Truyện ngắn đặc sắc - Nhiều tác giả

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi 4DHN, 5/10/13.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Thư nhà

    Hồ PHƯƠNG

    Đây là một trong những truyện ngắn đầu tay của nhà văn Hồ Phương viết
    trong thời gian đang diễn ra cuộc kháng chiến 9 năm lần thứ nhất (1945 -
    1954). Qua truyện ngắn bạn đọc có thể thấy hình tượng người nông dân mặc
    áo lính ra trận nhưng lòng dạ vẫn hướng về quê hương bản quán nơi có lũy
    tre xanh, những cánh đồng bát ngát và những người thân yêu ruột thịt.

    Tôi ghếch súng vào ba-lô định quay ra làm giấc ngủ con thì Lượng đưa cho tôi
    một mảnh giấy:
    - Cho Phượng xem thư của em mình vừa gửi xong.
    Tôi giở ra, bức thư chỉ là một mảnh giấy nhỏ đã ố nước. Chữ nhòe hết già nửa.
    Chỉ còn đọc được mấy chữ đầu và vài dòng cuối cùng:
    .... ngày 15-12-1948
    Anh Lượng kính mến,
    Em gửi thư này không biết có tới được tay anh. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ..
    . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
    . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
    ...Đông Triều bây giờ cơ cực lắm anh ạ. Chúng nó đóng không biết bao nhiêu
    là đồn nữa. Chúng nó càn quét Đông Triều cũng không còn biết bao nhiều bận
    nữa. Làng ta chúng đốt gần trụi hết.
    Pháp đang cố lập hội tề nhưng không được. Dân làng đói rét, khổ sở, may nhà
    ta thày mẹ còn sống cả, chỉ hay ốm vặt thôi. Chị Chi vẫn còn ở làng. Chị ấy bảo
    nhất định chờ anh đấy.
    Thôi em không viết nữa. Em còn muốn viết thật dài cho anh nhưng hồi này em
    yếu lắm, sức em chỉ còn một phần ba ngày trước thôi anh ạ. Chúc anh mạnh
    khỏe giết được nhiều Tây. Bao giờ rỗi, anh xin phép về thăm nhà nhé.
    Em Lân
    Tôi bỏ thư xuống:
    - Lâu nhỉ! Từ tháng tám bây giờ mới tới nơi. Được tin nhà cũng yên bụng đấy
    nhỉ. Thế nào? Lượng có định về thăm nhà, thăm cô Chi nào đó không?
    Lượng bỏ chiếc mũ nan, vuốt mái tóc xõa xuống trán, cười:
    - Mình về rồi! Về trước khi thư này đến đây.
    - Hồi nào nhỉ?
    Sau trận Đồng Khuy ở Đông bắc, mình có công tác đi liên lạc với đội võ trang
    ngoài Hồng Quảng nên tiện thể ghé về nhà một buổi. Hơn bốn tháng rồi còn
    gì. Có buồn ngủ không, mình kể lại cho mà nghe, cũng nhiều cái rắc rối lắm cơ
    Phượng ạ...
    Tôi cõng ba-lô, giắt hai quả lưu đạn, khoác một khẩu tiểu liên, lên đường về
    qua lối Mai Xiu. Mấy hôm ấy, mưa dườn dượt, mưa thối đất thối cát, mưa trên
    rừng núi đáng lẽ buồn chết người đi được, nhưng trái lại, tôi thấy vui ghê, vì
    chắc chắn chuyến này thế nào cũng được rẽ qua nhà một tí. Anh tính ba năm
    rồi còn gì...
    Quần xắn móng lợn, áo tơi lá cuốn tròn, chiếc gậy song cầm chắc trong tay, thế
    là cứ đi phăng phăng. Đường trơn thế mà không ngã cái nào cả. Chỉ mong bay
    ngay về để được trông thấy ông cụ, bà cụ, chú Lân và Chi... người yêu của tôi.
    Cứ một mình xuyên rừng, qua suối, đi miết hơn một ngày mới về tới Mai Xiu.
    Vết tích cuộc nhảy dù càn quét vẫn còn. Nhà cửa cháy trụi; trâu bò, người chết
    ngổn ngang. Trận Đồng Khuy chính tay tôi đâm sáu tên giặc, đốt cháy ba nóc
    nhà như không, mà về đây tôi thấy lạnh người. Tôi lại sực nhớ tới Đông Triều,
    quê cũ. Một người bạn cho biết hồi đầu hè: "Đông Triều tan tác, điêu linh lắm!
    Giặc tàn phá không còn thương một búi cỏ. Làng tôi cũng bị đốt ra tro. Nhưng
    gia đình tôi vẫn toàn vẹn. Chi vẫn chờ tôi".
    Cái đau đớn vì quê hương bị tàn phá, thêm cái vui vì gia đình bình yên càng
    làm cho tôi sốt ruột, muốn về cho chóng. Trời càng mưa tôi càng đi khỏe. Thế
    rồi tôi vượt Mai Xiu, sang Huyền Bồ, núi rừng vẫn ngàn rậm rạp. Đường đi tắt,
    nhỏ teo hoang vu.
    Cỏ dại cao chấm rốn. Tôi vẫn đi miết không mỏi. Không khí ở đây đã thấy nhè
    nhẹ, thoáng thoáng gió bể. Chao ôi! Đông Triều... Hồng Gai.
    Đêm tối bưng, lạnh buốt. Gió bấc hun hút. Phải vượt qua con sông Cầu, giặc đã
    gác kín.
    Tối, sông nhỏ nom cũng thành mênh mông. Ngại ngùng thật. Tôi tắc lưỡi.
    Đồng Khuy cũng chẳng coi mùi nữa là... Thế là Sten, lựu đạn, quần áo buộc
    lên đầu, tôi khẽ rẽ lau lội xuống. Nước rào rào. Ngại quá. Đèn trên đồn đỏ
    nhuộm như ứa máu.
    Tôi bơi đứng, cố đạp nhanh sang bên bờ. Chợt nghe đằng sau cũng có tiếng
    nước oàm oạp. Ngoảnh lại thấy hai bóng người đang bơi theo. Thôi chết rồi!
    Đúng là tụi giặc đuổi theo rồi. Đời tôi có lẽ tàn ở đây chắc. Tôi nghiến răng,
    bao nhiêu sức đổ ra hết, đạp phăng phăng. Đến bãi cát, mệt quá, tôi lảo đảo
    ngồi bệt xuống. Hai bóng người cũng vừa nhoài lên. Tôi lặng rút tiểu liên, lên
    đạn, từ từ đưa lên ngang sườn... Một giọng đàn bà:
    - Ai?
    Tôi dằn từng tiếng:
    - Giơ tay lên! Tiến lại gần đây!
    Dưới ánh sao lờ mờ, tôi nhận ra hai người quen quen.
    - Trời! Ai như anh Lượng?
    Tôi nhận ra rồi:
    - ồ! Chị Thu, chị Viên.
    Đây là hai chị cán bộ của Đông Triều khi trước. Họ ra hiệu cho tôi nói khẽ rồi
    chỉ tay về phía ga. Tôi hiểu ý, khoác vội chiếc áo, xách súng rảo cẳng theo hai
    người về phía một tòa miếu sát dãy núi đá.
    Chúng tôi vào một khu vườn rậm. Lâu lắm tôi mới gặp Thu, Viên. Ngày trước
    họ là hai thanh nữ đẹp có tiếng trong vùng. Bây giờ họ đã có vẻ điềm đạm, một
    nét nhăn mờ trên má.
    Thu, Viên vẫn hoạt động cho đoàn thể! Cơ sở phụ nữ, du kích, các đoàn thể
    cứu quốc của Đông Triều bây giờ vững lắm rồi.
    "Đông Triều hồi trước xác xơ khốn đốn thật. Dân ăn cháo, ăn bẹ để kháng
    chiến. Nhiều lúc khốn khó, tưởng chừng có thể tan vỡ. Nhưng bây giờ Đông
    Triều cứng cáp lắm rồi. Anh Lượng ạ! Đông Triều đang sẵn sàng chờ các anh
    về. Đông Triều đang giằng co với giặc, chống khủng bố, càn quét. Chính
    quyền bù nhìn của giặc không sao đặt nổi. Nhiều làng vẫn kháng chiến mạnh
    mẽ, chẳng hạn như làng anh...".
    Tôi bó gối ngồi nghe giọng nói ấm áp của Viên, thấy lòng nhẹ hẳn. "Đông
    Triều bây giờ cứng cáp lắm rồi... Nhiều làng vẫn kháng chiến mạnh mẽ, chẳng
    hạn như làng anh...".
    Tôi nhớ lại ngày theo bộ đội tới Đông Triều lên Việt Bắc, tôi đã phải ứa nước
    mắt nhìn lại Đông Triều.
    Tôi quay hỏi Viên, Thu:
    - Các chị có biết tin gì về nhà tôi không nhỉ?
    Thu lắc đầu nhìn xa xôi:
    - Cũng đã lâu không sang bên đó, không rõ lắm! Chỉ biết đại khái là các cụ,
    chú Lân vẫn mạnh. Còn Chi...
    Tôi nín thở.
    - Còn Chi, tôi nói anh phải bình tĩnh mà nghe nhé. Chi bị Pháp bắt, làm ô uế,
    rồi thả về. Và từ đó Chi cũng bắt đầu tích cực hoạt động. Bây giờ Chi là một
    cán bộ phụ vận của liên xã... - Và Thu, ngập ngừng - ... Chi nó không muốn
    bao giờ gặp anh nữa vì... Nhưng mà kể ra thì con bé cũng "gì" quá.
    Tôi bàng hoàng, lặng đi, nhưng rồi trấn tĩnh được ngay, sờ tay chỉ thấy mồ hôi
    trán nhơm nhớp. Thế mới biết cảm giác của người lính thành trai cũng là một
    điều hay thực.
    Tôi lảng sang chuyện khác:
    - Nội đêm nay tôi phải về tới nhà mà đường lối tắt không quen lắm. Hai chị nếu
    có thể cùng đi...
    Thu, Viên gật đầu. Về khuya sao càng sáng lạnh, xanh biếc, lấp lánh. Nhìn lên
    buồn buồn. Bỗng có tiếng quát tháo ngoài cửa miếu. Rồi ba phát súng nổ ròn.
    Giặc đến vây rồi! Thu, Viên cuống lên. Tôi lẳng lặng xách súng đứng dậy ra
    hiệu cho họ đi theo. Chúng tôi rẽ đám cây luồn ra để chạy lên núi, thì một tràng
    tôm-sơm rít qua đầu, chiếc mũ nan chồm lên, chực bay xuống.
    - Chúng nó kia kìa! Có ra không? Ông bắn bỏ mẹ bây giờ.
    Mặc! Tôi nhào ra, Thu, Viên chạy theo. Thế là ba đứa luồn vào các bụi cây dại,
    lần đường lên một chỏm núi xa nhất!
    Đằng sau, tụi Pháp, ngụy binh vẫn chửi om sòm, quạt tiểu liên vào các bụi cây
    sau miếu.
    Đến lưng chừng núi chúng tôi đứng lại thở. Thu lắc đầu:
    - Gian lao thật! Nhưng có phải có một lần này thôi đâu. Chúng tôi cứ phải qua
    lại mãi mãi. Chi nó gan và nhanh hơn chúng tôi nhiều.
    Nghe tiếng "Chi" người tôi nóng bừng. Tôi phất tay leo lên. Hai người hổn hển
    bò theo.
    Chừng nửa đêm tới đỉnh. Có một cái hang rộng. Chúng tôi dừng lại.
    Phía chân trời xa xa có đèn lấm chấm thành vệt dài. Thu chỉ tay:
    - Hồng Gai đấy!
    ờ mà Hồng Gai thật! Đèn điện sáng lờ mờ. Biển mênh mang đen sẫm, những
    cù lao lí tí.
    Gió bể thổi vào phần phật. Tôi đặt chiếc mũ nan, vuốt tóc thở dài. Mệt cũng có,
    buồn cũng có. Hồng Gai! Bao nhiêu là kỷ niệm hồi ông cụ tôi làm cai khu mỏ,
    tôi thư ký sở mỏ. Nghèo khổ. Chiều chiều tôi lê gót chân rã rời, buồn nản trên
    "kè" hay ngoài bãi Cháy nhìn bể mịt mùng, chim vật vờ trắng muốt. Tôi gặp
    Chi bán hàng rong. Chúng tôi hiểu nhau, yêu nhau. Đời tôi bắt đầu có chút ánh
    sáng. Rồi tôi và ông cụ được tham gia đoàn thể. Ngày Tổng khởi nghĩa, chúng
    tôi, cả Chi, về cướp Đông Triều.
    Cho đến nay! ồ... Cái thằng Pháp.
    - Chết chửa này! Nó bắn rách toang chiếc mũ của anh, anh Lượng này!
    Viên giơ chiếc mũ rách soạc trên chỏm. Tôi rùng mình. Viên đạn chỉ vào sâu
    thêm một chút nữa thì thôi...
    Đêm lạnh! Trời thăm thẳm. Sao xanh biếc đầy trời khó ngủ quá!
    Chiều hôm sau chúng tôi về tới làng. Từ xa đã thấy lũy tre đỏ xuộm vì bị đốt
    cháy. Tôi muốn chạy lên. Tôi lắng nghe tiếng lọc xọc của những khung cửi dệt
    trong làng vọng ra như những năm nào, ngày nghỉ từ Hồng Gai về thăm nhà.
    Nhưng không có gì cả. Đồng vắng ngắt, thênh thang lạnh như tha ma.
    Chúng tôi tới gần cổng làng. Bỗng uỳnh! uỳnh! Hai quả moóc-chi-ê nổ cách
    chúng tôi chừng ba mươi thước. Ba đứa nhoài sấp xuống! Rồi liên thanh réo
    ầm ầm cuối làng. Đạn xé không khí, rú rít.
    Thu tái mặt:
    - Chúng nó về càn quét! Chạy thôi anh!
    Tôi ngần ngừ, nhưng sau cả quyết:
    - Tôi nhất định phải vào! Hai chị chạy đi, mau!
    Thu, Viên nhìn nhau, nhìn tôi rồi rẽ xuống cánh ruộng chạy miết. Tôi thấy máu
    trong người muốn sôi lên. Tôi lên đạn:
    - Phải vào! ít nhất hạ cũng được hai mươi thằng có chết rồi mới hả.
    Tôi chạy tắt vào cổng làng, thấy giao thông hào chi chít. Tôi nhảy phốc xuống,
    chạy về phía một ngôi nhà gạch để chọn một tử giác an toàn nhất chĩa súng ra.
    Lúc bấy giờ tôi bình tĩnh lắm. Nhưng sự thực, tôi cũng ân hận: mình chết cũng
    không sao nhưng còn công tác? Tôi càng thấy người nóng như điên. Nhất định
    không cho giặc hạ nổi, tôi nghĩ thế.
    Súng dần dần ngớt. Nghe súng, tôi đoán được tình thế. Súng du kích bình tĩnh,
    chắc; súng giặc cuống quýt, lồng lộn.
    Sẩm tối, tiếng súng im hẳn. Thế là tụi giặc không vào sâu trong làng được. Tôi
    khoái quá, thấy tự kiêu hãnh, vì cái làng "xôi thịt" của tôi bây giờ đã đường
    hoàng chơi nhau được với giặc.
    Trời tối hẳn, tôi mới mò ra, ngồi lâu chân tê, đi dạch dẹo, óc mệt mỏi. Hình ảnh
    Thu, Viên chập chờn trong đầu.
    Đằng cuối làng có tiếng reo à à. ánh lửa hồng hồng, ngọn tre lá lăn tăn. Lại
    giặc chắc? Tôi nép vào một bức tường. Không! Tiếng cười tiếng hát. Có lẽ của
    dân làng. ờ mà biết đâu không có thày, mẹ, Chi, chú Lân ở đấy.
    Tôi rảo cẳng, tay nghênh ngang khẩu sten. Bỗng một tiếng thét ở lỗ con góc
    tường bật ra.
    - Ai! Đứng lại! Giơ tay lên!
    Một mồi lửa bừng lên. Anh du kích chạy ra. Tôi nhận rõ là con cụ Điều Năm.
    Nhưng hắn chưa nhận ra tôi. Hắn ghé sát vào mặt tôi mà nhìn mãi rồi reo:
    - Ơi trời ôi! Anh Lượng! Anh về bao giờ thế? Sao anh lại về vào lúc này! Tôi
    nghe nói anh bị... bị đạn ở Lũng Vài rồi cơ mà!
    Hắn nắm tay tôi nói liến thoắng. Hắn trẻ quá, vẫn tươi vui như cũ. Mấy anh du
    kích khác ùa ra. Toàn anh em thanh niên làng quen thuộc cả. Họ xoắn lấy hỏi
    chuyện. Tôi cảm động quá không nói được nên lời. Ngày tôi đi, làng mới có
    sáu tay súng mà bây giờ, theo lời họ, đã có hai trung đội thoát ly.
    - ồ anh về đúng lúc thắng trận! Chúng nó chỉ giết được hai con trâu, đốt cháy
    trụi một chòi canh. Dân làng đang mổ trâu "ăn khao" ngay cuối làng vui lắm,
    anh đi đến cả thể đi. Anh mới về không rõ chứ, ba xóm phía cuối làng, độ ba
    trăm thước, địch đặt vị trí, chỉ rình bắn vào làng. Chúng nó đốt làng ta bốn lần.
    Bốn lần bị đốt, bốn lần làng làm lại, chúng lại đốt. Cứ thế giằng co mãi. Nhưng
    cóc cần, ngày lên núi ở, tối lại về khai hội, mít-tinh, kiểm thảo, có lo gì. Truyền
    kiếp cho nó cũng chẳng lập được hội tề.
    Anh du kích nói một thôi say sưa, nóng bỏng.
    Chúng tôi kéo đến bãi cỏ trước nhà ông Xôi. Ba bốn đống lửa sáng lòa. Trai
    làng đang mổ hai con trâu bị Pháp bắn. Người đen nghịt. Anh em giới thiệu tôi.
    Cả làng hoan hô. Thế là mấy tràng 12,7 ùng ục reo lên. Đạn đi đâu cả. Vẫn
    vui, tôi kể mấy trận chiến thắng ở Đông Bắc làm quà. Dân làng lại hoan hô ầm
    ầm. Thoáng có tiếng xì xào:
    - Lượng con ông Độ đấy mà. Đi vệ quốc Việt Bắc có khác. Rắn rỏi đáo để. Rõ
    tội nghiệp về nhà bố mẹ chẳng còn.
    Tôi lạnh người. Run cả bàn tay. Bây giờ tôi mới nghĩ đến nhà. Một anh du kích
    khoác tay tôi ra chỗ vắng thì thầm:
    - Mấy lần Pháp về bắt lập hội tề đều bị đánh lui. Chuyến tháng trước nó về bắt
    được ông bà nhà đem về dụ không được, bắn rồi. Chú Lân bây giờ yếu lắm.
    ốm quặt quẹo luôn. Nó làm thư ký cho huyện đội bộ cách đây chừng sáu cây.
    Nó bảo hồi ông bà còn sống, nó gửi cho anh ba bốn lá thư mà không thấy trả
    lời.
    Đầu tôi nóng cháy. Tôi muốn khóc mà không ra nước mắt.
    - Anh có muốn gặp chú Lân thì mai. Còn chị Chi...
    Tôi ngắt lời:
    - Tôi biết rồi anh ạ. Việc ấy cũng không hề gì. Miễn là Chi vẫn trung thành với
    dân với nước.
    Có tiếng còi rúc, anh du kích xin lỗi về tập hợp. Tôi lặng lẽ vào một ngõ tối.
    Tôi tìm đường về nhà.
    Quanh co mấy lối rào mục đổ xiêu vẹo. Tôi tới chiếc cổng tre của nhà. Tim tôi
    như ngừng đập. Một cái gì mừng mừng tủi tủi làm tôi muốn rơi nước mắt.
    Cánh cổng vẫn như xưa, mốc rêu, vết giấy dán nham nhở. Chắc là dấu vết
    những bức tranh ông tướng của chú Lân hồi còn bé.
    Tôi đẩy cánh cửa, tiếng kẹt lạnh người. Tôi đã chắc chắn là không còn ai ra
    đón tôi nữa nên hững hờ bước vào mảnh sân đã lên rêu trơn trơn. Cỏ um tùm
    mấy nhóm. Cuối sân, chiếc nhà tranh năm gian vẫn còn, nhưng một đầu đổ
    sụp. Hai chiếc cột cháy thui đứng sừng sững.
    Tôi rón rén bước vào hiên, mấy cửa phên cót ghép tre kín mít. Tôi đẩy ra. Lòng
    nhà tối om, lạnh buốt, tiếng muỗi vo ve buồn xé ruột. Tôi bước hẳn vào, mái
    tranh thủng toang toang. ánh sao nhợt nhạt lọt vào từng mảng mờ mờ dưới nền
    đất ẩm.
    Tôi đứng lặng người, nghe rõ tiếng tim đập. Tôi lòe bật lửa. Trên giường, một
    mảnh giấy úa vàng nằm trơ, tôi nhặt lên trang một quyển vở nào. Tôi phủi bụi
    bỏ vào túi trên.
    Một lúc lâu tôi quay ra.
    Có bóng người thoáng qua giậu. Bóng một người đàn bà.
    Tôi chạy ra. Người ấy đứng lại:
    - Chị Vựng đấy à?
    - Không, Lượng đây!
    Người ấy lùi lại:
    - Trời ! Anh Lượng về ư?
    Tôi tiến lại. Tôi nắm lấy tay Chi. Hai đứa đứng lặng hồi lâu, rồi Chi nức nở. Tôi
    lắc mạnh tay Chi:
    - Các chuyện anh rõ cả rồi. Anh không giận Chi. Anh vẫn... vẫn yêu Chi. Tại
    thằng Pháp cả! Thầy mẹ em cũng như thầy mẹ anh đã...
    Không hiểu sao đến đây tôi nghẹn lời không nói được nữa.
    Chúng tôi ra đường cái rồi đi về cuối làng, ngồi trên một bãi cỏ. Hai đứa lại im
    lặng không nói được gì. Chi tỏ ý tiếc tôi về muộn không gặp thầy mẹ tôi. Tôi
    ngậm ngùi bảo Chi: "Các cụ chết cho chúng ta được sống, cũng như bao người
    khác hy sinh để cho có Đông Triều."
    Hai đứa lại im lặng rồi tôi bảo mai phải đi ngay. Chi không giữ tôi, nhưng bảo
    nên sang thăm chú Lân, tôi bằng lòng.
    Chúng tôi lặng lẽ vượt cánh đồng, qua ba mũi 12,7 rồi tới bờ một con sông
    rộng.
    Chi để tay lên mồm khẽ hú. Không có tiếng trả lời. Chi lắc đầu rồi ngập ngừng:
    - Hay là ta bơi sang hở anh?
    Tôi lưỡng lự. Bên kia sông chợt lóe mấy ánh lửa như đèn pin rồi vài tiếng súng
    nổ vu vơ.
    Chi nói khe khẽ:
    - Tụi nó ở vị trí bên kia đi tuần!
    Tôi kéo tay Chi:
    - Trở lại thôi Chi ạ! Mạo hiểm vô ích!
    Chi ngước mắt nhìn tôi, giọng đau khổ:
    - Anh! Thế còn chú Lân...
    Tôi lấy giọng thản nhiên:
    - Khi nào Chi sang thăm em, bảo anh hỏi thăm.
    Rồi chúng tôi lủi thủi quay về. Hai đứa lại im lặng. Tới gần làng tôi dựng lại từ
    giã Chi.
    Chi nhìn tôi. Trong bóng tối, tôi cũng nhận thấy mặt Chi tái đi. Tôi dằn từng
    tiếng:
    - Chúng ta phải can đảm nghe không Chi? Can đảm nhé! Công tác đoàn thể
    cho trọn vẹn.
    Chi cúi đầu nức nở rồi ngẩng lên cương quyết:
    - Vâng anh đi! Em đợi...
    Tôi không thể nói gì thêm nữa, quay đi, bước thật mau. Vừa đi, tôi vừa có cảm
    giác Chi thẫn thờ nhìn theo và đang vẫy.
    Khi đi khuất ngọn tre làng cũ tôi mới đi chậm lại. Trời tờ mờ sáng. Ngôi sao
    mai vàng óng đã hiện trên nền trời sáng như bạc phía đông.

    Lượng ngừng lại chống hai tay ra sau nhìn lơ đãng xa xa.
    Tôi vỗ vai Lượng:
    - Té ra bức thư này đến rất lạc hậu, càng làm cho Lượng...
    Lượng xua tay cười:
    - Không đáng kể Phượng ạ! ồ, một thằng lính...
    Chúng tôi chuyển sang chuyện Bắc Cạn giải phóng lúc nào không biết.

    1949
    Hồ PHƯƠNG
     
  2. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    HẬU THIÊN ĐƯỜNG

    Nguyễn Thị Thu Huệ

    Tôi cứ tưởng là mình đã quên mọi chuyện từ lâu. Bỗng dưng chiều nay, tất cả ùa về. Đầy ắp ứ, như thể có ai đó đã thu gọn mọi thứ vào một cái bao tải to tướng, buộc chặt nút lại. Và nay, đem mở òa ra trước tôi. Đầy đủ nguyên vẹn.
    Khi tôi chợt hiểu ra ở đời mọi sự đều có thể xảy ra như thế cả thì cũng quá muộn rồi. Tuổi già sầm sập chạy đuổi sau lưng. Tôi thì quyết giở trò ú tim với nó bằng cách làm sao chạy trốn được nó càng lâu dài càng tốt. Hôm nay sinh nhật con gái. Nó tròn mười sáu tuổi. Mặt con gái tôi giống người bố của nó. Nó không bao giờ biết được điều đó vì khi nó hiện hữu trên đời này thì người thực sự là bố của nó đã ở một nơi xa tít tắp. Bây giờ, khi tôi bốn mươi tuổi, chợt thấy tại sao lâu nay mình để tuổi thơ của con trôi qua trong nỗi buồn của sự cô đơn và hứng chịu nỗi cay đắng của một người đàn bà bị phụ bạc. Bỗng nhiên, lâu lắm rồi, tôi mới lại thấy tội nghiệp nó. Ngày xưa, đã một lần tôi thấy tội nghiệp nó, khi nó chạy ra đón tôi khi đi họp về. Nó với tay đỡ lấy bó hoa của tôi, và ngã lăn xuống cầu thang. Máu trên đầu nó loang xuống mặt. Nó không khóc, chỉ mím môi lại và bảo: "Không sao đâu mẹ ạ. Con không đau đâu. Mẹ về, con mừng quá". Tôi đỡ nó dậy và nói: "Thì đã bao giờ mẹ không về đâu. Chỉ có sớm hay muộn thôi". Nó hơi cố cười. Dù sao tôi biết lúc ấy, nó rất đau: "Mẹ về sớm, hôm nay là sinh nhật con, mẹ mua hoa cho con, con sung sướng quá nên chạy ra đón". Tôi cay đắng nhận ra là con nói với tôi bằng tất cả tình cảm và sự mong chờ tình yêu của tôi với nó. Còn tôi. Lúc ấy, tôi không hề nhớ rằng ngày hôm nay là sinh nhật nó. Bó hoa ấy cắm ở hội nghị. Tan cuộc họp, hai ba người đàn ông loe xoe lôi nó ra khỏi những cái lọ và kính cẩn tặng tôi. Họ rất biết kết hợp những nhu cầu của bản thân và hoàn cảnh khách quan bên ngoài, làm sao vừa được lòng những người đàn bà như tôi. Và họ thì chẳng mất gì cả. Chỉ có con tôi là khổ thôi. Cũng như cái sự sinh ra nó trên đời này. Ngày ấy, khi sung sướng chúng tôi chỉ nghĩ đến mình, nhưng khi đau khổ tôi lại mang nó ra mà so, mà ngắm, và nhìn nó như một chướng ngại vật cản trở tôi trên bước đường đời. Nó chẳng có tội gì. Nó là sản phẩm của nỗi đam mê. Ai sướng. Ai hạnh phúc? Nó không biết. Chỉ được biết và được hưởng sự cô đơn, nỗi dằn vặt mà thôi.
    Tôi cho con gái một trăm nghìn để làm sinh nhật. Mặt nó đờ dại đi vì sung sướng trước một hành động đẹp, và hiếm hoi của tôi. Tôi nuôi nó tương đối đầy đủ nhưng không mấy khi chăm sóc. Mà con gái lớn thì thích được chăm sóc. Khi ở nhà thì bố mẹ, khi lớn lên thì người tình, và sau đó là của chồng. Nó bảo: "Con sẽ mua được những gì mà con thích, phải không mẹ?" Tôi gật: "Phải, con mua gì tùy ý con chỉ có điều con không nên làm ầm ĩ. Mẹ không thích những gì lộn xộn".
    Giọng nó run run: "Vâng, tuyệt lắm mẹ ạ! Chúng con sẽ lên Tây Hồ, thuê thuyền bơi và liên hoan luôn ở đó".
    Tôi ậm ự vì thấy con vui. Lâu lắm rồi nó mới cởi mở với tôi như vậy. Thực ra, tôi và nó ít khi gặp nhau, tôi đi làm, nó đi học. Buổi chiều, thỉnh thoảng tôi ăn cơm với nó. Buổi tối tôi thường vắng nhà. Nó có một khuôn mặt đợi chờ. Nó hay nhìn tôi bằng cái vẻ mặt đợi chờ đó. Nếu tôi lạnh lùng thì nó lảng đi. Tôi vui vẻ và tỏ ý muốn gần nó, cái vẻ mặt ấy thoắt biến đi thay vào khuôn mặt tràn trề hạnh phúc. Bao nhiêu năm tôi luôn nhìn nó để tỉnh táo hơn trước đàn ông và mọi cạm bẫy.
    Bỗng dưng hôm nay, mọi sự đó tan biến trong tôi. Con gái tôi lớn quá rồi. Sao lâu nay tôi không biết rằng ngực nó đã dội lên sau lớp áo và lưng nó đã nở nang hơn. Khuôn mặt nó đã đầy lên, loáng thoáng có cái trứng cá. Mặt nó vẫn còn trong sáng lắm. Nó đang loay hoay thay cái áo này mặc cái quần kia, hồi hộp như cô dâu sắp về nhà chồng.
    - Hôm nay mẹ có đi nhảy không? - Nó hỏi
    - Không, mẹ mệt mỏi rồi con ạ. - Tôi thở dài. Chợt thấy chán ngắt mọi chuyện. Nhạc dặt dìu. Những ngọn đèn mờ ảo và ngào ngạt trăm nghìn loại nước hoa. Hình như nó không làm tôi đam mê nữa. Thực ra, cũng nhờ đó mà tôi bớt đi những ngày đau khổ của tôi. Tôi luôn luôn ở ngoan ngoãn trong tay hết những người đàn ông này đến những người đàn ông khác, nhưng của ai cụ thể thì không. Tôi nhìn tôi trong gương. Khuôn mặt đàn bà sang tuổi bốn mươi. Mí mắt bắt đầu sụp xuống. Biết là mình vẫn còn đẹp, nhưng cũng bắt đầu nhầu nhò rồi.
    Con gái chào:
    - Con đi chơi mẹ nhé!
    Tôi gật:
    - Chúc con vui.
    Hai chân nó ríu vào nhau, vì quần áo là lượt. Nó đánh tý son môi và ít quầng xanh ở mắt. Hình như nó phải chui vào đâu đó để làm việc này vì tôi chưa cho phép.
    Cánh cửa đóng sập lại. Tôi nằm ngả ra giường.
    Đắng ngắt. Thế nào nhỉ? Bốn mươi tuổi tôi đã có cái gì cho mình. Tiền tài thì vớ vẩn chỉ đủ ăn và sống một cuộc sống đạm bạc. Một vài cái váy, áo để đi dạ hội và nhảy đầm. Công việc diễn ra đều đều và nỗi nghi ngờ đàn ông. Dù thiếu họ nhiều khi cuộc sống của tôi lắm lúc gay gay. Có những kẻ yêu tôi thật, thì tôi không ngửi được họ. Còn một vài người tôi yêu họ thì họ chỉ xuê xoa "chơi" với tôi. Biết làm sao được. Con cá trượt thường là con cá to. Không có cái gì trong tay mình là nhất cả. Bỗng dưng, tôi thấy sập xuống người mình, một nỗi trống trải hoang vắng khủng khiếp.
    Hàng tối. Khi ông A, ông B đưa tôi về, con gái ra mở cửa và đỡ lấy chiếc xe cho tôi, vác qua phòng khách, nó lau bóng loáng để cất vào bếp, rồi nó pha cho tôi một chậu nước âm ấm và đưa hộp sữa rửa mặt cho tôi rửa sạch những thứ tôi bôi lên mặt. Rồi hai mẹ con đi ngủ. Thi thoảng, có đêm tôi ôm con gái, bàn tay sục vào gáy nó. Đến khi lùa tay vào mớ tóc dài và dày của nó mới chợt thảng thốt tỉnh ra đấy là con gái mình, chứ không phải là người đàn ông hồi tối.
    Lâu lắm rồi. Tối nay, tôi là người ở nhà và con gái tôi thì đi chơi. Người bạn nhảy của tôi cũng không đến. Anh ấy là người luôn rạch ròi mọi chuyện. Vợ con anh ấy là một cái lô cốt chắc chắn mà hàng ngày, hàng giờ anh ta cần mẫn nhặt nhạnh tý vôi, tý xi măng xây xây, trát trát. Và cái lô cốt của anh ngày càng to béo vững chắc. Thi thoảng, để xả hơi và để nạp nhiên liệu cho công việc xây dựng của mình, anh đi nhảy đầm. Rất gallant với phụ nữ và lúc nào cũng mang một vẻ mặt thành kính, tác phong giống như thể anh đang gù gù hệt như con chim câu, tha những cọng rơm đi dệt tổ ấm, chỉ thiếu con chim cái thôi. Có những lúc tôi bỗng thấy cần anh ta một cách ghê gớm. Tôi đạp xe đến cổng nhà anh, và nhìn vào. Anh đang ăn cơm. Xúc cho con một thìa, gắp cho vợ một miếng. Say sưa và sung sướng như thể họ là tất cả cuộc đời anh, không như anh phàn nàn với tôi. Anh hỏi tôi: "Đố em: con gì ăn lắm nói nhiều, chóng già lâu chết?". Tôi nghĩ mãi không ra lắc đầu chịu thua. Anh bảo: "Đấy là con vợ". Rồi thỉnh thoảng tôi có việc cần gặp anh buổi tối. Tôi nhờ trẻ con gọi và đợi anh ở đầu đường. Một lúc, anh hiện ra. Chiếc quần đùi vải lòng thòng, anh cởi trần lê đôi dép rách và tay xách một thùng rác. Chớp nhoáng vài câu và anh quay quả bước về, sau khi đã hoàn tất một trong nhiều nghĩa vụ với gia đình.
    Tôi lại bàn học của con gái. Nét chữ nó tròn xoe nắn nót và hàng lối rất nghiêm chỉnh. Con người nó chắc cũng như dòng chữ nó viết. Một là một, hai là hai, chứ không hai cộng hai bằng năm như tôi. Nó đã yêu hay ghét, chỉ là thế chứ không bao giờ thay đổi. Một quyển sổ con ở góc bàn. Ngoài bìa là mấy câu thơ. Sổ nhật ký, Hóa ra con gái lớn hơn tôi tưởng rất nhiều. Trong sổ, nó ghi lung tung nhiều chuyện, chẳng đâu vào đâu. Cãi nhau với đứa này, khen đứa kia có đôi dép đẹp. Nó ước những cái cỏn con, vặt vãnh, "Ngày - Hôm đang ngồi trong lớp đợi mưa tạnh, chợt thấy cuối đường có một chị che cái ô đỏ. Đẹp thế không biết. Trong mưa màu đỏ là màu đẹp nhất. Giá mình có một chiếc nhỉ?". "Ngày - Có một người đàn ông cởi trần, mặc quần đùi đang mang một chậu tã lót đầy phân ra máy nước giặt. Mình thì thấy kinh kinh, thế mà ông ta vừa giặt vừa cười một mình, lắm lúc môi nhọn ra như trêu ai, lại huýt sáo nữa. Chắc ông ta yêu con vợ lắm". "Ngày - Sao mẹ hay về khuya thế? Mình mà như mẹ, mình sẽ lấy chồng. Chọn người nào hiền lành và hơi ngu một tý để lấy mà không cần đi làm nhà nước, chỉ cần biết một nghề gia công nào đó như ông Chiu hàn nhôm đằng trước - mẹ sẽ sướng hơn là ở thế này. Mình thích những người thông minh nhưng ở với họ thì sợ lắm. Những buổi chiều chủ nhật, vợ chồng người ta đi chơi, mẹ thì ở nhà, còn đi chơi như mẹ, mình chẳng thích". "Ngày - Anh T ở trường bên cạnh, là giáo viên sang dạy hộ văn nghệ, thể dục cho lớp mình, hôm qua rủ mình mình đi xem phim. Mình cũng muốn đi nhưng chưa xin phép mẹ. Hai người đi cả nhỡ hai con mèo con chạy mất thì sao. Nó chưa quen nhà mà, mình thích anh ấy vì mắt anh ấy rất đẹp. Mặt thì lúc nào cũng buồn buồn như ngẫm ngợi điều gì. Những người đàn ông mặt lúc nào cũng hơn hớn lên mình cũng thích nhưng lại ngại. Họ hớn hở với mọi người như với mình, tin làm sao được. Không biết từ bao giờ mà mình có thói quen là cứ gặp anh ấy thì cả ngày mình vui lắm. Hôm nào không nhìn thấy anh ấy, mình cứ thấy văng vắng thế nào...".
    Tôi thẫn người. Lâu nay, tôi cứ trượt trên những cái dốc nào. Sao không bao giờ tôi hỏi đến cuộc sống nội tâm của con. Lâu lắm rồi, hình như tôi chưa dừng lại ngoảnh về đằng sau để xem nhỉ, chỉ tiến thôi.
    Tôi đọc tiếp.
    "Ngày - Tự nhiên hôm qua anh ấy đi ngang qua lớp mình, vẫy mình ra rồi bảo: Triệu người quen có mấy người thân, khi lìa trần có mấy người đưa? Mình nóng bừng cả mặt. Anh ấy bỏ đi, mặt buồn rũ rượi. Cả ngày chẳng vào đầu mình được chữ nào".
    "Ngày - Con Cúc "xoe" thì thầm: Tao hôn rồi đấy. Mình hỏi: Nó thế nào? Cúc bảo: Lúc ấy, tao cảm giác như rơi tõm xuống ao, chìm nghỉm đi. - Vừa nói, nó vừa nhắm nghiền mắt lại. Xuôi hai tay và lăn huỵch xuống sàn nhà. Rồi nó lại vùng phắt dạy. Mắt tít lên - Hôn hay lắm mày ạ. Thử đi. Không chết đâu mà sợ, chỉ sợ rồi nghiện thôi.
    Thử đi.
    Mình cười ngượng: thử thì thử với ai? Tự nhiên đang yên đang lành bỗng đè người ta ra mà bảo ông làm ơn cho tôi hôn thử ông một cái xem hôn nó mồm ngang mũi dọc thế nào? Họ lại chả tát cho vào mặt ấy và bảo rằng: Đấy, hôn nó thế đấy.
    Rồi mình và Cúc cười lăn ra. Kể ra, nếu biết hôn nó thế nào cũng hay".
    Con tôi lớn thật rồi. Sao đến bây giờ tôi mới biết điều đó nhỉ? Những người đàn ông đi qua đời tôi như thể bất chợt họ gặp cơn mưa rào, mà họ thì không mang vải nhựa để che. Tôi là một cái hiên rộng để họ chạy vào đó, yên tâm, tưng tửng chờ cho qua cơn mưa, rồi về nhà. Hóa ra lâu nay, tôi đi đường tôi, còn con gái thì tôi tự tìm đường mà đi. Liệu nó còn đi lại con đường của tôi không?
    "Ngày - mình nhớ anh ấy quá. Hai ngày không thấy anh ấy đâu. Hay anh ấy ốm rồi. Đi học về, mình cứ thấy ngơ ngác như thế nào ấy. Bỗng anh hiện ra ở đầu đường: "Bé con, mấy ngày vừa rồi anh phải có phi vụ làm ăn, nhớ em quá, phải đón em tại đây". "Ôi giời ơi, sao mà sung sướng thế. Mình yêu anh ấy mất rồi. Lúc ấy, mình không còn thấy cái gì ở trên đời này quan trọng bằng anh ấy. Thế là mình và anh đi chơi với nhau. Bây giờ, mình mới thấy việc mẹ cứ suốt ngày đi vắng là rất hay. Nếu mẹ hay ở nhà, có lẽ chẳng bao giờ đi chơi với anh ấy được như thế. Mẹ mắng chết. Vì mẹ bảo cái bọn đàn ông rặt một loài đểu cả, đừng nên tin ai. Mình thì thấy ai cũng đáng tin hết. Nhất là anh".
    " Ngày - Cái Cúc "xoe" bảo: Anh chàng của cậu được đấy - Trông giống chàng Lút lắm. Tớ thích đàn ông phải như Hoanmanuen, vừa bàn nhau tống tiền người ta xong, lại mê cái đàn pianô ngay. Đàn ông phải có hai bộ mặt, vừa tử tế, vừa đểu giả, thế mới quyến rũ. Chàng Lút của cậu tớ thấy gian gian. Mình chẳng nói gì. Gian, đểu hay tốt, mình cũng không quan tâm nữa, chỉ biết rằng anh ấy là người tuyệt nhất trần gian".
    Tôi lặng người. Đầu bỗng đau buốt. Bỏ quyển nhật ký của con ở đó, tôi đi ra sân. Mùa đông năm nay lạ lắm. Ban ngày thì nắng hoe hoe vàng, tối đến thì gió lồng lộng như mùa hè. Tôi cảm giác như mình đang bắt đầu đứng ở cuối con đường, nhìn thấy con mình đang dẫm chân lên những nơi mà tôi đã đi qua, nhưng không ngăn nó dừng lại được.
    Thời gian trôi đi nhanh thật. Thoáng cái. Con gái đã biết yêu. Mới ngày nào nó còn lẫm chẫm chạy bằng đôi giày đỏ. Ra khỏi bệnh viện khi con bị viêm ruột thừa, bà kế toán cùng phòng bảo tôi: "Thương lấy nó một tí em ạ. Dù sao nó cũng là con em mình. Bây giờ thì em chưa thấy cần nó đâu. Nhưng sau này, lúc nào đó, nó sẽ là cái gậy cho em chống đấy".
    Lúc ấy, tôi cười nhạt và không buồn tranh cãi với bà ta. Hóa ra bây giờ, cái sự đó cũng gần gần đến rồi.
    Mười một giờ. Đồng hồ nhà hàng xóm đong đưa thả nhịp. Con gái vẫn chưa về. Thì ra lâu nay nó đã đi và thường xuyên về muộn. Tôi lại không hề biết vì tôi cũng thường về muộn sau nó. Lòng tôi nóng như lửa đốt. Chẳng có một lý do gì để nó có thể về khuya đến như vậy được. Sinh nhật từ chiều cơ mà. Xung quanh hàng xóm ngủ im thin thít. Đường vắng hoe hoắt. Tôi quay vào nhà. Đến gần bàn học của con gái, định ngồi xuống nhưng tự nhiên cảm thấy hãi hãi trước những gì con ghi trong sổ. Thôi, thà không đọc nữa còn hơn là phải biết những gì khủng khiếp đang xảy ra với con mình. Tôi hồi hộp đợi nó về gần như hồi hộp chờ người tình giờ hò hẹn.
    Mười một giờ ba mươi. Con về. Mặt nó nhợt nhạt phấn son, tóc nó bông lên đằng sau vai chứng tỏ có bàn tay xới vào đó. Nó cụp mắt xuống, tránh ánh mắt tôi. Thôi, xong rồi con ơi, mẹ đã qua những gì mà con đang đến. Không bao giờ chỉ nói chuyện và đùa cười lại nhạt cả phấn ở má và quầng xanh ở mi mắt. Tóc lại rối lên thế kia. Tôi cay đắng nghĩ và nhìn con. Sao tôi thương nó thế không biết. Vội vã thế con. Cuộc đời dài lắm. Mà những hoan lạc con người ai cũng phải trải qua thì ngắn vô cùng. Vội mà làm gì. Hai mươi tư tuổi mẹ mới biết thế nào là hạnh phúc thì lập tức một chuỗi đau khổ kéo theo. Thế mới hay, ai cũng nhem nhẻm nói rằng mọi thứ ở đời đều có giá của nó. Hoặc trồng cây gì thì ăn quả đó. Gieo gì gặt đấy. Nhưng tôi, tôi có gieo gì đâu mà sao đời tôi gặt toàn cỏ dại. Chẳng lẽ, một phút xiêu lòng mà lại khốn khổ đến thế này sao?
    - Con xin lỗi mẹ, con đã để mẹ phải chờ! - Nó lúng búng trong mồm.
    - Vui không con? - Tôi hỏi nó và chỉ muốn ôm nó vào lòng. Bỗng nhiên, nước mắt dâng ắp ứ trên mắt tôi.
    - Cũng vui mẹ ạ ! - Nó trèo lên giường và chui vào chăn quay mặt vào tường.
    - Sao lại cũng vui? Phải rất vui chứ?
    Im lặng. Rồi tôi hỏi thêm vài câu nữa, nó đều không trả lời. Tôi lại giường, đặt tay vào vai nó. Nó quay mặt ra, ngơ ngác. Chứng tỏ từ nãy đến giờ nó không hề nghe câu hỏi của tôi.
    - Gì đấy mẹ? - Nó hỏi, mắt tròn xoe.
    Tôi lặng người nhìn nó. Xong thật rồi. Con gái tôi thành đàn bà thật rồi. Cái mặt nó ngây dại vì hạnh phúc, và ánh mắt nó như người có lỗi. Ngượng ngùng và đờ đẫn. Đấy là ánh mắt của tôi mười mấy năm về trước. Lúc ấy, tôi như đi trên chín tầng mây mười tầng gió. Tôi không nhìn ai hết, không biết ai hết ngoài việc là tôi đang hạnh phúc. Tôi vừa bước vào thiên đường của đời người mà anh - người đàn ông đầu tiên trong đời đã mở cho tôi và đã dìu tôi vào đó. Người đàn ông ấy vừa mở cửa để cho tôi kịp thấy những vòng hào quang của nỗi đam mê thì lập tức, sau đó sáu tháng, anh ta dẫn tôi đến một cái hang sâu hun hút rồi đẩy tôi vào đó. Đến tận bây giờ.
    Đứa nào nhỉ, đứa nào mang mất khuôn mặt đợi chờ của con gái tôi đi mất và trả cho nó khuôn mặt đàn bà, vừa đằm thắm vừa non nớt của cô bé tuổi mười sáu? Nó đã đến tuổi thành niên đâu cơ chứ. Tôi đau đớn nhìn con và nước mắt tôi chảy dài xuống má.
    - Mẹ làm sao thế? Nó hốt hoảng, khuôn mặt đã trở lại bình thường.
    - Không sao cả con ạ! - Tôi quay đi, không muốn con gái nhìn thấy mình khóc trước mặt nó. Đấy là một hành động hiếm hoi của tôi.
    Tôi lặng lẽ ra sân. Trăng mùa đông lạnh lẽo hắt ánh sáng từ đâu đó. Người tôi thoắt lạnh, thoắt nóng. Rồi bắt đầu run. Con gái đứng sau lưng.
    - Vào nhà đi mẹ. Con xin lỗi đã làm mẹ buồn.
    - Con yêu người con trai ấy lắm phải không? - Tôi hỏi. Im lặng. Rồi một lúc, nó khe khẽ trả lời:
    - Vâng ạ!
    - Con nhớ anh ấy lắm phải không?
    - Vâng ạ!
    - Lâu chưa?
    - Gần bốn tháng ! - Nó có vẻ đỡ sợ hãi hơn.
    - Và hai người đã gắn bó với nhau?
    Im lặng, kể ra khi bắt đầu hỏi đến câu đó, tôi cũng nghĩ là con gái không trả lời được. Không một người đàn bà nào trả lời câu đó cả.
    - Con năm nay mới mười sáu tuổi. Sao vội vàng thế? - Tôi cay đắng hỏi nó.
    - Hai năm nữa, chúng con sẽ lấy nhau. Khi ấy con đủ tuổi để lấy chồng rồi! - Nó hớn hở dần lên.
    - Đấy chẳng lẽ là tất cả cuộc sống của con hay sao? - Tôi hỏi, tim buốt nhói vì một lần nữa, tôi lại chậm.
    - Đấy là thiên đường, mẹ ạ! - Nó ngẩng nhìn tôi, mắt lóe sáng - Chúng con sẽ đi làm, sẽ chỉ có nhau và những đứa con. Con sẽ không bao giờ phải buồn như mẹ.
    Tôi im lặng, người lạnh ngắt. Con tôi bước vào cái gọi là thiên đường của tôi, cách đây mười sáu năm. Lại vẫn như vòng hào quang như tôi đã gặp. Đến lúc nào, sẽ là một cái hang sâu hun hút?
    - Chúng con sẽ ở cùng mẹ. Mẹ sẽ không phải buồn vì được làm bà ngoại của một lũ cháu - Nó vẫn say sưa.
    Tôi có cảm giác như mình bỗng hóa thành đá. Thiên đường. Hình như ai trong đời cũng đã từng đặt chân tới đó. Chỉ khác nhau là thiên đường của họ là cái gì, và đem lại hạnh phúc cho họ ra sao. Có người thì chạy hết thiên đường này đến thiên đường khác, có khi vừa lao vào rồi lại chạy vọt ra ngay vì kinh hãi. Tôi đã từng gặp một người đàn bà và người đàn ông từ thiên đường về. Anh ta ngồi trước mặt tôi bên cạnh là một người đàn bà. Người đàn ông mặt bạc phếch, tóc tai dựng tứ phía, môi nhạt thếch và đang ngấu nghiến nhai. Ông ta ăn như bị chết đói hàng thế kỷ. Hai mắt còn đang đờ dại sinh động dần lên. Những sợi phở xào thun thút chui vào miệng anh ta, kèm rau sống, cà chua, như thể trong bụng anh ta có một tảng nam châm và các đồ ăn là vụn sắt hút nhau vậy. Chui từ từ, chui dần dần, ngon lành. Người đàn bà ngược lại. Mỏi mệt, ngơ ngác và không đói. Bà ta chỉ ngồi ngáp vặt. Tôi hỏi hai người đi đâu về mà mệt mỏi thế?
    Người đàn bà hơi cười, nụ cười nhệnh nhạc như mếu. Người đàn ông tiếp tục nhai nốt miếng dở, nuốt đến ực rồi tợp một ngụm rượu khà một cái rồi bảo: Vừa lên thiên đường về! Rồi ông ta tiếp tục ăn như thể cái thiên đường ấy nó vặt trụi hết mọi sinh lực của anh ta vậy.
    Tôi cười: Vừa lên thiên đường về, và bây giờ thì ở đâu?
    - Địa ngục! - Anh ta lẩm bẩm, mồm vẫn nhai. Đôi môi dày bóng loáng mỡ, những vụn mì bám li ti ở hàng râu con kiến.
    Về sau này tôi có gặp lại anh ta và người đàn bà ấy (Họ cùng một cơ quan với nhau, và tôi thì làm ở bên cạnh). Họ lấy nhau. Hai bên đều bỏ vợ bỏ chồng vì cái gọi là hậu thiên đường nó to dần lên trong bụng người đàn bà. Người đàn bà trông nhàu nhò hơn, giống như một nắm giẻ lau. Rồi họ đẻ ra một đứa con, quặt quẹo vì bố mẹ chúng cũng mệt mỏi lắm rồi...
    - Vào ngủ đi mẹ! - Con gái nói.
    - Mẹ không ngủ được.
    Con gái im lặng và quay vào.
    Xa xa, có tiếng gà le te gáy. Gần sáng rồi.
    *
    * *
    Tôi trở thành một người khác. Hình như cái sự già nó sập xuống với tôi rồi. Tôi không còn chơi trò ú tim với nó nữa. Mọi tâm trí, nghị lực và sức chịu đựng, tôi dành cho con gái. Tôi sợ. Tôi không thể yên tâm ở cơ quan đến chiều và đi thông tầm đến tối như trước nữa. Lúc nào tôi cũng tưởng tượng ra cảnh con gái tôi, mười sáu tuổi, nước mắt nhòe nhoẹt trên mi "Anh ấy bỏ con rồi" hoặc "Con sắp chết rồi mẹ ơi". Lúc nào tôi cũng chỉ thấy nó, đang bò từ bờ vực này đến bờ vực khác. Những vũ trường, những ánh đèn, làm tôi kinh hãi khi nghĩ rằng con gái mình sẽ ở trong đó. Tôi thường về nhà sớm, tối thì không đi đâu nữa.
    Con gái tôi hỏi: - Sao dạo này mẹ không đi nhảy?
    Tôi trả lời: - Mẹ mệt.
    Nó hơi lạ lẫm và hơi khó chịu nhìn tôi. Đã đến lúc nó không cần sự có mặt của tôi nữa rồi. Nó tưởng rằng đôi chân của nó đã cứng cáp lắm rồi. Tôi đau đớn nghĩ.
    "Ngày - Hôm qua mình và anh ấy đi chơi. Mình phải nói dối mẹ là đi mua xà phòng thơm. Vào cửa hàng, toàn những bánh xà phòng sáu bảy nghìn. Mình mua một bánh ZET, mùi nó hăng hắc nhưng lại dễ chịu. Anh ấy trả lại chị bán hàng và chọn cho mình cái bánh xà phòng gì ấy. Nó to hơn cả ZET, cứng đanh và không có mùi thơm. Mình chưa dùng loại đó bao giờ. Bánh xà phòng anh ấy lấy có 2.500 đ thôi. Anh bảo: "Nó vừa to. Vừa bền lại rẻ". Chiều anh ấy mình cũng đồng ý mua. Lúc mình đưa tờ 10.000 đ, thì chị bán hàng trả lại 7.500 đ anh ấy giơ tay cầm lấy và đút ngay vào túi. Mình hơi ngại nhưng không dám hỏi vì có thể anh ấy quên. Chỉ sợ nếu mẹ hỏi thì không biết trả lời như thế nào. Rồi hai đứa ra bờ hồ ngồi. Mình thèm ăn bánh chuối rán. Anh ấy bảo "ăn vặt làm gì, chua mồm!". Anh ấy ôm mình. Mình chẳng thấy chuyện gì quan trọng nữa".
    "Ngày - Anh ấy biến đi đâu hai ngày rồi bảo mình: Anh cố gắng thu xếp công việc càng sớm càng tốt. Anh sẽ nuôi một đứa, còn mụ vợ nuôi một đứa. Anh sẽ đấu tranh với mụ vợ để chiến thắng. Mụ ta sẽ phải bật xới khỏi nhà và tay trắng. Rồi anh ấy sẽ lấy mình. Sao anh ấy khổ thế nhỉ? Ước gì mình có thể chia sẻ cho anh ấy được".
    "Ngày - Sáng nay hai đứa đi ăn xôi. Bà bán xôi bảo: Hai bố con ngồi đây ăn xôi đi! Anh ấy cáu lắm mắng bà ấy là mắt chó giấy. Mình cố gắng lắm chỉ ăn được năm trăm. Mình thích ăn bún riêu cua. Anh ấy thì dứt khoát không ăn. Anh ấy bảo cái giống ấy nó ỏng bụng và chóng đói, ăn xôi chắc dạ hơn. Mình đưa năm nghìn trả tiền xôi hai đứa ăn hết 2.500 đ anh ấy bảo bà hàng xôi cứ giữ lấy mai ăn tiếp. Mình thì thế nào cũng được, miễn anh ấy vui vẻ thôi".
    Tôi run rẩy đứng lên. Chống chếnh và quay cuồng. Sao lại thế hả con? Con lú mất rồi. Tôi phải làm gì bây giờ hả trời? Không phải còn đang chập chững ở miệng vực nữa mà con đang ở trong vực rồi. Bao giờ thì chìm xuống đáy?
    Giống như người điên. Lại giống như kẻ bị mất của. Cũng như người đánh xổ số, chỉ chệch một số cuối cùng của giải độc đắc. Cuồng điên, tiếc nuối và bất lực. Tôi lao ra đường. Những khuôn mặt chạy ngược lại tôi, nhạt nhòa. Ai cũng mang khuôn mặt con gái. Chỉ có điều, đấy không phải là khuôn mặt đợi chờ mà là khuôn mặt đàn bà. Người đàn bà mười sáu tuổi.
    Những hàng cây, những nẻo phố và người đông đúc.
    Con tôi ở đâu? Bên những người đàn ông một vợ hai con chỉ thích ăn xôi cho chắc bụng lại còn bòn rút từng đồng một. ấy vậy mà con tôi, ngỡ rằng, nó đang ở thiên đường?
    *
    * *
    ... Mẹ ơi, mẹ đừng đi guốc cao thế, ngã thì sao? Không, mẹ không ngã đâu. Mẹ ơi, mẹ làm thế nào mà xinh thế? Mẹ chẳng làm gì con ạ. Mẹ ơi, mẹ đi chơi với con nhé. Không, mẹ bận rồi.
    Con tôi ở đâu, giữa phố đông mịt mùng người và xe. Mạnh ai người ấy sống bởi gánh nặng của kiếp người đè ụp lên vai. Có một phải có hai, có hai phải có ba bốn. Hôm nọ. Nó về, thay quần áo, tôi lấy đi giặt. Chợt sững người vì mở quần áo nó đầy mùi khai nước giải trẻ con. Tôi hỏi nó tại sao, nó bảo: "Con anh ấy ốm, con phải đến trông đỡ vì anh ấy không thể nghỉ làm". Nó còn hãnh diện mắt sáng lên bảo rằng thằng nhóc quấn nó lắm, và con gái cảm thấy đứa trẻ như con trai của mình. Tôi cảm thấy tôi nhìn thấy nó, ngồi bên người đàn ông. Hắn nhếch nhác trong bộ quần áo màu gạch, bẩn thỉu và hôi hám. Hắn đang ôm hôn con gái tôi, hai bàn tay lùng sục trong áo nó. Con gái như mê đi trong vòng tay hắn. Chiếc cặp sách rơi dưới đất. Trên bàn là hai cốc cà phê loãng toét, họ vào quán đâu phải để uống nước.
    Tôi cảm giác con gái tôi đang vuốt ve âu yếm hắn, xoa lên khuôn mặt nhăn nhúm vì tuổi tác của hắn với vẻ trìu mến và trải đời lắm. Hóa ra, đàn bà, ai cũng có những khả năng giống nhau: yêu đương, ghen tuông và cuồng si.
    ... Mẹ ơi, ngày sau con có phải khổ như mẹ không? Mẹ có khổ đâu? Có, mẹ có khổ, đêm nào con cũng thấy mẹ khóc? ừ, mẹ buồn mẹ khóc? Bố làm mẹ buồn à? Con đừng nhắc đến người đàn ông khốn nạn ấy nữa. Không, đấy là bố con, lúc nào con cũng đợi bố về...
    Con ơi, con ở đâu. Sao khổ thế hả con, ai cứu con tôi bây giờ, ai giúp tôi lôi nó ra khỏi cái thiên đường địa ngục đó bây giờ?
    Mắt tôi bỗng đập vào một rừng hoa. à không, pháo hoa chứ. Còn nhớ, năm hai mươi bốn tuổi, tôi và người tình đầu tiên lách chiếc xe đạp, từng tí một, giữa dòng người, chân chôn chặt dưới đất nhưng ai cũng ngửa cổ lên trời để xem pháo hoa. Từng chùm hoa lắc rắc trên bầu trời tím ngắt. Tôi ôm lấy anh, như nuốt từng vì sao rơi rụng như muốn hét lên vì hạnh phúc. Bây giờ, những chùm hoa đó lại trở về. Chỉ có điều, nó không rụng từ bầu trời tím nữa mà ùa thẳng vào mặt tôi.
    Tôi không biết gì nữa ngoài cảm giác tất cả tan biến hết. Con gái. Người đàn ông thích ăn xôi buổi sáng cho chắc dạ và uống cà phê trong lúc yêu đương, lúc nào cũng chỉ cà phê. Những chùm pháo hoa... Thiên đường tuổi mười sáu!...
    Chẳng còn gì. Ngoài sự hư vô. Bầu trời pháo hoa vụt tắt và mở ra hun hút một vực sâu...
    *
    * *
    Cô gái ngẩng mặt, khẽ rùng mình:
    - Anh, em tắc thở rồi. Gì mà tham!
    Người đàn ông, giọng khẽ khàn đi:
    - Anh yêu em, lúc nào cũng thèm em, không thể vắng được em trong những năm cuối cuộc đời anh.
    Có tiếng vang từ ti vi của nhà chủ: "Mời nhận dạng... Công an quận... thông báo... vào hồi 6h34 ngày... có một vụ tai nạn xe cộ xảy ra trên đường... Nạn nhân là một phụ nữ khoảng trên 40 tuổi, mặc áo màu... xe đạp mi ni.. chân đi giầy... không mang giấy tờ tùy thân... Ai là người nhà, mời đến đồn công an... nhận diện và làm thủ tục".
    Cô gái vội đặt tách cà phê xuống, nhưng người đàn ông cũng vừa tợp xong tách cà phê của mình và choàng tay ôm lấy cô gái. Cô nhắm nghiền mắt, say lịm đi, không kịp nhìn lên màn hình. Phải chăng đó là điều may mắn cuối cùng của cô trước khi bước vào... hậu thiên đường?
    Noel 1992
     
