Thể loại khác Truyện ngắn_ Tạp chí Kiến thức Ngày nay

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi hoi_ls, 24/11/23.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    KHÁCH KHÔNG MỜI

    Truyện ngắn của Jeffrey Archer
    Biên dịch: Lưu Văn Hiến


    Diana đã hi vọng có thể ra về lúc 5 giờ để đến trang trại kịp giờ ăn tối. Cô tránh không để lộ cảm xúc của mình khi người phó của cô, Phil Haskins, trình cho cô một văn bản phức tạp dài mười hai trang cần chữ ký của giám đốc trước khi gửi cho khách hàng, lúc 4 giờ 37 phút. Haskins không ngần ngại nhắc cô rằng trong tuần lễ đó họ đã bị mất hai hợp đồng tương tự.

    Ngày thứ sáu bao giờ cũng vậy. Điện thoại im ắng suốt buổi chiều, thế rồi, ngay khi cô nghĩ cô có thể thoát ra được thì một hồ sơ trình ký sẽ được đem vào. Chỉ cần liếc sơ qua văn bản là Diana đủ biết mình sẽ không về nổi trước sáu giờ.

    Vừa làm mẹ vừa giữ chức giám đốc tại một công ty nhỏ nhưng phát đạt, cô chẳng có được mấy phút giây rảnh rỗi trong ngày để thư giãn, do đó cứ bốn tuần một lần như đã thỏa thuận, khi James và Caroline qua kỳ nghỉ cuối tuần với cha chúng, người chồng cũ của cô, Diana cố rời văn phòng sớm hơn thường lệ một chút để tránh bị kẹt vào luồng xe cộ đông đúc cuối tuần.

    Cô chậm rãi đọc trang văn bản đầu tiên, sửa chữa vài chỗ, biết rằng nếu vội vàng vào chiều thứ sáu mà để sót một lỗi thì cô có thể phải ân hận. Khi ký vào trang cuối văn bản, cô liếc nhìn đồng hồ để bàn: 5 giờ 51 phút.

    Diana cầm xách tay lên và quả quyết đi ra cửa, để hợp đồng lên bàn Phil mà không buồn chúc anh ta cuối tuần vui vẻ. Cô ngờ rằng hợp đồng đã ở trên bàn anh ta từ chín giờ sáng, nhưng việc giữ nó đến 4 giờ 7 phút chỉ là một cách trả thù vì giờ đây cô đã được đề bạt lên chức giam đốc. Khi đã vào thang máy an toàn cô bấm nút để xuống bãi đậu xe ở tầng hầm, ước lượng rằng việc chậm trễ sẽ làm cô mất thêm một giờ nữa cho chuyến đi.

    Cô bước ra khỏi thang máy, lại chỗ chiếc xe Audi estate của mình, mở khoá cửa và vứt xách tay vào băng sau. Khi cô lái xe ra đường thì dòng xe cộ lúc hoàng hôn đã hòa nhịp với dòng khách bộ hành vội vã.

    Cô mở radio để nghe bản tin lúc sáu giờ. Tiếng chuông đồng hồ Big Ben vang lên, trước khi phát ngôn nhân của ba đảng phái chính trị lần lượt phát biểu quan điểm của mình về các kết quả bầu cử ở châu Âu. John Major từ chối bình luận về tương lai của ông. Đảng Bảo thủ giải thích cho kết quả kém cỏi của mình rằng chỉ có ba mươi sáu phần trăm cử tri đi bỏ phiếu. Diana cảm thấy có lỗi - cô thuộc số sáu mươi bốn phần trăm không tham gia bầu cử.

    Phát thanh viên tiếp tục đọc tin về tình trạng bế tắc tại Bosnia, và Liên hiệp quốc đe dọa những hậu quả nghiêm trọng nếu Radovan Karadzik và người Serb không đạt được thỏa thuận với nhau. Diana bắt đầu lơ đãng - Một đe dọa như thế không còn tính thời sự nữa. Cô cho rằng nếu một năm sau cô mở radio thì điều đó cũng sẽ được lặp lại đúng từng từ một.

    Khi xe của cô bò về Quảng trường Russell, cô bắt đầu nghĩ về dịp cuối tuần trước mắt. Hơn một năm trước John bảo cô rằng anh ta đã gặp một phụ nữ khác và muốn ly dị cô. Đến giờ cô vẫn không hiểu tại sao, sau bảy năm hôn nhân, cô đã không bị sốc nhiều hơn - hay ít ra thì cũng tức giận - về sự phản bội của anh ta. Từ khi được cử làm giám đốc, cô phải thừa nhận rằng họ ngày càng ít thời gian bên nhau. Và có lẽ cô đã được an ủi bởi một thực tế là một phần ba các cặp vợ chồng ở Anh đã ly dị hoặc ly thân. Bố mẹ cô không giấu sự thất vọng. Hai ông bà sống bên nhau đã được bốn mươi hai năm rồi còn gì.

    Vụ ly dị đã diễn ra khá hòa nhã, vì John, người kiếm được ít tiền hơn cô - có lẽ đây là một trong những vấn đề của họ - đã đồng ý với hầu hết các yêu cầu của cô. Cô giữ lại căn hộ ở Putney, chiếc xe Audi estate và hai đứa con mà John được phép ở với chúng một kỳ nghỉ cuối tuần trong mỗi bốn tuần. Anh ta có thể đón chúng ở trường chiều hôm đó, và như thường lệ, sẽ đưa chúng về lại căn hộ ở Putney vào lúc bảy giờ tối chủ nhật.

    Diana sẵn sàng làm bất cứ gì để tránh phải ở lại một mình tại Putney khi lũ trẻ vắng nhà, và mặc dù cô hay càu nhàu về việc phải một mình nuôi nấng hai con, mỗi khi chúng vắng nhà cô lại nhớ chúng khủng khiếp.

    Cô vẫn không có người tình và cô không chung chạ lăng nhăng. Trong số cán bộ chủ chốt của công ty, chưa người nào đi xa hơn việc mời cô dùng cơm trưa. Có lẽ bởi vì chỉ ba người trong số họ chưa có gia đình. Người duy nhất cô có thể cân nhắc đặt quan hệ lại để lộ rất rõ ý định của anh ta là chỉ muốn qua đêm chứ không muốn chia sẻ cuộc sống ban ngày với cô.

    Dù sao đi nữa, từ lâu Diana đã quyết định là nếu như cô được tôn trọng trong vai trò nữ giám đốc đầu tiên của công ty, thì một mối tình ở văn phòng, dù cho có tình cờ hay ngắn ngủi đến đâu, cũng chỉ có thể kết thúc trong nước mắt. Đàn ông thật thiếu tôn trọng , cô nghĩ thế. Một phụ nữ chỉ cần phạm một sai lầm là sẽ bị chụp ngay cái mũ lẳng lơ. Rồi mọi gã đàn ông ở đó sẽ hoặc là cười mỉa sau lưng bạn, hoặc là sẽ xem đùi bạn như phần nối dài tay ghế của anh ta.

    Diana rên rỉ khi xe cô dừng lại ở một ngã tư đèn đỏ nữa. Đã hai mươi phút mà cô chưa đi được hơn vài cây số. Cô mở ngăn đựng găng tay ở chỗ ngồi bên cạnh và mò tìm một cuộn băng cassette. Cô nhét nó vào khe máy, hy vọng đó là băng Pavarotti, nhưng chỉ nghe thấy giọng Gloria Gaynor the thé hát bài “Em sẽ sống còn”. Cô mỉm cười và nghĩ đến Daniel khi đèn chuyển sang xanh.

    Cô và Daniel cùng học khoa kinh tế tại Đại học Bristol từ đầu thập niên 1980, là bạn chứ chưa bao giờ là người yêu. Rồi Daniel gặp Rachael, học sau họ một năm, và từ đó anh không bao giờ còn ngó ngàng đến người con gái nào khác. Họ lấy nhau ngày anh tốt nghiệp, và sau khi đi hưởng tuần trăng mật về Daniel tiếp nhận việc quản lý trang trại của ông bố tại Bedtorshire. Họ có ba đứa con liền nhau, và Diana đã tự hào được mời làm mẹ đỡ đầu cho Sophie, đứa lớn nhất. Daniel và Rachael lấy nhau đã được mười hai năm, và Diana tin rằng họ sẽ không nghĩ đến chuyện ly dị để làm phiền lòng bố mẹ họ. Dù họ tin rằng cô có một cuộc sống hào hứng và thành đạt, Diana thường ganh tị với sự hiện hữu dịu dàng và đơn giản của họ.

    Họ thường xuyên mời cô cùng trải qua kỳ nghỉ cuối tuần ở vùng quê, nhưng trong hai hay ba lần được mời cô chỉ nhận lời một lần - không phải vì cô không thích gặp gỡ họ thường xuyên hơn, mà bởi vì kể từ khi ly dị cô không muốn lạm dụng lòng hiếu khách của họ.

    Mặc dù cô thích làm việc, tuần vừa rồi thật là hắc ám. Hai hợp đồng đã vuột mất, James đã bị loại khỏi đội tuyển bóng đá của trường, và Caroline không ngừng khoe với cô rằng bố nó chẳng phiền gì việc nó xem tivi khi nó lẽ ra phải làm bài tập.

    Lại một lần đèn đỏ nữa.

    Diana mất gần một giờ mới đi được mười cây số ra khỏi thành phố, và khi cô đến con đường đôi đầu tiên, cô liếc nhìn bảng hiệu A1, theo thói quen hơn là tìm sự hướng dẫn, vì cô thuộc từng mét chặng đường từ văn phòng cô đến trang trại. Cô cố tăng tốc, nhưng điều đó không thể được, vì cả hai làn đường đều đặc những xe.

    “Khốn kiếp thật”. Cô đã quên mua quà cho họ, ngay cả một chai claret khiêm nhường cũng không. “Khốn kiếp”, cô lặp lại: Daniel và Rachael luôn là người tặng quà. Cô nghĩ đến việc mua món gì đó trên đường đi, nhưng lại nhớ rằng từ đây tới trang trại chỉ có những cây xăng mà thôi. Cô không thể lại mang đến một hộp sô cô la mà họ sẽ không bao giờ đụng đến. Khi cô đến vòng xoay dẫn vào đường A1, lần đầu tiên cô đạt tới trên tám mươi cây số giờ. Cô bắt đầu thư giãn, cho phép đầu óc mình trôi theo tiếng nhạc.

    Bỗng nhiên, không có dấu hiệu gì báo trước, một con vật nhỏ màu đen phóng vọt qua đường. Cô vội thắng gấp, nhưng đã quá muộn. Có một tiếng thịch vang lên ở cản trước xe, và chiếc xe rung nhẹ lên.

    Dù cô đã phản xạ nhanh, nhưng cũng không kịp tránh tông phải con vật. Diana tấp xe vào lề và thắng gấp, tự hỏi con vật có thoát hiểm không. Cô lùi xe chầm chậm đến chỗ cô nghĩ là đã đụng phải nó, trong khi xe cộ gầm rú chạy qua.

    Và cô nhìn thấy nó nằm trên lề cỏ - một con mèo chắc đã từng băng qua lộ hàng chục lần. Cô bước xuống xe, đi lại chỗ con vật nằm bất động. Bỗng nhiên Diana thấy muốn phát ốm. Cô cũng có hai con mèo, và cô biết sẽ không bao giờ có thể kể cho các con chuyện đã xảy ra. Cô nhặt con mèo chết lên và nhẹ nhàng đặt nó xuống rãnh bên vệ đường.

    “Xin lỗi nghe,” cô nói, thấy mình hơi ngớ ngẩn. Cô nhìn nó lần chót rồi quay lại xe. Điều mỉa mai là cô đã chọn mua xe Audi vì những đặc điểm an toàn của nó.

    Cô ngồi vào xe và khởi động máy, vẫn còn nghe tiếng Gloria Gaynor gào thét quan điểm của cô ta về đàn ông. Cô tắt nhạc, cố thôi nghĩ về con mèo trong khi chờ một khoảng trống trong dòng xe để nhập vào tuyến xe tốc độ chậm. Cuối cùng cô cũng thành công, nhưng vẫn không thể xóa hình ảnh con mèo ra khỏi đầu.

    Diana tăng tốc dần lên tám mươi thì bỗng nhiên một cặp đèn pha rọi thẳng vào kính sau xe. Cô đưa tay lên và vẫy vào kính chiếu hậu, nhưng ánh đèn vẫn làm cô chói mắt. Cô chạy châm lại cho chiếc xe kia qua, nhưng người lái xe chẳng có vẻ gì muốn vượt. Diana bắt đầu thắc mắc không biết xe cô có bị trục trặc gì không. Có phải đèn xe không sáng? Có phải ống xả phun khói? Có phải...

    Cô quyết định tăng tốc và kéo dài khoảng cách với chiếc xe sau, nhưng nó vẫn lẽo đẽo cách cản sáu xe vài mét. Cô ráng nhìn mặt người lái xe trong kính chiếu hậu, nhưng không thấy rõ trong ánh đèn chói chang. Khi mắt cô đã quen với ánh đèn, cô nhìn thấy bóng của một chiếc xe thùng màu đen bám sát xe cô, và một người trông như một thanh niên ngồi sau vô lăng. Hình như anh ta đang vẫy cô.

    Diana lại giảm tốc độ khi đến gần vòng xoay kế tiếp, cho hắn mọi cơ hội để vượt qua ở làn xe ngoài, nhưng một lần nữa hắn lại không tận dụng cơ hội đó, mà vẫn đeo sát cản xe của cô, đèn trước xe hắn vẫn sáng chói. Cô chờ một chỗ trống trong luồng xe từ bên phải đến. Khi có chỗ trống, cô đạp mạnh cần ga, phóng qua vòng xoay và tăng tốc trên đường A1.

    Cuối cùng cũng thoát được hắn. Cô vừa mới bắt đầu thư giãn và nghĩ đến Sophie lần nào cũng thức chờ cô đọc truyện cho nghe, thì đột nhiên những ánh đèn pha cực mạnh kia lại chiếu thẳng vào xe qua kính chắn gió phía sau và làm cô quáng mắt. Chỉ khác là lần này chúng gần cô hơn bao giờ hết.

    Cô chạy chậm, hắn chạy chậm. Cô chạy nhanh, hắn chạy nhanh. Cô cố nghĩ xem phải làm gì, và bắt đầu vẫy tay loạn xạ về các lái xe khác đang vượt qua, nhưng họ vẫn thờ ơ trước số phận của cô. Cô cố nghĩ ra cách khác để báo động với ai đó, rồi đột ngột nhớ ra rằng khi cô mới tham gia vào ban giám đốc công ty, người ta đã đề nghị cô gắn điện thoại vào xe. Diana đã quyết định là việc đó có thể chờ đến khi xe cô đến hạn bảo trì kế tiếp, đáng lẽ đã phải làm trước đó hai tuần.

    Cô quệt mồ hôi trên trán, suy nghĩ trong giây lát, rồi lái xe vào tuyến cao tốc. Chiếc xe thùng vọt theo cô, và bám sát cản sau xe cô đến nỗi cô sợ rằng nếu mình chạm nhẹ vào thắng cũng sẽ gây ra một loạt đụng xe dồn cục.

    Diana tăng tốc lên đến một trăm tư, nhưng chiếc xe thùng vẫn không để bị bỏ rơi. Cô đạp ga sâu hơn và lên đến một trăm sáu, nhưng chiếc xe kia vẫn chỉ cách cô chưa đến một thân xe.

    Cô bật đèn trước lên pha, bật đèn báo nạn lên và nhấn kèn xe đuổi bất cứ ai dám láng cháng trước mặt. Cô chỉ hy vọng rằng cảnh sát sẽ thấy cô, vẫy cô vào lề và phạt cô vì chạyquá tốc độ. Bị phạt dứt khoat vẫn hơn là bị đụng xe bởi một thằng nhãi lái ẩu, cô nghĩ thế, khi chiếc Audi estate vượt qua vận tốc một trăm tám lần đầu tiên trong đời nó. Nhưng chiếc xe thùng đen vẫn không để bị bỏ rơi.

    Không báo trước, cô lách vào tuyến giữa và nhấc chân khỏi cần ga, khiến cho chiếc xe thùng vượt lên ngang xe cô, cho cô cơ hội lần đầu tiên nhìn thấy gã lái xe. Hắn mặc một chiếc áo khoác da đen và đang chỉ tay vào cô đầy vẻ dọa dẫm. Cô giơ nắm đấm về phía hắn và rồ ga vọt lên, nhưng hắn vẫn đuổi theo cô như một vận động viên chạy Olympic quyết không để đối thủ bỏ rơi.

    Rồi cô bỗng nhớ lại, và cảm thấy muốn phát ốm lần thứ nhì đêm hôm ấy. “Ôi lạy Chúa”, cô hét lên hoảng sợ. Chi tiết của một vụ sát nhân trên cùng quãng đường này vài tháng trước ùa vào tâm trí cô. Một phụ nữ đã bị cưỡng hiếp trước khi bị cắt cổ bằng một con dao lưỡi răng cưa, rồi bị vứt xác xuống rãnh. Trong nhiều tuần sau đó trên đường A1 có cắm những bảng hiệu nhắc nhở mọi người qua lại gọi cho cảnh sát theo số điện thoại cho sẵn nếu họ có bất kỳ thông tin gì có thể giúp cảnh sát điều tra. Những bảng hiệu đã được gỡ đi, nhưng cảnh sát vẫn đang truy lùng thủ phạm. Diana bắt đầu run sợ khi nhớ lại lời cảnh báo với tất cả phụ nữ lái xe: “Đừng bao giờ ngừng xe trên xa lộ”.

    Vài giây sau cô thấy một bảng hiệu giao thông mà cô đã thuộc lòng. Cô đã đến đó sớm hơn nhiều so với dự kiến. Chỉ năm cây số nữa là cô sẽ phải rời xa lộ để rẽ vào con đường nhánh dẫn dến trang trại. Cô cầu nguyện rằng nếu cô quẹo vào con đường quen thuộc, gã thanh niên áo đen sẽ tiếp tục chạy trên đường A1 và cô sẽ thoát được hắn.

    Diana quyết định rằng đã đến lúc tống cổ gã đi. Cô lách vào tuyến cao tốc và đạp lút ga. Cô đạt tới một trăm sáu lần thứ nhì khi vượt qua cột mốc cây số thứ ba. Khắp người cô ướt đẫm mồ hôi, và đồng hồ tốc độ chỉ một trăm tám. Cô liếc nhìn vào kính chiếu hậu, nhưng hắn vẫn ở ngay sau xe cô. Cô sẽ phải chọn thật đúng thời điểm nếu như cô muốn thực hiện thành công kế hoạch của mình. Khi còn một cây số nữa, cô bắt đầu quan sát bên trái để chắc rằng việc tính toán thời gian của mình là chính xác. Cô không cần nhìn vào kính chiếu hậu cũng biết rằng hắn vẫn bám theo.

    Cột mốc tiếp theo có kẻ ba đường chéo màu trắng, báo cho cô biết là phải ở làn xe bên trong nếu cô muốn rẽ khỏi xa lộ ở giao lộ tiếp theo. Cô vẫn để xe mình chạy ở làn xe ngoài với vận tốc một trăm sáu đến khi cô thấy một khoảng trống đủ rộng. Hai lằn sơn trắng hiện ra trên bảng hiệu bên lề đường: Diana biết cô chỉ có một cơ hội để thoát hiểm. Khi xe chạy qua bảng hiệu có kẻ một lằn sơn cô đột ngột phóng xe ngang đường với vận tốc một trăm tư, khiến cho xe ở tuyến giữa phải thắng gấp và nhấn kèn giận dữ. Nhưng Diana không quan tâm đến ý nghĩ của họ về mình, bởi vì cô đang chạy trên con đường rẽ dẫn đến sự an toàn, còn chiếc xe thùng đen đang tăng tốc trên đường A1.

    Cô phá lên cười nhẹ nhõm, ở bên phải, cô có thể nhìn thấy dòng xe cộ đang chạy đều trên xa lộ. Nhưng tiếng cười của cô biến thành tiếng thét hãi hùng khi cô thấy chiếc xe thùng đen cắt ngang đường ngay trước đầu một xe tải, chồm lên lề cỏ và loạng choạng phóng về đường rẽ. Nó suýt nữa lao qua lề và đâm xuống rãnh, nhưng gượng lại được, để rồi lại bám sát cách xe cô vài mét, đèn xe sáng rực lại rọi thẳng vào kính sau xe.

    Khi lên đến đỉnh dốc của đường nhánh, Diana rẽ trái chạy về phía trang trại, cuống quýt cố nghĩ ra phải làm gì. Thành phố gần nhất cũng còn cách đó mười tám cây số nếu đi đường chính, trong khi trang trại chỉ cách mười cây, nhưng bảy cây trong đó là đoạn đường quê ngoằn ngheo, không có đèn đường. Cô nhìn đồng hồ xăng. Nó đã sắp cạn, nhưng trong thùng xăng vẫn còn đủ để cô chạy đến một trong hai nơi đó. Còn không tới hai cây số nữa là đến ngã ba, vì vậy cô chỉ có một phút để quyết định.

    Khi còn cách ngã ba một trăm mét thì cô chọn ngả trang trại. Mặc dù nó không có đèn đường, cô thuộc mọi chỗ quẹo và khúc quanh mà cô tin rằng kẻ đang đuổi theo cô không biết. Khi đến trang trại chắc chắn cô sẽ ra khỏi xe và vào nhà trước hắn nhiều. Trong bất kỳ trường hợp nào thì hắn cũng sẽ phải bỏ chạy khi thấy trang trại.

    Thời gian đã hết. Diana nhấp thắng và chiếc xe trượt bánh rồi lao vào con đường đất nhòa nhạt ánh trăng.

    Diana đập tay lên vô lăng. Có phải cô đã quyết định sai? Cô liếc nhìn kính chiếu hậu. Gã đã bỏ cuộc chưa? Tất nhiên là chưa. Đuôi một chiếc Land Rover hiện ra trước mắt cô. Diana giảm tốc, chờ đến khúc ngoặt mà cô thuộc làu, nơi đó đường hơi rộng ra một chút. Cô nín thở, sang số ba, và vượt qua. Liệu việc tông phải xe chạy ngược chiều có khá hơn là ở lại với một tên cắt cổ không? Cô ôm cua ở khúc quanh và thấy con đường phía trước vắng tanh. Cô lại nhấn ga, bỏ rơi kẻ đuổi theo mình đến bảy chục, thậm chí một trăm mét, nhưng điều này cũng chỉ cho cô vài giây để nghỉ. Chẳng bao lâu ánh đèn quen thuộc lại bao trùm lên xe cô.

