như những người loạn dân thời bấy giờ.



    Sinh ra trong một gia đình quan lại, có truyền thống văn học, năng khiếu thơ văn của Nguyễn Du sớm có điều kiện nảy nở và phát triển. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh đĩnh ngộ. Năm 1783, Nguyễn Du thi hương đậu Tam Trường. Vì lẽ gì không rõ, ông không tiếp tục thi lên nữa. Phải chăng những năm niên thiếu của Nguyễn là những năm đầy biến động. Ở Bắc giặc giã nổi lên tứ tung vì tệ tham nhũng, bè phái của các chúa Trịnh Giang, Trịnh Doanh và Trịnh Sâm.



    Khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương chưa tan, thì Hoàng Công Chất nổi lên từ năm 1739 cướp phá ở miền Hưng Hoá và Thanh Hoá, bọn Lê Duy Mật nổi lên từ năm 1738 đóng giữ miền Trấn Ninh, thường xuống đánh phá đất Nghệ Tĩnh. Các cuộc khởi nghĩa mới dẹp yên thì năm 1774, lại nổ ra cuộc đánh Nguyễn ở miền Nam, thân phụ ông phải cùng đi đánh với Việp công làm Hiệp tán quân cơ. Trong khi quân Bắc đương chiếm cứ Thuận Hoá để cầm cự với quân Tây Sơn thì Thăng Long lại xảy ra nạn Kiêu binh. Năm 1882, loạn quân giết Hoàng Đình Bảo, phá nhà quan Tham tụng Nguyễn Khản là anh cả Nguyễn Du và nhà quan Quyền phủ sự Dương Phương, cùng là giết quan Thủ hiệu Nguyễn Triêm ngay trước phủ chúa.



    Bấy giờ Nguyễn Khản và Nguyễn Điều là hai anh của Nguyễn Du chạy lên Tây Sơn để gọi quân các trấn về trừ Kiêu binh mà không xong. Trong khi ấy thì quân Tây Sơn đã đánh được Phú Xuân, thừa thắng kéo luôn ra Bắc, chúa Trịnh Khải thất thế phải chạy trốn rồi tự tử. Sau khi Bắc Bình Vương tôn vua Lê rồi rút quân về Nam, thế lực họ Trịnh lại do tay Trịnh Bồng khôi phục. Nguyễn Hữu Chỉnh cậy uy Tây Sơn diệt Trịnh, rồi vì chuyên quyền ở Bắc, Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra giết, đến khi Nhậm theo vết xe cũ của Chỉnh lại tự mình ra giết. Vua Lê cầu cứu với Trung Hoa, Bắc Bình Vương bèn bỏ Lê mà xưng đế trước khi đánh tan quân Tôn Sĩ Nghị. Bọn tôi cũ nhà Lê, một số thì chạy theo vua Chiêu Thống sang Tàu để lo khôi phục, một số thì vì danh lợi hoặc vì thế bức phải quy phục nhà Tây Sơn, số nữa thì lẻn lút ở nhà quê mà nuôi chí khí để chờ cơ hội.



    Nguyễn Du lúc bấy giờ nhân tập chức của cha nuôi, đương làm Chánh thủ hiệu, một chức quan võ ở Thái Nguyên, nghe tin vua Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu (năm Kỷ Dậu -1789) toan theo ngự giá nhưng không kịp bèn về quê vợ ở làng Hải An huyện Quỳnh Côi xứ Sơn Nam (bây giờ là tỉnh Thái Bình). Ông cùng anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn tập hợp hào mục mưu đồ khôi phục nhà Lê, nhưng chung quy thất bại bèn phải về quê nhà ở Tiên Điền, một thời gian toan kiếm đường vào Gia Định giúp chúa Nguyễn Anh, nhưng việc tiết lộ, ông bị trấn tướng của Tây Sơn là Thận Quận Công bắt giam. May Thận Quận Công quen biết với anh ruột ông là Nguyễn Nể lại mến tài ông nên chỉ giam vài tháng rồi tha. Bấy giờ ông tự thấy mình không làm được người nghĩa sĩ đem thân hy sinh cho chúa đành làm kẻ bình dân giữ trọn tiết trung trinh. Ngày tháng ông lấy sơn thuỷ làm vui hoặc đi săn muông, hoặc đi câu cá, tuỳ hứng ngâm vịnh để khuây khoả, biệt danh Hồng Sơn lạp hộ và Nam Hải điếu đồ có là vậy.


    Khi thời thế xoay đổi, nhà Tây Sơn thất bại, Nguyễn Ánh thống nhất được Bắc Nam. Tháng sáu năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long sau khi khôi phục Phú Xuân ra Bắc xuống chiếu triệu tập những người dòng dõi cựu thần nhà Lê, Nguyễn Du cũng bị triệu ở trong số ấy. Ông dẫu biết nhà Lê không thể nào vãn hồi được nữa mà thiên hạ đã về theo nhà Nguyễn rồi, nhưng do lòng trung quân, ông quyết từ chối, không chịu ra làm quan cho nhà Nguyễn.


    Năm 1820, Nguyễn Ánh lật đổ nhà Tây Sơn Nguyễn Quang Toản, lại mời Nguyễn Du ra làm quan; ông từ mãi mà không được nên miễn cưỡng tuân mệnh. Tháng tám năm đầu hiệu Gia Long (1802), ông được bổ tri huyện Phù Dung trấn Sơn Nam (bây giờ là Hưng Yên). Tháng 11 năm ấy, ông được thăng Tri phủ Thường Tín.

    Mùa thu năm Gia Long thứ ba, ông cáo bệnh về quê, được hơn một tháng thì bị triệu về Kinh. Tháng giêng năm sau được thăng hàm Đông Các Học Sĩ và phong tước Du Đức Hầu. Tháng tư năm Gia Long thứ tám, ông được bổ chức Cai bạ dinh Quảng Bình. Tháng chín năm thứ mười một, ông lại xin nghỉ về quê, đến tháng chạp lại bị triệu về Kinh, rồi tháng giêng năm sau thăng hàm Cần chánh điện Học sĩ, và được cử làm Chánh sứ đi tuế cống Thanh triều. Tháng tư năm thứ mười ba trở về nước, được nghỉ sáu tháng ở quê, rồi năm sau ông được thăng chức Lễ bộ Hữu Tham tri. Năm đầu triều Minh Mạng (1820) vua Thánh tổ mới lên ngôi, ngự bút đặc phái ông làm Chánh sứ sang Trung Quốc cầu phong. Ông chưa kịp đi thì cảm bệnh mất tại Kinh ngày mồng 10 tháng 8 năm Canh Thìn, tức ngày 16/9/1820 hưởng thọ 56 tuổi.


    Đường công danh của Nguyễn Du với nhà Nguyễn chẳng có mấy trở ngại. Ông thăng chức nhanh và giữ chức trọng, song chẳng mấy khi vui, thường u uất bất đắc chí.



    Nguyễn Du sinh trưởng ở thời loạn lạc, lại gặp cảnh nước mất nhà tan mà mình không thể nào vãn hồi được thời thế, đành phải ôm mối hận lòng. Nguyễn không thể vui lòng nhận bổng lộc của triều đình mới. Sách Đại Nam Chính biên liệt truyện chép rằng ông làm quan hay bị người trên đè nén, không được thoả chí, cho nên thường buồn rầu luôn1. Đối với vua thì mỗi khi yết kiến ra vẻ sợ sệt, nhưng không biết nói năng gì. Có khi vua đã trách rằng: “Nhà nước dùng người, cứ kẻ hiền tài là dùng, chứ không phân biệt Nam Bắc. Ngươi với Ngô Vị, đã được ơn tri ngộ làm quan đến bực Á Khanh, biết việc gì thì phải nói để hết chức trách của mình, sao lại cứ rụt rè sợ hãi, chỉ vâng vâng dạ dạ cho qua chuyện thôi!”. Thực ra, Nguyễn Du không phải là người buồn vì quan trên đè nén, không phải là người sợ hãi rụt rè, mà chỉ là người dẫu ở tân triều mà lòng khôn quên chúa cũ. Nhưng tâm sự ấy khó ngỏ cùng ai, cho nên Nguyễn Du thường có vẻ bực tức buồn rầu, thậm chí có khi ông e sợ rằng đời sau cũng chưa chắc có người hiểu thấu được lòng mình. Bất tri tam bách dư niên hậu /Thiên hà hà nhân khấp Tố Như?



    Sống buồn bã, cho nên khi mắc bệnh nặng ông nhất định không chịu uống thuốc, chỉ chờ chết cho xong. Lúc lâm chung ông bảo người nhà sờ tay chân, họ nói đã lạnh cả rồi thì ông chỉ nói: “được, được” rồi tắt thở, không hề trối lại điều gì, thế là ông đã đem theo xuống mồ cái tâm sự u uất 2.



    Nguyễn Du sáng tác cả chữ Hán lẫn chữ Nôm: Hán văn có: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục; Chữ Nôm có: Văn chiêu hồn hay còn gọi Văn tế thập loại chúng sinh, Thác lời trai phường nón..., Sinh tế Trường Lưu nhị nữ, Truyện Kiều.