  3. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chị dâu

    Hoàng Tuấn

    "Chị đã mất - chú về ngay". Sau chuyến đi công tác ở thành phố Hồ Chí Minh về, bức điện của ông anh trai như một cú sét làm tôi bàng hoàng.
    Là con trai út trong một gia đình đông anh em, sự ra đi mãi mãi của những người trên là lẽ tự nhiên. Nhưng cái tin về người chị dâu cả mất đi là điều tôi không bao giờ ngờ tới. Không ai có thể quen được với sự vắng bóng của những người thân yêu. Với tôi, từ khi còn thuở ấu thơ, chị là người chị gái, người mẹ, là cô tiên dịu hiền với những khả năng vô biên, là người không thể vắng bóng trong cuộc đời...
    Tôi vội vã lên chiếc xe sớm nhất về quê. Chiếc xe khách ì ạch đỗ tại chợ huyện, tôi quầy quả xách túi, thả bộ trên con đường về làng. Quê tôi nghèo, nằm ven sông Hồng, lại là vùng đất giữa, mỗi lần đi chợ phải dậy từ tờ mờ sớm. Tôi bồi hồi đếm từng bước chân. Nhớ đến ngày nào vẫn hay theo chị đi chợ. Mẹ tôi bảo: "Mày theo chị làm gì cho quẩn chân?". Tôi thì cứ nhõng nhẽo đòi theo. Còn chị thì cưng chiều tôi nhất nhà, sẵn sàng đáp ứng những đòi hỏi rất trẻ con của tôi. Chị gánh trên vai một gánh khoai nặng mà vẫn đi nhẹ nhàng, miệng nhai trầu bỏm bẻm. ở quê tôi, các cô gái đã có chồng rồi đều ăn trầu. Có lần đi chợ sớm, tôi gà gật, lẽo đẽo chạy theo chị. Tới lúc tôi mỏi chân theo không kịp, chị cõng tôi trên vai và tôi thì ngả đầu trên bờ vai chị, ngủ ngon lành cho tới chợ.
    Sau này lớn lên, dù đã đi dọc ngang đất nước, mỗi khi bước chân trên con đường đê về làng, lòng tôi vẫn hối hả, gấp gáp, tưởng như mình bé lại. Với tôi, làng quê gắn bó với những kỷ niệm thuở ấu thơ, gắn bó với hình ảnh chị. Người phụ nữ mảnh mai luôn nhai trầu tươi rói, có sức mạnh dẻo dai đến kỳ lạ và tấm lòng mộc mạc thơm thảo như khoai, sắn. ít ai thấy người phụ nữ tần tảo ấy ngơi tay từ sáng cho đến tối khuya. Không, tôi không tin. Những người như chị không thể mất. Chỉ chút nữa thôi khi về đến nhà, tôi sẽ gặp lại chị đứng ở đầu ngõ với câu hỏi muôn thuở: "Chú đã về đấy ư". Câu hỏi quen thuộc thay cho lời chào của chị không tỏ ra vồn vã, không khách sáo nhưng âm điệu của giọng nói bao giờ cũng làm khóe mắt tôi cay cay. Tôi biết, từ trong nhà chị đã nhìn thấy tôi từ xa, chị ra đón tôi ở cổng để tỏ nỗi vui mừng bằng một câu hỏi rất mộc mạc. "Khoai luộc và mật ong phần chú trong chạn ấy". Lần nào cũng vậy chưa cần hỏi thăm, chị đã có một thứ gì đó phần tôi. Khoai lang là đặc sản vùng quê tôi, củ lớn, vỏ đỏ au, khoai luộc lên, bẻ ra bở tơi, hạt lấm tấm mịn màng như hạt phù sa, ăn vào ngon ngọt như tấm lòng thơm thảo của người dân quê. Tuy đã được nếm nhiều món cao lương mỹ vị ở đời nhưng bao giờ tôi cũng ăn không biết chán món khoai lang chấm mật ong chị dành phần tôi.
    Với chị, tôi luôn luôn vẫn là đứa em bé bỏng ngày nào. "ăn xong đi tắm đi, quần áo để đấy chị giặt cho". Câu nói ấy sao giống của mẹ tôi thế. Mẹ tôi và chị, hai người phụ nữ gắn bó với nhau, giống nhau kỳ lạ.
    Cây đa đầu làng như một già làng với bộ râu tua tủa quanh thân đã chờ đón tôi từ đằng xa. Bóng đa mát rợp một khoảng đất rộng lớn, chồm ra cả những thửa ruộng mới cấy. Cây đa cổ kính khiến mỗi lần tôi đi qua phải dừng lại một phút như để trút hết bụi trần trước khi trở lại là đứa con của dân làng. "Chú đã về đấy ư?" Tiếng gió thoảng qua như tiếng chị khiến lưng tôi ớn lạnh. Ngôi mộ của ai nằm kia mà còn nguyên mầu đất, vòng hoa chưa kịp héo. Không lẽ chị tôi nằm đấy ư? Không, tôi không tin, chỉ ít phút nữa về đến nhà chị sẽ đón tôi ở cổng như những ngày nào. Tôi tập tễnh bước lòng thầm mong bức điện kia chỉ là sự lầm lẫn.
    "Chú về đấy ư?". Lòng tôi run lên, chân tôi muốn khụy xuống khi đón tôi không phải là chị mà là anh trai. Như một sự vô tình anh lặp lại câu hỏi của chị mỗi khi tôi về. Hay giờ đây anh thay chị thể hiện tình cảm mộc mạc với đứa em trai? Tội nghiệp, mới đó mà anh tôi đã già xọp, lưng còng xuống, đôi mắt ngơ ngác như gà lạc mẹ. Anh vẫn chưa quên với sự thiếu vắng bóng hình chị.
    Anh nắm lấy tay tôi, mái tóc bạc trắng rung rung "Chị mất rồi em ơi, khổ anh quá".
    *
    * *
    Ngày ấy, tôi còn nhỏ xíu, tôi ngạc nhiên thấy hôm ấy nhà tôi ai cũng bận rộn, vui vẻ, tôi nhõng nhẽo bám theo anh trai, khuôn mặt tươi rói trong bộ quân phục mới. Mấy hôm trước nghe anh nói sắp vào nam chiến đấu, mẹ đã khóc suốt. Vậy mà, sao hôm nay cả nhà vui thế?
    Anh cười dí tay vào trán tôi: "Em sắp có chị dâu". Tôi nhăn mặt. Tôi không thích chị dâu. Trong ý nghĩ tôi, hình ảnh mụ dì ghẻ độc ác, người con dâu nanh nọc trong các câu chuyện kể còn vương vấn. Vả lại không có chị dâu thì tôi đã có khối anh chị rồi. Khác với trí tưởng tượng của tôi. Chị dâu tôi như một cô bé mới trưởng thành. Dường như chị mới bỏ chơi chuyền, chơi ô ăn quan để đi lấy chồng. Ngày ấy anh tôi 22, còn chị tôi 18 tuổi, ngay ngày đầu chị đã là cái cớ để chúng tôi trêu trọc. Buổi sáng đầu tiên ở nhà chồng, từ trong buồng bước ra, nhìn thấy ba mẹ tôi ngồi ở bàn uống nước, chị nhanh nhảu:
    "Cháu chào hai bác, hai bác mới sang chơi ạ". Rồi sực nhớ ra, chị mắc cỡ chạy vụt vào bếp. Ba tôi thì cười, còn mẹ tôi thì lắc đầu: "Con gái gì mà vô ý", chỉ có vậy mà chị ngồi dưới bếp khóc suốt. Sau đó ba ngày, anh tôi đi biền biệt. Trong nhà, ba tôi là người hay bênh vực chị nhất. Còn mẹ tôi thì vẫn hay xét nét những ngày đầu như những bà mẹ chồng nhà quê.
    Tôi ngồi xuống bậc cửa, lòng thổn thức. Mới đấy mà đã hơn 30 năm, chị gắn bó với gia đình tôi, đồng cam cộng khổ. Quê tôi đồng đất ít, gặt được đấu thóc phải đổi cả đấu mồ hôi. Ba mẹ tôi ngày càng già yếu, đông con. Chị là lao động chính, suốt ngày quần quật ngoài đồng. Chiều về lại túi bụi việc nhà. Riêng việc quét dọn và chăm sóc lũ em chồng là chúng tôi cũng khiến chị mệt nhoài. Chúng tôi sắp hàng chờ chị dội từng gáo nước, tắm cho từng đứa, dỗ dành lúc đi ngủ, lúc giành ăn. Tới bữa cơm, sáu đứa tuổi ăn tuổi lớn cứ rào rào như tằm ăn rỗi. Chị ngồi ở đầu nồi xới cơm, chúng tôi cứ nhấm nháy nhau, thi nhau ăn cho thật nhanh để chìa bát cho chị xới. Đến khi chúng tôi đã ăn no thì chị chưa xong một bát và nồi cơm đã cạn đáy. Có lần tôi phát hiện trong túi áo chị có một cục cơm cháy. Tôi dọa chị sẽ mét mẹ. Chị đã ôm lấy tôi và... khóc. Sau này tôi mới hiểu, mỗi bữa cơm chị chỉ kịp ăn xong một bát thì cả nhà đã ăn xong, không dám ngồi đến cuối bữa, chị phải cất cơm cháy vào túi để ăn dần.
    Tôi cũng có biết đâu rằng bao đêm, chị khóc âm thầm trong cảnh chồng xa vắng, chịu những lời trách móc, những quan hệ họ hàng phức tạp. Con dâu trưởng họ, với làng xóm đó là một "chức danh" chỉ có trách nhiệm nặng nề. Từ giỗ chạp, đình đám cho đến chăm sóc gia đình nhà chồng, mọi việc đều do tay chị lo liệu với một sự hy sinh âm thầm vô bờ bến. Chúng tôi lớn lên, dựng vợ, gả chồng, cũng có chị. Cha mẹ tôi già yếu mất đi cũng chị lo toan. Dường như những biến cố lớn lao trong gia đình tôi, những lúc khó khăn nhất, bao giờ chị cũng là người đứng ra đương đầu với một thái độ tự tin, bình thản. Coi như đó là trách nhiệm chính của chị. Trong bức tranh toàn cảnh của gia đình tôi nếu không có chị, chắc hẳn bức tranh ấy sẽ mờ nhạt lắm.
    Một lần, hồi cha tôi đã mất, tôi về thăm quê giữa lúc làng tôi đang mất mùa. Mẹ tôi đã hơn 70 tuổi. Thấy tôi về, chị mừng rỡ mổ một con gà, một con gà duy nhất còn đang đẻ. Mâm cơm chỉ có ba người, nồi cơm phía trên độn toàn là khoai. Chị xới hai bát cơm cho tôi và mẹ, giành cho mình toàn khoai. Tôi ngạc nhiên: "Các cháu đâu hết rồi?" "Ôi chúng nó ăn no đi học hết rồi". Khi chị đi xuống bếp, mẹ tôi mới nói: "Tội nghiệp con mẹ cả. Suốt một tháng nay có bữa nào nên mâm, nên bát đâu. Cả nhà chỉ có mỗi mình mẹ là được ăn cơm, còn mẹ con nó toàn ăn khoai, ăn ngô. Mẹ bảo nó: "Ráng mà ăn uống có sức khỏe còn nuôi con. Mẹ già rồi, ăn uống thế nào cũng được, chết cũng chả sao. Nó bảo: Bà chỉ nói linh tinh. Bà còn sống ngày nào, chúng con còn nhờ ngày ấy. Nó nói vậy, chứ mẹ có giúp gì được cho nó nữa đâu...". Nói rồi bà khóc. Miếng cơm nghẹn đắng trong cổ tôi. Tôi đã nghe chuyện xưa có người con dâu cắt thịt mình nuôi mẹ chồng. Nhưng đó chỉ là truyền thuyết. Còn chị dâu tôi...
    Khi mẹ tôi sắp mất, con cháu về đông đủ cả. Chúng tôi xúm quanh giường, chờ xem bà có trối trăn điều gì. Mẹ tôi nhìn qua con cháu một lượt rồi hỏi: "Mẹ cả đâu?". Đợi cho chị tất tả từ dưới bếp chạy lên, bà mới nói: "Các con phải thương yêu nhau, nghe lời chị cả. Nó thay mẹ". Rồi bà xòe bàn tay nhăn nheo ra bảo chị: "Con nhổ một miếng nước bọt vào tay mẹ đi, mẹ đỡ nhớ con". Một giọt nước mắt lăn trên thái dương, rồi mẹ tôi nhắm mắt.
    Cho dù ba tôi trước kia hay trách mẹ tôi xét nét con dâu nhưng cho đến lúc chết bà vẫn là người thương chị nhất. Phải chăng sự đồng cảm phận làm dâu của người phụ nữ suốt đời hy sinh vì chồng con khiến bà hiểu và thương chị nhưng không nói ra?
    *
    * *
    - "Chị chú bị u ác tính, đau có ba ngày rồi mất!".
    Tối đó dưới ánh đèn hiu hắt, anh tôi kể, khuôn mặt của ông đại tá già suốt bao năm vào sống ra chết vẫn chưa hết nỗi bàng hoàng trước sự ra đi mãi mãi của vợ.
    - Tôi nghĩ lại mà ân hận quá chú ạ. Suốt hơn ba mươi năm tôi chỉ quen với sự hy sinh âm thầm của cô ấy. Tới lúc chị chú đau tôi vẫn chủ quan bởi trong ý thức tôi, chưa bao giờ nghĩ rằng cô ấy có thể ốm. Cho tới lúc bệnh viện họ trả về, tôi mới cuống lên, chả biết làm gì nữa. Trước lúc mất cô ấy tỉnh táo lắm gọi tôi ra giường bảo: "Mình nằm xuống đây với em, có chuyện này, em muốn nói với mình".
    Tôi chiều ý nằm xuống cạnh cô ấy. Vợ chồng già, con cái lớn hết rồi, còn âu yếm gì nữa. Nhưng cô ấy cứ ôm chặt lấy tôi hồi lâu rồi nói: "Mình à, suốt chừng ấy năm là vợ chồng, mình có giận em điều gì không?". Tôi lắc đầu mà trong lòng chỉ muốn khóc thật to. Làm sao tôi có thể giận cô ấy trong khi cô ấy đã thay tôi gánh vác mọi việc lớn nhỏ trong nhà từng ấy năm. "Em không qua khỏi được đâu. Em chỉ ân hận không chăm sóc được mình lúc tuổi già. Em có mong ước cuối cùng này, nhưng nói ra mình đừng cười em nhé".
    Thề có trời đất, lúc ấy tôi sẵn sàng làm bất cứ việc gì để đáp ứng được mong ước cuối cùng của cô ấy... Tôi đã vào sống, ra chết, đã có quyền cao chức trọng, đã ra nhiều mệnh lệnh... làm sao lại không thực hiện được ước nguyện cuối cùng của vợ? Vậy mà tôi đã xụm xuống, tưởng như chết giấc khi nghe cô ấy nói: "Em chưa bao giờ được nghe mình nói "Anh yêu em" cả". "Nhưng lúc nào tôi cũng yêu mình. Tôi có điều gì không phải với mình đâu?". Tôi lắp bắp. "Em biết mình thương em, mọi người thương em. Trước kia còn trẻ, mình đi biền biệt, đến khi về thì đã già rồi. Nhưng em vẫn muốn nghe một lần mình nói câu ấy". Nói rồi cô ấy ngượng ngùng áp mặt vào vai tôi khóc. Còn tôi, tôi không thể khóc được nữa. Lòng tôi tê tái đau đớn. Tôi lấy chị chú chưa kịp yêu đương, chỉ vài lần biết mặt. Đang ở trong quân ngũ lại chiến tranh ác liệt. Trước khi đi nam gia đình bảo lấy vợ cho cha mẹ yên tâm. Mình hồi ấy còn trẻ thấy nói lấy vợ cũng thinh thích. Thấy cô ấy cũng hay hay con mắt. Thế là cưới. Về sống với nhau mới nảy sinh tình cảm, mới yêu thương. Nhưng tôi đi suốt năm, suốt tháng, mỗi lần về phép vợ chồng lại thấy ngượng ngùng như lần đầu mới gặp. Đến khi vợ chồng mới quen hơi, bén tiếng thì lại hết phép. Khi về hưu được ở gần nhau thì đã thành bà, thành ông rồi. Còn âu yếm, anh em như lúc trẻ thế nào được nữa. Vả lại tôi quen tác phong quân sự rồi cứ nghĩ vợ chồng sống có nhân, có nghĩa là đủ. Cần gì lời nói. Tôi đã làm chính trị trong quân đội ba mươi năm trời, đã làm đến chức đại tá, tưởng đã hiểu về con người. Vậy mà cuối cùng vẫn chỉ là một lão già đầu trọc, chả hiểu gì về phụ nữ, về vợ mình cả. Hơn ba mươi năm chị chú mòn mỏi chờ chồng, vất vả hy sinh âm thầm chỉ mong ước nghe một câu dịu dàng khen ngợi của chồng. Và suốt đêm đó tôi cứ ôm lấy cô ấy mà thì thầm mãi câu: "Anh yêu em". Lần đầu tiên trong đời tôi mới nói được câu ấy và cũng là lần đầu tiên tôi mới hiểu thế nào là tình yêu, tình chồng vợ.
    Tôi cứ ôm lấy cô ấy mà kể lan man. Những điều mà lẽ ra tôi phải nói ra ba mươi năm trước. Sáng ra tôi mới nhận thấy thân thể cô ấy đã cứng lạnh, đôi môi phảng phất một nụ cười, bàn tay nắm chặt chiếc lược đã mòn vẹt. Chiếc lược làm bằng xác máy bay tôi tặng cô ấy ngày cưới. Và đấy cũng là món quà duy nhất trong đời tôi tặng vợ...
    Anh tôi khóc, nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt héo hắt, mái tóc bạc trắng rung bần bật. Không có gì khổ não hơn trước cảnh một ông già khóc vợ. Khóc khi hiểu ra giá trị thực của tình yêu, khi nó không còn nữa. Khóc cho nỗi ân hận xót xa trước những lỗi lầm mà mãi mãi không lấy lại được. Tôi lập cập thắp nén nhang trên bàn thờ chị, đứng tựa lưng vào tường. Nhưng đâu phải chỉ mình anh tôi có lỗi. Sự xa cách, cuộc chiến tranh đã cuốn hút tâm trí con người. Nó bắt buộc người ta phải dồn nén tình cảm cá nhân, tạm gác một bên những mong ước đời thường. Cuộc chiến tranh đã làm bao người ngã xuống, để lại bao nỗi đau và cuộc chiến ấy cũng tạo nên biết bao những anh hùng. Nhưng phía sau những anh hùng ấy là những người phụ nữ như chị dâu tôi. Họ yêu thương, mòn mỏi trông chờ, hy sinh tất cả. Họ không cần đến những tấm huân chương, những chức vị mà chỉ ước ao một câu nói dịu dàng của người chồng...
     
  4. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Người gánh nước thuê - Võ Thị Hảo

    Chẳng ai biết lai lịch của bà, chỉ biết tên bà là Diễm. Diễm là đẹp, là diễm lệ. Ngoài vẻ đẹp, còn mang vẻ sang. Có ai gọi một củ khoai là diễm lệ đâu. Hẳn bố mẹ xưa đặt tên cho con cũng thầm ao ước sao cho con vừa đẹp lại vừa khỏi lầm than. Nhưng trông bà cả một sự nhạo báng cái mong ước đó.
    Dáng người bà Diễm bé loắt choắt, bộ mặt nhăn nheo, gầy sạm chỉ còn hai con mắt. Bà vừa đi vừa lắc lư cái lưng còng. Chiếc đòn gánh không bao giờ rời khỏi đôi vai còm cõi của bà. Nó bám chặt lấy bà như một thứ nghiệp chướng. Chiếc đòn gánh của bà cũng thật đặc biệt. Nó nhẵn bóng. Ngay cả những vết sẹo cũng đã nhẵn bóng và cũng khó đoán tuổi như chủ nhân của nó vậy. Nó đã tồn tại cùng bà không biết tự bao giờ. Nó được đẽo gọt từ một thân tre cong hằn dấu vết của những cơn gió táp và ra đời chỉ để đón đợi đôi vai còm cõi của bà Diễm mà thôi. Nó và chủ nhân của nó hợp thành một chỉnh thể của sự bất hạnh, hợp thành biểu tượng của một thân cây vừa mới ra đời đã bị gió mưa vùi dập. Cuối hai đầu đòn gánh là đôi thùng đầy nước lắc lư theo những bước chân không đều của bà Diễm và để lại những vệt nước rỏ ròng ròng như suối nước mắt cạnh đường đi. Những lúc đôi vai được rảnh rang, đôi môi bà lại lẩm nhẩm những câu không đầu không cuối. Bà đi và nói như người lẩn thẩn, nhưng những cử chỉ của bà vẫn chính xác một cách kỳ lạ. Đến máy nước bao giờ bà cũng đi sát mép đường bên phải và lặng lẽ đợi đến lượt mình, không xin xỏ, không tranh giành.

    Những nhà có máu mặt trong khu này thuê bà gánh nước. Họ chẳng ưa gì bà. Họ săm soi xem thùng nước bà gánh về có trong không. Có đáng đồng tiền của họ bỏ ra không. Có người nghi ngờ, bắt bà tháo cả bể nước đầy ra gánh lại, lấy cớ là bà đã lấy nước bẩn vào bể của họ. Cũng có những người trả tiền sòng phẳng, hậu hĩ là khác nhưng họ đưa tiền cho bà rồi vội quay đi như chỉ sợ dềnh dàng bà nhỡ mồm bắt chuyện thì mất cả thì giờ và mất cả thể diện nữa. Con người ta thường hay chối bỏ quá khứ, nếu quá khứ đó là không vẻ vang. Người đời nay coi nó là bệnh "sĩ". Nếu như những năm sáu mươi của thế kỷ này người ta cố chứng minh rằng gốc gác của mình là bần cố nông thì trong những năm tám mươi người ta lại cố khoe rằng nhà mình giàu có ra sao, bịa cả những chuyện đài các rởm không biết ngượng mồm. Thôi thì cũng chẳng trách họ, âu cũng là do cách nhìn người của thời đại mà ra. Những bộ mặt đần độn trát bự son phấn vênh váo, đầy kiêu hãnh giả tạo. Và trong cơn mơ đài các sang giàu của họ, bà Diễm chỉ là một kẻ làm thuê, một người gánh nước cho nhà họ. Một thời, chúng ta đã ghê tởm những từ "con ở", "đầy tớ", "gái điếm"... Nhưng giờ đây, những từ đó đã và đang lặng lẽ trở về nhắc nhở người ta rằng, chúng có mặt trên đời này.

    Vậy là bà Diễm hệt như con gà trụi lông giữa đàn công sặc sỡ. Nhưng bà gắn bó với họ, đúng hơn là với bể nước nhà họ, vì chỉ có họ mới đủ sức thuê bà gánh nước. Còn đa số "người nhà nước" trong khu này chẳng ai đủ tiền để mà thuê, dù muốn giúp bà. Cơm ăn chẳng đủ, lấy đâu ra tiền mà thuê gánh nước. Đành phải xếp hàng dài dằng dặc, hoặc thức đến hai ba giờ sáng để lấy mấy thùng nước.

    Với đôi thùng gánh nước, cứ thế, bà Diễm đi trong đời như kẻ mộng du và rồi có lẽ với cung cách mộng du ấy bà sẽ lặng lẽ đi xuống mồ, như một hạt bụi tan biến vào không gian chẳng để lại một mảy may dấu vết.

    Nhưng có một sự kiện khuấy động mảnh đời âm thầm ấy. Đó là sự xuất hiện của ông Tiếu. Thực ra những người gánh nước thuê không nhiều ở thời nay. Nhưng sự xuất hiện của ông Tiếu gắn liền với việc mở rộng con đường quốc lộ thành đường hai chiều. Ga mới mở. Những khu nhà cao tầng mọc lên như nấm và người đi lại nườm nượp trên con đường ấy. Hàng xa xỉ phẩm, hàng bán đồ ăn đồ nhậu mọc lên nhanh và nhiều vô kể. Và cần thêm người gánh nước thuê.

    Từ đó cạnh máy nước, đôi khi bên bà Diễm có một người đàn ông chống đòn gánh đứng chờ thùng nước đầy dần. Hiếm có một khuôn mặt khắc khổ đến thế. Có đến ngàn vạn nếp nhăn trên khuôn mặt đó. Đôi mắt biểu lộ một nỗi đau khổ bất thường như đã đông cứng. Còn cái miệng thì trớ trêu làm sao, luôn mỉm một nụ cười bất biến, như nó được tạo ra trên khuôn mặt ấy từ lúc mới sinh ra và cứ phải giữ vậy cho đến lúc chết. Nụ cười ấy giữa khuôn mặt ấy, thật là một nghịch lý, như là đang khóc với một nỗi đau xé ruột, mà có một kẻ tàn ác nào đó cứ nhất định cù vào nách cho ta phải cười rũ ra mới thôi.

    Việc hai con người khốn khổ đó bên nhau, cạnh máy nước làm bọn trẻ trai ngỗ ngược ở đây vô cùng khoái chí. Chúng gọi ông Tiếu là "bồ bà Diễm". Người lớn lúc đầu còn mắng, sau nghe quen cười xòa vì thấy cũng ngồ ngộ, và người ta không gọi ông Tiếu bằng tên nữa, chỉ gọi ông Tiếu là "bồ bà Diễm".

    Thực tình hai con người cô đơn đó cũng thật may mắn khi họ bỗng nhiên có mặt bên nhau, với những thùng nước trĩu nặng trên vai. Cũng có những lúc ông Tiếu nhấc hộ bà Diễm hai thùng nước đầy ra rồi đặt một khoảng cách vừa tầm để bà Diễm chỉ cần móc xích vào gánh. Trong chiếc túi áo rách của ông Tiếu luôn có những hạt lạc rang cháy khét. Thỉnh thoảng ông dúi cho bọn trẻ con và cho bà Diễm. Bọn trẻ con không ăn, còn bà Diễm thì nhận lấy và nhẫn nại nhấm nháp những hạt lạc đen nhờ nhờ, đăng đắng, tỏ vẻ cảm kích lắm.

    Một lần bà Diễm bị trượt chân ngã trẹo đầu gối, ông Tiếu vội dìu bà về túp lều của bà rồi lo cơm cháo thuốc thang. Thuốc chỉ có nắm lá láng hơ nóng, chườm bóp. Cơm sang lắm cũng chỉ miếng đậu luộc chấm mắm tôm.

    Bà Diễm rưng rưng: "Vậy chứ nhà ông ở đâu?" Vẫn với nụ cười muôn thuở, ông Tiếu đáp: "Ở góc chợ Cầu Giấy". "Vậy chứ lúc mưa gió ông làm sao?" "Thì nép dưới hiên của nhà nào đó cho qua".

    Bà Diễm khóc ròng: "Thôi, ông về đây mà ở cùng tôi. Tôi và ông cũng sắp xuống lỗ rồi, chắc chẳng ai dị nghị gì đâu. Ông ơi, hai cái cây đã bị đánh bật hết rễ, biết tựa vào nhau để đỡ đần thì sẽ lâu đổ hơn".

    Ông Tiếu nhìn xuống đầu ngón chân của mình, không nói gì, nhưng lần đầu tiên nụ cười hóa đá của ông biến mất. Rồi từ đó trong túp lều bên bờ ao, có hai bóng già lọ mọ sớm hôm. Bà Diễm cũng bớt lẩm nhẩm một mình.

    Nhưng một hôm ông Tiếu phải trở về góc chợ cũ để tìm mấy cái quần áo rách và cái chăn cũ nát. Gió thu đã se sắt lạnh bên bờ ao. "Làng" của ông Tiếu, đó là góc chợ với đám người rách rưới lam lũ, lang thang không nhà do nhiều hoàn cảnh xui khiến nên. Họ bắc những viên gạch vỡ làm bếp, và lấy những mảnh báo cũ và ni lông rách treo lên làm buồng. Lâu không thấy ông, họ xúm lại hỏi ông đi đâu, ở đâu? Ông ấp úng. Họ càng trêu già, vì biết ông đang ở trong túp lều của bà Diễm. Một thằng lỏi con kiếm đâu ra cây gậy, lấy dây chuối buộc hai viên gạch vào hai đầu vờ làm thùng gánh nước rồi nhăn nhó, còng lưng làm bộ bà Diễm đang gánh nước cạnh ông Tiếu. Cả đám ré lên cười như hóa dại. Những người đi chợ thấy ồn ã cũng đứng lại xem. Được thể, chúng càng làm nhiều trò, diễn cảnh ông Tiếu chân thấp chân cao khoác tay bà Diễm đi chơi công viên. Mọi người tha hồ đắc chí. Chả mấy phen được bữa cười vỡ bụng như hôm nay. Rồi họ sẽ trở thành người kể chuyện có duyên nhất trần đời khi kể lại cho người khác nghe chuyện này. Chỉ có ông Tiếu là đứng lặng phắc không nói được câu nào. Lát sau, vứt lăn lóc bọc quần áo rách, ông lùi lũi trở về túp lều cạnh bờ ao của bà Diễm. Qua dãy nhà gánh nước thuê, vài đứa trẻ lêu lỏng thấy ông đã reo lên:

    - A bồ bà Diễm. Đẹp đôi như Chí Phèo và Thị Nở ấy chúng mày ơi.

    Về đến lều, ông nằm vật ra giường, không ăn uống. Hôm sau ông lên cơn sốt. Bà Diễm hết lòng săn sóc thuốc thang nhưng vô ích. Lúc sắp trút hơi thở cuối cùng, ông gọi bà đến bên, lần tay vào mụn vá lớn sát ngực lấy ra một tấm ảnh đã ố vàng và một trăm đồng bạc gói kỹ tự bao giờ trong túi ni lông. Trong ảnh là một bé gái tóc tơ xấp xõa, đôi mắt tròn đen mở to ngây thơ. Ông Tiếu thều thào:

    - Con tôi đấy bà ạ... Nó bị mất tích trong một trận bom. Người ta bảo nó đã chết cùng với mẹ nó. Nếu thế tại sao chỉ tìm thấy xác mẹ nó thôi. Tôi tin nó vẫn còn sống, có thể nó lưu lạc ở phương nào. Lê con ơi...

    Từ đôi mắt mờ đục của ông, hai giọt nước như được gạn từ đáy mắt, như những giọt thủy ngân khó nhọc lăn ra. Ông nức lên, nói đứt quãng:

    - Bà ơi, nếu... có... một ngày... nào... đó bà thấy có một người con gái... trạc hai mươi... mà giống con... bé trong ảnh này... bà nhớ gọi lại hỏi gốc gác... xem có phải bố nó là ông Tuyền ở xóm Đoài, xã Hoài Ân... không nhé. Và nếu phải... bà nói rằng bố nó vẫn chờ nó... cho đến chết... bà đưa cho nó một trăm đồng... bạc này...

    Rồi ông thở hắt ra. Nụ cười oan nghiệt vĩnh viễn tắt trên đôi môi ông.

    Bà Diễm ngồi lặng câm nhìn tấm ảnh và một trăm đồng bạc côi cút. Trăm bạc này, chắc ông đã ki cóp từ lâu lắm, khi nó còn mua được nửa chỉ vàng. Ốm đau đói rét bao phen, cũng không bao giờ dám đụng đến, để cho đến bây giờ, một trăm đồng bạc của ông dành cho con cũng chỉ đủ để mua một mớ rau muống...

    Rồi mộ ông Tiếu cỏ xanh phủ dần, đám cỏ đuôi gà bò lan cả ra mặt đất bằng. Thỉnh thoảng bà Diễm thắp vài nén hương cho ông, lần nào bà cũng thầm thì khấn:

    - "Ông Tiếu ơi, tôi vẫn để ý tìm con cho ông mà đâu thấy. Tôi tìm cả khi chờ thùng nước đầy, cả khi đang gánh nước, ngày này qua ngày khác. Ờ, nếu nó còn sống thì tôi cũng chẳng còn mấy thời giờ nữa để làm việc đó cho ông. Tôi cũng sắp theo ông về với đất rồi đây. Nhưng mãi đến tận lúc này, tôi vẫn tin có thể chốc nữa, có thể tối nay, ngày mai, con bé đến và hỏi, giọng nó trong veo: "Có phải ông Tuyền cha cháu ở đây không?...".

    Người ta bảo nhau rằng, dạo này bà Diễm càng dở hơi tệ, bởi vì ngoài cái tật cứ nói lẩm bẩm một mình, trong tay bà không bao giờ rời cái gói nhỏ bọc vải nhựa đã cũ mèm, chẳng khác mụ phù thủy đang giữ chặt bùa phép duy nhất giúp cho bà còn sống trên đời này. Có ai biết rằng cái bùa phép đó là tấm ảnh một bé gái đã ố vàng và một trăm đồng bạc cũ. Đằng sau tấm ảnh, một dòng chữ mới viết xiên xẹo đầy lỗi chính tả: "Đây nà cháu Nê, con ông Tuyền ở xóm Đoài, xã Hoài Ân... một trăm đồng bạc lày nà của cháu!".
     
  5. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chạy trốn người tình - Lê Minh Quốc


    Tôi rời khỏi ký túc xá vào lúc 5 giờ sáng. Chăn chiếu và sách vở của thời sinh viên xin trả lại. Những bữa cơm chỉ có rau muống luộc và "canh toàn quốc" chúng tôi xin trả lại. Tôi trả lại tất cả. Từ ngọn đèn mờ nhạt của những đêm học thi. Từ chiếc giường sắt hai tầng đầy rệp. Đến những bài học tiếng Anh, Hán, Nôm. Tôi trả lại tất cả. Để về miền Trung ăn Tết. Có nghĩa là tôi sắp đối diện với thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ. Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh. Đưa tôi ra đến tận bến xe miền Đông, thằng Thịnh bảo:

    - Chúc mày về quê gặp nhiều may mắn. Gặp Kim cho tao gửi lời thăm.

    Mặc dù, chưa gặp mặt Kim, nhưng thằng Thịnh đã biết nàng qua những lá thư tình. Mọi lá thư nàng gửi cho tôi thì thằng Thịnh đều đọc. Hắn đọc say sưa. Hắn biết rõ chuyện tôi và Kim yêu nhau. Biết một cách rành rọt, nên nhiều lúc nhận được thư của nàng thì sau khi đọc xong, hắn đã đọc đễ cho tôi chép lại thư trả lời cho nàng. Cứ làm như hắn là người yêu của nàng không bằng. Do đó, khi nghe hắn nói vậy thì tôi rất cảm động.

    - Ừa cám ơn mày. Khi gặp mày chắc nàng cũng quý mày lắm Thịnh ơi!

    Năm giờ sáng ở Sài Gòn đã rộn rịp những tiếng xe và người. Chúng tôi quẹt lửa đốt cháy những điếu thuốc Aspara để sưởi ấm tâm hồn lúc sắp chia tay. Và khi chưa hút xong điếu thuốc thì có lệnh lên xe. Hành khách được xếp vào các băng ghế. Chật chội. Như người ta xếp cá mồi xuất khẩu. Và tôi, thằng sinh viên chân yếu tay mềm cũng được đối xử như thế. Tôi suýt nhăn mặt cau có nếu... Nếu người ngồi cạnh tôi chung một băng ghế không lại là cô gái này. Cô ta đẹp quá. Mái tóc ngắn củn cỡn như con trai. Và môi đỏ màu son. Ánh mắt lúng liếng nhìn tôi như khẽ chào một người bạn đồng hành. Bằng linh tính của một thằng con trai đã có người yêu, tôi biết rằng cô ta đang dành cho tôi khá nhiều thiện cảm. Tôi thầm cám ơn anh "lơ xe" đã xếp tôi ngồi băng ghế này. Ngồi cạnh người con gái đẹp. Khi đi tàu xe điều hạnh phúc nhất đễ giết chết thời gian nhàn rỗi trên xe, không có gì lý thú bằng những cuộc trò chuyện với người bạn gái ngồi bên cạnh. Và tôi may mắn là được ngồi bên một người đẹp. Khi tôi bước vào băng ghế thì cô ta nhanh nhẹn đứng lên. Đôi môi màu son ấy đã nói:

    - Anh ngồi bên cạnh cửa sổ nhé. Ngồi chổ đó gió thổi lạnh lắm, em chịu không được.

    Tôi vui vẻ đáp:

    - Vâng, cám ơn em.

    Sau khi chuẩn bị xong mọi thứ thì xe bắt đầu rời bánh. Mọi âm thanh rung lên. Như tâm hồn tôi đang rung lên những cảm xúc nôn nóng mau mau về quê ăn Tết. Xe chạy bon bon. Ngồi bên cô gái mới quen, tôi rút một điếu thuốc gắn trên môi. Đó là thói quen giữ bình tĩnh của tôi khi nói chuyện với một người lạ. Tôi nói:

    - Xin phép em, tôi có thể hút thuốc được không?

    - Vâng, anh cứ tự nhiên.

    - Em không sợ khói thuốc sao?

    Cô ta chỉ cười chứ không nói. Tôi khum bàn tay để che gió trong khi quẹt lửa. Cây diêm phựt cháy rồi tắt ngủm. Gió thổi mạnh quá! Tôi lúng túng chưa biết làm thế nào thì cô ta nói:

    - Để em che gió cho, anh quẹt diêm đi.

    Vừa nói, cô ta vừa khum lại mười ngón tay. Tôi quẹt diêm và mồi thuốc một cách dễ dàng. Tôi thả khói thuốc Aspara khét lẹt qua miệng:

    - Nè, em tên gì vậy? Tôi tên Quốc.

    Cô ta không trả lời mà chỉ mỉm cười. Chao ôi!!! Khi người con gái mỉm cười, đó là lúc họ đáng yêu nhất vì trên gương mặt ấy không hề lộ ra một chút bực bội và nhỏ nhen nào cả. Nụ cười của cô bạn này đã làm tôi ngây ngất:

    - Thú thật, tôi tên Quốc. Tôi là sinh viên khoa Văn. Còn em, em tên gì vậy?

    - Anh hỏi để làm gì?

    - Để bọn mình gọi nhau cho dễ. Vì...

    Cô ta tròn mắt hỏi:

    - Vì cái gì vậy anh Quốc?

    Tôi chợt nhớ đến những lời tôi đã tỏ tình với Kim, bây giờ tôi lập lại với cô bạn này:

    - Vì đời sống này mọi người cảnh giác với nhau nhiều quá, nên mọi tông tích, lý lịch của mình đều giấu kín khi trò chuyện với người khác. Điều đó làm tôi rất buồn. Tôi mong rằng trên đời này vẫn còn chỗ cho những tình cảm chân thật. Chứ huống hồ gì từ đây về Đà Nẵng phải ngồi cạnh nhau đến hai ngày. Đúng vậy không em?

    Nhờ hút thuốc Aspara hay chăng mà sáng nay tôi lại ăn nói một cách có duyên quá vậy? Tôi chợt khâm phục những lời ăn nói hoa mỹ của tôi. Sinh viên Văn khoa mà lỵ. Quả thật, khi nghe những lời bay bỗng của tôi thì cô ta vội vàng chớp mắt:

    - Anh nói như nhà thơ vậy. Hay quá ! Em tên là Thùy.

    Được lời khen của Thùy như cởi mở tấm lòng, tôi cao hứng ba hoa:

    - Thùy à? Tên em đẹp lắm. Thanh Thùy? Mộng Thùy? Trang Thùy? hay Diễm Thùy?

    - Trật lất. Em là Phương Thùy.

    Lúc này, xe đã chạy bon bon. Những lúc gặp đoạn đường đầy ổ gà thì chiếc xe nghiêng ngửa làm Thùy ngã vào tôi. Tôi cám ơn những đoạn đường như thế. Hỡi những ông công chánh, những thợ làm đường hãy đễ đường đầy ổ gà, ổ voi...

    Vì tranh thủ thời gian gần Tết, nên xe của chúng tôi chạy bạt mạng. Không dừng lại ở bất cứ nơi nào để đón thêm hành khách. Mãi đến một giờ trưa chúng tôi mới được dừng lại ở thị xã Phan Rang để ăn cơm. Cơn nắng gắt của thị xã đã đón chúng tôi bằng tất cả nhiệt tình. Tại đây, qua làn gió lồng lộng của buổi trưa đã mang lại cho chúng tôi mùi nước mắm. Và đây mùi vị của biển. Những tiếng pháo đưa ông Táo về trời đã dội lại, càng làm tôi nôn nao. Bước vào quán ăn tôi nói với Thùy:

    - Sắp Tết rồi. Anh sung sướng quá.

    Thùy cười:

    - Tết về quê gặp người yêu nên sung sướng chứ gì?

    Lời nói vu vơ của nàng đã trúng ngay tim đen của tôi. Chỉ có những thằng ngu mới thừa nhận với người con gái này là mình đang yêu một người con gái khác. Trong giáo trình môn Văn học ở phương Tây, tôi đã từng đọc được đâu đó lời "khuyên" của gã Don Juan: Các mối tình của đàn ông luôn luôn là một dãy số biến đổi, nó sẽ là số không khi nói với người phụ nữ và sẽ trở thành con số nhiều khi kể cho một người đàn ông khác... Do đó, khi nghe Thùy nói thế tôi giả bộ làm mặt buồn thiu như cơm khê nhiều lửa bởi bàn tay vụng nấu:

    - Thùy nói gì lạ vậy? Anh tìm mỏi mắt cũng chưa hề được ai thương cả.

    - Tại anh khó tính chứ bộ.

    - Sao Thùy biết anh khó tính?

    Cô ta cười:

    - Trông anh cũng đẹp trai và học hành đàng hoàng, có khối cô yêu anh.

    Bất chợt tôi phá lên cười:

    - Được như vậy thì hên quá! Ước gì anh gặp được cô nào như em thì tuyệt quá !!!

    - Thôi đừng có nói nhảm. Mình vào ăn cơm đi anh.

    Chúng tôi vui vẻ bước vào quán. Và để trở thành người con trai thanh lịch, nên cuối bữa ăn tôi dành được trả tiền. Số tiền để dành ít ỏi của tôi vơi dần một cách đáng thương hại. Nhưng tôi vẫn vui vẻ huýt sáo khi bước lên xe. Khi xe chạy, gió thổi mát rười rượi. Mọi người trên xe đều bắt đầu chìm vào giấc ngủ. Thùy đã ngã vào vai tôi để ngủ vì xe chật chội nên không còn cách nào khác. Điều đó làm tôi mừng rơn. Tôi quyết chí lấy lòng của nàng, nên khi nàng thiu thiu giấc ngủ thì tôi khẽ đọc thơ. Thằng Thịnh thường bảo tôi: "Chinh phục con gái mà bằng thơ là cách chinh phục đầy lịch sự và hiệu quả nhất." Bằng giọng nhỏ nhẹ của thằng con trai Quảng Nam sau mấy năm ăn học ở Sài Gòn tôi đã ru nàng bằng thơ. Ngủ ngon nhé Thùy ơi!!!

    Quả thật, lời tôi đọc khẽ khàng một cách du dương đầy quyến rũ nên Thùy đã ngủ ngon. Và tôi, tôi cảm thấy mình trở thành người có nhiệm vụ phải tỉnh táo để canh giấc ngủ cho Thùy.

    Sau khi ngủ chập chờn trên xe, Thùy thức dậy hẳn và hỏi:

    - Đến đâu rồi anh Quốc?

    - Đến Qui Nhơn rồi.

    - Vậy là sắp về nhà rồi.

    Con mắt ngáy ngủ và giọng nói ấm cúng của nàng đã làm tôi cảm thấy xao xuyến. Gần về đến nhà có nghĩa là sắp chia tay nhau. Điều đó bất chợt làm tôi buồn. Tại sao vậy? Tôi không lý giải được, khi mà tôi chưa nói yêu Thùy bao giờ. Sắp chia tay rồi, tất cả những điều đó đã buộc tôi bạo dạn:

    - Thùy nè, ở Đà Nẵng em ở đường nào vậy?

    - Anh hỏi làm chi vậy?

    - Để đêm ba mươi Tết anh sẽ đến thăm em.

    - Xạo hoài.

    - Ai thèm xạo, anh nói thật mà.

    Tôi sung sướng chờ đợi cái địa chỉ mà Thùy sẽ nói. Nhưng Thùy lại đánh trống lãng một cách tài tình:

    - Anh Quốc nè, lúc nãy anh đọc thơ của ai mà hay quá vậy?

    Tôi bèn giã bộ:

    - Ủa, lúc nãy em ngủ mà em cũng nghe sao?

    Nàng gật đầu:

    - Ngủ gì đâu, xe xóc quá.

    Thế là nàng đã rơi vào "cái bẫy" mà tôi đã giăng ra. Cám ơn mày Thịnh ơi! Tôi hãnh diện trả lời:

    - Thơ của anh đó.

    - Trời đất! anh cũng biết làm thơ nữa hả?

    Lời ngạc nhiên của nàng làm tôi sướng phồng cả hai lổ mũi. Thùy nói tiếp:

    - Anh chép bài thơ đó tặng cho em nghen?

    - Đồng ý một trăm phần trăm.

    Và tôi không quên bỏ lỡ cơ hội tán tỉnh:

    - Nhưng em cho anh địa chỉ để anh cầm bài thơ đó đến nhà em. Đến vào đêm ba mươi Tết, em có thích không?

    Nàng im lặng, xe vun vút lao đi. Trời về khuya lành lạnh khiến người ta ngồi sát lại gần nhau là điều hợp lý. Tôi khéo léo ngồi sát lại phía gần Thùy. Bất chợt bàn tay tôi chạm vào bàn tay nàng. Nóng như than, như lửa. Nàng để yên như không biêt chuyện đó xảy ra. Tôi để yên như tận hưởng một hạnh phúc đến bất ngờ. Thời gian trôi qua. Tim tôi nóng ran. Và Thùy nói:

    - Thôi được, khi xuống xe thì em sẽ trao địa chỉ cho anh. Còn bây giờ thì bí mật.

    Tôi mừng rơn và siết chặt tay Thùy. Lúc đó, những tiếng pháo báo hiệu mùa xuân sắp đến lại rộ lên. Lòng tôi đầy hạnh phúc. Và đến gần bảy giờ sáng hôm sau thì xe chúng tôi đã đến Đà Nẵng. Thời gian trôi qua nhanh như sự hối tiếc của tôi. Ngay giữa bến xe Đà Nẵng khi chia tay nhau Thùy trao cho tôi một tờ giấy nhỏ, ghi địa chỉ của nàng. Tôi nhét vội vàng vào túi áo, để còn kịp gọi xe xích lô chở nàng về nhà. Mọi người đều mệt mỏi trên chuyến xe tốc hành nên ai cũng muốn nhanh chóng trở về nhà. Tôi cũng vậy. Tôi thèm về ngay nhà để tắm giặt, ngủ một giấc cho đã đời. Đà Nẵng ơi Đà Nẵng!!!! Tôi đã về quê ăn Tết.

    Suốt mấy ngày sắp Tết, tôi phải bận rộn với biết bao là việc phải làm. Không có thời gian dành cho chuyện nghỉ ngơi và đi chơi. Kim cũng vậy. Nàng chỉ đến thăm tôi một vài lần. Tất cả mọi chuyện chúng tôi đều hẹn vào ngày mồng một Tết hoặc đêm ba mươi Tết. Và đêm ba mươi Tết cũng đã đến. Khi ủi quần áo, để diện thật bảnh trong đêm đi đón giao thừa, tôi sực nhớ lại tờ giấy của Thùy. Lật tờ giấy đó, tôi thấy ghi: " Phương Thùy địa chỉ X đường Triệu Nữ Vương". Trời ơi!!!!!! Tôi cảm thấy xây xẩm mặt mày như vừa trúng cơn gió độc. Tôi vò mạnh tờ giấy trong lòng bàn tay và bỏ vào miệng nuốt xuống cổ họng. Tim tôi đau thắt lại. Đó chính là địa chỉ của Phương Kim -- người yêu của tôi. Lẽ nào??? Lẽ nào Phương Thùy và Phương Kim là hai chị em ruột của nhau? Tôi đã bắt cá hai tay...

    Sự thật bao giờ cũng đơn giãn. Tôi đã phạm một lỗi lầm rất lớn. Kim không thể tha thứ cho tôi. Đêm ba mươi Tết này tôi phải đi đâu? Tôi chạy trốn người tình. Tôi nghe trên trời xanh vọng về tiếng hát "Trời đang Tết hay lòng mình sắp Tết? Tháng ngày đã trôi qua tình đã phôi pha người xa khuất. Chỉ còn một chút hương xưa giờ cũng phong ba rụng cuối mùa..." Tình tôi đã rụng. Và như một tội phạm tôi chạy trốn người tình trong đêm ba mươi Tết.
     
  6. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Ngựa người và người ngựa

    Nguyễn Công Hoan

    Đố ai biết anh phu xe lững thững dắt cái xe không ở đằng ngã tư đầu phố kia, đi như thế từ bao giờ đấy?
    Trông anh ấy có vẻ "đói" khách lắm. Có lẽ thế thật. Vì ai lại tám giờ tối ba mươi Tết rồi, còn lang thang phố nọ sang phố kia thế? Mà hàng phố, nhà nào nhà nấy đóng cửa cả rồi, còn mấy ai ra ngoài đường làm gì, mà còn hòng một "cuốc" tất niên?
    Ấy thế! Trả xe cho xong quách, về nhà hú hí với vợ con có hơn không, tội gì! Vợ anh, con anh, đương chờ anh ở cửa đó nọ. Năm hết tết đến rồi. Còn mấy giờ đồng hồ nữa thôi, chứ còn lâu la gì?
    ấy, giá trong túi có nặng cái đồng tiền, thì chả phải bảo, anh ta cũng về nhà cho xong quách, việc gì còn phải vơ vẩn vẩn vơ như thế này! Khốn nhưng anh ấy vừa mới ốm dậy, ốm một trận tưởng mười mươi chết, thành ra không những mất một dịp kiếm tiền vào lúc cuối năm, mà bao nhiêu tiền dành dụm trong bấy lâu, sạch sành sanh cả.
    Bởi vậy hôm nay, anh ấy cố vay được cái vốn để đi mua xe, kiếm bữa gạo để ăn tết.
    Quái, không hiểu cái ngày nay là ngày gì, mà từ chiều đến bây giờ, anh ấy mới được có hai hào chỉ! Ban chiều, khách áo gấm, áo nhung, đi nhan nhản ở đường, mà mời mỏi miệng, cũng không có một ai lên xe, nữa là bây giờ! Bực nhất là thỉnh thoảng lại lẹt đẹt tràng pháo nổ, làm cho anh ấy nóng cả ruột gan. Nghĩ đến cái cảnh tết nhà giàu mà thèm rỏ dãi. Họ quăng tiền đi về dịp tết, thi nhau tiền trăm bạc nghìn để xa phí vô ích, mà mình thì lo méo mặt mấy hào bạc gạo ngày mai không xong.
    Thỉnh thoảng, anh ta dỏng tai quay cổ, xem có ai gọi ở đa (`ng xa không. Thì chỉ thấy đánh đẹt, lòe một cái ở giữa đường, làm cho anh ta giật mình đánh thót. Giật mình, rồi lại thở dài, ngán cho cái đời bấp bênh, lắm lúc muốn quẳng phăng cái xe đi, làm nghề khác. Nhưng bỏ nghề này thì xoay ra nghề gì?
    Anh ấy đi lững thững như thế, qua Hàng Trống, quặt ra phố Nhà Thờ, xuyên thẳng ra lối nhà thương Phu? Doãn, thì bỗng đứng dừng, quay cổ lại nhìn.
    - Xe!
    - Đây!
    Ba chân, bốn cẳng, anh ấy chạy vội lại phía có người gọi, hạ hai càng xuống.
    - Bà về đâu?
    Một bà trạc độ ngót ba mươi tuổi, mình mặc xa tanh nâu, đầu quàng khăn bịt trắng, bỏ giọt xuống tận bụng, đứng ở đầu hè:
    - Anh có đi giờ không?
    - Bà đi mấy giờ?
    - Một giờ.
    - Xin bà sáu hào.
    - Sao anh lấy đắt thế? Hai hào!
    - Thưa bà, xe ngày tết vẫn thế, vả lại bây giờ còn ai kéo nữa, mà bà giả rẻ thế. Con kéo một chuyến, rồi cũng đi giả xe, về ăn tết đây!
    Bà khách thấy anh xe nói ra ý không thiết kéo, nên quay lưng đi.
    - Này, bà giả bao nhiêu?
    - Hai hào là đắt rồi, ngày dưng chỉ có hào rưỡi một giờ thôi.
    - Thôi, năm hào rưỡi, bà có đi, không thì thôi.
    - Thôi.
    Bà khách lại quay lưng đi, lần này thì đi thẳng.
    Anh xe vắt chân chéo kheo, chỏng càng lên trời mà nhìn theo mãi một lúc. Anh đoán có lẽ người này cũng là khách kiết, nên mới trả rẻ quá như vậy. Thôi thì người già thì ta non. Anh chạy theo và gọi:
    - Này, mời bà lên xe!... Hai... hàọ..! Xin bà hai hào rưỡi.
    Bà khách vừa bước chân lên sàn xe, thấy anh xe vòi hai hào rưỡi, vội nhảy tọt ngay xuống đất:
    - Không hai hào thì thôi.
    - Thôi, đây, mời bà lên.
    Bà khách vạch cổ tay áo, xem đồng hồ:
    - Chín giờ năm nhé, nhưng kể là chín giờ đúng cũng được.
    Anh xe kéo giờ, nên cũng chỉ chạy "dưỡng lão" thôi, đít nhổm mạnh, mà bước ngắn. Vì thì giờ là tiền bạc, chậm phút nào là tiền phút ấy.
    Trước anh xe tưởng bà khách đi có việc gì, cho nên còn chạy. Sau thấy bà cứ trỏ vơ vẩn hết phố nọ sang phố kia, mà chả đỗ ở phố nào cả, thì mới đoán có lẽ là cánh "ăn sương" chi đây. Anh bèn đi bước một. Nhiều lúc muốn hỏi thực, nếu có phải giăng há thì mình giới thiệu cho một món sộp đáo để.
    Nhưng lỡ không phải thì họ mắng cho và không trả tiền thì khổ.
    Qua chợ Đồng Xuân, vòng về Hàng Cót, lại rẽ sang Cửa Đông, bà khách bỗng hỏi:
    - Anh có bằng lòng kéo tôi giờ nữa không?
    - Vâng, nhưng bà có cho cháu hai hào thì cháu kéo hầu bà giờ nữa.
    - Được.
    - À, anh có hào lẻ không, cho tôi vay mấy hào, chốc nữa tôi giả cả đồng cho tiện.
    Anh xe móc bao phục, lấy ra hai hào, đưa cho bà khách. Bà khách vào hiệu, mua gói thuốc lá, bao diêm, còn tiền mua cả hạt dưa để ca ( n.
    Anh xe nhấp nhổm chạy rảo cẳng vài bước, rồi lại tiến bước như trước. Một lúc, anh mới đánh bạo hỏi một câu rõ khôn:
    - Bà tìm ai, thưa bà?
    - Tôi tìm người quen.
    - Người quen bà ở phố nào?
    - Anh cứ kéo đi.
    Anh xe lại cứ kéo như thế, ra Ga, vòng về đường Sinh Từ, quặt về Hàng Bông, Hàng Mành, Hàng Vải Thâm, vân vân. Mãi mãi, mà người khách vẫn không tìm thấy ai quen.
    - Thưa bà bây giờ mấy giờ rồi?
    - Mười một giờ kém năm.
    - Con kéo hết giờ này, xin bà cho tiền để con đi đón khách ở ga về.
    - Anh có bằng lòng kéo tôi giờ nữa không?
    - Thưa bà, con đón khách ở ga hay ở nhà chớp bóng thì một cuốc cũng được hai hào chỉ.
    - Anh đã chắc có khách chưa? Hay là mật ít ruồi nhiều, rồi dắt xe về không. Anh lại cố kéo tôi giờ nữa, đi thủng thỉnh thế này mà được tiền, chả hơn chạy mửa mật ra ư?
    Anh xe nghe bùi tai, lại bằng lòng kéo. Hàng phố càng thấy thưa người đị Các cửa đóng kín mít. Đi một lúc, qua Ngõ Trạm, vòng sang Hàng Điếu, rồi rẽ sang Hàng Bồ. Lúc ấy, bốn bên im lặng như tờ, chỉ thấy tiếng lách tách bà khách cắn hạt dưa thôi, thì bỗng một tràng pháo nổ, đì đẹt pháo giao thừa.
    - Mấy giờ rồi, thưa bà?
    - Phải gió nhà nào bây giờ đã đốt pháo giao thừa! Mới có mười hai giờ kém mười lăm.
    Anh xe mới nghĩ: "Mười lăm phút nữa, mình sẽ có sáu hào. Sáu hào với hai hào là tám. Thế nào ta cũng nài thêm bà ấy mở hàng cho một hào nữa là chín. Chín hào! Mở hàng ngay từ lúc năm mới vừa đến. Thật là may! Mới năm mới đã phát tài! Thôi, sang năm tất là làm ăn bằng mười ba (`ng trăm năm nay".
    Rồi anh nghĩ đến vợ con anh, mà phấn chấn trong lòng, như có cái sức gì nó xúi giục anh quên khổ để vui lòng làm việc vậy.
    "Sáng mai, kéo chuyến khách qua ga, xong rồi, ta đánh bát phở tái, rồi mua cho con cái bánh ga tô cho nó mừng. Vợ ta nghe thấy trong túi ta có tiền, thì chắc hớn hở, thấy ta làm lụng vất vả để kiếm tiền nuôi cả nhà, tất là thương ta lắm. Nhưng ta sẽ làm ra dáng không mệt nhọc, để vợ chồng con cái ăn tết với nhau cho hể hả".
    Anh vừa nghĩ thế, vừa kéo về phía nhà thương Phu? Doãn. Tới chỗ khi nẫy, anh dừng xe lại, nói:
    - Bây giờ có lẽ mười hai giờ, xin bà cho cháu tiền.
    Bà khách có ý luống cuống, nói:
    - Chết! Anh hỏi tiền tôi bây giờ à? Anh chịu khó kéo tôi một giờ nữa đi.
    - Thôi khuya rồi, cháu phải về nhà.
    - Này, chả nói giấu gì anh, tôi cũng đi kiếm khách từ tối đến giờ. Có anh biết đấy. Có gặp ai hỏi han gì đâu. Tôi định nếu có khách thì hỏi vay tiền trước để giả anh. Nhưng chẳng may gặp phải cái tối xúi quẩy thế này, thì tôi biết làm thế nào?
    - Thế cô đi xe tôi từ chín giờ, cô không giả tiền tôi à?
    - Bây giờ thì tôi biết làm thế nào?
    - Tôi kéo cô lên Cẩm.
    - Lên Cẩm thì tôi cũng đành lên với anh, chứ tôi biết làm thế nào!
    - Thế mà cũng vác mặt mặc cả xe giờ, lại còn vay tiền người ta mà mua thuốc lá với hạt dưa!
    - Nhà tôi ở ngay đầu ngõ Hàng Bún, khi nào anh đi qua, thì tôi giả tiền anh chứ gì!
    - Chứ gì! Một trăm ngõ Hàng Bún, ai biết ngõ nào mà tìm!
    - Tôi không có tiền đâu, chả tin anh khám mà xem.
    - Tôi không khám, cô giả tiền tôi cho tôi về!
    - Đây, hay là phu la, áo, đồng hồ đây, anh muốn lấy thức gì thì lấy.
    - Tôi lấy để làm ma mẹ tôi à?
    - Thôi này, đừng cáu làm gì. Tôi bảo, cảnh tôi cũng như cảnh anh, cũng là đi kiếm khách cả. Nhỡ phải một tối thế này, thì chịu vậy, chứ biết làm thế nào?
    - Thế sao cô không bảo thực tôi từ trước, để tôi kéo cô qua các nhà săm để hỏi, cô còn sĩ diện mãi.
    - Nào ai biết cơ sự nó ra thế này. Thôi, này, tôi nói thế này thì anh nghe. Nếu bây giờ anh bỏ tôi ở đây, thì tôi không có tiền giả anh, sự ấy đã đành rồi, nhưng mà anh thiệt. Vậy anh cố kéo tôi nữa, may tôi có khách thì tôi có tiền, mà anh cũng không phải phàn nàn nữa.
    - Tôi thật là nợ nần gì cô kiếp trước hay sao, mà nay tôi khổ với cô như thế này. Đầu năm mà đã rấp! Rắc rối!
    - Anh đừng nói thế, ai muốn thế này làm gì!
    Bất đắc dĩ, con ngựa người lại phải kéo con người ngựa vậy.
    Nhưng lần này thì thật là không buồn bước lên nữa. Chán quá!
    Rõ số đâu mà số ăn mày thế này!
    Anh xe vừa đi, vừa thở dài. Khách cũng vừa đi, vừa thở dài. Càng đi, càng thấy phố vắng tanh, vắng ngắt. Thỉnh thoảng mới gặp một người tùm hum cái áo ba đờ xuy, mà đi có ý vội vàng.
    Buồn thay! Đàn muỗi vo vo bay, đùa nhau xung quanh ngọn đèn. Lá cây sột soạt rụng, đuổi nhau ở trên đường nhựa.
    Anh xe dắt xe đi diễu qua các cửa nhà săm để xin việc cho cô ả. Nhưng lúc ấy đã hai giờ sáng rồi cho nên ế! May sao, đến đầu phố Hàng Gai, thì gặp một người ăn mặc ra dáng ăn chơi, đang tất tả cúi đầu đi. Cô ả dử mồi, đánh liều gọi lại, vờ vĩnh hỏi thăm đường. Nhưng khốn nạn, anh chàng này lắc đầu, và cứ rảo cẳng bước đều:
    - Tôi không biết, cô hỏi thăm anh xe này cũng được. Tôi còn vội đi mời đốc tờ cho vợ tôi ốm đây!
    Hai cái thở dài thất vọng theo đuôi nhau, rồi không ai nói thêm một lời nàọ Anh xe lại từ từ tiến bước.
    - Cô làm thế này thì tôi chết mất!
    - Thôi anh bằng lòng vậy.
    - ấy cũng may cho cô, vớ vẩn mãi ở ngoài phố thế này mà gặp mật thám hoặc đội con gái thì khốn!
    - Mật thám tôi cũng chả sợ, đội con gái tôi cũng chả cần, vì tôi có "ba tăng".
    Đi một lúc lâu, chẳng gặp một ai cả, cô ả bảo anh xe:
    - Này, anh đỗ xuống tôi bảo. Tôi nói thực với anh nhé. Bây giờ đã về sáng rồi, chắc anh kéo tôi mãi cũng đến thế mà thôi. Tôi thì thực không có tiền giả anh đâu. Tôi gán cho anh khăn, áo, đồng hồ mà anh không lấy, thì tôi chả biết nghĩ thế nào cho phải cả. Thôi thì anh kéo tôi ra chỗ kín, vắng, anh muốn bắt tôi gì tôi xin chịu.
    - Tôi bắt gì cô mà tôi bắt!
    Cô ả nắm lấy tay, vỗ vào vai anh xe, nhăn nhở cười:
    - Anh này thực thà quá, nghĩa là chỉ có anh với tôi thôi, thì người tôi đây, anh muốn làm gì tôi cũng bằng lòng.
    - ối thôi! Tôi lạy cô. Nhỡ cô đổ bệnh cho tôi thì tôi bỏ mẹ tôi.
    - Không sợ, tôi mới khám bệnh hôm qua.
    - Thôi, tôi chắp tay tôi van cô, cô có thương tôi thì mời cô xuống xe cho tôi về, và xin cô tiền xe!
    - Thế thì anh cứ kéo tôi về nhà tôi, xem có đồ đạc gì đáng giá, thì anh cứ việc lấy.
    Anh xe bụng bảo dạ, thôi thì cầm bằng như mất tất cả buổi đêm nay là cùng. Nhưng ta chịu khó kéo nó về, may xem có cái gì thì ta lấy, còn hơn về không. Thật là đò nát đụng nhau.
    - Nhà cô ở đâu?
    - Trên Hàng Bún.
    Anh xe vừa kéo, vừa lẩm bẩm nói một mình:
    - Không có tiền, cũng leo lên xe mà ngồi, chỉ sĩ diện hão thôi, lại còn tí tách hạt dưa, với phì phèo thuốc lá mà không biết ngượng!
    Cô ả đành chịu mặt dày cho anh xe mắng một ít câu cho bõ hờn, cứ ngồi im như phỗng.
    Lúc ấy, gió bấc thổi căm căm, buốt đến tận xương. Nhà hàng phố đã thấy có người dậy. Nhưng họ dậy có phải để đi tìm gái đâu!
    Đến cửa một nhà săm, cô ả bảo:
    - Anh hãy ghé vào đây một tý cho tôi hỏi vay tiền người này xem có được không.
    Anh xe hơi có hy vọng, đỗ lại để cho cô ả vào. Rồi vì mệt lử, anh ngồi phịch xuống sân xe, tựa lưng vào thành, vừa chờ, vừa nghĩ vơ nghĩ vẩn.
    Một lúc lâu, một tràng pháo nổ vang trời, làm anh giật mình. Anh sực nghĩ đến cô ả, không biết cô ta vào đấy làm gì mà lâu thế. Hay có lẽ đã có món khách nào chăng. Nhưng thế nào cũng phải trả tiền cho mình về đã chứ, lại bắt mình chờ đến sáng hay sao? Anh gõ cửa gọi.
    Người bồi săm ra.
    - Ông ơi, tôi hỏi thăm ông, người con gái quấn khăn quàng trắng vào đây ban nãy, nằm ở buồng nào?
    - Chả có buồng nào có khách cả.
    - Thế người con gái ấy đâu?
    - Ra ngay từ bao giờ rồi, còn đâu mà hỏi?
    - Thôi chết tôi rồi, ra cửa nào?
    Người bồi lấy ngón tay cái, hất ngang về phía cổng sau. Anh xe choáng người như nghe tiếng sét đánh. Anh bàng hoàng như chợt tỉnh giấc chiêm bao.
    Người bồi săm nói xẵng:
    - Đi cho người ta đóng cửa. Ai bảo anh xông nhà cho tôi? Năm mới đừng bí beng!
    - Ông ơi!...
    Người bồi giúi vai anh xe, đẩy ra, rồi đóng ập cửa lại. Anh xe nghiến răng, cau mặt, lủi thủi ra hè, cầm cái đệm quật mạnh vào hòm đánh thình một cái! Anh móc túi lấy bao diêm đốt vía, rồi khoèo bàn chân, co cái càng lên, đưa tay ra đỡ, thủng thẳng dắt xe đi.
    Tiếng pháo chào xuân nối đuôi nhau đùng đùng toạch toạch...
    11-2-1931
     