    Ở mỗi khúc ngoặt cô lại kéo dài khoảng cách được một chút do chiếc xe thùng vẫn chạy lảo đảo vì không quen đường, nhưng cô cũng chưa bao giờ bỏ xa hắn được quá vài giây. Cô nhìn đồng hồ chỉ cây số. Từ chỗ rẽ khỏi đường chính đến trang trại chỉ hơn bảy cây số, và đến bây giờ cô hẳn đã vượt qua được ba cây. Cô bắt đầu nhìn từng trăm mét hiện lên trên đồng hồ, tim thót lại với ý nghĩ chiếc xe thùng sẽ vượt lên và ép xe cô xuống rãnh. Cô cương quyết giữ xe ở ngay giữa đường.

    Một cây số nữa qua đi, và hắn vẫn bám sát xe cô. Đột nhiên cô thấy một chiếc xe ngược chiều chạy đến. Cô bật đèn trước lên pha và nhấn kèn inh ỏi. Chiếc xe kia trả đũa bằng cách làm y hệt như cô, khiến cho cô phải chạy chậm lại và quẹt vào hàng cây dại lúp xúp ven đường khi chiếc xe kia lao vụt qua. Cô lại nhìn đồng hồ cây số. Chỉ còn hai cây nữa.

    Diana chạy chậm lại mỗi khi vào một khúc quanh quen thuộc rồi lại tăng tốc, không cho chiếc xe thùng một cơ hội nào để vượt lên. Cô ráng tập trung vào việc sẽ phải làm khi nhìn thấy dãy nhà ở trang trại, cô áng chừng quãng đường dẫn vào nhà dài khoảng tám trăm mét. Quãng đường này mấp mô và đầy những chỗ lồi lõm mà Daniel giải thích là không đủ tiền để sửa. Nhưng rất may là nó chỉ đủ rộng cho một xe qua.

    Cổng mở ra đường thường để ngỏ mỗi khi cô đến, mặc dù thỉnh thoảng Daniel cũng quên, khi đó cô phải ra khỏi xe và tự mở nó ra. Đêm nay thì cô không liều thế được. Nếu cổng bị đóng thì cô đành phải chạy đến thành phố tiếp theo và dừng xe ở ngoài quán Crimson Kipper luôn đông khách vào giờ này mỗi thứ sáu hàng tuần, hoặc cô có thể chạy đến đồn cảnh sát. Cô nhìn lại đồng hồ báo xăng. Nó sắp xuống đến vạch đỏ. “Ôi lạy Chúa”, cô thốt lên, nhận ra rằng mình có thể không đủ xăng để chạy đến đó.

    Cô chỉ còn cách cầu nguyện rằng Daniel nhớ để ngỏ cổng.

    Cô lao xe qua khúc ngoặt tiếp theo và tăng tốc, nhưng cũng như trước cô chỉ vượt lên được có vài mét, và biết rằng chỉ vài giây sau hắn sẽ bắt kịp. Đúng như vậy. Trong mấy trăm mét tiếp theo họ chỉ cách nhau có vài mét, và cô sợ rằng hắn sẽ ủi vào đuôi xe cô. Cô không dám đạp thắng một lần nào - nếu họ đụng nhau ỏ quãng này, cách xa mọi sự cứu giúp, thì cô sẽ vô phương thoát khỏi tay hắn.

    Cô nhìn đồng hồ cây số. Chỉ còn một cây nữa thôi.

    “Cổng phải đang mở. Nó phải đang mở”, cô cầu khấn. Khi cô ngoặt xe ở khúc quanh kế đó, cô nhìn thấy đường nét của dãy nhà từ xa. Cô suýt nữa hét lên nhẹ nhõm khi nhìn thấy các phòng tầng trệt sáng đèn.

    Cô nói to “Cảm ơn chúa” rồi chợt nhớ đến cánh cổng, và đổi lời cầu nguyện thành “Lạy Chúa, xin hãy để ngỏ cổng”. Khi qua chỗ ngoặt cuối cùng cô sẽ biết phải làm gì. “Hãy để ngỏ cổng, chỉ lần này thôi”, cô van vỉ. “Con sẽ không xin bất cứ điều gì nữa, không bao giờ”. Cô ngoặt xe ở khúc quanh chót chỉ cách chiếc xe thùng có vài tấc. “Làm ơn, làm ơn, làm ơn đi”. Rồi cô thấy cánh cổng.

    Nó đang mở.

    Y phục cô giờ đây ướt sũng mồ hôi. Cô chậm lại, xuống số hai, lao xe qua chỗ trống và vào quãng đường mấp mô dẫn vào nhà, va phải cột cổng bên phải trước khi xe chồm lên lao về phía dãy nhà. Chiếc xe thùng không ngần ngại theo sau, và chỉ cách cô vài tấc khi xe cô chạy thẳng lại. Diana nhấn kèn luôn tay trong khi xe cô nảy tung lên vì lao qua các chỗ sống trâu.

    Từng đàn quạ giật mình quàng quạc bay lên từ các rặng cây. Diana bắt đầu gào lên, “Daniel! Daniel!”. Cách cô hai trăm mét đèn trước nhà bật sáng.

    Đèn xe cô bây giờ rọi thẳng vào mặt tiền nhà, và tay cô vẫn để nguyên trên nút kèn. Khi còn cách một trăm mét cô thấy Daniel ra khỏi cửa truớc, nhưng cô không chạy chậm lại, mà chiếc xe thùng đằng sau cô cũng vậy. Khi còn cách năm mươi mét cô bắt đầu nhá đèn vào Daniel. Lúc này cô có thể thấy vẻ bối rối lo âu trên mặt anh.

    Khi còn cách ba mươi mét cô đạp mạnh thắng. Chiếc estate nặng nề trượt đi trên khoảng sân lát sỏi trước nhà, dừng phắt lại trong luống hoa ngay dưới cửa sổ nhà bếp. Cô nghe tiếng thắng rít lên phía sau. Gã thanh niên mặc áo da không quen địa thế, không kịp phản ứng, và khi bánh xe hắn chạm vào khoảng sân lát sỏi xe hắn bị trượt không kiểm soát nổi. Một giây sau đó chiếc xe thùng đâm sầm vào đuôi xe cô, khiến nó lao vào tường nhà và làm vỡ tan kính cửa sổ.

    Diana nhảy khỏi xe, thét lên, “Daniel, lấy súng, lấy súng đi!”. Cô chỉ vào chiếc xe thùng. “Thằng khốn đó đã đuổi theo tôi suốt ba mươi cây số đường!”

    Gã thanh niên nhảy khỏi xe và bắt đầu đi cà nhắc về phía họ. Diana chạy vội vào nhà. Daniel chạy theo và chộp lấy khẩu súng bắn đạn chài vẫn dùng để săn thỏ đang dựa vào tường. Anh chạy trở ra đối diện người khách không mời đã đứng lại đằng sau chiếc Audi của Diana.

    Daniel nâng súng lên vai và nhắm thẳng vào gã. “Đứng yên nếu không tôi bắn”. Anh bình thản nói. Rồi anh chợt nhớ là súng chưa nạp đạn. Diana đi ra nhưng cô dừng lại sau lưng anh vài mét.

    “Không phải tôi! Không phải tôi!” gã thanh niên mặc áo da đen la lên khi Rachael xuất hiện ở cửa nhà.

    “Có chuyện gì vậy?” cô lo lắng hỏi.

    “Hãy gọi cảnh sát”, Daniel chỉ nói có vậy, và vợ anh biến vào nhà.

    Daniel bước tới chỗ gã thanh niên đang hoảng sợ, nòng súng chĩa thẳng vào ngực hắn.

    “Không phải tôi! Không phải tôi!” gã lại la lên, chỉ tay vào chiếc Audi. “Hắn ở trong xe!”. Gã quay phắt lại đối diện Diana. “Tôi thấy hắn lẻn vào xe khi chị đậu lại ở vệ đường. Tôi đâu biết phải làm gì hơn! Chị có chịu dừng lại đâu!”

    Daniel cảnh giác tiến về cửa sau xe và ra lệnh cho gã thanh niên mở cửa chầm chậm, trong khi anh vẫn chĩa súng vào hắn.

    Gã thanh niên mở cửa xe, và nhanh chóng bước lùi lại. Cả ba trân trối nhìn vào một gã đàn ông đang nằm bò trên sàn xe. Tay phải gã cầm một con dao dài lưỡi có răng cưa. Daniel vung nòng súng chĩa vào gã, nhưng không nói gì.

    Từ xa đã nghe thấy tiếng còi hụ xe cảnh sát.


    (Dịch từ Twelve Red Herrings)
     
    vuivui2013, meetdak and amylee like this.
  2. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    NGOÀI TẦM KIỂM SOÁT

    Truyện của Clark Howard
    Lê Tân dịch
    Tạp chí KTNN số 330, 331, 332.


    Trong tháp điều khiển không lưu Lax - phi trường quốc tế Los Angeles - đồng hồ trên tháp chỉ 23 giờ 40. Đèn trong phòng điều khiển vẫn sáng rực. Các nhân viên điều khiển không lưu, chăm chú quan sát màn ảnh ra-đa trước mặt họ. Những đốm màu di động xuất hiện trên màn hình, tượng trưng cho vị trí của những chiếc máy bay đang cất cánh hoặc hạ cánh trên phi đạo mênh mông bao quanh tháp.Tiếng nói của họ cũng đều đều như ánh sáng trong phòng:

    - Máy bay cánh xếp 1177, ra đường băng 230...; - Máy bay Tây 777, đường băng đã trống, cất cánh ở phi đạo số 41 hướng Tây...; - Máy bay PSA 73, xin chuấn bị...; - Máy bay Mỹ 369 chuẩn bị đáp...

    Chính giữa tháp điều khiển, tại một cái bàn gỗ lớn đặt phía sau dãy bàn của các nhân viên, một người đàn ông đang ngồi điều khiển tổng thể đài điều khiển không lưu này. Một biển tên bằng đồng gắn ngay bảng điện tử trước mặt anh ta: JED STAFFORD -TRƯỞNG TRẠM ĐIỂU HÀNH.

    Stafford gần bốn mươi, ánh mắt tinh tường, dáng người hoạt bát, thuộc loại người dám nhận lấy cùng lúc nhiều trọng trách mà vẫn còn đủ tỉnh táo để đương đầu với một loạt những khó khăn khác. Anh có một màn hình chủ rất lớn và một dãy những màn ảnh chủ nhỏ hơn giúp anh giám sát công việc của tất cả các nhân viên mà không cần rời chỗ của mình. Khi làm việc - kiểm soát lịch bay, ký những chứng từ, trả lời điện thoại - ánh mắt anh không rời các màn ảnh quá lâu. Stafford làm việc ở đây mười sáu năm rồi. Những đốm sáng chớp nháy là tất cả và Jed Stattord không quan tâm đến gì khác một khi anh bước vào phòng. Những đốm sáng đó là mạng sống hoặc cái chết của nhiều ngàn người...



    ***


    Stattord đang ngủ, tóc rối bù, mặt hơi úp xuống gối. Anh đang mơ thấy mình đến một mình hoang vu không có những đốm sáng nhấp nháy thì đồng hồ báo thức reo inh ỏi và một cánh tay trần mềm mại với ngang qua người anh tắt nút chuông. Millie, vợ anh, ngồi dậy cạnh anh. Bỗng Jed mở mắt, tinh nghịch kéo cô xuống. Họ khẽ giằng co một chút, Jed thò tay dưới áo ngủ cô. Millie khẽ nói vào tai anh, trong khi cô gỡ khỏi vòng tay anh:

    - Tí nữa, tụi nhỏ đi học và anh trở về từ câu lạc bộ bowling, nhé?

    Jed ngồi dậy, làu bàu:

    - Tại sao anh lại trói buộc mình với cái câu lạc bộ đó nhỉ!

    - Để xuống cân đấy, ông chồng yêu quí của tôi ơi!

    - Ừ nhỉ... Anh khẽ vỗ cái bụng bắt đầu phát phì của mình. Tuy thân hình vẫn còn khá đẹp, nhưng giảm đi vài ký vẫn tốt hơn.

    Millie vẫn trong áo ngủ, xuống nhà bếp. Cô nhìn qua phòng ăn thấy đèn vẫn sáng. Không biết đứa nào thức dậy trong đêm mà quên tắt đèn.

    Vào bếp, Millie cứng người. Mắt cô mở to, miệng há hốc, nhưng chưa kịp kêu lên tiếng nào thì cả hai tay cô bị túm chặt bởi một người đàn ông thô lỗ mặc áo da, và từ phía sau, một bàn tay bịt chặt miệng cô. Cô bị giữ như thế một lúc, ngây người nhìn người đàn ông thứ ba đang ngồi ở bàn bếp, thong thả nhấm nháp cà phê. Bề ngoài hắn dịu dàng, những qua ánh mắt, Millie thấy ngay hắn là người cực kỳ nguy hiểm.

    Một phụ nữ bước ra từ sau cửa, đến trước mặt Millie. Dáng dấp cô ta rất phong trần, hơi tiều tụy. Millie cảm thấy yên lòng phần nào vì sự hiện diện của cô ta. Cô ta nói:

    - Đừng sợ, bà chị, không ai làm gì chị đâu, chỉ cần chị im lặng, hiểu chứ?

    Nói xong cô ta quay sang người đàn ông ngồi ở bàn:

    - Bảo họ thả cô ấy ra đi, Harry, em sẽ trông chừng cô ta.

    Người đàn ông đặt tách cà phê xuống, khẽ hất cằm với hai người đàn ông đang kềm giữ Millie:

    - Eddie, ra canh chừng cửa trước. Vic, lên gọi ông chủ nhà xuống đây.

    Millie được thả ra và cô gái kia đưa cô đến một cái ghế bên bàn. Gã mặc áo da tên Eddie, đi lên phòng khách phía trước, ngồi bên cửa sổ. Gã là người chụp tay Millie lúc nãy, còn khá trẻ, có lẽ chưa đến ba mươi, vẻ mặt không lấy gì làm thông minh lắm, rõ là một tên thiên lôi cục súc, chỉ đâu đánh đấy. Gã kia, tên Vic, đang lên lầu bắt Jed xuống, khoảng gần bốn mươi, đẹp trai, thuộc loại hớp hồn phụ nữ, trên ngực có xâm hình một con rắn.

    Jed đang cạo râu thì nhìn thấy Vic trong gương với khẩu súng trong tay. Vic chẳng nói chẳng rằng, chỉ ra hiệu cho Jed bằng khẩu súng, xuống nhà bếp.

    Sau khi Jed và Millie đã ở trong sự khống chế, người đàn ông thứ ba, Harry, lặng lẽ uống hết ly cà phê, đến bên điện thoại trên kệ bếp. Hắn quay một số nội hạt, nói vắn gọn:

    - Đã xong.



    ***


    Người đàn ông nhận cú phôn của Harry ngắt máy ngay và quay tiếp sô điện thoại đường dài. Người đáp là một người đàn ông đang ngồi trong một văn phòng ở thành phố Kansas:

    - Max đây.

    - Tôi vừa nhận được tin. Họ đã xong.

    - Tốt.

    Max ngắt máy, quay sang một người đàn ông đang duỗi dài thoải mái trên trường kỷ. Ông ta khoảng sáu mươi, phong thái đĩnh đạc, đường bệ, quyền uy. Ông ta là người điều hành thế giơi ngầm xuyên bang. Tên ông ta là Sam Freelow. Max nói:

    - Thưa ông, họ đã xong.

    Freelow bỏ tờ báo xuống, liếc nhìn đồng hồ:

    - Báo cho tụi nhỏ.

    Max lại phôn. Người đáp lần này là một gã đang ngồi trong một chiếc xe hơi màu xám, dùng điện thoại di động. Hắn lắng nghe tiếng Max:

    - Người của chúng ta ở LA. đã xong.

    Gã trong xe đáp:

    - Rõ, chúng tôi sẽ giữ liên lạc với anh.

    Nói xong hắn tắt máy, bảo với người tài xế:

    - Mọi chuyện ở L.A. đã xong.

    Gã tài xế hỏi:

    - Cái gã mà ông chủ dùng cho chiến dịch này ở L.A. là thằng nào vậy?

    Gã kia đáp một cách giễu cợt:

    - Harry Barrovv, một thứ cặn bã còn rơi rớt lại từ thời Dillinger xa lắc. Hắn dính trong vụ cướp nhà băng cùng với cháu nội ông chủ. Tao cho rằng ông chủ sắm hắn làm vai chính trong vụ này để cho có vẻ không liên quan gì đến chúng ta.

    - Tuyệt!

    Hai gã cùng châm thuốc lá, nhìn qua bãi đậu xe bên kia, một cái bảng khổng lồ chạy suốt khu nhà liên hợp: NHÀ TÙ NƯỚC MỸ - LEAVENWORTH, THÀNH PHỐ KANSAS.


    ***


    Tại nhà Jed, Harry nói:

    - Helen, đưa cô ta lên lầu để gọi lũ trẻ xuống đây.

    Helen nói, nhẹ nhàng nắm tay Millie:

    - Đi nào, bà chị.

    Vic đi cùng hai người phụ nữ. Ngang qua phòng khách, hắn ra hiệu cho Eddie trở lại nhà bếp.

    Trong bếp, Jed nhìn thẳng Harry, hỏi:

    - Tại sao các người vào nhà tôi? Các người muốn gì?

    Harry đáp nhỏ nhẹ:

    - Tôi sẽ cho anh biết khi tôi chuẩn bị xong. Từ lúc này anh hãy im lặng, làm theo lời tôi thì mọi người bình yên.

    Jeb bướng bỉnh:

    - Tôi muốn biết các anh đang làm cái gì ở đây.

    Anh đặt hai tay lên bàn như sắp đứng dậy. Giọng Harty vẫn nhỏ nhẹ, nhưng mắt

    quan sát thân hình vạm vỡ của Jed:

    - Đừng dại dột.

    Eddie bước vào, lừ lừ đứng dựa tường, phía sau Harry.

    Từ trên lầu, Millie gọi Ron, cậu con trai lớn mười bốn tuổi và Liza, cô con gái sáu tuổi. Cả hai vẫn mặc đồ ngủ, xuống cầu thang. Vừa bước xuống, cô vừa trấn an chúng. Liza rất sợ. Ron thì tỏ vẻ chống đối. Vic phải đẩy nó hai lần. Vào nhà bếp, nó vùng thoát khoi Vic, chạy băng về phía cửa sau. Nó bị Eddie chận lại, tát một cái chúi nhủi. Nổi điên, Jed lao người vào Eddie, nhưng tên côn đồ dễ dàng bước tránh sang bên, cười nhạt, đẩy Jed về phía Vic, tên này tung một cú đấm vào bụng Jed. Anh quị xuống. Millie hét lên. Liza khóc thét. Vic và Eddie cười đắc chí.

    Gã Harry quát:

    - Câm hết ! Tất cả !

    Ngay lập tức, mọi người im lim, trừ Liza vẫn khóc. Harry ra lệnh:

    - Eddie, trở lại phòng khách canh chừng cửa trước. Millie, dỗ cháu gái nín đi. Vic, đỡ Jed dậy.

    Vic đỡ Jed ngồi lại ghế trong khi Eddie lững thững trở lên phòng khách. Harry đến bên Ron, nâng cằm thang bé, nhìn thẳng vào mắt nó, giọng ôn hòa:

    - Cháu không sao chứ? Chắc là không sao rồi, chú thích cháu lắm.

    Rồi giọng hắn thân mật hơn:

    - Chú dám cá là cháu sẽ thắng Eddie trong một cuộc đọ sức sòng phẳng, nhưng không biết là cháu có được dịp đó hay không.

    Hắn vỗ vai Ron:

    - Thôi, lại ngồi bên cha cháu đi.

    Ron đến ngồi bên cha mình. Harry đưa ly cho Helen rót thêm cà phê, rồi nhìn Jed, giọng vẫn nhỏ nhẹ:

    - Tôi đã nói với anh ngay từ đầu là tôi không đến đây để làm hại ai, Jed, nếu người gia đình anh có chuyện gì thì đó là do chính các người gây ra. Bây giờ anh phải là người khuyên bảo người nhà anh.

    Jed vẫn ôm bụng, nói rắn rỏi:

    - Nếu các anh không cho tôi biết nguyên do thì cũng cho tôi biết các anh cầm giữ chúng tôi đến bao giờ chứ.

    - Không lâu, ngay khi việc hoàn tất, các vị sẽ tiếp tục cuộc sống bình thường.

    Jed bướng bỉnh:

    - Bao lâu?

    Harry ngẫm nghĩ một chút rồi đáp:

    - Khoảng mười tiếng nữa.


    ***


    Trong nhà tù Leavenworth, tên tù nhân vạm vỡ khoảng năm mươi tuổi tên Manny Fox bị hai cảnh sát áp giải đến văn phòng giám đốc nhà tù, nơi có các thám tử FBI đang chờ. Giám đốc nhà tù nói:

    - Tốt rồi, Fox. Anh sẽ được đưa đến L.A. để khai chống lại Sam Freelow trước sự chứng kiến của bồi thẩm đoàn của tòa án tối cao. Để đổi lấy việc đó, anh sẽ được miễn án tù chung thân và được tự do. Bộ tư pháp sẽ đưa anh vào chương trình bảo vệ nhân chứng.

    Mộttrong những thám tử FBI trao cho Fox một túi xách:

    - Anh thay đồ đi.

    Sau khi Fox được đưa đến phòng thay đồ thì giám đốc nhà tù nói:

    - Các anh đưa hăn đến L.A. bằng cách nào?

    Một thám tử đáp:

    - Máy bay tư nhân, chúng tôi không muốn dùng máy bay của Cục nên chúng tôi dùng một chiếc phản lực Lear nhỏ của tư nhân, nhưng phi công thì của chúng tôi.

    - Tôi mong các anh không để sổng hắn.

    Viên thám tử cười:

    - Manny Fox là nhân chứng cuối cùng của chúng tôi còn sống sót trong vụ Rico để chống lại Sam Freelow. Hắn là cơ hội cuối của chính phủ để bắt Freelow. Chúng tôi không để mất hắn đâu.