    Truyện Kiều là tác phẩm kiệt xuất của Tố Như, Nguyễn Du đã bày tỏ lòng nhân ái với những số phận không may trong cuộc đời, lên án các thế lực bạo tàn, thể hiện mơ ước tự do công lý của nhân dân. Truyện Kiều là đỉnh cao của nền thơ ca nước ta, mở ra một giai đoạn mới của ngôn ngữ và văn chương Việt.



    Dưới góc nhìn văn hóa, Nguyễn Du là nhà thơ lớn của dân tôc, tuy nhiên qua cuộc đời và hành trạng mà ta đã phân tích trên kia, dưới góc nhìn lịch sử, ta còn thấy nhiều nét nổi bật nữa ở con người Nguyễn. Ông còn là một võ quan nhiều mưu đồ đại nghiệp, một vị văn quan biết cách chăn dân, một nhà ngoại giao xuất chúng. Những năm làm Chánh thủ hiệu ở Thái Nguyên, thời kỳ tụ tập nghĩa binh toan chuyện phò Lê thể hiện phẩm cách của một võ quan không an phận, nuôi chí lớn khôi phục lại cơ nghiệp Lê triều. Những năm làm tri phủ Thường Tín, rồi cai bạ Quảng Bình, ông đã nêu một gương sáng về đức trị dân của một ông quan thanh liêm. Tại nhiệm bốn năm, chính sách rất là giản dị, chúng dân đều yêu mến. Nhờ vậy mới được phong tước Du Đức Hầu, rồi về Kinh thăng hàm Cần chánh điện Học sĩ. Đáng kể nhất là những năm ông làm Chánh sứ đi tuế cống Triều Thanh thành công rất được triều Nguyễn tín dụng.



    Tháng Hai năm Quý Dậu (1813), Nguyễn Du nhận chỉ làm Chánh sứ, dẫn đầu phái đoàn gồm Đàm Ân Hầu (tham sự bộ Lại) và Phong Đăng Hầu (tham sự bộ Lễ), đi tuế cống Trung Hoa. Ngày 6/4 năm Quý Dậu, Chánh sứ Nguyễn Du chính thức bước qua ải Nam Quan, bắt đầu hành trình đến Bắc Kinh. Những ngày tháng đua tài với các sứ thần Hàn, Nhật... chắc Nguyễn đã tỏ rõ được cái sở học uyên bác của mình. Trong thời gian đi sứ, Nguyễn Du đã được tận mắt chứng kiến nhiều nỗi oan trái và cuộc sống khổ ải của dân nghèo, sau này đã được tập hợp lại trong tập thơ mang tên Bắc hành tạp lục (131 bài). Cũng trong thời gian này Nguyễn Du đã có dịp tìm hiểu sâu nền văn hoá Trung Quốc. Với vốn sống đa dạng và tài năng kiệt xuất của mình, sau khi về nước, ông đã hoàn thành tác phẩm Truyện Kiều, lấy cảm hứng từ tập truyên của tác giả Trung Quốc Thanh Tâm Tài Nhân. Truyện Kiều sau đó đã vượt lên trên nguyên tác, trở thành một kiệt tác thơ trong lịch sử văn chương Việt Nam.



    Tháng Tư năm Giáp Tuất (1814), Nguyễn Du cùng đoàn sứ thần về nước. Trong chuyến đi, ông đã cho chọn giống cây hồng quý đem về trồng ở nhà vườn An Hiên (Huế) hiện vẫn còn được người dân nâng niu chăm sóc. Sau khi hoàn thành trọng trách cùng với đoàn sứ bộ, Nguyễn Du được thăng chức Lễ Bộ Hữu Tham Tri.



    Trong quá trình giữ cương vị Chánh sứ, đại diện cho quốc gia, ông đã để lại nhiều áng thơ văn, nhiều ghi chép đặc sắc giúp cho những nhà nghiên cứu ngày nay có được cái nhìn khá kỹ càng về hành trình của một sứ giả trên đất khách quê người.



    Những tài năng đa diện và công lao của Nguyễn Du sau này đã được thể hiện qua các bài văn truy điệu, mà nguời đời sau thường đoc trong dịp kỷ niệm ngày mất của ông (10/8 Canh Thìn 1820).



    Tài kiêm Văn, võ:


    ... Khi trưởng thành Ất bảng chen tên, tài thư kiễm vang lừng hai vế

    ... Những muốn hùng binh mấy vạn rắp phen Trương Tử phục Hàn gia


    Nội chính, Ngoại giao:


    ... Khi thủ hiên Tiên châu, khi Thần kinh lĩnh doãn, đức thanh cần thấm thía đến muôn dân.

    Lúc Bắc hành chánh sứ, lúc Nam khuyết á khanh tài thao lước vang lừng trong hai nước


    (Văn truy điệu Nguyễn Du - Đào Tử Minh - Hội Tri Tân, ngày 10/8 Giáp thân 1944)



    Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Du, sự bất tử, tình yêu của mọi người đối với Nguyễn được ghi lại khá trọn vẹn trong bài Bia sau đây nhân dịp kỷ niệm 105 năm ngày mất của cụ:



    Đất đục, trời trong, hoà tan làm mực

    Nước biếc, non xanh, tả nên đầy bức


    Đã sẵn tài tình, quản gì phong sắc?
    Hồn vẫn đi về, cảo thơm sực nức


    Kiếm gác bên đền, gió mưa vẫn sắc
    Bút tựa mặt hồ, trăng sao vằng vặc


    Cảnh ấy bia này, nghìn thu dằng dặc.





    Ngày rằm tháng hai năm Kỷ Tỵ niên hiệu Bảo Đại thứ tư

    Hội Khai trí Tiến Đức cẩn chi


    Canh Tuất khoa Phó bảng Ưu Thiên Bùi Kỷ bái thảo.



    ***




    Chú thích:
    1. Theo Đại Nam liệt truyện: "Nguyễn Du là người ngạo nghễ, tự phụ, song bề ngoài tỏ vẻ giữ gìn, cung kính, mỗi lần vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như không biết nói năng gì..."
    2 : Cũng theo sách trên, "đến khi đau nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi. Ông nói "được" rồi mất; không trối lại điều gì".
     
  14. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    Khảo sát Truyện Kiều từ những câu thơ 'dịch' Đường thi
    Nguyễn Ngọc Bảo Trâm

    Truyện Kiều là tác phẩm truyện thơ Nôm thành công nhất của nước ta. Tác phẩm ra đời trong thời Trung đại nên chịu sự chi phối của lý tưởng thẩm mỹ phong kiến. Một trong những nét đặc trưng của thi pháp thời kỳ này là sử dụng điển cố, điển tích, tập cổ… Trong Truyện Kiều những hình thức này không ít. Nguyễn Du đã sử dụng rất nhiều điển cố, điển tích của Trung Quốc được lấy từ Kinh Thi, Tình sử, Tả truyện, Kinh Dịch, Lễ ký, Hán thư, Tây sương, Thần tiên truyện… Qua bàn tay tài hoa của ông, những điển cố này đã được sử dụng rất sáng tạo và đã trở nên quen thuộc hơn, gần gũi với tâm hồn dân tộc Việt Nam hơn. Nhờ thế ngôn ngữ Việt cũng trở nên giàu có và phong phú hơn khi du nhập những từ ngữ mới. Chẳng hạn từ bể dâu trong câu Trải qua một cuộc bể dâu là mượn từ câu Thương hải biến vi tang điền (Bể xanh hóa thành nương dâu - Thần tiên truyện) diễn tả những thay đổi trong cuộc đời, vũ trụ. Hay như câu:

    Sầu đong càng lắc càng đầy,
    Ba thu dọn lại một ngày dài ghê! (câu 247-248)

    là hình thức tập cổ của câu Nhất nhật bất kiến như tam thu hề (một ngày không trông thấy mặt lâu như là ba tháng mùa thu) trong Kinh Thi.

    "Truyện Kiều" có nhiều câu thơ lấy ý từ Đường thi. Chắc chắn Nguyễn Du không làm công việc dịch thơ. Tuy nhiên, cũng có một số câu thơ trong tác phẩm của ông xét theo một khía cạnh nào đó chính là những câu thơ dịch từ Đường thi. Chúng tôi làm một việc là lượm lặt những câu thơ ấy nhằm nhìn "Truyện Kiều" của Nguyễn Du dưới một góc độ mới.