  7. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chiếc Đồng Hồ

    Bùi Hiển


    Anh ta là một viên chức họa đồ sở đạc điền. Ngày ngày, cúi đầu trên vuông giấy dày mà một ngọn đèn chiếu sáng từ phía dưới xuyên qua tấm kính, anh dò những nét cong khúc khuỷu, những dải sông xanh, những con đường đỏ và tím, những tràng chữ thập phân địa giới. Anh họa, anh họa, cử động một cách gần như máy móc, im lặng, lưng gù, trí nghĩ vơ vẩn. Cuối tháng lĩnh được đâu vài chục bạc lương, anh bỏ tiền vào một cái phong bì đem về nộp vợ nguyên vẹn. Xong bữa cơm trưa, chị vợ mút mút bút chì loay hoay dự tính trên một trang sổ nhỏ sự chi tiêu trong ba mươi ngày sắp đến. Chị tính cặn kẽ từ tiền gạo củi đến tiền xà phòng, bớt một hào ở khoản này đập vào khoản kia. Rồi chị nói lên, bằng một giọng hơi chớm ý phàn nàn:
    - Đấy còn thừa không đầy năm hào tiêu vặt.
    Chồng đáp một câu không thay đổi:
    - Thì lương mình chỉ có thế.
    Nhưng mà một lần, một nhà điền chủ, bạn ông xếp, cần mấy bản họa đồn điền của mình. Anh nhận làm công việc phụ kia, càng cắm cúi hơn trên bàn họa, và được hưởng món tiền thưởng bốn đồng. Trong bữa cơm chiều hôm ấy, cả nhà nhao nhao lên, phân vân về cách dùng số tiền không mong mà có. Chị vợ thèm ước từ lâu một cái áo dài nâu non. Nhưng thực là lạ kỳ: khi không có tiền, chị ao ước cái áo một cách thiết tha; vậy mà nay cái áo đã vừa tầm túi mình, thì cái thiết tha của chị rơi đi, và tất cả lòng chị bối rối, không còn biết mua gì nhỉ? Sắm gì nhỉ? Hai đứa con làm nũng cơm; chúng nghe bàn bạc những mua cùng sắm, thì cũng vòi mua cái ô tô chạy được và con búp bê nó kêu chút chít ấy. Nhưng anh ta đã có ý định sẵn; cuối cùng anh mới nói:
    - Để ta sắm cái đồng hồ chơi.
    Rồi anh giảng rằng vừa tìm thấy một dịp tốt để mua đồng hồ bằng giá cực rẻ. Hôm họ, ông xếp nhận được một tờ quảng cáo của một hiệu đồng hồ ngoài Hà Nội; hiệu kia, sau mấy lời mào đầu bá cáo rằng muốn bán tống cửa hàng để nghỉ buôn, trình bày tất cả những mẫu đồng hồ còn lại, với một giá "khó tin". Anh ta đọc trộm tờ quảng cáo và để ý nhất đến một chiếc đồng hồ bàn giấy, mặt vuông, xinh nhỏ như một đồ chơi; cạnh hình vẽ, con số dử mồi 3đ, viết bằng chữ lớn thay cho số 6đ phía dưới bị xóa bằng hai nét gạch thập.
    Anh đã nhiều lần điêu đứng vì thiếu đồng hồ. Khi phỏng chừng sắp đến giờ làm việc, thì hai vợ chồng đều vểnh tai nghe ngóng cái đồng hồ quả lắc của nhà ông Tham bên cạnh. Nhiều hôm anh đến sở chậm và phải lén leo qua cửa sổ để khỏi bị cự. Thằng con đầu được việc lắm: mỗi khi cha nó lồm cồm dậy sau giấc ngủ quá trưa, thì nó rụt đầu vào cổ, lạch bạch dìu xe đạp cha ra đợi ở cổng: anh ta vội vàng khoác cái áo lương rồi chạy ra nhảy lên chiếc xe tàng mà phóng, mặc cho cốt bánh gỉ rít lên cót két đến ghê tai.
    Thế rồi ngay hôm sau, anh gửi thư kèm măng đa ra Hà Nội. Cả nhà sống trong mong đợi bồn chồn, nhắc luôn miệng đến cái đồng hồ. Anh chồng dự định đặt nó trên chiếc bàn nhỏ cạnh giường, và vợ đã lo trước nhỡ hai thằng con lén nghịch phá hỏng mất thì tiền đâu mà chữa. Hai đứa bé thì luôn mồm hỏi, không biết lần thứ mấy mươi:
    - Ba ơi, bao giờ thì đồng hồ về? Hà Nội chắc xa lắm nhỉ?
    Một sáng, có người nhà Bưu điện bước vào sở anh, một cái hộp dưới tay, và hỏi:
    - Tôi muốn hỏi đây có ai tên là Hoàng Đình Quân?
    Anh hồi hộp đáp: "Chính tôi", và ký nhận hàng. Đó là một cái hộp giấy uốn lượn sóng, màu vàng tẻ, tấm nắp to bằng khuôn khổ cuốn vở học trò. Anh vừa cắt dây vừa nghĩ: "Nó gói cẩn thận thực. Cái đồng hồ nhỏ xíu mà chịu phí một cái hộp kếch xù". Bạn đồng nghiệp tới xúm quanh; anh đã khoe từ mấy hôm trước rằng anh sắp nhận được một món quà "đặc biệt Hà Nội". Anh làm chậm rãi, tay run run, cảm thấy một thú kích thích khi cố kéo dài cái phút nóng biết vật mới mua.
    Cái nắp bật lên, mỗi người giúp một tay thải lớp rơm phủ. Cái đồng hồ hiện ra và anh ta kêu một tiếng ngạc nhiên: nó chiếm cả bề rộng của hộp, không nhỏ nhắn như anh vẫn tưởng. Một người nâng lên, và thấy theo ra cả một cục đồng tròn xù xì sơn đen móc ở đầu một sợi dây xúc xích đồng nói không hết cái dài! Có mặt các bạn đồng sự, anh ta cố giấu thất vọng. Mọi người ngắm nghía đồng hồ. Cái mặt làm bằng mảnh sắt tây vuông, bốn bề trang trí bằng những ô vuông nhỏ xanh và trắng xen kẽ, các cạnh đều bị giập móp trong cuộc viễn hành vừa rồi. Đằng sau là một cái hộp bằng gỗ, nhưng mà gỗ gì, thứ gỗ mềm ải của những thùng rượu, cạnh xước lơm nhơm. Cái hộp hổng mặt dưới, giấu trong lòng một bộ máy không có gì phiền phức, chỉ gồm ba bốn cái bánh xe răng cưa. Có ai lục lọi trong đống rơm lót đáy hộp và lôi ra một quả lắc suýt bị bỏ quên. Quả lắc là một miếng sắt tròn sơn xanh mỏng mảnh và thô sơ như "nắp phèng" của con nít dùng đánh đáo, vành đục hai lỗ để cho xuyên qua một sợi dây thép thẳng dài chừng một gang.
    Viên xếp phòng họa đạc giảng rằng đó là thứ đồng hồ treo nhà bếp. Cả bọn cười nhao, nhắc lại lời khoe món hàng "đặc biệt Hà Nội".
    Một người hí hoáy treo chiếc đồng hồ lên tường. Rồi cả bọn xúm xít, người lắp quả lắc, người móc cục đồng vào sợi dây xúc xích. Quả lắc bắt đầu xang, và tiếng tích tắc đều đều vang dội trong tim anh sung sướng. Anh dùng ngón tay đẩy chiếc kim sơn trắng để lấy giờ, và nói:
    - Để xem nó chạy có đúng với đồng hồ sở không.
    Nhưng chạy được một phút, quả lắc như hết hơi không kêu tích tắc nữa rồi xang nhẹ dần. Một người nói:
    - Chỗ này thoáng quá, gió thổi bay quả lắc, đồng hồ chạy không được.
    Một người khác pha trò:
    - Thôi hãy để cho nó nghỉ vài hôm đã, vừa đi tàu về mệt mà!
    Anh ta đã bắt đầu nghi ngờ sự mẫn cán của chiếc đồng hồ có cái dáng khổ khổ lôi thôi lốc thốc. Anh nói: "Ông chủ mà về bây giờ thì chết cả bọn. Thôi!" Đoạn hạ máy xuống, cất lại vào hộp, phủ rơm cẩn thận.
    Trưa, lúc về đến nhà, để ngừa trước sự thất vọng của vợ, anh ta vừa đặt hộp xuống bàn vừa khen rối rít:
    - Cái đồng hồ về rồi đây, xinh lắm mình ạ. Nó to chứ không phải chỉ bằng nắm tay như mình nghĩ đâu, nhưng người ta bảo đồng hồ càng to chạy càng khỏe. Cũng không phải đồng hồ bàn giấy; đây là thứ đồng hồ có quả nặng, chạy đều hơn đồng hồ lò xo nhiều.
    Anh lại bịa:
    - Có người bạn trên sở bảo năm ngoái có mua một cái y hệt như thế mà giá những tám đồng.
    Chị vợ ngắm nghía cái đồng hồ, xem chừng không được hài lòng, nhưng không nói gì. Hai thằng con nằm trườn trên bàn, đưa đưa ngón tay trên mặt đồng hồ và kêu:
    - Nhẵn nhỉ! Mà có nhiều chấm xanh, đẹp quá! Ba treo lên đi.
    Cố hoãn cái lúc thử máy đáng lo ngại, anh bảo:
    - Thôi ăn cơm đã. Đói bụng rồi.
    Xong bữa cơm, anh khép tất cả các cửa để ngăn gió, đoạn đóng đinh vào một góc tường kín gió nhất, anh móc đồng hồ lên xê đi dịch lại mãi cho thực ngay ngắn, đẩy kim lấy theo giờ vừa đánh bên nhà ông Tham; rồi tay run run, anh đưa quả lắc. Cả nhà đứng nghiêm trang thành vòng, nhìn. Mắt chăm chăm theo dõi cái xang đưa uể oải của quả lắc mảnh khảnh, anh lo lắng tự bảo thầm: "Này này... nó sắp đứng... nó sắp đứng...". Nhưng may, lần này cái đồng hồ chịu làm việc hơn. Nửa giờ sau, anh hớn hở xoa tay đi ngủ. Hai thằng con ngước cổ ngắm vật mới; thằng đầu hẹn:
    - Hai giờ kém mười, con sẽ đánh thức ba dậy, nhé!
    Rồi nó đứng rình giờ.
    Chiều hôm ấy thằng bé đón anh ở cửa và báo: "Ba ạ, nó dừng từ lúc bốn rưỡi rồi". Anh lại loay hoay chữa, xê dịch đồng hồ, áp đầu vào tường nheo mắt ngắm lên xem đã thực thẳng quả dọi chưa, tụt mặt quả lắc xuống một chút. Vợ đứng im lặng nhìn; anh nói, như để tự bào chữa:
    - Nó cũng như người, cho chạy vài ngày mới quen. Đi tàu bị lắc mạnh, máy móc hẳn cũng có suy suyển.
    Chiếc đồng hồ, dường như cảm động vì từng ấy chăm chút của chủ, lại bắt đầu chạy.
    Đêm nằm, anh lắng tai nghe. Có lúc hình như cái máy im lặng hẳn. Nhưng cố sức chăm chú, anh lại nghe tiếng tích tắc đều đều. Rồi hễ anh nhãng ý một chút, tiếng máy lại chìm đi. Anh bèn lặng lẽ ngồi dậy, rón rén đi ra. Dưới ánh đèn con anh thấy quả lắc đứng lặng như tờ. Chiếc kim ngắn chỉ một giờ. Đồng hồ ông Tham vừa đánh bốn tiếng; thì ra tiếng tích tắc nãy giờ chỉ là do trí tưởng tượng của anh tạo nên. Anh lại hý hoáy sửa chữa, nâng mặt quả lắc lên, nắm cục đồng sẽ kéo. Rồi anh ngồi phịch xuống ghế, da toát mồ hôi lạnh, tim bóp chặt trong niềm bi thống.
    Sáng hôm sau, khi đi làm, anh không quên giắt trong mình một cái lọ con; xin được tí dầu máy anh đem về tra vào những cốt bánh xe, thò giẻ quấn đầu cây tăm lau chùi. Thấy vợ đứng nhìn, anh xấu hổ làm sao ấy và cố tỏ vẻ tin chắc ở kết quả việc mình làm; anh nói:
    - Máy cũng như mình; nó cần dầu như mình cần cơm, có thì mới làm việc được.
    Quả thực lần này cái đồng hồ chạy thông. Có điều nó chạy hơi chậm, mỗi buổi tụt lại mất năm phút. Anh ngoắc vào cục đồng hồ, cho nặng thêm, một cái đinh ốc chẳng biết nhặt được ở đâu. Máy vẫn chưa chạy đúng, anh lần lượt thử buộc vào dây xúc xích một con dao nhíp, mấy hòn bi rạn; cho đến khi anh thử treo một cục quặng xin của thợ rèn, thì chiếc đồng hồ không chịu nổi, chệch đi và quả lắc đứng dần.
    Anh không biết làm thế nào nữa. Chị vợ đã chớm lời trách móc:
    - Đã bảo của rẻ là của ôi mà.
    Anh đáp:
    - Cứ để nó chạy cho quen máy. Để xem vài hôm nữa nó chạy có đúng hơn đồng hồ ga không!
    Và từ đó, anh bắt đầu gian lận. Sau giờ bãi trưa anh ở nán lại sở năm phút, rồi thong thả đạp xe về, để kêu lên: "Đấy, tính xem, tôi đi mất mười phút, thế là bây giờ vừa mười hai giờ mười". Rồi trưa đó, thừa lúc không ai để ý, anh đẩy kim tới thêm năm phút. Buổi chiều anh cũng dùng mưu như thế. Anh ta cứ lắp đi lắp lại, bộ hả hê: "Gọi là cứ đúng ngăn ngắt! Đúng ngăn ngắt".
    Chị vợ nghi ngờ, hỏi:
    - Thế sao vẫn cứ chậm hơn đồng hồ nhà ông Tham?
    - Bì sao được! Người ta ông này ông nọ, đến sở chậm nửa giờ cũng chẳng sao, nên cứ mặc đồng hồ chạy phăng tê. Đồng hồ bên ấy chả đúng!
    Mỗi đêm, trước khi đi ngủ, anh lại lén lút đẩy kim tới thêm mươi phút; được trừ hao vậy rồi, giờ sáng mai sẽ đúng.
    Lâu dần, anh quen với công việc gian lận ấy, mà anh làm trọn không một lần sao nhãng, như một nghi lễ tôn giáo.
    Rồi anh thuộc lầu cả tính nết của cái đồng hồ. Nó có một tật xấu: dễ cảm. Mỗi khi trời muốn trở mưa, hơi ẩm luồn từ mặt dưới tổng hổng của hộp gỗ, làm rít bánh xe, và anh nghĩ: "Hừ hừ, mày lại định làm biếng đây. Thế thì tối nay tao phải vặn thêm đến mười lăm phút". Trái lại khi trời hanh ráo, quả lắc xang đưa lẹ làng, anh biết chỉ cần ăn gian mỗi buổi từ hai đến ba phút là đủ lắm.
    Và chiếc đồng hồ sống sung sướng trong gia đình nhỏ ấy, được ông chủ ân cần săn sóc như cha, đúng hơn, như mẹ, như một người mẹ càng thương yêu con vì đã cứu nó qua nhiều bệnh hoạn, đã cướp nó khỏi tay thần chết, đã cho nó sự sống hơn một lần. Cái máy không ngừng chạy nữa, chỉ õng ẹo một đôi khi trở trời, như đứa con cưng mới hơi váng đầu sổ mũi đã làm nũng mẹ.
    1941
     
  8. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Người săn gấu - Cao Duy Sơn

    Con đường đá rộng hai bước chân nằm nép bên sườn núi. Phía bên phải là vách núi dựng đứng nhìn xuống mặt sông Gâm. Chỗ ngoặt của con sông dưới chân núi, dòng nước lao xuống dừng lại thăm thẳm xanh ngắt gây cảm giác rờn rợn lạnh lẽo. Mặt trời như bị những chàng núi khổng lồ vít xuống sau lưng, nhưng vẫn cố nhô lên rọi xuống mặt sông và con đường những luồng sáng vàng nhạt, thẳng tắp hình rẻ quạt.
    Ông Thim đưa bàn tay to xù xoa lên mái tóc đã điểm bạc, thấy mồ hôi đã khô bỗng giật mình như nhớ ra điều gì đó... Ông vội đưa bàn tay gân guốc sứt sẹo lên túi ngực trái, một cảm giác hồi hộp thúc đôi chân ông đứng dậy. Xốc chiếc ba lô trắng chật cứng thư báo lên vai, ông vội vã sải những bước dài trên con đường đá thấm màu nắng vàng nhạt trong chiều sắp lụi.
    Hơn ba mươi năm làm chân đưa thư lưu động, đôi chân ông hầu như đã đặt đến khắp vùng hẻo lánh trong tỉnh, nhưng không nơi nào ông ở quá ba năm. Chẳng phải vì mâu thuẫn với cơ quan, cũng chẳng phải nơi ông sống có điều gì khó chịu. Tính ông thích vậy. Ngày mới ở quân đội về, với quân hàm chuẩn úy, người ta xếp cho ông vị trí phó phòng hành chính của ty, nhưng ông không thích, ông tình nguyện về huyện làm chân đưa thư lưu động. Vậy là lãnh đạo phải chấp thuận ý muốn kỳ quặc của ông. Thế rồi cứ ba năm một lần ông lại xin chuyển vùng. Mới đầu nhiều người cho ông gàn và dở người. Người ta để ý thấy ông chẳng họ hàng thân thuộc, cũng chẳng vợ con gì cả. Gần đây, khi đã gần sáu mươi tuổi, ông xin về Bảo Lạc, nơi đã sinh ra ông, nơi ông có một thời trẻ trung chát đắng. Ngày ấy ông là chàng trai Thim mồ côi có sức khỏe kỳ lạ, làm nghề săn gấu bằng giáo. Cây giáo bằng lõi nghiến bịt sắt nhọn ở đầu, cách mũi giáo hai gang tay là một thanh sắt vuông xuyên ngang. Với loại vũ khí này bọn có súng đã phải nhìn Thim bằng ánh mắt kiêng nể. Nhưng trong lũ bọn con nhà giàu có đứa giấu trong bụng một ý nghĩ xấu với Thim, đó là thằng Sài Vẳn, con trai của một chức dịch có vị trí cao ở thôn quê, vùng Pác Miều.
    Sài Vẳn cùng lũ con bọn nhà giàu hay đi săn bằng ngựa. Sài Vẳn được bọn đàn em kính nể lắm, nó có thể cưỡi trên lưng ngựa vừa chạy vừa bắn đuổi theo con thú mà viên đạn vẫn trúng vào đầu hay vào con mắt con thú tùy ý. Nhưng Sài Vẳn chỉ bắn được con hươu, con hoẵng thôi, chưa bao giờ nó bắn được con hổ, con gấu, vì đi săn con hổ con gấu không thể cưỡi trên lưng ngựa mà bắn được, mà phải đi bộ, vạch cỏ tranh, vào những khu rừng già, núi đá mới có con thú to. Muốn bắn được con thú to thì cái gan phải to, cái mật phải đầy, cái tay không run thì mới bắn được. Sài Vẳn muốn đi lắm nhưng "Coằng" không cho đi vì sợ trời không phù hộ, con ma rừng sẽ cướp mất đứa nối dõi tông đường của dòng tộc. Mỗi lần thấy Thim mang cây giáo trên vai, cúc áo mở tung để lộ ra bộ ngực vuông vức căng tròn, lưng đeo tấm da bọc xương con gấu, cùng với cái mặt to bằng bát con vẫn còn đỏ máu trên tay đến đổi muối với nhà "Coằng", trong bụng Sài Vẳn như con suối lũ nổi những bọt bẩn. Nó ức lắm! Ngày trước người vùng Pác Miều nói chuyện săn bắn là người ta nhắc đến Sài Vẳn, nhưng giờ người ta lại quay sang nói giọng kính phục về tài săn gấu của Thim. Không được! Sài Vẳn đi ra đường người già người trẻ vùng này thấy nó phải úp mặt xuống đất, để nó đi xa mới dám ngẩng lên, thế mà giờ Sài Vẳn thấy những lời thán phục, khen ngợi không thuộc về nó nữa nó bắt đầu nghĩ đến điều xấu.
    Thim sống một mình trong một túp lều lẻ loi cuối bản, cái gia sản cuối cùng của người cha để lại. Nghĩ đến cái ngày khủng khiếp đó, giờ nhắm mắt lại Thim vẫn thấy hiện ra rõ lắm. Buổi sớm giá buốt của mùa đông năm ấy khi con gà rừng gáy lần cuối cùng gọi ông mặt trời lên thì Thim theo gót cha đến cánh rừng xa nhất, dầy rậm nhất. Hai người bám vào vách đá lưng chừng núi gần như dựng đứng nhìn xuống bên dưới là vực sâu hút đến chóng mặt. Phía trên đầu bỗng hiện ra một cửa hang cao bằng người đứng. Người cha dừng lại, đưa giáo cho Thim, hai tay ông bám chắc vào vách đá đu người lên một cách nhẹ nhàng rồi ông ra hiệu cho Thim nắm chắc vào đốc giáo, ông kéo lên theo. Trước cửa hang, một triền đá thoai thoải rộng bằng chiếc chiếu nan. Một mùi tanh nồng từ trong hang bay ra người cha bỗng hạ giọng: - Cẩn thận con, có gấu đẻ! Thim hiểu những điều nguy hiểm mà cha vừa nói. Con gấu cái khi đẻ bản năng tự vệ và tấn công của nó quyết liệt hơn bình thường. Không một tiếng gầm, chỉ nghe tiếng hộc hộc gấp gáp lao đến, một bóng đen ập xuống như một cơn lốc - Người cha chỉ kịp kéo Thim về phía sau mình thì con gấu đã đến ngay trước mặt. Trong giây lát ngắn ngủi ông hiểu mối nguy hiểm đối với người đi săn ở khoảng cách không đầy một tầm tay với loài thú dữ này. Thim chỉ thoáng nhìn thấy người cha lao lên như một mũi tên, cúi người tránh hai cái tát của con thú, nhanh như chớp ông chộp được hai tay của nó kéo mạnh về phía mình, đầu húc ngược lên dưới cổ, toàn thân ông căng lên, từng bước, từng bước một ông đẩy lùi con thú mỗi lúc một sát mép vực. Hai tay con gấu có những vuốt sắc nhọn cắm sâu vào đôi vai lực lưỡng của ông và nó cũng không chịu buông đối thủ đang đẩy nó dần ra phía vực. Cảnh tượng ấy đau đớn, khủng khiếp suốt đời Thim không bao giờ quên - Người cha đã đẩy lùi con thú bằng sức mạnh kỳ diệu nhưng ông đã không thoát ra được trong những chiếc vuốt cong nhọn hoắt của nó, người và gấu đã cùng lao xuống đáy vực hun hút. Hồi ấy Thim mới mười hai tuổi. Những người tốt bụng cùng làng đã tìm thấy chú bé sau hai ngày đói khát đang lả đi bên cửa hang nhưng đôi bàn tay nhỏ bé vẫn cầm chắc cây giáo nặng chịch của người cha để lại.
    Không ai ngờ mười năm sau đứa con người săn gấu đã nối nghiệp cha. Giờ đã là một chàng trai, cây giáo cha để lại chỉ còn cách đầu Thim hơn một gang tay. Hơn mười đôi tay gấu đã được treo lên vách. Mỗi khi săn được con gấu to, Thim thường gọi dân bản cùng vào rừng khiêng về, xả thịt ra rồi chia đều cho mọi người. Thim chỉ nhận về mình một phần nhỏ và đôi tay gấu (theo tục lệ người đi săn) còn bộ xương, da và mật phải mang nộp cho "Coằng" và chỉ được trả công một chén muối gạt bằng miệng. Như thế cũng đã là quý lắm! Thiếu hạt ngô, hạt gạo còn có củ nâu, củ mài trên rừng, thiếu hạt muối thì không thể được, người sẽ phù, mắt mờ, chân tay run, yếu đi không làm được việc, không có ăn rồi chết. Nhưng muối chỉ riêng "Coằng" có, "Coằng" có cả hơn mười người ở, luôn đi địu muối từ Nguyên Bình, từ Mục Mã về cho. Ðường xa phải mất hơn mười ngày đi bộ mới về đến nơi, nên hạt muối quý lắm, đi rừng ai cũng đeo bên hông một cái ống nứa, trong đựng mấy hạt muối như một thứ bùa bên mình.
    Một lần khi nhận chén muối từ tay người ở nhà "Coằng" đưa, Thim bỗng thấy lạ - chén muối đầy hơn những lần trước...? Thấy Thim đang lúng túng trước một sự hào phóng lạ lùng đó, người đàn bà đưa mắt nhìn quanh một lượt rồi hạ giọng: " Cô Phón bảo tôi cho thêm đấy! - Nói rồi người đàn bà đó đi vào nhà. Thim đưa mắt nhìn theo thấy một cái gật đầu kín đáo của người ở với một đôi mắt đang nhìn Thim qua ô cửa sổ. Thim biết đấy là buồng của cô con gái "Coằng". Thim chợt cúi xuống thoáng xấu hổ với cách ăn mặc của mình - rách rưới quá, chắc cô chủ thương hại nên bố thí cho mình như bố thí cho một kẻ ăn mày đây. Nghĩ vậy, Thim bỗng thấy bực định quay lại đem trả... Nhưng đôi mắt nhìn Thim lúc ấy, Thim bỗng nhận ra có cái gì đó như một câu nói, như một sự cảm thông như... một điều gì nữa Thim không dám nghĩ đến...
    Một lần, một lần nữa cũng lại thế, và đôi mắt ấy vẫn nhìn Thim qua ô cửa không chớp. Thim lúng túng, Thim không thích như vậy, săn được con gấu "Coằng" trả cho mình một chén muối bằng miệng, thế là được. Việc cho thêm "Coằng" phải nói, nếu không rắc rối lắm, "Coằng" mà biết việc này chắc sẽ không bỏ qua. Thim bỗng thấy lo nhưng mọi việc xảy ra đều không qua nổi đôi mắt một mí của Sài Vẳn, nó đã nhìn thấy hết.
    *
    * *
    Rừng động! Ðã hơn năm ngày đêm những ngọn lửa bắt đầu từ đâu đó đang liếm vào những khu rừng già, thỉnh thoảng một cơn gió thổi đến làm cái lưỡi đỏ máu cong tớn bốc cao lên những ngọn cây cao vút, những con thú nhỏ từng bầy, từng bầy kéo nhau về những cánh rừng gần bản. Những đám ngô, đám lúa nương như bị một trận mưa đá làm xơ xác gãy nát. Trong bản có người đã gặp hổ, có người bị gấu tát lật cả da mặt. Không khí căng thẳng trùm lên khắp nơi. Không ai dám ra cửa lúc trời nhá nhem tối.
    Thim đi vào rừng lúc trời vừa sáng rõ. Cây giáo lên nước đen bóng nằm trên vai. Hai bắp chân đỏ như lõi cây nghiến nhằm hướng rừng trước mặt rảo bước tự tin. Thim nhớ từng lời của người cha để lại về những kinh nghiệm đi rừng. Khi hiểu kỹ từng chiếc lá, ngọn cỏ rừng với con người không còn một khoảng cách xa lạ một sự huyền bí nào nữa. Với đặc điểm của từng loại thú. Thim chẳng lạ, như hổ một loài thú rất tinh, khi tấn công con mồi thường bất ngờ từ phía sau và hai bên cạnh dùng hai chân trước đẩy ngã đối phương, lập tức những chiếc nanh nhọn hoắt cắn ngập vào dưới cổ và hút máu tươi. Với người hổ rất thận trọng, phải thật tinh mới phát hiện ra tiếng động nhỏ và mùi hôi như măng thối và rất khét của nó. Khi đối mặt phải thật bình tĩnh nhìn nó bằng cặp mắt thách thức giao chiến. Khi bị một đòn bất ngờ hổ thường quay đầu bỏ chạy. Khác với hổ, gấu thường chủ động tấn công người từ mọi hướng, khi bị thương gấu không bỏ chạy như hổ mà vết thương chỉ làm nó tăng thêm kích thích và tấn công đối thủ dữ dội. Thợ săn gấu bằng giáo phải có sức khỏe và lòng dũng cảm phi thường. Khi tấn công gấu thường đứng lên bằng hai chân sau và vồ xuống đối thủ bằng cả thân hình nặng nề cùng với những cái tát đứt ra từng mảng thịt. Lợi dụng vào đặc điểm đó, thợ săn phải thật nhanh ghì chắc đuôi giáo xuống đất, hướng mũi giáo về phía trước, khi vồ ập xuống gấu sẽ bị mũi giáo xuyên từ ngực ra sau lưng, thanh sắt ngang cách mũi giáo hai gang tay sẽ là vật cản chắn ngang ngực, lúc đó gấu không thể với đến người được. Thợ săn xoạc hai chân trong tư thế định tấn giữ chắc thân giáo, trong hơn hai mươi phút gấu yếu dần, hai tay cào cấu đã đuối, lúc ấy thợ săn dồn hết sinh lực bất ngờ giật mạnh cây giáo sang một bên - đột ngột bị mất thăng bằng một chân con thú nhấc lên khỏi mặt đất và đổ ngang xuống. Cú thứ hai là cú đâm quyết định tuyệt đối chính xác - rút nhanh mũi giáo phóng thẳng vào hốc mắt xuyên qua óc giữ chắc cây giáo, trong ít phút con thú giãy giụa và chết hẳn lúc đó mới chấm dứt cuộc giao chiến.
    Bầu trời đã hửng nắng, những tia nắng đầu tiên vọt tung ra đuổi bóng râm lạnh lẽo đọng trên những tán lá dày trên ngọn núi cao vút là bốc lên những đụn sương mờ đục. Thim hít căng lồng ngực không khí trong lành của buổi sớm thoảng hương nấm và cỏ rừng ngai ngái dễ chịu.
    Bỗng... rắc!... một tiếng gẫy khô rất nhẹ làm Thim bừng tỉnh. Ðôi tai hướng về nơi phát ra tiếng động... Không phải thú!... Thim khẳng định đây là tiếng chân người: -Ai thế nhỉ! người nào lại vào rừng sớm vậy? Thim bỗng giật mình bàng hoàng: - Phón! -Cái tên khẽ rung lên bồi hồi trong lòng như một tiếng đàn. Phón gạt nhẹ những ngọn cây ngang ngực bước ra con đường nhỏ. Ðôi bàn chân để trần nõn nà đặt nhẹ từng bước trên thảm cỏ vẫn còn ướt sương đang bước về phía Thim. Ðôi mắt có đuôi dài mở to nhìn Thim không chớp, Thim bỗng thấy ngần ngại, do dự, chợt nhớ đến chén muối đầy ngọn và đôi mắt nhìn mình không chớp qua ô cửa sổ... Thim nhìn xuống bộ quần áo trên người, đôi má bỗng nóng bừng, Thim vội rẽ sang lối nhỏ bên cạnh.
    - Anh Thim...! - Tiếng gọi pha chút giận dỗi làm đôi chân Thim chậm lại nhưng vẫn không dám ngẩng lên.
    - Con hổ, con gấu trong rừng anh chẳng tránh, sao anh tránh em? Hay em không đáng cho anh nói một lời thường như nói với người khác?
    Thim không dám tin vào đôi tai của mình. Lời trách móc giận dỗi của Phón như đẩy ra khỏi lòng Thim, một phần ngờ vực... Thim lắp bắp từng lời:
    - Không...! Không... Phón đừng nghĩ sai về tôi như vậy, cho đến giờ tôi vẫn nghĩ rằng mình chỉ là người...
    Chừng như hiểu điều Thim không nói hết, đôi mắt Phón thoáng một nỗi xót xa thương cảm, giọng Phón đã dịu xuống:
    - Con chim có tiếng hót tìm bạn, lời em nói chẳng rơi vào lòng anh, em muốn được gánh cái nghèo cùng anh nhưng anh chẳng cho...
    Một làn gió nhẹ thổi qua. Có một điều gì đó như ngọn lửa đang bùng lên trong thâm tâm của người con trai mới lớn. Cái ngưỡng cửa của ngỡ ngàng hồi hộp muốn cồn lên ồ ạt như một luồng gió mạnh mẽ làm nghiêng ngả trời đất, nhưng trạng thái hư thực thoáng gợn tự ti như tạo một khoảng trống vô hình níu hờ ý nghĩ của Thim lại. Thim im lặng ngẩng lên nhìn Phón, đôi mắt Thim đã thay tiếng nói của lòng mình, Phón đã đọc được tất cả.
    Khoảng không bình yên của núi rừng bị vỡ ròn từng mảnh trong tiếng vó ngựa dồn dập xuống con đường mòn rải đá khô khốc. Linh tính như báo cho Thim một điều không lành. Ðôi mắt Phón cũng thoáng bối rối lo lắng. Thim khẽ nói qua hơi thở: - Phón về đi! Hình như có người nhà ra tìm đấy!...
    Phón khẽ gật đầu nhưng đôi mắt vẫn nhìn Thim không muốn dứt. Vừa định rẽ vào bụi cây bên đường thì một tiếng quát như hét lên giận dữ:
    - Phón, về ngay!
    Phón giật bắn người, đôi chân như muốn khuỵu. Sài Vẳn nhảy từ trên lưng ngựa xuống. Ðôi mắt một mí của nó ánh lên dữ dội, nó bỏ cương bước về phía Phón:
    - Ai cho mày ra đây?
    Nhìn người anh nét mặt dữ tợn Phón chống chế yếu ớt:
    - Sớm nay.... em muốn vào rừng chơi...!
    - Muốn vào rừng chơi... ! -Thằng Sài Vẳn kéo dài tiếng "chơi" đầy ngụ ý rồi hất hàm nói:
    - Mấy hôm nay rừng báo động có nhiều thú dữ về mày không sợ chết à... ! Bố bảo tao đi tìm mày. Về ngay! Có người bên Bắc Mê sang hỏi mày làm vợ đấy, đi đi!
    Phón ngơ ngác:
    - Làm gì có chuyện đó! Có ai nói gì với tôi đâu?
    - Không nhiều lời, về ngay! - Sài Vẳn dằn giọng.
    Phón đưa mắt nhìn Thim lo ngại như muốn nói điều gì nhưng thấy Sài Vẳn thì lại thôi. Phón bước nhanh quay sang con đường cũ. Sài Vẳn tiến đến trước mặt Thim, hai chân đứng dạng, nó nhìn Thim trừng trừng rồi đột ngột hạ giọng vui vẻ:
    - Thim! Mày cho tao mượn cây giáo này một lát được không! Từ lúc Sài Vẳn xuất hiện Thim vẫn lo lắng cúi đầu, giờ bỗng giật mình khi nghe nó hỏi, chưa kịp nghĩ Sài Vẳn muợn để làm gì thì nó đã giật nhanh cây giáo trong tay Thim rồi nói: - Tao cũng muốn có một cây giáo như mày, chờ tao một lát, tao mang về cho bọn thợ xem để bọn nó làm cho, tao sẽ trả mày ngay! - Vừa dứt lời Sài Vẳn nhảy lên lưng ngựa phi thẳng để lại phía sau những âm thanh khô khốc lốp cốp lốp cốp xa dần. Thim ngồi xuống mỏm đá bên vệ đường trong người còn chưa hết bàng hoàng. Chưa khi nào Thim dám nghĩ mình sẽ có một tình yêu, thế mà mới đây thôi, tất cả như vẫn còn ấm nóng. Cái giọng nói trách móc chứa trong đó là cả nỗi lòng chân thật của Phón. Tất cả như vừa qua một giấc mơ kỳ diệu, đã có lúc nào Thim dám nghĩ đến diều kỳ diệu đó. Nhưng cũng nhanh như chớp mắt Sài Vẳn lại mang đến một tin xét đánh: "Có một người đến hỏi Phón làm vợ". Thim thoáng buồn, một nỗi buồn bất ngờ như tình yêu của Thim, một tình yêu mà Thim vẫn chưa được đụng tay, chưa nói được một lời mềm ngọt như gió, bỗng chốc tan đi như làn sương mỏng dưới ánh nắng chói chang. Nhưng rồi Thim tự an ủi: - Cũng phải thôi, đời nào ai lại gả một đứa con gái con nhà quyền quý nhất vùng cho thằng con trai nghèo khổ như Thim! Thôi không nghĩ chuyện đó nữa. Thim bỗng lắc mạnh đầu như muốn xua đuổi những ý nghĩ đó, rồi khẽ nhếch mép cười, một nụ cười chua chát làm khuôn mặt như méo hẳn.
    Tiếng vó ngựa khô khốc lại nổi lên trên con đường rải đá trắng. Thim chẳng buồn để ý. Sài Vẳn đã quay lại, nó nhảy từ trên lưng ngựa xuống, tay cầm cây giáo bước xuống trước mặt Thim:
    - Này trả mày đây! Hai ngày nữa tao cũng có một cây giáo như mầy!
    Thim vẫn im lặng nhìn nó mà vẫn chẳng để ý nó nói gì, chỉ khẽ gật đầu cho qua chuyện. Sài Vẳn nhảy lên lưng ngựa, con ngựa bị ghìm cương một tay quay một vòng tại chỗ móng côm cốp chừng như sốt ruột. Sài Vẳn nhìn Thim rồi tiếp bằng một giọng nói vui vẻ hiếm có:
    - Lần này được con gấu to về, tao sẽ cho mày thêm chén muối nữa, còn chuyện lúc nãy mày đứng với con Phón em tao, tao coi như không có, được chưa? hì hì hì! - Sài Vẳn nhếch môi cười phơi ra ngoài một loạt răng bịt vàng, một kiểu cười đắc ý khó hiểu. Ngoắt một cái con ngựa lại đưa nó quay về bản.
    Thim chẳng còn bụng dạ nào để ý đến những điều Sài Vẳn nói, nhằm hướng rừng trước mặt chân bước đi mà đầu chẳng còn nghĩ đến chuyện săn thú nữa. Bứt một chiếc lá cây bên đường Thim đưa lên môi, một điệu kèn lá như bơi vào giữa cánh rừng bạt ngàn, bầu trời cao rộng ngăn ngắt khe khẽ nghiêng tai lắng nghe cái điệu kèn buồn như làn khói trấu gieo chậm trong nắng vàng lặng. Ðiệu kèn Thim dành riêng cho mình một nỗi buồn mà chỉ riêng mình mới thấm được hết nó mà chẳng muốn rơi vào tai ai.
    Bỗng có tiếng kêu thất thanh từ phía dốc rừng trước mặt. Thim giật mình dừng lại. Trạng thái linh hoạt như khi phát hiện thú dữ đã truyền khắp cơ thể: "Có người gặp thú dữ". Một phán đoán nhanh làm đôi chân Thim đột ngột bật vút đi lao về phía có tiếng người kêu cứu. Thim dừng phắt lại trước mặt một con gấu ngựa đang đuổi theo một cô gái quanh một gốc cây nghiến. Cô gái quần áo tả tơi, vòng khăn đã văng khỏi đầu, tóc rũ xuống không nhìn thấy rõ mặt. Một mảng áo ở lưng đã rách toạc, để lộ ra những vết cào rướm máu trên làn da trắng mịn. Con thú hồng hộc đuổi theo, những cú tát trượt vào gốc cây càng làm cho nó thêm lồng lộn tức tối. Thim hét lên: - Chạy về hướng này! - Cô gái vụt ra khỏi gốc cây, lao về hướng Thim. Thim chằm chằm nhìn con vật đang lao về hướng mình. Ðôi mắt bình tĩnh đến lạnh lùng, từ trong hai đốm lửa đó bật lên ý nghĩ dữ dội và quả quyết. Một khối đen khổng lồ đứng lên bằng hai chân sau bất ngờ lao vào Thim, Thim gồng người, cúi xuống trong tư thế đinh tấn! - Phập! - Mũi giáo đón nhận chính xác vào giữa ức con thú, một tiếng rú lên rùng rợn man dại. Ngay lúc đó Thim cảm giác cây giáo trong tay nhẹ bỗng, con gấu vừa vươn đôi tay cào cấu đã đổ nghiêng sang một bên. Mũi giáo nằm sâu trong ngực con thú đột nhiên gẫy gọn, lộ ra một đường cắt rất nhỏ ngay sát chuôi mũi giáo... Trong đầu Thim bỗng hiện lên bộ mặt Sài Vẳn lúc nó đem trả cây giáo, một nỗi đắng cay giận dữ đến nghẹn thở. Thim đã hiểu ra tất cả. Con gấu chồm dậy rất nhanh, từ ngực nó một dòng máu đỏ sẫm trào ra ướt đẫm mảng lồng ngực. Cây giáo không còn tác dụng nữa. Vừa né người tránh hai cái tát, nhanh như chớp Thim luồn sát ngực chộp nhanh hai tay của nó đẩy ngay ra, đầu húc ngược dưới hàm, bằng tất cả sức lực cùng với miếng võ hiếm bất kỳ thợ săn nào cũng phải biết, con thú bị đẩy lùi từng bước, sát vách núi dựng đứng. Thim dồn sức vào chân phải đạp mạnh vào bụng nó đồng thời hai tay đẩy bật con thú ra khỏi người - một khối đen sì nặng nề vùn vụt lao xuống chân núi sâu hút, một lát sau dội lên một tiếng va đập nặng chịch như tiếng giã gạo. Không gian trở lại yên tĩnh một cách tàn nhẫn, một thứ yên tĩnh giả tạo như ở đây chưa bao giờ xảy ra điều dữ dội. Chợt có tiếng chim họa mi lảnh lót như căng lại những âm thanh bằng lặng yên ả. Lưng vẫn tựa vào vách đá. Thim lim dim mắt như muốn hút tất cả những âm thanh và ánh nắng của rừng vào bộ ngực vuông vức phập phồng. Cảm giác bàng hoàng như vừa trải qua một giấc mơ khủng khiếp.
    Tiếng rên khe khẽ đâu đây đã kéo Thim trở về với thực tại. Thim mở choàng mắt chợt nhớ đến cô gái lúc nãy - giờ đang ngồi tựa lưng vào gốc cây, tóc xõa xuống đôi vai áo đã bị rách, lộ ra những vết cào bầm máu. Thim vội vã chạy đến. Vừa cúi xuống bất ngờ. Thim kêu lên:
    - Phón! - Ruột gan Thim như thắt lại. Ðôi mắt Phón từ từ mở, miệng mấp máy:
    - Anh ơi! Em cứ nghĩ là anh đã... có thật là, vẫn còn sống không?
    - Ðừng nói vậy Phón à, tôi vẫn còn sống đây mà!
    Thim quỳ xuống bên cạnh Phón lo lắng, đôi bàn tay gân guốc giờ như thừa thãi, lúng túng không biết đặt vào đâu, Phón thì thào:
    - Anh ơi, đỡ em dậy đi...
    - Giọng nói khe khẽ như từ một cõi xa xăm vẳng đến truyền sang Thim một cảm giác lo lắng xúc động, phá vỡ tất cả mọi khoảng cách hoài nghi trong lòng. Cái ngỡ ngàng lúng túng đã đi qua, thay vào đó là niềm thương cảm nghèn nghẹn dâng đầy ngực, lấn át những cơ cực cay đắng, những hiểm họa kinh hoàng vừa qua. Thim đỡ Phón trên cánh tay rắn chắc như sợ làm rơi mất điều kỳ diệu, ngay cả trong những giấc mơ cũng không bao giờ dám mơ đến:
    - Em đã quay về rồi cơ mà? - Thim buông tiếng nói của mình ra mà trong lòng vẫn chưa hết cái ngây ngất như mơ... như thực. Phón nhìn vào đôi mắt Thim như cầu cứu:
    - Sao anh nghĩ em về nhà? Anh không nghĩ người ta sẽ bắt em đi làm dâu nhà khác sao... Em không thể... biết anh qua đây nên em đã...
    Tiếng thì thào của đôi trai gái như tiếng lá rừng cọ lưng bỗng bị bẻ vụn ra thành tiếng ngựa hí xé lên từ phía chân dốc. Hai người giật mình nhìn xuống, một đoàn người ngựa dao, súng nai nịt, hối hả lao lên. Ði đầu đám gia nhân là Sài Vẳn, toàn thân nằm rạp trên mình ngựa. Nhìn Sài Vẳn đôi mắt Thim như có cục than đỏ rực, nhưng giọng nói lo lắng cầu khẩn của Phón đã kéo ý nghĩ đang ùn lên trong lòng Thim sững lại: - Anh ơi, đừng bỏ em... đưa em đi với... đi đi, nhanh lên anh! - Thim bàng hoàng nhìn Phón, nỗi lo sợ làm cô gái mỗi lúc như lả đi trên cánh tay Thim. Chừng như đã hiểu tất cả, những điều Phón vừa nói, Thim đứng dậy xốc Phón lên lưng cắm đầu chạy vào rừng. Nhưng cùng lúc ấy bọn Sài Vẳn đã phát hiện ra. Tiếng vó ngựa xen lẫn tiếng ngựa hí cùng với tiếng tù và rúc lên làm rầm rĩ cả khu vừng:
    - Không được giết! Không được giết, phải bắt sống lấy nó!
    Ðạn nổ quanh người cũng không làm đôi chân Thim chậm lại, mặc gai cào vào mặt vào chân. Thim lao về hướng núi trước mặt. Chỉ cần qua ngọn núi này thôi sẽ đến đất Bắc Mê, đến đấy bọn Sài Vẳn sẽ không dám đuổi theo nữa vì vùng đất đó đã thuộc "Coằng" khác. Cuộc sống sẽ ra sao? Thim không cần biết! Miễn sao lúc này thoát khỏi tay Sài Vẳn. Thim biết điều gì sẽ xảy ra nếu lúc này rơi vào tay nó, nhưng đôi chân của Thim đã không làm nổi ý nghĩ trong đầu mình. Như từ trên trời nhảy xuống. Sài Vẳn xuất hiện ngay trước mặt. Bị ghìm cương đột ngột con ngựa hồng đang đà lao bỗng chồm hai vó trước lên như múa trên không rồi bổ mạnh xuống đất. Nòng súng săn đen sì dí vào ngực làm Thim vừa cõng Phón vừa lùi lại: - Thim, mày đã làm gì...? Bỏ em tao xuống! - Sài Vẳn nén chặt câu nói lạnh lùng đầy thuyết phục. Một thằng, lại một thằng nữa nhảy từ trên lưng ngựa xuống, bộ mặt đứa nào cũng dữ tợn.
    Thim quằn quại mê man trong những tiếng quát tháo như từ một cõi hư vô vẳng đến:
    - Muối! muối nữa, bỏ hết ra, cả cái ống của nó nữa... xát mạnh vào chỗ kia, chỗ kia! đấy phải trả cho nó như thế mới xứng.
    Cảm giác bỏng rát như nằm trên ngọn lửa cháy đến tận gan ruột. Thim quằn người ngất lịm. Ðã bao nhiêu chiếc roi song gãy nát Thim không biết. Những hạt muối hiếm hoi đã bao lần phải đánh đổi bằng sức lực và lòng dũng cảm trước cái chết luôn đe dọa mới có được, thế mà chính nó làm cho Thim phải chịu bao đau đớn xé gan ruột.
    - Nó chết rồi, cậu chủ ơi! Một đứa trong đám gia nhân ngẩng lên khúm núm. Sài Vẳn lạnh lùng ra hiệu cho đám gia nhân lùi ra, nó tiến gần cái xác đặt chân đạp mạnh, cái xác bất động nghiêng sang một bên. Ngó nghiêng một lúc nó lên tiếng với lũ gia nhân:
    - Nó chưa chết hẳn đâu, nhưng đêm nay cũng phải để cho thú dữ có thịt tươi ăn!
    Sài Vẳn quay lại, Phón đã ngất lịm từ lúc nào, nó bước đỡ em gái lên lưng ngựa rồi cùng lũ gia nhân đạp ngựa quay về bản.
    *
    * *
    Cái đêm ấy đã qua đi hơn hai mươi năm, mỗi khi nhớ lại Thim vẫn cảm giác một nỗi cay đắng, chua chát dâng bừng lên mặt. Ðêm ấy nếu không có trận mưa như trút không biết rồi số phận sẽ ra sao. Mưa đã rửa sạch những hạt muối mặn chát trên mình chàng trai săn gấu như muốn rửa hết nỗi oan trái trong lòng. Hơi đất ẩm ướt và tiếng thì thầm đã làm Thim tỉnh lại. Ðôi mắt mệt mỏi của Thim khi vừa mở thấy mình đang nằm trong một hang đá, giữa hai người đàn ông lạ mặt. Thim ngơ ngác định nhỏm dậy - Một người đàn ông có khổ người to, cao, nét mặt nhác nhìn rất dữ bởi bộ râu quai nón rậm xù đã đưa tay ấn nhẹ Thim nằm xuống rồi nói bằng giọng rất trầm ấm áp:
    - Bọn tao đã nhìn thấy mày ở dốc "Kéo lùm", và đã đưa về đây! Mày thấy trong người khá hơn rồi chứ?
    Thim khẽ gật đầu nhưng vẫn chưa hết ngạc nhiên. Người đàn ông có bộ râu quai nón với tay lấy bát rượu đặt trên hòn đá đưa cho Thim:
    - Mày uống đi! Cái mật gấu bọn tao tìm thấy trong túi áo của mày đấy! Rượu thôi mà, một phần xoa lên người mày rồi, uống cái này chỉ mấy tiếng nữa là đi được ngay thôi! Xong mày hãy kể cho bọn tao nghe, sao mày đến nỗi này.
    Cử chỉ nhân hậu và tiếng nói trầm ấm của người đàn ông lạ đã làm Thim tan đi mọi nghi ngại. Hơi rượu đã truyền khắp cơ thể làm Thim bớt đi những đau đớn.
    Khi nghe Thim kể xong, hai người đàn ông đã nhìn Thim bằng ánh mắt thông cảm như muốn nói từ trong đó những lời an ủi. Rồi họ cũng cho Thim biết - họ là những người cùng cảnh ngộ đang rủ nhau đi tìm Việt Minh, vì họ được biết Việt Minh là những người cầm súng đánh bọn quan châu, bọn "Coằng" bảo vệ những người nghèo như Thim và tất cả những người nghèo khổ khác. Rồi họ rủ Thim cùng đi. Ba người đã tìm thấy một đơn vị quân đội ở một cánh rừng Nguyên Bình, họ tình nguyện xin nhập vào đơn vị và cùng tham gia các chiến dịch biên giới rồi đến chiến dịch Ðiện Biên. Năm tháng đi qua, tuổi xuân của Thim đã gửi gắm ở khắp các chiến trường nhưng hình ảnh Phón vẫn không sao phai mờ trong tâm trí của chàng trai săn gấu. Mỗi khi nhớ về vùng quê xa ấy, nơi Thim đã có cả một thời trẻ trung chát đắng, nơi có một người con gái yêu mình bằng tất cả tấm lòng trong trắng chân thật. Cô gái ấy như không sinh ra từ cái gia đình quyền quý nhất vùng Pắc Miều, mà sinh ra từ hạt gạo thủy chung, nhân hậu. Tình nguyện đánh đổi tất cả để đến với chàng trai săn gấu nghèo khổ mồ côi, để rồi cùng phải chịu những bất hạnh của chính gia đình giáng xuống mối tình như cánh hoa đầu tiên mới nhú, đã bị dập nát dưới cánh đập phũ phàng của loài chim ác.
    Thim rời quân ngũ sau ngày đất nước hòa bình được bốn năm. Nỗi khao khát được gặp lại người yêu như ngày đông lạnh giá gọi mặt trời đầy nắng. Sau khi nộp giấy tờ chuyển ngành. Thim đi bộ hơn mười ngày ròng rã không nghỉ và về đến bản mình, cái bản Pắc Miều xa xưa giờ đã khác lạ. Dân bản nhìn thấy anh cứ ngỡ như hồn ma hiện về, vì ngày ấy mọi người đều kháo nhau: anh đã bị nhà "Coằng" giết mất xác trong rừng. Nhà nào cũng muốn kéo anh về ăn cơm. Anh vào nhà nào, già, trẻ, lớn, bé trong bản đều kéo nhau đến để được nghe anh kể chuyện về mình. Vui lắm nhưng anh vẫn buồn vì chưa có ai nói cho anh biết về cô gái ấy giờ ra sao? Rồi có người cũng đã cho anh biết - Từ ngày cán bộ và bộ đội Việt Minh đến, bố con nhà "Coằng" đã trốn biệt sang Trung Quốc. Còn cô gái ấy khi đưa từ trong rừng về đến nhà đã tỉnh lại, có người cho cô biết - Thim đã bị giết trong rừng. Suốt hai ngày cô không ăn uống gì. Thế rồi vào một đêm cô gái đã bỏ đi và không bao giờ thấy trở lại nữa. Nhà "Coằng" cho người đi tìm và họ đã thấy xác một người con gái trôi trên sông, xác đã trương phình không còn nhận ra hình thù ai. Nhà "Coằng" đưa về làm ma ba ngày theo phong tục rồi mới đem chôn. Mấy ngày sau đưa ma có người gặp một gia đình ở bản Nà Nu làng trên Pác Miều cũng đi tìm con. Họ cho biết đứa con gái lớn trong nhà ra sông tắm không thấy về. Biết nhà "Coằng" có thế lực nhất vùng, chẳng ai dám vào xem có phải con gái xấu số của mình không?...
    Những câu chuyện như mảnh nứa cứa vào gan ruột, Thim không muốn ở lại nữa. Mấy ngày sau Thim trở lại cơ quan. Nhưng những điều chắp nối khi nghe dân bản kể, Thim linh cảm có điều gì đó trong lòng mình giống như đốm lửa hồng âm ỉ, chờ một luồng gió thổi vào sẽ bùng cháy lên niềm hy vọng bất ngờ. Thế là anh khéo léo từ chối cái chức phó phòng hành chính mà cơ quan giao cho. Thim tình nguyện chọn cái nghề âm thầm vất vả nhất mà chẳng mấy ai muốn nhận, đó là chân đưa thư lưu động đi các làng, xã. Thim giấu trong mình một niềm hy vọng, niềm hy vọng này sẽ vĩnh viễn không thể rời khỏi ý nghĩ mình nữa. Nếu có thể điều bất ngờ tìm thấy bóng dáng xưa sẽ không đến với anh, nhưng dẫu sao như thế vẫn hơn! Anh tự nhủ trong lòng mình vậy, và thế là Thim đã đóng chặt tất cả những cánh cửa của lòng mình và chỉ để ngỏ một lối duy nhất cho tình yêu ban đầu ấy vĩnh viễn tồn tại - lấp ló một đốm sáng vĩnh cửu. Ðã hơn ba mươi năm tìm kiếm qua đi nhưng cái đốm lửa nhỏ nhoi đó vẫn bỏng rát trong lòng.
    *
    * *
    Giờ đã là ông già Thim - trầm tĩnh - ít nói - tóc đã điểm sương. Màn chiều đã buông, trời đã bắt đầu nhá nhem. Bản Vạn đây rồi - ánh lửa bập bùng trong bếp nhà sàn, hắt những tia sáng vàng rực qua kẽ liếp. Ông Thim dừng lại, hồi hộp đưa tay lên túi ngực trái rồi từ từ rút ra một lá thư, đọc lại một lượt nữa. Những dòng chữ hiện ra trước mắt ông nhảy nhót, lập lòe như những ánh lửa làm đôi tay bỗng run lên như lúc sáng. Ông cầm nó trên tay khi soạn thư ông đã bắt gặp: Sầm Kim Bảo... Hòm thư. Gửi mẹ: Sầm Thị Phón... xóm bản Vạn, xã Ðồng Mu, Bảo Lạc, Cao Bằng.
    Ông không nhớ là ông đã hỏi, ai đó đã chỉ cho ông ngôi nhà ở phía cuối bản. Nhưng rồi ông lại chợt phân vân nghi ngại: - "Có thể là sự trùng lặp chăng" - Và đứa con nữa, con ai? Sao lại lấy họ mẹ? Con nuôi hay con riêng? - Một loạt những câu hỏi đưa nhau lao vào đầu ông châm chích nhưng vô ích. - Không! Ông không cần biết điều đó, vì trong ông cái linh cảm ông đã nén hơn ba mươi năm nay có gì đó ông tin là sẽ không nhầm. Ngôi nhà hiện ra trước mắt ông, cánh cửa khép hờ như suốt ba mươi năm nay vẫn khép hờ như vậy, chờ ai đó đến mở ra.
     
  9. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chiếc lược ngà – Nguyễn Quang Sáng


    Vào một đêm trời sáng trăng suông, trong một ngôi nhà nhỏ, giữa Tháp Mười mà xung quanh nước đã lên đầy, nói cho đúng đây là cái trạm của đường dây giao thông, nhà nhỏ nhưng người lại đông. Chưa đến chuyến đi, chúng tôi còn phải đợi. Ban ngày, chúng tôi chẳng biết đi đâu, hết nằm lại ngồi, có lúc thấy cuồng chân, thật tù túng, nhưng lại có cái thú bù lại là thọc cần câu ra khỏi nhà để câu cá. Ngày câu cá đã đủ ăn rồi, đêm không ai muốn câu nữa. Trong lúc nhàn rỗi ấy, chúng tôi thường hay kể chuyện. Và tôi nghe câu chuyện này của một đồng chí già kể lại. Ông vốn là người hay kể chuyện - nhiều nhất là chuyện tiếu lâm, có cả tiếu lâm kháng chiến nữa, chuyện nào cũng làm cho chúng tôi cười lăn, cười bò. Trước khi kể, bao giờ ông cũng cười mỉm, mặt trở nên hóm hỉnh, đúng là ông lão có duyên già. Nhưng hôm ấy, ông đâm ra khác thường. Ông già kể nhưng vẫn ngồi im, đầu hơi cúi xuống, trầm lặng, mặt ngước nhìn ra mênh mông. Chắc là một chuyện cảm động, chúng tôi đoán như vậy và không đùa nữa. Bên ngoài, một cơn gió ù thổi tới. Cái trạm này - một ngôi nhà cất chen vào giữa một chòm cây giữa khu rừng tràm thưa, mỗi khi có một cơn gió, sóng nối nhau đập vào tàn cây, nhà lại rung lên và lắc lư như một con thuyền đang chơi vơi giữa biển. Sóng đập đều đều vào các chòm cây. Đàn cò đứng ngủ không yên, một vài con vỗ cánh bay chấp chới. Sóng gió như nhắc nhở ông điều gì, ông nghiêng tai lắng nghe. Khi cơn gió thổi qua, mặt nước trở lại yên lặng, ông mới ngẩng lên và nói. Ông nói với chúng tôi mà như nói với cả trời nước vậy, ông không nhìn vào chúng tôi mà nhìn ra biển nước, chân trời và các vì sao.

    - Chuyện xảy ra cách đây đã hơn một năm rồi, mà mỗi lần nhớ lại, tôi cứ bàng hoàng như vừa thấy một giấc mơ - ông mở đầu với giọng trầm đục: - Hôm đó, tôi đi từ trạm N. G. đến L. A. Khi chiếc xuồng máy đuôi tôm vừa xô ra bến thì chúng tôi ai cũng muốn biết người lái ấy là ai. Không phải tò mò mà cần phải biết. Bởi vì trước khi đi, người trạm trưởng có báo cáo với chúng tôi đó là một đoạn đường dài, một đoạn đi xuồng máy, một đoạn đi bộ, đi xuồng dễ gặp trực thăng soi, anh em phải bình tĩnh, không được nhốn nháo, không được tự động mà phải tuyệt đối tuân theo sự điều khiển của người lái. Nói như vậy có nghĩa là sinh mạng mình phải hoàn toàn phó thác cho người cầm lái ấy, có phải không các bạn? Cho nên, tôi cần nhìn, cần biết rõ người đang cầm giữ sinh mạng mình. Nhưng trời đã tối rồi, tôi chỉ thấy đó là một cô gái người mảnh khảnh, vai mang cây “cạc- bin” bá xếp của Mỹ, đầu chít khăn, dáng điệu gọn gàng.