    ***

    Tại nhà Jed, anh và vợ con đang ngồi trong phòng ăn. Harry ngồi đối diện họ. Những tên kia đứng quanh phòng. Hất cằm về phía Ron, Harry nói với Jed:

    - Cậu bé này vẫn đến trường như thường, sau khi anh khuyên bảo nó, còn anh thì vẫn đến câu lạc bộ bowling. Vợ anh và cháu gái ở lại đây, như vật bảo đảm.

    Jed hỏi:

    - Bảo đảm cho cái gì?

    - Cho việc anh và cậu bé phải cư xử đúng mực và không dẫn cảnh sát về đây.

    Millie lo lắng:

    - Xin làm ơn... con gái tôi không đi học được sao? Hãy giữ tôi...

    Harry lắc đầu:

    - Nó còn bé quá, có thể nói năng lung tung. Cậu kia thì lớn hơn, đã biết nghĩ. Tôi tin cậu ấy biết phải quấy.

    Jed nói cứng:

    - Tôi không ra khỏi nhà nếu không có vợ con tôi.

    Harry thẳng thừng:

    - Anh phải làm đúng theo những gì tôi ra lệnh.

    Jed bướng bỉnh:

    - Nếu các anh muốn tôi hợp tác thì phải cho tôi biết là chuyện gì đã chứ!

    Eddie bước tới lấy trong túi quần một cái dùi cui nhỏ bọc da:

    - Ê, nhà thể thao muốn rụng hết răng hay sao?

    Harry ném một cái nhìn dễ sợ về Eddie, dõng dạc nói:

    - Mày câm miệng lại! Vứt cái đó đi! Chỉ tổ làm con bé kia sợ thôi!

    Eddie và Vic nhìn nhau, không giấu ánh mắt bất bình về cung cách của Harry nhưng tên này chẳng tỏ vẻ quan tâm. Hắn đang quan sát kỹ Jed. Hắn từng gặp hạng người này rồi, một cá tính hắn đã gặp ở những kẻ sống trong và ngoài vòng pháp luật. Một loại người thực tế. Loại người dám nói dám làm. Cuối cùng, hắn nói với Jed:

    - Được thôi, tôi và anh qua phòng bên.

    Quay sang Helen, hắn nói:

    - Cho bọn trẻ ăn sáng rồi bảo chúng thay đồ đi.

    Jed và Harry qua phòng khách, ngồi đối diện nhau ở bàn cờ vua, bàn cờ trước mặt họ. Harry nói:

    - Cờ vua là một môn rất hay, tôi học chơi cờ trong tù cho qua thì giờ.

    Hắn cầm lên quân vua:

    - Cứ cho đây là người mà tôi làm việc này thay ông ta; một người rất quan trọng mà chính phủ muốn bắt vì đã làm những chuyện mà chính phủ không cho phép. Có một thuộc hạ của ông ta đang sẵn sàng khai những điều chống lại ông ta ở tòa án.

    Harry đặt một con tốt ở bên kia bàn cờ, cho bao quanh bằng mã, sĩ, xe, tiếp:

    - Tên này được chính phủ bảo vệ nghiêm ngặt. Nhưng muốn lấy lời khai của tên này, họ phải đưa hắn từ đây...

    Hắn vạch một đường trên bàn cờ:

    - ... đến đây.

    Jed lắc đầu, hoang mang:

    - Thế thì liên quan gì đến gia đình tôi?

    - Họ đưa hắn đến đây bằng một chiếc máy bay tư nhân. Nó sẽ hạ cánh trong phi đạo khu vực kho hàng của sân bay quốc tế L.A. chiều nay, sau khi anh đã có mặt trong tháp.

    Jed nhún vai:

    - Thì sao?

    - Anh phải làm thế nào cho chiếc máy bay đó có vẻ như hạ cánh không đúng cách.

    Nét mặt Jed đầy hoài nghi:

    - Anh muốn tôi khéo léo tạo ra một vụ tai nạn?

    Harry gật đầu.

    Jed lắc đầu:

    - Không...

    Anh bỗng quả quyết hơn:

    - Tôi không làm chuyện đó, không đời nào!



    ***


    Trong chiếc xe hơi màu xám ở bãi đậu ngoài nhà tù Leavenworth, hai gã chờ đợi, một gã mang ống nhòm, thấy hai thám tử FBI đưa Manny Fox ra khỏi nhà tù. Họ được tiếp đón bởi hai thám tử khác trong một chiếc xe hơi bình thường. Năm người cùng vào xe và lên đường. Ngay khi chiếc xe của FBI vừa lăn bánh, chiếc xe màu xám cũng theo sau. Tên dùng dùng điện thoại di động lúc nãy, gọi cho một chiếc xe khác, một chiếc taxi, đang chờ bên lề một đường cao tốc:

    - Họ đang quẹo vào đường cao tốc của thành phố Kansas, chuẩn bị theo.

    Vừa vào đường cao tốc, viên thám tử lái xe liếc nhìn kính chiếu hậu thấy chiếc xe màu xám tăng tốc, vượt qua. Nhưng anh ta không biết chiếc taxi cách xe anh hai mươi thước đang thay thế công việc của chiếc xe xám.

    Người tài xế taxi dùng điện thoại di động liên lạc với một chiếc xe tải nhỏ đang bám theo cả xe cảnh sát lẫn xe taxi ở một chỗ rẽ trên đường. Trong thùng xe tải, một người cầm điện thoại di động liên lạc với xe taxi, tên tài xế taxi nói:

    - Tên cớm lái xe quan sát kính chiếu hậu rất kỹ, chắc tôi không bám được lâu, rất dễ lộ. Hình như chúng đang hướng về phi trường.

    - Tốt, chờ một dặm nữa rồi vượt qua và đi luôn. Chúng tôi sẽ “lượm” họ đầu con đường cao tốc thứ hai.

    Trong xe cảnh sát, một thám tử hỏi:

    - Có bị bám đuôi không?

    Viên thám tử lái xe đáp:

    - Tôi không chắc.

    Khi thấy chiếc taxi vượt qua, bỏ làn đường cao tốc, vào làn đường thường thì anh ta nói:

    - Không có xe nào bám đuôi đâu.

    Thực ra, chiếc xe tải lẫn trong dòng xe cộ đang bám theo họ.


    ***


    Harry đang thuyết phục Jed:

    - Coi nào, có gì ghê gớm đâu? Con người chúng tôi đang săn chỉ là một tên găng-tơ, hắn bị kết tội buôn ma túy và giết người. Hắn là kẻ bỏ đi rồi.

    - Những người áp giải hắn không buôn ma túy hay giết người, họ là nhân viên FBI, người đại diện pháp luật.

    Harry nhún vai:

    - Họ làm việc ăn lương. Chẳng ai buộc họ phải làm cớm cả. Đó là sự chọn lựa của họ, nhưng biết đâu họ có thể thoát chết trong tai nạn máy bay này?

    - Thế gã đó cũng thoát thì sao?

    - Không hề gì. Nếu thoát chết, hắn sẽ hiểu là người ta theo hắn đến chân trời góc bể để tóm hắn. Hắn sẽ sợ và ngậm miệng.

    - Tôi không làm theo các anh đâu, cho dù có làm chăng nữa, tôi cũng không chắc thành công hay không. Không phải do có nhiều xe cộ trong vùng phi đạo kho hàng của phi trường mà vì một vụ đụng nhau trên đường băng giữa một xe cẩu hàng và một máy bay tư nhân là điều không thể xảy ra!

    - Vậy thì hãy nghĩ ra cách nào hay nhất. Cho nó đâm vào một cái gì đó, một xe bồn đã cạn dầu, xe cứu hỏa...anh có thể nghĩ được mà.

    - Không, tôi không làm được.

    Harry lắc đầu:

    - Tôi không hiểu nổi anh, Jed, tôi không hiểu nổi một người dám đem sinh mạng vợ con mình để đổi lấy sinh mạng vài tên cớm. Tôi chưa bao giờ gặp người điên khùng như anh. Nếu anh không hợp tác với chúng tôi thì người đang nhờ tôi làm việc này sẽ cho hai tên vô lại kia xóa sổ gia đình anh. Đến lúc đó thì tôi chẳng thể cản chúng đâu.

    Jed nhìn Harry không chớp mắt. Nỗi sợ hãi đè nặng trong ngực anh.



    ***


    Trong nhà bếp, bọn trẻ đã ăn sáng xong, đang thay đồ. Eddie kềm Ron trong khi Helen kềm Liza. Helen ôn tồn nói với Millie:

    - Cô đừng lo, tôi không làm cháu sợ đâu.

    Một nét buồn phảng phất trên khuôn mặt Helen, cô tiếp:

    - Tôi cũng có một đứa con gái... lâu rồi...

    Millie ở lại trong bếp với Vic. Khi cô dọn bàn, hắn nhìn cô, thích thú. Ánh mắt hắn lướt từ đôi chân cô, lên hông, lên ngực. Millie biết hắn đang nhìn mình, cô nhìn hắn, tỏ vẻ khó chịu, cố phớt lờ. Nhưng cô biết hắn vẫn nhìn ngắm thân hình mình, dõi theo từng cử động của cô. Cuối cùng, Millie quay nhìn hắn, và hắn cũng không che giấu việc hắn đang nhìn chằm chằm vào bộ ngực cao đầy của cô. Cô hỏi:

    - Anh phải làm vậy sao?

    Tên găng-tơ mỉm cười:

    - Làm cái gì?

    - Nhìn tôi như thế.

    - Cô không thích được nhìn sao?

    Millie không đáp. Vic nói:

    - Tôi dám cá là cô thích được nhìn như thế. Tôi cũng dám cá là cô còn thích nhiều thứ khác nữa kia. Tôi từng nghe chuyện những cô vợ trẻ ăn không ngồi rồi như cô rất thích tìm hiểu những khoái lạc mới mẻ nữa kia.

    Millie quay đi, tiếp tục rửa ly tách. Vic đứng dậy, bước đến bồn rửa. Cô không biết hắn đang đến. Khi hắn bước đến sau lưng cô, đặt cái tách lên thành bồn rửa, cô giật bắn người, hét lên, nhảy sang bên.

    Harry lao vào phòng, Jed theo sau. Harry giận dữ nhìn Vic, rút một khẩu súng trong bao đeo ở ngực ra, chậm rãi bước về phía Vic.


    ***


    Trên con đường cao tốc ở Kansas, chiếc xe FBI có Fox đi ngang qua phi trường quốc tế và tiếp tục hướng về thành phố. Trong chiếc xe tải theo sau, người đàn ông kia lập tức gọi cho Max, tên cận vệ lắng nghe rồi quay sang Sam Freelow:

    - Họ đi luôn, không quẹo vào phi trường.

    Nhíu mày, tay trùm thế giới ngầm ngồi thẳng dậy trên trường kỷ:

    - Sao lạ vậy, tin từ Washington cho biết họ đưa hắn đi bằng máy bay mà!

    - Chiếc xe tải có thể hành động được, chúng ta có thể khử hắn trên đường cao tốc.

    Tay trùm nói một cách châm biếm nhưng đầy tức giận:

    - Ý kiến tuyệt vời đấy, nhưng thế thì còn gì để nói nữa: một cuộc đọ súng công khai và như thế thì chỉ có thể giết chết mấy người đi đường! Tôi đã nói bao nhiêu lần rồi: phải làm như một tai nạn! Bảo xe tải phải theo sát chúng từ bây giờ và giữ liên lạc với chúng ta, báo cáo ngay khi cần thiết.


    ***


    Harry hỏi, nòng súng dí sát bụng Vic:

    - Chuyện quái gì vậy?

    Kinh hoảng, biết Harry không ngần ngại bóp cò, Vic nói nhanh:

    - Cô ấy khùng mà! Tôi chỉ đặt tách cà phê lên thành bồn rửa mà cô ấy hét lên như vậy đấy!

    Jed tiến đến Vic, hai tay nắm lại. Giọng Millie thảng thốt:

    - Đừng, Jed! Đúng đấy, tại em!

    Harry hỏi cô:

    - Hắn chạm vào người cô chưa?

    - Chưa, chưa!... Hắn không làm gì tôi... tôi quá căng thẳng...

    Harry ra lệnh:

    - Được rồi, Jed, lui lại. Vic, lên nhà trên canh chừng cửa trước.

    Khi Vic đi rồi, Harry cho súng vào bao, quay sang Jed:

    - Tôi có thể dàn xếp mọi việc ở đây tốt hơn nếu anh hợp tác với chúng tôi.

    Millie nhíu mày:

    - Anh ta muốn gì vậy, Jed?

    Jed liếm môi, nghĩ nhanh:

    - Họ đang tìm... một chiếc máy bay chở hàng sắp đến... Họ muốn anh báo cho họ biết.

    - Họ cướp máy bay à?

    - Ừ, cướp máy bay, mà sao em không coi tụi nhỏ đi, đi đi!

    Miễn cưỡng, Millie rời phòng. Harry nhìn Jed, hài lòng.

    - Hay lắm, Jed, cô ây không nên biết, cả tụi nhỏ cũng thế. Cứ cho họ nghĩ là cướp máy bay đi, anh phải tạo ra một sai lầm trong việc điều khiển máy bay hạ cánh. Phải làm như một tai nạn. Thật hợp lý. Khi mọi chuyện hoàn tất, anh và gia đình anh an toàn.

    Môt lần nữa, Jed nghiêm nghị nhìn Harry. Anh biết mình phải làm chuyện ghê gớm này để cứu lấy gia đình.


    ***


    Sau cùng thì các thám tử trong chiếc xe hơi kia cũng phát hiện ra chiếc xe tải đang bám theo mình. Người lái xe nói qua điện đàm:

    - Chúng tôi ra khỏi nhà tù được hai cây số rồi, hình như có một cái đuôi, một chiếc xe tải hiệu Dodge màu xanh lá, có thể nhìn thấy tài xế. Nếu đúng là nó bám đuôi, hãy thi hành kế hoạch.

    Chiếc xe FBI tiếp tục chạy trên đường cao tốc rồi quẹo vào một con đường có bảng lớn: FAIRFAX. Một cú phôn nữa từ chiếc xe tải báo cho Max và tên cận vệ này báo lại cho Sam Freelow:

    - Họ bỏ đường cao tốc rồi, quẹo vào phi trường Fairfax.

    Tay trùm găng-tơ mỉm cười:

    - Hay, phi trưởng cổ lỗ đó mà. Bảo xe tải theo sát, chúng ta phải biết chúng dùng máy bay gì, số máy bay, giờ cất cánh.

    Chiếc xe tải nhận lệnh và tiếp tục theo chiếc xe FBI. Xa phía sau, chiếc taxi vòng trở lại, đậu bên kia đường.

    Trong xe FBI, thám tử lái xe nói qua điện đàm:

    - Chiếc xe tải xanh đúng là một cái đuôi. Tôi thấy có người trong thùng chấn song phía sau. Hãy làm việc của các anh thật nhanh. Chúng tôi sẽ lái thẳng đến chỗ máy bay và lên khoang ngay.

    Chiếc xe FBI đi vào một cái cổng mở sẵn trên đường, tiến thẳng vào phi trường Fairfax, băng qua phi đạo, tiến về một chiếc phản lực Lear màu trắng đang chờ trên đường băng. Giây lát sau, chiếc xe tải lao qua cái cổng dó. Tên lái xe tải nói:

    - Chúng đang tiến về chiếc máy bay màu trắng, anh nhìn được số máy bay không?

    Tên đồng bọn phía sau đang cố nhìn bằng ống nhòm, đáp:

    - Chưa thấy, khó mà nhìn được nếu không dừng xe...

    Tên tài xế nhìn vào kính chiếu hậu, thấy hai cánh cổng lớn đang đóng lại sau chúng. Giọng hắn đanh lại:

    - Chúng ta bị vào bẫy rồi!

    Và hắn đã đúng khi bốn chiếc xe cảnh sát cơ động phóng ra từ trong dãy nhà đậu máy bay gần đó. Nhấn ga, hắn cho xe lao qua sân bay.

    Ở chỗ chiếc Lear, chiếc xe FBI dừng lại, các thám tử vây lấy Manny Fox, đẩy hắn lên máy bay.

    Bên kia đường băng, chiếc xe tải đang lao nhanh trong cuộc đào thoát vô vọng. Bốn chiếc xe cảnh sát theo sát hai bên. Chiếc xe tải chạy hình chữ chi, không cho xe cảnh sát vượt lên. Nhưng những xe cảnh sát tản ra, chạy vòng tròn để dồn nó vào đường cùng.

    Trong máy bay, một thám tử la lên với phi công:

    - Cất cánh ngay đi!

    Viên phi công ngỡ ngàng:

    - Ông bảo tôi cất cánh khi họ đang rượt nhau như vậy trên phi đạo à?

    Các thám tử trên máy bay căng thẳng quan sát từ ô cửa này qua ô cửa khác, nhìn những chiếc xe đang rượt nhau ngoài kia trong khi Fox được cho nằm xuống sàn.

    Trên đường băng, thấy không còn lối thoát, tên tài xế hét lên:

    - Bắn hai chiếc xe bên kia để dọn đường cho tôi tông vào cánh cổng!

    Tên đồng bọn mở một bao da, rút khẩu súng dài. Đá tung cửa sau thùng xe tải, hắn xả đạn vào chiếc xe cảnh sát gần nhất. Khi chiếc xe đó lảng ra thì ba chiếc kia cùng tiến lên từ phía sau và các thám tử xả súng vào hắn. Tên găng-tơ bị hất mạnh về phía trước, tung tấm vải bạt ngăn thùng xe với buồng lái, ngã ngang hai tay tên tài xế làm tên này lạc tay lái. Chiếc xe tải đột ngột leo lên đường băng, lao vào bên sườn chiếc Lear. Chiếc máy bay sụm nghiêng qua bên như một con chim bị thương.

    Bên ngoài phi trường, tên tài xế taxi đang quan sát diễn biến sự việc qua hàng rào. Ngay khi hắn thấy các thám tử FBI lôi hai người ra từ trong chiếc xe tải, một tên có lẽ đã chết, thì hắn vào xe phôn cho Max.

    Tại nhà, Jed và Ron chuẩn bị ra khỏi nhà. Harry theo họ đến cửa, nói nhỏ nhẹ:

    - Nhớ, mọi việc nằm trong tay cha con anh đấy, hãy khôn ngoan lên, đừng dại dột, chớ có qua mặt tôi, nếu phản tôi thì ông sẽ ân hận suốt đời.

    Hắn nói riêng với Jed:

    - Liệu mà khuyên bảo nó trên đường đưa nó đến trường. Nói rõ cho nó biết tình hình.

    Sau khi hai người kia đi rồi, Harry vào chỗ Millie và Liza. Hai mẹ con ôm nhau trên ghế bành. Vic canh chừng họ. Ngay lúc đó Helen đến với một cuốn sách vẽ và một bút màu. Cô ngồi cạnh Liza:

    - Nào, chúng ta cùng tô nhé?

    Vic châm chọc:

    - Cô từng làm bảo mẫu hả?

    Nét mặt Harry sầm lại và hắn bước đến trước mặt Vic, hất hàm về cửa ra vào:

    - Đi canh chừng cửa sổ, nhìn xuống đường.

    Vic hầm hầm vì bị ra lệnh một cách trịch thượng, nhưng hắn phải tuân lời. Harry đến bên một ghế dựa, ngồi xuống, cảm thấy mệt mỏi. Uể oải, hắn lật xem một tờ tạp chí. Millie nhìn hắn đăm đăm. Helen để ý thấy, cô hơi nghiêng người, thì thầm vào tai Millie:

    - Đừng, anh ta ghét bị nhìn như thế lắm.

    Millie thì thầm lại:

    - Xin lỗi, tôi thấy anh ta không giống hai tên kia.

    - Đúng, hai tên kia thuộc băng cướp, còn Harry thì hoạt động đơn lẻ, thích làm theo ý mình. Anh ấy cũng không thích bọn kia.

    Vẫn thì thầm, Millie hỏi:

    - Anh ta đang làm gì với chúng vậy?

    - Chuyện như vầy, tôi và Harry đang trên đường đào thoát. Anh ấy vượt ngục vì bị kết án bốn mươi năm tù cho tội cướp có vũ khí. Chúng tôi định đi nước ngoài nhưng chưa được. Harry quen cháu của một tay trùm nên anh ấy liên lạc với nó xem có thể nhờ chú nó lo dùm hộ chiếu hay không. Đúng lúc tay trùm đang cần một người lo một việc khá gay, thế là thằng nhóc giới thiệu Harry với chú nó. Harry đồng ý làm việc này cho ông ta và ông ta sẽ lo cho chúng tôi ra nước ngoài.

    Tiếng Harry vang lên:

    - Các người xì xào gì đó?

    Helen đáp:

    - Không có gì, chuyện đàn bà thôi mà.

    - Rót thêm cà phê cho anh được không?

    - Vâng, có ngay.

    Helen vội vã vào bếp. Millie không kịp cản Liza khi con bé chạy đến Harry:

    - Đây là ghế của bố cháu mà!

    Giọng con bé như kết tội. Harry nhìn đăm đăm con bé. Họ nhìn nhau hồi lâu rồi Harry đứng dậy, ngồi xuống một cái ghế khác.



    ***


    Jed lái xe đưa Ron đến trường mà đầu óc căng thẳng. Ron biết. Nó hỏi:

    - Bố sợ không?

    - Sợ chứ.

    - Mẹ và em không sao chứ bố?

    Jed nạt:

    - Chứ còn gì nữa! Bộ con tưởng bố bỏ mặc mẹ với em ở đó cho chúng hại sao!

    Ron quay mặt đi, hờn dỗi vì bị mắng vô cớ. Jed trấn tĩnh và vỗ đùi nó:

    - Xin lỗi con, tại bố nóng ruột quá. Mẹ và em không sao đâu. Bọn họ phải uy hiếp chúng ta để ép bố làm việc cho họ.

    - Bố phải báo cho họ biết về chiếc máy bay chở hàng để họ cướp phải không? Mẹ cho con biết.

    - Ừ, bố chỉ phải báo cho họ biết chiếc máy bay đó ở đâu.

    Tới trường, Jed nói nhỏ nhẹ:

    - Nghe đây, con trai, vận mệnh gia đình mình tùy thuộc vào chúng ta. Một trong hai ta mà để lộ chuyện thì sẽ là tai họa cho cả nhà. Vì thế bố con mình phải hết sức cẩn thận, nhé?

    Ron bắt chặt tay bố nó:

    - Vâng, con hứa.

    Ron xuống xe. Jed nhìn nó vào trường rồi rướn người về trước, thở dài nặng nề.