    Khảo sát thơ “Kiều” như những bản dịch không phải là một việc làm máy móc, vì theo chúng tôi từ đó sẽ nhận thấy thêm nhiều những sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du cũng như hiểu thêm về quá trình sáng tác của ông. Cũng có thể nói rằng nhờ Nguyễn Du mà nhiều câu thơ Đường được biết đến nhiều hơn, trở nên quen thuộc hơn với người đọc Việt Nam. Ông đã sử dụng thơ của nhiều nhà thơ Đường như Đỗ Mục, Bạch Cư Dị, Mạnh Giao, Lý Thương Ẩn, Thôi Hộ,…

    Nếu chỉ kể những câu thơ mượn điển cố, điển tích thì trong Truyện Kiều đã có rất nhiều câu có chất liệu Đường thi. Những câu như: Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa (câu 226) gợi cho người đọc nhớ đến câu:

    Ngọc dung tịch mịch lệ lan can,
    Lê hoa nhất chi xuân đái vũ.
    (Mặt ngọc âm thầm, nước mắt chan hòa
    Như một cành hoa lê ướt đẫm nước mưa xuân)

    Hay câu Trong khi chắp cánh liền cành (câu 515) là mượn từ câu:

    Tại thiên nguyện tác ty dực điểu,
    Tại địa nguyện vi liên lý chi…
    (Trên trời nguyện làm chim liền cánh,
    Dưới đất nguyện làm cây liền cành.)

    trong bài Trường hận ca của Bạch Cư Dị. Ở đây chúng tôi muốn nói đến những câu thơ trong Truyện Kiều có thể coi là những câu thơ dịch thực sự. Một trong những câu thơ Đường nhờ Nguyễn Du mà nổi tiếng hơn là câu:

    Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
    Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
    (Đề tích sở kiến xứ)

    (Không biết mặt người ở nơi nào
    Hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ)

    của Thôi Hộ.

    Nguyễn Du mượn câu thơ này, mượn chuyện của Thôi Hộ mà nói tâm sự của chàng Kim khi trở lại vườn Thúy. Cũng như Thôi Hộ, Kim Trọng trở lại tìm người đẹp, cảnh vẫn như xưa, vẫn hoa đào, vẫn gió xuân… nhưng người xưa thì không tìm thấy nữa. Nguyễn Du “dịch”:

    Trước sau nào thấy bóng người,
    Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông. (câu 2747-2748)

    Một câu thơ thần tình nếu là thơ, tài hoa nếu là dịch!

    Bởi vì Nguyễn Du không dụng tâm làm một người dịch thơ Đường nên giữa câu thơ của ông với nguyên tác của Thôi Hộ có nhiều khác biệt. Nếu Thôi Hộ viết hà xứ khứ thì Nguyễn Du chỉ viết đơn giản là trước sau. Thôi Hộ nhớ về một khuôn mặt đã ửng hồng cùng với hoa đào mùa xuân trong lần gặp gỡ trước (Nhân diện, đào hoa tương ánh hồng, còn với chàng Kim có lẽ ký ức về nàng Kiều trong vườn Thúy là hình ảnh Dưới đào dường có bóng người thướt tha (câu 290). Do vậy Nguyễn Du dùng từ bóng người là phù hợp hơn với văn cảnh, với tâm trạng của chàng Kim. Câu thơ của Nguyễn Du mang nghĩa khẳng định, còn câu thơ của Thôi Hộ là một sự băn khoăn, không thể nói được ai là người viết hay hơn, sâu sắc hơn ai, bởi cả hai đều thể hiện được một nỗi thất vọng thật sự.

    Ở câu thứ hai, Nguyễn Du đã có một sự sáng tạo độc đáo khi ông thay từ y cựu bằng từ năm ngoái. Y cựu là vẫn như cũ, hoa đào sau một năm, mùa xuân đến lại trổ ra những bông hoa y như trước kia, vẫn thắm tươi để cười với gió mùa xuân. Nguyễn Du có ý khẳng định hơn khi ông dùng từ năm ngoái. Không phải những bông hoa mới trổ trong một mùa xuân mới, mà chàng Kim tưởng như đó là những bông hoa của năm ngoái. Chính là hoa đào của năm ngoái! Vậy thì bóng người thướt tha dưới hoa đào năm ngoái ở đâu? Nỗi xót xa dường như tăng thêm một bậc. Cảnh cũ vẫn còn mà người xưa đã vắng! Hoa đào cười với gió đông trở nên một hình ảnh quen thuộc trong lòng người yêu thơ, yêu Truyện Kiều.

    Một đoạn thơ dịch chứng tỏ tài năng của Nguyễn Du nữa là đoạn tả tiếng đàn của nàng Kiều trong đoạn đoàn viên:

    Khúc đâu đầm ấm dương hòa!
    Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh?
    Khúc đâu êm ái xuân tình!
    Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên?
    Trong sao châu dỏ duềnh quyên!
    Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông! (câu 3199-3204)

    Một đoạn thơ tả tiếng đàn đến độ tuyệt diệu. Nhưng không hoàn toàn là sáng tạo của Nguyễn Du mà đúng hơn đó là những câu thơ “dịch” từ bài Cẩm sắt - của Lý Thương Ẩn đời Đường:

    Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp,
    Thục đế xuân tâm thác đỗ quyên.
    Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ,
    Lam điền ngọc noãn nhật sinh yên.

    (Tiếng đàn như: Khi Trang sinh lầm mình là bướm trong giấc mộng buổi sáng,
    Tấm lòng xuân của Thục đế gửi gắm vào chim đỗ quyên.
    Dưới biển xanh, trăng sáng chiếu xuống những hạt châu thành nước mắt
    Chốn Lam Điền, nắng ấm soi trên những hạt ngọc tỏa khói)

    Nguyễn Du chọn một đoạn thơ tả tiếng đàn tuyệt hay của Lý Thương Ẩn mà tặng cho nàng Kiều, tặng cho Kim Trọng. Trong buổi tái hợp của mối tình xa cách những mười lăm năm, tiếng đàn gảy nên tấm lòng yêu thương của những con người vừa tìm ra được hạnh phúc.

    Tiếng đàn của Kiều không còn thảm sầu, oán thán, ngậm đắng nuốt cay như xưa nữa. Tiếng đàn lúc này rất đầm ấm như giấc mơ hóa bướm trong buổi sớm, êm ái như xuân tình, trong trẻo như hạt ngọc rơi xuống mặt nước (duềnh) có ánh trăng (quyên) soi vào, ấm áp như ánh mặt trời, như những viên ngọc vừa ngưng kết. Nguyễn Du vì muốn cho cuộc đoàn viên của Kim Kiều được trọn vẹn nên ông cũng làm cho tiếng chim đỗ quyên trở nên êm ái lạ thường. Êm ái như xuân tình! Không còn là tiếng kêu than não ruột của một vị vua mất nước. Tấm lòng xuân của Thục đế trong lốt chim đỗ quyên trở nên êm ái lạ thường.

    Những câu thơ của Nguyễn Du nồng nàn, tha thiết quá với những thán từ sao (trong sao, ấm sao). Nhờ hơi thơ lục bát mượt mà, những câu thơ Đường mang đậm hồn thơ Việt.

    Bài thơ Cầm sắt của Lý Thương Ẩn là một bài thơ hay và được nhiều người dịch. Trần Trọng San dịch những câu thơ đó như sau:

    Mơ màng giấc bướm Trang sinh;
    Lòng xuân Vọng đế, đỗ quyên gửi vào.
    Biển xanh trăng chiếu lệ châu;
    Ngọc phơi nắng ấm, khói cao Lam Điền…

    Trần Trọng San đã dịch thật sát nghĩa so với những câu thơ của Lý Thương Ẩn. Vì tâm thế dịch thuật hoàn toàn khác với Nguyễn Du nên những câu thơ dịch của ông thật hoàn chỉnh, đúng nghĩa là những câu thơ dịch. Nhưng cũng cần nói lại một lần nữa là Nguyễn Du của chúng ta không hề có chủ tâm dịch mà chỉ mượn những câu thơ của Lý Thương Ẩn mà thôi. Ông đã vận dụng chúng thật sáng tạo để viết nên những câu thơ tả tiếng đàn tuyệt vời của mình.

    Nguyễn Du còn dùng nhiều câu thơ Đường khác trong sáng tác của mình. Chẳng hạn như câu:

    Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng,
    Nhất trạo giang sơn tận địa duy.

    của Hoàng Sào để tả Từ Hải: Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo (câu 2174). Một sự chọn lựa rất phù hợp để khắc họa hình tượng người anh hùng Từ Hải, nhân vật lý tưởng trong tác phẩm.

    Rồi một câu thơ cũng rất quen thuộc trong bài Vô đề của Lý Thương Ẩn:
    Xuân tàm đáo tử ty phương tận
    (Con tằm xuân đến lúc chết thì tơ mới hết)

    Nguyễn Du còn làm cho nỗi lưu luyến day dứt hơn nữa khi viết Con tằm đến thác, cũng còn vương tơ (câu 1976). Không phải khi tằm chết thì hết nhả tơ, mà tơ vẫn còn vương vấn bên xác tằm. Chỉ có điều ông lại để câu này thốt ra từ miệng của Thúc Sinh, trong khi chàng Thúc này lại sợ hãi Hoạn Thư đến nỗi đã bỏ rơi nàng Kiều tội nghiệp, đẩy Kiều vào con đường đau khổ một lần nữa.

    Câu thơ kết thúc của Trường hận ca nổi tiếng của Bạch Cư Dị cũng được “dịch” trong Truyện Kiều:

    Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ(Mối hận này triền miên không lúc nào chấm dứt).

    Mối hận chia ly của Kim Kiều có khác gì mối hận chia ly của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi thời Đường chứ. Cũng đều là Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên (câu 2786). Dịch được chữ miên miên thành dằng dặc thật đã đến độ tuyệt vời. Nguyễn Du sử dụng ý thơ này là đã thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc với mối tình của họ.