    Trước đó, tôi có được nghe tiếng đồn trạm này có một cô giao liên rất thông minh. Một hôm, cô dẫn một đoàn khách sắp sửa qua sông, cô để khách dừng lại ngoài ruộng xa. Cô và một anh giao liên nữa tiến trước dọn đường. Đến vườn cây bờ sông, cô thấy mình đã lọt vào ổ phục kích của địch. Nhưng cô không bối rối. Cô vừa gọi người bạn của mình vừa nói, cô cố ý nói lớn cho bọn địch nghe: “Tình hình yên, không có gì, anh trở lại dẫn khách đi, còn tôi sang sông lắc xuồng đem qua”. Trong câu nói ấy có ám hiệu. Anh giao liên liền quay lại, êm ái đưa khách bọc qua ngả khác, vượt sông cách đó độ một vài cây số. Còn cô ta, trước khi qua sông cô còn gài lại hai trái lựu đạn. Cô qua sông, thế là thoát. Còn đám biệt kích kia, bọn nó tưởng thật, định hốt cả một đoàn khách, nên chẳng dám rục rịch, mà cứ chờ. Chờ mãi, bọn nó biết, nó chửi rủa nhau, trong lúc lục tục kéo về lớ quớ thế nào lại vấp cả hai quả lựu đạn gài, rụng hết mấy mạng. Qua chuyện đó, người ta thêm thắt rằng cô giao liên ấy có cái mũi rất thính, cô dùng mũi để nghe mùi địch và có thể phân biệt được thằng nào là Mỹ, thằng nào là Ngụy nữa.

    Tôi nghĩ, nếu người nữ giao liên ấy là cô đang lái chiếc xuồng máy này thì mình không đến nỗi lo lắm. Tôi muốn hỏi nhưng thấy không tiện nên đành phải nói khéo:

    - Ở trạm này có mấy cháu nữ vậy hở chú?

    - Dạ một chị là chị nuôi với cháu nữa là hai.

    Vậy là cô nữ giao liên này rồi, tôi cảm thấy mừng. Nghe giọng cô nói, tôi đoán cô bé độ mười tám hai mươi là cùng. Tôi cảm thấy mến, muốn hỏi thêm nhưng thấy cô đang lom khom quấn dây vào bánh trớn nên lại thôi. Quấn dây vào bánh trớn xong, cô đứng thẳng người, quay lại nói với xuồng sau:

    - Tôi đi trước nhé!

    Mấy anh giao liên xuồng sau nhao lên:

    - Thôi chị Hai đi trước đi.

    - Chị út đi mạnh giỏi nhá! Người gọi chị Hai, người gọi chị út, chẳng biết cô thật thứ mấy.

    Cô đáp lại mấy câu láu lỉnh, gọi mấy chú giao liên là em rồi quay lại chúng tôi, hạ giọng hết sức lễ phép:

    - Các bác, các chú, các anh có gì quan trọng nên để trong túi áo, hoặc để trong một cái gói riêng. Lỡ gặp trực thăng bắn hoặc gặp biệt kích thì đồ qúy không bị mất, bị cháy.

    Cô báo cho chúng tôi những điều không may có thể xảy ra nhưng giọng nói lại dịu dàng - dễ thương nữa - khác hẳn với giọng nói căng thẳng của ông trạm trưởng, nên tôi thấy không lo lắm. Nói xong, cô khom lưng, giật máy. Xuồng rung lên theo tiếng máy nổ giòn, từ từ tách ra khỏi vòm cây rậm, rồi rào rào lướt tới. Gió thổi mát cả người, mát đến từng chân tóc. Nghe cô dặn, anh em khách lúi húi mở bòng. Còn tôi, tôi có cái gì qúy ngoài giấy tờ, tiền ăn đường đã để sẵn trong túi? Tôi chợt nhớ đến cây lược nhỏ. Tôi liền mở bòng, mò lấy cây lược, cho vào túi nhái đựng giấy tờ, bỏ vào túi ngực, rồi cài kim tây lại thật cẩn thận.

    Các bạn! Mỗi lần nhìn thấy cây lược ngà nhỏ ấy là mỗi lần tôi băn khoăn và ngậm ngùi. Trong cuộc đời kháng chiến của tôi, tôi chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc chia tay, nhưng chưa bao giờ, tôi bị xúc động như lần ấy. Trong những ngày hoà bình vừa lập lại, tôi cùng về thăm quê với một người bạn. Nhà chúng tôi ở cạnh nhau gần vàm kinh nhỏ đổ ra sông Cửu Long. Chúng tôi cùng thoát ly đi kháng chiến, đầu năm 1946, sau khi tỉnh nhà bị chiếm. Lúc đi, đứa con gái đầu lòng của anh - và cũng là đứa con duy nhất của anh, chưa đầy một tuổi. Anh thứ sáu và cũng tên Sáu. Suốt mấy năm kháng chiến, chị Sáu có đến thăm anh mấy lần. Lần nào anh cũng bảo chị đưa con đến. Nhưng cái cảnh đi thăm chồng ở chiến trường miền Đông không đơn giản. Chị không dám đưa con qua rừng. Nghe chị nói có lý anh không trách được. Anh chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ thôi. Đến lúc được về, cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh. Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà, đoán biết là con, không thể chờ xuồng cặp lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, khiến tôi bị chới với. Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng lại kêu to:

    - Thu! Con.

    Vừa lúc ấy, tôi đã đến gần anh. Với lòng mong nhớ của anh, chắc anh nghĩ rằng, con anh sẽ chạy xô vào lòng anh, sẽ ôm chặt lấy cổ anh. Anh vừa bước, vừa khom người đưa tay đón chờ cô. Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Còn anh, anh không ghìm nổi xúc động. Mỗi lần bị xúc động, vết thẹo dài bên má phải lại đỏ ửng lên, giần giật, trông rất dễ sợ. Với vẻ xúc động ấy và hai tay vẫn đưa về phía trước, anh chầm chậm bước tới, giọng lặp bặp run run:

    - Ba đây con!

    - Ba đây con!

    Con bé thấy lạ quá, nó chớp mắt nhìn tôi như muốn hỏi đó là ai, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “ Má! Má”. Còn anh, anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, rồi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương, và hai tay buông xuống như bị gãy.

    Vì đường xa, chúng tôi ở nhà được có ba ngày. Trong ba ngày ngắn ngủi đó, con bé không kịp nhận ra anh là cha. Đêm nó không cho anh ngủ với chị. Con bé tính khí thật không vừa, nó tuột xuống giường, đứng dưới đất chồm lên, nắm tay anh kéo ra. Kéo không được, nó kê miệng cắn. Cho đến ngày đi, tay anh vẫn còn hằn sâu những dấu răng của con. Suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con. Nhưng càng vỗ về, con bé càng đẩy ra. Anh mong được nghe một tiếng “ba” của con bé, nhưng con bé chẳng bao giờ chịu gọi. Nghe mẹ nó bảo gọi ba vào ăn cơm thì nó bảo lại:

    - Thì má cứ kêu đi.

    Mẹ nó đâm nổi giận, quơ đũa bếp dọa đánh, nó phải gọi nhưng lại nói trỏng:

    - Vô ăn cơm!

    Anh Sáu vẫn ngồi im, giả vờ không nghe, chờ nó gọi “ba vô ăn cơm”. Con bé cứ đứng trong bếp nói vọng ra:

    - Cơm chín rồi! - Anh cũng không quay lại. Con bé bực quá, quay lại mẹ và bảo:

    - Con kêu rồi mà người ta không nghe.

    Anh quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi. Bữa sau, đang nấu cơm thì mẹ nó chạy đi mua thức ăn. Mẹ nó dặn, ở nhà có gì cần thì gọi ba giúp cho. Nó không nói không rằng, cứ lui cui dưới bếp. Nghe nồi cơm sôi, nó giở nắp, lấy đũa bếp sơ qua - nồi cơm hơi to, nhắm không thể nhắc xuống để chắt nước được, đến lúc đó nó mới nhìn lên anh Sáu. Tôi nghĩ thầm, con bé đang bị dồn vào thế bí, chắc nó phải gọi ba thôi. Nó nhìn dáo dác một lúc rồi kêu lên:

    - Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái! - Nó cũng lại nói trỏng:

    Tôi lên tiếng mở đường cho nó:

    - Cháu phải gọi: “Ba chắt nước giùm con”, phải nói như vậy.

    Nó như không để ý đến câu nói của tôi, nó lại kêu lên:

    - Cơm sôi rồi, nhão bây giờ!

    Anh Sáu cứ vẫn ngồi im. Tôi dọa nó:

    - Cơm mà nhão, má cháu về thế nào cháu cũng bị đòn. Sao cháu không gọi ba cháu. Cháu nói một tiếng “ba” không được sao?

    Lúc đó nồi cơm sôi lên sùng sục. Nó hơi sợ, nó nhìn xuống, vẻ nghĩ ngợi, nhắc không nổi, nó lại nhìn lên. Tiếng cơm sôi như thúc giục nó. Nó nhăn nhó muốn khóc. Nó nhìn nồi cơm, rồi lại nhìn lên chúng tôi. Thấy nó luýnh quýnh tôi vừa tội nghiệp vừa buồn cười, nghĩ chắc thế nào cũng chịu thua. Nó loay hoay rồi nhón gót lấy cái vá múc ra từng vá nước, miệng lầm bầm điều gì không rõ - Con bé đáo để thật.

    Trong bữa cơm đó, anh Sáu gắp một miếng trứng cá to vàng để vào cái chén nó. Nó liền lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung tóe cả mâm. Giận quá và không kịp suy nghĩ, anh vung tay đánh vào mông nó và hét lên:

    - Sao mày cứng đầu quá vậy, hả?

    Tôi tưởng con bé lăn ra khóc, sẽ giẫy, sẽ đạp đổ cả mâm cơm, hoặc sẽ chạy vụt đi. Nhưng không. Nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống. Nghĩ thế nào nó cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm. Xuống bến, nó nhẩy xuống xuồng, mở lòi tói(1)cố làm cho dây lòi tói khua rổn rảng, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông. Nó sang qua nhà ngoại, mét với ngoại và khóc ở bên ấy - chiều đó, mẹ nó sang dỗ dành mấy nó cũng không về. Ngày mai anh Sáu phải đi, đó là đêm cuối cùng của hai anh chị, chị cũng không muốn bắt nó về.

    Sáng hôm sau, bà con bên nội, bên ngoại đến rất đông- Cả con bé cũng theo ngoại nó về. Anh Sáu phải lo tiếp khách, anh như không chú ý đến con nữa. Còn chị Sáu thì lo chuẩn bị đồ đạc cho chồng, chị lo xếp từng chiếc áo, gói ghém đồ đạc vụn vặt vào cái túi nhỏ, chị cứ lúi húi bên chiếc ba lô. Con bé như bị bỏ rơi, lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi người đang vây quanh ba nó. Vẻ mặt của nó có cái gì hơi khác, nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của con bé trông rất dễ thương. Với đôi mi dài uốn cong, và như không bao giờ chớp, đôi mắt nó như to hơn, cái nhìn của nó không ngơ ngác, không lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa.

    Đến lúc chia tay, mang ba lô trên vai, sau khi bắt tay hết mọi người, anh Sáu mới đưa mắt nhìn con, thấy nó đứng trong góc nhà.

    Chắc anh cũng muốn ôm con, hôn con, nhưng hình như cũng lại sợ nó giẫy lên lại bỏ chạy, nên anh chỉ đứng nhìn nó. Anh nhìn với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu. Tôi thấy đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao.

    - Thôi! Ba đi nghe con! - Anh Sáu khe khẽ nói.

    Chúng tôi, mọi người - kể cả anh, đều tưởng con bé sẽ đứng yên đó thôi. Nhưng thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, trong lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên:

    - Ba... a... a... ba!

    Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan của mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ Ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ Ba” như vỡ tung ra từ lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó.

    Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc:

    - Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!

    Ba nó bế nó lên - nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa.

    Trong lúc đó, ngoại nó cho tôi biết, đêm qua, bà đã tìm hiểu được vì sao nó không chịu nhận ba nó. Bà hỏi:

    - Ba con, sao con không nhận?

    - Không phải - đang nằm mà nó cũng giẫy lên.

    - Sao con biết là không phải? Ba con đi lâu, con quên rồi chứ gì!

    - Ba không giống cái hình ba chụp với má.

    - Sao không giống, đi lâu, ba con già hơn trước thôi.

    - Cũng không phải già, mặt ba con không có cái thẹo trên mặt như vậy.

    à ra vậy, bây giờ bà mới biết. Té ra nó không nhận ba nó vì là cái vết thẹo, và bà nó cho biết, ba nó đi đánh Tây bị Tây bắn bị thương - bà nhắc lại tội ác mấy thằng Tây ở đồn đầu vàm cho nó nhớ. Nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn. Sáng hôm sau, nó lại bảo ngoại đưa nó về. Nó vừa nhận ra thì ba nó đã đến lúc phải đi rồi.

    Trong lúc đó, nó vẫn ôm chặt lấy ba nó. Không ghìm được xúc động và không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con:

    - Ba đi rồi ba về với con.

    - Không! - Con bé hét lên, hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run.

    Nhìn cảnh ấy, bà con xung quanh có người không cầm được nước mắt, còn tôi bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm lấy trái tim tôi. Tôi bỗng nảy ra ý nghĩ, muốn bảo anh ở lại vài hôm. Nhưng thật khó, chúng tôi chưa biết mình sẽ đi tập kết hay ở lại. Chúng tôi cần về đúng ngày, nhận lệnh để kịp chuẩn bị. Thế là đã đến lúc phải đi rồi, mọi người phải xúm lại vỗ về nó, mẹ nó bảo:

    - Thu! Để ba con đi. Thống nhất rồi ba con về.

    Bà ngoại nó vừa vuốt tóc nó vừa dỗ:

    - Cháu của ngoại giỏi lắm mà! Cháu để ba cháu đi rồi ba sẽ mua về cho cháu một cây lược.

    Con bé lại ôm chầm ba nó một lần nữa và mếu máo:

    - Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba! - Nó nói trong tiếng nấc, vừa nói vừa từ từ tuột xuống.

    Sau đó hai chúng tôi trở lại miền Đông. Chúng tôi là cán bộ đoàn thể, chúng tôi không đi tập kết. Từ năm năm mươi tư đến năm mươi tám, năm mươi chín và những năm khó khăn, các bạn đã biết rồi. Về công việc và đời sống ở rừng, tôi có thể kể cho đến sáng, có đêm bị biệt kích vây bắt, nhưng thôi, đó là chuyện khác. Tôi xin trở lại mối tình cha con của bạn tôi. Những đêm rừng, nằm trên võng, mắt chỉ thấy tấm ny lông nóc, lúc nhớ con, anh cứ ân hận sao mình lại đánh con. Nỗi khổ tâm đó cứ giày vò anh - một hôm hai đứa đang rì rầm kể, anh bỗng ngồi bật dậy:

    - Phải rồi! Ơở rừng này, người ta thỉnh thoảng có bắn voi, mình phải làm một cây lược bằng ngà cho con bé mới được.

    Và anh ao ước có một khúc ngà, một khúc ngà voi. Thật may mắn, sau đó không lâu, vì thiếu thức ăn, anh em nghĩ đến chuyện đi săn, đi săn bằng tên thuốc chớ không phải bằng súng. Lúc đó rừng hãy còn phải giữ im lặng. Thật ra thì anh em không đi săn voi, nhưng tình cờ lại gặp nó. Anh em định thả nó, nhưng anh Sáu quyết định bắn.

    Tôi hãy còn nhớ buổi chiều hôm đó - buổi chiều sau một ngày mưa rừng, giọt mưa còn đọng trên lá rừng sáng lấp lánh. Đang ngồi làm việc dưới tấm ny lông nóc, tôi bỗng nghe tiếng kêu. Từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà.

    Sau đó anh lấy vỏ đạn hai mươi ly của Mỹ, đập mỏng làm thành một cây cưa nhỏ, cưa khúc ngà thành từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc. Chẳng hiểu sao tôi thích ngồi nhìn anh làm và cảm thấy vui vui khi thấy bụi ngà rơi mỗi lúc một nhiều. Một ngày, anh cưa được một vài răng. Không bao lâu sau, cây lược được hoàn thành. Cây lược dài độ hơn một tấc, bề ngang độ ba phân rưỡi, cây lược cho con gái, cây lược dùng để chải mái tóc dài, cây lược chỉ có một hàng răng thưa. Trên sóng lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu, con của ba”. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh. Những đêm nhớ con, anh ít nhớ đến nỗi hận đánh con, nhớ con, anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi cài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Có cây lược, anh càng mong gặp lại con. Nhưng rồi một chuyện không may xảy ra. Một ngày cuối năm năm mươi tám, năm đó ta chưa võ trang - trong một trận càn lớn của quân Mỹ- ngụy, anh Sáu bị hy sinh. Anh bị viên đạn của máy bay Mỹ bắn vào ngực. Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, anh đưa tay vào túi, móc cây lược, đưa cho tôi và nhìn tôi một hồi lâu. Tôi không đủ lời lẽ để tả lại cái nhìn ấy, chỉ biết rằng, cho đến bây giờ, thỉnh thoảng tôi cứ nhớ lại đôi mắt của anh.

    - Tôi sẽ mang về trao tận tay cho cháu.

    Tôi cúi xuống gần anh và khẽ nói. Đến lúc ấy, anh mới nhắm mắt đi xuôi.

    Các bạn ạ! Trong những ngày đen tối ấy, người sống phải sống bí mật thì cũng đã đành một lẽ, còn người chết cũng phải chết bí mật nữa. Mộ của anh không thể đắp cao lên được, - tìm thấy mồ mả, chúng sẽ đào lên và tìm ra dấu vết, - cho nên ngôi mộ của anh là ngôi mộ bằng, bằng phẳng như mặt rừng vậy. Tôi lấy dao khắc vào một gốc cây rừng cạnh chỗ anh nằm làm dấu cho dễ nhớ.

    Sống như thế và chết như thế, hỏi vậy làm sao mà chịu được? Chúng ta buộc phải cầm súng.

    Sau khi có căn cứ khá an toàn, người nhà tôi có đến thăm. Tôi định gởi cây lược ngà về cho cháu Thu. Nhưng chị Sáu và cháu Thu không còn ở làng nữa. Qua những lần tố cộng, những trận càn, những trận đốt làng dồn dân của bọn Mỹ, không có mấy năm mà làng nước tan tác đi nhiều lắm. Mỗi người đi mỗi nơi chẳng ai được tin ai. Người nhà tôi bảo có lúc nghe chị Sáu chạy lên Sài Gòn, có lúc lại nghe chị Sáu lại quay về Đồng Tháp, vì thế mà tôi giữ mãi cây lược của cháu.

    Tôi cầm cây lược nhìn ngắm, lòng thấy bùi ngùi.

    Trong lúc đó tiếng máy vẫn nổ giòn, và tôi lại muốn nhìn rõ cô giao liên - người đang giữ sinh mạng của mình. Đêm không tối, cũng không sáng, nền trời tràn qua nhiều lớp mây mỏng, rải rác một vài chòm sao. Trời sáng mập mờ - Tôi chỉ nhìn thấy được dáng người của cô giao liên, gương mặt như hơi tròn và một đôi mắt, đôi mắt của người con gái thật khó tả. Chẳng hiểu cớ sao, từ ánh mắt ấy, tôi dần dần thấy một người quen, quen lắm. Tôi cố nhớ, nhớ không ra, tôi thấy mình lẩn thẩn.

    Bỗng có tiếng kêu thất thanh:

    - Máy bay!

    - Máy bay!

    Xuồng liền chòng chành, như có người định lao xuống, người nhốn nháo và nhiều tiếng lao nhao lên:

    - Tấp vào!

    - Đâu?

    - Đèn nó ở phía sau kìa!

    - Tấp vào, tấp vào. Phản lực!

    Cô giao liên cho máy nổ nhỏ dần, quay lại sau một lúc rồi bảo:

    - Không phải đâu, sao trên trời đó mà.

    Trong lúc mọi người đang lo, có người hốt hoảng, có người định nhảy thì giọng của cô bình tĩnh như vậy đó. Có người chưa thật tin, nhưng trước thái độ thản nhiên của cô, mọi người lại ngồi yên. “Sao trên trời đó mà”, giọng nói nhỏ nhẹ và ngọt ngào. Và cô lại cho máy nổ to.

    Sau mấy ngày đi bộ, được ngồi trên chiếc xuồng máy thật là thích thú. Nhưng nghĩ đến máy bay, tôi lại thấy phiền. Tiếng máy đuôi tôm nổ to quá như át cả tiếng máy bay. May mà gặp cô giao liên bình tĩnh, cô mà rối chắc có người đã nhảy rồi, xuồng chắc cũng chìm mất. Tôi cố không nghĩ gì khác, tập trung lắng nghe tiếng máy bay.

    Xuồng bắt đầu vào một quãng kinh trống, hai bên bờ không có một ngôi nhà, xa xa một chòm tre, một lùm cây, hai bên là cánh đồng hoang. Tôi sốt ruột muốn cho xuồng lao nhanh hơn. Hình như hiểu tâm trạng tôi, cô cho máy nổ to. Sóng trước mũi xuồng trào lên kéo thành những đợt sóng dài, làm run rẩy đám cỏ hai bên bờ, vỗ bập bềnh các giề lục bình và các đám nghể mọc hoang.

    Trong lúc mọi người đang yên tâm, đang thích thú ngồi trên chiếc xuồng lao nhanh thì cô giao liên tắt máy báo tin:

    - Máy bay!

    Cô vừa nói vừa tấp sát lại bụi tre. Chiếc xuồng sau cũng tấp lại. Rõ ràng là có tiếng máy bay, tiếng cánh quạt “lạch bạch” của đám trực thăng Mỹ. Tôi chẳng biết cái lỗ mũi của cô thính đến cỡ nào, còn cái tai của cô rõ là thính thật, tiếng máy bay lẫn trong tiếng máy đuôi tôm, thật khó nghe.

    Xuồng chòng chành, có người chới với muốn té:

    - Nó còn xa lắm! - Cô trấn tĩnh chúng tôi - Các bác, các chú bước lên phân tán mỏng, tìm núp vào chỗ kín. Nếu nó có soi tới các bác, các chú nhớ đừng động đậy - Trong lúc cô nói, anh em khách đã vọt lên bờ hết rồi. Tôi là người cuối cùng.

    Tôi vừa bước lên thì cô bảo:

    - Bác cứ ở đây đi. Xuồng ít người không sao!

    Nếu một người nào khác bảo như vậy, tôi chắc không nghe. Trước thái độ của cô, ngồi cùng một chiếc xuồng với cô, tôi thấy vững tin hơn ngồi trong công sự.

    Đám trực thăng Mỹ từ đầu kinh soi lần lần tới, tiếng động cơ của nó rầm rộ như hàng chục chiếc tàu thủy đang chạy. Aánh sáng ngọn đèn soi của nó một lúc một gần. Bọn Mỹ, bọn ngụy đó thường đi ba chiếc, một chiếc tìm người, tìm mục tiêu, còn hai chiếc soi đèn thì bắn.

    - Lấy lá cây che kín, đừng động đậy nhé! - Cô lại nhắc tôi.

    Đó là lần đầu tiên tôi bị trực thăng soi, khi ngọn đèn của nó soi qua - cái thứ ánh sáng chói chang và tiếng cánh quạt đập trên đầu, tôi thấy xuồng mình rõ qúa, tôi thấy cái be dài, thấy những lỗ trống của ba lô dưới lớp lá ngụy trang, thấy cỏ quặn lên như trong một cơn lốc, tôi nghĩ: “Thôi chết rồi!” Tôi rút vai, thu mình cho nhỏ lại. Như đoán được tâm trạng của tôi, cô lại nhắc:

    - Nó không thấy rõ mình như mình thấy mình đâu!

    Lần này, lời cô nói với tôi không hiệu quả nữa. Phút chốc tôi lại muốn lao xuống nước. Nhưng tôi kịp trấn tĩnh.

    Rồi cái ánh sáng ma qủy ấy qua với tiếng động cơ rầm rộ mỗi lúc một xa. Đêm lại mờ dần đi. Tôi vẫn ngồi im vì còn lo nó quay trở lại. Cô giao liên nói như an ủi tôi:

    - Nó làm coi dữ vậy, nhưng nó chẳng thấy cái gì đâu. Miễn là mình bình tĩnh, đừng động đậy - Đoạn cô nhìn ra cánh đồng, gọi anh em khách. Anh em có người ướt nhem, vừa thay quần áo, vừa chửi rủa. Xuồng lại nổ máy. Quá nửa đêm, đoàn chuyền lên đi bộ - Chúng tôi đi men theo bờ mẫu, băng qua cánh đồng, bờ mẫu chỗ bùn lầy, chỗ lồi lõm, chỗ nhầy nhụa, chúng tôi đi sát vào nhau và hầu như thay phiên nhau trượt té vậy - Người này đang lom khom ngồi dậy, người khác lại đánh “ạch” ngã xuống ruộng, chúng tôi, dép cầm tay, mò mẫm đi từng bước, cứ thế mà đi. Gần đến bờ sông, giao liên cho chúng tôi dừng lại, phái trinh sát đi bám đường.

    Hai trinh sát đi khoảng hai mươi phút thì đụng biệt kích. Lần này bọn nó không nằm phục trong đám vườn dọc bờ kinh, nó chồm ra ngoài ruộng. Súng nổ tới tấp. Đạn rít veo véo qua đầu chúng tôi.

    - Nằm xuống? - Cô giao liên ra lệnh - Anh Tư dẫn khách đi, tôi ở lại.

    Chẳng hiểu sao, lúc ấy tôi muốn kéo cô cùng đi. Qua giọng phân công của cô, tôi đoán cô là nhóm trưởng. Vừa nghe tiếng cô, nhìn lại cô đã vụt chạy đâu rồi. Đạn đan thành lưới rít qua đầu chúng tôi, rơi “chéo chéo” trên mặt ruộng, khiến chúng tôi phải nằm dán người vào bờ mẫu không sao ngóc đầu lên được.

    Trong lúc đó, phía bên trái bỗng có nhiều tiếng “cacbin” nổ. Lập tức đường đạn bay về hướng đó. Tôi đoán biết, cô giao liên đang dẫn đường đạn bay về mình.

    - Chạy! - Anh Tư, người giao liên ra lệnh. Đoàn khách chúng tôi liền vọt lên. Tôi không phải là người dạn súng cho lắm, nhưng lúc đó, tôi không thấy lo cho mình nữa, tôi cứ nghĩ đến cô giao liên. Đoàn khách chúng tôi - không hàng ngũ, chạy bừa qua ruộng lúa, đâm thẳng ra ven cây, rồi vượt qua sông.

    Tiếng súng mỗi lúc một dữ dội. Tôi cố gắng lắng nghe tiếng “cacbin” của cô, nhưng không tài nào nghe được, lòng cứ xốn xang.

    Nhờ có tiếng súng biệt kích mà chúng tôi đến rặng cây làng rất sớm. Anh em bên kia trạm - trạm L.A, cũng vừa đến, không phải chờ lâu.

    Đoàn tập hợp lại trong một đám dừa bị chất độc hóa học, tàu lá lơ thơ, trống trải. Đoàn khách còn đủ mặt, có một vài người bị mất dép, có người qua sông bị trôi ba lô. Còn tôi, già mà hãy còn cứng, tôi chả mất một món gì.

    Ai cũng mệt mỏi, anh em giao liên cho chúng tôi nằm nghỉ đến sáng. Có người không cần phải mắc võng, cũng chẳng trải nilông, nằm vật xuống đất, lấy bòng làm gối, ngáy pho pho. Còn tôi, vì nhiều nỗi, nên cứ lơ mơ. Tôi đang trên đường về tỉnh nhà. Làng nước đâu có còn như xưa nữa. Người ta bị dời nhà, bị dồn vào các trại tập trung, rồi người ta lại phá ra, cả vườn tược cũng thay đổi. Tôi nghe nói vậy, nhưng không thể hình dung ra được. Tôi cứ nhớ lại cảnh cũ. Nhớ những lần trở về, nhớ cảnh chia tay của cha con anh Sáu mà cây lược tôi hãy còn giữ đây. Trong khi nghĩ miên man, đôi lúc tôi chợt nhớ đến anh em ở lại chặn bọn biệt kích. Nhất là cô giao liên. Chẳng hiểu cô bé và anh em giao liên ra sao. Mệt quá rồi tôi cũng thiếp đi...

    Nghe đâu đây có tiếng chân đi, tiếng người nói, tiếng cười đùa. Tôi chợt tỉnh dậy, thấy trời đã đâm mây ngang, màn đêm như vén dần ra cánh đồng. Tôi thấy một nhóm người, chẳng nghe nói họ nói gì, nhưng biết là họ đang kể lại những chuyện sôi nổi. Và tôi nhìn thấy cô giao liên, quần áo cô bùn đất bê bết và đẫm ướt. Thế là họ về kịp rồi.

    Tôi vừa đến họ cũng vừa chia tay ra. Bây giờ tôi mới nhìn rõ cô. Cô vừa chặn địch, vừa bước ra khỏi chỗ nguy hiểm mà mặt cứ phơi phới. Mặc dù nước da cô bị rám nắng, tôi trông cô không quá hai mươi tuổi. Con gái hai mươi tuổi không thể có cặp mắt trong sáng như thế, và cô mới ngây thơ làm sao, cô vẫn còn đeo bông tòn ten, cô đi dần về phía tôi, tôi bỗng muốn tỏ lòng mến phục của tôi đối với cô, cả lòng cám ơn nữa. Nhưng chẳng lẽ lại nói như vậy, tôi mỉm cười chào cô và làm quen:

    - Này cháu. Bác lo cho cháu quá! Cháu thứ mấy?

    - Dạ, cháu thứ hai.

    - Sao bác lại nghe có người kêu cháu là chị Uút? Chắc là cháu đã có...

    - Dạ không! - Cô giao liên chặn câu nói của tôi lại- Cháu vừa thứ hai vừa thứ út vì cháu là con một mà!

    - Cháu là người ở làng nào mà sao bác thấy quen quen.

    - Dạ cháu ở Cù Lao Giêng!

    Nghe đến tên làng, tôi bỗng giật mình. Nhìn đôi mắt cô bé, ngực tôi bỗng phập phồng, và như có linh tính, tôi liền hỏi lại, hỏi dồn dập:

    - Có phải Cù Lao Giêng, quận Chợ Mới, tỉnh Long Châu Sa không vậy cháu?

    - Dạ phải.

    - Cháu tên gì?

    - Cháu tên Thu.

    - Thu à? - Tôi lặp lại và kinh ngạc.

    Tôi lặp bặp hỏi tiếp:

    - Có phải ba cháu là Sáu, má cháu là Bình phải không?

    Cô bé kinh ngạc đến nỗi không nói được nữa, nó mở tròn mắt nhìn khắp người tôi. Trong lúc đó, anh em giao liên trạm L.A. kêu khách chuẩn bị lên đường. Nhưng rồi chẳng để ý cũng chẳng muốn nghe, tôi quay lại và bảo:

    - Chờ tôi một chút.

    Tôi quay lại cô bé. Cả hai người vẫn còn ngạc nhiên. Cô bé vẫn tròn mắt nhìn tôi, đúng, đúng, đúng là đôi mắt của con cháu. Tôi thầm nghĩ, và bảo:

    - Có phải không cháu?

    - Dạ... Sao bác biết?

    Tôi cố nén xúc động nhưng cũng lặp bặp nhắc lại:

    - Bác là bác Ba đây này. Cháu có còn nhớ lúc ba cháu đi, ba cháu có hứa mua cho cháu cây lược không?

    Cô cháu khe khẽ gật đầu: “ Dạ nhớ, dạ nhớ”.

    Các bạn ạ! Trong kháng chiến có những cuộc gặp gỡ thật tình cờ! Tôi vừa nhìn cháu, vừa móc túi lấy ra cây lược.

    - Ba cháu gởi cho cháu cây lược ngà này đây. Cây lược này do ba cháu làm.

    Đôi mắt của cháu lại to tròn hơn, mặt xúc động đến thẫn thờ. Cháu đưa tay nhận lấy cây lược. Cây lược như đánh thức kỷ niệm ngày chia tay, ngực cháu phập phồng. Thấy cháu nhìn ngắm cây lược, tim tôi bỗng nhói đau. Tôi biết cháu đang bàng hoàng trước hạnh phúc bất ngờ, tôi không muốn làm gì xao động đến hạnh phúc của cháu, tôi thấy cần phải nói dối:

    - Ba cháu vẫn khoẻ, ba cháu không về được, nên gởi cho bác.

    Cháu Thu liền chớp mắt nhìn tôi, môi mấp máy run run:

    - Chắc là bác lầm, cây lược này không phải của ba cháu.

    Tôi đâm ra thất vọng, hoang mang nữa, tôi hỏi lại:

    - Ba cháu tên Sáu, má cháu tên Bình phải không?

    - Dạ phải - Hình như cháu muốn khóc, mắt cháu đỏ hoe nhưng cố nén và nói:

    - Nếu cháu không lầm thì chắc bác sợ cháu buồn nên bác nói giấu cháu. Cháu biết ba cháu đã chết rồi.- Cháu chớp mắt, hai giọt lệ ứa ra, vỡ tràn qua đôi mắt - Cháu chịu đựng được, bác đừng ngại, cháu nghe tin ba cháu chết đã hai năm rồi, sau đó thì cháu xin má cháu đi giao liên...

    Cháu còn muốn nói gì nữa, nhưng giọng bị tắt nghẹn, đầu cúi nhìn xuống, mái tóc khẽ run run. Còn tôi, tôi lỡ nói dối, nên chẳng biết nói thế nào nữa, đành im lặng.

    Trong khi đó, anh em trong đoàn táo tác gọi tôi, giục tôi đi. Không thể nán được nữa, tôi đành phải vội vàng hỏi xin cháu địa chỉ, hỏi thăm qua mẹ cháu và bà con.

    Nỗi mững gặp gỡ bất ngờ khiến tôi chưa biết bàng hoàng thì lại phải chia tay. Nhìn cháu tôi bỗng buột miệng nói:

    - Thôi, ba đi nghe con!

    Tôi không nghe cháu đáp lại, chỉ thấy đôi môi tái nhợt của cháu mấp máy.

    Đi một quãng xa nhìn lại, tôi thấy cháu cố đi theo tôi một đoạn đường. Cháu dừng lại trên bờ mẫu, những đợt sóng lúa xanh nhỏ nối nhau rập rờn như chạy đến vỗ về cháu. Sau lưng cháu là đám dừa bị chất độc hóa học mà tàu lá chỉ còn những cọng khô như những chiếc xương cá khổng lồ treo lủng lẳng, đọt non vừa mới đâm lên, xa trông như một rừng gươm.

    Lúc chia tay, tôi không nghe cháu gọi tôi là ba. Nhưng những lúc nằm một mình, nhớ lại thì tôi nghe tiếng gọi “ba” của cháu, và tiếng “ba” như vang lên từ trong tâm tôi.
     
  10. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Người Vợ Mù - Khái Hưng


    Tôi được biết vợ chồng người ấy cũng là nhờ ở một sự ngẫu nhiên: họ dùng cửa nhà tôi làm nơi hội họp.

    Hồi đó, tôi ở Ninh Giang, một phủ lỵ khá lớn. Một bến tàu thủy khá sầm uất trên con sông Chanh, cách tiêu khiển của tôi là chiều tôi ra bờ sông xem tàu tới, tàu đi, giữa một cảnh náo nhiệt và những tiếng ồn ào gào thét của bọn bán bánh giò và bọn mời khách trọ, với những lời đe dọa hách dịch của mấy chú tuần canh, lính thương chính đến hỏi thẻ và khám soát hành lý.

    Nhưng từ ngày tôi để ý đến vợ chồng người mù, thì ở Ninh Giang, đối với tôi, không còn sự tiêu khiển nào thú hơn là được ngắm đôi uyên ương ấy chuyện trò với nhau: một cảnh tượng cảm động, thân mật và rất nên thơ.

    Tôi không rõ cửa nhà tôi được họ chọn làm nơi hò hẹn từ bao giờ, và vì sao họ lại chọn cửa nhà tôi. Nhưng một buổi sáng mùa đông dậy sớm, ra hiên gác tì tay lan can nhìn xuống, tôi thấy hai bóng đen đen đang đứng trên hè đường, dưới làn mưa phùn giá rét. Một lát sau, người đàn ông bảo người đàn bà:

    - Mười hai giờ bà chờ tôi ở đây nhé!

    Lời nói dõng dạc trang nghiêm như giọng hạng người sống trong những xã hội cao quý. Rồi mỗi người đi một ngả. Văng vẳng tôi nghe rao câu rất quen tai:

    - Ai muối mua!

    Và tôi nhớ ngay ra ông lão bán muối mà tôi vẫn thường gặp lang thang trong các phố.

    Mười hai giờ trưa khi chuyến ô-tô hàng chạy Hải Dương bắt đầu mở máy, quả nhiên một người đàn bà già và mù, áo xống gọn gàng và sạch sẽ, tay cầm cái rá, rờ lần các cửa xe, rời rạc xin tiền.

    Tôi nghĩ thầm: “Không phải ăn mày lành nghề”.

    Xe đi khỏi thì người bán muối buổi sáng cũng vừa đến nơi. Và tôi hiểu vì sao họ chọn giờ ấy làm giờ họp mặt: giờ ô-tô.

    Luôn một tuần lư như thế, hôm nào cũng đủ sáu giờ sáng và mười hai giờ trưa là hai vợ chồng người mù tới cửa nhà tôi đứng nói chuyện. Họ không hề sai hẹn. Và tôi tò mò lưu ý đến họ, để tai lắng nghe những câu chuyện của họ, vì họ nói rất to, như chẳng cần gì ai, hơn nữa, như coi nơi hè đường là chốn phòng riêng của họ.

    Họ có nhà riêng hay không, và nếu có thì nhà riêng họ ở đâu, tôi không rõ. Nhưng nghe chuyện họ, tôi biết rằng gia đình họ chỉ có hai vợ chồng: chồng làm nghề bán muối, vợ theo nghề ăn xin.

    Gặp nhau, họ vui vẻ mỉm cười hỏi thăm tin tức nhau như hai người bạn thân xa vắng lâu ngày, và mong nhớ nhau từng phút từng giây. Lần nào người chồng cũng bắt đầu:

    - Bà đấy à? Thế nào, bà làm ăn có khá không?

    Người vợ trả lời chẳng qua mấy câu này: “Cũng khá ông ạ” hay “Hôm nay làm ăn chẳng ra gì”.

    Rồi bà lão ngồi thuật cho chồng nghe hệt những việc đã xảy ra trong mấy giờ đồng hồ đi “làm ăn”. Bà ta kể chuyện rất vui vẻ, thỉnh thoảng lại chêm một câu bình phẩm, một câu khôi hài, khiến người chồng khúc khích cười, chừng cốt để làm đẹp lòng vợ.

    - Ông ạ, con mẹ Phúc Hòa Ðường nó lại nhiếc tôi sao không kiếm việc mà làm, đi ăn mày thế này không biết nhục à?

    - Con mẹ Phúc Hòa Ðường ở phố Ninh Lãng có phải không bà?

    - Phải đấy ông ạ. Nó thử mù như tôi xem ông nhỉ?

    - Thế nó có cho bà đồng nào không?

    - Nó cho mà nó nhiếc thì đã cam.

    - Nó giàu nhất phố đấy, bà ạ.

    - Giàu thế thì giàu làm gì? Giàu mà không biết thương kẻ đói khó, mù lòa. Cũng chả bền được đâu, ông nhỉ?

    - Phải, bền thế nào được.

    - Giá giời cho vợ chồng mình giàu như họ thì mình ăn ở ra người giàu, có phải không ông?

    - Phải, mình để của làm gì? Ðể của cho con nó phá nhé? Bà có biết không, thằng con nhà ấy nó phá chẳng mấy nỗi mà hết cơ nghiệp. Thôi thì đủ, bà ạ, cờ bạc, bợm đĩ, hút sách.

    - Thế à ông?

    Câu chuyện cứ thế kéo dài, âu yếm như chuyện hai vợ chồng trẻ, đứng đắn như chuyện hai người có giáo dục, một điều ông ạ, hai điều bà nhỉ, và có tính cách thông tin tức như một tờ báo hàng ngày.

    - Ông ạ, tôi nghe người nhà bà thông Ðoan nói chuyện xe Ninh Thái bị bắt thuốc phiện, đâu những bốn, năm cân nữa. Chắc bị phạt khá tiền đấy nhỉ? Hay đi đêm, thế nào chả có ngày gặp ma ông nhỉ?

    Tiếp chuyện bắt thuốc phiện, bà lão kể đến chuyện gia đình nhà ông đội Nhất: Vợ chồng ông đội chẳng ngày nào là không cãi nhau. Bà lão nhắc lại từng câu mắng nhiếc chửi rủa tục tằn của hai người, rồi bình phẩm:

    - Cứ nghèo như vợ chồng mình lại êm thấm, nhỉ ông nhỉ?

    Ông lão bán muối cười rất có duyên, và có vẻ tự phụ nữa.

    Hôm nào người vợ phàn nàn không xin được một trinh nhỏ, thì người chồng tìm hết lời an ủi:

    - Thôi, bà ạ, cần gì. Hôm nay tôi làm ăn nhờ giời khá lắm. Chúng mình chỉ mong kiếm đủ ăn, chứ có cần để dành tiền như họ đâu. Vậy bà về nhà mà nghỉ nhá. Tôi đã đong một hào gạo, mua một xu rau muống, một xu tương rồi đấy. Bà về thổi cơm, tôi bán hết chỗ này cũng về ngay đây.

    Họ từ biệt nhau, cho tới sáu giờ sáng hôm sau lại vui mừng cùng nhau nói chuyện.

    Nửa năm ròng, tôi tò mò đi sâu mãi vào cái đời đường hoàng và thân mật của cặp vợ chống khốn khó.

    Có hôm tôi đã cố theo họ xem họ trú ngụ nơi đâu, nhưng họ như đôi chuồn chuồn sống nhởn nhơ không tổ trên mặt nước ao tù.

    ° ° °

    Một dạo tôi thấy vắng bóng đôi uyên ương già ở trước cửa nhà tôi. Tôi đoán chừng họ đã chọn một phố khác yên tĩnh hơn làm nơi góp chuyện hàng ngày.

    Nhưng một buổi chiều đi chơi mát, tôi rẽ vào xem đền Chanh thì gặp ông lão lòa đương lom khom quét lá khô ở sân. Tôi vui mừng hỏi:

    - Kìa ông bán muối. Hàng họ có khá không? Sao độ rầy tôi không gặp ông?

    Người kia đứng thẳng lên, hấp háy cố nhìn tôi bằng cặp mắt gần tàn ánh sáng như ngọn đèn cạn dầu bập bùng chực tắt. Tôi hỏi luôn:

    - Còn bà lão, vợ ông, lâu nay đi đâu?

    Hai hàng lệ chảy giàn giụa trên đôi gò má răn reo.

    Tôi hiểu ngay rằng ông lão già khốn nạn đương mang nặng trong lòng một nỗi thống khổ lớn lao.

    Và tôi nghĩ ngay đến sự tử biệt...

    - Ông buồn lắm phải không?

    -Vâng, tôi không thiết sống nữa, thầy ạ. Bà lão nhà tôi, bà ấy bỏ tôi bà ấy đi rồi...

    Tôi kinh ngạc:

    - Bà ấy bỏ ông?

    - Vâng, bà ấy chết rồi, còn đâu!

    Người ấy cúi xuống quét sân, nói tiếp:

    - Hơn bốn mươi năm giời ăn ở với nhau, chả có điều tiếng gì... bây giờ bà ấy bỏ bà ấy đi một mình.

    Lúc từ biệt, tôi đãi ông lão khổ sở một hào nhưng ông ta lắc đầu xua tay:

    - Tôi lấy tiền làm gì nữa. Ngày có vợ có chồng, tôi mới phải vất vả làm ăn. Chứ bây giờ còn một thân một mình, thì tôi chỉ nhờ cửa thánh ngày hai bữa cơm thừa canh cặn đủ no... để chờ ngày được gặp mặt bà lão tôi ở nơi suối vàng.

    Dù cảm động đến đâu tôi cũng không thể giấu nổi cái mỉm cười: tôi nhận thấy ngôn ngữ ông lão bán muối vẫn còn đứng đắn và kiểu cách như xưa, khi ngồi trò chuyện với người vợ mù ở trước cửa nhà tôi.

    1944
     
  11. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu


    Trưởng phòng tôi là người sâu sắc, lại cũng lắm sáng kiến đến cái mức có khi bọn chúng tôi trong cơ quan phát mệt vì anh.

    Trước đây chừng dăm tháng, để chuẩn bị cho tấm lịch năm sau, anh tỏ ý không bằng lòng với cách làm ăn từ trước tới giờ - Sang năm chúng ta sẽ đem đến cho mỗi gia đình một bộ sưu tập chuyên đề về thuyền và biển - anh nói quả quyết - Thôi, bỏ cái lối mỗi thứ một tí đi. Phải có một bộ sưu tập chuyên đề. 12 tháng là 12 bức ảnh nghệ thuật về thuyền và biển. Không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật.

    Chúng tôi xách máy lên đường, suy nghĩ, chọn cảnh, bấm máy suốt năm tháng. Và tất cả những gì thu được bằng ánh sáng đen trắng trên giấy ảnh đang được bày ra la liệt trên hai chiếc bàn ghép lại, và quả tình lúc đó tôi đã lấy làm bằng lòng lắm, đoán chắc không còn phải xách máy đi chụp bổ sung như mọi năm nữa.

    Làn khói thuốc lá cuộn phun ra mù mịt trước cặp mắt đầy tinh khôn của trưởng phòng đang nheo lại sau mắt kính lão. Đột nhiên trưởng phòng quay sang phía tôi hỏi:

    - Bây giờ đã là tháng mấy nhỉ?

    - Tháng bảy. - Tôi đáp với một vẻ dè chừng.

    - Tháng này ở biển vẫn còn sương chứ?

    - Chỉ có bão táp với biển động. Muốn lấy sương thì phải nghĩ đến từ tháng ba cơ.

    - Này anh Phùng - trưởng phòng dường như đã nhìn thấy rõ mọi ý nghĩ ngần ngại của tôi, cho nên anh vừa nói vừa nhăn nhó cái mặt lộ vẻ đau khổ - tôi cho anh một tháng, một tháng là đủ chứ gì?... Anh giúp tôi thêm một cảnh buổi sáng có sương đi.

    - Trời ơi - tôi nhặt một bức ảnh ngay trong tầm tay - với hàng trăm bức ảnh đẹp, chụp công phu thế này mà anh... - Đẹp thì đẹp thực - anh cướp lời tôi - Và nhất là lại có hồn nữa. Đúng là những bức ảnh nghệ thuật. Nói thực tình năm nay các anh đi về, khác với những năm khác, tấm nào ít nhiều tôi cũng thích. Nhưng không thể chọn đủ cho mười hai tháng, vẫn đang còn thiếu một tờ.

    ở đời cái gì cũng thế, con người bản tính vốn lười biếng, đôi khi mình hãy cứ để cho mình rơi vào hoàn cảnh bị ép buộc phải làm, không khéo lại làm được một cái gì.

    Năm ngày sau tôi đã có mặt ở một vùng biển cách Hà Nội ngoài sáu trăm cây số. Tôi vác máy tới một dải bờ cát nằm "phục kích" thiên nhiên ở cái khoảng giao điểm ngày vừa rạng, đêm chưa tắt hẳn, bấy giờ cũng là lúc những chiếc thuyền đánh cá bằng vó bè hiện ra trong khoảng mờ tỏ của bình minh.

    Thực ra đi chuyến này tôi có ý muốn trở về thăm một vùng chiến trường cũ ở đấy tôi có một thằng bạn vừa là đồng hương, vừa là đồng đội đã từng mười năm ở với nhau trên rừng A So, trước đây là một trung đội phó bộ binh nổi tiếng hay đùa tếu và bây giờ, lạy trời, ở ngay cái vùng biển ấy hắn ta đang làm một thứ công tác... nghiêm túc đến mức chẳng ai có thể tưởng tượng, chính hắn lại có thể làm nổi, mà trong thực tế hắn ta đã làm hai ba năm nay chứ không ít. Đời chúng tôi, cái đám lính của một thời chống Mỹ, từ sau bảy nhăm thật chẳng ít chuyện trớ trêu và bất ngờ.

    Thật ra ở đấy chưa phải là biển mà mới chỉ là một vùng phá ăn sâu vào đất liền, chạy quanh quất như chơi trò trốn tìm giữa các thôn, ổ, chợ búa trong một phạm vi hàng mấy chục cây số. Chẳng phải nói, cái vùng nước mà tôi vừa mới vác máy ảnh đến để chụp bổ sung cho bộ sưu tập thật là thơ mộng, và nhất là dường như trong suốt dải bờ biển của khắp cả nước, chỉ ở đây vào giữa tháng bảy là còn sương mù. Nơi đây, nếu bỏ ra ngoài tầm mắt những bãi xe tăng vứt lại hồi "tháng ba bẩy nhăm" (bây giờ sau gần mười năm, đã bị hơi nước mặn gặm mòn và làm cho sét gỉ), vùng phá nước có một cái gì đấy thật là phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu đang ấp vào tâm hồn anh. Tôi trở nên ngây ngất vào mỗi buổi sáng, bầu trời không xanh biếc, cao thăm thẳm mà đượm một sắc giữa xanh và xám, bầu trời như hạ thấp xuống và như ngưng đọng lại; giữa trời và nước ấy chỉ có một chiếc thuyền của một gia đình làm nghề vó bè đang tỏa khói bếp giữa phá - chiếc thuyền đứng im như làm bằng các-tông dán vào cảnh vật êm ả.

    Hai ngày đầu, suýt nữa tôi đã quyết định đưa vào tờ lịch tháng bảy khung cảnh người ta đẩy một chiếc thuyền xuống nước. Đó là một chiếc thuyền mới đóng xong vẫn còn thơm mùi gỗ lẫn mùi dầu rái. Tôi đã chọn được một thằng bé khoảng lên năm có đầy đủ ngoại hình con trai một nhà hàng chài, lại có cặp mắt thật đen gợi cho tôi nghĩ đến con mắt người ta vẽ trên đầu mũi thuyền, thằng bé đánh trần, lội ra đứng giữa những lượn sóng bạc đầu giang tay vứt một nắm phoi bào ra thật xa. Trong khi đó, ở trên bờ, bố mẹ nó và những người lớn đứng xếp hàng dọc ghé vai vào hai bên mạn chiếc thuyền mới. Tôi chỉ cần chụp đặc tả những chiếc vai trần của ngư phủ cùng với một hàng bàn chân to bè của họ dậm lún vào cát.

    Nhưng tôi vội thôi ngay cảnh đẩy thuyền đầy không khí vui nhộn hơi thô lỗ và thật hùng tráng. Thất bại thấy trước là tôi đã không làm sao thu được vào ống kính khoảnh khắc chiếc thuyền đập mình xuống nước làm vỡ tung toé từng đám bọt sóng trắng xoá.

    Tôi cũng quyết định thôi không lấy cảnh sương và cát như trưởng phòng ở nhà đã gợi ý, mặc dầu có những đêm thật lý thú, tôi ra ngủ ngay giữa bãi cát ven bờ phá, theo lời rủ rê của một thằng bé mặt mũi xấu xí nhưng có một trí nhớ khác thường, quần áo dính đầy nhựa cây, nó là đứa cháu ngoại của một ông lão làm nghề sơn tràng ở tận trên miền rừng A So, hai ông cháu lái một chiếc xe Reo của gia đình chở gỗ về bán cho xưởng đóng thuyền. Trong những đêm như thế, thằng nhóc tận trên rừng xuống và tôi như hai nhà hiền triết nằm kê đầu trên mười ngón tay đan vào nhau, nằm ngửa sóng đôi bên nhau, mắt nhìn đăm đăm vào khoảng mờ trắng của sương đêm, cùng hồi hộp chờ một tiếng vạc rất nhỏ kêu thảng thốt trong bầu sương tít trên cao, nghe như vọng về từ một thời hồng hoang nào đó, cái thời chung quanh vùng biển này chỉ có lau lách và tiếng sóng vỗ, chưa có người.

    Thế rồi cuối cùng, tìm đi kiếm lại, vác máy ảnh tha thẩn suốt một tuần lễ, tôi quyết định thu vào tờ lịch tháng bảy của năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc nhập nhoạng sáng. Ai đã cầm máy ảnh có kinh nghiệm đều biết đó là một cảnh chết cháy - một đề tài đã có quá nhiều người khai thác, đã từng để lại những bức ảnh thật đẹp, đầy chất thơ của những người cầm máy ảnh có tên tuổi.

    Cái gì đã xui khiến tôi tự thách thức bằng cái việc mạo hiểm ấy? Có lẽ trước hết, không phải do sự hấp dẫn của hình ảnh mà chính là những tiếng động đầy vẻ náo nhiệt ở cách xa hàng cây số cũng nghe tiếng của một nhóm thuyền đánh cá đêm bằng vó bè. Tôi chỉ được nghe cái âm thanh của sự làm ăn có cái gì như ma quái ấy vào những đêm thật tối trời và chỉ được nghe thấy vào quãng gần sáng, vào lúc mà thằng Phác - thằng bé từ trên rừng "hạ sơn" xuống đã nép vào sườn tôi ngủ say như chết sau khi nó cặn kẽ giải thích cho tôi nghe cuộc sống của những giống chim trên rừng, trước mùa thu, trước mùa giá rét rất lâu, chúng đã nháo nhác rời tổ xây trên các lùm cây dẻ um tùm để làm những cuộc di cư.

    Không phải ngay trong mấy ngày đầu mới đến mà về sau, khi đã chụp trọn gần một cuốn phim, tôi mới có dịp hiểu đôi chút về cách làm ăn lâu đời của những "tổ hợp tác" gồm những chiếc thuyền đánh cá không có bến này. Bao giờ họ cũng chỉ liên kết với nhau chỉ trong một đêm hoặc một ngày chứ không lâu. Thường thường mỗi thuyền là một gia đình, ngoài thuyền lớn còn vài chiếc mủng để đi lại. Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất nào.

    Vào một buổi sáng tôi thức dậy. Đàng đông đã sáng trắng. Trên một nửa vòm trời sao đã lặn hết. Những đám mây hình vỏ sò cứ hồng lên dần, trong khi đó, mặt biển tuy đã sáng rõ, đến cái mức đứng trong bờ cũng nhìn thấy từng đường gấp nếp lăn tăn trên mặt tấm thép dát màu xám đục, nhưng sao mà tẻ nhạt, tiếng sóng ồ ồ dội vào giấc ngủ suốt đêm chạy trốn đi đâu hết, biển im thít và không màu sắc, như một con sứa khổng lồ giạt vào bãi.

    Ngay chỗ bãi xe tăng nhìn ra, một nhóm chừng dăm chiếc thuyền vó vừa tắt đèn. Những chiếc măng sông treo thõng giữa lòng các tấm lưới đã tắt hết nhưng những đợt tiếng la thét vẫn cứ vang lên. Đó là đám người đã được phân công làm công việc xua cá vào lưới. Phần nhiều đàn bà, trẻ con, họ ngồi trên những chiếc mủng lúc nào cũng thả trôi lượn lờ mé ngoài. Có khi tản mát mỗi nơi một chiếc. Số mủng bất chợt được tập hợp lại, từ bốn góc hối hả chèo tới. Đến cự ly cách mũi thuyền chừng trăm mét, tất cả buông chèo vớ lấy hai gióng tre khô vứt trong lòng mủng gõ ầm ầm, có người dùng ngay bơi chèo gõ vào thành mủng, tay gõ miệng hét:

    - Hới, hới...

    Trong mấy cái phút ấy, tôi quỳ một chân trên nền cát ướt, máy đã đặt sát vào mắt như một người đi săn chỉ rình ít phút nữa con thú sẽ tuông ra khỏi cánh rừng, tôi chờ cái lúc năm sáu chiếc lưới vó cùng một lúc từ từ dâng lên.

    Tôi bấm máy lia lịa. Qua khuôn hình ánh sáng, tôi đã hình dung thấy trước những tấm ảnh nghệ thuật của tôi sẽ là vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh đan chéo của những tấm lưới đọng đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hòa tấu ánh sáng và bóng tối, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng rực rỡ đến mức chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa những đường nét của thân hình một người đàn bà đang cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo tấm lưới lên khỏi mặt nước, và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ và một đứa trẻ đứng thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng hai chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên trời.

    Nói chung tôi đã tìm được một bố cục chặt chẽ, và tôi lại có tính duy tâm nghề nghiệp, tôi lại còn tin vào cái ngẫu nhiên đầy "số đỏ" của tôi nữa. Tôi nghĩ rằng với những tay nhiếp ảnh nghệ thuật, nếu không có thêm sự sắp đặt đầy tài tình của ngẫu nhiên thì với tài ba đến bao nhiêu, anh cũng chỉ... thu được những tấm ảnh vô hồn.

    Cũng như lúc tụ lại, cái đội hình của sự làm ăn trôi nổi trên mặt nước tản ra rất nhanh. Đây là mẻ lưới cuối cùng. Trong nháy mắt, trước mặt tôi chỉ còn một khoảng phá nước trống không.

    Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào. Lại lác đác mấy hạt mưa. Tôi rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa, đang lúi húi thay phim lúc ngẩng lên thấy một chuyện hơi lạ: một chiếc thuyền lưới vó mà tôi đoán là trong nhóm đánh cá ban nãy đang chèo thẳng vào trước mặt tôi.

    Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh "đắt" trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong gần tâm hồn.

    Chẳng phải lựa chọn xê dịch gì nữa, tôi gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm "liên thanh" một hồi hết một phần tư cuốn phim, thu vào chiếc Pratica cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại.

    Tôi chắc mẩm ngay trong ngày hôm nay hoặc sáng mai đã có thể nhẩy lên tàu hỏa trở về, nếu cái anh bạn đồng ngũ không cố níu giữ ở lại chơi thêm vài bữa.

    °

    *

    Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải lội qua một quãng bờ phá nước ngập đến quá đầu gối. Bất giác tôi nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền như quát: "Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ".

    Chắc chắn họ không trông thấy tôi. Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà.

    Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.

    Lão đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: "Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!".

    Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy.

    Tất cả mọi việc xẩy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.

    Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác - thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông.

    Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này tôi biết là nó khỏe đến thế!

    Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền giang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền. Không hề quay mặt nhìn lại, chỉ có tảng lưng khum khum và vạm vỡ càng có vẻ cúi thấp hơn, nom lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống, hai bàn chân chữ bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng.

    Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn - vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã.

    - Phác, con ơi!

    Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những giòng nước mắt, nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt.

    Thế rồi bất ngờ người đàn bà buông đứa trẻ ra, đi thật nhanh ra khỏi bãi cát xe tăng hỏng, đuổi theo lão đàn ông. Cả hai người lại trở về chiếc thuyền.

    Khoảnh khắc sau, bãi cát lại trở về với vẻ mênh mông và hoang sơ. Giữa tiếng sóng ngoài khơi dội những tiếng kêu ồ ồ vào cõi im lặng, chỉ có tôi và thằng bé đứng trơ giữa bãi xe tăng hỏng, trên tay thằng nhỏ vẫn cầm chiếc thắt lưng, hai chúng tôi đưa mắt ngơ ngác nhìn ra một quãng bờ phá vừa ban nãy chiếc thuyền đậu.

    Như trong câu chuyện cổ đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất.

    *

    Tôi bước về phía nó. Nhưng thằng bé không cho tôi lại gần. Tự nhiên thằng nhỏ vô cớ đâm ra thù ghét cả tôi - hết sức thù ghét, nhìn vào hai con mắt của nó, tôi đọc thấy được điều đó.

    Mà tại sao từ trước tới giờ tôi không để ý nhỉ, lần đầu tiên tôi sực nhận thấy nó chính là một thằng bé vùng biển. Những món tóc vàng hoe có chỗ đỏ quạch như mớ lưới tơ đã bợt bạt đang tỏa ra mùi nước mặn che lấp gần hết khuôn trán nhỏ và cặp mắt đầy vẻ ngây thơ, lúc này chả khác nào cặp mắt của một chú hổ con từ miền rừng vừa lạc về.

    Mấy ngày sau thằng Phác đối xử với tôi như một kẻ hoàn toàn xa lạ, như chưa bao giờ trò chuyện, ngủ chung với tôi. Mỗi lúc bắt gặp tôi khoác chiếc máy ảnh đi trên bãi cát, nó vẫn nhìn tôi bằng con mắt âm thầm giấu kín đầy một sự thù ghét - và tôi hiểu rằng tất cả lỗi lầm của tôi chính là ở chỗ tôi đã trót có dịp biết được tất cả mọi việc trong nhà nó, cái thằng trẻ con lạ kỳ nhất trần đời.

    Tôi đang tìm cách dỗ dành để gần nó, lại bắt đầu làm quen trở lại với nó một lần nữa, cái chú chó sói con ấy, thì đến là quá quắt, thằng bé thông minh và dễ thương đã hoàn toàn biến thành một đứa trẻ độc ác và mất dậy, nó hét lên trước mặt tôi bằng giọng the thé đầy giận dữ: "Hãy cút đi! Cút đi!". Chính lúc ấy là lúc chiếc thuyền vó bè lại hiện ra trong làn sương sớm của một buổi mai, sau lần trước ba hôm.

    Tất cả diễn ra y như lần trước. Chiếc thuyền đâm vào đúng quãng bờ phá ngày hôm trước - từ đó đi bộ vào bãi xe tăng hỏng rất gần.

    Và vẫn như lần trước, người đàn bà lội xuống trước với cái khuôn mặt cúi gằm xuống, và những bước chân thoăn thoắt đi lên bãi cát. Nhưng khi lão đàn ông vừa rời thuyền để đuổi theo người đàn bà thì trong lúc ấy, ngay sau lưng lão, một đứa con gái cũng tượt xuống ở đằng lái, bơi vào.

    Đứa con gái trạc 14, 15 tuổi. Đấy là trông vóc người và mái tóc xõa ngang vai - chứ cũng có thể con gái vùng biển ở cái vóc dạng ấy, chỉ mới 12, 13. Nó mềm mại và nhanh như một con vượn đen tuyền trong bộ quần áo đen ướt rượt bó sát vào mình. Trên đôi cẳng rám nắng, con bé chạy như bay về phía chỗ thằng Phác đứng.

    Ngay từ đầu thằng bé hình như muốn tránh giáp mặt đứa con gái nhưng không thoát, thực sự là đứa con gái lớn hơn và có vẻ rất khỏe.

    Hai đứa trẻ vật nhau. Có một lúc thằng Phác vùng ra được khỏi đứa con gái, định bỏ chạy, nhưng chỉ sau vài sải chân rượt sát ngay sau lưng, đứa con gái đã nhanh nhẹ giơ tay túm được vạt áo thằng Phác, lôi giật lại.

    Đứa con gái - mà tôi đoán là con chị - đã đè ngửa thằng bé ra giữa bãi cát và đến bây giờ thì tôi mới hiểu, đứa con gái đã rút ra được từ trong cạp quần đùi của thằng bé một vật sáng loáng. Trời ơi, đó là một con dao găm.

    *

    Đẩu, anh bạn chiến đấu cũ lái Hon-đa đến đón tôi ở một trạm xá xã. Những người thợ xưởng đóng thuyền đã dìu tôi từ bãi tăng về đấy chưa đầy một ngày.

    Lão chồng - cái lão đàn ông độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian ấy đánh tôi hoàn toàn vì mục đích tự vệ. Tôi nện hắn cũng đã khiếp. Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh.

    Đẩu đưa tôi về cơ quan của anh. Cô y tá của cơ quan tòa án huyện, một cô gái chưa chồng, đã luống tuổi và béo phục phịch nhận lệnh của thủ trưởng Đẩu mang túi thuốc tới.