    ***


    Trong văn phòng điều hành nhỏ của phi trường Fairfax, Manny Fox cực kỳ căng thẳng, đang ngồi trong một góc xa các cửa sổ. Các thám tử xung quanh đều im lặng: người gác cửa ra vào, người gác cửa sổ, lo âu liếc nhìn điện thoại. Tất cả nhân viên của phi trường đều được đưa về một góc phòng. Căng thẳng bao trùm.

    Cuối cùng, như một quả bom nổ, một hồi chuông điện thoại phá tan sự im lặng. Một thám tử lớn tuổi nhất vồ lấy ống nghe. Cuộc điện đàm ngắn gọn:

    - Vâng, thưa ông... vâng, thưa ông...tôi rõ..!

    Vừa nghe, ông ta vừa ghi chép vào sổ tay. Gác máy, ông ta gọi các thám tử lại:

    - Văn phòng chưởng lý không cho dùng máy bay tư nhân nữa, họ nói sẽ rất liều lĩnh một khi bọn chúng đã biết kế hoạch của chúng ta. Họ bảo chúng ta đưa Fox đến L.A. bằng máy bay dân sự.

    Một trong những thám tử trợn mắt:

    - Máy bay hành khách?

    - Đúng, máy bay của hãng hàng không Trans America, số máy bay là 228. Một tiếng rưỡi nữa cất cánh. Chúng ta được quyền chiếm hết chỗ của hành khách khoang hạng nhất, chỉ có chúng ta trong đó thôi.

    Manny Fox đang đứng giữa các thám tử, nói:

    - Khoan đã, tôi cho là dùng máy bay tư nhân vẫn là cách hay nhất, chứ máy bay hành khách thì mạo hiểm quá!

    - Washington suy luận rằng Freelow khó mà ngờ nổi chúng ta dám dùng máy bay hành khách.

    Fox khăng khăng:

    - Freelow sẽ biết trước khi chúng ta lên được máy bay.

    - Có thể, nhưng khi mà hắn vạch được kế hoạch tiếp theo thì chúng ta đã trên cao rồi.

    Dứt lời,ông ra hiệu cho các thám tử:

    - Chúng ta đi!



    ***


    Jed đậu xe trong bãi của câu lạc bộ bowling rồi xuống xe, xách theo túi đựng banh và giày. Anh kiểm tra tại một bảng ở quầy xem mình chơi ở lằn nào. Một hội viên đã đến trước anh.

    - Chào Jack.

    - Chào Jed, mọi việc thế nào?

    - Tốt, còn anh?

    - Cũng tốt thôi.

    Jack đang thay áo, đặt túi xách đựng banh xuống, gấp cái áo sơ-mi vừa thay ra rồi nhét nó vào một cái túi có dây kéo. Anh ta xếp cái áo rất cẩn thận, một bảng đồng tên anh ta đính trên ngực áo.

    Jack là cảnh sát Los Angeles.


    ***


    Ở trường, Ron đang trên sàn tập thể dục thẩm mỹ với một người bạn. Cả hai vừa xong một bài tập, bước ra ngoài sàn, đến chỗ họ để khăn và nước giải khát. Ron nói:

    - Ê, Wally, bồ vẫn còn khẩu súng lục của Trung quốc mà chú bồ cho bồ làm kỷ niệm sau chiến tranh ở Việt Nam phải không?

    - Còn chứ, sao?

    - Có thể cho tớ mượn được không? Chỉ một buổi chiều nay thôi. Tớ sẽ mang trả bồ sáng mai.

    - Để làm gì?

    - Tớ muốn cho một cô bạn gái xem, chỉ để gây ấn tượng ấy mà.

    - Cô nào?

    - Bồ không biết đâu. Một cô bé thường đến chơi nhà bên cạnh nhà tớ.

    - Chắc không được đâu. Mình đã hứa với bố mẹ là không bao giờ mang khẩu súng đó ra khỏi nhà rồi.

    - Coi nào, Wally, bạn bè mà vậy sao, này, tớ nghĩ mình sẽ làm quen được cô bé này nếu gây được ấn tượng với cô ta, hiểu ý tớ không?

    Ron liếc nhìn sàn tập, hạ giọng:

    - Wally này, cho tớ mượn khấu súng đi, tớ có cách cho bồ chạy đua với trường Ignatius trong cuộc đua tiếp sức thứ bảy tới. Tớ sẽ nói với huấn luyện viên là tớ bị trật mắt cá chân và thầy ấy sẽ xếp bồ thay tớ.

    Wally vốn là vận động viên dự bị trong đội chạy tiếp sức của trường. Mặt mày rạng rỡ với viễn cảnh được chạy chính thức, Wally ngẫm nghĩ một chút rồi gật đầu.

    - Được rồi, đến giờ ăn trưa cậu cùng về nhà với mình.



    ***


    Ở thành phố Kansas, một đoàn xe FBI đang lăn bánh trên đường cao tốc, hướng về phi trường quốc tế. Theo sau họ một khoảng cách đủ kín đáo là chiếc xe taxi.

    Khi chiếc xe FBI dẫn đầu rời đường cao tốc, rẽ vào phi trường dân sự khổng lồ thì chiếc taxi cũng rẽ vào bãi đậu dành riêng cho taxi. Tên tài xế xuống xe, thản nhiên đi bộ lại một máy bán báo tự động trước cổng vào phi trường, nơi chiếc xe FBI dẫn đầu đang đậu.

    Khi viên thám tử lái xe cho còi hụ ra hiệu thì một nhân viên cảnh vệ của phi trường vội chạy ra gặp ông ta:

    - Các ông hãy đi vào cổng 34, họ đang chờ các ông.

    Các thám tư vội đưa Fox xuống xe, dẫn hắn qua cổng đó.

    Ở chỗ máy bán bao, sau khi nghe lỏm đươc những lời trao đổi trên, tên tài xế taxi đi bộ đến màn ảnh thông báo lịch bay, xem kỹ các chuyến bay sắp tới rồi trở lại chỗ đậu xe, gọi cho Max.



    ***



    Trong văn phòng của Max, Sam Freelow châm thuốc lá, rít một hơi dài. Lão tin tưởng nói:

    - Chúng ta sẽ thành công.

    Max vẫn còn cầm ống nghe sau khi nhận được báo cáo từ tên tài xế, lưỡng lự nhìn Freelow:

    - Ông cho rằng gã Jed Stattord vẫn bằng lòng thực hiện việc này à? Một chiếc máy bay đầy hành khách thay vì một chiếc máy bay tư nhân nhỏ xíu?

    - Nếu hắn chấp nhận phá một chiêc máy bay nhỏ để cứu lấy gia đình hắn thì hắn cũng chấp nhận phá một chiếc lớn.

    - Ông muốn tôi báo cho Harry biết không?

    Freelow nhìn đồng hồ:

    - Giờ này thì chưa, chúng ta sẽ cho hắn biết tin trước khi Jed đến chỗ làm. Như thế cả hắn lẫn Jed không có thì giờ suy tính gì nữa. Cái thằng Harry này không phải người của chúng ta thì anh cũng dư biết rồi, Max, hắn là tay chuyên nghiệp, một nghệ sĩ cướp nhà băng, do đó chúng ta không thể đặt hết tin tưởng vào hắn như chúng ta tin vào Vic và Eddie.

    - Thế thì tại sao chúng ta lại dùng hắn vào việc lớn như vậy?

    - Vì tôi phải dùng hắn cho phần sau, đó là lý do tôi cử Vic và Eddie theo hắn. Phải có một con tốt thí ở lại để hy sinh cho tướng lĩnh chứ.

    Max mỉm cười gật đầu.



    ***


    Tại phi trường quốc tế của thành phố Kansas, bốn thám tử FBI và nhân chứng của họ lên máy bay bình yên. Chuyến bay TAA 228. Họ chiếm độc quyền khoang hạng nhất, cả năm người thở dài nhẹ nhõm khi chiếc phi cơ rời đường băng, nhẹ nhàng cất cánh. Chuyến bay đi thẳng đến L.A. mà không dừng ở đâu cả.

    Nhưng Manny Fox vẫn cảm thấy bồn chồn.


    ***

    Trong phòng ngủ của thằng bạn, Ron nhì n Wally mở nẳp hộp kí nh lấy ra khẩu súng lục hơi giống loại Luger của Đức. Wally đưa cho nó. Nó cầm lấy ngay, nhét vào lưng quần.

    Hai đứa trẻ rời nhà. Wally dừng lại khi thấy Ron không cùng mình trở lại trường mà rẽ sang đường khác. Nó hỏi Ron:

    - Cậu đi đâu vậy?

    - Về nhà, bố mẹ tớ đi rồi và cô bé đó sắp đến chơi.

    Wally cười toét:

    - Hy vọng là khẩu súng đó sẽ giúp cậu thành công.

    - Chắc chắn.

    Khi quay đi, mặt Ron bỗng đanh lại.


    ***


    Trên sàn bowling, Jed bước tới, ném quả banh. Anh ném hỏng một thế rất dễ. Trở lại chỗ ngồi, Jack nhìn anh, lắc đầu khó hiểu:

    - Sao vậy, bồ thua tôi rồi.

    Jed lập lờ:

    - Cho tôi biết tại sao đi.

    Jack nhìn Jed dò xét. Anh hỏi nghiêm túc:

    - Có chuyện gì vậy Jed?

    Cố gượng cười, Jed đáp:

    - Cũng có ngày chơi tệ chứ!

    - Ai cũng có lúc thiếu hứng thú, nhưng rõ ràng là anh đang có điều gì lo lắng. Tôi giúp được gì không?

    Jed nhìn xuống cái túi đựng áo của Jack. Anh nhìn đăm đăm cái biển đồng tên Jack đính ở đó. Sẽ nhẹ người lắm nếu thổ lộ được chuyện này với Jack. Nhưng, anh biết chuyện đó không thể. Đây là việc của riêng anh và chỉ có anh mới giải quyết được.


    ***


    Tại nhà Jed, Millie đang trong bếp chuẩn bị bữa tối. Harry ngồi ở bàn ăn, uống cà phê. Ngay lúc đó Helen bước vào.

    - Liza ngủ rồi, tôi đọc truyện cho nó nghe và con bé ngủ thật dễ.

    Cô thấy Millie đang gọt cà-rốt.

    - Để tôi phụ chị một tay, chồng chị đi làm cả ngày còn chị ở nhà vất vả việc bếp núc lắm phải không?

    Millie rơi vào cuộc trò chuyện ngay:

    - Cũng không có gì nặng nhọc lắm. Jed thường ăn sáng với tụi nhỏ, một bữa trưa nhẹ trước khi đi làm. Tôi và tụi nhỏ ăn tối lúc sáu rưỡi rồi tôi và Jed lại ăn thêm một bữa nhẹ nữa lúc nửa đêm khi anh ấy đi làm về. Dĩ nhiên là chúng tôi quây quần ăn uống với nhau vào ngày nghỉ.

    Helen ngây người:

    - Chị ăn tôi với tụi nhỏ rồi lại ăn một bữa nữa với chồng chị lúc nửa đêm? Trời đất, nếu tội mà ăn như thế thì tôi sẽ nặng một tấn!

    - Ồ, tụi tôi có tập mà, đâu để tăng cân.

    Harry nghe hai người phụ nữ trò chuyên, ngán ngẩm, đứng dậy nói với Helen:

    - Anh qua phòng bên, em trông chừng cửa sau nhé.

    - Vâng, anh yêu!

    Khi chỉ còn hai người, Millie nói:

    - Anh ta có vẻ tin cô lắm.

    Helen tỏ vẻ mãn nguyện:

    - Anh ấy không tin ai ngoài tôi. Chúng tôi ở với nhau lâu rồi.

    - Cô nói cô có một đứa con phải không?

    Helen thở dài khát khao:

    - Lâu rồi. Tôi lấy một người bạn của Harry. Lúc đó tôi chỉ là môt đứa con nít, mới qua tuổi mười bảy. Tôi có con ngay năm đó. Chúng tôi phải thay đổi chổ ở luôn, phải trốn tránh luôn nên không chích ngừa cho con gái tôi đầy đủ. Nó mắc bệnh đậu mùa, chết năm hai tuổi. Sau đó chồng tôi bị bắn chết trong một lần đánh cướp nhà băng ở Memphis. Sau đó... tôi và Harry cùng trôi dạt tứ xứ.

    Millie nhẹ nắm tay Helen:

    - Tội nghiệp cho con gái cô, Helen.

    Helen gật đầu, cố nuốt nước mắt.


    ***


    Bên ngoài, Ron tiến về căn nhà bằng cửa sau, băng qua sân cỏ. Helen lãnh nhiệm vụ canh cửa sau nhưng không làm tròn nhiệm vụ. Cô ta không biết Ron tiến về căn nhà cho đến khi nó bước vào nhà. Millie ngạc nhiên:

    - Ron, sao con về sớm vậy?

    Sự nghi ngờ của Helen dấy lên ngay và cô chạy lại cửa gọi Harry. Cô nói nhỏ khi Harryđến:

    - Thằng nhỏ về sớm.

    - Tại sao em không gọi anh trước khi nó vào nhà? Anh đã bảo em canh chừng cửa đó mà!

    Giọng Harry đầy trách móc. Hắn quay sang Ron:

    - Sao về sớm vậy cháu?

    - Vì cái này!

    Ron rút phắt khẩu súng, chĩa vào Harry.

    Mọi người ngẩn ngơ. Căng thăng bao trùm căn phòng. Ron lên tiếng:

    - Không được cử động.

    Harry giơ hai tay lên, trấn an Ron:

    - Chú không làm gì đâu.

    Ron lộ vẻ căng thẳng, nhưng không nao núng. Nó nói:

    - Gọi... gọi mấy người kia ra đây...

    - Được, bất cứ điều gì cháu muốn.

    Harry quay đầu về phía cửa nhà trên:

    - Vic ! Eddie! Xuống đây!

    Hai tên vô lại kia vào nhà bếp mà không biết chuyện gì và Ron nói ngay:

    - Không... không được cử động.

    - Họ không làm gì đâu.

    Harry nói, câu đó cũng có nghĩa là một mệnh lệnh cho hai tên kia. Hắn trầm tĩnh lạ thường vì cả cuộc đời hắn đã từng đối diện với họng súng. Hắn nói nhỏ nhẹ:

    - Bây giờ cháu là sếp ở đây, cháu muốn gì?

    - Mẹ, Liza đâu?

    - Trong phòng ngủ, nó đang ngủ.

    - Lên bế nó xuống và ra bằng cửa trước, mau lên.

    - Ron, mẹ không đi đâu hết nếu con ở lại đây với...

    - Mẹ, làm theo con...

    Giọng Ron gấp rút. Tay nó run rẩy. Vic và Eddie lo lắng thấy rõ vì họng súng lao chao trước bọn chúng. Harry nói:

    - Này, cháu sai lầm rồi, tại sao không bàn với cha cháu?

    - Bố tôi không có đây.

    - Có chứ, ông ấy đang về kìa, đang vào bằng cửa sau kìa.

    - Ông cho tôi là thằng ngu vậy sao? Không đời nào tôi lại rơi vào cái bẫy vớ vẩn như...

    Ngay lúc đó, Jed mở cửa sau, bước vào, tay xách túi đựng banh. Ron giật mình, quay nhìn. Harry bước tới giật lấy khẩu súng. Eddie phóng tới, rút cây dùi cui ra:

    - Thằng chết tiệt, mày sẽ...

    Jed buông cái túi, đứng chắn bảo vệ cho con trai, nhưng Harry đã đứng chen vào rồi. Hắn xô Eddie lui lại. Eddie tức giận lồng lên lần nữa, nhằm phóng vào Ron. Lần này thì Harry đấm thẳng vào miệng hắn. Eddie bật về sau, choáng người. Harry lạnh lùng chĩa khẩu súng vừa tước được của Ron vào hắn:

    - Muốn lãnh một viên không?

    Eddie tái mặt vì tức giận, chùi máu nơi miệng, nhưng không dám làm gì nữa. Harry quay nhìn Jed:

    - Tôi cho là anh phải dạy thằng nhỏ này!

    Hắn giận dữ chìa khẩu súng cho Jed:

    - Nó chĩa cái này vào chúng tôi đấy!

    Jed hồ nghi nhìn Ron. Thằng bé run rẩy.

    - Con... con mượn của Wally... bố... con chỉ muốn đuổi họ đi khỏi đây...

    Nó khóc. Jed ôm lấy nó:

    - Không sao, không sao đâu, con trai.

    Harry nạt:

    - Sao lại không! Chỉ cần một phát súng tầm bậy của nó là xảy ra thảm cảnh ở đây rồi!

    Ron nói:

    - Không... nó không có đạn.

    - Cái gì?

    Harry nhíu mày. Hắn kiểm lại khẩu súng. Buồng đạn trống rỗng. Hắn nhìn Ron đăm đăm, mãi mới thốt lên được:

    - Mày gan góc lắm đó, nhóc!

    Hắn quay sang Jed:

    - Anh đưa nó vào một góc trong phòng khách. Vic, canh chừng cả hai cha con, chờ tôi.

    Hắn hất hàm về phía Eddie, tên này vẫn nhợt nhạt:

    - Canh cửa trước, tránh xa mọi người ra, hiểu không?

    Vic và Eddie theo Jed và Ron rời nhà bếp. Eddie vẫn ôm miệng. Hắn thì thào với Vic:

    - Lẽ ra hắn không nên đánh tao như vậy.

    Vic thì thào lại:

    - Đừng lo, hắn sẽ lãnh đủ mà, trước khi trời tối.

    - Là sao?

    - Tao nhận đuợc chỉ thị đặc biệt của ông trùm về việc chăm lo cho hắn rồi. Mày chỉ việc làm theo tao thôi, hiểu chứ?

    - Hay lắm.

    Hắn ném một cái nhìn thù hận về nhà bếp.

    Trong một góc nhà bếp, Harry trách móc Helen:

    - Anh tin là em trông chừng cẩn thận cửa sau, lẽ ra em phải báo cho anh biết trước khi thằng bé vào nhà chứ!

    Helen bồn chồn:

    - Em xin lỗi...

    - Em thừa biết đây là cơ hội cuối cùng của chúng ta. Nếu chúng ta đế vuột mất thì không bao giờ chúng ta ra khỏi đất nước này được. Chúng ta lại phải trốn chui nhủi và anh sẽ bị bẵt, sẽ lãnh án tử hình. Em muốn như vậy không?

    Helen bật khóc:

    - Ôi, Harry, em đâu muốn vậy! Đừng nói thế.

    Không muốn cho Millie thấy họ như vậy, Harry ôm lấy Helen dỗ dành. Hắn dịu dàng:

    - Rồi, không khóc nữa, chúng ta sẽ thành công, sẽ sống bên nhau.

    Hắn đưa cho nàng khẩu súng Trung quốc.

    - Bỏ vào xắc của em đi.

    Ngay lúc đó chuông điện thoại reo.

    Harry nhìn trừng trừng. Sau ba hồi chuông, hắn bảo Millie trả lời, lạnh lùng cảnh cáo:

    - Cẩn thận đấy.

    Millie nhấc máy, lắng nghe rồi quay sang Harry:

    - Họ tìm một ông Johnson nào đó...

    Harry chụp lấy ống nghe:

    - Ai đó?

    Người bên kia bắt đầu cuộc trò chuyện. Harry nghe chăm chú. Trong khi nghe, mặt hắn đanh lại, mỗi lúc lộ vẻ căng thẳng hơn. Mắt hắn mở to kinh ngạc, mở miệng định nói nhưng lại thôi.

    Helen và Millie cùng quan sát hắn. Rõ ràng là lời lẽ của người kia tác động mạnh đến hắn. Hai người đàn bà nhìn nhau cảm thông. Harry không muốn cho họ thấy thêm vẻ xao xuyến của hắn nên quay đi. Hắn nói, giọng hơi lạc đi:

    - Vâng, tôi hiểu, rồi, rồi...

    Hắn cúp máy, thừ người. Helen bước vòng qua nhìn mặt hắn, lo lắng hỏi:

    - Chuyện gì vậy anh?

    Harry lẳc đầu:

    - Không có gì, kế hoạch thay đổi một chút, nhưng không có gì hại đến chúng ta. Mọi việc vẫn như cũ. Canh chừng cửa sau nhé; lần này cẩn thận nhé.

    Hắn lên nhà trên, vào phòng khách, hắn gọi Jed:

    - Tôi muốn nói chuyện với anh.

    Jed hoang mang, theo Harry lên lầu.



    ***


    Trên không trung, chiếc máy bay TAA228 tiếp tục cuộc hành trình. Fox ngồi bên cửa kính, đang ăn. Một thám tử cũng đang ăn. Hai thám tử khác đang đọc báo, người thứ tư ngồi trầm ngâm ngay cửa vào khoang này. Anh ta không cho ai vào đây, trừ các tiếp viên và người của phi hành đoàn. Các thám tử không còn lo lắng nữa, nhưng họ vẫn cảnh giác.

    Lát sau, trưởng đoàn mở cửa vào nói với viên thám tử cầm đầu:

    - Chúng ta bay được nửa đường rồi. Có một cơn gió mạnh làm chúng ta chậm một chút.

    Fox lắng nghe. Hắn ngưng ăn, bồn chồn nhìn taythám tử gác ở cửa buồng. Hắn liếm môi căng thẳng.

    Bây giờ hắn đã là một tên chỉ điểm, Sam Freelow sẽ săn hắn bằng mọi giá.


    ***


    Trong phòng ngủ, Jed nhìn trừng trừng Harry, hỏi nhỏ:

    - Anh nói sao?

    - Tôi nói người của chúng ta đến đây bằng một chuyến bay hành khách chứ không bằng máy bay tư nhân. Hắn đang trên chuyến bay TAA 228. Đó là chuyến bay anh phải làm.

    Mặt Jed đỏ lên:

    - Anh muốn tôi gây tai nạn cho chuyến bay đó? Một chiếc TAA? Một chiếc máy bay dân sự đầy hành khách?

    Harry nhún vai:

    - Đúng, Jed, tôi cũng không ngờ đi đến tình huống này, nhưng mọi việc biến chuyển như thế, biết làm sao hơn. Chúng ta không thể làm gì khác...

    - Tôi không làm gì hết! Anh làm được thì làm đi!

    - Chẳng khôn ngoan chút nào, nhất là khi còn có một gia đình êm ấm.