    Rồi cả câu thơ: Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô là dịch từ câu:

    Kim tỉnh ngô đồng thu diệp hoàng
    trong bài Trường tín thu từ của Vương Xương Linh.

    Khi Thúy Kiều trở về với gia đình có hẹn sẽ lập am rước Giác Duyên. Nhưng khi cho người trở lại tìm thì Giác Duyên đã không còn ở đó nữa. Đúng như hoàn cảnh Tầm ẩn giả bất ngộ của Giả Đảo:

    Tùng hạ vấn đồng tử
    Ngôn sư thái dược khứ
    Chỉ tại thử sơn trung
    Vân thâm bất tri xứ
    (Dưới cây tùng hỏi tiểu đồng
    Trả lời rằng thầy đã đi hái thuốc
    Chỉ nội trong núi này thôi
    Mây dày không biết ở chốn nào)

    Nguyễn Du mượn lại câu trả lời đó để trả lời cho sự vắng mặt của Giác Duyên:

    Sư đà hái thuốc phương xa,
    Mây bay, hạc lánh, biết là tìm đâu (câu 3231-3232)

    Một câu thơ dịch như vậy thật chưa chỉnh nhưng vận dụng nó từ một bài thơ bốn câu vào trong một tác phẩm dài đến hơn ba ngàn câu đúng lúc, đúng chỗ thật là quá khéo. Cái cớ hái thuốc trong mây dày không tìm ra được Nguyễn Du khéo nắm lấy để làm cái kết cho cả nhân vật Giác Duyên lẫn Thúy Kiều. Giác Duyên là một người tu hành, hay đi đây đó, không thể để bà về chỗ Kiều được, mà nàng Kiều trong đoạn đoàn viên chẳng thể nào lại đi tu lần nữa. Một giải pháp hợp lý để mỗi nhân vật trong tác phẩm đi theo hướng đi phù hợp với mình.

    Như trên đã nói, Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều không hề nghĩ rằng mình đang làm công việc dịch thơ. Chỉ có những kẻ hậu thế là mạo muội gán cho ông cái công việc đó mà thôi. Tuy vậy, chúng tôi cho rằng xét Nguyễn Du dưới góc độ là một dịch giả sẽ không bao giờ là thừa. Với thiên tài của mình Nguyễn Du nếu muốn dịch thơ Đường chắc chắn cũng sẽ có những bản dịch thành công. Những câu Kiều của ông vô tình trở thành những câu thơ dịch mà đã rất hay rồi. Chúng thành công ở nhiều điểm, đầu tiên là khả năng kết hợp những ý thơ riêng lẻ ấy vào chung một cốt truyện thật thông suốt và liền mạch. Sau đó nếu xét ở góc độ dịch phẩm thì chúng đã thành công với vai trò giới thiệu cho độc giả về thơ Đường, đồng thời gợi hứng thú cho họ đi tìm đọc thêm nguyên tác, cũng như đọc thêm nhiều bài Đường thi khác nữa. Cách “dịch” của Nguyễn Du không thật bám sát ý thơ, hình ảnh thơ và mang nhiều dấu ấn cá nhân. Nhưng ông đã dịch thật đạt tinh thần cũng như tình cảm mà tác giả gửi gắm qua nguyên tác, để những câu thơ dịch ấy xuất hiện trong những tình tiết thật phù hợp, giúp chúng một lần nữa thể hiện những nội dung mà chúng đang mang. Con người thiên tài làm việc gì cũng chứng tỏ mình là thiên tài. Những câu thơ dịch của Nguyễn Du thể hiện điều đó. Chỉ là một việc ngẫu nhiên thôi nhưng tất cả chúng ta đều phải thừa nhận giá trị của những câu thơ đó, và chắc chắn chúng còn có nhiều điều để cho các dịch giả đời sau học tập theo.
     
  15. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    BÀI HỌC TÚ BÀ DẠY CHO KIỀU

    BS Hồ Đắc Duy

    Truyện Kiều là một câu chuyện của một cô gái ba chìm bảy nổi, gần như hầu hết cuộc đời của nàng ở nơi chốn lầu xanh, một câu chuyện pha khá nhiều màu sắc tình dục cũng giống như Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu viết về một nàng cung nữ chỉ khác nhau ở chỗ Kiều một cô gái lầu xanh phục vụ cho nhiều khách làng chơi trong khi nàng cung nữ thì chỉ dành riêng cho một đấng quân vương. Trong bài học mà Tú bà dạy cho nàng Kiều Nguyễn Du đã viết:

    Này con thuộc lấy nằm lòng
    Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
    Chơi cho liễu chán hoa chê
    Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời

    Để viết một kịch bản như thế chắc là Nguyễn Du khó có thể bỏ qua mà không tham khảo một tác phẩm về tình dục cổ điển nổi tiếng của Trung Quốc là Tố Nữ Kinh.

    Trong một cuốn sách Truyện Thúy Kiều hiệu khảo của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim, trong phần chú thích thì hai ông này cũng chỉ ghi: Tám nghề là tám cách chơi, trong bản Kiều chữ có dẫn rõ ràng, nhưng vì tục lắm cho nên không thích vào đây.

    Trong Tình Sử Vương Thúy Kiều của Mộng Bình Sơn - Kim Thánh Thán ghi theo bản Phong Tình Cổ Lục thì chỉ ghi là Tú bà dạy cho nàng Kiều bài học về các món ăn chơi chứ không thấy ghi rõ 8 nghề đó là gì.

    Trong Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang và Trương Chính nhà Xuất bản văn hóa thông tin 2002 chỉ viết như sau: ... tuỳ theo tính cách của khách mà dùng nghề cho thích hợp, tám nghề này tục tĩu nên 205 chữ mô tả cách chơi trong bản Kim Vân Kiều truyện in lại gần đây ở Trung Quốc đều đã lược đi ???!!!

    Trong hai quyển do nhà Xuất Bản Đà Nẳng, quyển Truyện Kiều Tập Chú thì các tác giả Nguyễn Văn Anh, Bùi Khánh Diễn và Phạm Kim Chi mà trong bài trước có trích dẫn. Phạm Kim Chi viết rằng trong Thanh Tâm Tài Nhân chép: " những người dương vật đoản, tiểu thì dùng phép Kích cổ thôi hoa (đánh trống giục hoa) người trường đại dùng phép Đại triển kỳ cô (mở tung cờ trống) người tính huỡn dùng phép Kim liên song tỏa (sen vàng khóa chặt hai vế) Người xuất tinh sớm dùng phép Màn đã khinh xao (chậm đánh khẻ rung) dùng phép Khẩn soan tam trật (ôm chặt ba chân) người chơi nhây thì dùng phép Tả chi hữu trì (tay mặt ôm, tay trái giữ) Người hay giỡn hớt dùng phép Tả tâm truy hồn (khóa lấy tâm, theo dõi thần hồn) Người tham sắc dùng Nhiếp thần siểm tỏa (thu hết tinh thần làm ra vẻ dún dẩy).

    Thử tìm trong cuốn Thanh Tâm Tài Nhân mà tôi có, không có đoạn này.

    Trong một cuốn Truyện Kiều dịch ra tiếng Pháp (Kiều - Traduit du Vietnamien - troisième édition - HaNoi 1979 thì người dịch cũng dịch Ma fille, tâche de les savoir tous par coeur, les sept manières de séduire, les huit façons d'aimer mà không kèm lời chú giải, façons d'aimer cũng được hiểu như một tư thế hành lạc mà thôi.

    Còn một số sách khác nhất là các sách chú giải giáo khoa thì các tác giả cố tránh giải thích vấn đề này hoặc sao chép của các tác giả trên.

    VÀNH NGOÀI BẢY CHỮ bao gồm các kỹ năng lối kéo khách làng chơi như :

    1. Khốc: Có nghĩa là khóc, dùng nước mắt để tranh thủ lòng thương cảm của khách làng chơi. Phải khóc lóc như thật để chứng tỏ mình thành tâm, thiệt ý. Tú bà đã dạy Kiều dùng nước gừng sống tẩm vào khăn tay để lau nước mắt thì nước mắt sẽ không khô mà còn tuôn ra như suối.

    2. Tiễn: Có nghĩa là cắt. Rủ khách cùng mình mỗi người cùng cắt một mớ tóc, kết thành một sợi rồi chia cho nhau buộc vào hai cánh tay, làm lễ "kết tóc" biểu tỏ thủy chung bền chặt, khách sẽ tưởng là mình chân thành mà không nỡ bỏ.

    3. Thích: Có nghĩa là đâm, chích. Lấy cây trâm chích vào cổ tay hay trên bắp đùi mấy chữ "Thân phu mỗ nhân" (người chồng thân yêu tên là mỗ), khách thấy vậy càng thêm yêu quý, tin tưởng ta.

    4. Thiên: Có nghĩa là đốt, dùng hương đốt vào sáu huyệt của chàng và nàng. Sau khi thề thốt, cả hai áp người vào nhau cùng đốt các huyệt trên bụng, trên cánh tay, cổ tay. Mánh khóe này thuộc phạm vi "khổ nhục kế".