    Dưới mắt cô y tá, mấy vết thương xoàng trên trán tôi chả khác nào những vầng hào quang của một người anh hùng. Vừa băng lại các vết thương cho tôi cô vừa kể lể bằng tất cả giọng phẫn nộ thói tàn nhẫn của dân đàn ông đánh cá trong vùng địa phương này - do phong tục để lại.

    - Hãm bớt ngọn lửa căm thù xuống bà chị ạ, dù sao thì đàn ông cũng cần, đôi khi rất cần - dù là chánh án của tòa án huyện, Đẩu vẫn không chịu bỏ cái thói hay bông phèng.

    - Thà tôi chết già, các anh đừng tưởng, thà tôi làm gái già suốt đời! - Cô y tá luống tuổi cứ chĩa mũi kéo đang kẹp một dúm bông đã tẩm cồn vào giữa mặt Đẩu. Anh chỉ nhe răng cười. Vừa tha được tôi về đến nơi là Đẩu đã chúi mũi vào giữa hàng núi hồ sơ. Những vụ kiện tụng. Những vụ án hình sự lặt vặt cũng có, những vụ nghiêm trọng cũng có.

    Vài ngày sau, những vết thương của tôi đã lên da non. Ngồi soát lại tất cả những cuốn phim đã chụp, dù sao thì tôi cũng đã thấy yên tâm về công việc. Tôi tin là nếu chiếc Pratica trung thành với tôi thì phen này tôi có thể đánh ngã bất kỳ một bức ảnh mô tả phong cảnh biển nên thơ nào từ trước.

    Tôi ngỏ ý với Đẩu muốn trở lại cái xưởng đóng thuyền nằm ngủ giữa trời với thằng bé một tối, trước khi trở về Hà Nội. Nhưng Đẩu bảo tôi nán lại với anh thêm vài ngày.

    Vào một buổi sáng có một chiếc mảng chở hai người đàn bà ghé vào bến tòa án.

    Tôi thầm cảm ơn Đẩu đã giữ mình ở nán lại. Nếu thiếu nữ không đi theo mẹ đến tòa án - người đàn bà mặt rỗ hai lần tôi giáp mặt trong bãi xe tăng hỏng - thì chắc chắn tôi không thể nhận ra đó chính là đứa con gái ướt sũng từ đầu đến chân, đã vật nhau với thằng Phác để tước lấy con dao găm.

    Thiếu nữ mảnh dẻ trong tấm áo cánh mầu tím nhạt. Lại một cặp mắt như cặp mắt của đứa trẻ lên năm mà tôi đã chọn để cầm vứt một nắm phoi bào ra giữa ngọn sóng bạc đầu - một cặp mắt đen của chiếc thuyền mới đóng. Tuy chẳng hiểu chút gì về nghệ thuật điện ảnh, nhưng bất giác tôi cứ nghĩ giá sau này cần một vai như kiểu nàng tiên cá thì nhất thiết phải chọn người thiếu nữ này. Tôi tự hỏi chẳng lẽ cái nhan sắc đang độ trẻ con như đúc từ trời biển trong suốt, nên thơ này lại được tách ra từ da thịt của một người đàn bà hàng chài xấu xí và đau khổ?

    Người đàn bà dặn con gái hãy ở lại dưới thuyền rồi với dáng đi mệt mỏi, chậm chạp như một bà già, trèo lên những bậc đá xếp từ bờ phá lên một con đường nhựa đã long lở, hai bên đường phơi đầy lưới chài, của phố huyện vùng biển.

    Người đàn bà vẫn mặc chiếc áo mầu bạc phếch vì nước mặn, một miếng vá bằng vải xanh bằng bàn tay trên vai, những nốt rỗ trên mặt có vẻ thưa ra, đứng trong phòng làm việc của Đẩu, tôi nhận ra ngay mụ. Hôm nay người đàn bà rời chiếc thuyền vó bè "đổ bộ" lên tận đây theo giấy triệu tập của tòa án huyện.

    Đây là lần thứ hai, người đàn bà được Đẩu mời đến về công việc gia đình.

    Cũng không phải là lần đầu đến một nơi công sở nhưng người đàn bà vẫn có vẻ sợ sệt, lúng túng - cái vẻ lúng túng, sợ sệt mà ngay lúc mụ đứng giữa bãi xe tăng cũng không hề thấy có.

    Người đàn bà chỉ quen sống giữa mặt nước vừa đặt chân vào trong phòng đầy bàn ghế và giấy má liền tìm đến một góc tường để ngồi.

    Ngồi sau một chiếc bàn lớn, Đẩu nhổm dậy chỉ chiếc ghế mây trước mặt, cố làm ra vẻ thân mật;

    - Chị ngồi lên đây, sao lại thế, hãy ngồi lên chiếc ghế này...

    Đẩu phải nói đến lượt thứ hai, mụ mới dám rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại.

    Đẩu hỏi:

    - Thế nào, chị đã nghĩ kỹ chưa?

    Người đàn bà ngước lên nhìn Đẩu, rồi lại cúi mặt xuống.

    - Thưa đã...

    Đẩu gật đầu. Anh đứng dậy. Tự nhiên anh rời chiếc bàn đến đứng vịn vào lưng ghế người đàn bà ngồi giọng trở nên đầy giận dữ, khác hẳn với giọng một vị chánh án:

    - Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu. Chị nghĩ thế nào?

    Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay vái lia lịa:

    - Con lạy quí tòa...

    - Sao, sao?

    - Quí tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...

    Lúc bấy giờ tôi đang ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa ngăn chỗ làm việc bên ngoài và phòng ngủ bên trong của Đẩu. Sau câu nói của người đàn bà, tôi cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá. Tôi vén lá màn bước ra.

    Người đàn bà nhận ra được tôi ngay. Mụ nhấp nhổm xoay quanh chiếc ghế như bị kiến đốt, và về sau tôi mới sực nghĩ ra, mụ nghĩ rằng tòa án đã bố trí sẵn tôi ngồi phía sau để chuẩn bị làm nhân chứng.

    - Chị cứ ngồi nguyên đấy! - Đẩu nói và với vẻ đầy hào hứng của một con người bảo vệ công lý vừa có thêm người đến tiếp viện, anh chạy sang phòng bên xách một chiếc ghế cho tôi. Bấy giờ dưới con mắt của người đàn bà hàng chài, vị chánh án không phải là Đẩu đã trở về ngồi sau chiếc bàn lớn mà là tôi, với mấy vết thương đã lên da non nhưng vẫn để dấu vết trên mặt.

    - Tùy bà! - Đẩu thay đổi cách xưng hô, khoác lên mình cái cung cách bề ngoài của một vị chánh án - chủ trương nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hòa thuận...

    Đang ngồi cúi xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào chúng tôi, lần lượt từng người một, với một vẻ ban đầu ngơ ngác.

    - Chị cám ơn các chú! - Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một giọng khẩn thiết - Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...

    Chỉ mấy lời mào đầu ấy, người đàn bà đã mất hết cái vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt. Điệu bộ khác, ngôn ngữ khác.

    Cũng phải nói thật, những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khốn khổ, không phải dễ nghe đối với chúng tôi. Dầu mặt hãy còn trẻ, Đẩu cũng là một chánh án huyện. Còn tôi, một người đáng lẽ mụ phải biết ơn...

    Nhưng người đàn bà để lộ ra cái vẻ sắc sảo chỉ đến thế, chỉ vừa đủ để kích thích trí tò mò của chúng tôi. Mụ đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá bên kia con đường chính của phố huyện ở đấy, thiếu nữ mặc áo tím vẫn ngồi đợi mụ trên chiếc mủng.

    Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại vẫn là một người đàn bà lúng túng, đầy sợ sệt, nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. Mụ bắt đầu kể:

    - Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ nhà tôi còn khá giả, nhà tôi trước ở trong cái phố này. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả (1) về đan lưới. Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi.

    Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:

    - Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc (2), ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối... cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính - bỗng mụ đỏ mặt - nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.

    - Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.

    - Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!

    - ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? - Tôi hỏi.

    - Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu... Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ... Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão... đưa tôi lên bờ mà đánh...

    - Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! - Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.

    - Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông...

    - Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, - trên thuyền phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo?

    - Phải - Người đàn bà đáp - Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?

    Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:

    - Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười - vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.

    - Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? Đột nhiên tôi hỏi.

    - Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...

    Viên chánh án huyện rời chiếc bàn xếp đến phát ngốt lên những chồng hồ sơ, giấy má. Đẩu đi đi lại lại trong phòng, hai tay thọc sâu vào hai bên túi chiếc quần quân phục đã cũ. Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ.

    Người đàn bà đã khóc khi nghe tôi nhắc đến thằng Phác. Nhưng tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu cái lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài. Trong cái đám con cái đông đúc đang sống ở dưới thuyền, mụ không yêu một đứa nào bằng thằng Phác, cái thằng con từ tính khí đến mặt mũi giống như lột ra từ cái lão đàn ông đã từng hành hạ mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ mụ cho đến khi chết - nếu không có cách mạng về.

    Mụ cho chúng tôi biết, vì sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó, mụ đã phải gửi nó lên rừng nhờ bố mình nuôi đã nửa năm nay. ở với ông ngoại, thằng bé sướng hơn ở trên thuyền với bố mẹ. Nhưng hễ rời ra là nó trốn về. Thằng bé tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh.

    Chiều hôm ấy trong khi Đẩu gặp lão đàn ông để giáo dục răn dạy lão thì tôi trở lại xưởng đóng thuyền. Vắng thằng Phác, dù sao cái bãi cát cũng như cả vùng phá nước trở nên trống trải thế nào ấy. Đêm, những đàn chim di cư vẫn vỗ cánh trong sương, bay qua vùng phá. Tôi khoác chiếc máy ảnh đi lang thang cho đến tận khuya, đã mỏi cả chân, tôi đến ngồi bên một ngọn lửa. Nhím phoi bào bắt cháy sang mấy cái đầu mẩu gỗ cưa ra từ các lẻ ván của một chiếc thuyền mới vớt lên được, sau vụ đắm thuyền trong vụ bắc năm ngoái.

    Gần sáng trời trở gió đột ngột, từng tảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm, và biển bắt đầu gào thét, sóng bạc đầu ngoài cửa lạch nổi cồn lên cao như những ngọn núi tuyết trắng.

    Trong phá, các thứ tầu thuyền đều tìm vào bờ để trú, duy ở giữa phá chẳng hiểu vì sao vẫn còn thấy một chiếc thuyền vó bè đang đậu.

    Gió rú ào ào chung quanh chiếc xe Reo vừa mới ở trên rừng xuống, chưa giỡ gỗ xuống hết. Cái ông lão đã ngoài sáu mươi mà vẫn còn theo đuổi nghề sơn tràng đang ngồi bên bếp lửa giữa trời, vẫn đặt hai con mắt đầy vẻ lo lắng ra ngoài mặt phá, nơi có chiếc thuyền.

    Cái bếp lửa cũng bị gió ném tung ra khắp bãi cát, những tàn lửa đỏ rực bay quẩn lên chung quanh chỗ tôi và ông lão ngồi. Tôi xem lại xoong cơm đã sống nhăn hộ ông lão, đoạn gào lên:

    - Chiều gió này không khéo bão cấp 11 rồi?

    - ừ, ừ...! - Ông lão lẩm bẩm, vẫn không rời mắt khỏi chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá.

    *

    Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.

    Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.

    8-1983
     
  12. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Nhà trọ

    Nguyễn Thị Châu Giang


    Không khí đặc quánh. Trời phồng giộp lên rồi vỡ ra vài gịot nước bám bụi đen sì chảy chậm chạp trên thành lan can bằng gỗ mốc xỉn. Mọi ngừơi đâm bổ ra đường, cố hít vào ngực một thứ sền sệt để giảm bớt sự ngột ngạt. Nhưng vô hiệu. Trời vẫn bỏng giộp và cây cối héo rũ.
    Ba tôi từ công sở về, mặt mày hốc hác. Ông ngồi dựa lưng vào cánh cửa, đầu gục xuống. Mẹ mom men lại gần giọng sợ hãi: "Có chuyện gì thế?". "Giảm biên chế". Mẹ ngơ ngác: "Sao bảo chỉ còn vài năm nữa ông nghỉ hưu". Ba ngẩng lên thểu não: "Thế nó mới đểu. Thằng Hiền bảo công ty làm ăn thua lỗ vì cơ cấu tổ chức nhân sự. Phải thay đổi. Ba ứa nước mắt. Mình tung hê nó lên. Bây giờ rõ thằng ăn cháo đá bát. Tôi giật mình. Chỉ mới một ngày, mặt ba già sọm. Những nếp nhăn chảy ngoằn ngoèo. Không phương hướng trên mặt, ba đã già rồi, và đôi khi lầm lẫn nữa. Tôi bảo "Con thấy ba nghỉ được rồi. Thời buổi này bọn trẻ nhanh chân lẹ mắt lên nắm quyền mới được". "Nhưng tao nhiều kinh nghiệm". Ba nhấm nhẳn. Tôi cười: "Kinh nghiệm nhưng vi tính, tiếng Anh, giao thiệp không có, ba cạnh tranh nổi với ai". Ba nổi cáu: "Mày thì biết gì?". Những mạch máu chạy trên trán ông căng ra như sắp đứt. Mẹ suỵt khẽ "Thì con nó cũng chỉ muốn ông nghỉ ngơi". "Nghỉ ngơi gì". Ba thở dài- Biết lấy gì sống đây? Đang đi đường bằng tự nhiên bước hụt xuống hố. Bà bảo không đau sao được". Và ông nặng nề đứng dậy, bỏ vào nhà.
    Chị Nhân bày cơm ra bàn, hỏi khẽ: "Cãi nhau à?" "Không. Ba nghỉ làm rồi". Chị Nhân để nghiêng tô canh, nước trào ra bàn. Tôi cười: "Bình tĩnh. Chứ kiểu này về làm dâu là tiêu rồi". Chị ngỏn nghẻn cười: "Em thấy anh Hiền thế nào?", "Ai?- Tôi trố mắt- lão Hiền vừa cho ba nghỉ việc đấy". Mặt chị Nhân tái xanh. Hai mắt thất thần nhìn ra ngoài cửa sổ vần vũ mây mà không sao mưa nổi. "Làm sao bây giờ". "Thì cứ yêu đã- Tôi nháy mắt- Đợi ba nguôi tính sau!". Và tôi cố sửa lại vẻ mặt nghiêm túc, ảm đạm.
    Bữa cơm trôi qua nhạt thếch. Chị Nhân không nuốt nổi cơm, cứ len lén nhìn ba mẹ. Tôi đá chân chị: "Chị Nhân ơi, ăn nhanh lên đi chơi". Ba ra lệnh: "Mai hai chị em lên gác. Tầng dưới cho thuê bớt mới đủ sống". Tôi nhăn nhó:
    "Nhưng nhà chật lắm" và hì hụi dắt xe máy chạy ra đường. Những cơn gió hiếm hoi thổi thốc vào mặt làm tôi quên hết mọi chuyện.
    Hai chị em chuyển lên gác. Căn phòng bé xíu, ẩm mốc và ngột ngạt. Phía bên trái có cánh cửa sổ phủ cây và trông sang một mái tôn đầy phân mèo. Buổi tối gió hiu hiu thổi, một thứ mùi lờm lợm bốc lên không sao chịu được. Lâu lắm nó mới được mở ra, sau khi xịt nước hao đầy phong.
    Nhà dưới ba mẹ ngăn làm đôi. Đằng trước vừa làm phòng khách vừa làm phòng ngủ của ông bà và một cái bếp bé tý hin. Phía sau còn hai phòng nhỏ kê một cái giường và một cái bàn cũ kỹ bằng gỗ, một cánh cửa cũng bằng gỗ thông ra con hẻm khác. Tất cả cùng sử dụng chung một công trình phụ đặt dưới chân cầu thang. Ban đầu mẹ định lắp máy lạnh cho người nước ngoài thuê nhưng tính đi tính lại thế nào mẹ bảo ba để thế cũng hời. Ba ừ hữ, bỏ mặc mọi chuyện cho mẹ. Ba lãnh đạo và lẩn thẩn với tất cả.
    Người đầu tiên đến thuê là một phụ nữ còn trẻ dẫn theo hai đứa bé giống nhau như đúc. Cô không đẹp như có duyên. Cái duyên ngầm càng nhìn lâu càng đắm đuối, hợp vai trò của cô thư ký phải luôn cặp bồ với những ông chủ cỡ bự. Cô xách theo linh tinh đồ đạc, bày đầy góc nhà và nhìn tôi cười: "Cháu xem cô còn trẻ thế này mà bận bịu quá". Tôi lơ láo nhìn lên trần nhà bám muội than đen sì: "Thế chú ấy đâu". Cô ngẩn ngơ không trả lời. Tôi lí nhí.
    "Cháu không biết nên mới hỏi", chỉ muốn chui xuống kẽ đất! Vừa may chị Nhân chạy sang dặn: "Ba mẹ đi chơi. Sáu giờ rồi, chị cũng phải đi đây".
    Hôm nay chị Nhân rất đẹp. Chị diện váy trắng, tóc xoã loăn xoăn kiểu cách trên khuôn mặt buồn dịu. Tôi ghẹo: "Đi chơi với anh Hiền à? Không sợ ba mẹ biết à". Chị im lặng cắm cúi bước đi. Cô Diệu lắc đầu bảo: "Chị cháu khổ vì tình, luỵ vì tình. Đàn bà như thế không sướng được. Nhất là tâm". "Thế còn cháu?". Cô nắm chặt tay tôi, mắt ánh lên những tia ma quái: "Cháu thì khác. Cháu mạnh mẽ hơn chị Nhân nhiều". Cô thở dài "Mà con gái thế nào thì cũng khổ".
    Hai đứa bé con đã lăn ra ngủ vùi. Tôi khen: "Hai đứa chắc giống bố". Cô bỏ nốt túi xách vào gậm bàn" "ừ, mỗi người một nét", giọng lạnh tanh. Tôi đi về nhà thấy nhà vắng vẻ và buồn như nhà trọ không người thuệ Tôi mở cửa. Lại một mùi chua lòm bốc lên hầm hập.
    Mẹ đẩy cửa vào, hai bàn tay nổi đầy gân xanh miết chặt vào nhau. Mẹ nhìn t ấm ảnh của cô gái treo đầu giường vẻ khó chịu nhưng rút cục không phê phán như mọi hôm mà chỉ hỏi giọng lo lắng: "Con có hay nói chuyện với chị không? Ba con giờ giở tính, mẹ không lo lắng gì cho hai con cả... lại còn chuyện buôn bán". Tôi cười: "Tụi con lớn rồi mẹ à". Trong bụng nghĩ thầm, mẹ lúc nào cũng thế, có lo lắng gì đâu ngoài chuyện phiền trách chúng con. "Dạo này chị mày hay về muộn thế". Mẹ mơ màng- "Hồi xưa đi chơi chín giờ về mẹ đã bị bà ngoại rầy. Bây giờ tự do quá dễ hư". "Cũng còn tuỳ- Tôi giúi đầu vào ngực mẹ. Mẹ đâu phải là bà ngoại. Mà tụi con là con gái ngoan". Mẹ gật đầu: "ừ mẹ mong thế. Con giá xảy chân ra đường bao nhiêu là cạm bẫy". Mẹ xuống nhà. Căn phòng yên trở lại. Chiếc quạt máy chạy lè xè như đuổi ruồi. Một con mèo đi lang thang trên mái tôn kêu gào thảm thiết.
    Chị Nhân về, mồ hôi ướt đẫm. Chị bảo "Mệt quá" và đổ vật xuống giường. Mắt mũi khép lờ đờ. Tự nhiên tôi thấy chị giống như một con mèo hoang. Con mèo hoang trắng muốt. Chị hé mắt: "Em ngủ khuya thế?" "Em đợi chị". "Lần sau cứ ngủ trước đi. Chị đi cổng nhà chị Diệu, ba mẹ không biết đâu" "Mẹ vừa ở đây. Mẹ đang lọ Tôi cười. Thế nào nhỉ? Con gái ra đường xảy chân bao nhiêu cạm bẫy". Chị nghiêm nét mặt vẻ bồn chồn dữ. Rồi quay mặt vào tường "ngủ đi", vẻ đầy bí ẩn. Đôi vai gầy nẩy lên một cái. Tôi hỏi: "Có chuyện gì thế?". "Yêu đương. Mày con nít không biết đâu", "Chị lầm rồi. Con nít bây giờ tinh lắm. Chuyện gì cũng giỏi cả". "Vậy à. Chị vật vã... Chữ trinh có đáng ngàn vàng không?" "Có chứ". Tôi quả quyết quay sang đã thấy chị ngủ mất, hơi thở thật bình yên.
    Bạn trai của cô Diệu rất nhiều. Nhưng tuyệt nhiên không thấy bố của hai đứa bé. Gặng hỏi cô cũng chỉ bảo đang làm ăn ở xạ Cô với hai đứa bé sống phần nhiều là nhờ vào những ngừơi bạn tốt bụng. Nhiều hôm cô đi khuya mới về, tôi lại sang trông con cho cộ Hai đứa bé như hai con búp bê nhưng ngớ ngẩn. Chúng không biết nói, biết cười. Cô bảo:"Cô sống đến giờ là vì hai đứa. Chứ đời cô bầm giập, chẳng còn tương lai". Tôi vuốt mái tóc óng mượt của cô: "Sao lại không?Cháu thấy cô như thế này bao nhiêu bạn bè là hạnh phúc". Cô cười lúc lắc mình không nói, mặt bỗng dưng hóp lại như mặt bà già.
    Khoảng tháng sau, cô Diệu bàn với mẹ tôi để nhà cho thêm một người khách thuệ Cô ở ngoài người đó ở trong. Đó là một người đàn ông cứng tuổi- một hoa. sĩ nghiệp dự Ông ta mang theo các loại khung và giá vẽ, những bức tranh ngoằng nguỵt, khó hiểu, bốn chiếc lọ gốm xanh đậy kín nắp và một con mèo mun ăn nhiều nhưng gầy gò giơ xương.
    Tôi dẫn hai đứa bé vào phòng ông, lặng yên xem ông vẽ. Ông hỏi: "Mẹ chúng nó đâu". "Đi làm rồi ạ". Ông gật gù: "Một người đàn bà tốt". "Cháu cũng nghĩ thế". Tôi ru hai đứa ngủ. Ngồi hết giờ này đến giờ khác xem ông phết lên toile những mảnh màu đỏ ối hoặc tăm tối mà sau cùng được chú thích bằng một dòng chữ nhỏ. "Ký ức chiến tranh" nghiên ngả như những bóng người lội dưới bom. Cho đến khi chị Nhân về, mẹ của bọn trả về tôi mới lồm cồm bỏ lên lầu.
    Chị Nhân vẫn chơi với anh Hiền, dù đôi khi lương tâm cắn rứt, hạnh phúc lung lay khổ sở. Tôi nhắc khéo: "Coi chừng ba mẹ biết". Chị bĩu môi: "Ba mẹ vô tư lắm, không biết đâu". Chị treo áo vào tủ: "Sau này có con chị sẽ quan tâm đến nó, nhưng theo cách khác" "Là sao?" Chị nhún vai bất cần và lơ mơ ngủ mất .Tôi nằm mãi mà không ngủ được. Không hiểu sao giờ này mẹ con cô Diệu đã ngủ chưa. Ông hoa. sĩ đáng mến đang làm gì bên bốn chiếc lọ màu ngọc bích đậy kín bưng. Họ đang làm gì khi đêm chậm rãi trôi qua.
    Cơm dọn ra mà không ai ăn nổi. Hôm nay ba mẹ từ nhà dì về, mặt mày hớt hải. Vừa bước vào nhà ba đã hỏi chị Nhân về chưa. Tôi lắc đầu: "Chị Nhân chiều nay đi ăn cơm với bạn bè". Ông nghiến răng: "với thằng Hiền phải không?". Tôi hốt hoảng: "Con không biết". "Thế mà tao biết. Hai đứa chúng nó đi trước mắt tao tình tứ lắm". Mẹ rụt rè: "Thì khoan đã. Ông cứ nhặng xị cả lên con nó sợ". Ba vò đầu bứt tóc: "Lửa cháy đến nơi mà còn bảo khoan. Làm sao tôi khoan được".
    Khoảng mười giờ chị Nhân về, hát nho nhỏ từ cổng. Mẹ nhắc khéo: "Vui vẻ nhỉ. Sao không đi hết đêm đi". Chị ngơ ngác. Tôi thò tay kéo áo chị. "Lộ rồi!". Ba gầm ghì: "Mày bỏ nó đi. Cái thằng áy không đáng xách dép cho mày. Nó hại đời cha mày chưa đủ, định để hại cả mày luôn à". Chị nức nở: "Nhưng anh ấy đàng hoàng, yêu con thật lòng. Chuyện của ba anh ấy bảo vì công ty không cần công việc đó nữa. Mà ba cũng đã già". "Nó nói láo. Nó bị tao cản trở việc làm ăn phi pháp của nó- ba xuống giọng- Thôi con ạ, nghe ba còn bao nhiêu đám khác". Tôi can: "Ba ơi, chuyện tình yêu khó nói, khó dứt lắm". Trong bụng hoang mang không biết nên bênh chị Nhân không. Anh chị cũng tội nhưng đứng về phía ba có thằng con rể từng hất cẳng như thế cũng kỳ. Mà trong sách báo không có trường hợp nào như vậy cả. Tôi dáo dác. Chị Nhân nhìn tôi biết ơn. Ba hầm hè: "Nhưng tao cấm. Mày đừng có mang voi về giày xéo nhà này".Chị Nhân khóc, gào to: "Nhưng con và anh ấy yêu nhau, ba không có quyền" "Tao có quyền là ba mày". Ba ôm ngực ho sù sụ, mặt tái nhợt. Mẹ hốt hoảng: "Đưa ba vào giường mau". Ba uống mấy viên thuốc an thần, vật vã một lúc mới ngủ được. Tôi nghe mẹ thì thầm và giọng chị Nhân nghẹt cứng. "Ba mẹ cứ yên tâm" và tiếng hít mũi đánh roẹt.
    Tôi bỏ sang nhà ông hoa. sĩ, nằm lên chiếc đi văng bọc nhung đỏ, nước mắt chảy ướt đẫm gối. Ông hỏi: "Sao thế cháu?"."Chuyện tình yêu. Người ta hay khổ vì chuyện tình yêu". Tôi cảm thấy khó thở khi kể mọi chuyện cho ông nghe. Ông sẽ vuốt tóc tôi: "Ngốc quá. Chưa có gì là nghiêm trọng cả cô bé ạ" Tôi nhổm dậy "Thế khi nào mới là nghiêm trọng?" "Khi khôn còn ai ở bên mình nữa. Lo lắng cho mình nữa". Mặt ông cau lại. Một giọt nước to tướng chạy xuống má ông. Tôi rụt rè: "Chú khóc à?" "Lại đây tôi cho cô xem". Ông chỉ chiếc bình gốm đặt trên cao: "Gia đình của tôi đấy. Họ chết vì bom Mỹ. Từ lâu rồi, một người vợ và ba đứa con.Tôi tưởng là không sống nổi nhưng cô thấy đấy, tôi vẫn đang ngồi cạnh cô đây, đang cầm tay cô đây. Cái gì rồi cũng qua hết. Cô Nhân cô ấy vẫn còn hạnh phúc". Ngừng một lát, ông thì thầm: "Tôi yêu họ", "Sao chú không thờ?" "ở đây- Ông đưa tay lên ngực- Lúc nào cũng ở đây thì cần gì phải thờ". Tôi bối rối. "Cháu xin lỗi vì đã nhắc đén chuyện buồn của chú". "Không đã thành sẹo rồi. Mà tôi cũng muốn cô biết. Cô thật đáng yêu". Ông đưa tay kéo con mèo gầy lại gần và dịu dàng vuốt cổ nó. Tôi thấy khung cảnh này thật quen thuộc, đáng yêu. Bên cạnh ông tôi cảm thấy mình hạnh phúc và yên lành. Tôi khoan khoái duỗi người, đoán chắc chị Nhân sẽ không bỏ anh Hiền được. Tôi mỉm cười với ông: "Nếu chú cô đơn chú cứ nói chuyện với cháu. Nhé! ông gật đầu và cũng cười. Nụ cười làm mặt ông sáng lên rạng rỡ.
    Vân tới chơi mang theo mưa đầu mùa ướt rượt. Từ ngày vào Đại học, hai đứa ít gặp nhau hẳn. Bạn bè, bài vở. Kỷ niệm cũng ít khi giở ra ngăm ngias.
    Chúng tôi leo lên gác. Căn phòng tối mù, thoảng mùi mưa vọng qua ô cửa.
    Vân hỏi: "Đã yêu chưa?" Tôi ngập ngừng: "Chắc là đã". Vân rú lên: "Người thế nào?" "Tuyệt lắm". "Già hay trẻ?". "Già" "Làm gì". "Hưu rồi". "Có giàu không?". "Không. Nếu không nói là rất nghèo". Vân ngạc nhiên "Con điên. Vậy mà cũng yêu". "Thì sao? Tao thấy hợp". Tôi ngồi thần mặt, phân vân không biết có thật hợp không. Hay chỉ là ảo tưởng. Mà như thế buồn lắm. Bỗng nhiên chỉ muốn chạy xuống căn phòng cso cái chụp đèn màu hồng, con mèo mun gầy gò và bên giá vẽ, một người đàn ông hiền lành. Mái tóc thưa và mỏng ép sát vào da đầu. Hai túi thịt ở mắt kéo xuống làm mặt ông đầy vẻ đau khổ và từng trải. Tôi yêu vẻ từng trải ấy, sự dịu dàng ấy từ những ngón tay thô của ông. Những thứ mà tụi con trai bây giờ không có, chỉ hời hợt và nhạt phèo. Mà ông thì có tất cả. Tôi yêu ông ấy vì tất cả.
    Váy áo của chị Nhân ướt sũng, dính vào da thịt. Tôi bảo: "Đi chơi với bồ mà tênh hênh thế kia. Mỗi lần như thế chị nên mặc váy đen thì hơn" "Không. Chị rơm rớm nước mắt. Chữ trinh đáng giá nghìn vàng". Tôi sững người, cổ họng đau buốt: "Sao chị vội vàng thế?"
    Đêm ấy hai chị em không ngủ. Mưa tạnh từ lâu. Những con mèo lại đi tuần hành trên mái nhà gọi nhạ thắm thiết. Cả hai cùng thức nhưng không thể nói với nhau một tiếng nào. Mắt tôi bỏng rát, tôi đi xuống nhà.Căn phòng của ông vẫn còn sáng đèn. Tôi đến vừa lúc ông đang nấu mì. Tôi nhìn ông rồi nói: "Để cháu nấu cho". Ông ngượng nghịu. "Tôi vừa lên cơn sốt. Cảm xoàng thôi nhưng mệt". Ông nằm xuống hơi thở khò khè. "Chiến tranh không chấm dứt được". "Thôi đừng nghĩ nữa. Chú ngủ một chút đi". Tôi cầm tay ông cho đến khi ông tiếp đi. Một cái gì nhồn nhột sau gáy. Tôi quay lại. Những hình đàn bà và trẻ con lơ đãng nhìn tôi. Nhưng miệng cười và ánh mắt lạnh buốt. Họ đang đến từ quá khứ đầy seo. của ông và ở căn phòng này vĩnh viễn. Họ muốn tôi đi. Họ không muốn có tôi ở đây. Cái con bé của hiện tại và tương lai nhộn nhịp, bon chen.
    Cô Diệu gửi hai đứa về quệ Cô cũng đi đâu đó. Hai ba ngày mới về một lần. Căn phòng vắng hơn, bụi mờ trên chiếc bàn gỗ cũ kỹ. Tôi cảm thấy đang rơi xuống vực thẳm tìn cảm không lối thoát. Tôi tìm cách bỏ ra khỏi nhà vào bất cứ lúc nào để quên ông nhưng không được. Vân đèo tôi lang thang: "Đừng ủ rũ nữa. Đã lỡ yêu thì tiến tới. Nhưng tao thấy mày dở quá. Lão ấy không có gì chấm được". Tôi cau mày "Tao chẳng chấm gì cả". "Nhưng mày học hành tụt dốc rồi". "Mặc kệ". Một chiếc Dream chạy qua văng bùn tung tóe. Vân chửi: "Mẹ kiếp. Vênh thế". Tôi thoáng thấy bóng cô Diệu ngồi đằng sau, đầy tình tứ. Tôi giục :Chạy mau lên người quen". Vân cho xe rà sát chiếc Dream. Tôi gọi: "Cô Diệu". Cô quay lại. Ngừơi đàn ông quay lại. Cả hai đều tràn trề hạnh phúc. Tôi há hốc mồm, anh ta không hề biết tôi. Cái anh chàng chị Nhân yêu đắm đuối. Cái anh chàng Hiền mà tôi đã viện đủ mọi lý do để bảo vệ tình yêu trong sáng của họ. Anh ta vẫn nhăn nhở cười, vòng tay qua eo lưng cô Diệu siết chặt. Tôi kéo áo Vân: "Quẹo phải. Sao?". Vân ngơ ngác: "Thằng bồ của chị tao" Tôi cúi gầm mặt cố không nghe tiếng cô Diệu gọi "Nó không biết tao". "Sao mày không chửi nó?" Vân hậm hực. "Thôi kệ, mình là người có học". Nước mắt chảy dài xuống má tôi bỏng rát.
    Tôi ngồi trước mặt cô Diệu. Tôi bảo: "Cô ạ, anh Hiền là bạn trai của chị Nhân". Cô Diệu tái mặt, lắp bắp: "Cô không biết, cô xin lỗi". Tôi khóc:"Cô biết nhưng vẫn thích thế". "Không. Cô gặp anh ấy ở một bar rượu. Anh Hiền có kể về người yêu của anh ấy cho cô nghe. Nhưng cô không biết là Nhân. Cô chỉ là bạn". Tôi nhìn cô căm thù: "Cô nói dối". "Không- cô bật khóc, cô đến đón khách".Hai bàn tay cô run bắn, giọng lạc hẳn: "Cô đón khách. Và gặp anh Hiền cùng mấy ngừơi bạn như là những khách qua đường. Còn cô Nhân ăn đời ở kiếp". Tôi sợ hãi cắt ngang. "Cô làm thế lâu chưa?" "Lâu rồi. Trước khi đến đây giờ thành quen". Tôi bỏ về. Tôi gặp chị Nhân ở cầu thang ngừơi sực nước hoa. Chị Ôm chặt tôi vui vẻ thông báo: "Chị hạnh phúc quá. Hôm qua anh Hiền cầu hôn chị". Tôi lách người ra gắt: "Chị có biết anh Hiền hôm nay đi chơi với gái không?" "Anh ấy có xin phép chị. Công việc làm ăn cần phải thế nhiều lúc cũng buồn nhưng chị hiểu anh ấy chỉ yêu chị". "Thế lại khác". Một cái gì vỡ ra tê buốt ở ngực. Thất vọng và mệt mỏi. Nỗi trống trải giăng kín làm tôi không sao cử động nổi.
    Sáng sớm mẹ vào phòng. Mẹ đưa cho tôi một phong bì và bảo: "Của chị Diệu. Chị ấy vừa dọn nhà đi". Bức thư vỏn vẹn vài chữ "Cháu đã biết cô là ai nên cô phải đi. Cô biết cháu sẽ khinh cô lắm. Nhưng cuộc sống không phải là cái bánh để sẵn trên đĩa. Ai đói thì lấy xuống mà ăn. Cháu đừng cho chị Nhân biết gì hết. Ngàn lần xin lỗi cháu vì cháu là cô bé đáng yêu. Diệu". Chị Nhân chồm người qua: "Chị ấy viết gì thế". "à, chào hỏi lung tung ấy mà". Tôi xếp tập vở vào cặp, bỗng nhớ da diết hai con bé xinh như hai con búp bê nhưng không biết nói, biết cười. Vẫn ăn uống và lớn lên như thổi.
    Tôi chậm chạp bước xuống thang, miệng lẩm bẩm theo nhịp bước chân. "Yêu, không yêu. Nói, không nói... " Bậc cuối cùng không nói. Tôi đẩy cửa. Ông đang ở trần, mặc quần đùi giải rút màu trắng nom rất trẻ trung. Trên giá chiếc bình gốm này được ủ một tấm vải hoa màu xám nhạt. Ông khẽ giật mình: "A, bé". Tôi ngồi xuống chiếc đi văng. Đã hai ngày con mèo đen gầy guộc bỏ nhà đi mất. Vài hạt cơm khô còn vương chỗ đĩa ăn cùng một bầy kiến lổm nhổm. Tôi kết luận "Căn phòng thiếu bàn tay phụ nữ". Ông đề nghị lần đầu tiên sau nhiều ngày quen biết: "Cô ngồi mẫu cho tôi nhé". Ông lấy toile đặt lên giá. Tôi im lặng. Một lúc, tôi lí nhí: "Sao chú không lấy vợ. Không ai sống mãi với quá khứ được". Ông nhìn tôi không nói. Tôi nhắc lại cầu khẩn "Chú lấy vợ đi"
    ông cười: "Ai thèm yêu tôi". "Có". Tôi tiến lại gần ông tay chân lạnh buốt. Ngực đánh trống liên hồi. Tôi đưa tay vuốt nhẹ bờ vai vẫn còn săn chắc của ông, cảm nhận cái rùng mình rất khẽ. "Có ngừơi yêu chú lắm". Trong đầu thoáng qua một ý nghĩ: "Anh ấy chưa già. Chưa già như mọi người tưởng". Tôi quỳ xuống, úp mặt vào hai bàn tay đầy mùi sơn dầu của ông. Ông nâng tôi dậy ghì chặt vào lòng. Khi nút áo cuối cùng bung ra, ngực tôi đau buốt. Tôi nhắm chặt mắt. Chữ trinh đáng giá nghìn vàng. Mẹ Ơi, khi yêu trên đời chẳng còn gì là có lý cả. Mọi giáo huấn của mẹ chui lọt qua tai mất rồi.
    ông chợt lùi phắt lại, cái hôn bay lơ lửng trong gió và lọt thỏm xuống sàn nhà. Ông run rẩy. "Em còn trẻ quá. Tôi thì già rồi". "Có sao đâu". "Dư luận. Tương lai. Còn phải học hành và lấy tấm chồng cho ra nhẽ. Còn ba mẹ em nữa". "Em yêu anh". Người nào đó trong tôi thét lên "Dư luận không cho phép". Ông tuyệt vọng "Em phải giữ cho em". Tôi cắn chặt môi "Anh hèn lắm". Tôi cẩn thận gài lại từng nút áo. "Chú hèn lám!". Đầu tôi vỡ tung. Thất vọng và đau đớn. Tôi muốn chết quách đi cùng những ảo tưởng tình yêu xinh đẹp mà tôi dành cho ông. Nhưng sau cùng tôi đã không chết. Tôi lặng lẽ rời khỏi căn phòng có chiếc bình gốm màu xanh ngọc bích và lỉnh kỉnh các loại mặt đàn bà trẻ con, lạnh buốt. Tôi nghĩ chắc mẹ hài lòng về tôi. Một con bé trinh trắng ít đi chơi và về nhà đúng giờ vào bất cứ lúc nào.
    Mẹ cằn nhằn: "Căn nhà này không hợp hướng. Không cho thuê được. Ai đến rồi cũng đi". Tôi bỏ chạy xuống nhà sau. Cánh cửa mở toang hoác. Đồ đạc dọn đi, chỏng chơ chiếc giường và chiếc bàn gỗ cũ mèm. Một bức tranh lật úp vào tường. Tôi giở ra. Bức tranh vẽ tôi của đêm trước, ngây thơ và đau khổ. Bên dưới đề "Em còn trẻ con lắm", với chữ ký loằng ngoằng như người đang lội bom. Tôi nặng nề mang nó lên lầu, treo ở đầu giường như để thờ phụng một mối tình đầu rất đẹp của mình.
    Tôi lao vào học để quên. Chiều tối lại cùng vài đứa bạn kéo nhau vào quán cà phệ Tôi thấy nhẹ nhõm và trẻ trung, cái bầu không khí này tôi đã bỏ quên một thời gian rất lâu. Tôi ngắm nhìn anh chàng có chiếc răng khểnh non tơ đang ba hoa chích choè ở góc kia, thấy cũng dễ thương và đáng yêu hơn trước đây tôi nghĩ. Tự nhiên thầm cảm ơn ông. Vì ông đã giữ lại cho tôi những phút giây bình yên và trong sáng thế này.
    Hai chị em vẫn ở trên gác. Ba mẹ vẫn tiếp tục sống bên lề của hai đứa con. Chị Nhân mất dạng, khuya mới lao về, hạnh phúc chấp chới trên mắt. Ngôi nhà trở thành nhà trọ, cho chính mỗi ngừơi chủ của nó. Một cái nhà trọ khi mọi mối quan hệ gần với lỏng lẻo.
    Đêm đêm những con mèo lại tuần hành trên mái tôn gọi nhau da diết. Trong đám đó chắc đã có thêm chú mèo mun gầy guộc bỏ nhà đi từ lúc nào đó lâu lắm rồi. Như những kỷ niệm buồn cũng đã bỏ đi xa.
     
  13. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân


    Nhận được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, viên quan coi ngục quay lại hỏi thầy thơ lại giúp việc trong đề lao:

    - Này, thầy bát, cứ công văn này, thì chúng ta sắp nhận được sáu tên tù án chém. Trong đó, tôi nhận thấy tên người đứng đầu bọn phản nghịch là Huấn Cao. Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao ! Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?

    Thầy thơ lại xin phép đọc công văn.

    - Dạ, bẩm chính y đó. Dạ, bẩm có chuyện chi vậy?

    - Không, tôi nghe tên quen quen và thấy nhiều người nhắc nhỏm đến cái danh đó luôn, thì tôi cũng hỏi thế thôi. Thôi, cho thầy lui. À, nhưng mà thong thả. Thầy bảo ngục tốt nó quét dọn lại cái buồng cuối cùng. Có việc dùng đến. Thầy liệu cái buồng giam đó có cầm giữ nổi một tên tù có tiếng là nguy hiểm không? Thầy có nghe thấy người ta đồn Huấn Cao, ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ khóa và vượt ngục nữa không?

    - Dạ bẩm, thế ra y văn võ đều có tài cả. Chà chà !

    - Ờ, cũng gần như vậy. Sao thầy lại chặc lưỡi?

    - Tôi thấy những người có tài thế mà đi làm giặc thì đáng buồn lắm. Dạ bẩm, giả thử tôi là đao phủ, phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy tiêng tiếc.

    - Chuyện triều đình quốc gia, chúng ta biết gì mà bàn bạc cho thêm lời. Nhỡ ra lại vạ miệng thì khốn. Thôi, thầy lui về mà trông nom việc dưới trại giam. Mai, chúng ta phải dậy sớm để cho có mặt ở cửa trại trước khi lính tỉnh trao tù cho mình lĩnh nhận. Ðêm nay, thầy bắt đầu lấy thêm lính canh. Mỗi chòi canh, đều đặt hai lính. Chòi nào bỏ canh, hễ mỗi vọng canh ngủ quên không đánh kiểng đánh mõ, thầy nhớ biên cho rõ, cho đúng để mai tôi phạt nặng. Chớ có cho mấy thằng thập nó đánh bạc nghe !

    Thầy thơ lại rút chiếc hèo hoa ở giá gươm, phe phẩy roi, đi xuống phía trại giam tối om. Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhạt màu vàng son, một cây đèn đế leo lét rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi. Ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương. Tiếng trống thành phủ gần đấy đã bắt đầu thu không. Trên bốn chòi canh, ngục tốt cũng bắt đầu điểm vào cái quạnh quẽ của trời tối mịt, những tiếng kiểng và mõ đều đặn thưa thớt. Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, vẳng từ một làng xa đưa lại mấy tiếng chó cắn ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân trời không định. Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiểng mõ canh nổi lên nhiều nhiều. Bấy nhiêu thanh âm phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ.

    Nơi góc án thư vàng đã nhợt, son đã mờ, đĩa dầu sở trên cây đèn nến vợi lần mực dầu. Hai ngọn bấc lép bép nổ, rụng tàn đèn xuống tập giấy bản đóng dấu son ty Niết. Viên quan coi ngục ngấc đầu, lấy que hương khêu thêm một con bấc. Ba cái tim bấc được chụm nhau lại, cháy bùng to lên, soi tỏ mặt người ngồi đấy.

    Người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của một bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ. (*)

    Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc; tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.

    Ông Trời nhiều khi hay chơi ác đem đầy ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người có tâm điền tốt và thẳng thắn, lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt.

    Ngục quan lấy làm nghĩ ngợi về câu nói ban chiều của thầy thơ lại. " Có lẽ lão bát này, cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình. Ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao, ta muốn cho ông ta đỡ cực trong những ngày cuối cùng còn lại, nhưng chỉ sợ tên bát phẩm thơ lại này đem cáo giác với quan trên thì khó mà ở yên. Ðể mai ta dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu ".

    Sớm hôm sau, lính tỉnh dẫn đến cửa ngục thất sáu tên tù mà công văn chiều hôm qua đã báo trước cho ngục quan biết rõ tên tuổi, làng xóm và tội hình. Sáu phạm nhân mang chung một chiếc gông dài tám thước. Cái thang dài ấy đặt ngang trên sáu bộ vai gầy. Cái thang gỗ lim nặng, đóng khung lấy sáu cái cổ phiến loạn, nếu đem bắt lên mỏ cân, có thể nặng đến bảy tám tạ. Thật là một cái gông xứng đáng với tội án sáu người tử tù. Gỗ thân gông đã cũ và mồ hôi cổ mồ hôi tay kẻ phải đeo nó đã phủ lên một nước quang dầu bóng loáng. Những đoạn gông đã bóng thì loáng như có người đánh lá chuối khô. Những đoạn không bóng thì lại sỉn lại những chất ghét đen sánh. Trong khi chờ đợi cửa ngục mở rộng, Huấn Cao, đứng đầu gông, quay cổ lại bảo mấy bạn đồng chí:

    - Rệp cắn tôi, đỏ cả cổ lên rồi. Phải rỗ gông đi.

    Sáu người đều quỳ cả xuống đất, hai tay ôm lấy thành gông đầu cúi cả về phía trước. Một tên lính áp giải đùa một câu:

    - Các người chả phải tập nữa. Mai mốt chi đây sẽ có người sành sõi dẫn các người ra làm trò ở pháp trường. Bấy giờ tha hồ mà tập. đứng dậy không ông lại phết cho mấy hèo bây giờ.

    Huấn Cao, lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thành gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái. Then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt. Một trận mưa rệp đã làm nền đá xanh nhạt lấm tấm những điểm nâu đen.

    Cánh cửa đề lao mở rộng. Sáu người né mình tiến vào như một bọn thợ nề thận trọng khiêng cái thang gỗ đặt ngang trên vai. Trái với phong tục nhận tù mọi ngày, hôm nay viên quan coi ngục nhìn sáu tên tù mới vào với cặp mắt hiền lành. Lòng kiêng nể, tuy cố giữ kín đáo mà cũng đã rõ quá rồi. Khi kiểm điểm phạm nhân, ngục quan lại còn có biệt nhỡn đối riêng với Huấn Cao. Bọn lính lấy làm lạ, đều nhắc lại:

    - Bẩm thầy, tên ấy chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn.

    Mấy tên lính, khi nói chữ "để tâm" có ý nhắc viên quan coi ngục còn chờ đợi gì mà không giở những mánh khóe hành hạ thường lệ ra. Ngục quan ung dung:

    - Ta biết rồi, việc quan ta đã có phép nước. Các chú chớ nhiều lời.

    Bọn lính rãn cả ra, nhìn nhau mà không hiểu. Sáu tên tử tù có ngạc nhiên về thái độ quản ngục.

    Suốt nửa tháng, ở trong buồng tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một người thơ lại gầy gò, đem rượu đến cho mình uống trước giờ ăn bữa cơm tù. Mỗi lúc dâng rượu, với thức nhắm, người thơ lại lễ phép nói: " Thầy quản chúng tôi có ít quà mọn này biếu ngài dùng cho ấm bụng. Trong buồng đây, lạnh lắm ".

    Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu và ăn thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm. Rồi đến một hôm, quản ngục mở khóa cửa buồng kín, khép nép hỏi ông Huấn:

    - Ðối với những người như ngài, phép nước ngặt lắm. Nhưng biết ngài là một người có nghĩa khí, tôi muốn châm chước ít nhiều. Miễn là ngài giữ kín cho. Sợ đến tai lính tráng họ biết, thì phiền lụy riêng cho tôi nhiều lắm. Vậy ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất. (**)

    Ông đã trả lời quản ngục:

    - Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.

    Khi nói câu mà ông cố ý làm ra khinh bạc đến điều, ông Huấn đã đợi một trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục. Ðến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này. Ngục quan đã làm cho ông Huấn bực mình thêm, khi nghe xong câu trả lời, y chỉ lễ phép lui ra với một câu: " Xin lĩnh ý ". Và từ hôm ấy, cơm rượu lại vẫn đưa đến đều đều và có phần hậu hơn trước nữa; duy chỉ có y là không đặt chân vào buồng giam ông Huấn. Ông Huấn càng ngạc nhiên nữa: năm bạn đồng chí của ông cũng đều được biệt đãi như thế cả.

    Có nhiều đêm, ngoài việc nghĩ đến chí lớn không thành, ông Huấn Cao còn phải bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của quản ngục. " Hay là hắn muốn dò đến những điều bí mật của ta? ". " Không, không phải thế, vì bao nhiêu điều quan trọng, ta đã khai bên ty Niết cả rồi. Ta đã nhận cả. Lời cung ta ký rồi. Còn có gì nữa mà dò cho thêm bận ".

    Trong đề lao, ngày đêm của tử tù đợi phút cuối cùng, đúng như lời thơ xưa, vẫn đằng đẵng như nghìn năm ở ngoài. Viên quản ngục, không lấy làm oán thù thái độ khinh bạc của ông Huấn. Y cũng thừa hiểu những người chọc trời quấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù. Quản ngục chỉ mong mỏi một ngày rất gần đây ông Huấn sẽ dịu bớt tính nết lại, thì y sẽ nhờ ông viết, ông viết cho...cho mấy chữ trên chục vuông lụa trắng đã mua sẵn và can lại kia. Thế là y mãn nguyện.

    Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm. Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỷ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ ông Huấn mà treo, là có một vật báu trên đời. Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin được chữ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời nữa.

    Một buổi chiều lạnh, viên quản ngục tái nhợt người đi sau khi tiếp đọc công văn. Quan Hình Bộ Thượng thư trong Kinh bắt giải ông Huấn Cao và các bạn đồng chí ông vào kinh. Pháp trường lập ở trong ấy kia. Ngày mai, tinh mơ, sẽ có người đến giải tù đi.

    Viên quản ngục vốn đã tin được thầy thơ lại, cho lính gọi lên, kể rõ tâm sự mình. Thầy thơ lại cảm động nghe xong chuyện, nói: " Dạ xin ngài cứ yên tâm, đã có tôi " Rồi chạy ngay xuống phía trại giam ông Huấn, đấm cửa buồng giam, hớt hơ hớt hải kể cho tử tù nghe rõ nỗi lòng quản ngục, và ngập ngừng báo luôn cho ông Huấn biết việc về Kinh chịu án tử hình.

    Ông Huấn Cao lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười: " Về bảo chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh trại về nghỉ, thì đem lụa, mực, bút và một bó đuốc xuống đây rồi ta cho chữ. Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ. đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi. Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ ".

    Ðêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột phân gián.

    Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, họ dụi mắt lia lịa.

    Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quan ngục đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc bảo:

    - Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?...Tôi bảo thực đấy: thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.

    Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo. Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau. Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh".

    Chú thích:

    (*) kiểm duyệt thời Pháp thuộc bỏ mất bảy dòng chưa tìm ra được.

    (**) kiểm duyệt thời Pháp thuộc bỏ mất sáu dòng chưa tìm ra được.
     
  14. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Nhật ký một chuyện tình - Ngô Văn Phú


    30/4: Anh, em bàng hoàng khi anh đứng trước em. Một giải phóng quân đột nhập vào nhà riêng của viên quận trưởng, thiếu tá quân lực cộng hoà.

    Anh mặc bộ đồ mà trong xứ Nam Bộ này chỉ dùng ở đám hạ tiện. Nhưng uy thế của anh thì là một Việt cộng lừng lẫy. Anh nhìn em, một phút sững sờ rồi lịch thiệp nói:

    - Thưa bà, ông nhà đâu? - Khẩu súng của anh nhăm nhăm chĩa thẳng vào ngực em!

    Em nói:

    - Chồng tôi ẩn ở phía dãy nhà phụ, ở giữa đám lái xe, vệ sĩ…

    Anh quay ngoắt xuống dưới cầu thang… Em sững sờ! Sao lại có chàng trai xinh đến thế! Gọn ghẽ, thanh thoát. Trong phút cứng nhắc vẫn mềm mại, lịch thiệp. Em đứng trên gác hai nhìn xuống. Anh dẫn chồng em đi… Súng chĩa sau lưng gã, đầy khí thế. Như một người chiến binh kiêu hùng. Chồng em tóc rũ xuống! Còn anh kiêu hãnh…

    Trời xanh ở phía anh. Em khóc. Lo sợ cả gia đình tan nát. Nhưng em lại thấy mây trắng trên sông đẹp lạ thường. Anh là giải phóng quân đến trong ngày vẻ vang nhất của đời chiến trận.

    Em nhớ lắm. Anh đội mũ tai bèo, mặc chiếc áo lót cổ vuông của bộ đội cụ Hồ, quần dài, chân đất. Một chiếc khăn mặt trắng vắt ngang vai để các anh nhận ra nhau, và cũng để lau mồ hôi khi oà xuống mặt…

    15/5: Em lên thị xã. Nơi cách biệt thự của em chừng 4 km. Bây giờ người bất ngờ không phải là em, lại chính là anh, chàng giải phóng quân đã bắt gọn tên thiếu tá quận trưởng một tỉnh đồng bằng mà không phải đụng độ. Em khóc hết nước mắt một tuần ròng. Chồng đã bị cách mạng giữ rồi. Hai con còn nhỏ. Vườn rộng thênh thang. Đám người giúp việc bỏ về gần hết. Chỉ còn một vài người… em cảm thấy bơ vơ lạc lõng. Bốn bề người ta vui tươi trong cảnh đoàn tụ, còn em là chia ly, tan tác, và hụt hẫng. Nhưng em vẫn không quên được hình ảnh mát rượi như một tán cây trưa hè phủ xuống đầu em, một chàng giải phóng quân…

    Em tìm người thân Cách Mạng. một ông anh con ông bác ruột, lớ ngớ, ngại ngùng. Em đã chọn bộ đồ kém nhất, mà vẫn khác lạ với những người ở toàn báo “Đồng Khởi”. Em lại sững người. Anh tươi cười, cởi mở, khuôn mặt khôngđằng đằng sát khí như bữa nọ. Anh vẫn nhận ra em. Anh gọi em bằng tên rất thân mật thời sinh viên, bạn trai thân thương nhất… em phải cố ghìm không để nước mắt lăn trên má, nhưng nước mắt vẫn ứa ra. Anh nhìn thẳng vào mắt em.

    Lúc ấy nếu không có sự xa cách, ngại ngần vể kẻ thắng trận và dân trong vùng thua trận, thì em đã ngã vào ngực anh rồi…

    17/5: Em đã nhận ra người nhà. Anh họ em dù ngại ngần, song vẫn hiền như cũ. Các anh trong toà báo “Đồng Khởi” cũng chẳng ai giận em… lại thích nói chuyện với em. Có thể là em xinh chăng… Cũng có người không thích em đánh móng tay và kẻ mi xanh trên mắt. Hình như họ không quen… Thứ ấy với trong này quá tầm thường, song có người nhột như chạm phải nước nóng… Em biết là sự xinh đẹp của mình đã dẹp được những thành kiến lớn hơn thế… Dù sao em chỉ thích gần anh… Anh ngồi ở trong phòng nhỏ, mắt mơ màng… Khi thấy em đi ngang, anh mỉm cười rồi lại cắm cúi viết. Mỗi cử chỉ của anh đều đem lại cho em một sự thân gần. Em biết rằng em đang bị quỉ ám.

    22/5: Em vắng mặt mất năm hôm, bởi đắm đuối việc nhà. Em theo tin chồng xem bị giam ở đâu… Em chăm sóc mấy đứa nhỏ. Em săn tin bố chồng em di tản sang Hawaii có trót lọt không, để còn lo nhờ cậy sau này. Em lân la dò hỏi, những người thân xem thử rồi đây Cách Mạng sẽ đối xử với gia đình mình như thế nào?… Nhưng em chỉ mong xong việc để đạp xe về với anh…

    Anh vẫn đi đó đi đây. Có hôm em chờ cả nửa ngày, sốt ruột quá chừng mà anh thì thăm thẳm. Rồi anh cũng về, huýt sáo vang từ cửa vào, lật mũ một người quen, giơ tay vẫy một đứa bé răng sún… Anh không vẫy em. Em suýt khóc… Nguy hiểm quá, em yêu mất rồi…

    25/5: Và anh nói chuyện. Anh hỏi thăm gia đình em. Em nói thật với anh hết tất cả. Em yêu rồi. Em làm sao có thể giấu anh được. “Ra thế!” Ông già em cũng là một người trí thức có hạng, có quen ông Phạm Huy Thông, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát… Em từng cứu một chiến sĩ giải phóng quân ở trong nhà, và chính ông già em, một bác sĩ ngoại khoa đã chạy chữa cho anh ấy và thả về rừng! Em kể anh nghe, anh trân trọng lắm! Từ bữa đó, anh thân thiết hẳn… Đến những bữa sau em kể tình duyên của em. Chồng em là một quận trưởng có thế lực. Anh ta thích binh nghiệp và cũng lăm le đeo lon tướng, nếu không có ngày 30 tháng 4 xảy ra… Anh ta cũng biết chiều em bởi em đẹp, và cũng biết xài đủ danh lợi trong cái vai quận trưởng. Anh nhún vai. Em ngại ngần không kể nữa, thì anh đưa bàn tay vỗ rất nhẹ vào vai em an ủi… Đấy là bàn tay thần… Vai em bây giờ vẫn còn cảm giác run rẩy, khi bàn tay anh chạm tới! Lúc ấy phòng vắng lắm. Em chỉ muốn choàng lấy anh mà hôn. Vâng nếu được hôn lúc ấy, anh sẽ hiểu định nghĩa về cái hôn với đúng nghĩa được yêu của nó…

    26/5: Chúng ta nói về thơ mới. Em hiểu thêm những điều trước đây người ta đã bóp méo khi hiểu về các anh. Anh nói rành mạch về Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Phạm Huy Thông. Em càng lạ hơn anh thuộc thơ Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Hồ Dzếnh… Anh có một giọng nói chậm rãi. Anh có những nhận xét hóm hỉnh. Anh biết pha trò làm các câu chuyện đậm đà thêm. Anh thông minh và không hợm mình. Anh nói đến văn học Mỹ. Em bất ngờ anh lại yêu Faulkner, người khổng lồ của văn học Mỹ đầu thế kỷ, anh xếp ông ta trên Hemingway và Steinberg. Anh cho thơ Whitman như những giọt sương lành ban mai, mãi mãi sáng trong bình minh nước Mỹ. Anh nói đến hội chứng Việt Nam của văn học Mỹ những năm sáu mươi, bảy mươi và anh tiên đoán nó còn bùng lên ở những năm tám mươi, sau đó mới chuyển động được… Em nghe, em nghe.

    Anh đem đến cho em hết bất ngờ này, đến bất ngờ khác.

    Em yêu anh… Em muốn gần anh, cả thân xác lẫn linh hồn. Anh mang đến cho em ngọn gió lành mà em khao khát. Dù chỉ một lần thổi qua mặt, cũng không thể nào quên.

    5/6: Ngày nào em cũng đến với anh. Anh giữ một cự ly cần thiết. Em hiểu anh cũng rất mến em, thậm chí yêu em. Em đọc được điều đó những phút bối rối của anh khi bất ngờ em xuất hiện. Qua những giây phút đi vào lối khuất em đi sát bên anh, anh vẫn chẳng phản ứng gì. Nhưng ở cơ quan báo, anh luôn luôn nói năng đúng mức. Anh vẫn thân thiết nhưng không có ai có thể ngờ giữa anh và em đang có chuyện gì. Em biết anh đã có vợ. Vợ anh là một người đàn bà nhà quê rất hiền, chịu thương, chịu khó. Nhưng anh vốn sống bằng nghĩa vụ. Anh đã yêu một lần thời học sinh. Người yêu anh để cho anh một nỗi buồn kéo dài không bao giờ dứt. Trước em, có lúc anh nhìn vào mắt em rất lâu đầy âu yếm, khi em lấy trộm được một cuốn sổ riêng ở trên bàn, em ngắm cô ta và thột mình, cô ấy có những nét giống em. Có điều cô ấy là sinh viên xã hội chủ nghĩa. Nét đẹp chất phác, sắc sảo… Còn em là vợ một sĩ quan nguỵ ở Nam Bộ. Em hơi tự ái, ghen vớ vẩn. Ra anh từ người ấy đã có tình với em, chứ không phải yêu em.

    Em hỏi anh:

    - Nếu một người yêu anh ở đất này, anh có yêu không?

    Anh nói:

    - Yêu chứ!

    Anh tự nhiên và thành thật. Bản lĩnh của anh thật lạ. Lúc nó hiện ra, lúc nó tiềm ẩn.

    6/6: Em đọc thơ chưa in và những tập thơ đã xuất bản của anh. Thơ chưa in là thơ tình. Em hỏi

    - Anh yêu ai mà đau khổ vậy?

    - Một tình yêu đã chết!

    - Anh có định làm nó sống lại không?

    Anh cười hóm hỉnh:

    - Em giúp anh đi.

    Và em mừng rỡ. Em đưa anh về dinh thự của em. Chàng Hoàng tử của em hôm ấy, một giải phóng quân tài hoa... Các con em bấu lấy anh. Anh hoà nhập với chúng rất nhanh vì tài bắt chuyện. Chúng líu lo hỏi chuyện Hà Nội. Anh kể cho chúng nghe về những cái hồ đẹp của thủ đô, về những cái vườn trong thành phố. Chúng lặng đi nghe anh. Đến em cũng lặng đi. Hà Nội là một điều gì riêng biệt của anh. Những câu thơ anh của anh, chỉ một lần đọc em đã thuộc:

    Đêm càng khuya, phố lặng như tờ

    Hàng cây đứng im thâm trầm

    Theo anh chỉ là cái bóng

    Dãy đèn đường vào khuya, sáng lắm

    Đi loanh quanh chẳng muốn về nhà..

    Đi đi hoài để thấu hạt mưa khuya.

    Cái buốt lạnh của trời đất buốt lạnh.