    Tên găng-tơ bỗng tức giận:

    - Bộ anh tưởng tôi thích chuyện này lắm sao! Nếu tôi mà biết trước chuyện diễn ra như vậy thì tôi và Helen chẳng đời nào nhúng tay vào. Nhưng tôi đã nhận lời rồi và phóng lao thì phải theo lao thôi. Tôi đã lên lưng cọp rồi, anh biết đấy. Đấy là cơ hội cuối cùng cho tôi và Helen. Anh đâu phải là người duy nhất cần có một tương lai, Jed.

    Hắn quay đi, thoáng bối rối vì lời lẽ của chính mình. Jed kêu nài:

    - Trời ơi, hãy bình tâm lại, ông bạn. Chúng tôi đã tuân theo anh rồi, tôi đã chấp thuận đề nghị ban đầu của anh rồi. Mới đầu anh nói là một chuyến bay tư nhân, một nhân chứng, vài cảnh sát FBI, thế mà giờ đây lại là một tai nạn lớn, một chuyến bay với mấy trăm mạng người, anh không thể chấp thuận một kế hoạch như vậy với họ.

    - Tôi phải làm! Đó là lối thoát!

    Jed lắc đầu thông cảm:

    - Thế thì anh hãy nghĩ đến một cách khác hay hơn vì kế hoạch của các anh không thành đâu. Anh hãy bắn tôi đi, tôi nhất định không làm việc này.

    - Tôi không bắn anh đâu, điều tồi tệ nhất là để cho anh sống, cho anh thấy cái giá mà gia đình anh phải trả vì sai lầm của anh.

    Jed nhìn Harry:

    - Tôi không tin anh, tôi không tin anh làm được chuyện đó, tôi không tin anh đang tâm giết một người đàn bà và hai đứa con nít.

    - Không phải tôi, nhớ là không chỉ mình tôi, còn hai tên kia. Vic và Eddie.

    Jed nhìn cửa phòng ngủ của tụi nhỏ, lưỡng lự:

    - Anh... anh không để họ...

    Harry nhăn nhó:

    - Có thể tôi không cản được chúng. Tất cả tôi có thể làm là giữ trật tự cho đến giờ phút này. Bọn chúng chẳng ưa gì tôi đâu, chúng làm theo lệnh của chủ chúng.

    Jed lộ vẻ tuyệt vọng. Anh ngồi xuống giường, thất thần, nói như mê sảng:

    - Nhưng... hàng trăm người... có thế hơn...

    - Chỉ là những người không quen biết, chẳng liên quan gì đến anh. Không hề biết mặt, không hề biết tiếng nói. Chỉ là những cái tên trên mặt báo ngày hôm sau!

    Jed nhìn Harry, sự phản kháng trở lại trong anh:

    - Tôi lầm về anh, Harry. Anh chẳng khác Vic và Eddie bao nhiêu.

    - Có lẽ anh cũng thế, Jed. Anh chẳng dám hy sinh vợ con anh để đổi lấy một chuyến bay đầy hành khách đâu. Suy cho cùng thì anh cũng chẳng hơn gì chúng tôi.

    Hai người đàn ông nhìn nhau, mỗi người cố tìm bộ mặt thật của nhau.


    ***


    Trên chuyến bay TAA 228, phi công trưởng vào khoang lần nữa, nói với các thám tử:

    - Có tin từ phòng cảnh vệ sân bay. Người của các ông từ L.A. sẽ có mặt tại phi trường để đón các ông. Chúng tôi sẽ chỉ cho các ông xuống bằng cửa buồng lái. Họ sẽ đưa xe đến sát máy bay.

    - Tốt. Chính xác là mấy giờ chúng ta đến nơi?

    - Bốn giờ bốn mươi lăm.


    ***


    Ba giờ mười lăm, Jed chuẩn bị đi làm. Mọi người đang trong phòng khách. Millie va hai đứa trẻ lại tỏ vẻ lo lắng khi Jed sắp rời nhà. Anh trấn an vợ con:

    - Mọi chuyện sẽ qua, hãy bình tĩnh và đừng làm điều gì dại dột. Ngay khi anh làm xong việc này, họ sẽ ra đi và anh sẽ về ngay.

    Vẫn bồn chồn, họ nhìn anh đi cùng Harry ra khỏi phòng. Khi Jed mở cửa trước, Harry nói nhỏ, gần như không nghe được:

    - Nhớ, Jed, đừng làm hỏng việc.

    Ánh mắt Jed lạnh lùng, ghê tởm:

    - Chẳng còn gì để nói nữa, tôi tin anh sẽ bị săn đuổi đến hết đời.

    - Chẳng sao, tôi chỉ muốn vụ này kết thúc tốt đẹp và ngay khi tôi nghe tin trên TV về vụ tai nạn này, tôi sẽ rời khỏi nhà anh ngay và vợ con anh sẽ...

    Harry im bặt khi thấy một chiếc xe cảnh sát thắng lại trước nhà. Mặt hắn đanh lại, nhìn Jed đầy vẻ trách móc. Rút khẩu súng trong bao da bên sườn, hắn lên cò.

    - Vic, ra đây với tôi! Eddie, giữ mọi người trong đó! Helen, coi chừng cửa sau!

    Jed thấy người cảnh sát vừa xuống xe là người cùng chơi bowling với anh lúc nãy, Jack. Anh vội nói:

    - Khoan đã, Harry! Đó là người bạn ở câu lạc bộ bowling. Không có chuyện gì đâu, cứ để tôi.

    Vic đã di chuyển ra cửa trước, súng trong tay. Trong phòng khách, Eddie căng thẳng chĩa súng vào vợ con Jed. Helen trở lại từ nhà bếp:

    - Không có gì đằng sau cả, Harry.

    Harry nhìn Jed trừng trừng. Jed như kêu nài:

    - Chắc anh ta vô tình đi qua đây thôi, cứ để tôi... anh không muốn hỏng mọi chuyện chứ?

    Harry và Vic trao đổi bằng mắt rồi Harry nói:

    - Được rồi, giải quyết cho tốt nếu không thì tôi sẽ giải quyết đấy!

    Jed đóng cửa, đi bộ ra. Anh gặp Jack giữa sân. Jack giấu hai tay sau lưng, hỏi Jed:

    - Anh có mất cái gì không?

    - Chuyện gì vậy?

    Jack đưa tay ra. Một chiếc giày trái. Giày của Jed mang khi chơi bowling.



    ***


    Trong nhà, Harry và Vic canh chừng một cách ngờ vực. Không lâu sau, họ nghe tiếng cười của Jed và người cảnh sát. Hai người đàn ông trao đổi vài câu gì đó và Jed nhìn đồng hồ, đi về xe hơi, cầm theo chiếc giày. Jack trở lại xe tuần tiễu và lái đi ngay. Lúc đó Jed mới lui xe, lái đi hướng khác.

    Thở dài, Harry tra súng vào bao. Cùng lúc đó, hắn véo mũi mình để cho đỡ cơn nhức đầu đến với hắn từ khi nghe cú phôn của Sam Freelow. Trời ơi, hắn nghĩ, một chuyến bay đầy những thường dân. Nhìn lên, hắn thấy Vic đang nhìn hắn. Hắn cáu kỉnh nói:

    - Trở vào phòng khách, bảo Eddie ra trông cửa sau.

    Nét mặt Vic vừa mới giãn ra sau khi người cảnh sát kia đi khỏi, giờ lại căng thẳng vì bị ra lệnh như vậy. Hắn cố gượng cười, nói giễu:

    - Vâng, thưa ngài Harry!

    Quay đi, mặt hắn lộ vẻ căm thù như Eddie lúc nãy.



    ***


    Jedđến phi trường, đậu xe vào bãi của nhân viên tháp không lưu. Đi bộ qua cổng tháp, anh thấy một nhóm người mặc thường phục đang đứng cùng nhóm cảnh vệ sân bay quanh ba chiếc xe hơi thường đang đậu ngay đó. Anh dừng lại ở cổng, tra thẻ nhân viên vào cột kiểm soát, hỏi:

    - Chuyện gì vậy, Peter?

    - FBI.

    Người cảnh vệ ngồi bên cột kiểm soát đáp khi trao lại thẻ cho Jed, tiếp:

    - Họ áp giải một nhân vật quan trọng đến trên chuyến bay TAA từ Kansas. Hai người của FBI đang chờ anh trên tháp đấy, có cả giám đốc sân bay nữa.

    Jed nhướn mày:

    - Vậy à?


    ***


    Ở nhà, Millie và bọn trẻ trong phòng khách. Millie đang kết lại một cái khuy áo nhưng đầu óc cô rối bời, cứ đâm kim vào tay. Ron ngồi thu lu trên ghế bành, mặt sưng sỉa. Liza ngồi trên sàn chơi với mấy con búp bê Barbie. Ở cửa kính trượt, Helen đang nhìn ra ngoài, hút thuốc liên tục. Vic ngồi ở ghế đẩu, ngoạm một trái táo. Harry vào phòng đúng lúc Helen châm một điếu thuốc mới. Hắn nói:

    - Em hút thuốc nhiều quá đấy.

    - Em căng thẳng quá, có sao không, Harry?

    Giọng cô gay gắt. Mọi người chưng hửng. Đây là lần đầu mọi người nghe cô nói giọng cục cằn như thế với Harry. Nhưng Harry chẳng lộ vẻ phật ý. Hắn liếc nhìn đồng hồ trên lò sưởi. Bốn giờ năm phút. Hắn xoa vai Helen, nói nhỏ nhẹ:

    - Thư giãn đi, mọi chuyện sẽ chóng qua thôi.



    ***



    Khi Jed đến bàn điều khiển chính của anh trong tháp thì giám đốc sân bay giới thiệu hai thám tử FBI với anh. Một trong hai người đó nói:

    - Ông Jed, khi chiếc phi cơ TAA 228 đến, chúng tôi muốn ông lệnh cho họ đậu ngoài vành đai phi đạo xa nhất của khu vực dành cho loại máy bay TAA và ở đó một lúc cho năm người trên đó xuống bằng cửa buồng lái.

    Jed nhìn ông giám đốc sân bay, dò hỏi. Ông này gật đầu:

    - Đó là chuyện khẩn cấp, Jed.

    - Vâng, tôi sẽ cho nó đậu ở bãi chất hàng cổng 64.

    - Chúng tôi sẽ có xe đợi ở đó. Ngay khi họ xuống máy bay, viên phi công sẽ báo cho ông biết.

    - Tôi không đồng ý chuyện có xe cộ trên bãi đậu đó.

    Giám đốc sân bay nói:

    - Tôi cũng không đồng ý, Jed, nhưng việc này đã được lo liệu rồi.

    Một trong những thám tử nói:

    - Đừng lo, ông Jed, chúng tôi rất cẩn thận, không có tai nạn đâu.



    ***


    Ở nhà, Harry ra khỏi phòng khách lần nữa. Hắn đi quanh nhà như một con thú bực bội trong chuồng. Helen vẫn hút thuốc liên tục ở cửa mái hiên lộ thiên trong bếp. Việc hút thuốc liên tục, ngưng gợi chuyện và thái độ căng thẳng của cô làm Millie thấy có điều bất thường. Sau cùng, Millie bỏ dở việc khâu vá.

    - Chồng tôi sẽ báo cho các người biết chuyến bay các người định cướp bằng cách nào?

    Vừa hỏi, cô vừa liếc nhìn Vic và Eddie. Rồi lại nhìn Helen. Helen quay lại, kỳ lạ nhìn Millie. Vic nhíu mày:

    - Cô nói chiếc máy bay chúng tôi định làm gì?

    - Cướp. Chồng tôi sẽ thông báo bằng cách nào để các người rút lui?

    Vic nói:

    - Vậy là chồng cô không nói thật với cô rồi. Chẳng có vụ cướp nào cả. Anh ta phải tạo ra một tai nạn máy bay cho chúng tôi.

    Millie nhìn Vic, không tin. Cô chưa kịp thốt lên lời nào thì giọng Harry vang lên ở cửa:

    - Thằng ngu!

    Millie nhìn Harry, đứng bật dậy, run rẩy:

    - Thật vậy không?... Đúng không?

    Helen bước đến bên cô ngay.

    - Bình tĩnh, bà chị!

    Vic đứng dậy, đối mặt với Harry, tức giận vì bị gọi là thằng ngu bởi miệng của một kẻ mà chính hắn coi là ngu. Harry lạnh lùng nhìn hắn, nói:

    - Freelow cũng khùng rồi mới dùng mày và cái thằng tâm thần kia. Từ bây giờ trở đi thì hãy câm miệng lại nếu tao không cho phép nói, nghe chưa?

    Vic bước tới một bước, như thách thức Harry. Helen bỏ chỗ Millie, lại gần Harry. Harry lặp lại:

    - Nghe chưa?

    Miệng nói mà ngón tay cái hắn móc vào dây lưng, gần bao da đeo súng. Những người khác trong phòng điếng người vì cuộc đối đầu bất ngờ này. Millie, chưa hết kinh hoảng vì điều vừa biết, chậm chạp đi lui lạị chỗ điện thoại, lặng lẽ nhấc máy sau lưng. Mím môi, cô hình dung ra bảng số, mò mẫm bằng mấy ngón tay run rẩy và thấy. Cô nhấn 911. Harry và Helen cùng phát giác việc làm của Millie, cùng lao về phía cô. Millie hơi chậm, cô áp ống nghe vào tai, nhưng trước khi đường dây kịp nối, Harry giật phắt lấy và Helen ấn nút bỏ cuộc gọi. Harry quát lên giận dữ:

    - Không chịu nổi! Hết sai lầm này đến sai lầm khác! Còn gì nữa đây!

    - Còn cái này, thằng khốn.

    Đó là tiếng Vic sau lưng hắn.

    Harry quay lại, thấy Vic và Eddie đang chĩa súng vào hắn.


    ***



    Trong tháp điều khiển không lưu, Jed nhìn đồng hồ: 16 giờ 35. Anh rời bàn, dạo quanh các bàn điều khiển của các nhân viên. Đến bàn của các chuyến bay TAA anh hỏi:

    - Có rắc rối hả, Phil, màn hình của cậu bị sao vậy?

    Phil đáp:

    - Có gì đâu, sao?

    - Tôi thấy có gì không ổn từ bảng điều khiển chủ ở chỗ tôi. Đi kiếm cà phê đi, tôi coi hộ một lát.

    - Tốt quá, cám ơn ông.

    Phil đứng dậy và Jed ngồi vào chỗ anh ta, bắt đầu điều khiển những cuộc gọi đến.

    - Đài kiểm soát, đây là chuyến bay TAA 415, xin đường băng cất cánh...

    Jed đáp:

    - TAA 415, chạy đến đường băng 61, hướng bắc, giữ và đợi.

    - Đài kiểm soát, đây là chuyến bay TAA 921, xin đường băng cất cánh...

    - TAA 921, chạy đến đường băng 53, hướng đông, giữ và đợi.

    Công việc cứ thế tiếp diễn cho đến khi Jed nhận được cú gọi anh đang chờ đợi:

    - Đài kiểm soát, đây là chuyến bay TAA 228, đang vào đường 12. Hết.

    Jed gọi lại ngay:

    - Nghe rõ, TAA228, tiếp tụcgiữ đường 12 và độ cao 60mét, chờ.

    Nhìn chấm sáng lập lòe trên màn hình tượng trưng cho chiếc máy bayTAA228, Jed lấy khăn ra lau mồ hôi trán.


    ***


    Ở nhà, Harry đang đối mặt Vic và Eddie. Vic thích thú ra mặt:

    - Mày xong rồi, cao bồi. Sạch sẽ rồi. Chấm hết rồi.

    Harry dọa:

    - Tụi mày mới chấm dứt khi Freelow biết chuyện này.

    - Freelow biết rồi, thằng ngu. Đây là ý kiến của ông già. Mày tưởng là ông già dễ mà để cho một thằng cao bồi như mày dính vào chuyện này sao? Nếu ông già không có một lý do?

    Harry thấy lòng lạnh băng khi hiểu ra hắn bị lợi dụng. Lần đầu tiên trong đời, hắn thấy mình dại. Vic tiếp, ra vẻ quan trọng:

    - Để tao nói cho mày nghe nhé. Mày là một tên tù vượt ngục. Mày đang tìm cách chuồn ra khỏi nước Mỹ này nhưng mày không gặp may. Mày và con nhỏ đã cạn tiền ở L.A. Mày không có chỗ trú, mày đang ở trong cơn tuyệt vọng. Vì thế, mày chọn một căn nhà - căn nhà này - trú tạm. Mày định ở đây vài ngày, chẳng có gì phiền toái, miễn là mày khống chế được mọi người. Nhưng chuyện không như ý mày. Thằng nhỏ này, Ron, chụp được khẩu súng, hai đứa mày vật lộn, khẩu súng cướp cò và Helen lãnh đủ. Khi bạn gái mày chết, mày hóa điên, giết hết cả nhà rồi mày tự sát. Rất đẹp phải không?

    Harry nói:

    - Còn Jed?

    - Sau vụ tai nạn máy bay, phi trường sẽ hỗn loạn, Jed sẽ phôn về xem mọi người có bình yên không. Không thấy trả lời, hắn sẽ phóng nhanh về nhà. Tụi tao chờ hắn. Như tao đã nói: rất đẹp.

    Trong khi Vic đang nói, Helen ngồi xuống, run run lấy một điếu thuốc nữa. Không thấy bao diêm trong tui áo, cô thò tay vào cái xắc của cô trên bàn tìm bao diêm. Khi châm thuốc xong, cô bỏ bao diêm lại tụi xắc và đặt tay gần cái túi.

    Qua miệng túi mở ngỏ, cô nhìn thấy khẩu súng của Ron.


    ***



    Ở bàn điều khiển khu vực dành cho máy bay TAA, Jed đang chỉ thị cất cánh cho chuyến bay TAA 921.

    - TAA 921, giữ đường băng 53, chờ lệnh cất cánh.

    Rồi đến chuyến TAA 228, đang chờ hạ cánh:

    - TAA 228, dùng phi đạo 53, hướng tây, chờ lệnh hạ cánh.

    Trên màn hình, đốm sáng biểu trưng cho chuyến bay 228 di chuyển dọc theo lộ trình thẳng hàng với đốm sáng biểu trưng cho chuyến bay 921. Jed chỉ thị tiếp, mồ hôi ướt đẫm, hai tay run rẩy:

    - TAA 921, hãy ra đường băng.

    Chuyến bay TAA 921 chậm chạp lăn bánh trên đường băng 53 trong khi chuyến bay TAA 228 hạ thấp hơn và đang lao xuống cùng đường băng từ đầu kia.


    ***



    Thật nhanh, Helen rút khẩu súng trong túi xắc ra.

    - Mày bắn Harry thì mày cũng chết, Vic.

    Vic và Eddie cứng người. Helén đứng hơi chếch với chúng nên chúng không thể quan sát cả cô lẫn Harry cùng lúc. Vì đang chĩa súng vào Harry, chúng chỉ có thể liếc nhanh qua Helen rồi lại nhìn Harry. Eddie nói:

    - Đó là khẩu súng của thằẳng bé, nó không có đạn.

    Vic hỏi lại:

    - Mày có chắc không?

    Eddie mỉm cưởi:

    - Chắc đấy! Vic, nếu hắn mà không chắc thì tao và mày cùng tiêu.

    Eddie nói:

    - Để tao lo thằng khốn này cho, Vic, khẩu súng đó không có đạn, tao dám cá với mày!

    Vic run người:

    - Khoan!

    Hắn liếm môi. Mắt hắn nhìn qua Helen rồi đảo lại Harry. Cứ thế. Hắn hoang mang, càng nao núng hơn vì nụ cười điềm tĩnh của Harry. Harry nói:

    - Chuyện gì vậy, Vic, mày không biết làm gì à?

    Nói xong hắn cười, mắt không rời đôi mắt đảo qua lại của Vic, và hắn nói nhanh:

    - Để tao làm cho.

    Dứt lời, Harry rút súng bằng một tốc độ nhanh khó tin. Một tiếng nổ vang. Millie hét lên:

    - Ron, nằm xuống!

    Rồi cô nằm phủ lên Liza che chắn cho con bé.

    Vic trúng đạn của Harry, nảy người lên, nhưng chưa ngã, khẩu súng trong tay hắn cướp cò. Viên đạn lạc trúng vào ngực Helen.

    Trong lúc đó họng súng của Eddie hướng vào Harry cùng lúc Harry chĩa súng vào hắn.

    Hai tiếng nổ cùng lúc.


    ***



    Jed ngây dại nhìn vào màn hình. Hai đốm sáng đang di chuyển lại gần nhau hơn, thỉnh thoảng lại nhấp nháy.

    TAA 921, vẫn còn trên mặt đất, chậm rãi lăn bánh về hướng đông. Vì chiều dài của đường băng và vì ánh nắng chiếu làm lóa mặt đường, phi công không thể nhìn thấy đầu kia phi đạo. Anh ta đinh ninh phi đạo đã trống.

    - Đài kiểm soát, TAA 921 tăng tốc.



    ***



    TAA 228, đã thả bánh xe, sắp đáp xuống cuối đường băng 53. Ngay trước khi bánh xe chạm mặt đất, viên phi công trưởng nhíu mày, nhìn chăm chú phía trước, hỏi viên phi công phụ:

    - Anh có nhìn thấy cái gì kia không, ở cuối đường băng?

    - Tôi không rõ, hãy hỏi lại đài kiểm soát.


    ***


    Ở đài kiểm soát, Jed nhận được điện:

    - Đài kiểm soát, đây là chuyến bay TAA 228, xin xác nhận lại tình trạng đường băng 53, khẩn cấp.

    Jed liếm môi, mắt không rời màn hình. Sau vài giây im lặng, họ lại hỏi lần nữa:

    - Đài kiểm soát, TAA 228 xin xác nhận lại phi đạo 53, khẩn cấp.

    Ngay lúc đó, một cú điện nữa.

    - Đài kiểm soát, TAA 921 bắt đầu tăng tốc để cất cánh trên phi đạo 53.

    Bỗng nhiên Jed choàng tỉnh:

    - TAA 921, bỏ đường băng! Xin nhắc lại, TAA 921, bỏ đường băng! Quẹo vào đường băng 54 ngay chỗ rẽ kế tiếp! Khẩn cấp!

    Anh nhìn hai đốm sáng. Chúng tiếp tục tiến gần nhau hơn trên màn hình.


    ***


    Phi công trưởng chuyến bay TAA 921 giảm tốc độ, quẹo phải bỏ đường băng 53. Vài giây sau, chuyến bay TAA 228 lao vút qua chỗ đó.