    5. Giá: Có nghĩa là cưới hỏi làm vợ chồng. Sau khi điều tra biết khách là kẻ giàu có thì thủ thỉ, rủ rê, bàn chuyện cưới nhau. Tất nhiên khách muốn cưới thì phải bỏ ra một số tiền lớn để chuộc mình ra. Khi đã xài hết tiền thì tìm cách lật lọng để đuổi khéo khách đi.

    6. Tẩu: Có nghĩa là chạy. Đây là kế "đà đao". Nếu thấy dan díu đã lâu, khách hết tiền, muốn chuộc không có tiền mà muốn chơi cũng không còn tiền đâu chơi tiếp thì chỉ còn cách tống khứ khách đi cho rảnh. Lúc ấy phải giả vờ rủ khách đi trốn, hẹn giờ hẹn chỗ nhưng không đến, đánh tiếng cho lính đi bắt kẻ bỏ trốn, thế tất khách phải sợ mà trốn thật.

    7. Tử: Có nghĩa là chết. Chết giả chứ không phải chết thật. Thề thốt cho họ tin là mình yêu họ, chỉ biết có họ thôi, nếu không tin thì chết ngay tại chỗ, trước mắt cho chàng thấy. Nếu biết y có thê thiếp rối, không thể lấy mình được thì càng làm già đến độ rủ y "cả hai cùng chết hơn là chẳng lấy được nhau!". Lúc đó, có tán gia bại sản, đem hết bạc tiền ra dâng cho mình, y cũng không tiếc

    VÀNH TRONG là nghệ thuật chăn gối, gồm những động tác, tư thế tạo khoái cảm nhục dục cho khách làng chơi, theo thư tịch cổ thì Tam Thập Pháp mô tả những vị thế rất cơ bản trong sinh hoạt tình dục lấy sự khoái cảm làm mục đích chính

    Có hai YẾU TỐ để lý giải câu hỏi này

    1/ Thế nào là 8 tư thế cơ bản
    2/ Biến thể của các tư thế cơ bản đó

    Thế nào là 8 tư thế cơ bản

    Khi tìm cách giải thích chúng tôi dựa vào các thư tịch cổ và đối chiếu lại với các hiểu biết khoa học hiện đại

    Trước hết cần có môt khái niệm về Dịch lý. Dịch đã định nghĩa như sau : Dịch là sự thay đổi, vạn hữu vũ trụ nằm trong một qui luật duy nhất là sự vận động không ngừng, chuyển biến cả thời gian và không gian, chuyển hóa cả các vật vô cùng nhỏ bé đến những vật vô cùng lớn.

    Dịch hữu Thái Cực, thị sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái, Bát Quái định cát hung, cát hung định đại nghiệp.

    Thái Cực diễn tả ý niệm tuyệt đối, vũ trụ, vạn vật đệ nhất thể.

    Lưỡng Nghi là tương đối gồm hai thể đối đãi lẫn nhau như Âm Dương, Trời Đất... Tứ tượng là bốn thể, tượng trưng cho bốn mùa, bốn phương. Bát Quái sinh ra từ Tứ Tượng, 8 quái này là cơ bản cho sự biến hóa của vũ trụ.




    Tám quái này là tám hướng: đông tây nam bắc, chính đông chính tây chính nam và chính bắc, tám quái này cũng là ý niệm Nội Ngoại, Thượng Hạ, Tả Hữu và Tả Khuynh Hữu Khuynh và cũng là tám tư thế cơ bản của mọi vật trong không gian và thời gian, đó cũng là tám tư thế cơ bản bao gồm các tư thế đứng, ngồi, nằm, quì, co, duỗi, nghiêng, ngửa hay là 8 tư thế gồm: Chính thường vị (tư thế nam trên nữ), thân triển vị ( tư thế chân duổi thẳng ), cao yêu vị (tư thế lưng ngửa cao), khuất khúc vị (tư thế co người lại), nữ thượng vị (Tư thế nữ trên nam) kỵ thừa vị (tư thề cỡi) và ngọa chiếu vị (Tư thế nằm nghiêng) được ghi trong sách Tố Nữ Kinh

    Biến thể của các tư thế cơ bản

    Từ Bát Quái sẽ sinh ra 64 quẻ và tư dó có thể biến thành vô số thể với các con số là 8 , 16 , 32 , 64 , 128..... Như vây thì các biến thể của 36 hay 72 kiểu của phương tây cũng chỉ là biến thể của 8 tư thế cơ bản xuất phát từ thuyết vạn vật đệ nhất thể của Dịch lý đông phương. Nếu so với các tư thế trong Kamasoutra (Kamasutra Portraits & Nudes Gallery Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link ) phong phú hơn nhiều.

    Từ các thế này sẽ cho những biến thế sau:

    Kích cổ thôi hoa, Đại triển kỳ cô, Kim liên song tỏa, Màn đã khinh xao, Khẩn soan tam trật, Tả chi hữu trì, Tả tâm truy hồn, Nhiếp thần siểm tỏa, Tự trù mâu Thân khiển quyển, Bạo tự ngư (tư thế cong như con cá nhảy vượt), Kỳ lân giác (Tư thế cong người như sừng kỳ lân), Toản mặc cẩm (tư thế ôm cổ), Miêu thử đồng huyệt (mèo chuột cùng hang)....

    Mỗi tư thế sẽ áp dụng cho mỗi loại khách, mỗi loại nguời, cũng tùy theo khách là người nhỏ yếu hay lớn con, dai dẳng, người nôn nóng, sôi nổi, hay bất lực liệt dương hay xuất tinh sớm cũng đều có thể theo 8 tư thế cơ bản rồi biến thế ra mà giao hợp.

    Vì thế 8 chữ vành trong là 8 tư thế cơ bản rút ra từ Dịch lý. Bát quái đúng hơn là cách mô giải thích các biến thể của nó.

    Tú Bà đã nói với Kiều như sau :

    Khi khóe hạnh khi nét ngài
    Khi ngâm ngơi nguyệt khi cười cợt hoa
    Điều là nghề nghiệp trong nhà
    Đủ ngần ấy nếp mới là người soi

    Dạy cho nàng Kiều biết phối hợp một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo pha lẫn với nỗi đam mê, tình yêu và nghệ thuật chăn gối của 8 tư thế cơ bản, quả thật Tú Bà là môt bực thầy trong lãnh vực tình dục học hay nói một cách khác là tác giả của truyện Kiều là một người có một sở học uyên bác từ nhiều lĩnh vực trong đó có vấn đề tình dục, mà quyển Tố nữ Kinh cũng có thể là tài liệu cho ông tham khảo khi viết một tác phẩm có giá trị lưu lại ngàn năm cho hậu thế.
     
  16. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    thiếu 93 câu

    Hôm nay Goldfish tôi mới đọc đến Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đọc đến câu 405 thì phát hiện thấy thiếu 94 câu từ câu 308 đến câu 400 (các file tải ở post #1 và post #11 đều thiếu như nhau):

    305. Thoa này bắt được hư không,
    Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?
    Tiếng Kiều nghe lọt bên kia:

    (Phần ghi thiếu)

    Sinh rằng: Phác họa vừa rồi,
    Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa.
    Tay tiên gió táp mưa sa,
    Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.
    405.Khen: Tài nhả ngọc phun châu,

    Số câu đầy đủ từ câu 305 đến 405 như sau:

    305. Thoa này bắt được hư không ,
    Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?
    Tiếng Kiều nghe lọt bên kia:
    Ơn lòng quân tử sá gì của rơi,
    Chiếc thoa nào của mấy mươi,

    310. Mà lòng trọng nghĩa, khinh tài xiết bao!
    Sinh rằng: Lân lý ra vào,
    Gần đây nào phải người nào xa xôi
    Được rày nhờ chút thơm rơi
    Kể đà thiểu não lòng người bấy nay!