    Chẳng có bên em, căn nhà trống lắm

    Thà cứ dầm mưa như thế, đỡ buồn hơn…

    Đêm ấy, anh không về. Anh ở nhà em. Chúng ta ngồi bên hàng dừa. Hai đứa trẻ đã ngủ. Người giúp việc của em cũng bỏ đi chơi. Chỉ còn anh và em. Em thì thèm còn anh thì đối phó, bâng khuâng, mơ mộng… Chàng giải phóng quân thiên thần! Em không kìm nổi. Em sà đến lòng anh. Anh đẩy em ra.

    Một cảm giác miễn cưỡng. Rồi anh lại ôm em vào lòng, hôn em, lại nhìn thẳng vào mắt em. Em biết anh lại nhớ người cũ. Ghen và yêu. Anh hôn em… giờ thì em là kẻ thắng trận. Cái hôn ấy dài, ba phần tư là của em, một phần tư là của người cũ.

    Cái hiện tại nhàu nát của em bỗng tự phát sáng. Em nhìn anh. Đêm ấy em và anh thức thâu đêm suốt sáng. Hoàng tử của em! Hoàng tử của em! Chẳng bao giờ em quên anh được.

    27/7: Anh đột ngột bỏ đi sau cái đêm hôm ấy. Không để lại địa chỉ. Chỉ để lại chiếc hôn ba phần tư là của em, một phần tư của người cũ, cái hôn đầu em nhận từ anh.

    Em hụt hẫng không chừng. Cái phút thiên thần của em đã thành ác quỷ. Em tự nhiên hiểu anh thành một con người khác. Mắt em hoa lên. Em khóc. Ông anh họ của em cho biết anh đã lên Sài gòn. Anh có để địa chỉ lại. Nhưng không có thư cho em. Chẳng lẽ anh đã quên đêm thần tiên của chúng ta, hỡi chàng Hoàng tử? Đêm ấy anh đọc Baudelaire, khi ngà ngà. Bài “Say đi”. Em cũng thuộc nhiều bài của Baudelaire, nhưng em thích bài khác hơn, bởi vì em là con gái. “Một bài thơ xuôi viết cuối thế kỷ 19, mà người cuối thế kỷ 20 vẫn tưởng viết cho mình!”. Anh nói thế. Anh quả là sành thơ. Em cũng thích bài ấy. Anh đọc to trong phòng. Em cảm thấy muốn uống rượu, muốn hoà đồng vào vũ trụ. Anh hôn em. Hôn cho vũ trụ, hôn cho tình yêu đã mất tìm lại được.

    Vậy là anh bỏ trốn ngay hôm sau. Em tức giận. Em nhìn anh lệch hẳn đi. Em trở về, em khóc, em không ăn uống gì hết, em lần mò vào với các con em. Em ôm chúng để hơi ấm của hai đứa trẻ bù cho những thiếu hụt… Em lại khóc. Em hờn oán anh… Em không tìm anh. Anh như ngọn gió mát thổi qua mặt một lần rồi mất hút…

    Năm 198…

    Mấy năm cực khổ, em chỉ muốn anh quay lại với em. Em đi tiếp tế cho chồng. Ông ta được tha về. Và chúng em có danh sách hàng đầu trong những người được chính phủ cho ra đi hợp pháp. Chồng em đã về. Một con người hận thù, nhìn cái gì cũng méo mó. Ông ta làm sao đắp bù được cho em. Những câu chửi tục, những cuộc chăn gối cuồng nhiệt để bù lại năm năm tù tội chẳng bù đắp được gì cho em… Tình yêu đến một lần với anh và tắt lụi. Nó lại bị những dòng nước nhớp nháp dội thêm để chẳng bao giờ bùng cháy lên được nữa. Em nhớ anh! Em nhớ anh đến thế! Thiên thần của em. Em mới biết cái đêm ấy em gặp anh, chẳng bao giờ gặp lại… Anh biền biệt chẳng quay về! Em hầu như tuyệt vọng.

    Tháng 3 năm 198…

    Chồng em ra đi trong trật tự. Sang Mỹ. Quận Cam bang California… Em thương con em. Chúng nó là nguồn an ủi của em, là máu thịt của em, là nỗi đắng cay và thất vọng. Em chỉ muốn có một đứa con với anh. Nếu có đứa con ấy, thì em sẽ trở thành một bà mẹ bất công… đúng thế. Nhưng làm sao có con được, với một người tình rụt rè và luôn chạy trốn… em nhớ anh mà anh vẫn bặt tăm. Anh càng khó hiểu thì em lại càng muốn tìm anh. Có đêm em thức trắng. Từ lúc nằm xuống giường cho đến lúc mệt mỏi lờ đờ đi trong ánh ngày mới dựng, em chỉ nghĩ đến anh em thèm khát anh. Em muốn dâng trọn mình cho anh, dù chỉ là một phút, một giờ, một đêm… một tháng… Tất cả chỉ là ảo tưởng. Chồng em gửi thư về. Em phải lo toan để sang Mỹ cùng hai con nhỏ. Em bán nhà. Em được những cây, những chỉ vàng và em muốn tặng cho anh một kỷ niệm. Em gặp anh họ em, khóc đẫy hàng tiếng và gửi cho anh một chiếc nhẫn mảnh mai nửa chỉ… em biết anh chỉ thích những thứ mảnh mai như tâm hồn anh, như thể xác anh mà đó lại chính là vàng ròng. Chắc gì anh đã nhận… Em lại khóc mất rồi!

    Tháng 5 năm 198…

    Anh đã đeo nhẫn vào tay chưa? Một cuộc hành trình dài ba mẹ con lôi thôi, lếch thếch… phút máy bay cất cánh sao mà buồn đến thế! Sài Gòn ở phía sau. Anh ở phía sau… Em lại phải lao về phía trước với chồng con, với miếng cơm, manh áo… Bao giờ em mới trở về được. Em phát ghét mình, chửi mình sao mà ngu thế! Sao chẳng lấy của anh một tấm ảnh để luôn mang theo mình, như một liều thuốc an thần, như một bùa hộ mệnh.

    Chồng em ra đón. Nước Mỹ hiện ra ở dọc đường. Từ Sài Gòn qua Mỹ như bước vào một thế giới khác… Em lạ lẫm. Con người ra nước người hình như nhỏ nhoi đi, hèn hạ hơn. Nước Mỹ vẫn là của người Mỹ, của những người da trắng. Ai có tổ tiên là người Anh, người Tây Ban Nha, người Pháp, người Đức sang từ thời Jeferson, Washington, Lincoln thì lại có giá hơn. Nước Mỹ không thuộc về người da màu. Người Việt Nam thì cũng chẳng hơn gì những người da màu khác. Đặt chân lên nước Mỹ một hôm, em đã như hạt bụi cuốn vào dòng xoáy. Chồng em đặt ra một chương trình ăn ở, tìm việc để hoà nhập. May cho em biết tiếng Anh, tiếng Pháp, ở tuổi gần ba mươi nhưng vẫn chưa phải già, tô điểm vào trông vẫn ngon lắm…

    Em phải đi làm cùng với chồng em… Em được nhận vào làm ở một tiệm ăn… Chồng em quen với đám tướng tá cũ, kinh doanh những gì không rõ chỉ biết đi về như điên. Anh ta vẫn còn chưa chán em… Vẫn quanh quẩn với em… Xem ra anh ta cũng kiếm được tiền và biết cách kiếm tiền… Em hoà nhập, hoà nhập, mệt mỏi rã rời… Thú thật không còn thì giờ để nhớ tới anh nữa…

    Tháng 6 năm 198… Em sinh hoạt đã khác nhiều với bên nhà. Sống ở Mỹ, em làm việc như chiếc đồng hồ lúc nào giây cót cũng căng hết mức. Gồng người mà sống…

    Ca làm việc kết thúc thì người nhão ra… Kỹ thuật sử dụng người kiểu Mỹ đã biến con người thành máy, mặc dù trong người nó không có tí chút cơ khí, điện tử… Chất xám, cơ bắp, ngôn ngữ, hành động bị công việc điều khiển. Tất cả cộng lại để làm ra đồng tiền.

    Khi guồng máy công việc vầy nhão mình ra rồi, mình lại rơi vào chu kỳ ăn chơi. Ở đấy tự xếp mình vào các hạng mục rất dài của xa hoa hoặc bần cùng… Cái bần cùng trong thế giới xa hoa, làm khổ người biết nghĩ. Em đã đi qua tuổi ham hố, tuổi chơi bời và đã bước vào tuổi lo toan. Em lại là người đàn bà sống chuẩn mực, ít thích phá phách, ưa trầm lặng hơn là ồn ào vui nhộn… Trầm lặng ở bên này cũng phải trả giá đắt. Muốn mua được trầm lặng phải ngồi ở trong nhà… Tức là phải có tiền thì mới ở nhà được. Mà tiêu xài ở bên này thì một cuốc taxi cũng vài ba chục đô… Đồng đô la lúc nào cũng khuấy động đầu óc con người, từ việc làm ăn nghiêm túc, kiếm sống khắc nghiệt, đến những trò chơi giải trí…

    Tháng 7 năm 198…

    Em gần chồng em để thành một thứ liên minh, không tìm được chuyện gì hơn là nghĩa vụ. Em thương con, một phần nào cũng thương chồng. Nhưng khi quyền lực của kẻ kiếm tiền, quyền lực của kẻ cho mình, có thể chi phối kiểu nào cũng được của một ông chủ, thì em không chịu nổi. Anh ta cho là em thả ra khó mà kiếm được tiền, khó hoà nhập, trừ phi vì sinh kế mà phải đem bán mình nuôi mình và nuôi con. Anh ta biết em còn xinh đẹp. Song máu lính tráng, máu sĩ quan “bạch vệ” của anh ta lại dẫn anh ta đi tìm khoái lạc trong đám thượng lưu của dân di tản… Anh ta có tiền gửi ngân hàng, lại nhờ họ hàng giúp đỡ. Việc em đi làm ở nhà hàng làm anh ta khó chịu, song em ở nhà thì buồn lắm. Em không muốn làm một thứ con sen, rồi năm tháng sẽ hạ mình xuống chức vú già… Và phần nào đó, em cũng muốn tự lăn mình vào để kiếm tiền nuôi con, như những năm tháng chồng em nằm ở trong trại cải tạo… Những đêm gã mê chơi không về, các con em ngủ mê mệt, em lại nhớ đến buổi đầu gặp anh, khi anh cầm súng chĩa vào gã quận trưởng, chồng em lúc ấy có thể đá băng cây súng của anh, nhưng hắn không làm nổi chỉ còn cách giơ tay lên đầu hàng… Thần chiến thắng của đất nước đã tạo cho cái phút hào hùng có một và phải làm một cách bất đắc dĩ, ở một anh nhà báo quân đội như anh, gặp lúc tình thế buộc phải trong tư thế người chiến sĩ… Cái phút ấy qua nhanh, nhưng em không sao quên nổi. Ngay lúc ấy, là một kẻ ở phía bại trận mà em vẫn thấy tự hào như anh đã tự hào… Em yêu anh ngay từ phút ấy, cái gương mặt học trò trắng trẻo, vầng trán thông minh, đôi mắt đen sáng thăm thẳm đầy chất hào hoa, thầm kín. Sau này gần gũi anh, những vẻ đẹp ban đầu ấy của anh chỉ ngày một tăng lên… càng làm em buồn và tiếc nuối vô hạn. Em thèm làm một cô gái bình dị để gặp anh từ thuở ban đầu, và em mãi mãi là vợ anh, sống cho anh, vì anh, nhận về những vẻ đẹp kín đáo chỉ anh mới có, mà em tìm suốt đời không thấy nổi… Em khóc mất rồi…

    Tết Nguyên đán năm con rồng, 198…

    Mọi người đổ xô đi đón Tết. Chồng em không về. Gã đang cặp bồ với một thiếu phụ Mỹ gốc Hoa, chiêu đãi viên hàng không. Gã đi suốt ngày, đêm về như một con cáo rạc rày, nằm vắt trên đi văng, miệng nồng nặc hơi rượu mạnh. Gã kiếm được tiền. Gã vào một băng mafia… buôn bạch phiến. Mặc gã… Gã có súng ngắn giắt trong người. Gã vẫn là con người hùng như năm tháng làm quận trưởng. Gã ném những tập đô la cho em như ban phát cho một con điếm. Em nói không ngoa… Em chỉ thương những đứa con của em. Chúng còn nhỏ. Chúng cũng cần có tiền. Bố nó lo theo kiểu kẻ có tiền, làm ra tiền. Còn em lo cho chúng là người mẹ lo cho con. Nhiều lúc em sợ hãi, em cảm thấy có chỗ dựa mà cũng như không có… Em lại nghĩ về anh. Đất khách quê người tình cảm lạ lắm… Em vẫn đi làm, và cũng kiếm được tiền. Em vẫn biết em còn xinh đẹp. Ở bên này xinh đẹp với con gái cũng cần lắm. Những ông chủ Mỹ có thể nhận làm nhân viên ngay và ngay tối đầu tiên họ đã mời mình đi ăn tối… Em đã hiểu quá cái “lệ” Mỹ này… Và em giữ mình. Không hiểu làm sao em chỉ nghĩ cho anh, với một tấm lòng vô cùng thanh sáng…

    Ngày… tháng… năm 198…

    Nhà cửa tan hoang, chồng em đập phá. Đó là cái cớ. Hắn bắt em ở nhà. Hắn ghen với một thằng Mỹ, Michael Kevin bám em tận nhà. Hắn tát em hai cái lằn năm ngón tay, cái thằng sĩ quan “bạch vệ” xưa ấy. Bây giờ hắn mới bộc lộ hết thói lính tráng con ông này cháu kia, lưu vong rồi vẫn thấy mình là quý tộc, maphia buôn lậu vẫn làm hoàng đế trong cái tổ ấm gia đình, vương quốc của hắn. Ở đó, hắn quyền sinh quyền sát, cho ai sống được sống, bắt ai chết phải chết. Em uất tận cổ, khóc, muốn chết quách cho rồi. Hai đứa con lẻn đến với em. Nếu không có chúng thì em ra ngay đường, em sẽ ngủ với bất cứ thằng Mỹ nào để trả thù hắn. Nhưng em không làm thế được. Bởi trong em vẫn còn có một tình yêu dai dẳng với anh. Lúc này sao em cần anh đến thế?

    Em tìm tập thơ Baudelaire. Em đọc những bài thơ anh thích… Em dịu đi được một phần nào. Giờ đây anh ở đâu?

    Tháng… năm 198…

    Em nghĩ kỹ rồi, em phải tách biệt ra với hắn, con người thú ấy. Em còn hai đứa con. Tách khỏi hắn làm sao nuôi được cho chúng ăn học tử tế, cho hết bổn phận làm mẹ. Em đi làm, em dạy học thêm. Em sẽ tách dần ra khỏi hắn… Hắn cáu, rồi hắn cũng phải chấp nhận. Hắn đòi nuôi hai đứa con. Em không cho. Em muốn nuôi chúng dù chúng có khổ, nhưng thằng con trai quậy phá. Nó mười bốn tuổi rồi, nó muốn cuộc sống sung túc. Nó đi theo bố nó. Đi với em chỉ còn đứa con gái. Cháu đã mười hai tuổi. Trời ơi, nếu không có nó em không biết có sống nổi không?… Nhiều lúc em nghĩ hay là viết thư rủ anh sang bên này, với sức học và tài năng của anh, kiếm một công việc bình thường không khó. Em có anh và anh có em… Nhưng chắc gì anh sang… Cả một đời anh đi theo một lý tưởng, sống cho sự nghiệp văn chương, dễ gì anh chạy theo tình yêu… Mà anh đã hẳn yêu em đâu dù rằng anh hôn em, ba phần tư cái hôn ấy là của em còn một phần tư là của người khác… Nhưng nếu em ở bên anh, nhất định là em chiếm được… Em có lúc lại có ý nghĩ điên rồ đó. Kiếm lấy ít tiền, rồi bay về nước, buôn bán kiếm sống đủ ăn, đủ nuôi con… Điều ấy với em không khó! Em về, thỉnh thoảng anh bay vào Sài Gòn sống với em. Em sẽ sống cho anh dù một tháng, một ngày, một năm… Dài hơn càng tốt.

    Tháng… năm 198…

    Em kiếm tiền không đến nỗi tồi. Làm cho một tiệm ăn một người Úc mới sang.

    Lão chủ mê em lắm! Mong anh đừng ghen! Em vẫn mãi là của anh. Lúc nào cũng thế. Nhưng xa đàn ông lắm lúc cũng không chịu nổi. Em gắng kiềm giữ mình. Những lúc ấy em đi đến một phòng tranh, dắt con vào những vườn thú, những cuộc chơi con trẻ… Con em thông minh lắm. Em biết nó về phe em ghét ba nó… Thằng chủ Úc rất mê em… Muốn lấy em. Nó nhốt em vào trong phòng.

    Nó bức bách em. Em phải ưng cho nó làm gì thì làm. Khi tỉnh dậy, lúc nửa đêm em nghĩ đến anh, uất ức như một thiếu nữ bị mất trinh… Em giận mình, căm mình. Em uất hận. Mình đã giữ được hàng năm trời sao bây giờ buông tay ra… Buông thả rồi! Em mất anh thật rồi. Em không còn xứng đáng với anh nữa… Khi gặp một người Việt khác tử tế, em bỏ thằng chủ Úc đi với anh ta.

    Rồi em lại làm cùng với mấy thằng Mỹ khác nữa… Em thả trôi đời mình! Anh tha thứ cho em!

    Tháng… năm 198…

    Lăn lóc trên tình trường để kiếm tiền. Em nhầu nát đi rồi chán tất cả. Em tìm một chỗ làm của một hãng buôn lớn đứng đắn và xa lánh mọi thằng đàn ông kể cả Mỹ lẫn Việt Nam. Em chỉ bấn bíu về đứa con. Nó ở bên này học hành tốt hơn, tiếp xúc với khoa học tiên tiến tiến bộ hiện đại hơn. Nó thi toán đỗ hàng đầu quận và được học bổng. Con bé tính toán rành rẽ lắm. Nó cũng rất thương mẹ. Có hôm nó thì thầm hỏi:

    - Sao dạo này mẹ buồn thế? Con lớn rồi. Mẹ nhớ ai vậy? Con có thể chia sẻ được với mẹ không, mẹ ơi!

    - Thôi đi con, nói huyên thuyên…

    - Mẹ vẫn thương “người ấy” ư? Người ta có viết cho mẹ một chữ nào đâu, mà mẹ viết cho họ đến hàng chục bức thư rồi!

    Em cười với con:

    - Những bức thư ấy đây này!

    - Mẹ không gửi ư?

    - Mẹ không muốn khuấy động một tâm hồn luôn luôn tự kìm giữ. “Người ấy” của mẹ còn khắc khổ bằng mấy mẹ. Gửi thư này chắc “người ấy” sẽ khổ thêm!

    Và em khóc. Con em hỏi:

    - Thế mẹ giữ những bức thư này để làm gì?

    - Để thấy tình yêu của mình trong những năm tháng đã qua… Con này, có lẽ khi con học xong trung học, mẹ con mình sẽ về nước một lần đi!

    - Mất nhiều tiền lắm! Mẹ có đủ không?

    - Không đủ thì đi vay!

    - Và mẹ sẽ ra Hà Nội…

    - Nhất định! Thế nào mẹ cũng phải gặp bằng được “người ấy”.

    Con gái em nói nhỏ:

    - Con cũng thèm có một tình yêu như mẹ…

    *

    Cuốn nhật ký đến đây thì bỏ dở vì người đàn bà ốm. Chuyến đi về nước chỉ thực hiện sau đó sáu năm. Một cô bé Việt kiều từ Mỹ về gặp tôi. Cô ngỡ ngàng mất một lúc rồi ôm mặt khóc. Tôi nhìn mặt thấy sửng sốt. Tôi hiểu ngay được, và lựa lời khẽ hỏi:

    - Cháu hỏi tôi?

    - Dạ… Bác là bác…

    - Vâng, đúng vậy…

    - Trời ơi, mẹ con… Mẹ cho đến lúc chết vật mình mãi mà không chết nổi! Bác ác quá!…

    - Sao vậy, cháu! À, Sao vậy… con…

    Tôi nhìn cô bé thân thương quá, không thể không gọi là con được.

    - Mẹ con trong suốt đời chỉ thương có bác, đến con cũng không ngờ.

    - Thế ba con đâu?

    - Ông ấy và má con bỏ nhau rồi!… Con sống nhờ học bổng. Sau ngày má con mất, ông có đến tìm con, cả anh trai con nữa. Ông có vẻ hối hận muốn đón con về. Ông ở New York… Nhưng con ở lại. Con học luật. Con đã học xong, đỗ cao và đã có việc làm… Con đi làm được một năm. Và hôm nay con về nước.

    - Con ở đây với bác nhé!

    - Bác ở một mình ư? Bác gái con đâu?

    - Cũng mất rồi. Đã mấy năm nay!

    Cô bé thở dài, cắn môi:

    - Vậy à, tiếc quá… Bác có nhận con là con gái nuôi không?

    - Bác nghèo, nuôi sao nổi con… Mà con lại ở tận Mỹ, bác làm sao gả chồng cho con được!

    - Bác quả là hóm và tình cảm… Mẹ con yêu bác cũng phải! Bây giờ con trao quà của mẹ con cho bác nhé! Nó nguyên xi đấy, tự tay mẹ con gói trước khi chết vài tháng, bảo rằng nếu con về nước sẽ trao tận tay cho bác.

    - Cám ơn con! Ở bên ấy có dễ chịu không? Mẹ con hẳn vui chứ?

    - Mẹ con có bao giờ vui được. Bà chỉ muốn quay về. Bác cứ nhận tình cảm của mẹ con từ món quà kia sẽ biết…

    Tôi đỡ lấy, bâng khuâng… Và món quà đó chính là những dòng nhật ký trên đây và những lá thư không gửi…
     
  15. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chuyện riêng với bão - Mai Ly


    Gần hết giờ làm việc buổi chiều thì trời nổi gió. Hôm qua nàng nghe dự báo thời tiết là sẽ có bão, một cơn bão trái mùa. Trời âm u suốt từ sáng làm nàng đợi mãi. Nàng thích những cơn bão vào ban ngày hơn là vào đêm. Tuy nhiên bão đêm cũng được. Ngắn gọn lại là nàng thích bão. Mọi người trong phòng vội vàng chuẩn bị áo mưa và về sớm. Còn nàng thì chẳng vội gì. Nàng có một lý do chính đáng để nói với mọi người: "Em không mang áo mưa và nhà em xa, sợ về không kịp".

    Mọi người đã về hết, ai đó đã đóng cửa sổ: cả cửa kính và cửa chớp. Nàng nghe thấy tiếng gió vọng bên ngoài. Trong phòng kín như hòm nhưng nàng thấy hơi lạnh. Nàng mở cửa đi ra hành lang. Cả tầng hai không có một ai. Ðến khi nàng mở cánh cửa ở đầu hồi khu nhà thì gió thốc vào. Nàng ngột thở nhưng vẫn cố đi ra và nhìn xuống đường. Trời tối sầm lại nhưng vẫn nhìn rõ mọi thứ. Gió thổi ào ào. Lá cây cũng rụng ào ào. Mọi thứ đều bị gió thổi. Gió làm quần áo nàng dính chặt vào người, tóc rối tung. Bụi đập vào mặt nàng rát như kim châm. Một tấm tôn ở mái bếp nhà nào bay xuống đường kêu rầm một cái, át cả tiếng gió. Rồi giấy vụn, quần áo và cả bụi nữa, tất cả nháo nhào trong không trung. Vẫn những cảnh của một cơn bão nhưng nàng thấy thật thích thú. Nàng nhớ đến tuổi thơ của mình. Hồi đó nhà nàng ở trong một khu chung cư. Mỗi lần có bão là nàng sẽ được nghỉ học. Nàng cũng sẽ cuống quít chạy theo bố mẹ để đóng cửa khi trời bắt đầu nổi gió. Sau đó nàng sẽ ngồi trên chiếc giường kê sát cửa sổ, quấn chiếc vỏ chăn quanh người, dán mắt vào cửa kính để xem thiên hạ vội vội vàng vàng, để xem gió bứt những tấm liếp trong chợ, tung lên rồi đập xuống, để xem mưa đổ xuống đường trắng xóa, để xem bọn trẻ con cởi trần tắm mưa. Thế nào nàng cũng đòi mẹ mở cửa để gió thổi vào nhà và thế nào mẹ cũng không đồng ý. Nàng sẽ giả vờ dỗi và ngồi xuống bậu cửa, giơ tay vào khe cửa để hứng gió, vì thế gió của bão bao giờ cũng chỉ đủ làm mát bàn tay nhỏ xíu của nàng khi đó mà thôi. Khi bão tan, nàng sẽ cùng bọn trẻ hàng xóm trốn mẹ xuống gác để lội bì bõm trong cái thứ nước bẩn mà bão làm dâng lên hoặc để thả thuyền giấy trong cái "hồ" ấy, thậm chí còn té vào nhau cái thứ nước ấy nữa. Bão của tuổi thơ thật tuyệt. Cô bé con là nàng khi đó chẳng bao giờ nghĩ đến giá gạo có tăng không, bao nhiêu ngôi nhà bị sập, bao nhiêu người bị chết. Sau này khi lớn lên một chút, có lần nàng nói với bố: "Con thích bão lắm bố ạ".

    Bố nàng vội vàng: "ấy đừng con ạ! Bão thì người nông dân khổ lắm. Ông bà ở quê mất mùa đấy". Nàng ngúng nguẩy: "ứ ừ! Nhưng mà con vẫn thích bão". Rồi nàng lại nhớ đến cơn bão số 5 của mùa hè năm kia. Nàng nhớ rõ là cơn bão số 5, mà cũng là cơn bão lớn nhất trong năm bởi vì hôm đó cuộc thi chung kết Hoa hậu toàn quốc được tổ chức ở thành phố nàng. Biết rằng sẽ có bão nhưng nàng vẫn đi. Thực ra nàng cũng chẳng thích lắm các cuộc thi sắc đẹp nhưng cô bạn thân của nàng được ai cho một đôi vé, cứ rủ nàng đi bằng được. Ngồi trong nhà hát ấm áp ba tiếng đồng hồ, đến khi ra ngoài bất ngờ bị gió và mưa thốc vào mặt, ai cũng rét run. Hai đứa mang có một cái ô mà mười hai giờ đêm rồi thì còn núp ở đâu được. Cô bạn nàng cầm lái, còn nàng ngồi sau cầm ô che. Cái xe 50 của bạn nàng cứ ỳ ra trước gió, còn nàng cắn chặt răng vì rét, hai chân kẹp chặt vào xe, hai tay căng ra để giữ ô. Ðược một lúc thì tay chân mỏi nhừ, hàm cũng mỏi nhừ mà người thì ướt sạch. Nàng thu ô vào mà cảm thấy thật khó khăn. Hóa ra cán ô đã bị gió làm cong như hình cánh cung. Quả thật đấy là lần đầu tiên nàng đi trong mưa bão và cũng là lần đầu tiên nàng cảm thấy mình thật nhỏ nhoi.

    Có vài hạt bụi bay vào mắt làm nàng bừng tỉnh. Ðưa tay lên dụi mắt xong thì trời đã bắt đầu mưa. Mưa hắt vào làm ướt mặt và tóc nàng. Mẹ mà ở đây thì mẹ sẽ bắt nàng vào nhà ngay lập tức. Nhưng mà mẹ lại đang ở nhà! Bất giác nàng mỉm cười sung sướng. Cuống lên về sớm thì có phải sẽ không được thoải mái thế này không! Trời vẫn chưa tối hẳn. Nàng đưa mắt nhìn sang bên kia đường. Ðã có một đôi trai gái đứng tránh mưa ở đấy từ bao giờ. Gã trai đưa tay vuốt tóc cô gái và ôm lấy cô ta. Nàng chợt thấy khô cổ và bỗng thèm có một người đàn ông nào đấy đứng bên cạnh, ôm lấy nàng và cùng nhau ngắm mưa. Nàng chưa bao giờ được ở bên cạnh ai để ngắm mưa. Rất ít người biết sở thích này của nàng, mà có biết thì hoặc là mặc kệ, hoặc cho là nàng dở hơi. Nàng cảm thấy rất rõ tim mình nhói lên. Ðôi trai gái kia yêu nhau lắm thì phải. Còn nàng thì không biết yêu. Nói chính xác là không biết yêu say đắm, không biết yêu hết mình. Chỉ những khi mưa to gió lớn thế này tim nàng mới mềm ra, còn không tình yêu say đắm đối với nàng thật sự chỉ là ảo tưởng mà những kẻ mù quáng nghĩ ra với nhau. Mà nàng cũng chẳng bao giờ tin rằng có ai đó yêu nàng say đắm cả. Nàng thật sự không hiểu tại sao người ta lại đắm đuối nhau, lại có thể chết vì nhau. Có người bảo nàng quá thực tế nên không thể yêu được. Nhưng nàng cũng yêu đấy chứ, nàng yêu chồng nàng, yêu như là số phận đã sắp đặt trước. Số phận cho nàng một gia đình hạnh phúc, bố mẹ cưng chiều, công ăn việc làm ổn định, thêm một ông chồng chiều nàng hết mực. Và chắc sau này sẽ là những đứa con ngoan. Nàng có được mọi thứ mà chẳng phải cố gắng gì. Nàng chẳng mơ cũng vẫn được những thứ mà người khác mơ ước. Có điều mà nàng mơ thì chẳng bao giờ thành hiện thực. Có người bảo nàng là lạnh lùng, khô khan và một loạt những tính từ đại loại như vậy. Có người bạn còn đùa rằng nàng là con người khô khan đến mức chỉ ăn cơm mà không ăn canh. Nàng mà khô khan ư? Cũng có thể. Nhưng những lúc thế này liệu có ai biết nàng mong muốn điều gì không? Nàng chợt rùng mình vì lạnh và cô độc. Nàng lắc đầu thật mạnh và tự bảo mình rằng xem bão thế đủ rồi, vào nhà cho ấm, đứng ở đây suy nghĩ lung tung làm gì cho mệt người.

    Nàng quay về phòng, bước những bước thật dài. Và nàng bất ngờ đến giật mình khi thấy anh ta ngồi ở bàn làm việc. Trời mưa bão thế này không về với vợ con còn tỏ ra mẫn cán thế làm gì. Nàng mở cửa bước vào phòng và hỏi: "Ơ thế anh chưa về à?". "Tôi có chút việc đang làm dở. Em đi đâu về mà ướt thế kia?". Nàng cười không trả lời, lấy báo ra đọc. Mở tờ báo ra nhưng nghe tiếng ì ầm bên ngoài nàng lại muốn chạy đi. Ngồi đây chán chết, chẳng có tí lãng mạn nào! Anh ta lên tiếng: "Ra đây ngồi nói chuyện bé ơi! Tờ báo ấy hôm qua tôi thấy em đọc rồi mà, đọc làm gì kỹ thế". Nàng cười như bị bắt quả tang, nói lảng: "Anh xong việc rồi à?".

    Câu chuyện lúc đầu hơi gượng ép, nhưng đến khi đề về thời sinh viên thì anh ta sôi nổi hẳn lên. Ðôi lúc anh ta nhìn và nói với nàng thật dịu dàng. Nàng có cảm giác nàng đã làm anh ta nhớ đến ai đó trong quá khứ. Anh ta có một thời trai trẻ hào hoa, đa tài để mà nhớ, để mà tự hào. Còn nàng thì chẳng có gì để nhớ cả. Tất cả đều êm ấm, bình lặng như từ trước đến giờ thì liệu sau này bằng tuổi anh ta nàng có gì để kể đây? Chỉ có những cơn bão là làm khuấy động trời đất, khuấy động tâm hồn nàng, nhưng chẳng lẽ lại đi kể chuyện bão? Nàng chợt nhớ ra ngoài kia vẫn đang mưa. Nàng nghĩ giá mà anh ta là người tình của nàng thì nàng sẽ kéo anh ta ra ngoài mưa cùng với nàng ngay lập tức. Nhưng tất nhiên đó chỉ là tưởng tượng bởi vì nếu là người tình của anh ta thì hoặc là phải thông minh hơn nàng thật nhiều, hoặc là phải ngốc nghếch hơn nàng một chút. Hình như anh ta cũng có một cô "tình nhân bé nhỏ" ở đâu đó thì phải. Cô ta hay gọi điện thoại đến văn phòng vào lúc sáng sớm hoặc chiều muộn. Mỗi khi thấy anh ta hạ giọng và vui mừng: "Em đấy à?" thì nàng biết ngay là cô ta. Có đôi lần nàng đang ngồi trước mặt anh ta trao đổi công việc thì có điện thoại. Thường thì anh ta bảo: "Chút nữa anh gọi lại cho em nhé", nhưng cũng có lần anh ta mặc kệ nàng, xoay người qua hướng khác, tựa lưng vào ghế và thản nhiên nói chuyện làm nàng không còn cách nào hơn là đứng dậy. Những lúc như thế nàng rất muốn trêu anh ta vài câu nhưng ngay lập tức nàng lại nhớ ra vị trí của mình. Không hiểu sao những lúc ngồi nói chuyện phiếm với anh ta thì nàng hay quên mất điều đó nhưng khi nói chuyện công việc hoặc có ai đó nữa thì nàng ý thức rất rõ nàng phải vợ, chẳng phải tình nhân, chỉ là một nhân viên quèn, cấp dưới của anh ta và chẳng có ý nghĩa gì với anh ta để mà ghen tuông hay tức giận, nàng chỉ là kẻ mà thỉnh thoảng anh ta buông vài câu tán tỉnh vô thưởng vô phạt mà thôi. Anh ta là người thừa khôn ngoan để có thể vừa thương vợ quý con, vừa yêu một cô bồ trẻ trung xinh xắn lại vừa tán tỉnh vài cô ngu ngốc như nàng. ở bên anh ta, nàng luôn cảm thấy mất tự tin. Anh ta thông minh hơn nàng quá nhiều làm nàng lúc nào cũng nơm nớp sợ anh ta khiển trách, sợ anh ta chê mình ngu dốt. Mặc dù thế nàng vẫn thích được làm việc cùng anh ta vì nàng học được ở anh ta nhiều điều. Nàng biết đó chính là động lực khiến nàng cố gắng: không phải vì đồng lương, không phải vì danh vọng mà chính là vì nàng muốn một lúc nào đó nàng hoàn toàn tự tin trước anh ta. Bất giác nàng quay sang nhìn anh ta. Nàng thích khuôn mặt của anh ta khi nhìn nghiêng. Anh ta cũng quay sang nhìn nàng và lẩm bẩm một câu bằng tiếng Anh: "Tôi muốn hôn lên đôi môi em". Thế đấy, anh ta không bao giờ giấu giếm rằng nàng có đôi môi đẹp và anh ta rất muốn hôn đôi môi nàng nhưng chưa bao giờ anh ta nói rằng anh ta thích nàng cả. Nàng giả vờ ngạc nhiên: "Sao anh lại đùa thế?". Bất ngờ anh ta cười phá lên: "Em giống hệt cô bạn gái của tôi ngày xưa, cho dù tôi có nói thì nói thầm cô ấy cũng vẫn hiểu, còn những câu tôi nói rõ ràng mạch lạc thì lại chẳng hiểu gì cả". Nói xong anh ta lại cười. Nàng ngượng nhưng phải tự thú nhận rằng nàng rất thích tiếng cười của anh ta: tiếng cười thật vang, thoải mái, phóng khoáng và rất ngạo mạn. Có mấy ai cười được như anh ta?

    Tiếng chuông điện thoại cắt đứt câu chuyện. Ai gọi đến giờ này không biết! Nàng thấy anh ta nhấc máy và ừ ừ một hồi, quay sang nói với nàng: "Tôi về trước nhé, bà xã tôi mang áo mưa đến rồi".

    Anh ta về. Nàng ngồi một mình, cảm thấy như bị bỏ rơi. Và nàng biết rất rõ tại sao nàng lại không chọn anh ta làm người tình. Nàng đã quen được đàn ông săn đón, chiều chuộng, mà đó lại chính là điều nàng không bao giờ nhận được từ anh ta. Trận mưa to năm ngoái, chồng nàng - khi đó mới là người yêu của nàng thôi - mang áo mưa đến cho nàng và đưa nàng về nhà. Bố mẹ nàng đã rất hài lòng vì cậu con rể tương lai chu đáo, thương vợ. Thế mà bây giờ đã hơn bảy giờ rồi vẫn không thấy tăm hơi đâu. Nàng nghĩ hay là chồng nàng cũng đang ướt như chuột lột ở đâu đó rồi. Nàng gọi điện đến công ty thì không có ai nghe máy, gọi điện về nhà thì "ông xã" hỏi luôn: "Em không về còn ở đấy làm gì? - Mưa á? Mưa thì mua áo mưa mà về chứ còn đợi gì nữa?". Nàng vâng gọn lỏn rồi cúp máy. Ðây là lần đầu tiên từ khi cưới chồng nàng nói với nàng bằng cái giọng lạ lùng ấy. Nàng cảm thấy hơi thất vọng. "Hơi" thôi bởi vì trước khi cưới nàng đã được các bậc đàn chị đi trước cảnh báo về các ông chồng trong tương lai rồi và vì thế nàng đã chuẩn bị tinh thần từ trước là sẽ có lúc sẽ nhận được câu nói này. Nàng gọi điện cho bố. Bố nàng vẫn chưa về: "Bố đang định về đây, con chưa về à? - Không có áo mưa à? - Sao con không mua một bộ mà về? - Không chạy ra mà mua được à? Thế thì đợi chút nữa ngớt mưa rồi hãy về không ốm đấy! - à hay là con cứ ở đấy đi, tẹo nữa bố mang áo mưa đến cho. Bố có mỗi một bộ, bố ra kia mua cho con bộ nữa rồi hai bố con cùng về - ừ! Ðói hả! Hôm nay ở lại bố mẹ ăn cơm, bao giờ hết mưa nó sang đón rồi về. Thế nhé!". Nàng cúp máy và cảm thấy hạnh phúc lại tràn đầy. Nàng vừa hát vừa bật máy tính lên chơi điện tử. Vừa chơi được một lúc thì lại có điện thoại. Hay là ông chồng yêu quí của nàng nghĩ lại rồi không biết. Ðầu dây đằng kia là một giọng đàn ông, không phải giọng chồng nàng, không phải giọng bố, mà là giọng anh ta: "Tôi mang áo mưa đến cho em nhé". Nàng từ chối và đột nhiên cảm thấy giận dữ. Anh ta làm như thế để làm gì cơ chứ. Anh ta biết thế nào nàng cũng từ chối còn giả vờ giả vĩnh làm gì. Nếu mà nàng có đồng ý thì anh ta cũng đâu có dám đội mưa mà mang áo đến cho nàng! Nàng biết anh ta lắm chứ. Thế rồi câu cuối cùng trong máy điện thoại là: "ừ thế thôi nhé, chút nữa tạnh mưa rồi hãy về. Hôn em thật nhiều!". Nàng nghĩ thầm: "Vâng thưa sếp, 12 giờ đêm mới tạnh mưa".

    Nàng tiếp tục chơi điện tử nhưng không được tập trung lắm. Nàng nghe thấy tiếng mưa rơi bên ngoài liền mở cửa đi ra. Trời đã tối lắm rồi. Mưa to làm ánh đèn đường nhòe đi. Nàng lắng nghe tiếng mưa. Dường như mưa đã ngớt rồi thì phải. Nàng cảm thấy có ai đó gọi tên mình, lẫn trong mưa. Nàng chạy xuống mấy bậc cầu thang, ghé tai vào cửa sổ. Ðúng là bố gọi rồi! Nàng chạy hai bậc một xuống tầng trệt. Bố nàng mặc áo mưa kín mít làm nàng thiếu chút nữa thì không nhận ra. Nàng nghe loáng thoáng tiếng bố lẫn trong tiếng mưa: "Mặc nhanh lên rồi hai bố con cùng về".

    Mưa lại đổ xuống. Hai bố con mỗi người một xe. Nàng co hai chân lên, để số một và bắt đầu biểu diễn tài nghệ "tay lái lụa", khoái chí khi thấy nước bắn tung toé sang hai bên. Bố chắc không chịu nổi nửa bánh xe. Trời đã ngớt mưa nhưng nước thì chẳng rút đi chút nào, lại thêm đông người đi lại làm cho nước sóng sánh, chao đảo giống như khi nàng cho cái muôi vào nồi múc canh vậy. Nàng cười thầm cái tính háu ăn của mình. Gần tám giờ rồi còn gì nữa mà không đói! Bao nhiêu chủ đề thì cuối cùng cũng quay lại ăn uống thôi!

    Mưa thưa dần. Gần về đến nhà thì bố bảo nàng: "Trời ngớt mưa rồi lại tiện quần áo, con đi về luôn đi kẻo nó mong". Nàng đi một đoạn nữa thì trời tạnh hẳn. Thế là đã qua một cơn bão!

    24 Ðiện Biên Phủ, Hải Phòng

    * Truyện ngắn được tặng thưởng Tác phẩm Tuổi xanh 1998.
     
  16. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Những bông hoa hoang dã

    Phạm Chí Dũng

    Ánh hoàng hôn cuối cùng lặng lẽ tắt dần trên mặt biển. Anh từ từ cởi chiếc áo blu trắng buớc ra khỏi phòng thí nghiệm và ngạc nhiên vì hôm nay đã là ngày cuối tuần. Thời gian trôi đi nhanh quá, từng tuần, từng tháng, cả một chuỗi nối tiếp nhau bất tận như không muốn cho con người ta dừng lại dù chỉ là một chút. Anh lau cặp kính đã nhòe vào cái khăn tay nhỏ trong túi áo, vươn vóc người thô ráp hứng lấy gió biển.
    Dọc các kè đá, hết lớp này đến lớp khác sóng xô đẩy, va đập nhau tạo nên những âm thanh bập bùng triền miên suốt từ sáng đến tối. Ðó đã là hơi thở của người dân thành phố từ nhiều năm nay. Trong cái giai điệu hoang dã ấy, người ta luôn cảm thấy một thoáng tĩnh lặng vô bờ bến, nên thơ, đẹp đẽ và thoáng buồn bã.
    Cô độc!...
    Em gái anh - Một phụ nữ trạc gần ba mươi tuổi - đã đứng ở phía sau từ lúc nào, vội chạy đến nắm tay anh trách móc:
    - Chẳng lẽ anh cứ mãi giam mình trong cái hầm ngầm đầy chai lọ đó suốt ngày đêm hay sao? Gần bốn mươi tuổi đầu rồi còn gì?
    “Nó thật là hạnh phúc với người chồng và đứa con gái bé bỏng, có lẽ còn hạnh phúc hơn mình nhiều”, anh nghĩ thầm. Ðã quá nhiều lần mọi người xung quanh hỏi anh câu đó, về cái gia đình nhỏ bé với một ý nghĩa to lớn trong cuộc đời của mỗi con người.
    Anh chỉ im lặng né tránh.
    - Còn bản luận án tiến sĩ ngành hóa đang viết dở...
    - Thôi đi!
    Em gái anh vùng vằng la lên:
    - Anh thì lúc nào cũng có lý do. Nghe em nói này, buổi tối nay anh và em sẽ đi thăm một cô bạn gái của em. Cô ấy bằng tuổi em, chưa có gia đình, hiện là giáo viên Nhạc viện thành phố, theo dõi thường xuyên những công trình khoa học của anh trên báo và muốn làm quen với anh. Lần này anh phải đi, nếu không sẽ chẳng bao giờ em làm ơn làm phúc giặt đồ cho anh nữa đâu.
    Hai tiếng đồng hồ sau anh bước vào phòng khách của một căn nhà nhỏ nằm trên sườn đồi nhìn thẳng ra biển. Bóng tối mờ mờ trải mênh mang trên mặt biển, tan nhòa vào khoảng không bao la của vùng duyên hải. Tấm màn cửa rung phần phật trước cơn gió lớn lại vừa tràn tới. Một chuỗi dương cầm dồn dập nhấn chìm tất cả vào sự mê hoặc.
    Một cảm giác cay buốt bỗng nhiên trào lên lồng ngực anh. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm đằng đẵng vùi đầu trong phòng thí nghiệm và thư viện, anh cảm thấy lòng mình tê tái. Tất cả, những bông cẩm chướng quyến rũ trong góc phòng, chiếc bàn phủ tấm trải màu xanh gọn ghẽ, và có lẽ cả cô em gái của anh, đều biến mất. Anh chỉ nhìn thấy người phụ nữ đang nhẹ nhàng trải những ngón tay thanh mảnh mềm mại lên các phím đàn. Thân hình thanh thoát của chị được bó gọn trong bộ y phục thủy thủ trắng toát xen lẫn các viền sọc xanh phủ lên trên đôi bờ vai rung nhè nhẹ. Chị hầu như không để ý gì đến sự có mặt của những vị khách lạ mà vẫn hòa trải nhịp đập tâm hồn vào từng cung điệu của bản nhạc.
    - “Những bông hoa hoang dã” hay “Les fleurs sauvages” đó anh ạ. Một nhạc phẩm thật là tuyệt diệu!
    Cô em gái thì thầm vào tai anh, lén quan sát những biểu hiện trên gương mặt anh.
    Anh không nghe thấy gì. Bản nhạc dội vào lòng anh tất cả những gì trong sáng, lãng mạn và tuyệt vời nhất. Người phụ nữ đang dường như thổn thức, đắm đuối vào giai điệu của mình. Khuôn mặt chị bừng sáng lên niềm tin kiêu hãnh vào cuộc sống, vào tình bạn, tình yêu. Không gì có thể thay thế sự bất khuất trong tâm hồn một con người và từ đó có thể thuyết phục được bất cứ trở ngại gì. Từ nơi đôi bàn tay chị, biển ru trắng mênh mang, và những con sóng âm thầm đang xô đẩy những cánh hoa hoang dã đi khắp bốn phương trời.
    Ðã từ bao nhiêu vòng quay của vũ trụ, cánh hoa dập dìu vô mục đích, vô bờ bến, bị chìm vào biển nước rồi lại nổi lên, bọt trắng xóa. Một làn gió nhẹ hoặc một cánh chim hải âu nào đó cũng có thể đem đến nỗi sợ hãi mơ hồ. Nhưng giờ đây, chỉ trong một thoáng chốc thôi, tha thiết và dồn dập, từ khắp bốn phương trời tất cả những cánh hoa đang trôi nổi vô vọng bỗng nhiên quy tụ về một nơi, điểm xoáy giữa đại dương, thành một vòng hoa khổng lồ rực rỡ. Khi ánh bình minh bắt đầu chiếu rọi, vòng hoa vụt cháy sáng trong muôn ngàn niềm hạnh phúc.
    Trong những lúc xúc cảm mạnh nhất, người ta thường nhận ra rõ nhất những tội lỗi của mình. Tim anh run rẩy trước sự trong sáng định mệnh của người phụ nữ ấy – bản nhạc ấy, muốn né tránh mà không thể được. Suốt khoảng thời gian qua mình đã làm được những gì cho cuộc đời? Phải, khoa học là khoa học, nhưng khoa học không phải là tất cả, và những ai muốn tìm đến khoa học như một chỗ ẩn tránh những thử thách của cuộc sống thì chắc chắn sẽ phải trả giá bởi chính nền khoa học ấy. Anh chợt hiểu rằng anh đã có thể cống hiến nhiều hơn cho công việc nếu như anh có một người bạn tốt, nếu như anh tìm được nửa thứ hai trong cuộc đời mình. Sự giản dị sẽ làm cho anh có khả năng thích nghi được với môi trường luôn luôn thay đổi, và chỉ khi ấy khoa học mới đón nhận anh như một người bạn chân thành.
    Hệt như những con sóng, bản nhạc lúc rải xa đều đặn và vắng lặng, lúc chợt dồn phủ lên trái tim anh những tình cảm vô cùng lạ lùng, hạnh phúc và đau đớn, ước muốn và tiếc nuối, đan kết và tan vỡ, đầy ánh sáng lẫn với cả sương mù.
    Khi người phụ nữ dừng tay, chị thấy mặt anh tái hẳn đi, cặp kính ướt đẫm. Một giọt nước mắt đồng cảm cũng nhè nhẹ rơi trên gò má chị.
    Ba tháng sau họ kết hôn với nhau.
    Như mọi người thường nói, họ là một trong những cặp uyên ương đẹp nhất của thành phố biển này. Cả hai đều không phải khá giả gì. Họ biết như vậy, nhưng điều quan trọng nhất là họ không hề quan tâm đến điều đó. Cái thanh thoát đầy tính sư phạm tươi vui của chị đã bù đắp được phần nào sự khô khan trong tâm hồn anh. Cuộc sống không nhất thiết phải luôn được tác hợp từ những ý nguyện trùng lắp. Trong một góc cạnh nào đó, nó lại là sự san sẻ của những cái thừa và những cái thiếu. Sự cô đọng, tính nguyên tắc của một bản thể khoa học tự nhiên như anh đã tìm ra được bản đồng vị của nó, thế giới âm nhạc diệu kỳ từ nơi chị. Anh luôn đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác vào mỗi ngày, mọi ngày và những ngày sau đó. Anh vẫn cứ mãi mãi sửng sốt khi phát hiện ra sự cách biệt quá lớn giữa cuộc sống hiện tại và nếp sống đơn độc khi trước. Ðối với những nhà khoa học, khi phát minh ra một thành quả lớn lao nào đó, họ coi như đã được tái sinh. Còn anh, riêng trong trạng thái đầy bản sắc sống này, anh phải là người được hồi sinh. Không một chút gì rào đón, ngượng ngập, họ đã xóa mờ đi tất cả những gì phức tạp nhất trong cuộc sống lứa đôi bằng sự đơn giản hóa đến không ngờ, bằng tấm lòng chân thành không chút vẩn đục và bởi sự hòa hợp trong từng cử chỉ, suy nghĩ. Mỗi buổi chiều đi làm về, anh không còn cảm giác mệt mỏi và sự căng thẳng chịu đựng một buổi tối vẫn là công việc và công việc. Anh nằm dài ra giường, âu yếm nhìn người bạn đời tắm mình trong ánh hoàng hôn tràn đầy ảo giác, vẫn là những bản nhạc đệm dương cầm kỳ diệu nhất, và đến khi chị bắt đầu dạo khúc mở đầu của bản “Những bông hoa hoang dã”, tâm hồn anh rung lên vì lòng cảm kích tột độ.
    Thành phố vẫn lặng lẽ trôi qua từng khoảnh khắc, đón nhận và chứng kiến mối tình nồng nàn ấy. Mỗi buổi sáng thành phố thức giấc, dạo bước qua những bãi cát mịn màng, ngân ru tiếng sóng vỗ êm đềm của những thuở nào nơi quá khứ. Bình minh và hoàng hôn, tình yêu và cuộc sống, nếu như còn có thể kéo dài, dài mãi.
    Có điều, khoảng thời gian gần đây, người ta chưa nhìn rõ một đám dông đen đang ẩn kín phía chân trời.
    Một buổi tối chị đi dạy kèm nhạc về và không thể dạo nổi khúc dương cầm cho anh nghe. Toàn thân chị bốc lửa, đầu nóng hầm hập. Anh vội vã đưa chị đến bệnh viện, sự lười nhác chậm chạp của các nhân viên y tế càng làm cho bệnh tình chị nặng hơn. Một ông bác sĩ thuộc dạng “thầy lang vườn” đã tống chị toàn những thứ thuốc vô thưởng vô phạt. Sau hết, khi người ta biết căn bệnh chính của chị là thương hàn, nay đang hoành hành dữ dội, thì đã không còn kịp nữa. Chị trút hơi thở cuối cùng sau mười ngày vật vã trên giường bệnh.
    Ðập phá, gầm thét, cầu xin tất cả đều vô vọng! Anh gục xuống như bị chém ngang lưng. Hạnh phúc đến và đi, mau chóng và tàn nhẫn quá đỗi làm anh không thể tin là mình đã có và nay vừa mới mất. Anh cũng không tin vào cái chết của chị, không tin một chút nào ngay cả khi đứng bên chiếc băng cáng phủ vải liệm trắng xóa, ngoài nghĩa địa đầy cát và phi lao. Anh chỉ chợt tỉnh ra trong căn phòng nhỏ quen thuộc, bên chiếc đàn dương cầm cũ với những đóa cẩm chướng héo tàn trong bình mà chị vẫn ưa thích. Ðau đớn đã làm cho thể xác anh tê dại, như bị giằng xé ra từng mảnh và tung đi theo gió. Chỉ còn những lời thì thầm thân thương, những dấu ấn êm đẹp của một buổi chiều nào đó bên bờ biển, anh đã nắm tay chị và siết vào lồng ngực mình...
    Anh lại trở về cuộc sống riêng, cô độc và trơ trọi. Anh tránh gặp tất cả mọi người, bỏ qua hầu hết những ánh mắt thương cảm, từ chối hoàn toàn những lời tự nguyện giúp đỡ. Anh làm việc như một cái máy, trong khi đầu óc không lúc nào dứt khỏi hình bóng người đã khuất. Chỉ trong vòng một tuần lễ, hai lần suýt nữa anh gây tai nạn từ phản ứng hóa học cho mình và cho người khác. Chỉ còn phải sửa đổi bổ sung đôi chút trong bản luận án tiến sĩ, nhưng anh không sao viết thêm được dòng nào. Cuối cùng cấp trên đành điều anh đi công tác tại một thành phố khác. Người ta hy vọng ở đó, nơi đất lạ xa xôi, anh sẽ bớt những kỷ niệm đáng buồn của quá khứ.
    Năm năm trôi qua. Anh trở về thành phố biển trong âm thanh dào dạt của vô vàn con sóng, tiếng thốt lên vui mừng từ đàn chim trên mặt biển của tự do và mảnh đất anh đã được sinh ra.
    Anh có vẻ vui hơn, thân ái hơn đối với mọi người. Giờ đây anh đã được cấp học vị tiến sĩ hóa học, trở thành Viện trưởng Viện hóa thành phố. Mỗi buổi sáng, đúng bảy giờ anh đã có mặt ở viện, hít thở bầu không khí trong lành tươi mát, bình thản rít từng hơi thuốc dài và sau đó bắt tay vào công việc cho đến hết ngày. Duy có điều người ta vẫn không thể hình dung một người như anh, dù đang được sự chiều đón từ nhiều cô gái trong thành phố lại tỏ ra hết sức dửng dưng với chuyện tình cảm. Ðã từ rất lâu căn nhà nhỏ trên sườn đồi trở thành nơi thiêng liêng thầm kín và anh không hề mời bất kỳ ai đến chơi, mà chỉ tiếp chuyện ở cơ quan.
    Tháng bảy, mùa giông bão bắt đầu. Những làn mưa mỗi lúc càng dày đặc phủ lên mặt biển một cái lưới của vô số hình tam giác, tứ giác đủ kích cỡ. Ðúng vào những ngày này, anh cũng kỷ niệm năm năm ngày chị mất.
    Một ngọn nến nhỏ, một bình hoa cẩm chướng tươi được đặt trang trọng bên chiếc đàn dương cầm. Trên hết là khung hình của chị, hồn hậu nhìn anh như muốn nói “Anh thân yêu, em vẫn ở đây với anh, từng giờ từng phút, để cầu mong hạnh phúc sẽ đến với anh”. Anh đóng kín cửa ra vào và cửa sổ. Tối nay mưa lớn, gió giật từng cơn bên ngoài, không khí lạnh và ẩm ướt. Trong phòng, ngọn nến sáng bừng lên, ấm áp và soi sáng khuôn mặt đã xuất hiện những nếp nhăn đầu tiên của anh, sự báo hiệu của tuổi già. Anh đã thu băng bài “Những bông hoa hoang dã” và anh sẽ nghe bản nhạc đó suốt buổi tối hôm nay, dù điệp khúc có quay lại bao nhiêu lần, anh vẫn sẽ cảm thấy chưa đủ, cần phải thêm nữa, thêm nữa...
    Một tiếng gõ mạnh vào cửa làm anh giật mình. Ai lại có thể đến vào giờ này? Anh mở cửa và hỏi khô khốc:
    - Ai đó?
    Người mới đến kéo vạt áo mưa đẫm ướt khỏi đầu. Ðó là một thiếu nữ chừng hai mươi tuổi, xanh xao và đoan trang. Trong tay cô cũng có một bó cẩm chướng, đúng những bông cẩm chướng mà vợ anh yêu quý. Cô lẳng lặng bước vào, dồn anh đến sự ngạc nhiên.
    - Chị là ai? - Anh hỏi tiếp, không còn tự chủ được nữa.
    Thiếu nữ nhìn bao quát căn phòng, dừng mắt tại chiếc dương cầm phủ vải xanh nhạt, khẽ chạm vào tay anh và bước đến.
    Chỉ trong phút chốc căn phòng như sáng bừng lên. Chiếc dương cầm từ bao lâu nay đã lấy lại hết giọng ngân lên, rung lên trong sự cuồng nhiệt của người thiếu nữ và bản nhạc “Những bông hoa hoang dã”. Anh ôm lấy trán, lảo đảo dựa người vào tường. Ðiều gì xảy ra trong đêm nay vậy? Người thiếu nữ ấy, người mà anh có cảm giác chính là người vợ thân yêu của anh! Mọi buổi tối đã trở về trong một buổi tối, hạnh phúc đến đau đớn, làm cho ta không thể phá lên cười sung sướng mà lại không lén thấm vài giọt nước mắt. Mặt biển trong khoảnh khắc bùng lên dữ dội, nhấn chìm tất cả trong vùng bão tố, chìm xuống vòng xoáy sâu thăm thẳm của muôn vàn vì sao lấp lánh. Rồi bỗng biển lại đột ngột êm dịu, mải miết trong khúc du ca da diết lòng người, và ngay lúc này đây con người ta bắt đầu có cảm giác chết đi sống lại, rồi lại chết đi, vào những điều tốt đẹp nhất trong cuộc đời. Khắp nơi trên mặt biển, những bông hoa cẩm chướng hoang dã đã dập dìu nổi trên sóng, bơi trên sóng, cùng với những cánh chim hải âu sải mãi về phương trời xa, lòng chờ mong ngàn lần lưu luyến. Và cuối cùng, trên tất cả, bóng hình chị hiện ra, đẹp và trong sáng vô ngần, tràn đầy hiện thực và ảo giác.
    - Tôi đã thấy, thấy rồi!
    Anh chồm đến bám lấy thành chiếc dương cầm, xoáy sâu vào mắt thiếu nữ. Cô không nhìn anh, cũng không nhìn vào bất cứ vật gì trước mặt, nói nhỏ như trong một cơn mơ.
    - Anh đã thấy gì? Gió biển, những vì sao biển và người phụ nữ mà anh yêu quý hơn tất cả mọi thứ. Phải, đúng là chị ấy đấy, chị ấy đang trở lại với anh, vào ngay lúc này đây.
    Chiếc dương cầm lắng đi từng nhịp và khe khẽ tắt giọng. Căn phòng lại chìm vào khoảng hư vô tĩnh lặng như chưa bao giờ như thế. Thiếu nữ gạt những giọt nước mắt đầm đìa trên khuôn mặt cô, gục xuống những phím đàn...
    Mãi một lúc lâu, anh mới nghẹn ngào nói:
    - Tôi hạnh phúc, rất hạnh phúc. Xin lỗi, tôi... tôi có thể biết chị là ai?
    Ngay giây phút đó thiếu nữ ngẩng mặt thốt lên:
    - Em là học trò của cô!
    Giọng cô bỗng chìm vào tiếng còi tàu vang vọng trong đêm ngoài khơi xa, báo hiệu một con tàu mới sắp vào cảng.
     