    Trong đài kiểm soát, Jed thấy hai đốm sáng lách tránh nhau trên màn hình. Anh thở phào. Nhưng khi nghĩ đến hậu quả sẽ đến với vợ con mình, nét mặt anh vô cùng đau đớn. Anh phóng nhanh ra khỏi ghế, vẫy nhân viên kia trở lại làm việc. Anh vội vã ra khỏi phòng.


    ***


    Ở nhà, Millie nhìn lên. Căn phòng đầy mùi thuốc súng. Bên kia phòng, Vic và Eddie nằm chết. Gần cái ghế ngồi trước khi bị lạc đạn, Helen cũng nằm bất động. Chỉ còn Harry đang đứng. Hai vệt máu loang trên áo hắn. Hắn loạng choạng bước đến bên Helen. Quì xuống cạnh cô ta, hắn buông khẩu súng xuống sàn, khẽ vuốt má cô. Khi biết chắc Helen đã chết, nước mắt hắn rơi lã chã. Buồn bã, hắn lắc đầu tuyệt vọng:

    - Chúng ta... gần... đến đích..., em...

    Hắn gục cạnh Helen. Bất động.

    Millie nhảy bổ đến điện thoại.

    ***


    Jed đang ra ngoài thì một nhân viên cảnh vệ gọi lớn:

    - Jed! Có phôn của vợ anh!

    Jed vội chạy đến:

    - Millie...?

    Lắng nghe, anh biết gia đình đã thoát hiểm. Bấy giờ, bao nhiêu căng thẳng tan biến, nhưng người anh cứ nhũn ra vì mừng. Tiếng vợ anh đầu kia tiếp tục trấn an anh.

    Ngoài kia, phi trường khổng lồ tiếp tục công việc của nó, mọi chuyện một lần nữa trong tầm kiểm soát.
     
    meetdak, amylee and ClfEgg like this.
  3. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    CHIÊU THỨC BÓNG TRĂNG RẰM

    Tác giả: Ryutaro Kita (Nhật Bản)
    Hoàng Linh dịch

    Những mối thù truyền đời giữa các võ đường rất thường xảy ra tại nước Nhật thời xưa. Đôi khi thù hận kéo dài đến 2, 3 thế hệ. Đây là một câu chuyện về trường phái kiếm thuật xung đột với nhau như vậy.

    Hai trong số những kiếm sư tên tuổi vào nửa cuối thế kỷ 16 là Yagu Sehisyusai và Matsuda Oribe Nosuke. Họ cùng học với kiếm sư lừng danh Kamiizumi Isenokami Nobutsuma trong một thời gian. Sau khi Isenokami qua đời, Sehisyusaỉ sáng lập trường phái kiếm thuật Yagu, trong lúc đó Oribe chính danh với phái Zinkaga. Rồi cả hai cùng dính vào chính trị và họ đi theo những con đường khác hẳn nhau.

    Khi lãnh chúa của Sehisyusai bị Tướng quân (Shogun) tước mất đặc quyền, Oribe bèn dùng thế lực chiếm đoạt toàn bộ tài sản của phái Yagu. Cuối cùng phái Yagu cũng hồi phục nhưng Sehisyusai không bao giờ tha thứ điều Oribe đã làm. Trong di chúc, ông viết: “... môn đồ phái Yagu phải hoàn thành nhiệm vụ thanh toán Oribe. Mang thủ cấp hắn về đặt trên mộ phần ta, nếu không ta sẽ chẳng bao giờ được yên nghỉ...”

    Vài năm sau khi Sehisyusai qua đời vì bệnh, lãnh chúa của Oribe cũng mất quyền lực, còn Oribe thì biệt tăm. Một ngày mùa xuân vào năm thứ 6 triều đại Keicho (1601), bầu không khí nặng nề bao phủ võ đường phái Yagu tại Edo (nay là Tokyo). Yagu Munenori, Chưởng môn nhân, cho mời Sodaki Matemon, môn đồ giỏi nhất của cố võ sư Sehisyusai.

    - Sodaki Matemon, ta giao cho huynh đệ một sứ mạng rất quan trọng, Ta vừa được tin Oribe đã mở một võ đường tại Nara.

    - Matsuda Oribe Nosuke!

    Gương mặt Sodaki Matemon trở nên căng thẳng khi chàng khẽ thốt ra cái tên đó.

    - Tôi tin rằng huynh đệ không quên điều mong ước của cố tiên phụ của ta, sư phụ của huynh đệ?

    - Bao năm qua điều ấy luôn canh cánh bên lòng tại hạ.

    Sodaki Matemon đáp.

    - Ngày mai huynh đệ sẽ đến Nara với mười kiếm thủ giỏi nhất của võ đường này. Oribe Nosuke và phụ thân ta đều là những môn đồ xuất chúng của đại sư Isenokami. Giờ đây y đã già, song huynh đệ vẫn nên thận trọng.

    - Tại hạ sẽ thận trọng.

    Sodaki Matemon hơi nhích người. Tay trái chàng lôi tấm đệm đang quì ra và quăng lên không. Tay phải rút phắt thanh đoản kiếm (wakizashi) chém 2 nhát. Tấm đệm rơi xuống thành 4 mảnh đều đặn.

    - Số phận Oribe Nosuke sẽ như vậy!

    Cúi chào Munenori, chàng rời khỏi phòng.

    Đêm trăng rằm

    Vào khoảng nửa đêm, mười một kiếm thủ xuất hiện bên ngoài võ đường phái Zinkage tại Nara. Ba người chặn cửa sau, ba cánh cửa hông, còn Sodaki Matemon trấn ngay cửa chính cùng bốn người còn lại. Một người gõ của. Một thanh niên tiến ra.

    - Hãy thông báo với sư phụ ngươi, Matsuda Oribe Nosuke, là có người của phái Yagu đến thanh toán món nợ cũ.

    Một lúc sau có mấy người từ trong võ đường bước ra. Một lão nhân trạc lục tuần, người thanh niên ra mở cửa, sáu môn đồ mặc đồng phục và một thiếu niên chừng 15 tuổi.

    - Ta là Sodaki Matemon, thuộc phái Yagu. Ta đến đây để thực hiện công lý, đòi lại món nợ mà lão đã vay đối với sư phụ quá cố của ta.

    Chàng kiếm sĩ giỏi nhất của phái Yagu tuyên bố.

    - Chuyện đó xảy ra đã gần 20 năm và ta hầu như quên lãng. Tuy nhiên, ngươi đã đến đây, hẳn là phải có một trận quyết đấu thôi. - Oribe Nosuke ôn tồn nói.

    - Đúng vậy! - Sodaki Matemon buông gọn trong lúc chân bước lùi lại. Chàng khoa thanh kiếm chầm chậm bằng hai tay rồi đưa lên đặt nằm ngang trước trán, lưỡi kiếm hướng lên trên.

    Thanh kiếm của chàng khác với những thanh kiếm thông thường. Lưỡi kiếm được đánh rất bóng giống như mặt gương. Miếng lá chắn chẽ tay không gắn chặt vào thân kiếm mà có thể xoay chuyển.

    Oribe chăm chú quan sát thế thủ của đối phương rồi bật kêu khẽ, vẻ sửng sốt lẫn khiếp sợ:

    - Chiêu thức Bóng trăng rằm.

    - Phải. - Sodaki Matemon điềm nhiên đáp. Bàn tay phải chàng vặn miếng lá chắn che tay bằng một thủ pháp đặc biệt và Oribe nhận ra chàng có sáu ngón tay, ngón phụ đặt trên một đường rãnh.

    - Ngươi có sáu ngón tay. Thảo nào ngươi có thể thi triển được chiêu thức này!

    Oribe ngước lên và trông thấy mặt trăng tròn vành vạnh trên bầu trời không gợn một bóng mây. Mặt lão biến sắc. Lão quay sang hỏi đám môn đồ:

    - Hôm nay ngày gì?

    - Ngày rằm tháng ba, thưa sư phụ.

    - Ngươi đã chọn đúng thời điểm. Xem ra có vẻ lão sẽ chết tại đây đêm nay.

    Oribe buông một tiếng thở dài, khoa kiếm.

    - Khoan! Cả phái Yagu và phái Zinkage đều khởi nguyên cùng nguồn gốc. Không cần thiết để những kẻ ngoại cuộc xem chúng ta tử chiến với nhau - Matemon đề nghị.

    - Sáu người mặc đồng phục là môn đệ lão. Chàng thanh niên là con trai. Cậu thiếu niên là con vị lãnh chúa quá cố và lão theo phò cậu ấy. Chẳng ai là kẻ ngoại cuộc - Oribe trả lời.

    Trong khi Matemon nhìn từng người trong bọn, Oribe đột ngột cao giọng nhận xét:

    - Chỉ những kẻ có sáu ngón tay mới có thể sử dụng chiêu thức Bóng trăng rằm. Loại cơ may này rất hiếm - Lão nói có vẻ như phát biểu với chính mình.

    Không người nào nhận thấy cậu thiếu niên lẳng lặng khoanh tay lại trước ngực, giấu bàn tay trong ống tay áo. Chẳng ai biết là mỗi bàn tay cậu ta cũng có sáu ngón.

    Chiêu thức Bóng trăng rằm

    - Sẵn sàng chưa? Nào! - Matemon lắc cườm tay, lưỡi kiếm chàng phản chiếu ánh trăng chói lọi. “Trong...” chàng bật miếng lá chắn che tay với ngón cái và ngón thứ sáu. Ánh sáng chiếu thẳng vào mặt Oribe. Oribe thấy một tia sáng loé lên ngay trước mắt. Theo bản năng lão đưa kiếm thủ thế phần trên. Tia sáng tắt phụt.

    Matemon tiến tới một bước. “Trong...” chàng điều chỉnh lưỡi kiếm, ánh sáng chói lòa chiếu vào mắt đối thủ lần nữa. Oribe thấy một tia chớp, liền lùi ra sau một bước.

    Matemon lặp lại một cách dồn dập. “Trong, trong, trong...” Chàng tiến tới trước bảy lần, lưỡi kiếm loe sáng càng lúc càng nhanh. Có lúc tia sáng phát ra cùng với tiếng rung của miếng lá chắn, có lúc không.

    Những tia sáng làm lóa mắt Oribe. Lão trông không rõ và còn bị bối rối bởi âm thanh từ miếng lá chắn. Ngay cả đối thủ tiến lên bao nhiêu bước lão cũng không thể xác định được.

    Giờ đây Matemon đã tiếp cận lão. “Trong...” chàng di động lưỡi kiếm một lần nữa, rồi bất thần đổi vị thế thanh kiếm đang nằm ngang sang dựng thẳng và chém xả từ trên xuống như chẻ tre.

    Vào lúc tia sáng tắt phụt, Oribe bị khựng lại một giây. Mắt lão chưa thích nghi với bóng tối nên không thấy lưỡi kiếm đang bổ xuống.

    - Cha! - Người con trai của Oribe vụt kêu thét lên.

    Oribe lùi một buớc, vừa lúc lưỡi kiếm lướt qua trước ngực, chỉ cách vài đốt ngón tay. Trước khi lão kịp thời phản công, Matemon sấn tới nửa bước, đảo cườm tay chém ngược lên.

    - Orrrrrr...

    Oribe từ từ đổ nhào ra sau, máu loang đẫm thân áo trước.

    Khi Matemon bước tới định chặt thủ cấp lão, chàng nghe tiếng gió kiếm ở sau lưng. Chàng ngoảnh lại, thoáng thấy một đường kiếm phạt ngang nhắm vào cổ mình. Chàng hụp xuống, lưỡi kiếm trượt qua đầu, cắt đứt mấy lọn tóc nơi búi tó. Maternon thọc mạnh mũi kiếm ra sau, luồn dưới nách trái.

    - Ahhhhhh.

    Matemon giật ngược lưỡi kiếm về, nhảy phắt sang bên. Một thân xác đổ xuống cạnh chàng. Thân xác người con trai Oribe, với một lỗ thủng nơi bụng.

    - Phái Yagu không muốn giết hại người vô tội. Ta chỉ thực hiện mục đích chuyến đi này. Đừng cố kháng cự, bọn ta đông hơn các ngươi.

    Matemon bảo các môn đồ phái Zinkage. Họ dàn thành hình bán nguyệt chắn phía trước cậu thiếu niên, bất động.

    Matemon cắt phăng thủ cấp Oribe, túm tóc xách lên. Chàng bọc một miếng giấy tẩm dầu đỡ dưới cổ ngăn máu nhỏ xuống, rồi đặt nó vào một chiếc hộp gỗ đựng vôi bột. Sau đó cùng với mười kiếm thủ phái Yagu bỏ đi.

    Mầm mống phục thù

    Sáu môn đồ phái Zinkage còn lại đăm đăm ngó theo kẻ thù không thốt một lời. Họ biết kháng cự là tự sát. Những bộ mặt nhăn nhúm vì phẫn hận. Có người cắn chặt môi đến rướm máu. Rồi họ quay lại nhìn cậu thiếu niên.

    Gương mặt cậu không biểu lộ điều gì. Ngay cả bọn Matemon cậu cũng chẳng ngó ngàng. Cậu ta đang mải ngắm mặt trăng rằm với ánh mắt kỳ dị.

    (Theo bản Anh ngữ của Paul W.L.Kwan - Black Belt magazine)
     
    meetdak and amylee like this.
  4. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    CON CHIM MÓNG ĐỎ

    Truyện gắn của Tim Gautreaux
    Lưu Văn Hiến dịch


    Lão Fontenot nhìn đứa cháu nội rít một hơi dài khói thuốc rồi gạt tàn lên nền gạch men xám hãy còn mới ở hiên nhà. Thằng bé đã bị cho thôi việc, lần này là bởi tiệm giặt ủi ở cuối phố.

    “Gã chủ tiệm đó không có được đến một nửa trí thông minh của cháu”, Lenny Fontenot nói.

    Ông lão gật đầu, uống một ngụm từ lon bia không ướp lạnh, “Ông chủ tiệm đó không thích mày ủi quần của khách đến hai nếp”. Lão không nhìn thằng bé mà nhìn một đám mây sáng rực đang trôi vào từ vịnh.

    “Để cháu nói ông nghe”, Lenny bực tức nói, quay đầu theo một bóng chim bồ câu vừa lướt qua, “trên đời này có những kẻ ngu”.

    “Thôi bỏ đi”, ông lão nói, nhìn về hướng mái tôn của tiệm giặt bị mưa làm bạc thếch. Thằng cháu lại về ở với lão, ăm cơm của lão, và sáng ra dùng sạch cả nước nóng. “Nếu cháu quan tâm đến thái độ của cháu hơn, thì có thể giữ được việc làm đấy”.

    Lenny đứng dậy gí mũi vào kính cửa. “Dù sao cháu cũng cóc cần việc giặt ủi. Cháu sẽ bán hàng”.

    “Mày đâu có thể bán phân bò cho tiệm hoa hồng được”.

    Lenny vứt điếu thuốc xuống và dẫm lên bằng mũi giày đã mòn vẹt. “À, cháu có thể bán chim câu”.

    Ông nội nó cầm mũ lên và nhìn nó. “Làm quái gì có ai mua chim câu?”

    “Cháu có thể tìm được”.

    “Lenny à, nếu có ai đó muốn chim câu, thì hắn ta chỉ cần bắt lấy một con”.

    “Có người vụng về sẽ mua của cháu”. Nó bước xuống các bậc thềm đi về chiếc sân bên hông nhà. Ở cuối khoảng đất trống là một nhà xe đã lâu không dùng đến, xiêu vẹo bên những máy cắt cỏ và xe cút kít hỏng. Nó nhìn lên mái nhà, nơi có những cái tổ tả tơi trên chiếc xà nhà dây vết phân chim. Nó vung tay thật nhanh và một con chim câu màu xanh thẫm nằm gọn trong tay nó. Nó quay lại khi ông nó đến gần. “Đây này. Ông có thể bắt chúng, vô khối ở dưới chỗ mái này”.

    Lão Fontenot nhìn nó gớm ghiếc. “Chẳng ai lại đi ăn chim câu cả”.

    Lenny cúi đầu. “Ăn ư? Cháu có nói là ăn chúng đâu”. Nó mỉm cười với con chim. “Đây là chim câu đưa thư”.

    “Thôi đi. Con vật đó cũng nhiều rận như một chính trị gia vậy. Bỏ nó ra”, ông lão kéo tay nó.

    Mắt Lenny đỏ lên và mờ đi. “Chiếc xe Ford của ông bị hỏng và ông không đủ tiền sửa nó. Cháu sẽ kiếm tiền cho ông”.

    Ông nó biết Lenny muốn có chiếc xe đó nhưng lặng thinh. Lão nhìn con chim trong tay đứa cháu, con vật đang đạp chân vào không khí và chớp chớp đôi mắt đen lánh. “Ông đã hứa với bố mẹ cháu là sẽ không để cháu gặp rắc rối gì nữa”. Lão thấy Lenny nhăn mặt. Lão nhớ căn phòng rộng của đứa cháu trong căn nhà gạch có máy lạnh ở nông trại,căn nhà mà bố mẹ nó đã bán để mua một chiếc Winnebago và du lịch vòng quanh đất nước. Một hôm thằng bé về nhà sau kỳ nghỉ cuối tuần và mọi thứ mà nó sở hữu đều đã bị bán đi.

    Hai ngày sau ông lão đọc mẩu rao vặt của Lenny ở phẩn quảng cáo trên báa mà nó đã gấp lại: “Bồ câu đưa thư 10 đô một con. Có kèm hướng dẫn cách luyện tập”, ông lão vào bếp nấu bữa sáng. Lenny vào, nhìn xuống bếp lò.

    “Ông có làm món trứng không ạ? Annie thích trứng”.

    “Nó lại đến hả?” Lão cố tỏ ra bực dọc, nhưng thật ra lão thích Annie. Đó là một cô gái to con, tóc vàng mặc đồ jean làm việc ở một xưởng cơ khí. Lão thấy tội nghiệp Annie vì Lenny để cô bé trả tiền những chuyến đi chơi của chúng.

    Lenny bước xuống thềm, và ông nó nhìn theo nó qua cửa sổ. Nó lôi từ sau nhà xe ra một cái chuồng thỏ có chân cao. Nó giũ chuồng cho sạch phân rồi đặt xuống. Bằng những ngón tay ám vàng khói thuốc, nó chộp lấy một con bồ câu màu xám đá ở dưới mái hiên, và nhét nó vào chuồng. Những con khác bay vụt đi với tiếng đập cánh rào rào, nhưng nó vẫn bắt được thêm một con màu hồng và xám. Ông lão tặc lưỡi, vặn to lửa ở bếp.

    Annie vào bằng ngã sau mang theo một hộp đồ nghề. Cô đến bếp lấy một suất ăn, rồi ngồi vào bàn ăn.

    “Annie, chào cưng”. Lenny ngồi phịch xuống đối diện cô gái với một đĩa xúc xích nóng đang bốc khói. Sau khi ăn xong, cô gái hỏi nó tại sao lại làm cái việc bán chim câu đó. Nó bảo là làm việc đó vì cô ta, nhờ đó chúng có thể dùng chiếc xe hơi. Rồi chuông cửa reo, và mọi người đứng dậy xem ai đến.

    Ở cửa trước họ thấy một người đàn ông lịch sự tóc bạc trắng đang nhìn chăm chú vào một xấp báo. Ông ta mặc một chiếc quần vải thô màu nâu và một chiếc áo cao bồi xanh kẻ ô vuông.

    “Tôi là Perry Lejeune ở đường Broussard. Cách đây khoảng năm dãy phố. Tôi đọc báo thấy mẩu quảng cáo của ông”.

    Lão Fontenot lườm đứa cháu rồi bỏ mũ ra, làm như lão sẽ ném nó đi.

    Lenny đứng thẳng lên và mỉm cười, khoe hàm răng nhỏ. “Ông Lejeune, ông có biết gì về bồ câu đưa thư không?”

    Người đàn ông lắc đầu. “Không. Thằng cháu bé Alvin ở nhà tôi và tôi muốn tìm cái gì đó cho nó làm. Mẹ nó để nó lại cho tôi và tôi phải cho nó tiêu khiển, cậu biết không?” Ông Lejeune nhướng mày. “Tôi già rồi, không thể chơi bóng với nó được”.

    “Đừng lo, cháu sẽ chỉ cho ông”, nó nói, ra dấu cho mọi người đi theo nó trở lại nhà xe. Nó đặt tay lên cái chuồng cũ kỹ và nhìn ông Lejeune. “Cháu chỉ còn hai con thôi. Con màu xám đá này”, nó gật đầu về phía con chim, “nó chịu mưa giỏi. Và cháu có con màu hồng kia nếu như ông muốn màu rực rỡ”.

    Ông Lejeune giơ tay lên ra hiệu ngừng. “Tôi không muốn màu loè loẹt”.

    “Con màu xám đá là con chim tốt. Tất nhiên, với giá này thì ông phải tập cho nó, ông ạ”.

    “Ừ, tôi muốn hỏi cậu về việc ấy”, ông Lejeune dùng ngón trỏ và ngón cái tạo thanh một gọng kìm để nhổ râu ở cằm. Annie đến gần, còn ông nó cúi nhìn các bậc thềm và lắc đầu.

    Lenny thò tay vào chuồng và bắt con chim ra. “Ông phải làm một cái lồng bằng vải bạt với một cái cửa một chiều”.

    “Phải, cậu muốn nói là để cho lúc nó về”.

    Lenny nhìn ông Lejeune. “Phải rồi. Bây giờ, để tập cho nó ông phải cầm nó với ngón cái ở trên và các ngón kia ở dưới, ông thấy chưa?’

    Ông Lejeune đeo kính vào và khom người nhìn dưới bụng con chim. “Ờ nhỉ”.

    “Ông đứng ở ngay trên đường thẳng hướng về nhà ông. Rồi ông giữ mỗi chân nó bằng hai ngón tay. Ông thấy không?” Lenny quỳ xuống, nhăn mặt vì nền xi măng gồ ghề. “Ông đặt chân nó xuống đất, như thế này này”.

    “Ừ tôi hiểu”.

    “Rồi ông cho nó bước đi trên đường thẳng mà ông đã nhắm, vừa bước đi sau nó vừa di chuyển chân nó như thế này. Ông phải đi cùng nó cả bốn phía lô đất của ông để nó nhớ phương hướng nhà ông”.

    “Ừ, ừ, tôi hiểu rồi. Giống như cho nó đi vòng vòng vậy mà”.