    315. Bấy lâu mới được một ngày
    Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là.
    Vội về thêm lấy của nhà,
    Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông
    Bậc mây đón bước ngọn tường,

    320. Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe !
    Sượng sùng giữ ý rụt rè
    Kẻ nhìn rõ mặt, người e cúi đầu
    Rằng: Từ ngẫu nhĩ gặp nhau,
    Thầm trông, trộm nhớ, bấy lâu đã chồn

    325. Xương mai tính đã rũ mòn
    Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay!
    Tháng tròn như gửi cung mây
    Trần trần một phận ấp cây đã liều!
    Tiện đây xin một hai điều,

    330. Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng!
    Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:
    Thói nhà băng tuyết , chất hằng phỉ phong
    Dầu khi lá thắm chỉ hồng
    Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha

    335. Nặng lòng xót liễu vì hoa
    Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa!
    Sinh rằng: Rày gió, mai mưa
    Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi!
    Dù chăng xét tấm tình si

    340. Thiệt đây mà có ích gì đến ai ?
    Chút chi gắn bó một hai
    Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh
    Khuôn thiêng dầu phụ tấc thành
    Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời

    345. Lượng xuân dầu quyết hẹp hòi
    Công đeo duổi chẳng thiệt thòi lắm ru!
    Lặng nghe lời nói như ru
    Chiều xuân dễ khiến, nét thu ngại ngùng
    Rằng: Trong buổi mới lạ lùng,

    350. Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang!
    Đã lòng quân tử đa mang
    Một lời vâng tạc đá vàng thủy chung.
    Được lời như cởi tấm lòng
    Giở kim thoa với khăn hồng trao tay

    355. Rằng: Trăm năm cũng từ đây,
    Của tin, gọi một chút này làm ghi.
    Sẵn tay khăn gấm, quạt quì ,
    Với cành thoa ấy tức thì đổi trao
    Một lời gắn bó tất giao

    360. Mái sau dường có xôn xao tiếng người
    Vội vàng lá rụng hoa rơi
    Chàng về viện sách, nàng dời lầu trang
    Từ phen đá biết tuổi vàng
    Tình càng thắm thía dạ càng ngẩn ngơ

    365. Sông Tương một dải nông sờ
    Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia
    Một tường tuyết trở sương che
    Tin xuân đâu dễ đi về cho năng
    Lần lần ngày gió đêm trăng

    370. Thưa hồng, rậm lục , đã chừng xuân qua
    Ngày vừa sinh nhật ngoại gia,
    Trên hai đường , dưới nữa là hai em
    Tưng bừng sắm sửa áo xiêm
    Biện dâng một lễ xa đem tấc thành

    375. Nhà lan thanh vắng một mình
    Ngẫm cơn hội ngộ đã đành hôm nay
    Thì trân thức thức sẵn bày
    Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường
    Cách hoa sẽ đặng tiếng vàng

    380. Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông
    Trách lòng hờ hững với lòng
    Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu
    Những là đắp nhớ đổi sầu
    Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm .

    385. Nàng rằng: Gió bắt mưa cầm,
    Đã cam tệ với tri âm bấy chầy
    Vắng nhà được buổi hôm nay
    Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng.
    Lần theo núi giả đi vòng,

    390. Cuối tường dường có nẻo thông mới rào;
    Xắn tay mở khoá động Đào ,
    Rẽ mây trong tỏ lối vào Thiên Thai .
    Mặt nhìn mặt, càng thêm tươi
    Bên lời vạn phúc , bên lời hàn huyên

    395. Sánh vai về chốn thư hiên
    Góp lời phong nguyệt , nặng nguyền non sông
    Trên yên bút giá thi (*) đồng
    Đạm thanh một bức tranh tùng treo lên
    Phong sương được vẻ thiên nhiên

    400. Mặt (**) khen nét bút càng nhìn càng tươi
    Sinh rằng: phác hoạ vừa rồi
    Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa.
    Tay tiên gió táp mưa sa,
    Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.
    405. Khen: Tài nhả ngọc phun châu,
    ------
    (*) Có bản ghi là “thư”
    (**) Có bản ghi là "Liếc"
    Nguồn: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    http://www.tuoitho.net/diendan/index.php?action=literature&title=tho\*%20kie\^\%6 0u&page=2
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     
  17. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    CHÂU VỀ HỢP PHỐ:
    “ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH”
    BẢN KINH DO NGUYỄN HỮU LẬP CHÉP TAY NĂM 1870

    Tác giả: Nguyễn Quảng Tuân
    Nguồn: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Trong tham luận được đính kèm sau đây, tác giả cho biết: Ngày 27-2-2006, khi có được quyển Đoạn trường tân thanh, bản gốc do Nguyễn Hữu Lập sao chép, chúng tôi đã kiểm soát ngay (…). Cho nën có được bản gốc chúng tôi mới có điều kiện để nghiên cứu tường tận hơn. Như về khảo dị, Nguyễn Hữu Lập ghi tất cả 75 trường hợp thì Kiều Oánh Mậu đã sửa theo 45 trường hợp”, và tác giả đã nêu ra 9 câu sau làm ví dụ:

    Câu 222: Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn
    Câu 361: Vội vàng lá rụng hoa rơi
    Câu 442: Vì hoa cho phải đánh đường tìm hoa
    Câu 1391: Quyết nghe biện bạch một bề
    Câu 1793: Mày ai trăng mới in ngần
    Câu 2097: Mụ càng khua đuổi cho liền
    Câu 2490: E dè sóng gió, hãi hùng nước sa
    Câu 2855: Bẻ bai rầu rĩ tiếng tơ
    Câu 3087: Chàng rằng: Nói khéo lạ đởi (*)

    Tác giả cho biết thêm: “quyển Đoạn trường tân thanh do Tiểu Tô Lâm Noạ Phu Nguyễn Hữu Lập sao chép ở Kinh đô Huế năm 1870 (Tự Đức thứ 23) đúng là một bản Kinh vì có những câu mà sau này bản Đoạn trường tân thanh do Kiều Oánh Mậu chú thích in năm 1902 cũng có ghi là “Kinh bản cải” nhưng ông chỉ chép theo bản Kinh có 12 câu”. 12 câu đó là:

    Câu 240: Nách tường bông liễu bay sang láng giềng.
    Câu 531: Mở xem thủ bút nghiëm đường,
    Câu 532: Nhắn rằng: “Thúc phụ xa đường mệnh chung.
    Câu 533: Hãy còn ký táng Liëu Đông,
    Câu 534: Cố hương khơi diễn nghìn trùng sơn khë.
    Câu 535: Rày đưa linh thấn về quë,
    Câu 536: Thế nào con cũng phải về hộ tang.”
    Câu 1507: Dễ mà ép xẩm luồn kim.
    Câu 1552: Cho người tham ván bán thuyền biết tay.
    Câu 1682: Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
    Câu 1705: Đành rằng nàng đã cửu nguyën
    Câu 1838 : Bắt nàng rót rượu chực hầu đôi nơi

    Tác giả còn cho biết thêm: “Những câu sau này bản Kiều Oánh Mậu chỉ ghi là “Kinh bản cải” ở phần chú thích còn trong văn bản vẫn chép theo bản Phường”, và ông đã nêu ra 22 câu:

    Câu 1827: Nhân làm sao đến thế này,
    Câu 1828: Thôi thôi hẳn đã mắc tay mặt thù.
    Câu 1829: Thương ôi! Mảnh sắt vào lò,
    Câu 1930: Bấy lâu nay biết giày vò đến đâu.
    Câu 1931: Nỗi lòng chẳng đánh mà đau,
    Câu 1832: Đương cười nói bỗng mặt rầu lệ sa.
    Câu 1885: Sớm khuya hầu hạ đài doanh,
    Câu 1886: Nét sầu khôn cưỡng, giọt tình còn hoen.
    Câu 1887: Tiều thư trông liếc quở liền:
    Câu 1888: “Sa mày nặng mặt bởi duyën cớ gì?”
    Câu 1889: Bì tiën giao lại tức thì,
    Câu 1890: Cậy chàng hỏi nó: “Rằng vì làm sao?”
    Câu 1891: Sinh đà ruột héo như bào,
    Câu 1892: Nói ra chẳng tiện, trông vào sao đang.
    Câu 1893: Loanh quanh cua lọt bò sàng,
    Câu 1894: Sợ đây thương đó hai đàng chưa xong.
    Câu 1895: Dưới thềm trën ghế cùng trông,
    Câu 1896: Một lời khôn mở, hai dòng đã sa.
    Câu 1897: Lấy lòng giả cách hỏi tra,
    Câu 1898: Thân cung nàng đã trình qua một tờ.
    Câu 1899: Xem rồi đưa lại tiểu thư,
    Câu 1902: Thoắt trông dường cũng ngẩn ngơ chút tình.
    ----------
    Chú thích của Goldfish:

    Tôi rất làm tiếc là trong ebook đã quên ghi nguồn.
    (*) Có lẽ “đời” đã ghi sai là “đởi”
     
  18. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    CHÂU VỀ HỢP PHỐ:
    “ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH”
    BẢN KINH DO NGUYỄN HỮU LẬP CHÉP TAY NĂM 1870

    Tác giả: Nguyễn Quảng Tuân
    Nguồn: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Trong tham luận được đính kèm sau đây, tác giả cho biết: Ngày 27-2-2006, khi có được quyển Đoạn trường tân thanh, bản gốc do Nguyễn Hữu Lập sao chép, chúng tôi đã kiểm soát ngay (…). Cho nën có được bản gốc chúng tôi mới có điều kiện để nghiên cứu tường tận hơn. Như về khảo dị, Nguyễn Hữu Lập ghi tất cả 75 trường hợp thì Kiều Oánh Mậu đã sửa theo 45 trường hợp”, và tác giả đã nêu ra 9 câu sau làm ví dụ:

    Câu 222: Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn
    Câu 361: Vội vàng lá rụng hoa rơi
    Câu 442: Vì hoa cho phải đánh đường tìm hoa
    Câu 1391: Quyết nghe biện bạch một bề
    Câu 1793: Mày ai trăng mới in ngần
    Câu 2097: Mụ càng khua đuổi cho liền
    Câu 2490: E dè sóng gió, hãi hùng nước sa
    Câu 2855: Bẻ bai rầu rĩ tiếng tơ
    Câu 3087: Chàng rằng: Nói khéo lạ đởi (*)