  17. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Quê mẹ

    Thanh Tịnh

    "Thuyền theo lái..." xưa, khi Thanh Tịnh viết truyện ngắn này, đến nay vẫn là điều tâm niệm của phụ nữ Việt Nam. Nhưng người con gái lấy chồng xa lúc nào cũng canh cánh nhớ về quê mẹ. Sung sướng nhất là lúc được trở về bên mẹ. Người con gái muốn dành cho mẹ và các em tất cả tình cảm và sự nhớ thương dồn nén của mình. Để rồi trở về nhà chồng, nhớ mẹ và các em, lòng lại bùi ngùi khôn xiết...
    Chiều chiều ra đứng cửa sau
    Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều
    (Ca dao)

    Cô Thảo ra lấy chồng đã ba năm. Anh Vận chồng cô hiện làm Hương - thơ ở làng Mỹ-Lý. Anh Vận trước kia có theo học chữ quốc ngữ, nhưng đã hai năm thi Yếu-lược không đậu nên anh ta lại thôi. Qua năm sau dân trong xóm bầu anh ta lên làm hương thơ trong làng. Ngày nào anh ta cũng đi nhà này qua nhà khác phát thư, rồi chiều đến lại phải ra tận đình để lấy hòm thư đem lên huyện.
    Công việc của anh tuy vất vả, nhưng lương tháng - hay nói cho đúng lương năm - của anh trông ít quá. Làng chỉ trích cho anh ta ba mẫu ruộng và năm đồng bạc làm tiền lộ phí. Nhưng năm đồng ấy thì không bao giờ anh nhận được. Vì các viên chức đã khéo léo trừ với món tiền phải đóng sưu này thuế khác gần hết.
    Nhưng ở vùng quê, được một chức nghiệp như thế, anh Vận cũng cho là danh giá lắm. Và bà Lại, mẹ anh Vận, lúc nói chuyện với những người quen, cũng không quên tự hào được một người con ra đảm đương việc làng việc nước.
    Cô Thảo ra lấy chồng vốn liếng không có nên không đi buôn bán gì hết. Cả nhà chỉ trông vào sáu mẫu ruộng tranh và ba mẫu ruộng làng để sống năm này tháng khác.
    Chiều hôm ấy lúc thoáng thấy bóng chồng đi về đến cổng, cô Thảo liền vội vàng ẵm con ra sân để đón. Thấy anh Vận ra dáng mệt nhọc nên cô ta chưa dám hỏi gì hết. Vào tới sân, anh Vận liền đến ngồi trên cái chõng. Cô Thảo để con ngồi một bên chồng rồi đột ngột chỉ cây thanh-trà bên bờ hè nói khẽ:
    - Cây thanh-trà mới đấy mà đã có trái rồi cậu ạ.
    Anh Vận để con ngồi trên chân, rồi cúi đầu xuống nhìn mặt con dịu lời đáp:
    - Thế à, cây thanh-trà ấy trông dáng khô khan không ngờ lại giống tốt.
    Cô Thảo ghé ngồi một bên chồng nói tiếp:
    - Cây thanh-trà ấy tôi đem từ bên nhà qua đây. Mới hai năm đã có trái ăn được kể cũng nhanh thật.
    Anh Vận như sực nhớ một việc gì, nhìn vợ hỏi vội:
    - Tôi nhớ ra rồi. Hôm ấy là ngày giỗ ông bên mợ. Mợ về làng ăn giỗ rồi đem cây thanh-trà ấy qua cho tôi. Tôi cũng quên lúc ấy mợ đã có thằng Lụn chưa?
    - Rồi, nhưng nó mới được ba tháng.
    - Mà tôi quên giỗ ông nhằm ngày mấy?
    Cô Thảo nhìn chồng mỉm cười:
    - Được vài ông rể quý như cậu thì ngày giỗ của nhà tôi cũng không khỏi hương tàn bàn lạnh. Giỗ ông nhằm một ngày dễ nhớ nhất mà cậu cũng quên.
    Anh Vận như nhớ lại được, gật đầu lia lịa:
    - Thôi tôi nhớ được rồi. Giỗ ông vào tiết Trung-thu phải không mợ?
    - Không phải, ngày rằm tháng tám.
    Anh Vận lớn tiếng cười vang làm cho thằng Lụn cũng phải ngẩng mặt lên nhìn ngơ ngác.
    - Rõ ngớ ngẩn như đàn bà. Tiết Trung-thu hay rằm tháng tám có khác gì nhau. Có khác là người hay chữ họ thường gọi tiết Trung-thu, còn người ... ít hay chữ thì gọi rằm tháng tám...
    Cô Thảo nhìn chồng cười mỉm:
    - Người hay chữ với lại người ít hay chữ! Thì cậu cứ nói người dốt với người thông có được không.
    Thật ra thì anh Vận cũng có ý nói người hay chữ với người dốt, nhưng lại sợ làm mếch lòng vợ.
    Anh Vận nhìn ra trước cổng yên lặng. Thằng Lụn cũng muốn tụt xuống đất đùa với đàn gà con đang đi qua gần đấy. Cô Thảo vào nhà thắp đèn rồi lại trở ra ngồi chỗ cũ. Mảnh trăng trong lúc ấy đã bắt đầu giọi ánh sáng dìu dịu qua hàng tre trước cổng.
    Trông thấy ánh trăng anh Vận quay lại hỏi vợ:
    - Hôm nay là mấy rồi mà trăng sáng quá?
    - Ngày mười ba.
    Anh Vận thả hai chân xuống chõng nhìn vợ ngơ ngác:
    - Thế ngày mốt là ngày giỗ ông rồi à? Và ngày mai là ngày mợ phải về làng.
    Cô Thảo cúi đầu nhìn xuống đất đáp khẽ.
    - Phải.
    Anh Vận đưa tay lên gãi đầu:
    - Thật tôi vô tình quá. Ngày kỵ đã gần đến mà cũng quên.
    Cô Thảo ngồi yên lặng không đáp. Thật ra tối hôm ấy cô muốn xin chồng về làng giỗ ông, nhưng cô không muốn nói thẳng. Cô tự nghĩ nhắc chồng ngày giỗ ở nhà mình là một việc chướng lắm. Thật tự nhiên để cho chồng nhớ lại thì tốt hơn. Nhưng mãi đến chiều cũng không nghe chồng nói gì, nên cô phải mượn đến chuyện cây thanh-trà để nhắc xa xôi cho chồng nhớ.
    Tối hôm ấy, cơm nước xong xuôi, anh Vận liền đến xin mẹ cho vợ về làng ăn giỗ.
    Bà Lại nhìn cô Thảo đang ẵm con đứng tựa bên cột bảo khẽ:
    - ừ về thì về. Nhưng bên nhà ngày mai giỗ ai mà tôi cũng quên phắt đi rồi.
    - Thưa mẹ, giỗ ông con.
    - Thế à.
    Nghĩ một lát bà ta nói tiếp:
    - Mai mợ chắc phải về làng sớm. Lúc ấy có lẽ tôi cũng chưa dậy. Vậy tối nay mợ ra ngoài vườn cắt một buồng chuối mật - buồng chuối gần bên cái giếng ấy - để về giỗ ông. Năm nay tôi bận việc nhà quá, chắc qua không được. Thôi nhờ trời năm khác.
    Nói xong bà Lại lách bàn tay vào túi yếm lấy ra một hào xu rồi đưa cho cô Thảo.
    - Thôi cho mợ một hào để đi đò. Và nhớ chớ để em nhìn xuống mặt nước.
    Cô Thảo vội vàng đỡ con xuống, đưa hai tay nhận tiền tỏ ra vẻ sung sướng lắm.
    Trước khi đi ngủ anh Vận cũng chạy quanh xóm mượn chỗ này chỗ khác cho cô Thảo thêm bốn hào nữa.
    Tối hôm ấy cô Thảo không đi ngủ sớm. Cô đặt con ngủ yên bên chồng xong lại lật đật xách dao ra sau vườn chuối. Loay hoay một lúc lâu cô mới đem được buồng chuối mật vào nhà. Cô đem để vào một góc thật kín vì cô sợ nửa đêm chuột đến khới. Xong rồi cô mới qua bên nhà cô Thị mượn đôi hoa tai vàng và cái nón lá mới. Sắp đặt đâu đó xong xuôi cô mới lên giường nằm ngủ.
    Trời tờ mờ sáng cô Thảo đã trở dậy sắm sửa đi về làng. Làng cô ở cách xa làng Mỹ-Lý hơn mười lăm cây số. Vì vậy nên mỗi năm cô chỉ được về làng chừng hai ba lượt là nhiều. Xưa kia cô từng qua lại làng Mỹ-Lý ngày một để bán gạo, nhưng sau lúc cô ra lấy chồng thì quê nhà đối với cô đã là nơi xa lạ.
    Qua những con đường mòn chạy nắp theo bờ ruộng, cô lại nhớ đến quãng đời bán gạo của cô ngày trước. Trong trí cô hiện ra lần lần hình ảnh của cô Thu, cô Nguyệt, cô Hương, những cô bạn mà trước kia cô cho là thân nhất.
    Nhưng đời các cô ấy cũng như cô, nghĩa là cũng có chồng, có con và quãng đời làm dâu cũng vất vả, cũng phẳng bằng như nhau hết.
    Đi chưa được bốn cây số cô Thảo đã thấy mỏi. Cô tự nhận thấy sức cô yếu hơn trước nhiều lắm. Cô muốn đi đò cho đỡ chân, nhưng sực nhớ đến những món quà cần phải cho em, cô lại gắng gượng đi nhanh hơn trước.
    Qua khỏi đầu làng Duyên-Hải thì cô Thảo gặp cô Đài, người bạn cùng làng thường chơi với cô ngày trước. Cô Thảo nhờ cô bạn gánh hộ buồng chuối mật và mấy gói bánh mua bên chơ. Kỳ-Lâm. Cô Đài vui vẻ nhận lời ngay. Vào quán nước ở gần đấy nghỉ một chốc, hai cô lại cùng nhau lên đường chuyện trò không ngớt.
    Về đến làng cô Thảo gặp ai cũng đón chào niềm nở. Lòng cô lúc ấy nhẹ nhàng và vui sướng lắm. Còn họ gặp cô đi đằng xa đã kêu réo om sòm như gặp được người sống lại. Họ hỏi thăm cô chuyện này chuyện khác, mục đích là để xem cô ăn mặc độ này có khá hơn trước không. Cô Thảo thấy người làng chào hỏi mình vồn vã nên đáp lại rất vui vẻ. Cô ta không quên lấy cái nón xuống, giả vờ quạt vào mình để mấy người đứng chung quanh được thấy đôi hoa tay vàng của cô.
    Đến trưa hôm ấy thì cô về đến nhà. Mấy cậu em đua nhau ra níu áo chị. Cô Thảo xoa đầu đứa này đỡ cằm đứa khác, nụ cười trên môi cô không khi nào tắt. Trông thấy mẹ trong nhà đi ra cô mừng quá. Cô chạy lại đứng bên mẹ cảm động quá đến rưng rưng nước mắt. Một lúc sau cô đưa thằng Lụn cho mẹ ẵm rồi đi thẳng vào nhà để chào những người quen biết.
    Bà Vạn cứ quấn quít bên cháu, bên con quên cả ngày giờ. Bà giới thiệu cô Thảo với người này người khác, bà nhắc đến chuyện cô Thảo lúc cô còn năm sáu tuổi. Bà kể đến đoạn nào bà cũng có ý khoe cô Thảo đức hạnh và khôn ngoan đủ thứ. Bà nói mãi mà không biết chung quanh bà không ai nghe bà hết.
    Sung sướng nhất là cô con gái có chồng về nhà mẹ. Cô Thảo tuy về giỗ ông nhưng không làm gì hết. Cô vào phòng mẹ nằm ngủ cả buổi chiều, mãi đến lúc gần cúng cô mới chịu đi ra ngoài.
    Lúc cô đứng lễ thì ông Vạn, thân sinh cô, vuốt râu cười nói:
    - Con phải lễ thế phần chồng con nữa. Nó làm gì bên ấy mà không qua.
    Cô Thảo sau khi thụt lùi ra khỏi chiếu, mới khẽ đáp:
    - Dạ, nhà con mắc việc quan.
    Cô Khuê, chị em chú bác với cô Thảo, đứng gần đấy trề môi nói tiếp:
    - Thứ đồ làm Hương-thơ mỗi năm ăn ba mẫu ruộng mà cũng gọi là việc quan.
    Ai nấy đều nghe thấy nhưng không ai cãi lại. Ông Vạn đứng cúi đầu xuống hơi ngượng. Còn cô Thảo gương mặt đỏ bừng, quay đầu nhìn xuống bếp. Nhưng ngay lúc ấy cô lại gặp cặp mắt của mẹ đang nhìn cô chòng chọc. Cô đau lòng quá đến để hai dòng lệ chảy dài trên má.
    Sáng hôm sau, cúng cơm sáng xong xuôi, cô Thảo lại sắm sửa đi qua làng Mỹ-Lý. Cô gọi mấy đứa em đến gần rồi cho mỗi đứa năm xu. Trong nhà ai cũng khen cô rộng rãi và biết thương em, nên cô vui sướng lắm. Đang lúc cao hứng cô còn hứa sẽ gửi cho mẹ hai cặp quần áo mới để mặc Tết nữa. Nhưng chính cô cũng không biết sẽ lấy đâu ra hai cặp quần áo ấy. Chỉ trong nháy mắt cô Thảo đã phân phát tất cả số tiền cô đã dành dụm trong một năm.
    Lúc sắp sửa lên đường, bà Vạn cho cô nửa con gà và một gói xôi để về nhà chồng. Lúc ra đi cô cảm động quá, đứng bên mẹ và mấy em khóc nức nở.
    Về nhà chồng, cô Thảo lại làm việc từ mai đến chiều, tối tăm cả mày mặt. Lúc nào cô cũng nhớ đến mẹ nghèo, đến em thơ, nhưng nhớ thì lòng cô lại bùi ngùi, trí cô lại bận rộn.
    Rồi chiều chiều gặp những lúc nhàn rỗi, cô lại ra đứng cửa sau vơ vẩn nhìn về làng Quận-Lão. Nhưng làng Quận-Lão ẩn sau đám tre xanh đã kéo một gạch đen dài trên ven đồi xa thẳm.
     
  18. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Đêm xóm chùa - Đoàn Lê


    Ta trót nắm tay nhau đến là dại dột...

    Hạ Thảo

    Tôi trở mình.

    Một cái giường xét về phương diện thực dụng cũng như đạo đức vốn được đóng cho hai người nằm, nói rõ hơn, cho một người nam cùng một người nữ của Đấng - Tạo - Hóa. Khi phải chứa đến ba người thì độ bức bối chuyển thành giông bão không thể chịu đựng được. Tôi, chồng tôi, cô ta đã ở cả trên một cái giường. Đương nhiên chỉ hai người là có thực, còn người kia quanh quất giữa chồng tôi với tôi. Nhưng ý nghĩa chữ thực, chữ ảo cũng bất định như hai chữ số trên quân xúc xắc. Đôi lúc sự tồn tại của người ảo còn thực hơn cả người thực. Rất nhiều đêm tôi gặp ánh mắt chăm chắm của cô ấy nhìn đôi tay chồng tôi lần cởi khuy áo lót tôi. Tất cả bỗng lạnh giá.

    Nhạc đêm khuya thật hay. Người ta có sáng kiến đáng kể khi soạn chương trình nhạc suốt đêm cho những cái giường mất ngủ. Đã lâu lắm tôi mới được nghe lại nét nhạc cũ... Kiệu công chúa từ xa đang tới gần khu chợ phiên ồn ào. Ai cũng biết đằng sau những tấm rèm lụa lộng lẫy dính đầy châu báu là một nhan sắc khuynh thành mơn mởn thanh xuân. Thần dân Ba Tư kính cẩn quỳ rạp bên đường chờ đám rước trang nghiêm với tiếng nhạc dìu dặt, với đoàn thị nữ tha thướt đi qua... Hỡi nàng công chúa mười sáu năm xưa, nay nàng ra sao? Nàng hạnh phúc hay bất hạnh? Đời sống vương giả có cứu nàng thoát khỏi bi kịch cay đắng?

    Chồng tôi trở mình.

    Tôi bỗng nhớ chiều nay một con ong vàng mật săm soi quanh quẩn bên cái vì kèo chạm đầu rồng của ngôi từ đường cổ kính nhà tôi. Tiếng vo ve dai dẳng khiến tôi sinh lo ngại. Tôi bảo anh:

    - Anh nhìn xem con ong tìm gì ở đó vậy?

    - Nó tìm nơi làm tổ. Em không thấy mẩu sáp bằng hạt lạc kia ư?

    - Chẳng lẽ nó không có tổ hay sao?

    - Sao lại không. Nhưng đến một lúc nào đó chúng chia đàn, đi tìm nơi làm tổ mới.

    Tôi không nghe được hết những lời giải thích của anh ấy. Tự nhiên đầu óc tôi lãng đi. Tổ mới... chia đàn... Sau hai mươi tám năm chung sống có hai con ong cũng sắp chia đàn, tìm nơi làm tổ mới... Chuyện ấy thật khó tin. Phần lớn người ta sống theo thói quen. Như đêm đến cứ phải đi nằm dù không ngủ được. Như gần ba chục năm tôi quen sống bên cạnh anh ấy tựa bóng với hình, quen cả những lúc hình bóng co kéo vật vã để giữ cho cái tổ chúng tôi đứng vững trước sóng gió muôn mặt đời thường.

    Bởi vậy tôi thật bàng hoàng khi nghe anh ấy thổ lộ: "Em thể tất cho anh. Em thuộc con người của những hoạt động xã hội. Anh lại cần một tình yêu tầm thường thôi, một người để làm vợ anh theo nghĩa thông tục nhất". Tại sao anh ấy nhận lấy một sai lầm khó bào chữa như thế? Tôi thương anh. Giá anh chỉ nói đơn giản rằng sau gần ba mươi năm rã rời vì cuộc mưu sinh, tình cảm của chúng tôi đã rách tươm như lá cờ giữa trận tiền, không thể vá víu được nữa.

    Và sẽ không ai có lỗi nếu người ta phải chạy trốn một đời sống nhàm chán đến phát sốt.

    Dù sao con số hăm tám năm chung sống trong thời buổi này cũng đã có một độ bền xấp xỉ mức kỷ lục. Pho ái tình ấy xứng đáng đứng chung hàng ngũ những chàng lực sĩ khổng lồ. Chàng đã chiến thắng mọi gian khổ qua hai cuộc chiến tranh, cái thời chúng tôi tranh nhau phần ngoài cửa hầm tránh bom, nhường nhau nửa giường thoáng gió đêm sơ tán. Chàng khổng lồ ấy chỉ vô ý xỉa răng bằng cái kim sắt rỉ, do đó bị tê-ta-nốt chết. Đã đành cái chết luôn diễn ra dưới muôn vàn mầu sắc, nhưng chết kiểu anh chàng ái tình to xác này thật quá lố bịch. Lẽ nào chỉ vì một dịp chồng tôi đi công tác, một dịp tình cờ gặp cô ấy, tình cờ phải nói dối... rồi tất cả tự nó chấm dứt, tất cả sụp đổ trong lặng lẽ?

    Tại sao lại ra thế này hở anh? Tôi hỏi chồng tôi đến hàng ngàn lần và lần thứ ngàn lẻ một tôi vẫn đầy ngơ ngác.

    Ông cụ bên ngành thứ, tôi thường gọi là cụ trưởng tiểu tông, mấy hôm trước sang chơi với vợ chồng tôi, khề khà chén chú chén anh một chặp, ông già gần bảy mươi tuổi mới do dự bày tỏ:

    - Thưa hai bác, dù hai bác có bảo em lẫn cẫn, em cũng cứ tình thực góp ý. Hai bác là trưởng ngành đại tông, tức thị trưởng cả Họ ta, lại đang giữ gìn hương khói từ đường thay mặt Họ tộc, làm sao đừng để trong Họ ngoài làng xì xào dị nghị. Họ ta đâu phải vô danh tiểu tốt. Các cụ Tổ được cả nước ngưỡng vọng, cả nước quan tâm. Nay di duệ sống không ra gì tránh sao khỏi tai tiếng. Xin mỗi bác cố gắng một chút.

    Tôi thật cảm kích trước tấm lòng ông. Nhưng người ta không thể cố gắng yêu. Biết đâu hăm tám năm chung sống đối với anh chẳng là một sự lưu đầy. Biết đâu bây giờ anh sẽ tìm được một chút hạnh phúc cho tuổi về già... Tôi chỉ cay đắng tự hỏi những khoảng thời gian hạnh phúc ít ỏi tôi đã trải qua cùng anh rút cục là có thật hay cũng chỉ là một con số ảo trên mặt quân xúc xắc.

    Với tôi như vậy sẽ là một kết thúc buồn. Tôi được anh dắt về đây từ một đêm huyền hoặc cổ tích. Hai mươi cây số ở một địa điểm sơ tán, chúng tôi cứ nắm tay nhau đi bộ. Tới bờ sông Hồng anh rụt rè hôn tôi, cái hôn bị kìm nén sau bao ngày tháng... Nay tình yêu ấy đã bay mất, tôi còn lý do gì ở lại đây? Tôi sẽ chia tay anh. Một người đàn bà tự trọng phải biết rút lui đúng lúc.

    Những lời cuối cùng đã nói với nhau. Tôi bảo rằng đã chuẩn bị một nơi ở mới, nhưng không báo trước sớm mai sẽ lên đường. Với mấy bộ quần áo, chẳng có gì phải chuẩn bị ồn ào. Sự ra đi sao cho giống những đợt công tác càng tốt.

    Tôi sẽ tính cách đưa con cháu đi cùng. Khu nhà thờ hương hỏa này anh ấy cần có mặt để gìn giữ. Tôi chỉ giữ lại căn phòng bên tả mặc nhà thờ, nơi đặt cái giường đôi chúng tôi đang nằm đây. Không phải để phòng lúc quay về. Đơn giản vì tôi không muốn một người đàn bà khác bước vào phòng, nằm trên cái giường này và anh ấy sẽ nói những lời rất riêng, những lời ngớ ngẩn thơ dại, thứ ngôn từ của những đêm ân ái chúng tôi thường dùng. Để tránh xúc phạm cả tôi lẫn cô ấy. Dù sao mọi thứ đang còn nóng hổi. Là tôi vẫn nghĩ anh ấy thuộc diện đàn ông có tâm hồn nhạy cảm.

    Tôi trở mình.

    Tích tắc! Tích tắc! Tiếng cái đồng hồ treo tường kiên nhẫn đếm từng khắc mất ngủ. Gần nửa năm nay, nó thao thức cùng tôi, rất khẽ khàng, trung thành. Một tặng vật tôi giữ làm kỷ niệm. Ngày mai phải nhớ cho nó vào va ly. Trong căn phòng rồi sẽ khóa cửa im ỉm, bụi bặm dần phủ mờ mọi dấu vết tôi, nó ở lại sẽ giống như một trái tim thoi thóp giữa đống phế tích. Tội nghiệp nó.

    Gần nửa năm, quãng thời gian không phải ngắn, đủ để anh ấy suy nghĩ quyết định. Và chồng tôi đã nói rằng anh trót lỡ nặng lời hứa hẹn với cô ta, anh không muốn trở thành người lừa dối.

    Gần nửa năm, quãng thời gian đủ dài để tôi cân nhắc trước quyết định chia tay. Nếu phải ra đi, điều tôi sợ là ở phía đứa con trai duy nhất của chúng tôi. Tuy nó đã lấy vợ lại mới sinh một cháu bé gái đầu lòng, nhưng cái tiểu gia đình ấy thật mỏng manh dễ vỡ. Chúng đang còn như những đứa trẻ chơi trò vợ chồng. Tôi đã không ngăn được một đám cưới xảy ra ba năm trước đây. Rút cục một thiên thần bé bỏng ra đời ngoài sự lựa chọn của chính mình.

    Chồng tôi năn nỉ: Hãy ở lại với con cháu. Cũng đừng khắt khe với anh. Coi như anh đã chết rồi vậy.

    Chồng tôi tính lầm. Những ngày sống của tôi không còn dài lắm. Với thứ bệnh tai ngược tôi đang mang trong người, sự chịu đựng cùng những cơn trầm uất sẽ nhanh chóng cướp nốt cái mẩu quỹ thời gian ít ỏi tôi còn lại. Mà với một quyết tâm sắt đá tôi phải sống, sống để vớt vát gây gột cho đứa trẻ mới rời nôi kia. Như thế tôi đã nhìn thấy trước những số phận nó...

    Ôi hai con mắt đen láy tươi cười nhìn tôi như những đốm nắng rực rỡ chiếu sáng căn phòng u tối tâm hồn tôi. Ngay khi bà đỡ quấn vội mảnh tã cho nó rồi trao vào tay tôi, tôi đã linh cảm rằng cái sinh vật đỏ hỏn vừa mới chào đời sẽ gắn chặt với đời tôi như một tiền duyên từ kiếp trước.

    Những ngày đầu mẹ nó nhiều sữa quá, mỗi khi cho con bú chỉ ngừng năm phút đã phải dứt ra. Thời gian còn lại con bé mút mát vú bà cho đỡ cơn thèm. Và bao giờ cũng thế, khi con bé cuống quýt rúc vào ngực tôi, vồ vập núm vú, nún lấy nún để, tôi bỗng muốn khóc vì một cảm giác sung sướng khó tả. Như thể thiên chức thiêng liêng của người đàn bà đơn giản chỉ là cái nhồn nhột rạo rực đang dâng lên trong ngực tôi từ từ từng chút một... dâng lên nóng hai vai, lên cổ, lên má và tê dại xâm chiếm tận từng ngọn tóc. Tôi ngồi bất động thấm đẫm niềm ngọt ngào nồng nàn của những bản thánh ca vang đâu đó trong một khoảng không gian mơ hồ... Rồi ngọn triều êm đềm rút xuống, rất chậm. Thân thể tôi thoắt trong veo, mềm tựa bông. Con bé ngừng nún từng quãng ngắn. Cái nốt nghỉ ngân nga lâu dần đến lúc tự đôi môi nhỏ xíu rời ngực tôi. Nó đã ngủ. Tôi khe khẽ hít lấy mùi thơm gây của bàn tay bé tí nắm chặt. Tôi không rời mắt khỏi cái miệng ươn ướt, đôi lúc vẫn nhóp nhép núm vú trong tưởng tượng.

    Tôi ngồi như vậy hàng giờ, say mê không chán. Đó là quãng thời gian sung sướng nhất. Tôi thong thả ngẫm nghĩ về lẽ huyền diệu của trời đất, ngồi xem cái sinh vật mình đang bồng ẵm che chở lúc này đang nhích dần vào thế giới hỉ nộ ái lạc của con người. Mười hai bà mụ đang dạy nó nheo mày, nhíu mắt, cười khóc trong mơ.

    Đêm đêm tôi đặt tay lên đầu con bé thì thầm niệm Phật: "Nam mô Đại từ Đại bi Cứu khổ cứu nạn Quan thế âm Bồ tát...". Lòng tôi thổn thức nhận ra sự mộ đạo chân thành bất ngờ của chính mình. Tôi chỉ nguyện một điều: Xin các đấng từ bi hãy cứu mọi khổ nạn cho sinh linh bé bỏng này. Xin để tôi gánh chịu mọi tai ương nghiệp chướng của số phận nó. Trong giây phút huyền nhiệm ấy tôi có cảm giác một luồng điện từ lòng tay tôi đang truyền sang cơ thể con bé qua nơi được gọi là huyệt Bách hội, là Luân xa số bảy.

    Hồi gia đình tôi chưa xảy chuyện, không hiểu nghĩ ngợi ra sao, tôi đã vẽ bức tranh Thiên đường. Trên một hoang mạc cát có đứa hài đồng ngồi cô đơn, lưng quay về phía nắng chiều. Bên cạnh nơi nó ngồi rải rác những mảnh vỡ của một cái bình cổ. Những mảnh vỡ này ngập chìm dưới cát bụi làm biến mất một phần họa tiết được khắc trên đó. Chân trời mờ mịt gió lốc trắng xóa.

    Dù tôi vẽ phía sau đứa trẻ nhưng ai cũng nhận ra con bé cháu nội chưa đầy hai tuổi của tôi. Tôi đã lấy nó làm mẫu. Nhìn vẻ cô đơn đến thắt lòng của Thiên đường, sau này tôi chợt hiểu đó là một điềm báo chẳng lành. Lẽ ra tôi không được nảy ý nghĩ ví von Thượng đế với đứa trẻ côi cút, một mình lặng lẽ giữa hoang mạc với những mảnh vỡ quá khứ vàng son.

    Tôi luôn tin vào những điềm báo. Tôi đã có những giấc mơ ứng nghiệm lạ lùng. Ví như tôi phát hiện chuyện dan díu của anh ấy cũng nhờ một giấc mơ báo trước. Trước giấc mơ tôi hoàn toàn tin vào sự thủy chung của chồng tôi. Nhưng tôi mơ thấy người đàn bà lạ đang uốn éo quyến rũ anh ấy vào chuyện sa ngã. Hai ngày sau nhờ một bức ảnh tôi tình cờ biết được sự thật như thế. Cũng những tình tiết y hệt tôi mơ.

    Không thể giải thích được. Tôi biết rất nhiều câu hát ru, nhưng không hiểu tại sao cứ ôm cháu tôi lại buột miệng hát:

    Con cò đi đón cơn mưa

    Tối tăm mù mịt ai đưa cò về...

    Đến bây giờ con bé cũng ngọng nghịu véo von: "Ton tỏ đi đón tơn mưa...", đó cũng lại là một điềm báo.

    Đến bây giờ tôi hiểu cơn mưa giông mù mịt đang sắp ập xuống đầu con cò tội nghiệp của tôi.

    Mỗi lời ru ẩn chứa một tâm sự với nhiều biến thể tùy theo cảnh ngộ người hát. Ngày xửa ngày xưa cũng trên một cánh võng đay cũ kỹ, tôi nhớ như in tiếng mẹ trầm bổng vời vợi hát ru em gái tôi:

    Chàng ơi phụ thiếp làm chi

    Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng...

    Con gái một cụ chánh tổng, mẹ làm dâu nhà nội tôi từ thuở mười lăm. Ba chục năm sau mẹ chiều ý chồng đội lễ đi hỏi vợ lẽ cho ông. Tôi cứ mãi hình dung con đê chiều mùa thu, cỏ bông lau phơ phất, từ bãi dâu bên kia sông tiếng gọi đò tha thiết vẳng sang, mẹ cùng một bà cô già lầm lũi đi. Tráp quả mang trầu cau, cân chè, mẹ đội trên đầu đè nặng từng bước. Nặng hơn nỗi buồn nức nở trong lòng mẹ. Như thể mẹ đang mang trái tim mình đi tới nơi hiến tế cho một thói tục, âm thầm nhẫn nhục.

    Mẹ ơi, cớ sao mẹ cam làm hạt cơm nguội, cái hạt cơm hẩm hiu khiến tim con buốt nhói suốt một đời, khi con nghĩ về mẹ?

    Chồng tôi trở mình.

    Anh ấy cũng không ngủ ư? Hay anh đã đoán được sáng sớm mai tôi đi, lần ra đi mãi mãi? Càng hay. Tôi rất muốn tránh sự sướt mướt.

    Nghe đâu cô ta đã ba con, đứa lớn sắp gả chồng. Năm ngoái anh chồng bỏ cô ta để sống với một cô gái mới ngoài hai mươi tuổi... Rõ cái vòng luẩn quẩn!

    Thuở nhỏ tôi có người bạn trai tên Báu, con ông cụ hàng mã nổi tiếng phố chợ. Báu rất chiều tôi. Một rằm trung thu cậu tự tay làm cái đèn kéo quân thật đặc biệt để tặng tôi. Nhưng Báu không cho phép tò mò xem cậu chuẩn bị. Suốt nửa tháng trời tôi nài nỉ, giận dỗi, đòi được tham gia, nhưng Báu nhất định giữ bí mật. Khi mọi thứ sắp xong, Báu nhặt những sợi tóc rụng dài nhất lúc tôi chải đầu để buộc lũ hình nhân giấy. Báu nói phải buộc bằng chính tóc tôi đèn mới dễ quay. "Tớ đã phù phép như thế đấy".

    Đúng đêm rằm trung thu, mặc những tiếng trống thì thùng ngoài sân đình, Báu cầm cái đèn vẫn còn được che bọc kỹ rủ tôi ra cầu đá sông Cái để "làm lễ" khánh thành. Tôi sốt ruột tưởng phát điên, luýnh quýnh chạy theo Báu.

    Cầu đá ngay đầu làng tôi, nơi một dải sông xanh biếc êm đềm chạy qua. Lúc này mặt nước gọn gió như mang trong lòng sông cả triệu ngọn lửa vàng rực.

    Đã đến giây phút long trọng tháo gỡ giấy bọc món đồ chơi thần kỳ. Cậu ta vẫn còn hành tôi, bắt lấy tay che mặt. Nhưng vừa nghe tiếng giấy loạt xoạt tôi đã mở bừng mắt. Trời ơi, quả thật trước mắt tôi là một báu vật chưa hề xuất hiện trên thế gian này. Dưới ánh trăng cái đèn kéo quân rực rỡ lóng lánh những giấy trang kim, tựa hồ nó được dát vàng dát bạc. Tôi mê mẩn nhìn, thậm chí nghẹt thở... Phải nói rằng cái đèn kéo quân ấy là món đồ chơi quyến rũ nhất tôi từng nhìn thấy. Cho đến giờ tôi vẫn không thể quên, dù nó chỉ tồn tại trong chốc lát.

    - Rồi cậu sẽ thấy một điều tuyệt vời ngay bây giờ.

    Báu khéo léo đốt một ngọn nến, cắm vào giữa trụ đèn hình lục lăng. Ngọn lửa làm bừng sáng mầu đỏ huyền hoặc của giấy bóng kính. Mầu đỏ đột ngột choàng lấy hai đứa chúng tôi tựa hồ nó nhuộm cả không gian chung quanh, kéo chúng tôi vào một thế giới bí ẩn. Và khi ngọn nến được thắp lên, trong giây lát tất cả lũ hình nhân bằng giấy cắt bỗng rùng rùng chuyển động. Trước con mắt kinh ngạc của tôi thoắt hiện ra đoàn kỵ binh với cờ bay phấp phới đang truy đuổi quân giặc. Tưởng đâu đây nghe rõ tiếng vó ngựa dồn dập, vũ bão. Tiếp đến chàng Kim Trọng nôn nóng lướt tới hàng liễu rủ, nơi cô Thúy Kiều thướt tha e lệ lùi dần về phía sau như thể chạy trốn. Bên bờ sông Ngân Hà nàng Chức Nữ cắm cúi dệt vải. Ngưu Lang bên sông dắt trâu đứng ngóng. Cặp vợ chồng ấy trôi nhanh cùng dải sông sao giữa một khoảng cách trời đày. Rồi chú rể chuột gò lưng phóng ngựa nước đại, kéo theo sau một bầy rước dâu chấp chới kèn, lọng.

    Cái vòng quay đã hút tất cả hồn vía tôi. Thật bõ công mỏi mòn chờ đợi. Tôi không còn biết đến trăng thu vằng vặc trên đầu, mặt nước lấp lánh phía dưới. Mắt tôi dán chặt vào món đồ chơi phi thường để mặc cho Báu được nắm tay tôi vuốt ve dịu dàng.

    Thế rồi đến phút thế giới mộng ảo của tôi sụp đổ. ở giữa một vòng quay tôi bỗng rụng rời phát hiện nàng Thúy Kiều biến đâu mất. "Ơ này, cậu xem này..." Tôi chưa kịp chỉ cho Báu thì chú rể chuột cũng không còn. Vài vòng quay sau, đoàn quân dũng mãnh rơi rụng dần tựa hồ bị địch bắn tỉa.

    Tôi hét lên một tiếng.

    - Nóng lâu quá tóc cậu bị cháy mất rồi... Tớ xin lỗi... Báu nói như khóc.

    Phải mất một lúc tôi mới hoàn hồn, trống ngực dịu xuống, nước mắt tự dưng ứa ra. Một nỗi buồn giận xâm chiếm tôi. Và thường ngày đành hanh với Báu thành quen, tôi luồn tay xuống dưới lồng đèn, giật đứt những mảnh giấy bám lủng lẳng, những hình nhân mới đó còn là Thúy Kiều, Kim Trọng, Ngưu Lang, Chức Nữ... Trước đôi mắt rầu rĩ của Báu, tôi thả từng hình nhân xuống dòng nước chảy xiết phía dưới, hờn dỗi, không để Báu kịp phân trần.

    Hơn bốn chục năm đã qua, tự nhiên đêm nay tôi nhớ lại chuyện cái đèn kéo quân tới từng chi tiết... ồ vâng, sự Đứt là quy luật tối thượng. Rồi sẽ đến lúc định mệnh buông tha chúng ta khỏi vòng quay luẩn quẩn, từng người một rơi rụng chẳng khác lũ hình nhân giấy.

    Tháng trước trong khi chờ đợi chuyện này ngã ngũ, tôi nhận lời mời đi làm bộ phim tài liệu ở Quảng Ninh.

    "... Rất cần một khoảng không gian xa cách, một khoảng thời gian yên tĩnh để người nọ ngẫm nghĩ về người kia, bình tĩnh tìm ra giải pháp tốt đẹp nhất..."

    Tôi đã đọc những lời khuyên đại loại như vậy ở hàng chục tờ báo. Dạo này tình hình ly hôn tới mức báo động, tờ báo nào cũng có ít nhất một bài khéo léo khuyên nhủ mọi người nên khôn ngoan giữ lấy hạnh phúc gia đình. Tôi sinh ra vồ vập nhiều tờ báo mang chất tâm giao. Bài Người phụ nữ làm gì khi có chồng ngoại tình thậm chí được tôi cắt giữ, coi như một cẩm nang.

    Quảng Ninh là vùng đất tôi bỏ quên từ thuở mười ba. Bởi duy nhất một lần năm mười ba tuổi tôi theo lớp học sinh đi nghỉ hè, tham quan mỏ than để trau dồi tinh thần lao động. Sau này tôi lang thang làm phim gần khắp đất nước, nhưng chưa một lần trở lại Quảng Ninh. Tôi hy vọng sẽ được gặp lại ngôi biệt thự mầu vôi vàng sáng rực trên sườn núi với những vòm cột kiểu kiến trúc Gô-tích, gặp lại mảnh sân có cột cờ, những luống hoa sân nhà ủy ban, nơi hồi đó tôi chôn cất một con chim chết.

    Nhưng tất cả đã khác xưa. Không còn Bãi Cháy mơ màng giữa làn sương buông trắng đồi sim nữa. Bãi Cháy giờ ồn ào náo nhiệt với đủ mọi kiểu khách sạn, nhà nghỉ, nhìn đến chóng mặt.

    Tuy vậy con đường xuống mỏ Mông Dương còn giữ được vẻ hoang vắng thơ mộng của vùng thiên nhiên chưa bị khai phá. Mươi mái nhà bên sườn non yên tĩnh. Một cây gạo đỏ rực giữa những mảng xanh uyển chuyển âm u. Tôi cho hạ máy quay, xuống ô-tô, làm một cảnh toàn lia thật chậm.

    Tôi nói với anh bạn quay phim người địa phương:

    - Sau cảnh này anh cho máy vào gần ngôi nhà sát chân núi kia kìa. Đàn gà con đang tha thẩn giữa sân đấy. Giá có người mẹ trẻ cho con bú trên cái võng ngoài thềm nữa kia thì tuyệt... Tôi rất thèm được ở một ngôi nhà nhỏ dưới chân núi như thế.

    Anh bạn quay phim nhìn tôi một giây chăm chú, hơi mỉm cười.

    - Chị có biết cơn bão năm ngoái đã cuốn rơi đá, đè sập một ngôi nhà dưới chân núi. Hai vợ chồng trẻ cùng đứa con năm tuổi chết ngay bên mâm cơm.

    Hình như bằng lời nói thiếu đồng cảm của mình, anh ta muốn dội một gáo nước lạnh vào thói lãng mạn tôi buột ra. Tôi bẽn lẽn. Cảm ơn anh.

    Tôi chẳng giữ được ấn tượng gì về cuốn phim tài liệu đó. Tôi hào hứng với chuyến đi vì một lý do riêng. Tôi muốn tìm kiếm một người đàn bà chưa biết mặt.

    Cũng nhờ dò hỏi anh quay phim người địa phương, tôi may mắn tìm thấy ngôi nhà bên bến sông, nơi những thuyền gỗ, sà lan thu gom than trôi nổi tư nhân. Đó là một gian hàng bán tạp phẩm, thức ăn, gạo mắm cho những thuyền đỗ dưới bến. Chủ hàng, người đàn bà đứng tuổi với gương mặt héo úa bỗng rạng rỡ hẳn lên khi tôi tự giới thiệu mình ở Hãng phim X. đang trên đường đi công tác.

    - Thế ư? Ngày xưa khi còn trong đoàn văn công tỉnh, mình đã từng tham gia đóng phim đấy nhé.

    Người đàn bà ấy không bao giờ biết chính vì lý do đó tôi đã lặn lội đi tìm chị ta. Đương nhiên chị cũng không biết tôi thật sự là ai, dưới một cái tên giả.

    Câu chuyện thăm hỏi được tôi dắt dẫn vòng vo cho tới lúc chị nhắc tới tên chồng tôi.

    - Em biết không, tay ấy trước là người yêu của chị. Gớm, mê nhau lắm, một hai sống chết quyết lấy nhau. Nhưng khi gia đình tay ấy mang lễ ra đây ăn hỏi, không hiểu ông bố mình nhìn tướng mạo thế nào, nhất định không nhận lễ, không cho lấy. Ôi chao, giá mà...

    Chị ta bỏ dở câu nói, mắt đẫm buồn. Tôi thương cho sự tiếc nuối dại dột ấy. Đôi khi dở dang không phải là không may mắn. Như tôi, thà dở dang ngay khi chúng tôi cùng nhau từ nơi cơ quan sơ tán về Hà Nội đêm đó!

    Tôi không biết mình đã nhỏ nhen theo thói đàn bà, sợ người tình cũ của anh ấy hả hê, hay tôi muốn giữ cho hình ảnh anh ấy mãi đẹp trong tâm khảm người đàn bà này, tôi đã không hé lộ tí gì chuyện đã xảy ra giữa chúng tôi, mặc dù chị ta gặng hỏi tha thiết.

    - ở lại ăn cơm với chị đi. Ngồi đây buồn đến nhão người ra, chẳng biết trò chuyện cùng ai cả em ạ.

    Chị ta không ngờ kém tôi đến ba tuổi, vẫn ngọt ngào xưng chị rất tự nhiên. Tôi không hề phản đối, sợ chị ngượng. Chị ta chóng phai tàn hơn tôi hình dung.

    Tôi ra về vẫn không tìm được lời giải cho lòng hiếu kỳ. Anh ấy muốn tìm hiểu gì ở những người đàn bà anh yêu? Những người đàn bà, kể cả tôi đã đặt tình yêu vào con người này vì sao?

    Tôi chấm dứt đợt quay ở đảo khỉ một hòn đảo cách bờ vịnh không xa. Tôi đã chộp được những cảnh sinh hoạt của lũ khỉ thật sinh động. Hàng ngàn con khỉ được nuôi dưỡng ở đây để cống hiến vắc-xin chống bại liệt cho con trẻ.

    "Chúa đảo khỉ" là một người đàn ông dễ mến. ở trên hòn đảo này cùng vợ con gần hết đời người, anh đã thuộc tính nết từng thần dân của mình, chăm sóc chúng với một tình thương rất lạ.

    - Chúng chẳng khác con người là mấy đâu chị. Kia, chị có thấy con khỉ vàng nhạt đang nấp ở cành cụt cây trứng cá kia không? Chị để ý kỹ nhé... Đấy...

    Con khỉ vàng nhạt ló đầu rình một cặp mẹ con khỉ khác ôm nhau quấn quýt trên chạc cây bên cạnh. Ông chúa đảo phát một tín hiệu bằng thứ âm thanh lạ hoắc, ném quả chuối đang cầm tay xuống gốc cây. Con khỉ mẹ do dự một chút rồi nhẹ nhàng đặt chú khỉ tí hon bám lấy cành cây, nó đu mình nhảy xuống nhặt quả chuối. Con khỉ vàng nhạt chỉ chờ lúc đó, lao vội đến chỗ chú khỉ tí hon, vồ vập ôm ấp hít ngửi. Con mẹ quay lại thấy vậy lập tức buông rơi quả chuối, lăn xả cào cấu kẻ trộm. Tiếng chí chóe đan xen nhau. Con khỉ vàng nhạt xoay mình chịu trận lôi đình của khỉ mẹ, cố hôn hít chú tí hon đến cùng. Nhưng rốt cục nó vẫn phải bỏ chạy. Khỉ mẹ ôm chặt khỉ con sờ nắn, nâng niu. Thỉnh thoảng nó ngoái nhìn, nhe răng gừ con khỉ vàng nhạt vẫn còn lởn vởn cạnh đó.

    - Cô khỉ cái vàng nhạt vô sinh ấy suốt ngày rình mò dỗ dành bế ẵm con của bạn nó. Tội nghiệp, lắm khi bị cắn xé máu chảy ròng ròng, phải bắt về băng bó. Đám khỉ mẹ yêu con ghê gớm lắm chị ạ. Chẳng may con nó bệnh chết, nó cứ khư khư ôm chặt mà kêu gào kỳ đến lúc cái xác thối rữa, không cho gỡ ra. Tôi nghĩ khỉ sợ mùi mắm tôm có lẽ do vậy chăng.

    Tôi ngẫm nghĩ về những con khỉ. May cho chúng không bị đảo lộn đời sống như con người.

    Vị chúa tể đảo kể cho tôi nghe rằng chuyện tình của khỉ cũng đầy thi vị. Mùa thu, mùa tình yêu, những chú khỉ đực chia từng bộ lạc đánh nhau chí tử để tranh giành bạn tình. Những bạn tình đã gắn bó sẽ sống chết với nhau đến hết đời. Anh kể, hồi chiến tranh ác liệt nhất đàn khỉ phải chia đôi, sơ tán một nửa sang đảo đá bên cạnh, cách xa đây khoảng nửa cây số mặt biển. Người ta không ngờ đã chia rẽ những cặp tình nhân. Thế rồi đột nhiên có những con khỉ cứ leo lên tít ngọn cây cao, hướng về phía đảo đá kêu gào, không chịu ăn uống cho tới lúc chết lả. Ngược lại phía đảo đá có những chú khỉ đực nhào xuống biển bơi về đây. Người bạn tình bên này thương cảm các chàng đuối sức cũng lao ra. Chúng ôm nhau chết đuối giữa mênh mông sóng nước. Không phải lúc nào thuyền cứu hộ của chúa đảo cũng cứu được hết.

    Ngồi trên thuyền rời khỏi đảo khỉ tôi chợt mơ mộng. Tôi hình dung lúc này người ta đang nháo nhác tìm tôi. Tôi đã biến đi đâu mất tích. Người ta lùng sục từng gốc cây ngọn cỏ khắp đảo vẫn không thấy. Cuối cùng mọi người đều nghĩ tôi đã gieo mình xuống biển... Không đâu, ồ không ngu xuẩn như thế. Tôi đang khúc khích trên một cành cây cao nào đó, khẹc khẹc, chào từ biệt con người. Tôi đã ở lại đảo, nhập đàn với đồng loại hoang dã tự do.

    Tôi và chồng tôi cùng trở mình.

    Gà gáy sáng. Một bàn tay tôi chạm vào tay anh. Tự nhiên những ngón tay tôi tìm xiết chặt lấy những ngón tay anh, đan vào nhau. Tôi thấy những ngón tay của anh cũng từ từ riết chặt. Ngỡ chẳng bao giờ chúng ta lạc mất nhau phải không anh? Vĩnh biệt.

    Trăm nghìn xin gửi lại

    Buồn thương vô tuyệt kỳ...

    Nhạc đêm khuya thật hay. Người ta có sáng kiến đáng kể khi soạn chương trình nhạc suốt đêm cho những cái giường mất ngủ. Đã lâu lắm tôi mới được nghe lại nét nhạc cũ... Kiệu công chúa từ xa đang tới gần khu chợ phiên ồn ào. Ai cũng biết đằng sau những tấm rèm lụa lộng lẫy dính đầy châu báu là một nhan sắc khuynh thành mơn mởn thanh xuân. Thần dân Ba Tư kính cẩn quỳ rạp bên đường chờ đám rước trang nghiêm với tiếng nhạc dìu dặt, với đoàn thị nữ tha thướt đi qua... Hỡi nàng công chúa mười sáu năm xưa, nay nàng ra sao? Nàng hạnh phúc hay bất hạnh? Đời sống vương giả có cứu nàng thoát khỏi bi kịch cay đắng?

    Chồng tôi trở mình.

    Tôi bỗng nhớ chiều nay một con ong vàng mật săm soi quanh quẩn bên cái vì kèo chạm đầu rồng của ngôi từ đường cổ kính nhà tôi. Tiếng vo ve dai dẳng khiến tôi sinh lo ngại. Tôi bảo anh:

    - Anh nhìn xem con ong tìm gì ở đó vậy?

    - Nó tìm nơi làm tổ. Em không thấy mẩu sáp bằng hạt lạc kia ư?

    - Chẳng lẽ nó không có tổ hay sao?

    - Sao lại không. Nhưng đến một lúc nào đó chúng chia đàn, đi tìm nơi làm tổ mới.

    Tôi không nghe được hết những lời giải thích của anh ấy. Tự nhiên đầu óc tôi lãng đi. Tổ mới... chia đàn... Sau hai mươi tám năm chung sống có hai con ong cũng sắp chia đàn, tìm nơi làm tổ mới... Chuyện ấy thật khó tin. Phần lớn người ta sống theo thói quen. Như đêm đến cứ phải đi nằm dù không ngủ được. Như gần ba chục năm tôi quen sống bên cạnh anh ấy tựa bóng với hình, quen cả những lúc hình bóng co kéo vật vã để giữ cho cái tổ chúng tôi đứng vững trước sóng gió muôn mặt đời thường.

    Bởi vậy tôi thật bàng hoàng khi nghe anh ấy thổ lộ: "Em thể tất cho anh. Em thuộc con người của những hoạt động xã hội. Anh lại cần một tình yêu tầm thường thôi, một người để làm vợ anh theo nghĩa thông tục nhất". Tại sao anh ấy nhận lấy một sai lầm khó bào chữa như thế? Tôi thương anh. Giá anh chỉ nói đơn giản rằng sau gần ba mươi năm rã rời vì cuộc mưu sinh, tình cảm của chúng tôi đã rách tươm như lá cờ giữa trận tiền, không thể vá víu được nữa.

    Và sẽ không ai có lỗi nếu người ta phải chạy trốn một đời sống nhàm chán đến phát sốt.

    Dù sao con số hăm tám năm chung sống trong thời buổi này cũng đã có một độ bền xấp xỉ mức kỷ lục. Pho ái tình ấy xứng đáng đứng chung hàng ngũ những chàng lực sĩ khổng lồ. Chàng đã chiến thắng mọi gian khổ qua hai cuộc chiến tranh, cái thời chúng tôi tranh nhau phần ngoài cửa hầm tránh bom, nhường nhau nửa giường thoáng gió đêm sơ tán. Chàng khổng lồ ấy chỉ vô ý xỉa răng bằng cái kim sắt rỉ, do đó bị tê-ta-nốt chết. Đã đành cái chết luôn diễn ra dưới muôn vàn mầu sắc, nhưng chết kiểu anh chàng ái tình to xác này thật quá lố bịch. Lẽ nào chỉ vì một dịp chồng tôi đi công tác, một dịp tình cờ gặp cô ấy, tình cờ phải nói dối... rồi tất cả tự nó chấm dứt, tất cả sụp đổ trong lặng lẽ?

    Tại sao lại ra thế này hở anh? Tôi hỏi chồng tôi đến hàng ngàn lần và lần thứ ngàn lẻ một tôi vẫn đầy ngơ ngác.

    Ông cụ bên ngành thứ, tôi thường gọi là cụ trưởng tiểu tông, mấy hôm trước sang chơi với vợ chồng tôi, khề khà chén chú chén anh một chặp, ông già gần bảy mươi tuổi mới do dự bày tỏ:

    - Thưa hai bác, dù hai bác có bảo em lẫn cẫn, em cũng cứ tình thực góp ý. Hai bác là trưởng ngành đại tông, tức thị trưởng cả Họ ta, lại đang giữ gìn hương khói từ đường thay mặt Họ tộc, làm sao đừng để trong Họ ngoài làng xì xào dị nghị. Họ ta đâu phải vô danh tiểu tốt. Các cụ Tổ được cả nước ngưỡng vọng, cả nước quan tâm. Nay di duệ sống không ra gì tránh sao khỏi tai tiếng. Xin mỗi bác cố gắng một chút.

    Tôi thật cảm kích trước tấm lòng ông. Nhưng người ta không thể cố gắng yêu. Biết đâu hăm tám năm chung sống đối với anh chẳng là một sự lưu đầy. Biết đâu bây giờ anh sẽ tìm được một chút hạnh phúc cho tuổi về già... Tôi chỉ cay đắng tự hỏi những khoảng thời gian hạnh phúc ít ỏi tôi đã trải qua cùng anh rút cục là có thật hay cũng chỉ là một con số ảo trên mặt quân xúc xắc.

    Với tôi như vậy sẽ là một kết thúc buồn. Tôi được anh dắt về đây từ một đêm huyền hoặc cổ tích. Hai mươi cây số ở một địa điểm sơ tán, chúng tôi cứ nắm tay nhau đi bộ. Tới bờ sông Hồng anh rụt rè hôn tôi, cái hôn bị kìm nén sau bao ngày tháng... Nay tình yêu ấy đã bay mất, tôi còn lý do gì ở lại đây? Tôi sẽ chia tay anh. Một người đàn bà tự trọng phải biết rút lui đúng lúc.

    Những lời cuối cùng đã nói với nhau. Tôi bảo rằng đã chuẩn bị một nơi ở mới, nhưng không báo trước sớm mai sẽ lên đường. Với mấy bộ quần áo, chẳng có gì phải chuẩn bị ồn ào. Sự ra đi sao cho giống những đợt công tác càng tốt.

    Tôi sẽ tính cách đưa con cháu đi cùng. Khu nhà thờ hương hỏa này anh ấy cần có mặt để gìn giữ. Tôi chỉ giữ lại căn phòng bên tả mặc nhà thờ, nơi đặt cái giường đôi chúng tôi đang nằm đây. Không phải để phòng lúc quay về. Đơn giản vì tôi không muốn một người đàn bà khác bước vào phòng, nằm trên cái giường này và anh ấy sẽ nói những lời rất riêng, những lời ngớ ngẩn thơ dại, thứ ngôn từ của những đêm ân ái chúng tôi thường dùng. Để tránh xúc phạm cả tôi lẫn cô ấy. Dù sao mọi thứ đang còn nóng hổi. Là tôi vẫn nghĩ anh ấy thuộc diện đàn ông có tâm hồn nhạy cảm.

    Tôi trở mình.

    Tích tắc! Tích tắc! Tiếng cái đồng hồ treo tường kiên nhẫn đếm từng khắc mất ngủ. Gần nửa năm nay, nó thao thức cùng tôi, rất khẽ khàng, trung thành. Một tặng vật tôi giữ làm kỷ niệm. Ngày mai phải nhớ cho nó vào va ly. Trong căn phòng rồi sẽ khóa cửa im ỉm, bụi bặm dần phủ mờ mọi dấu vết tôi, nó ở lại sẽ giống như một trái tim thoi thóp giữa đống phế tích. Tội nghiệp nó.

    Gần nửa năm, quãng thời gian không phải ngắn, đủ để anh ấy suy nghĩ quyết định. Và chồng tôi đã nói rằng anh trót lỡ nặng lời hứa hẹn với cô ta, anh không muốn trở thành người lừa dối.

    Gần nửa năm, quãng thời gian đủ dài để tôi cân nhắc trước quyết định chia tay. Nếu phải ra đi, điều tôi sợ là ở phía đứa con trai duy nhất của chúng tôi. Tuy nó đã lấy vợ lại mới sinh một cháu bé gái đầu lòng, nhưng cái tiểu gia đình ấy thật mỏng manh dễ vỡ. Chúng đang còn như những đứa trẻ chơi trò vợ chồng. Tôi đã không ngăn được một đám cưới xảy ra ba năm trước đây. Rút cục một thiên thần bé bỏng ra đời ngoài sự lựa chọn của chính mình.

    Chồng tôi năn nỉ: Hãy ở lại với con cháu. Cũng đừng khắt khe với anh. Coi như anh đã chết rồi vậy.

    Chồng tôi tính lầm. Những ngày sống của tôi không còn dài lắm. Với thứ bệnh tai ngược tôi đang mang trong người, sự chịu đựng cùng những cơn trầm uất sẽ nhanh chóng cướp nốt cái mẩu quỹ thời gian ít ỏi tôi còn lại. Mà với một quyết tâm sắt đá tôi phải sống, sống để vớt vát gây gột cho đứa trẻ mới rời nôi kia. Như thế tôi đã nhìn thấy trước những số phận nó...

    Ôi hai con mắt đen láy tươi cười nhìn tôi như những đốm nắng rực rỡ chiếu sáng căn phòng u tối tâm hồn tôi. Ngay khi bà đỡ quấn vội mảnh tã cho nó rồi trao vào tay tôi, tôi đã linh cảm rằng cái sinh vật đỏ hỏn vừa mới chào đời sẽ gắn chặt với đời tôi như một tiền duyên từ kiếp trước.

    Những ngày đầu mẹ nó nhiều sữa quá, mỗi khi cho con bú chỉ ngừng năm phút đã phải dứt ra. Thời gian còn lại con bé mút mát vú bà cho đỡ cơn thèm. Và bao giờ cũng thế, khi con bé cuống quýt rúc vào ngực tôi, vồ vập núm vú, nún lấy nún để, tôi bỗng muốn khóc vì một cảm giác sung sướng khó tả. Như thể thiên chức thiêng liêng của người đàn bà đơn giản chỉ là cái nhồn nhột rạo rực đang dâng lên trong ngực tôi từ từ từng chút một... dâng lên nóng hai vai, lên cổ, lên má và tê dại xâm chiếm tận từng ngọn tóc. Tôi ngồi bất động thấm đẫm niềm ngọt ngào nồng nàn của những bản thánh ca vang đâu đó trong một khoảng không gian mơ hồ... Rồi ngọn triều êm đềm rút xuống, rất chậm. Thân thể tôi thoắt trong veo, mềm tựa bông. Con bé ngừng nún từng quãng ngắn. Cái nốt nghỉ ngân nga lâu dần đến lúc tự đôi môi nhỏ xíu rời ngực tôi. Nó đã ngủ. Tôi khe khẽ hít lấy mùi thơm gây của bàn tay bé tí nắm chặt. Tôi không rời mắt khỏi cái miệng ươn ướt, đôi lúc vẫn nhóp nhép núm vú trong tưởng tượng.

    Tôi ngồi như vậy hàng giờ, say mê không chán. Đó là quãng thời gian sung sướng nhất. Tôi thong thả ngẫm nghĩ về lẽ huyền diệu của trời đất, ngồi xem cái sinh vật mình đang bồng ẵm che chở lúc này đang nhích dần vào thế giới hỉ nộ ái lạc của con người. Mười hai bà mụ đang dạy nó nheo mày, nhíu mắt, cười khóc trong mơ.

    Đêm đêm tôi đặt tay lên đầu con bé thì thầm niệm Phật: "Nam mô Đại từ Đại bi Cứu khổ cứu nạn Quan thế âm Bồ tát...". Lòng tôi thổn thức nhận ra sự mộ đạo chân thành bất ngờ của chính mình. Tôi chỉ nguyện một điều: Xin các đấng từ bi hãy cứu mọi khổ nạn cho sinh linh bé bỏng này. Xin để tôi gánh chịu mọi tai ương nghiệp chướng của số phận nó. Trong giây phút huyền nhiệm ấy tôi có cảm giác một luồng điện từ lòng tay tôi đang truyền sang cơ thể con bé qua nơi được gọi là huyệt Bách hội, là Luân xa số bảy.

    Hồi gia đình tôi chưa xảy chuyện, không hiểu nghĩ ngợi ra sao, tôi đã vẽ bức tranh Thiên đường. Trên một hoang mạc cát có đứa hài đồng ngồi cô đơn, lưng quay về phía nắng chiều. Bên cạnh nơi nó ngồi rải rác những mảnh vỡ của một cái bình cổ. Những mảnh vỡ này ngập chìm dưới cát bụi làm biến mất một phần họa tiết được khắc trên đó. Chân trời mờ mịt gió lốc trắng xóa.

    Dù tôi vẽ phía sau đứa trẻ nhưng ai cũng nhận ra con bé cháu nội chưa đầy hai tuổi của tôi. Tôi đã lấy nó làm mẫu. Nhìn vẻ cô đơn đến thắt lòng của Thiên đường, sau này tôi chợt hiểu đó là một điềm báo chẳng lành. Lẽ ra tôi không được nảy ý nghĩ ví von Thượng đế với đứa trẻ côi cút, một mình lặng lẽ giữa hoang mạc với những mảnh vỡ quá khứ vàng son.

    Tôi luôn tin vào những điềm báo. Tôi đã có những giấc mơ ứng nghiệm lạ lùng. Ví như tôi phát hiện chuyện dan díu của anh ấy cũng nhờ một giấc mơ báo trước. Trước giấc mơ tôi hoàn toàn tin vào sự thủy chung của chồng tôi. Nhưng tôi mơ thấy người đàn bà lạ đang uốn éo quyến rũ anh ấy vào chuyện sa ngã. Hai ngày sau nhờ một bức ảnh tôi tình cờ biết được sự thật như thế. Cũng những tình tiết y hệt tôi mơ.

    Không thể giải thích được. Tôi biết rất nhiều câu hát ru, nhưng không hiểu tại sao cứ ôm cháu tôi lại buột miệng hát:

    Con cò đi đón cơn mưa

    Tối tăm mù mịt ai đưa cò về...

    Đến bây giờ con bé cũng ngọng nghịu véo von: "Ton tỏ đi đón tơn mưa...", đó cũng lại là một điềm báo.

    Đến bây giờ tôi hiểu cơn mưa giông mù mịt đang sắp ập xuống đầu con cò tội nghiệp của tôi.

    Mỗi lời ru ẩn chứa một tâm sự với nhiều biến thể tùy theo cảnh ngộ người hát. Ngày xửa ngày xưa cũng trên một cánh võng đay cũ kỹ, tôi nhớ như in tiếng mẹ trầm bổng vời vợi hát ru em gái tôi:

    Chàng ơi phụ thiếp làm chi

    Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng...

    Con gái một cụ chánh tổng, mẹ làm dâu nhà nội tôi từ thuở mười lăm. Ba chục năm sau mẹ chiều ý chồng đội lễ đi hỏi vợ lẽ cho ông. Tôi cứ mãi hình dung con đê chiều mùa thu, cỏ bông lau phơ phất, từ bãi dâu bên kia sông tiếng gọi đò tha thiết vẳng sang, mẹ cùng một bà cô già lầm lũi đi. Tráp quả mang trầu cau, cân chè, mẹ đội trên đầu đè nặng từng bước. Nặng hơn nỗi buồn nức nở trong lòng mẹ. Như thể mẹ đang mang trái tim mình đi tới nơi hiến tế cho một thói tục, âm thầm nhẫn nhục.

    Mẹ ơi, cớ sao mẹ cam làm hạt cơm nguội, cái hạt cơm hẩm hiu khiến tim con buốt nhói suốt một đời, khi con nghĩ về mẹ?

    Chồng tôi trở mình.

    Anh ấy cũng không ngủ ư? Hay anh đã đoán được sáng sớm mai tôi đi, lần ra đi mãi mãi? Càng hay. Tôi rất muốn tránh sự sướt mướt.

    Nghe đâu cô ta đã ba con, đứa lớn sắp gả chồng. Năm ngoái anh chồng bỏ cô ta để sống với một cô gái mới ngoài hai mươi tuổi... Rõ cái vòng luẩn quẩn!

    Thuở nhỏ tôi có người bạn trai tên Báu, con ông cụ hàng mã nổi tiếng phố chợ. Báu rất chiều tôi. Một rằm trung thu cậu tự tay làm cái đèn kéo quân thật đặc biệt để tặng tôi. Nhưng Báu không cho phép tò mò xem cậu chuẩn bị. Suốt nửa tháng trời tôi nài nỉ, giận dỗi, đòi được tham gia, nhưng Báu nhất định giữ bí mật. Khi mọi thứ sắp xong, Báu nhặt những sợi tóc rụng dài nhất lúc tôi chải đầu để buộc lũ hình nhân giấy. Báu nói phải buộc bằng chính tóc tôi đèn mới dễ quay. "Tớ đã phù phép như thế đấy".

    Đúng đêm rằm trung thu, mặc những tiếng trống thì thùng ngoài sân đình, Báu cầm cái đèn vẫn còn được che bọc kỹ rủ tôi ra cầu đá sông Cái để "làm lễ" khánh thành. Tôi sốt ruột tưởng phát điên, luýnh quýnh chạy theo Báu.

    Cầu đá ngay đầu làng tôi, nơi một dải sông xanh biếc êm đềm chạy qua. Lúc này mặt nước gọn gió như mang trong lòng sông cả triệu ngọn lửa vàng rực.

    Đã đến giây phút long trọng tháo gỡ giấy bọc món đồ chơi thần kỳ. Cậu ta vẫn còn hành tôi, bắt lấy tay che mặt. Nhưng vừa nghe tiếng giấy loạt xoạt tôi đã mở bừng mắt. Trời ơi, quả thật trước mắt tôi là một báu vật chưa hề xuất hiện trên thế gian này. Dưới ánh trăng cái đèn kéo quân rực rỡ lóng lánh những giấy trang kim, tựa hồ nó được dát vàng dát bạc. Tôi mê mẩn nhìn, thậm chí nghẹt thở... Phải nói rằng cái đèn kéo quân ấy là món đồ chơi quyến rũ nhất tôi từng nhìn thấy. Cho đến giờ tôi vẫn không thể quên, dù nó chỉ tồn tại trong chốc lát.

    - Rồi cậu sẽ thấy một điều tuyệt vời ngay bây giờ.