    Annie nhíu mày và đưa tay che miệng, ông nội Lenny ngồi trên bậc thềm nhìn đi chỗ khác.

    Lenny bắt con chim đi chập choạng trên mặt đất, con chim lúc lắc đầu, chớp mắt và cố mổ nó. “Muốn luyện một con chim cần phải kiên trì. Cần phải có một người đặc biệt. Không phải ai cũng thích hợp để luyện bồ câu đưa thư”.

    Ổng Lejeune gật đầu. “Này, cậu đang nói chuyện với một người đã lập gia đình bốn mươi ba năm đấy. Cần phải luyện nó trong bao lâu?”.

    Lenny đứng dậy và bỏ con chim vào chuồng. “Tập mỗi ngày trong hai tuần lễ, ông phải làm việc ấy”.

    “Bất kể nắng mưa?”. Ông Lejeune nhướng cặp lông mày bạc trắng.

    “Đúng vậy. Sau hai tuần ông bỏ nó vào mọt cái hộp đem ra công vien Bayou và thả nó ra. Nó có thể về nhà còn trước cả ông, ông biết không?”

    Ông già gật gù. “Thằng Alvin sẽ thích trò này cho mà xem.” Ông rút ví tiền. “Có thuế gì không?”

    “Một đôla”.

    Ông Lejeune đưa cho nó một tờ mười và tìm thêm một đô nữa. “Không phải thuế suất trong thành phố là tám phần trăm sao?”

    “Hai phần trăm thuê thú hoang dã”. Lenny nói, thò tay vào gầm chuồng lấy ra một hộp đựng giày mà nó đã đục lỗ bằng đồ gắp nước đá.

    Ngày hôm ấy Lenny bán bồ câu cho Mankatos Djan, một người Phi mới nhập cư, và hai đứa trẻ đến bằng xe đạp BMX rỉ sét. Đến ngày thứ mười hai, nó đã bán được hai mươi sáu con bồ câu và đã có đủ tiền để sửa chiếc xe hơi phủ đầy lá rụng. Lenny đếm tiền và đi ra cổng trước, ở đó ông nó đang uống một vại bia trong tiết trời nóng bức. Ông lão nhìn số tiền trong bàn tay Lenny đang xoè ra. “Cái gì thế?”

    “Đủ tiền để sửa xe đấy”.

    Ông nó nhìn về phía tiệm giặt. “Ta thấy cháu lấy hai mươi đô của mấy đứa trẻ để đổi lấy hai con chim đầy rận. Cháu thật không còn đạo đức gì”.

    “Này, đó là để sửa xe của ông mà, mẹ kiếp”.

    “Thằng bé da màu tội nghiệp đó còn chưa nói được tiếng Anh. Nó đen trũi như một hòn than và tin bất cứ gì cháu nói. Cháu của ta bịp nó lấy mười một đô, số tiền đủ để nuôi một người bà con của nó trong túp lều tranh ở Bogoslavia trong một năm trời”. Lão ngước nhìn Lenny, đôi mắt nâu của lão mờ đi trong cái nóng. “Mày làm sao vậy?”

    “Cháu làm sao chứ?”, nó la lên, bước lùi lại. “Ai cũng kiếm được tiền, ngoại trừ cháu. Cháu không có việc làm, và cháu bắt đầu làm ăn, như mọi người khác thôi”.

    “Mày chẳng biết gì về làm ăn cả. Mày là đồ bịp bợm”.

    “Cũng được”. Nó đập xấp tiền vào đùi. “Vậy cháu là đồ bịp bợm. Vậy giữa cháu và người bán xe Mercedes có gì khác nhau?”.

    Người ông cao giọng, nắm lấy tay ghế. “Một chiếc Mercedes không bay lên mây, không mổ mắt mày, và không đi mất sau khi mày đã trả tiền để mua nó”.

    Lenny hất đầu về phía đường phố. “Điều đó tuỳ thuộc vào cách ông nghĩ về nó”, nó càu nhàu.

    “Mẹ kiếp, chỉ có một cách để nghĩ về nó thôi. Đó là nghĩ cho đúng.” Ông nó đứng dậy. “Mày hãy ra khỏi nhà tao. Bố mẹ mày tống khứ mày và bây giờ tao biết tại sao rồi. Có lẽ vài đêm ngủ trong xe sẽ giúp mày tu tỉnh lại”.

    Lenny lùi lại một bước nữa, xấp tiền vẫn ở trong tay nó. “Bố mẹ cháu đâu có đuổi cháu. Bố mẹ di dân về phía Tây”.

    “Đi ra.” Ông lão nói, những giọt mồ hôi lấp lánh trên vầng trán hói. “Khi nào có việc làm mới được về”.

    “Cháu đâu có sống ở ngoài đường được”, Lenny nói, giọng đã dịu xuống, nó cố mỉm cười.

    “Những kẻ bịp bợm rốt cuộc cũng sống đầu đường xó chợ và khi chết bị thiêu ở địa ngục”, ông lão nói.

    Lenny đá vào khung cửa, và ông nó quát lên. Năm phút sau, nó đã đứng cạnh chiếc xe Ford cà tàng, lắng nghe tiếng đập cánh khi ông lão bắt bồ câu ra khỏi chuồng thỏ và ném chúng lên mái nhà.

    Đêm hôm đó ông lão không ngủ được và cuộn màn cửa sổ cạnh giường lên, nhìn ra khoảng sân sáng trăng nơi chiếc Ford của ông đậu cạnh hàng rào. Lão quỳ xuống sàn và khoanh tay gác lên bệ cửa sổ, hình dung ra cảnh thằng Lenny quay lại tiệm giặt, tươi cười sau làn hơi nước của chiếc máy ép. Ở dưới sân chiếc xe Ford rung chuyển, và lão hình dung ra cảnh Lenny đang đập muỗi bu vào mặt nó, cảnh Lenny trở mình, gí mũi vào khe hở ở lưng ghế, ngửi mùi bụi bậm, mùi những đồng xu cũ và đầu lọc thuốc lá. Lão nghĩ đến Annie, đến làn da trắng sữa, đến những đường nét cơ thể của cô. Với vẻ thèm muốn Lenny đã kể về những tẩm chi phiếu lương của cô, gần 2.400 đôla một tháng. Lenny chưa bao giờ lãnh được nhiều hơn mức lương tối thiểu và than phiền rằng đã bị đánh giá thấp ra sao. Ông nó băn khoăn liệu nó có được ý tưởng mơ hồ nào về thế giới công việc thực tế không. Ông lão lên giường nhưng không ngủ được vì trong trí ông hiện lên những người đã mua chim của Lenny, những đứa trẻ ngờ nghệch, thằng bé người Phi, và không biết làm thế nào thằng cháu mình có thể bán linh hồn để lấy 11 đôla.

    Lúc sáu giờ ông lão đi ra sân và mở cửa xe. Thẳng bé nằm trên ghế, tay gác lên trán. “A, ông.”

    Ông nó đẩy vai nó. “Mày có việc làm chưa?”

    Lenny nhướng con mắt đỏ lên. “Làm sao tìm việc được khi cháu hôi hám, chưa cạo mặt và người đầy nốt muỗi đốt thế này?”

    Ông lão suy nghĩ trong giây lát, nhìn đứa cháu bằng đôi mắt ngái ngủ. Lão nhớ lại khi nó còn bé xíu. “Được. Ông cho cháu được tạm miễn phạt với một điều kiện”.

    “Điều kiện gì ạ?” Lenny tựa đầu vào nệm ghế.

    “Nhà thờ St. Lucy cho xưng tội trước khóa lê bảy giờ mỗi sáng, ông muốn cháu nghĩ đến việc xưng tội và kể cho cha nghe những việc cháu đã làm”.

    Lenny ngồi thẳng dậy và nhìn ngôi nhà. Ông lão biết nó đang nghĩ đến bồn tắm rộng và cái máy nước nóng ngoại cỡ của nó. “Trong sách giáo lý có nói bán chim câu là có tội đâu?”

    “Mày đi, hay là mày cứ việc ở ngoài mà bốc mùi?”

    “Cháu phải nói gì với cha?”. Nó ngửa hai bàn tay đặt lên đùi.

    Ông nó ngồi xổm xuống cạnh nó. “Mày còn nhớ Sơ Rorita đã dạy gì trong lớp giáo lý không? Rằng nếu mày nhắm mắt lại trước khi đi xưng tội, thì tội lỗi của mày sẽ phát ra tiếng đấy.”

    Lenny nhắm mắt lại. “Tiếng ồn ư”.

    “Chúng nó sẽ nhao nhao lên như lũ ếch dưới mương lúc hoàng hôn ấy”.

    “Tất nhiên rồi,” Lenny bật cười khi nó nói, tròng mắt đảo qua lại dưới mí mắt đang nhắm. “Chà, cháu chẳng nghe thấy gì.” Nó mở mắt ra nhìn lão. “Xưng tội làm gì nếu như cháu chẳng nghe gì cả?”.

    Ông nó rên rỉ đứng dậy. “Cứ lắng nghe đi”. Lão nói.

    Sau khi Lenny tắm rửa, hai ông cháu ăn sáng ở một quán cà phê trên phố River, và sau đó, khi đi bộ về, nhìn thấy Annie đi ngược chiều, tay cầm hộp đồ nghề, mái tóc vàng óng ả của cô xõa xuống vai chiếc áo jean cô đang mặc.

    Lenny huých cô một cái bằng hông. “Annie, dậy sớm vậy cưng”.

    Cô hắt cằm lên. “Em đến tìm anh. Có người nói với em là anh ngủ trong xe hơi như một kẻ lang thang”. Cô nhấn mạnh ba từ chót.

    “Ông cụ không ưa công việc làm ăn vừa qua của anh”.

    “Đó không phai là công việc làm ăn”, cô gắt lên. Annie nhìn hết ông đến cháu, tìm điều gì đó trong mắt họ. “Anh vẫn không hiểu, phải không?”

    “Hiểu gì cơ?” Khi nó nhìn thấy nét mặt cô, nó vụt tắt nụ cười.

    Cô thở dài, nhìn đồng hồ. “Rồi anh sẽ hiểu”. Cô cầm hộp đồ nghề lên và đi tiếp đến phố Broussard. Sau khi qua năm dãy phố họ băng qua một đại lộ rộng, đi thêm một dãy phố nữa rồi dừng lại sau một bụi dâu dại mọc gần vỉa hè. Bên kia đường là một căn nhà gỗ dán giấy dầu. Lớp giấy đang bong ra.

    “Hôm qua cháu thấy ông ấy cũng khoảng giờ này”, Annie nói.

    “Ai cơ?” Ông lão hỏi.

    “Ông già đã mua chim câu của Lenny”.

    Lenny lủi vào sau bụi cây. “Trời, em muốn ông ấy thấy anh sao?”

    Bên kia đường có người di động bên ngoài căn nhà, và ông Lejeune chậm chạp vòng quanh cổng nhà, lẹt xẹt trên hai đau gối như một đầu máy xe lửa. Ông lão kiễng chân lên và thấy ông già kia mặt đỏ gay, còn con bồ câu trông như mệt mỏi và say rượu.

    “Trời ạ”, Lenny thì thào, “ông ấy bó giẻ quanh đầu gối”.

    “Hôm qua em thấy ông ấy cắt mũ giày ra. Nhìn xem”.

    Một thằng bé gầy gò đi sau ông Lejeune, nó khoảng chín tuổi, vụng về và xanh xao.

    “Không phải ông ấy bảo có một đứa cháu sao?” Thằng bé đang cười, cúi xuống nói chuyện với bác nó.

    “Thằng bé có vẻ hào hứng về chuyện gì đó”.

    “Hai tuần”, Lenny nói.

    “Hả?” Ông nó khum một tay lại che tai.

    “Hôm nay là đủ hai tuần. Có lẽ chiều nay họ sẽ ra công viên Bayou để thả nó”.

    Ông Lejeune ngước lên nhìn qua đường về chỗ họ đang đứng, ông ngả người qua một bên rồi nhỏm dậy, vẫy tay lia lịa như một cái gạt nước. “Này, các người làm gì bên kia đường thế?”

    Ba người băng qua đường và đứng ở lối đi. “Chúng tôi đang đi loanh quanh”, Lenny nói. “Con chim sao rồi?”. Hình như con bồ cầu đang nhìn nó tức giận, chớp mắt, giãy giụa. Ai đó đã sơn đỏ móng nó bằng thuốc sơn mỏng tay.

    “Đây là Amelia”, ông Lejeune nói. “Alvin đặt tên cho nó đấy. Không biết là trống hay mái”. Ông nhìn đứa cháu, ông lão thấy thằng bé đang run dù nó mỉm cười. Hai bàn chân nó quặp vào nhau, và bàn tay trái của nó bị teo và đỏ ửng.

    “Cháu bé, cháu khoẻ không?” ông lão hỏi, xoa đầu nó.

    “Cháu khoẻ”, thằng bé trả lời. “Lúc bốn giờ cháu và bác cháu sẽ ra công viên để thả Amelia”.

    Lenny cố mỉm cười: “Em và bác em tập cho Amelia chắc là vui lắm nhỉ?”

    Thẳng bé nhìn bác nó đã lại ngồi trên thềm nhà. Ông đang xoa đầu gối. “Vâng. Thích lắm. Ngày đầu tiên bác cháu em bị mắc mưa và em bị cảm, nhưng em uống thuốc và đã bớt”.

    “Em phải đi bác sĩ à?” Annìe hỏi.

    “Cả bác em nữa”. Thằng bé trả lời bằng một giọng khò khè. “Phải chích ở chân”. Nó ngước nhìn Lenny. “Nhưng cũng bõ công khi Amelia bay qua thành phố để về nhà”.

    “Sao điều ấy lại quan trọng thế?” Lenny hỏi.

    Thằng bé nhún vai. “Chỉ cần con chim này từ tít trên cao tìm được nhà em là hay rồi.”

    Ông già gượng đứng dây, cởi các miếng đệm ở đầu gối. “Ra sân sau nhìn cái chuồng xem”. Ông phủi quần và dắt thằng bé ra sau nhà, đến khoảng sân cỏ cắt thật ngắn, ở giữa có một cây cam. Tựa vào vách sau nhà là một cái chuồng có chân cao, bóng loáng màu vải tráng kẽm mới.

    “Ông cuộc là đóng cái chuồng ấy mất khối công đấy”, ông nội Lenny thấp giọng nói với nó, nhưng nó chỉ nhún vai và bảo là đã chỉ cách cho ông ta rồi. Các góc chuồng được đánh bóng y như đồ đạc trong nhà, ghép mộng hẳn hoi. Ở giữa có một đường đi dẫn ra cửa chuồng. Con chim câu nhoài ra khỏi tay ông già và lọt vào chuồng, nôn nong muốn được tự do sau lớp lưới thép.

    “Chúng tôi sẽ cho nó nghỉ dưỡng sức cho chuyến bay trọng đại”, ông Lejeune nói.

    Lenny liếc mắt nhìn gương mặt nghiêm nghị của Annie. Cô nhìn con chim thật lâu, rồi nhìn thằng bé đang lom khom tựa vao thân cây cam. “Bác biết không,” Lenny bắt đầu nói, “nêu không hài lòng với con chim thì bác có thể lấy tiền lại”.

    Ông Lejeune nhìn nó, “Đâu được. Giờ đã tập cho nó xong rồi. Tôi cuộc là ngay cả từ Bắc cực nó cũng tìm được căn nhà này.”

    Ông lão bảo ông Lejeune là ông rất thích cái chuồng, rồi chạm vào vai Annie, và họ chào tạm biệt. Trên đường về Annie lặng thinh. Khi về đến nhà ông lão, cô dừng lại, lắc cái hộp đồ nghề nhỏ, liếc nhìn về cuối phố và hỏi “Lenny, chuyện gì sẽ xảy ra nếu con chim không trở về với thằng bé?”

    Nó lắc đầu. “Nếu nó bay về phía sông và nhìn thấy kho thóc, thì nó sẽ chẳng bao giờ về phố Broussard nữa, chắc chắn như vậy”.

    “Hai tuần trước anh đã biết là ông ấy mua Amelia chothằng bé làm con vật nuôi chơi”. Lenny xoè tay. “Chẳng lẽ anh phải chịu trách nhiệm về mọi việc những con chim ấy làm đến khi chúng chết sao?”

    Annie nắm chặt tay rồi lại mở ra. “Nếu em mà nóng tính, thì em đã đập cho anh một cái mỏ lết rồi”. Cô nhìn nó như nhìn một miếng phôi đang quay tít trong cỗ máy tiện của cô, dường như tự hỏi liệu nó rồi có trở thành một kẻ ra hồn không.

    Lenny châm thuốc và vừa nói vừa phà khói. “Anh xin lỗi. Anh sẽ cố nghĩ ra điều gì đó để nói với thằng bé nếu con chim không trở lại”.

    Cô cân nhắc câu nói của nó một lúc, rồi ngả người tới hôn lên khoé miệng nó. Khi ông lão nhìn cô rảo bước trên vỉa hè, ông nghe thấy tiếng những chìa khóa Williams khua xủng xoẻng trong hộp đồ nghề của cô, và nhìn thấy Lenny đang chùi miệng chỗ cô vừa hôn nó.

    Đêm hôm đó, một giờ sau khi trời tối, Annie, Lenny và ông nó đang ở trong nhà xem một phim có John Wayne đóng thì có tiếng gõ cửa. Đó là ông Lejeune, và ông đang lo lắng về Amelia.

    “Tôi thả nó ra lúc bốn rưỡi, và đến giờ nó vẫn chưa về”, ông già bảo Lenny. “Cậu nghĩ sao?”

    Lenny nhìn xuống một chiếc giày. “Bác muốn lấy tiền lại hả?”

    “Không.” Ông già vuốt lại mái tóc bạc. “Không phải chuyện đó. Thằng bé mà thấy con chim về nó sẽ mừng lắm”. Khuôn mặt xanh xao của Alvin ló ra từ sau thắt lưng bác nó.

    Annie lúc đó đang mặc quần soóc, đứng dậy khỏi chiếc ghế xếp nhựa, còn ông lão che mắt bằng bàn tay lốm đốm tàn nhang. Lenny làm ra vẻ nghiêm trang quay nhìn thằng bé. “Đôi khi lũ chim chọi nhau với những con chim khác. Đôi khi chúng bị thương và không về được nữa. Anh biết nói sao với em đây? Em muốn lấy tiền lại không?” Nó thò tay vào túi nhưng để yên ở đó.

    Ông già bước ra thềm. “Tôi và Alvin sẽ cùng đợi. Nếu con chim đó trở về chỉ một lần thôi, cũng bõ công bò ngang bò dọc, cháu thấy không?”. Ông cầm lấy bàn tay bị tật của thằng bé và dắt nó xuống thềm, từng bậc một. Annie vào nhà bếp và đập vỡ một cái ly ở bồn rửa. Ông lão cố không nghe chuyện xảy ra sau đó.

    Lenny đi vào xem cái gì bị vỡ, và một tràng buộc tội của Annie vang lên. Rồi Lenny quát lên. “Tại sao em lại kiếm chuyện với anh chứ?”

    “Tại vì anh lừa ông già đó và đứa cháu tật nguyền của ông ấy. Em chưa từng thấy anh làm chuyện như thế bao giờ”.

    “À, em nên làm quen với chuyện ấy đi là vừa”.

    “Làm quen với chuyện gì?” Cô có một giọng nói vang to hơn hầu hết phụ nữ khác, ông lão nghĩ.

    “Làm quen với việc anh làm gì mà anh thích”.

    “Việc gì chứ, việc ăn cắp của người già và trẻ con hả? Hành động như đồ cóc nhái thế hả? Bay giờ tôi đã biết tại sao bố mẹ anh tống anh ra đường”.

    Giọng Lenny rít lên sau cửa nhà bếp. “Này, chẳng ai bỏ tôi cả. Họ chỉ đi nghỉ thôi, đồ bò cái”.

    “Người ta không bán nhà để đi xa và chẳng bao giờ viết thư hay gọi điện chỉ vì họ đang đi nghỉ, đồ khùng. Họ đi bởi vì họ đã tìm ra điều mà tôi mãi đến giờ mới biết”.

    “Điều đó là gì?”

    Có tiếng cô gái khóc nấc lên, và ông lão gục đầu xuống.

    “Con người anh sẽ chẳng bao giờ làm gì ra hồn cả”.

    “Cô không được nói với tôi bằng cái giọng đó”, Lenny nạt nộ, “và tôi sẽ cho cô biết tại sao”. Từ nhà bếp vang lên tiếng tát tai giòn tan, ông lão cố đứng dậy từ chiếc ghế nệm, nhưng lão chưa kịp đứng hẳn dậy và giữ thăng bằng thì một tiếng đọng vang lên, nghe như chiếc dương cầm bị đổ, làm rung chuyển cả ngôi nhà, và Lenny thét lên đau đớn.

    Sau khi chuẩn bị bịch đá chườm, ông lão vào giường nhưng không ngủ được. Lão nghĩ đến vết hằn ngón tay trên má Annie và sự yên lặng nặng nề khi lão đưa cô về. Giờ đây lão hình dung ra ông Lejeune kiểm tra chiếc chuồng của Amelia trong đêm, với đứa cháu hỏi han ông bằng một giọng an phận. Lão còn hình dung ra cảnh con chim câu đáp xuống một chỗ thông gió trên mái kho thóc của công ty lương thực St. Mary, bộ óc nhỏ xíu cua nó cố nhớ lại đường Broussard ở đâu. Vào lúc một giờ sáng lão vỗ trán, mặc quần áo vào và cầm đèn pin đi xuống chỗ nhà xe cũ. Trong rầm nhà lão thấy những cái đầu tròn trĩnh hiện ra, và khi lão kiểm tra nơi Lenny đã bắt được Amelia, lão cho là đã nhìn thấy nó. Tắt đèn đi, lão thò tay vào chỗ trống và bắt ra một con chim kháng cự yếu ớt. Móng chân của nó sơn đỏ, và lão nhẹ nhàng tuột xuống chiếc xe cút kít để suy nghĩ, giữ con chim bằng cả hai tay. Con vật mổ nhẹ vào tay lão. Lão giằng co giữa ý muốn thả nó ra và quên ông Lejeune đi, nhưng rồi lão hình dung ra thằng bé sẽ phải thấy cái chuồng trống rỗng. Trông nó sẽ giống một ngôi nhà hoang, và mỗi ngày thằng bé sẽ nhìn vào đó mà tự hỏi tại sao Amelia lại quên nơi ở của mình.