    Tác giả cho biết thêm: “quyển Đoạn trường tân thanh do Tiểu Tô Lâm Noạ Phu Nguyễn Hữu Lập sao chép ở Kinh đô Huế năm 1870 (Tự Đức thứ 23) đúng là một bản Kinh vì có những câu mà sau này bản Đoạn trường tân thanh do Kiều Oánh Mậu chú thích in năm 1902 cũng có ghi là “Kinh bản cải” nhưng ông chỉ chép theo bản Kinh có 12 câu”. 12 câu đó là:

    Câu 240: Nách tường bông liễu bay sang láng giềng.
    Câu 531: Mở xem thủ bút nghiëm đường,
    Câu 532: Nhắn rằng: “Thúc phụ xa đường mệnh chung.
    Câu 533: Hãy còn ký táng Liëu Đông,
    Câu 534: Cố hương khơi diễn nghìn trùng sơn khë.
    Câu 535: Rày đưa linh thấn về quë,
    Câu 536: Thế nào con cũng phải về hộ tang.”
    Câu 1507: Dễ mà ép xẩm luồn kim.
    Câu 1552: Cho người tham ván bán thuyền biết tay.
    Câu 1682: Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
    Câu 1705: Đành rằng nàng đã cửu nguyën
    Câu 1838 : Bắt nàng rót rượu chực hầu đôi nơi

    Tác giả còn cho biết thêm: “Những câu sau này bản Kiều Oánh Mậu chỉ ghi là “Kinh bản cải” ở phần chú thích còn trong văn bản vẫn chép theo bản Phường”, và ông đã nêu ra 22 câu:

    Câu 1827: Nhân làm sao đến thế này,
    Câu 1828: Thôi thôi hẳn đã mắc tay mặt thù.
    Câu 1829: Thương ôi! Mảnh sắt vào lò,
    Câu 1930: Bấy lâu nay biết giày vò đến đâu.
    Câu 1931: Nỗi lòng chẳng đánh mà đau,
    Câu 1832: Đương cười nói bỗng mặt rầu lệ sa.
    Câu 1885: Sớm khuya hầu hạ đài doanh,
    Câu 1886: Nét sầu khôn cưỡng, giọt tình còn hoen.
    Câu 1887: Tiều thư trông liếc quở liền:
    Câu 1888: “Sa mày nặng mặt bởi duyën cớ gì?”
    Câu 1889: Bì tiën giao lại tức thì,
    Câu 1890: Cậy chàng hỏi nó: “Rằng vì làm sao?”
    Câu 1891: Sinh đà ruột héo như bào,
    Câu 1892: Nói ra chẳng tiện, trông vào sao đang.
    Câu 1893: Loanh quanh cua lọt bò sàng,
    Câu 1894: Sợ đây thương đó hai đàng chưa xong.
    Câu 1895: Dưới thềm trën ghế cùng trông,
    Câu 1896: Một lời khôn mở, hai dòng đã sa.
    Câu 1897: Lấy lòng giả cách hỏi tra,
    Câu 1898: Thân cung nàng đã trình qua một tờ.
    Câu 1899: Xem rồi đưa lại tiểu thư,
    Câu 1902: Thoắt trông dường cũng ngẩn ngơ chút tình.
    ----------
    Chú thích của Goldfish:

    Tôi rất làm tiếc là trong ebook đã quên ghi nguồn.
    (*) Có lẽ “đời” đã ghi sai là “đởi”
     

    Các file đính kèm:

    namphuong.hqh thích bài này.
  19. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    ĐOẠN TRƯỜNG AI CÓ QUA CẦU MỚI HAY!


    Trong bài Phiên âm chính xác Truyện Kiều để bào toàn từ ngữ cổ của tiếng Việt, tác giả Nguyễn Khắc Bảo có nêu ra một số câu mà ông cho là đúng so với các câu tương ứng với bản Đào Duy Anh 1979. Các câu thơ trích dẫn trong bài này không có câu nào trùng với các câu thơ được Nguyễn Quảng Tuân nêu trong bài Châu về hợp phố: “Đoạn trường tân thanh” - bản Kinh do Nguyễn Hữu Lập chép tay năm 1870 – một di sản văn hoá vô cùng quí giá, và vì ông Nguyễn Quảng Tuân chỉ nêu các câu thơ trong bản mà ông gọi là bản “Kinh nôm cổ” hoặc bản “Kinh thời Tự Đức” (bản KTTĐ) mà không nêu các câu tương ứng trong bản khác, nên chúng tôi tạm nêu các câu thơ tương ứng trích từ bản “Thơ Kiều” (bản TK), không thấy ghi chép từ sách nào, đăng trên website Tuoitho.Net, để gọi là tạm góp phần khảo dị:

    Câu 222: Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn
    TK: Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn.

    Câu 361: Vội vàng lá rụng hoa rơi
    TK 361: Vội vàng lá rụng hoa rơi,

    Câu 442: Vì hoa cho phải đánh đường tìm hoa
    TK 442: "Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa

    Câu 1391: Quyết nghe biện bạch một bề
    TK 1391: Quyết ngay biện bạch một bề,

    Câu 1793: Mày ai trăng mới in ngần
    TK 1793: Mày xanh trăng mới in ngần,

    Câu 2097: Mụ càng khua đuổi cho liền
    TK 2094: Mụ càng xua đuổi cho liền,

    Câu 2490: E dè sóng gió, hãi hùng nước sa
    TK 2486: E dè sóng vỗ hãi hùng nước sạ

    Câu 2855: Bẻ bai rầu rĩ tiếng tơ
    TK 2851: Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ,

    Câu 3087: Chàng rằng: Nói khéo lạ đởi
    TK 3083: Chàng rằng: "Nói cũng lạ đời,

    * *
    *
    Câu 240: Nách tường bông liễu bay sang láng giềng.
    TK 240: Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.

    Câu 531: Mở xem thủ bút nghiêm đường,
    TK 531: Đem tin thúc phụ từ đường,

    Câu 532: Nhắn rằng: “Thúc phụ xa đường mệnh chung.
    TK 532: Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề.

    Câu 533: Hãy còn ký táng Liêu Đông,
    TK 533: Liêu Dương cách trở sơn khê,

    Câu 534: Cố hương khơi diễn nghìn trùng sơn khê.
    TK 534: Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang.

    Câu 535: Rày đưa linh thấn về quë,
    TK 535: Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng,

    Câu 536: Thế nào con cũng phải về hộ tang.”
    TK 536: Băng mình lẻn trước đài trang tự tình.

    Câu 1507: Dễ mà ép xẩm luồn kim.
    TK 1507: "Dễ lòa yếm thắm trôn kim,

    Câu 1552: Cho người tham ván bán thuyền biết tay.
    TK 1552: "Cho người thăm ván bán thuyền biết tay."

    Câu 1682: Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
    TK 1682: "Dễ ai rấp thảm quạt sầu cho khuây"

    Câu 1705: Đành rằng nàng đã cửu nguyên
    TK 1705: Nước trôi hoa rụng đã yên,

    Câu 1838 : Bắt nàng rót rượu chực hầu đôi nơi
    TK 1836: Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi

    * *
    *
    Câu 1827: Nhân làm sao đến thế này,
    TK 1825: "Nhân làm sao đến thế này?

    Câu 1828: Thôi thôi hẳn đã mắc tay mặt thù.
    TK 1826: "Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi!"

    Câu 1829: Thương ôi! Mảnh sắt vào lò,
    TK 1827: Sợ quen dám hở ra lời,

    Câu 1830: Bấy lâu nay biết giày vò đến đâu.
    TK 1828: Khôn ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sạ

    Câu 1831: Nỗi lòng chẳng đánh mà đau,
    TK 1829: Tiểu thư trông mặt hỏi tra:

    Câu 1832: Đương cười nói bỗng mặt rầu lệ sa.
    [Bản TK không có câu tương ứng]

    Câu 1830: "Mới về có việc chi mà động dong ?"
    [Bản TK không có câu tương ứng]

    Câu 1885: Sớm khuya hầu hạ đài doanh,
    TK 1885: Sớm trưa hầu hạ đài doanh,

    Câu 1886: Nét sầu khôn cưỡng, giọt tình còn hoen.
    TK 1886: Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra

    Câu 1887: Tiểu thư trông liếc quở liền:
    TK 1887: Lựa lời nàng mới thưa qua:

    Câu 1888: “Sa mày nặng mặt bởi duyên cớ gì?”
    TK 1888: "Phải khi mình lại xót xa nỗi mình."

    Câu 1889: Bì tiên giao lại tức thì,
    TK 1889: Tiểu thư hỏi lại Thúc sinh:

    Câu 1890: Cậy chàng hỏi nó: “Rằng vì làm sao?”
    TK 1890: "Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao!"

    Câu 1891: Sinh đà ruột héo như bào,
    TK 1891: Sinh đà rát ruột như bào,

    Câu 1892: Nói ra chẳng tiện, trông vào sao đang.
    TK 1892: Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng đang!