    Báu khéo léo đốt một ngọn nến, cắm vào giữa trụ đèn hình lục lăng. Ngọn lửa làm bừng sáng mầu đỏ huyền hoặc của giấy bóng kính. Mầu đỏ đột ngột choàng lấy hai đứa chúng tôi tựa hồ nó nhuộm cả không gian chung quanh, kéo chúng tôi vào một thế giới bí ẩn. Và khi ngọn nến được thắp lên, trong giây lát tất cả lũ hình nhân bằng giấy cắt bỗng rùng rùng chuyển động. Trước con mắt kinh ngạc của tôi thoắt hiện ra đoàn kỵ binh với cờ bay phấp phới đang truy đuổi quân giặc. Tưởng đâu đây nghe rõ tiếng vó ngựa dồn dập, vũ bão. Tiếp đến chàng Kim Trọng nôn nóng lướt tới hàng liễu rủ, nơi cô Thúy Kiều thướt tha e lệ lùi dần về phía sau như thể chạy trốn. Bên bờ sông Ngân Hà nàng Chức Nữ cắm cúi dệt vải. Ngưu Lang bên sông dắt trâu đứng ngóng. Cặp vợ chồng ấy trôi nhanh cùng dải sông sao giữa một khoảng cách trời đày. Rồi chú rể chuột gò lưng phóng ngựa nước đại, kéo theo sau một bầy rước dâu chấp chới kèn, lọng.

    Cái vòng quay đã hút tất cả hồn vía tôi. Thật bõ công mỏi mòn chờ đợi. Tôi không còn biết đến trăng thu vằng vặc trên đầu, mặt nước lấp lánh phía dưới. Mắt tôi dán chặt vào món đồ chơi phi thường để mặc cho Báu được nắm tay tôi vuốt ve dịu dàng.

    Thế rồi đến phút thế giới mộng ảo của tôi sụp đổ. ở giữa một vòng quay tôi bỗng rụng rời phát hiện nàng Thúy Kiều biến đâu mất. "Ơ này, cậu xem này..." Tôi chưa kịp chỉ cho Báu thì chú rể chuột cũng không còn. Vài vòng quay sau, đoàn quân dũng mãnh rơi rụng dần tựa hồ bị địch bắn tỉa.

    Tôi hét lên một tiếng.

    - Nóng lâu quá tóc cậu bị cháy mất rồi... Tớ xin lỗi... Báu nói như khóc.

    Phải mất một lúc tôi mới hoàn hồn, trống ngực dịu xuống, nước mắt tự dưng ứa ra. Một nỗi buồn giận xâm chiếm tôi. Và thường ngày đành hanh với Báu thành quen, tôi luồn tay xuống dưới lồng đèn, giật đứt những mảnh giấy bám lủng lẳng, những hình nhân mới đó còn là Thúy Kiều, Kim Trọng, Ngưu Lang, Chức Nữ... Trước đôi mắt rầu rĩ của Báu, tôi thả từng hình nhân xuống dòng nước chảy xiết phía dưới, hờn dỗi, không để Báu kịp phân trần.

    Hơn bốn chục năm đã qua, tự nhiên đêm nay tôi nhớ lại chuyện cái đèn kéo quân tới từng chi tiết... ồ vâng, sự Đứt là quy luật tối thượng. Rồi sẽ đến lúc định mệnh buông tha chúng ta khỏi vòng quay luẩn quẩn, từng người một rơi rụng chẳng khác lũ hình nhân giấy.

    Tháng trước trong khi chờ đợi chuyện này ngã ngũ, tôi nhận lời mời đi làm bộ phim tài liệu ở Quảng Ninh.

    "... Rất cần một khoảng không gian xa cách, một khoảng thời gian yên tĩnh để người nọ ngẫm nghĩ về người kia, bình tĩnh tìm ra giải pháp tốt đẹp nhất..."

    Tôi đã đọc những lời khuyên đại loại như vậy ở hàng chục tờ báo. Dạo này tình hình ly hôn tới mức báo động, tờ báo nào cũng có ít nhất một bài khéo léo khuyên nhủ mọi người nên khôn ngoan giữ lấy hạnh phúc gia đình. Tôi sinh ra vồ vập nhiều tờ báo mang chất tâm giao. Bài Người phụ nữ làm gì khi có chồng ngoại tình thậm chí được tôi cắt giữ, coi như một cẩm nang.

    Quảng Ninh là vùng đất tôi bỏ quên từ thuở mười ba. Bởi duy nhất một lần năm mười ba tuổi tôi theo lớp học sinh đi nghỉ hè, tham quan mỏ than để trau dồi tinh thần lao động. Sau này tôi lang thang làm phim gần khắp đất nước, nhưng chưa một lần trở lại Quảng Ninh. Tôi hy vọng sẽ được gặp lại ngôi biệt thự mầu vôi vàng sáng rực trên sườn núi với những vòm cột kiểu kiến trúc Gô-tích, gặp lại mảnh sân có cột cờ, những luống hoa sân nhà ủy ban, nơi hồi đó tôi chôn cất một con chim chết.

    Nhưng tất cả đã khác xưa. Không còn Bãi Cháy mơ màng giữa làn sương buông trắng đồi sim nữa. Bãi Cháy giờ ồn ào náo nhiệt với đủ mọi kiểu khách sạn, nhà nghỉ, nhìn đến chóng mặt.

    Tuy vậy con đường xuống mỏ Mông Dương còn giữ được vẻ hoang vắng thơ mộng của vùng thiên nhiên chưa bị khai phá. Mươi mái nhà bên sườn non yên tĩnh. Một cây gạo đỏ rực giữa những mảng xanh uyển chuyển âm u. Tôi cho hạ máy quay, xuống ô-tô, làm một cảnh toàn lia thật chậm.

    Tôi nói với anh bạn quay phim người địa phương:

    - Sau cảnh này anh cho máy vào gần ngôi nhà sát chân núi kia kìa. Đàn gà con đang tha thẩn giữa sân đấy. Giá có người mẹ trẻ cho con bú trên cái võng ngoài thềm nữa kia thì tuyệt... Tôi rất thèm được ở một ngôi nhà nhỏ dưới chân núi như thế.

    Anh bạn quay phim nhìn tôi một giây chăm chú, hơi mỉm cười.

    - Chị có biết cơn bão năm ngoái đã cuốn rơi đá, đè sập một ngôi nhà dưới chân núi. Hai vợ chồng trẻ cùng đứa con năm tuổi chết ngay bên mâm cơm.

    Hình như bằng lời nói thiếu đồng cảm của mình, anh ta muốn dội một gáo nước lạnh vào thói lãng mạn tôi buột ra. Tôi bẽn lẽn. Cảm ơn anh.

    Tôi chẳng giữ được ấn tượng gì về cuốn phim tài liệu đó. Tôi hào hứng với chuyến đi vì một lý do riêng. Tôi muốn tìm kiếm một người đàn bà chưa biết mặt.

    Cũng nhờ dò hỏi anh quay phim người địa phương, tôi may mắn tìm thấy ngôi nhà bên bến sông, nơi những thuyền gỗ, sà lan thu gom than trôi nổi tư nhân. Đó là một gian hàng bán tạp phẩm, thức ăn, gạo mắm cho những thuyền đỗ dưới bến. Chủ hàng, người đàn bà đứng tuổi với gương mặt héo úa bỗng rạng rỡ hẳn lên khi tôi tự giới thiệu mình ở Hãng phim X. đang trên đường đi công tác.

    - Thế ư? Ngày xưa khi còn trong đoàn văn công tỉnh, mình đã từng tham gia đóng phim đấy nhé.

    Người đàn bà ấy không bao giờ biết chính vì lý do đó tôi đã lặn lội đi tìm chị ta. Đương nhiên chị cũng không biết tôi thật sự là ai, dưới một cái tên giả.

    Câu chuyện thăm hỏi được tôi dắt dẫn vòng vo cho tới lúc chị nhắc tới tên chồng tôi.

    - Em biết không, tay ấy trước là người yêu của chị. Gớm, mê nhau lắm, một hai sống chết quyết lấy nhau. Nhưng khi gia đình tay ấy mang lễ ra đây ăn hỏi, không hiểu ông bố mình nhìn tướng mạo thế nào, nhất định không nhận lễ, không cho lấy. Ôi chao, giá mà...

    Chị ta bỏ dở câu nói, mắt đẫm buồn. Tôi thương cho sự tiếc nuối dại dột ấy. Đôi khi dở dang không phải là không may mắn. Như tôi, thà dở dang ngay khi chúng tôi cùng nhau từ nơi cơ quan sơ tán về Hà Nội đêm đó!

    Tôi không biết mình đã nhỏ nhen theo thói đàn bà, sợ người tình cũ của anh ấy hả hê, hay tôi muốn giữ cho hình ảnh anh ấy mãi đẹp trong tâm khảm người đàn bà này, tôi đã không hé lộ tí gì chuyện đã xảy ra giữa chúng tôi, mặc dù chị ta gặng hỏi tha thiết.

    - ở lại ăn cơm với chị đi. Ngồi đây buồn đến nhão người ra, chẳng biết trò chuyện cùng ai cả em ạ.

    Chị ta không ngờ kém tôi đến ba tuổi, vẫn ngọt ngào xưng chị rất tự nhiên. Tôi không hề phản đối, sợ chị ngượng. Chị ta chóng phai tàn hơn tôi hình dung.

    Tôi ra về vẫn không tìm được lời giải cho lòng hiếu kỳ. Anh ấy muốn tìm hiểu gì ở những người đàn bà anh yêu? Những người đàn bà, kể cả tôi đã đặt tình yêu vào con người này vì sao?

    Tôi chấm dứt đợt quay ở đảo khỉ một hòn đảo cách bờ vịnh không xa. Tôi đã chộp được những cảnh sinh hoạt của lũ khỉ thật sinh động. Hàng ngàn con khỉ được nuôi dưỡng ở đây để cống hiến vắc-xin chống bại liệt cho con trẻ.

    "Chúa đảo khỉ" là một người đàn ông dễ mến. ở trên hòn đảo này cùng vợ con gần hết đời người, anh đã thuộc tính nết từng thần dân của mình, chăm sóc chúng với một tình thương rất lạ.

    - Chúng chẳng khác con người là mấy đâu chị. Kia, chị có thấy con khỉ vàng nhạt đang nấp ở cành cụt cây trứng cá kia không? Chị để ý kỹ nhé... Đấy...

    Con khỉ vàng nhạt ló đầu rình một cặp mẹ con khỉ khác ôm nhau quấn quýt trên chạc cây bên cạnh. Ông chúa đảo phát một tín hiệu bằng thứ âm thanh lạ hoắc, ném quả chuối đang cầm tay xuống gốc cây. Con khỉ mẹ do dự một chút rồi nhẹ nhàng đặt chú khỉ tí hon bám lấy cành cây, nó đu mình nhảy xuống nhặt quả chuối. Con khỉ vàng nhạt chỉ chờ lúc đó, lao vội đến chỗ chú khỉ tí hon, vồ vập ôm ấp hít ngửi. Con mẹ quay lại thấy vậy lập tức buông rơi quả chuối, lăn xả cào cấu kẻ trộm. Tiếng chí chóe đan xen nhau. Con khỉ vàng nhạt xoay mình chịu trận lôi đình của khỉ mẹ, cố hôn hít chú tí hon đến cùng. Nhưng rốt cục nó vẫn phải bỏ chạy. Khỉ mẹ ôm chặt khỉ con sờ nắn, nâng niu. Thỉnh thoảng nó ngoái nhìn, nhe răng gừ con khỉ vàng nhạt vẫn còn lởn vởn cạnh đó.

    - Cô khỉ cái vàng nhạt vô sinh ấy suốt ngày rình mò dỗ dành bế ẵm con của bạn nó. Tội nghiệp, lắm khi bị cắn xé máu chảy ròng ròng, phải bắt về băng bó. Đám khỉ mẹ yêu con ghê gớm lắm chị ạ. Chẳng may con nó bệnh chết, nó cứ khư khư ôm chặt mà kêu gào kỳ đến lúc cái xác thối rữa, không cho gỡ ra. Tôi nghĩ khỉ sợ mùi mắm tôm có lẽ do vậy chăng.

    Tôi ngẫm nghĩ về những con khỉ. May cho chúng không bị đảo lộn đời sống như con người.

    Vị chúa tể đảo kể cho tôi nghe rằng chuyện tình của khỉ cũng đầy thi vị. Mùa thu, mùa tình yêu, những chú khỉ đực chia từng bộ lạc đánh nhau chí tử để tranh giành bạn tình. Những bạn tình đã gắn bó sẽ sống chết với nhau đến hết đời. Anh kể, hồi chiến tranh ác liệt nhất đàn khỉ phải chia đôi, sơ tán một nửa sang đảo đá bên cạnh, cách xa đây khoảng nửa cây số mặt biển. Người ta không ngờ đã chia rẽ những cặp tình nhân. Thế rồi đột nhiên có những con khỉ cứ leo lên tít ngọn cây cao, hướng về phía đảo đá kêu gào, không chịu ăn uống cho tới lúc chết lả. Ngược lại phía đảo đá có những chú khỉ đực nhào xuống biển bơi về đây. Người bạn tình bên này thương cảm các chàng đuối sức cũng lao ra. Chúng ôm nhau chết đuối giữa mênh mông sóng nước. Không phải lúc nào thuyền cứu hộ của chúa đảo cũng cứu được hết.

    Ngồi trên thuyền rời khỏi đảo khỉ tôi chợt mơ mộng. Tôi hình dung lúc này người ta đang nháo nhác tìm tôi. Tôi đã biến đi đâu mất tích. Người ta lùng sục từng gốc cây ngọn cỏ khắp đảo vẫn không thấy. Cuối cùng mọi người đều nghĩ tôi đã gieo mình xuống biển... Không đâu, ồ không ngu xuẩn như thế. Tôi đang khúc khích trên một cành cây cao nào đó, khẹc khẹc, chào từ biệt con người. Tôi đã ở lại đảo, nhập đàn với đồng loại hoang dã tự do.

    Tôi và chồng tôi cùng trở mình.

    Gà gáy sáng. Một bàn tay tôi chạm vào tay anh. Tự nhiên những ngón tay tôi tìm xiết chặt lấy những ngón tay anh, đan vào nhau. Tôi thấy những ngón tay của anh cũng từ từ riết chặt. Ngỡ chẳng bao giờ chúng ta lạc mất nhau phải không anh? Vĩnh biệt.

    Trăm nghìn xin gửi lại

    Buồn thương vô tuyệt kỳ...
     
  19. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chuyện tình ở biển - Đỗ Kim Cuông


    Khó có thể tìm ra lời giải thích xác đáng, vì sao tay thư ký công đoàn lại giao tôi cái giấy đi nghỉ dưỡng. Hắn chỉ nói vỏn vẹn có một câu: "Vậy là thêm cho cậu nửa tháng lương nghe. Kẻo cậu lại phê bình tôi không quan tâm".

    Tôi nhìn tờ giấy nghỉ dưỡng như nhìn một tờ giấy lộn, ánh mắt thờ ơ, nhưng tôi không quên dòm vào mặt tay thư ký công đoàn, vốn có ác cảm. "Cảm ơn" - Tôi bảo. Muốn chọc tức chơi, tôi nói thêm: "Anh nên cho tôi cái quyền là có nên cho phép mình được nghỉ hay không đã". Tay thư ký công đoàn chớp ngay: "Nếu không đi phải báo ngay cho tôi để sắp xếp cho người khác. Nhưng tôi nhắc lại - nửa tháng lương cán sự 4 của cậu đấy". Tôi muốn phỉ nhổ vào bộ mặt đen đúa, môi thâm của tay thư ký nhưng rồi tôi lạnh tanh trả lời bằng một cái nhếch mép.

    Chẳng lẽ, họ "thông cảm" cho cảnh tôi góa bụa? Vợ tôi mất đã hơn một năm. "ồ không phải! Ông Quyên cũng chết vợ. Bà Lụa cũng chết chồng. Ông Tảo đứa con trai cũng mới có giấy báo tử ở Campuchia...". Tôi gạt lý do thứ nhất. Thôi đích thị rồi. Tôi đập tay đánh đét xuống mặt bàn khi nghĩ tới bài báo. Tôi không biết viết báo, nhưng cô phóng viên báo tỉnh quá ư nhiệt tình đã xin bài phát biểu của tôi trong một hội nghị khoa học. Tôi không để ý. Cách đây vài hôm, tay thư ký công đoàn kiêm trưởng phòng của công ty chìa ra trước mặt tôi tờ báo, cười nham nhở: "Chết thật, bữa nay cũng viết báo...". Dù chẳng mấy ưa hắn, tôi vẫn cười đỏ mặt khi nhìn tít bài do Tòa soạn đặt "Vài suy nghĩ về công nghiệp hóa..." cùng với cái tên tôi in đậm ở cuối bài. Hèn chi, tay thư ký cứ nhai đi nhai lại cái khoản hai trăm ngàn tôi được hưởng trong 15 ngày nghỉ dưỡng.

    Nếu thế thì tôi cứ nghỉ. Dại gì! Ngót hai chục năm đeo đẳng với nghề, chả lẽ tôi không có quyền nghỉ ngơi? ít nhất, trong 15 ngày ấy, tôi khỏi phải nhìn thấy cái bộ mặt luôn soi mói, vặt vãnh của tay trưởng phòng hành chính. Tôi biết, cả ngày hắn chẳng làm gì cả. Đúng 7 giờ sáng, hắn có mặt loạt soạt ngồi đọc báo. Một cuốn sổ công tác mở ra hờ hững. Nhưng giá có một ai rẽ vô văn phòng sẽ bắt gặp ngay một bộ mặt nửa như trang nghiêm, chú mục vào công việc, nửa như có ý nhìn xem kẻ kia đến là ai. Số thời gian rảnh rỗi trong ngày, hắn sẽ đếm bước chân của mình qua các phòng làm việc và nghe ngóng. Hắn sẽ không cần biết lao động "chất xám" là gì và làm cách gì để có được một sáng kiến khoa học, một sáng tạo... Bởi vậy, tay trưởng phòng hành chính thấy tôi có bài in báo đã ngạc nhiên.

    Nhưng tôi coi cái việc vô tình được đi nghỉ dưỡng như một cuộc trốn chạy. Rằng tôi sẽ thoát được cái không khí tù hãm của gian phòng làm việc luôn vẩn lên mùi thuốc lá, tránh phải nhìn thấy những đĩa tách cáu bẩn vương vãi những bã trà và đống giấy tờ sổ sách xếp cao như núi. Tự do trong 15 ngày ngắn ngủi của một đời người, vốn suốt quanh năm ngày tháng phải chúi mũi vào công việc, và lo cho đứa con mất mẹ, lo cơm nước chợ búa và lo cho những cuộc họp...

    Hai dãy nhà hai tầng, thêm hai dãy nhà trệt cao ráo, sạch sẽ, một dãy dùng làm nhà quản trị, phòng xem ti vi, một dãy dùng làm nhà ăn, nhà bếp... Đấy là tất cả những gì thuộc về cơ ngơi của nhà nghỉ Công đoàn, đặt trên một đỉnh đồi cao lộng gió. Đứng từ đó, có thể nhìn thấy cả một vùng biển rộng, với xóm chài Cầu Bóng. Thấy lưỡi cát kéo dài từ Ba Làng cho đến tận ngôi biệt thự Cầu Đá, dài chừng 7 cây số. Hòn Rùa, Hòn Tre như bị thu nhỏ lại trong một tầm nhìn bao la. Còn những con thuyền máy như những chiếc lá tre quăng rải rác trên một tấm thảm xanh nhìn đến nhức mắt.

    Tôi cảm thấy sung sướng khi đặt mình trên tấm nệm mút êm ái, nằm vô tư lự suốt cả buổi sáng chờ đến giờ ăn cơm trưa. Lại họp - họp để quán triệt nội quy an dưỡng, thông báo chế độ. Trong bữa ăn, tôi đã nhìn suốt lượt hai trăm con người cùng đi an dưỡng nhưng tôi chẳng quen biết một ai cả. Càng hay, tôi muốn được thảnh thơi. Sang ngày thứ hai, số người ăn trong phòng vơi đi quá nửa. Ngày thứ ba, còn một phần năm. Và sang ngày thứ năm, chị cấp dưỡng chỉ dọn ra một mâm vừa đúng ba cái chén, ba đôi đũa. Tôi đói, ngồi chờ mất gần nửa giờ đồng hồ để nhìn những con ruồi bay loạn xạ hạ cánh xuống dãy bàn ăn trống rỗng và chỉ chực xâu xé vào mâm cơm đã được đậy lồng bàn. Đến lúc ấy, hai trại viên an dưỡng mới xuất hiện. Một ông cán bộ trạc tuổi ngót 60, dáng người hom hem, ốm yếu. Sau này tôi biết, người đàn ông ấy mắc bệnh hen suyễn mãn tính. Còn người thứ hai là một phụ nữ tuổi trên dưới ba mươi. Trông vóc dáng và cách đi đứng nói năng của cô ta, tôi đoán là người có chồng con. Nhưng phải công nhận đây là người đàn bà có nhan sắc, trông thật ưa mắt. Tôi cũng sẽ không bao giờ được biết lý do vì sao Nguyệt - tên người đàn bà - được nghỉ dưỡng. Chẳng ai ở vào hoàn cảnh như tôi lại đi hỏi một người phụ nữ, ngay giây phút đầu tiên đã gây cho người ta cảm tình, điều ngớ ngẩn ấy. Tôi lấy làm thích thú khi được ngồi chung bàn ăn với một phụ nữ đẹp, duyên dáng, nhưng là sự duyên dáng kín đáo của người phụ nữ biết tự trọng trước mặt người đàn ông xa lạ là tôi.

    Tôi ăn rất ít, không hẳn vì món ăn kém ngon. Càng không phải vì bữa ăn ít người không còn đông vui tấp nập như ngày đầu nhập trại. Té ra hơn hai trăm thành viên đi nghỉ dưỡng đã nhận tiêu chuẩn về nhà tự "an dưỡng". Hai chục ngàn đồng không phải là to nhưng đủ để phụ vào đồng lương ít ỏi cho một gia đình nghèo khó cho con chút cá, rau trong bữa ăn. Hỡi ôi, những ông cha bà mẹ Việt Nam của tôi, chẳng mấy ai nỡ để cho con cái mình chịu khổ cực rồi chọn lấy cái sướng cho riêng mình! Còn những người quản lý ở nhà nghỉ dưỡng cũng đâu có đáng trách? Họ cũng là những ông bố bà mẹ. Họ cũng có những đứa con. Cũng bận trăm công ngàn việc để lo cải thiện đời sống. Càng ít công việc, càng hay. Vậy chẳng hóa ra, ba chúng tôi đây là những kẻ nhàn rỗi?

    Ông già nọ vợ con ở ngoài Phú Yên. Con tôi, đã được ông bà nội đưa ra Hà Nội chăm sóc. Và quả thật tôi thấy ngượng khi thò tay nhận lấy vài chục ngàn bạc đem về nhà, thà là tôi nằm đây ăn nghỉ.

    "Em là con người tự do!" Nguyệt tuyên bố vào buổi sáng hôm sau khi tôi đã trở thành một người có đủ tin cậy, ít ra là một người bạn trong mười ngày còn lại của đợt nghỉ dưỡng.

    Ông già chiếm một phòng ở tầng trệt. Tôi ở đầu phòng tầng hai, quay mặt lên hướng tây. Nguyệt ở căn phòng cuối hướng đông, nhìn ra biển. Tôi muốn đến chỗ cô phải qua một hành lang dài hun hút, qua các căn phòng luôn đóng kín cửa. Chính trên chiếc ghế gỗ trước cửa phòng Nguyệt, hay trên những chiếc ghế xi măng đặt dưới gốc dừa trồng quanh chân đồi, tôi và Nguyệt đã nói mọi chuyện trên trời dưới biển. Một ngày chúng tôi có đến 8 giờ để đàm tiếu. Và đêm nữa. Lúc đầu còn thêm ông già. Nhưng ông ta không chịu nổi những cơn gió biển, chỉ ngồi chừng một giờ đồng hồ là tìm cách tháo lui. Vậy là chỉ còn lại tôi với Nguyệt cùng với bầu trời mùa hè vằng vặc ánh trăng. Đã nhiều lúc, tôi ngồi nhìn cô, trong lúc cô vẫn kể cho tôi nghe một câu chuyện nào đó ở trường nơi cô đang dạy học. Chẳng lẽ đấy là tình yêu?

    Tình yêu trong tôi đã chết. Chết sau đêm tân hôn, và đã thật sự bị đẩy lùi vào dĩ vãng cùng với đống tã lót sau khi đứa con trai ra đời, cùng với bộ mặt luôn cau có của Hòa. Tôi điên lên vì sự túng thiếu vây bủa, vì những mốt nọ, quần kia của vợ... Đã vậy, còn phải lo đối phó với sự trù úm của tay "trưởng phòng vô tích sự". Rồi vợ tôi chết trong một ca ung thư dạ con. Đã lâu rồi cái khái niệm tình yêu với tôi chỉ còn nằm trong sách vở, trong trí tưởng tượng bịa đặt của những tay nhà văn, trong ánh mắt yêu đời đến ngây thơ của đám thanh niên mới lớn, tôi chưa thể là già nhưng không còn gọi là trẻ nữa.

    Chẳng lẽ, người đàn bà đã có hai mặt con này lại đang nhen nhóm trong tôi ngọn lửa tình yêu? Sẽ không bao giờ tôi hiểu được vì sao Nguyệt không chịu theo gia đình chồng vượt biên, đành chịu để mất hai đứa con trai. Vì sao, một cô gái không chịu theo cha mẹ để định cư hợp pháp tại Mỹ. Một cô gái đã có 13 năm sống trong dòng tu kín, nhập thế để đi làm nghề dạy học và sống ở một vùng quê với những người dân thật thà, chất phác nhưng nghèo đói? Nguyệt không nói ra điều bí mật ấy, cũng như mối tình của cô và anh thợ may giờ đã ung dung ở Canada. Cô câm lặng như tượng Đức Mẹ đồng trinh trong ngôi nhà thờ Đá. Và tôi, tôi cũng chẳng cần biết. Nhưng sự quý trọng cũng như lòng thiện cảm với tôi của Nguyệt thì tôi cảm nhận được qua ánh mắt của cô.

    Té ra Nguyệt quá rành khu đồi La San. Vào một buổi chiều, khi ánh nắng tàn trên những chỏm núi đã bao quanh thành phố, chúng tôi đi chơi trên những con đường rải nhựa lẩn khuất quanh khu đồi. ở đây có những con đường mòn dẫn vào ngôi nhà thờ nhỏ cả chục năm đã trở nên hoang phế. Những tảng đá nằm rải rác dưới gốc cây si, cây xoài để lại chứng tích của đám sinh viên lên đây học thi, đi picnic vào ngày chủ nhật. Có những lúc tôi và Nguyệt ngồi bên nhau hàng giờ để nghe cái âm thanh vi vút của gió đùa trên những chòm lá thông xanh, hoặc ngồi bên ghềnh đá theo dõi những con cá leo bằng hai chân, quật đuôi để lên mỏm đá tránh sóng. Không ai nói gì cả. Chỉ thỉnh thoảng nhìn nhau với ánh mắt không cần né tránh. Có lẽ vậy là quá đủ và hạnh phúc với tôi - một người sống đơn độc và luôn giày vò bản thân bởi những chuyện không đâu. Hoặc Nguyệt kể chuyện. Tôi nghe cái âm thanh dịu dàng trong lời nói của cô hơn là cần biết kết cục của câu chuyện.

    Có một lần, Nguyệt đột ngột hỏi tôi: "Anh thích tôi phải không?". Tôi tự ái bởi chữ "thích". Giá như cô nói "yêu", hẳn tôi đã gật đầu, thú thật cái cảm giác có thật của lòng tôi lúc ấy. Tôi không trả lời chỉ cầm lấy một bàn tay của Nguyệt vuốt lên những chùm ngón tay như những búp măng. Và tôi châm thuốc hút. Còn cô, như đã quên câu hỏi, đôi mắt mơ màng nhìn ra ngoài Hòn Đỏ, nơi có dải khói xanh bốc cao.

    Còn thím Tư nấu ăn ở trại an dưỡng, trong lúc ngồi nhìn tôi và Nguyệt ăn cơm lại bảo: "Đẹp đôi đấy... Cô chú tìm hiểu xong báo cáo với tổ chức, cưới cho lẹ. Tôi nói bỏ qua nghe... Thôi thì rổ rá cạp lại".

    Cả tôi và Nguyệt đều cười vui. Nhưng tôi thì hơi giận thím Tư. Tình yêu sao có thể gọi là "rổ rá cạp lại". Không, tôi quyết định cãi tới cùng. Tôi yêu Nguyệt, nhưng khi tôi đứng trước mặt nàng tôi lại câm nín. Và tôi sợ nữa, khi tôi nói ra sự thật ấy với Nguyệt, tôi sợ sẽ mất nàng. Tôi muốn giữ cho tôi những giây phút đẹp đẽ của đời người. Hạnh phúc ấy tôi đã không tìm thấy được ở Hòa, vợ tôi. Không thể nào có được trước nhiều người đàn bà mà tôi đã gặp trong cuộc đời... Tôi đang sống giữa những ngày êm đẹp.

    Buổi sáng chủ nhật của kỳ nghỉ dưỡng ngày thứ mười hai, Nguyệt dậy sớm sang rủ tôi đi tắm. Tôi dũng cảm nhận lời cùng còn một lẽ biết chắc là "ông già khốt" - Nguyệt gọi ông già đi nghỉ dưỡng như vậy, đã được con gái đón về từ chiều hôm trước.

    Trong lúc Nguyệt đứng ngoài cửa chờ, tôi lại loay hoay với chiếc quần xà lỏn. Rõ khổ quần xà lỏn của tôi: ống rộng, xếch, màu vàng cứt ngựa - thứ quần phát cho lính, họ đem ra bán rẻ. Chẳng lẽ tôi đi tắm với một cô gái bằng chiếc quần "xà lỏn" như vậy? Rốt cục tôi tự an tủi: mình có cặp đùi to, chắc - cặp giò cầu thủ sẽ cứu nguy cho cái quần lót đáng ghét.

    Nguyệt hồn nhiên và hào hứng với buổi đi tắm nên không để ý tới sự lúng túng của tôi.

    Bãi đá dưới chân Hòn Chồng lạnh ngắt sương đêm. Nước ròng để lộ ra những tảng đá đen trơn nhẫy rêu. Gió sớm mơn man trên da thịt làm tôi thấy lành lạnh, càng ngại nước. Tuyệt nhiên, tôi không hé ra cho Nguyệt biết điều này. Sống ở Nha Trang có hơn chục năm, nhà cách mặt biển chưa tới cây số, nhưng những lần đi tắm biển của tôi tính ra chưa đến mươi lượt. Vài tháng trời không ló mặt ra tới bãi cát là chuyện thường. Nhưng giá về quê, ra Hà Nội, bạn bè có ai đó khen bãi tắm Nha Trang sạch đẹp, thì tôi sẵn lòng mô tả về biển Nha Trang, về giống cá ngựa cường dương, về những đảo yến khiến thiên hạ phát thèm... Dĩ nhiên không phải tôi không biết bơi. Hơn một lần tôi đã vượt phá Tam Giang, sông Bồ.

    Hình như Nguyệt có ý đợi tôi xuống nước trước. Loay hoay mãi vài phút, tôi mạnh dạn cởi quần áo dài và lao xuống biển trong chiếc quần xà lỏn kiểu lính. Lúc tôi trồi lên khỏi mặt sóng, cả cơ thể Nguyệt hiện ra như một pho tượng thạch cao trong bộ áo tắm mầu xanh có kẻ sọc trắng. Đôi chân thon dài, eo nhỏ, còn bộ ngực nhô cao. Cô nhìn tôi cười thật tươi rồi đứng từ mỏm đá lao xuống mặt nước xanh thẳm. Cô sải cánh bơi ra xa, bỏ mặc tôi lại phía sau loay hoay giữa một vùng rong mới bị sóng đêm qua đánh tấp vào bờ.

    Thoáng một giây, lúc Nguyệt bơi lao ngang qua trước mặt tôi, thân hình cô có những khoảng trắng đen chìm trong nước, dậy lên trong tôi một cảm giác ham muốn. Giây phút ấy qua nhanh, trả lại cho tôi sự mệt mỏi và cảm giác chán ngán khi nghĩ rằng chỉ ba ngày nữa "niềm tự do ưu ái" của tôi sẽ mất. Tôi lại trở về với căn phòng chật chội ngửi thấy cái mùi hôi nồng của khói thuốc lá, thấy bước đi còm cõi, bệnh hoạn của tay trưởng phòng hành chính, tay chắp sau đít đi ngoài hành lang với đôi mắt nhòm ngó. Tôi sẽ gặp lại những kẻ chỉ muốn bổ óc mình ra xem đang nghĩ điều gì. Và đám bạn bè công chức của tôi, trong những giây phút ngồi bù khú quanh ấm trà, điếu thuốc, hào hứng kể cho nhau nghe về một tay giám đốc nọ làm thất thoát bạc triệu, bạc tỷ, một quan chức nọ sắp ra hầu tòa... Hoặc háo hức báo tin đã bán "xuôi" được chú heo không bị con buôn chèn giá.

    Còn tôi, cũng chẳng hơn gì họ, quẩn quanh trong mớ buồn vui ấy. Treo trước mắt tôi là bát cơm manh áo hàng ngày, viên thuốc cho con khi trở trời trái gió, phấp phỏng kỳ tăng lương có kẻ xấu bụng xoi mói.

    Phải chăng, Nguyệt của tôi đã thoát ra được mối lo toan nhỏ bé, hèn mọn ấy? Bởi hiển nhiên, cô nằm phơi gần trọn cơ thể mình trên mặt nước ngoài xa kia, ngửa mặt nhìn bầu trời cao vời vợi, có những dải mây trắng vắt ngang. Nàng hạnh phúc quá. Niềm hạnh phúc mà tôi luôn khát khao mơ ước. Và mỗi khi trí tưởng tượng phóng túng vượt ra khỏi đầu óc tăm tối u buồn của tôi, y như nó vấp phải một bức tường vô hình đánh bật trả lại. Tôi như kẻ ham bóng đá bị việt vị, giật mình bởi tiếng còi của người trọng tài tinh quái.

    Chả lẽ, tôi hèn kém hơn Nguyệt?

    Chỉ vài chục sải bơi, tôi đã ra tới chỗ Nguyệt. Cô nằm im, tay chân khua nhẹ dưới nước để giữ thế cân bằng và như không biết tôi đến gần. Tôi lẹ làng lặn xuống và ngay lúc ấy, gặp ngay khuôn mặt Nguyệt trong nước. Cô cũng lặn xuống theo tôi. Chúng tôi quấn lấy nhau như những sợi dây leo trong rừng già và hai môi tìm đến nhau... Tôi bơi trong một niềm khoái cảm, cái sức sống bất diệt trong tôi như được đánh thức trở dậy sau những ngày tháng tê liệt, héo mòn. Tưởng đâu đã chết.

    Vào đêm thứ 13 của "mười lăm ngày hạnh phúc", tôi bị cảm nhẹ. Khoảng chín giờ tối, Nguyệt sang thăm tôi. Cô cầm theo cốc nước cam. Nguyệt vào, tôi biết nhưng không lên tiếng và nằm im trong khoảng sáng mờ ảo của ngọn đèn ngủ. Cô cầm lấy bàn tay tôi, nâng đầu tôi dậy ép uống cạn cốc nước cam. Bàn tay nàng mát rượi. Nguyệt không nói gì, cúi xuống hôn lên trán, lên đôi mắt và cuối cùng lên đôi môi khô nẻ và nóng bỏng của tôi. Tôi mê man cảm nhận nụ hôn nồng ấm, mãnh liệt. Và suýt ngạt thở vì mùi nước hoa và son phấn. "Anh nghỉ cho khỏe". Nguyệt chỉ nói vậy.

    Lúc tôi tỉnh dậy, căn phòng vẫn sáng mờ, nhưng trống rỗng và lạnh lẽo. Nguyệt đã về bên phòng riêng. Nàng để lại trong tôi một niềm vui khó tả, như thể có hàng nghìn đợt sóng dội vào bờ đá dữ dội và mạnh mẽ. Tôi được Nguyệt yêu và tôi cũng rất yêu nàng. Té ra cái tay thư ký công đoàn kiêm trưởng phòng hành chính đã mang đến cho tôi một nguồn hạnh phúc mà chính hắn và cả tôi nữa đều không thể ngờ tới. Giờ phút này, tôi không có lý do gì để phát biểu, ngược lại còn phải biết ơn hắn là đằng khác.

    Sáu giờ sáng hôm sau, tôi ăn mặc chỉnh tề đi sang phòng Nguyệt. Cửa phòng khép hờ, nhưng bên trong vắng lặng. Chiếc giường nàng thường nằm, chăn màn xếp gọn gàng và không có một chút hơi ấm. Cầu thang, khoảng sân đều vắng vẻ, không còn để lại một chút dấu vết nào của Nguyệt. Nàng đã đi rồi!
     
  20. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Những con cá cờ - Trần Ðức Tiến

    Hàng năm, cứ vào dịp hè là khu khu tập thể này lại ầm ĩ lên được một dạo. Ấy là nhờ có lũ trẻ con. Lũ trẻ từ khắp các miền quê khác nhau theo bố mẹ ra Hà Nội nghỉ hè, đến ở trong khu nhà toàn những hộ độc thân này. Một bọn lau nhau với những bộ quần áo cộc cỡn, ngả mầu cháo lòng suốt lượt, trông đứa nào cũng có vẻ rụt rè, ngơ ngác, thảng hoặc có một vài ông tướng con ngổ ngáo thì cũng chỉ là cái ngổ ngáo nhà quê - vừa chân ướt chân ráo đến buổi sáng, buổi trưa đã có thể tót lên vắt vẻo trên ngọn cây bàng trong sân, nhưng hễ có việc cần qua đường phố lại nhớn nhác mắt trước mắt sau, chỉ chực va vào dòng xe cộ ngược xuôi không ngớt...

    Mùa hè năm nay, Chất cũng đưa vợ con ra nghỉ trong khu tập thể. Cả khu nhà có hai cái "buồng hạnh phúc" thì hai cặp vợ chồng khác đã đến ở trước, nên người bạn cùng phòng với Chất phải tạm "sơ tán" sang phòng bên để Chất có thể kê ghép hai cái giường cá nhân với nhau. Vợ con anh ra đây nghỉ có vài tháng hè, không ăn đời ở kiếp gì nên sự chật chội cũng không đáng ngại.

    Vợ Chất là một người đàn bà hiền lành, ít nói, và có vẻ hơi chậm chạp. Chị quanh năm sống ở một vùng quê rất hẻo lánh, rất xa Hà Nội, cái vùng mà theo Chất là rất ít ánh sáng văn hoá rọi tới! Ở một nơi như vậy, kẻ khôn ngoan cũng còn là ngu ngơ so với chốn thị thành, huống chi người bản tính thật thà, chất phác... Có lẽ chính vì thế mà hè năm nào, Chất cũng cố gắng thu xếp cho vợ con ra nghỉ ở chỗ mình ít ngày.

    Thằng Quang - con Chất - mới tám tuổi, làm quen với bọn trẻ rất nhanh. Nó chơi với cả bọn khá vui vẻ và... biết điều. Một phần do nó cũng là trẻ con nông thôn như những đứa kia, phần nữa, do cung cách ăn ở, sinh hoạt của bố nó cũng giống hệt như những người lớn khác trong khu này. Họ là bạn đồng nghiệp của nhau đã hàng chục năm, hàng vài chục năm, nhiều người tóc đã ngả mầu và vẫn còng cọc trên một cái xe đạp cũ, một cái giường cá nhân, một cái bếp dầu... và căn bản nhất là không khi nào to tiếng! Trong sân khu tập thể, suốt ngày (khi người lớn đi làm vắng vẻ) và suốt cả những buổi tối mất điện (không được xem ti-vi), lũ trẻ la hét, chạy huỳnh huỵch, leo cả lên hiên nhà và bám lủng lẳng ở đấy như những con dơi... Thằng Quang không biết trèo nhưng rất giỏi câu cá. Ở giữa sân khu nhà, vốn là một tòa biệt thự cổ hai tầng được cải tạo và mở rộng, vẫn còn một cái bể xi-măng hình bầu dục khá lớn, giữa bể là hòn non bộ và trong bể lúc nào cũng lưng lửng một lớp nước lưu cữu, đen sẫm như mực. Những chú cá cờ sống trong đó, có vẻ sặc sỡ, nhưng lại lờ đờ ngốc nghếch hơn nhiều so với đồng loại sống ở nơi thông thoáng. Chỉ cần một sợi chỉ, một mẩu dây phanh xe đạp uốn thành lưỡi câu, vài hạt cơm nguội, Quang đã có thể một loáng bắt sống được năm sáu chú. Rửa sạch một cái lọ thủy tinh, đổ đầy nước vào, thả các chú cá vào đó là chúng có thể sống và bơi lăng xăng...

    Chất thấy con chơi ngoan, cũng bớt dần đi sự coi sóc, nhắc nhở hay quát nạt. Anh cảm thấy yên tâm, và cái ý định đưa vợ con đi chơi đó đây mỗi nơi một tí cho mở mang tầm mắt cứ nhạt dần. Ngại, rất ngại. Ban ngày bận bù đầu lên ở cơ quan. Buổi chiều về, mâm cơm dọn sẵn, vợ con sạch sẽ phởn phơ thế kia là tốt lắm rồi. Áo quần, xe pháo dắt díu nhau ra đường làm gì nữa cho thêm bụi và thêm mệt? Cái nếp sống không riêng gì của Chất, cái nếp sống của cả khu tập thể này từ xưa tới nay vẫn là như vậy, luôn luôn coi sự yên ổn, chừng mực làm trọng.

    Nhưng thằng Quang và bọn trẻ thì không. Tất cả mọi trò chơi, dù hấp dẫn đến đâu, chúng cũng rất mau chán. Chúng dần dà phát hiện ra khu nhà này quá chật hẹp, chật hẹp đến mức thuộc lòng từng chỗ đặt vòi nước, từng cống rãnh, từng gốc cây và mọi xó xỉnh khác. Ngay đằng sau khu nhà là Hồ Tây, một mặt nước rộng mênh mang và ngằn ngặt xanh. Nhưng lũ trẻ chưa tìm được cách chui qua cánh cửa gỗ để có thể nhảy tùm xuống đó mà vùng vẫy.

    Ðợt nghỉ hè xắp hết. Trưa nay bọn trẻ ngồi vạ vật với nhau dưới gốc bàng. Mấy quyển truyện tranh nhàu nát vứt lăn lóc bên cạnh. Lăn lóc những xác máy bay, tàu chiến giấy... Một thằng bé trong bọn có tiếng là ngoan, con ông phó tiến sĩ kính trắng lưng gù bên cạnh phòng bố Quang, đã bỏ về từ nãy, đang giở sách ra ôn tập hè. Nó có cái dáng người cần mẫn, nghiêm chỉnh hệt như bố... Thằng Quang đột nhiên quay mặt đi nơi khác. Nó sực nghĩ đến lúc phải theo mẹ về quê, phải tiếp tục đến trường. Chưa bao giờ nó thấy sợ và ngán sách vở đến như vậy.

    Ngoài kia phố xá vẫn ồn ào. Leng keng tiếng chuông tàu điện và ầm ầm ô- tô. Những quả bóng bay đủ mầu sắc... Những que kem ngọt lịm và mát lạnh... Công viên, mặt hồ xanh, chiếc xuồng máy lao vun vút tung bọt trắng... Vườn bách thú, nào sư tử, hổ báo, cá sấu, đại bàng và khỉ, đủ mọi loài khỉ... Thành phố rộng lớn còn biết bao nhiêu điều mới lạ, kỳ thú nữa mà nó chưa được biết...

    ***

    Buổi tối lại mất điện. Ðiện hồi này tập trung dành cho việc chống hạn, đôi khi không thông báo trước mà vẫn cứ cắt. Mất điện thì cái hội tổ tôm của Chất không hoạt động được. Vắng đi tiếng đập bàn, tiếng xuýt xoa và thỉnh thoảng là một chuỗi cười vỡ ra, làm giật mình những người đi ngủ sớm... Nhưng mất điện thì lại chưa thể đi ngủ ngay. Trời oi ngột như thế này, nghĩ đến việc phải chui vào màn đã vã mồ hôi, còn mong gì ngủ?

    Ngọn đèn dầu được thắp lên, đỏ quạch và ngun ngút muội. Năm sáu người đàn ông, không ai hẹn ai, tụ tập lại trong một căn phòng, vừa nằm vừa ngồi lố nhố. Ấm chè đã tàn, phích nước sôi nhấc lên đã nhẹ bỗng, mấy cái chén uống nước lỏng chỏng bốn góc bàn. Những câu chuyện cũng ông chẳng bà chuộc bởi đề tài quá quen... Lương bổng, cất nhắc... vật giá leo thang... con trẻ hư hỏng vì người lớn...

    - Các ông có biết không? Lão Q. bị kỷ luật, không phải vì mấy cái tội ấy đâu nhá?

    Trong im lặng bỗng một người nào đó reo lên như vậy. Câu chuyện đổi hướng, những bóng người bất động bắt đầu cựa quậy. Không ai ngồi đây còn lạ ông Q. - vị thủ trưởng cũ của họ. Ngoài thói quan cách, độc đoán, trù úm người này người nọ, kéo bè kéo cánh gây mất đoàn kết trong cơ quan, ông còn mắc cả một cái tội tầm thường mà những người tầm thường lại rất ít khi mắc, vì nhiều lẽ... Một cô nhân viên phục vụ so với ông còn quá trẻ... Một buổi trưa, trong giờ nghỉ, ngay trên chiếc bàn làm việc trong căn phòng dành riêng của ông... Của đáng tội, cái chuyện trăng hoa ấy là người ta đồn thế, chứ nào có ai bắt tận tay day tận mặt. Nhưng mà người ta tin. Cũng giống như trước đây, khi ông còn đương chức, người ta vẫn tin nhất cử nhất động của ông...

    Cái người ban nãy đột nhiên reo lên trong căn phòng yên lặng lại reo lên chuyện ấy. Lại tranh cãi rất hăng. Ngọn đèn dầu được khêu to thêm, càng ngun ngút muội. Bóng những cái đầu ngả nghiêng, những cánh tay khua khoắng trên tường nhà. Chất cũng tham gia mạnh mẽ. Ðạo đức hay vô đạo đức? Ðủ mọi thứ tiêu chuẩn được đưa ra. Ðủ mọi thứ lý sự xoay như chong chóng. Chất dường như đã đi xa quá, chính mình cũng không còn tin lắm vào những điều mình đang nói...

    Ôi ôi! Thành thực hay giả dối? Cái cô nhân viên phục vụ kia, giờ đã ngoài ba mươi rồi, nhưng trông vẫn còn duyên dáng lắm. Mới đầu giờ làm việc ngày hôm qua, khi mang phích nước sôi đến phòng Chất, cô ta còn mỉm cười với anh. Bỏ cái nón mới mua trên đầu xuống, cô ta nằn nì anh kẻ hộ tên cô ta lên đó. Chữ Chất chả đều tăm tắp mà. Nhưng không hiểu sao, Chất chỉ kẻ được mấy chữ xô lệch và nghiêng ngửa. Hơi thở của cô ta ngay bên cạnh, và cái thứ mùi rất đàn bà từ tóc, từ áo quần, da thịt của cô ta cứ tỏa ra như giăng bẫy anh. Cô ta vùng vằng cầm lấy nón, nhưng lại nhăn mũi lại một cách đáng yêu... Một hy vọng mơ hồ le lói... Một ý nghĩ gần giống như sự phản bội không sao cưỡng lại ... ấy là sự so sánh ngấm ngầm những lần ăn nằm với vợ gần đây... Dường như ở vợ Chất đã cạn hương hoa, đã cạn sức cám dỗ mê muội vốn có ở một người đàn bà khỏe mạnh. Sau những lần như vậy, Chất đã ngạc nhiên thấy mình tỉnh táo một cách lạ kỳ. Thậm chí có thể chui ra khỏi màn để rít một hơi thuốc lào... Vậy thì buổi sáng hôm qua, được người đàn bà đẹp và rừng rực ấy cười với mình, nhăn mũi với mình, Chất thèm khát, mặc dù biết cả đời cũng không dám đi xa hơn cái sự thèm khát vụng trộm ấy. Thì có gì lạ? Vị thủ trưởng kia cũng là một con người, và ông ta...

    Chất thở dài, ngao ngán nhìn xung quanh. Câu chuyện đã cũ mèm, đã xảy ra từ mười năm trước mà sao bây giờ vẫn còn gây ra những cuộc tranh luận đầy rẫy những lý lẽ cao siêu. Nó có vẻ giống như cỗ bài tổ tôm vẫn làm náo động các buổi tối, cỗ bài đã dùng quá lâu, những quân bài mòn vẹt cả bốn góc, đen xạm lại, bợt trắng đi rồi lại đen xạm lại, mỗi lần cầm lên tay lại thấy bốc lên một mùi u ám và mục ải...

    Ngọn đèn trong phòng vẫn đỏ quạch. Ðêm nay chắc sẽ mất điện cho tới sáng. Cái nóng mỗi lúc một tăng. Không khí như ngưng đọng trong căn phòng. Ai vừa hút một điếu thuốc lào, búng khói đặc như sữa, lơ lửng, lơ lửng mãi chưa chịu tan. Cảnh tượng giống như trong một toa tàu. Một toa tàu đã dừng lại từ lâu lắm. Mà sao khu tập thể tối nay im ắng một cách lạ lùng như vậy?

    Giữa lúc ấy, vợ Chất bần thần xuất hiện ở cửa:

    - Các anh ơi, bọn trẻ con!...

    Tiếng kêu hốt hoảng của chị làm căn phòng lặng đi trong một giây. Một giây đủ cho họ nhận ra: lũ trẻ con đã biến mất! Bất ngờ và kinh hoảng... Ngọn lửa đèn chao nghiêng. Mấy người nằm bật dậy. Cái điếu cày bị chân ai đá phải lăn lách cách. Quát tháo la gọi. Chân người chạy. Khóa xe đạp mở...

    Khu tập thể, vì lũ trẻ con, lại một phen nháo nhác...

    ***

    Lũ trẻ đi thành hàng dọc, trên vỉa hè.

    Ði đầu là những đứa bé nhất, mỗi đứa níu chặt tay một đứa lớn hơn. Ðích thân thủ lĩnh của cả bọn, một thằng bé chừng mười hai tuổi, rắn rỏi trong cái dáng cao ngồng và mái tóc đỏ cạch trên đầu, đi sau cùng. Thằng này có thể một mình từ nhà quê lên đây với bố, qua một chặng đường dài bằng tàu hỏa, rồi xe điện, những đường phố ngoắt ngoéo và xa lạ của Hà Nội, mà không hề sợ lạc.

    Chúng đi, lặng lẽ và hồi hộp như một đoàn thám hiểm...

    Không nói cho bố mẹ biết, bởi vì nói ra thì chắc chắn sẽ bị ngăn cản. Người lớn hay sợ hãi đủ mọi thứ chuyện...

    Phố đông người quá. Toàn những người lạ. Họ đi lại nhớn nhác vội vã. Xe cộ phóng vun vút. Hình như ở một nơi nào đó, một cái gì đó rất quan trọng, rất to tát đang chờ đợi họ. Không ai để ý đến bọn trẻ. Có một vài chú công an ngoái nhìn theo chúng, nhưng lại quay đi ngay vì nhận ra những bộ quần áo và những dáng điệu hiền lành.

    Trong cái tập thể trẻ con này cũng có một kẻ "đào ngũ". Ðấy chính là thằng con ông phó tiến sĩ. Ði được một cây số, thằng này đã tụt lại sau. Nửa cây số nữa, nó dừng hẳn lại và tuyên bố bỏ cuộc. Hình như nó cho rằng cứ tiếp tục a dua với lũ trẻ này thêm đoạn đường nào thì cái đức ngoan ngoãn của nó - đã được người lớn thừa nhận - sẽ bị rơi rụng đi một ít.

    - Quay lại! Không tao bắn!

    Hoàn toàn không đùa, "thủ lĩnh" chĩa ngón tay trỏ làm súng vào bụng thằng con ông phó tiến sĩ và ra lệnh.

    - Mày không có quyền! Chúng mày không muốn học, thích đi lêu lổng thì cứ việc...

    - Này ông cụ non, đừng có láo! Không học mà chúng ông lại biết cá cờ là cá cờ, chứ không nhầm là cá vàng như mày. Nhưng thôi, sợ thì cứ chuồn đi. Nhưng nếu mày mách với mọi người là chúng ông đi thì... "Thủ lĩnh" không ngần ngại biến khẩu súng thành cái kìm, xoắn ngay vào tai thằng kia một cái nghiêng cả người - Nhớ đấy, cút!

    Sự việc diễn ra không làm cho bọn trẻ mất hứng thú, trừ thằng Quang. Nó tiếp tục đi ở gần giữa hàng, im lặng, vừa ghét thằng quay về, vừa sợ thằng cầm đầu. Giá không có chuyện đó thì vẫn thích hơn.

    ...Bọn trẻ đã đi được khá xa, qua khá nhiều nơi mới chỉ thấy nói đến trong sách vở. Vì không thạo đường nên có thể cả bọn đã phải đi loanh quanh, nhưng Quang nhớ rất rõ là đã qua Lăng Bác, chùa Một Cột, chợ Ðồng Xuân, hồ Hoàn Kiếm... Và bây giờ, không đứa nào bảo đứa nào, tất cả đứng sững lại trước một tòa nhà cao lớn và rực rỡ như một tòa lâu đài. Những tòa lâu đài trong chuyện cổ tích có lẽ cũng chỉ đẹp đến thế...

    - Cung thiếu nhi!

    "Thủ lĩnh" hét lên bằng một cái giọng nghe rất lạ, nửa như thán phục, nửa như coi thường. Và nó thọc hai tay vào túi quần rộng thùng thình, nghênh mặt nhìn tòa nhà, vừa ngạo ngược, vừa ngốc nghếch.

    Thằng Quang ngồi thụp xuống trên hè, vì hồi hộp hơn là vì mỏi. Cái thiên đường trẻ con có thật ấy đang ở ngay trước mắt nó, chỉ cách có một hàng rào bằng sắt.

    Những cầu trượt, cầu bập bênh, đu quay... Cả một vòng quay khổng lồ chạy bằng điện, chở những trẻ con trên ô-tô, máy bay, tàu vũ trụ và những con thú hiền như đất... Những ghế đá xinh xinh, êm ái và mát lạnh... Một vườn hoa chi chít những bông hoa tươi tắn dưới ánh điện xanh như nước mưa... Những câu chuyện thú vị và bí ẩn chắc chắn đang diễn ra trong từng căn phòng có hai cánh cửa sổ mở rộng trên tầng hai. Căn phòng sáng xanh. Một cô bé mặc áo váy xanh đang một tay nâng đàn lên ngang mặt, má tì lên hộp đàn, tay kia đưa nhẹ... Thằng Quang không biết tên gọi cây đàn, nhưng tiếng đàn thì nó nghe như nuốt lấy... Khi cô bé bỏ đàn xuống, đưa tay lên sửa lại cái nơ trắng cài lên tóc, một tình cảm mơ hồ chợt làm se thắt trái tim thằng bé... Nó đoán cô bé đúng bằng tuổi nó. Nó không ghen tị. Nhưng nó thèm muốn...

    - Muộn rồi, về thôi! Xem thế chưa chán à?

    Cùng lúc với câu nói vang lên, một bên tai thằng Quang bị xoắn lại đau điếng. Khuôn mặt thằng "thủ lĩnh" chập chờn, nhăn nhở. Ðòn trừng phạt của nó lần này không trúng đích, thằng Quang vùng đầu ra, lùi lại, đôi mắt dại đi. Nó hét to, lạc cả giọng:

    - Cút đi! Tao không thèm đi với mày nữa... Không thèm!

    ***

    Còn lại một mình nó, trên đường phố. Lòng tự ái, nỗi giận dữ đã nguôi giảm. Bây giờ thì nó sợ. Phố xá về đêm càng có vẻ lạ lẫm. Nó không nhận ra một tín hiệu quen thuộc nào trên đường nhưng vẫn cứ đi, cho đến lúc biết chắc rằng mình đã lạc.

    Thằng bé cảm thấy chán nản vì những đường phố rất giống nhau. Nhưng ở mỗi xó tối trước mặt đều có thể xảy ra những chuyện bất ngờ khiến nó hốt hoảng. Và thế nào rồi bố nó cũng tìm thấy nó...

    ... Rằm trung thu năm ngoái, bó nó về nhà nghỉ phép. Nó vòi vĩnh bố làm cho nó một cái đèn ông sao. Nhưng không biết vì sao bố nó không chịu làm. Gần đến tối rước đèn, thằng bé uất ức bỏ nhà trốn sang bà ngoại, cách xa đến mười cây số. Sang ngày sau, bố nó tìm đến. Cầm chắc được ăn mấy cái bạt tai. Nhưng không. Ông con rể ngượng với mẹ vợ, cả năm về phép được mười ngày mà nằm bẹp ở chỗ vợ hàng tuần chưa thèm vác mặt đến... Bố nó chỉ lấy mấy ngón tay nâng cằm nó lên, nhìn vào mặt cười: "Mày có trốn lên giời"...

    Bản năng xúi giục thằng bé trong đêm phải tìm tới chỗ đông người. Nó mừng rỡ dừng lại trước cửa ga tàu hỏa và tìm đến một chỗ có điện sáng rồi ngồi nghỉ, giữa những người đang chờ tàu. Nhưng nó dò xét, nghi ngại. Mấy bàn tay bất giác giữ chặt hơn quai ba-lô, miệng túi xách... thằng bé vừa hãi sợ, vừa bực tức, liền tìm chỗ tối hơn và ít người hơn.

    Bây giờ thì thấm mệt. Nó ngồi tựa đầu vào chiếc cột đá, nhắm mắt lại.

    ... Vẳng đến từ rất xa một tiếng đàn, ban đầu còn bị át đi bởi tiếng còi tàu, tiếng người gọi nhau í ới, tiếng một chiếc xe tải ầm ầm chạy... Nhưng tiếng đàn rõ dần, rõ dần... Một tòa lâu đài lộng lẫy... Không phải những chiếc bóng điện sáng bình thường, mà là cơ man những chiếc đèn ông sao... Ngững ngôi sao hồng hồng, xanh biếc phơi phới bay... cô bé mặc chiếc áo váy mầu xanh đứng đợi cậu bé ở chân cầu thang. Cô mỉm cười, chìa bàn tay trăng trắng xinh xinh của mình ra cho cậu. Tay kia cô bé vẫn cầm đàn, cây đàn có âm thanh kỳ lạ mà cậu chưa biết tên. Cậu bé nắm chặt miệng chiếc túi giấy bóng, bên trong sóng sánh nước và những con cá cờ... Bàn tay xinh nhỏ và cái bóng áo xanh huyền ảo luôn luôn ở phía trước mặt... Những bậc thang bằng đá loang loáng sáng... Rất nhiều trẻ con... ở đây toàn là trẻ con... Lên cao, lên cao nữa... Chân cậu bé ríu lại, và tim đập, tim đập, tim đập...

    Một giọt nước mắt ứa ra, lăn chậm rãi trên má thằng bé. Người cảnh sát khu vực tần ngân hồi lâu, rồi quả quyết đưa bàn tay rắn chắc của mình ra và nắm lấy vai nó, lắc nhẹ...

    ***

    Chất thất kinh đã điên tiết văng tục cả với vợ, đã hoang mang vì đủ mọi thứ mẹ mìn ám ảnh, và bây giờ, khi đã tìm thấy con thì cổ anh cứ ứ lên một nỗi cáu giận không để đâu cho hết. Anh gần như quẳng thằng bé lên chỗ ngồi sau xe đạp, rồi mặc kệ vợ vừa khóc vừa đi bộ từ đồn công an về nhà, nhảy lên xe phóng như điên...

    Thằng Quang không đủ thời giờ để bình tĩnh lại và sợ hãi. Quả thật thằng bé đã không sợ hãi, kể cả khi ngọn roi đầu tiên quất vào đít đau quắn lên. Ðôi mắt mở to, nó nhìn khuôn mặt hốc hác và đẫm mồ hôi của bố. Vẻ mặt ấy như muốn nói, nó đã hư đốn đến mức không thể tha thứ được. Nó không biết, như vậy có đúng không, nhưng chắc là bố nó, mấy bác, mấy chú và cả mấy đứa trẻ đã từng là đồng bọn với nó đang nhao nhao ở ngoài cánh cửa kia, không biết được giấc mơ ban nãy của nó...

    Chất lại vung roi, trong tiếng ồn ào can ngăn của mấy người đứng ngoài. Và lần này thằng Quang bỗng giật thót người. Giật thót người, không phải vì bị ăn đòn, mà vì một vật gì đó vừa vỡ choang trên nền nhà. Mấy giọt nước lạnh bắn vào chân nó. Trời ơi, cái lọ thủy tinh, cái lọ thủy tinh nuôi cá cờ...

    Chất đã hất đổ cái lọ thủy tinh từ trên bàn xuống đất.

    Theo phản xạ tự nhiên, thằng Quang sụp ngay xuống. Bây giờ mới thấy nó khóc. Nước mắt thằng bé trào ra, trào ra, rơi xuống và hòa tan ngay vào vũng nước đang loang rộng trên nền nhà. Những con cá cờ quẫy quẫy... Một bàn tay thằng bé xòe ra, nhưng ngón tay kia run rẩy, thận trọng nhặt từng con cá vô tội lên, đặt vào đó.

    Chất bàng hoàng nhìn cảnh tượng đang diễn ra trước mắt. Những ý nghĩ thoáng nhanh trong đầu... Ngọn roi của anh... Nỗi lo lắng của anh... Những điều bận tâm của anh, của mấy ông người lớn trong khu tập thể này... Tất cả những thứ đó, lúc này đều trở nên vô nghĩa trước sinh mệnh của mấy con cá nhỏ.

    Thằng bé đứng dậy, không nhìn bố, khe khẽ mở then cửa. Nó rón rén đi ra sân, về phía bể nước có hòn non bộ. Nhưng bất ngờ nó dừng lại và đổi hướng, hấp tấp chạy ù về phía sau... Chất sực tỉnh, lao vút theo, rơi mất cả roi. Không hiểu bằng cách nào, thằng bé đã lọt được ra ngoài cánh cổng gỗ... Rõ ràng phải có một lối mòn nào đó mà những người lớn không thể ngờ được. Nếu không thì chỉ một chút nữa thôi, một chút nữa thôi là những chú cá này có thể chết vì mắc cạn. Thằng bé từ từ thả nhẹ bàn tay đựng cá xuống. Nước Hồ Tây mát lạnh. Những con cá vùng bơi đi. Thằng bé hớn hở một cách rất trẻ con quay mặt lại, nhìn mọi người lố nhố đằng sau cánh cổng gỗ.

    Cho đến nay, những con cá cờ ấy vẫn còn sống. Chúng may mắn không phải luẩn quẩn trong bể nước dưới chân hòn núi giả. Giờ đây là cả lòng hồ mênh mông...

    11 - 1985
     
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này