    Câu 1893: Loanh quanh cua lọt bò sàng,
    TK 1893: Những e lại lụy đến nàng,

    Câu 1894: Sợ đây thương đó hai đàng chưa xong.
    TK 1894: Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra

    Câu 1895: Dưới thềm trên ghế cùng trông,
    [Bản TK không có câu tương ứng]

    Câu 1896: Một lời khôn mở, hai dòng đã sa.
    [Bản TK không có câu tương ứng]

    Câu 1897: Lấy lòng giả cách hỏi tra,
    TK 1895: Cúi đầu quỳ trước sân hoa,

    Câu 1898: Thân cung nàng đã trình qua một tờ.
    TK 1896: Thân cung nàng mới thảo qua một tờ.

    Câu 1899: Xem rồi đưa lại tiểu thư,
    TK 1897: Diện tiền trình với Tiểu thư,

    Câu 1902: Thoắt trông dường cũng ngẩn ngơ chút tình.
    TK 1898: Thoắt xem dường cũng ngẩn ngơ chút tình.

    Qua trích dẫn trên, ta thấy trừ vài cặp giống nhau (2 cặp đầu và cặp cuối), có những cặp chỉ khác nhau một vài chữ, có những cặp hoàn toàn khác nhau; có đoạn rất khác nhau (từ 531 đến 536); thậm chí có đoạn hoàn toàn khác nhau cả về số câu như đoạn từ câu 1893 đến câu 1897 trong bản KTTĐ, gồm 5 câu:

    Câu 1893: Loanh quanh cua lọt bò sàng,
    Câu 1894: Sợ đây thương đó hai đàng chưa xong.
    Câu 1895: Dưới thềm trên ghế cùng trông,
    Câu 1896: Một lời khôn mở, hai dòng đã sa.
    Câu 1897: Lấy lòng giả cách hỏi tra,

    thì trong bản TK chỉ có 3 câu:

    TK 1893: Những e lại lụy đến nàng,
    TK 1894: Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra
    TK 1895: Cúi đầu quỳ trước sân hoa,

    Một điều nữa cũng đáng nói là bản TK lại thiếu mất câu thơ rất hay mà hầu hết những người biết Truyện Kiều đều thuộc: “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay” (Câu 1682 trong bản KTTĐ). Trong khi đó, câu 1682 trong các bản không ghi chép từ sách nào như bản TK, bản đăng trên Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (rất giống với bản được thực hiện ebook, có đánh số câu, có chú giải và cũng thiếu 93 câu), bản đăng trên website Việt Nam Thư Quán (không đánh số câu, không có chú giải) chép giống với bản 1866 (Bản Liễu Văn Đường – Nghệ An): “Dễ ai rấp thảm quạt sầu cho khuây”

    Để khép lại bài viết này, chúng tôi xin chép riêng hai câu 1681 và 1682 đăng trên website Nôm Na Group (Hà Nội):

    Bản 1866 (Bản Liễu Văn Ðường, Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị):

    Thương càng nghĩ, nghĩ càng đau,
    Dễ ai lấp thảm quạt sầu cho khuây.

    Bản 1870 (Bản Kinh thời Tự Đức, Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị):

    KỂ bao xiết nỗi thảm sầu, (*)
    Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.

    Bản 1871 (Bản Liểu Văn Đường, Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị):

    Thương càng nghĩ, nghĩ càng đau,
    Dễ ai lấp (?) thảm, quạt sầu cho -" (**)

    Bản 1902 (Bản Kiều Oánh Mậu; Sưu tầm, khảo chú & chế bản Nôm: Nguyễn Thế & Phan Anh Dũng; Hiệu đính chữ Nôm: Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Đình Thảng):

    Thương càng nghĩ, nghĩ càng đau
    Đoạn trường ai có qua cầu mới hay

    Cũng xin nói thêm là trong bản 1870, Nguyễn Quảng Tuân đã ghi chú thích hai câu 1681 và 1682 như sau:

    Câu 1681: Thương càng nghĩ, nghĩ càng đau" (LVĐ)
    Câu 1682: Dễ ai lấp (rấp) thảm quạt sầu cho khuây (LVĐ)

    -------
    (*) Chữ "KỂ" Goldfish tôi chép đúng như nguyên bản
    (**) Thiếu một chữ sau chữ "cho" (phần chữ Nôm cũng thiếu)
     
  20. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa? (1)

    Trên tạp chí Kiến thức ngay nay số 637, ngày 20.04.08, mục Chuyện Đông Chuyện Tây, ông Ưng Thành (Huế) có nêu thắc mắc như sau:

    "Tôi cũng như những người cùng lứa tuổi đều rất mê truyện Kiều. Có điều, nhiều câu tưởng chừng rất đơn giản, đọc lên nghe rất êm tai, nhưng đôi khi không hiểu hết nghĩa. Chẳng hạn như câu tả Kim Trọng:

    “Phong tư tài mạo tót vời,
    Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa”

    Câu 6 thì không có gì để nói, song câu 8 mới là lạ. “Phong nhã”, “hào hoa” thì tôi hiểu, nhưng nghĩa cả câu 8 là gì thì chịu! Thử hỏi “vào trong” là vào trong đâu, còn “ra ngoài” là ra ngoài cái gì?

    Trong cuốn Việt ngữ nghiên cứu, khi bàn về nghĩa các chữ “Trên, Dưới, Trong, Ngoài, Lên, Xuống, Vào, Ra”, nhà báo Phan Khôi đã viết:

    “Một ví dụ nữa cũng trong Truyện Kiều đủ chứng tỏ nghĩa ấy; “Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa”, là: vào tận trong phong nhã, vượt ra ngoài hào hoa.

    (Câu Truyện Kiều này có thể có ba nghĩa, mà nghĩa trên, tôi cho là thông hơn cả. Nghĩa thứ nhất: vào trong nhà thì phong nhã, ra ngoài với xã hội thì hào hoa. Nhưng như thế thì phải nói ở trong, sao lại nói vào trong? Nhà của mình ở, còn vào gì nữa? Vả lại, như thế thì ra ngoải không phong nhã hay sao? Thật là không ổn. Nghĩa thứ hai khá hơn: Đây là cách đặt câu “hỗ văn kiến nghĩa”, vào trong ra ngoài đều phong nhã hào hoa cả.. Nhưng cũng còn đáng ngại: Trong là đâu? Sao lại phải vào? Nghĩa thứ ba như trên, tỏ ra rằng Kim Trọng phong nhã cực kỳ phong nhã mà không thèm theo thói hào hoa là thói công tử. Có thể bẻ rằng Kim Trọng đi ra cỡi ngựa, mặc áo đẹp, có vài hề đồng đi theo, chẳng hào hoa là gì? Nhưng có thể cãi rằng đó chỉ là mực tường của nhà Nho “phú hậu”, không gọi là hào hoa được, phải như Thúc Sinh: “Trăm ngàn đổ một trận cười như không” mới thật là hào hoa. Tóm lại, tám chữ này, Nguyễn Du muốn tả Kim Trọng là một nhà Nho đứng đắn).

    Cách giải thích này cũng chung chung như các bài viết khác mà tôi đã được đọc, nên chưa thấy vừa lòng lắm. Nhờ báo KTNN giải thích thêm".

    Thắc mắc trên được Liêu Hân trả lời như sau:

    Không riêng gì ông mà có lẽ người Việt nào còn yêu tiếng Việt cũng mê Truyện Kiều. Với một chút thiên ái, chúng tôi cho rằng Truyện Kiều là tặng vật hy hữu mà thi hào Tố Như đã gởi lại cho hậu thế chúng ta. Ngôn ngữ Truyện Kiều đã đạt đến “tam hoa tụ đỉnh”, “lô hoả thuần thanh” với hằng sa ẩn ngữ, mà về bình diện ngôn ngữ lẫn tư tưởng, hậu thế chúng ta chưa hiểu cho thật thấu đáo.

    Riêng cách hiểu câu “Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa” của cụ Phan Khôi cũng là cách hiểu thông thường của nhiều sách chú giải, thường giải thích “trong, ngoài” theo nghĩa đối lập theo không gian (ví dụ: vào trong nhà, ra ngoài đường) hoặc đối lập về môi trường (ví dụ: ở trong nhà và ra ngoài xã hội)…

    Song ở đây, thi hào Nguyễn Du chỉ dùng biện pháp tu từ đơn giản mang tính ước lệ. Trong câu này, “vào trong” có nghĩa là “tiềm ẩn vào bên trong” còn “ra ngoài” có nghĩa là “biểu hiện ra bên ngoài”. Câu này tả con người Kim Trọng: phần bên trong tâm hồn thì phong nhã, còn phong cách ứng xử bề ngoài thì hào hoa. Chỉ có ông Trương Cam Vũ với tâm hồn tài hoa thượng đạt hiểu theo nghĩa này nên dịch thành một câu chữ Hán tuyệt vời: “Nội hoài phong nhã biểu hào hoa: 內 懷 風 雅 表 豪 華 ”.

    Rất mong được tiếp tục hầu chuyện với ông với những câu hỏi khác về Truyện Kiều.

    -------------------------
    (1) Tiêu đề do Goldfish tạm đặt.
    __________________
     
    Nguyễn Trọng Nghĩa ️ thích bài này.
Moderators: Ban Tang Du Tử

Chia sẻ trang này