    Lúc hai giờ mười lăm lão đi quanh nhà ông Lejeune, sát vào tường nhà và tránh ánh đèn đường. Khi lão vòng xuống sân sau, bóng tối bao trùm lên lão và lão phải mò mẫm tìm cái chuồng, rồi rờ rẫm tìm cửa chuồng. Tim lão thót lại khi con chim cựa quậy trong tay lão, và nhảy tót vào chuồng. Ngay lúc đó đèn sau nhà bật sáng và cánh cửa sau cót két bật mở, rồi ông Lejeune hiện ra trong chiếc quần pyjama màu vàng đất và một chiếc áo may ô.

    “Này, ông làm gì thế?” ông thận trọng bước xuống sân.

    Lão không nghĩ ra được lời nói dối nào để tự cứu mình, nên đành đứng đó nhìn vào khoảng giữa cái chuồng và cửa sau nhà. “Tôi chỉ muốn thăm con chim thôi”, cuối cùng lão ấp úng. Ông già kia bước tới và nhìn vào chuồng. “Gì thế này? Làm sao ông bắt được con chim ngốc nghếch này? Tôi tưởng giờ này nó đã đến Texas rồi chứ”.

    Lão há hốc miệng. “Ông đã biết rồi sao?”

    “Phải”, ông Lejeune nhấm nhẳn. “Có thể tôi ngớ ngẩn, nhưng tôi đâu có ngu. Không có gì bực mình đâu, ông Fontenot. Nhưng thằng cháu ông nó đầy những mánh lới của bọn lái buôn xe cũ”.

    “Thế sao ông lại đến hỏi về con chim nếu ông đã biết nó sẽ chẳng quay về?”

    “Đó là vì Alvin, ông biết không? Tôi muốn nó nghĩ là tôi lo lắng”, ông Lejéune nắm lấy khuỷu tay lão và dẫn lão vào nhà bếp, ở đó hai ông già ngồi xuống bên chiếc bàn nhỏ mặt tráng men. Ông già mở tủ lạnh lấy ra hai lon Schlitz mát lạnh. “Thế này nhé”, ông Lejeune nói, nhăn mặt khi hơi ga thoát ra từ chỗ khui ở nắp lon. “Thằng bé Alvin chẳng bao giờ có bố, và mẹ nó là một đứa khùng đã chạy theo một thằng lãng tử đến Alaska”. Ông đưa một lon cho lão Fontenot, lão uống một hơi dài vì đang đổ mồ hôi. Ông Lejeune thấp giọng và ghé lại gần. “Thằng bé Alvin vẫn còn ở trong xứ thần tiên, ông biết không. Nó nghĩ rằng mẹ nó sẽ trở lại vào mùa thu lúc khai trường. Nhưng nó phải cứng rắn hơn và đối diện sự thật. Đó là lý do tôi mua con chim đó của thằng cháu ông”. Ông ngồi ngay lại và xoa đầu gối. “Nó sẽ bắt đầu thất vọng về một chuyện nhỏ, là con chim đó, rồi có lẽ tôi sẽ dạy nó cách đương đầu với chuyện to tát hơn. Thằng bé đó sẽ phải trải qua hết, ông Fontenot, ông hiểu tôi muốn nói gì chứ?”

    Ông lão để mũ lên bàn. “Dù vậy đó chẳng phải là bài học quá khó sao?”

    “Này, chúng tôi sẽ cùng nhìn trời vài hôm và tôi sẽ cho nó thấy tôi đón nhận việc đó như thế nào. Chúng tôi sẽ thất vọng cùng nhau.” Ông Lejeune nhìn xuống hai bàn chân tím bầm. “Nó bị tật, nhưng nó khoẻ và khôn”.

    Ông lão cầm lon bia lên uống cho đến khi mắt cay xè. Lão nhớ Lenny, hãy còn ngủ ở nhà với một cục u sau gáy và một con mắt bầm đen. Lão nghe ông Lejeune nói đến khi cảm thấy buồn ngủ. “Tôi phải về đây”, lão nói, đúng dậy đi ra cửa. “Cảm ơn về lon bia”.

    “Này, ông đừng nghĩ ngợi gì hết. Chỉ xin ông đưa hộ con chim về tổ nó”. Họ đi ra và ông Lejeune thò tay vào chuồng bắt Amelia ra và bỏ nó vào một túi giấy to.

    “Ông tin là ông hành động đúng đấy chứ?” ông lão hỏi. “Bây giơ ông đổi ý vẫn còn kịp”. Lão giúp gập miệng túi xuống. “Ông thật tử tế”. Lão hình dung ra nét mặt thằng bé khi nó thấy con chim đã trở về chuồng.

    Ông Lejeune chậm rãi đưa cái túi cho lão. Họ cùng cầm cái túi một lúc và nghe ngóng, ở bên trong, con chim bước đi tới lui sột soạt trên đáy túi bằng những ngón chân sơn của nó, tìm đường về tổ.

    Dịch từ “Little Frogs in a Ditch” - trong “The Best American Short Stories - 1997”
     
    meetdak, nhan van and amylee like this.
  5. ltvmoon

    ltvmoon Mầm non

    Rất hay bác ạ.
     
    hungbc1010 and hoi_ls like this.
  6. amylee

    amylee Super Moderator Thành viên BQT

    Mình cũng thấy rất hay, nhất là truyện của tác giả người Đài Loan về thiên thần. Mình đã khóc sau khi đọc. Không biết mãnh lực nào mà mình đã đọc hết các truyện ở đây hihi.
     
    ClfEgg, hungbc1010 and hoi_ls like this.
  7. hungbc1010

    hungbc1010 Lớp 6

    "Nhấm nhẳng" chớ nhỉ!? :)
     
  8. ClfEgg

    ClfEgg Mầm non

    Topic hay quá, cám ơn chủ topic nhiều.
     
    hoi_ls thích bài này.
  9. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    Kẻ giết người với bộ chân phủ lông

    Tony Maguire

    Cam Burnside là dược sĩ ở Sydney, Úc. Đang ở trong bếp, ông bỗng nghe tiếng thét của đứa con gái tám tháng tuổi. Cam lao vào phòng và thấy một con nhện to bằng quả bóng golf nằm trong lòng bàn tay em bé.


    Ông kêu to, gọi vợ:

    - Wendy, Julia bị nhện cắn này.

    Da của Julia đổi màu đỏ tươi, rồi đứa bé bắt đầu nôn mửa. Khi đến bệnh viện, em thở hổn hển, cơ thể bé nhỏ co giật liên hồi. Tai nạn đến với Julia do một loại nhện nguy hiểm nhất thế giới gây ra, loài Atrax Úc, thuộc họ nhện kềnh. Theo Kefyn Catley, nhà côn trùng học chuyên nghiên cứu về nhện, nọc của nó thuộc loại cực độc. Các móc của nhện kềnh Úc đối khi dài đến 1cm, có thể đâm thủng móng tay chân, rồi tiêm một liều nọc mạnh đến độ giết chết một đứa trẻ trong vòng một giờ, và một người lớn trong vài ngày. Rất hiếu chiến, nó tấn công mọi thứ nó gặp trên đường đi. Sau khi bị cắn vài phút, nạn nhân nôn mửa, co giật, chảy nước bọt và vã mồ hôi. Lưỡi co lại, khó thở, huyết áp tăng nhanh. May thay, loại nhện này chỉ có ở miền đông nước Úc, nhưng vùng này lại là vùng đông dân nhất.

    Sau hai giờ họp, kỹ sư Peter Melville bỗng cảm thấy đau nhói ở một ngón chân. Ông tháo giày và phát hiện một con nhện đen to lớn. Được chuyển ngay đến bệnh viện Sydney chữa trị, Melville chỉ rời bệnh viện sau bảy giờ. Con nhện này thuộc loại Atrax robustus, một trong những loài đáng sợ nhất trong 37 loại nhện kềnh Úc đã được thống kê. May mắn thay, nó đã trút sự giận dữ - và cả phần nọc nhiều nhất - sang chiếc giày của người kỹ sư trước khi cắn ngón chân.


    Mike Gray là một nhà sinh học ở Viện bảo tàng Úc, đã nhiều năm nghiên cứu nhện kềnh. Nơi khu rừng nhiệt đới ở miền bắc Sydney, tôi cùng đi với Gray để tìm loại nhện nguy hiểm này. Thình lình, Gray dừng lại, nhấc một khúc cây ngay mũi giày của ông:

    - Xin giới thiệu với anh nhện kềnh Úc. Đó là một quái vật chân phủ lông, bụng tròn màu hạt dẻ, to như trái anh đào, đầu và ngực màu đen. Kéo thắng ra, chân nó dài 7cm. Con nhện tựa trên chân sau, chồm lên. Tôi lùi lại một bước.

    Mike Gray cười:

    - Đừng sợ. Nó không nhảy đâu.

    Phía dưới mắt ló ra một cặp móc đen, đầy vẻ đe dọa, dài cỡ cây đinh mũ. Nó cắm móc nhiều lần vào một cành nhỏ do Gray giơ ra. Hai lằn nọc lấp lánh trên gỗ. Con vật phóng nhanh về hang, một ống tơ trắng mà lối vào có dạng như cái phễu.

    Atrax robustus cũng có một kẻ thân cận ghê gớm không kém sống trên cây. Khi vạch lối qua một lùm cây, tay tôi tựa trên một cành. Gray khuyên:

    - Nếu là anh, tôi sẽ không làm như vậy đâu.

    Và ông chỉ lên thân cây. Nhìn lên, tôi không thấy gì khác lạ. Thình lình tôi nhận ra một màng nhện rộng bằng bàn tay giấu sau một mảnh vỏ cây. Gray dùng kẹp gỡ một con bọ hung còn sống vướng vào màng. Tức thì, cái màng rung lên và một đôi chân gấp khúc nhô ra sau một cái khe. Con nhện phóng ra chụp lấy con bọ rồi rút lui ngay. Tôi nghe tiếng răn rắc nho nhỏ.


    Mike Gray giải thích:

    - Nó dùng móc đâm thủng vỏ con bọ đấy.

    Nọc nhện chứa một loại acide biến ruột gan con bọ thành một loại bột nhão để nhện có thể hút được. Do một sự kỳ lạ của thiên nhiên, đa số các con vật lớn lại miễn dịch đối với nọc nhện, trừ hai loài: người và khỉ. Một lượng nọc vô hại đối với một con mèo lại có thể gây chết người, đến nay các nhà khoa học vẫn chưa rõ tại sao. Những nghiên cứu đầu tiên, được thực hiện trong những năm 20, nhằm tìm ra một chất giải độc đã không đạt kết quả. Nọc nhện kênh Úc, ngược với nọc nhện rừng đen, không gây liệt các luồng thần kinh. Nhưng nó lại gây xung động điện quá tải trong bắp thịt, các tuyến và những cơ quan trọng yếu của cơ thể người. Hơn nữa, nọc này lại rất ít tác dụng trên các con vật ở phòng thí nghiệm. Thỏ bị tiêm nọc cũng sản sinh một số kháng thể, nhưng không đủ nhiều để bảo vệ con người. Năm 1967, Struan Sutherland, một bác sĩ trong hải quân Mỹ chuyên về miễn dịch học, nghe kế trường hợp một bé trai bị chết ba giờ sau khi bị nhện Atrax cắn, đã thề sẽ tìm ra thuốc giải độc. Sau những giờ dằng dặc nghiên cứu trong phòng thí nghiệm huyết thanh học ở Melbourne, Sutherland cô lập một thành phần có hoạt tính với nọc, atraxotoxine. Khi khám phá ra những con chuột dễ bị tổn thương vì độc tố này trong những ngày đầu của cuộc sống, ông tiêm cho chuột sơ sinh những liều noc khác nhau trước khi cho chúng dùng huyết thanh trích từ thỏ được miễn dịch. Nhưng qua nhiều tháng, các con chuột này đều chết ngay trong buổi sáng. Trong thời gian ấy, nhện atrax vẫn tiếp tục gây hại. Christine Sturgers đang dọn giường thì bị nhện cắn. Được chuyển gấp đến bệnh viện, cô chìm trong cơn hôn mê trước khi chết. Một năm sau, một nhện kềnh khác cũng gây tử vong cho một đứa bé hai tuổi. Năm 1980, các công trình của Sutherland cuối cùng đã đạt kết quả. Sau khi gây miễn dịch cho thỏ với những liều atraxotoxine rất cao, nhà nghiên cứu nhận thấy huyết thanh trích từ con vật rất giàu kháng thể, làm chậm cái chết của một nhóm chuột bị nhiễm độc, chứng chỉ chết vào lúc cuối ngày. Ông viết trong nhật ký: “Phải chăng đã có chút hy vọng?”. Khi dùng một chất miễn dịch vừa khám phá, protéine A - Sépharose, Struan Sutherland hiệu chỉnh một huyết thanh chống nọc mới đặc biệt giàu kháng thể. ông hồi hộp tiêm chất độc và kháng thể cho tám con chuột mới sinh. Tất cả những con vật này đều sống sót. Rồi ông lại tiêm nọc cho một con khỉ, và cho nó dùng chất giải độc vài giờ sau, lúc con vật đang hấp hối. Chiều ấy, khi Sutherland rời phòng thí nghiệm, chú khỉ đang nhảy nhót trong chuồng. Ông tự nhủ: “Mình đã thành công”. Chỉ còn việc tìm hiểu xem huyết thanh này có hiệu lực với con người không. Các chuyên viên chấp nhận thử nghiệm nó cho những bệnh nhân không còn hy vọng sống.

    Cơ hội không phải chờ lâu. Một chiều tháng 1/1981, Gordon Wheatley, 49 tuổi, đang ngồi nghỉ trong phòng khách thì bị một nhện kềnh cắn ngón chân. Ông được đưa đến bệnh viện trong tình trạng nguy kịch. Vợ của Wheatley thuận cho bác sĩ Malcolm Fisher thử chất giải độc mới. Không kết quả. Thất vọng, Fisher điện thoại cho Sutherland. Ông này đề nghị:

    - Cho ông ấy thêm một liều nữa.

    Fisher tiêm lần nữa, sau vài phút. Rồi ông kêu lên:

    - Suôn sẻ rồi.

    Trong vòng một giờ, huyết áp và nhịp tim của nạn nhân đã trở lại bình thường. Sự hồi phục của Gordon Wheatley đã mở đầu cho một chương trình chế tạo huyết thanh ở miền đông Úc. 300 nhện con Atraxrobustus được nhốt trong những chai thủy tinh ở Reptile Park tại Gosford. Mỗi tuần một lần, Lyn Abra, người coi sóc chúng, lại “làm việc” với chúng. Lyn mở nắp lọ và dùng kẹp đẩy nhện. Nhện chồm lên và ở đầu móc, một giọt nọc tiết ra. Lyn gắn một ống thủy tinh nhỏ, nối với một bơm chân không, vào móc trái con vật và hút nọc. Con nhện cắn ống, người ta nghe tiếng móc cọ vào thủy tinh. Điềm tĩnh và khéo léo, Lyn trích nọc từ móc còn lại. Nọc được trữ trong tuyết carbonic và được gửi bằng máy bay đến một phòng thí nghiệm. Ở đây, nọc được tiêm cho thỏ để thu hoạch huyết thanh kháng nọc phân phối cho các bệnh viện. Trong chín năm, trước khi xảy ra tai nạn cho bé Julia Burnside, hàng chục nạn nhân của nhện kềnh đã được cứu sống nhờ huyết thanh này. Tuy vậy, các bác sĩ vẫn chưa biết nên dùng một lượng huyết thanh bao nhiêu để cơ thể một em bé cùng độ tuổi với Julia có thể chịu đựng được.


    Tại khoa cấp cứu bệnh viện Hornsby, vào buổi sáng tháng 2/1990, Julia nằm bất tỉnh. Một giờ đã trôi qua kể từ lúc gia đình Burnside khám phá con nhện trong bàn tay con gái họ. Ngồi ở đầu giường Julia, Wendy nghe tiếng máy hô hấp nhân tạo. Bác sĩ Garry Browne đã cho Julia dùng nhiều liều huyết thanh nhưng không kết quả. Đứa bé có thể chịu được bao nhiêu liều? Huyết áp Julia đang tăng một cách nguy hiểm. Bác sĩ quyết định cho thêm một liều nữa. Vài phút sau, đang lo âu nhìn huyết áp kế, gương mặt ông sáng lên vì một nụ cười: - Huyết áp đã hạ.

    Chiều ấy, Julia mở mắt và đưa tay về phía cha mẹ. Wendy vui và xúc động, nước mắt chảy dài trên má.

    Một tuần sau, Wendy điện thoại cho Struan Sutherland:

    - Không có ông, hẳn Julia sẽ không còn trên cõi đời này. Cám ơn ông đã cứu con gái chúng tôi.


    Con nhện nguy hiểm nhất thế giới đã bị khuất phục.


    KIM NGA (Theo Sélection 6/94)

    KTNN (#143-15/07/1994)
     
    Chỉnh sửa cuối: 1/12/23
  10. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    ĐỨA CON ĐỘC

    Truyện ngắn của Trịnh Báu


    Uốn cây thời uốn lúc non
    (Tục ngữ)


    Giời trở gió. Ngoài kia, hình như có đám quỉ sứ đùa nghịch thoắt trong làng, thoắt ngoài đồng. Cái mâm thau nhà nào bị gió đánh đổ kêu đánh choe... oeng, giẫy đành đạch rền rĩ. Tiếng chó cắn hóng phía đầu làng. Cành mít đập loạt xoạt lên mái ngói phía đầu hồi nhà. Cái cành mít chết tiệt này. Nó làm cho lão mất ngủ. Dưới nhà ngang, mẹ con nhà Điền chưa ngủ. Thằng bé con bi bô nói chuyện với mẹ. Đêm hôm mà thằng bé cứ oang oang. Mẹ nó dọa:

    - Cu...! U bảo có be bé mồm đi không! Để cụ Chánh còn ngủ. Cụ dậy bây giờ cụ đuổi đấy!

    - Cụ đuổi nhà cu đi đâu hở?

    - Cụ đuổi cả nhà ta ra khỏi làng.

    Thằng bé im thin thít. Lão lật chăn trở dậy. Vớ chiếc áo bông treo trên mắc áo, lão khoác lên người, rờ rẫm đến phía bộ tràng kỷ. Lão khêu cao tim đèn, cầm se điếu vuốt vuốt, kéo thuốc tạch... tạch. Ánh lửa đóm bập bùng, khói um lên. Năm gian nhà quạnh quẽ quá. Giá như bà ấy còn sống, tiếng đằng hắng của bà lão sẽ khiến lão đỡ cô độc. Lão sẽ lấy trịch của mình mà trút hết sầu não lên bà ấy : “Giời ơi! Các cụ nói có bỏ đi câu nào! Con hư tại mẹ... Bà chiều nó lắm để bây giờ đến nông nỗi này!”.

    Bên ngoài, đám quỷ sứ vẫn hun hút nghịch ngợm. Thoắt ẩn, thoắt hiện. Căn nhà lạnh lẽo, im như tờ. Trên xà nhà, tiếng con thạch sùng chép miệng “tiếc, tiếc”. Cô quạnh đến thối cả ruột gan. Giời ạ! Giời bắt tội đến thế là cùng. Lão ngồi thu lu trên tràng kỷ, im như tượng; chẳng buồn đánh thức vợ chồng nhà tá điền dưới nhà ngang dậy đốt lò pha trà. Lão với lấy nậm rượu trong tủ chè toan rót rượu uống. Nhưng...! Rượu ơi! Gái đẹp ơi! Đám giặc này đã hại biết bao nhiêu người từ cổ chí kim rồi. Gương tày liếp đấy! Mà sao từ đấng quân vương đến thằng bố đĩ không thoát nổi nhỉ? Lão làm chánh tổng tuy ít học nhưng lão cũng hiểu anh hùng Từ Hải nghênh ngang một cõi là thế mà chịu chết đứng, không nhắm mắt vì cô Kiều lầu xanh. Cụ Lí Bạch tài hoa thơ phú, thế mà rượu vào khật khưỡng, nhảy xuống nước toan vớt chị Hằng để rồi chết chìm. Còn mấy thằng bố đĩ, cho nó ăn uống, khiến mấy ả thợ cấy cặp kè với chúng; rồi sai lao vào lửa chúng nó cũng không quản. Ấy là tháng trước lão lên chùa Hà, sư cụ dạy thế. Sư cụ đọc câu kệ: “A di đà Phật! Của thiền vô biên, sắc sắc không không. Chúng sinh trầm luân trong vòng tham sân si! Sám hối! Sám hối”.

    Lão lẳng nậm rượu vỡ đánh choang. Rượu lênh láng nền nhà, men bốc nồng nồng. Thôi chết! Lão tiếc rẻ, chợt nhớ rằng đó là nậm rượu của ông nội lão có chữ “nội phủ” rành rành dưới trôn. Bố lão kể lại: Năm ấy cụ nhà ta có công, được Đức vua đặc ân ban thưởng ngự tửu. Nhờ cái nậm rượu đặc ân, nhà lão cha truyền con nối làm chánh tổng ở phủ Vĩnh này. Lão tiếc rẻ...

    Dưới nhà ngang, thằng cu con ngủ mê, mếu máo “Cụ ơi! Cự đùng đuổi nhà cháu”. Mẹ nó nựng con trong hơi ngái ngủ “Ngủ đi! ngủ ngoan! cụ thương rồi! thương rồi!” Bố nó càu nhàu trong cơn ngủ mệt ú ớ câu gì không rõ.

    Lão cảm thấy mình vô nghĩa, trơ trẽn giữa vắng lặng trong đêm gió rét này; của đệm lông chim, chăn bông, sập gụ, tủ chè, hoành phi, câu đối, giữa dinh cơ ba đời chánh tổng này. Hai chữ đại tự “Vạn phúc” trên hoành phi cùng đôi câu đối “Phúc lộc lai thành” - “Tử tôn kế nghiệp” như trêu ngươi lão. Lão trân trân ngước lên bàn thờ. Những tấm nhiễu màu điều phủ các bài vị tím bầm màu máu đọng, hương khói lạnh ngắt ngơ.

    Lão vuốt vuốt se điếu, kéo hơi thuốc tành tạch, phả khói mơ... mơ.

    Lão rầu rầu nhìn khắp căn nhà. Ngậm ngùi… Năm gian nhà gỗ lim ngày nào lên nước sẫm bóng, nhộn nhịp kẻ hầu hạ bây giờ đang xỉn mốc. Vài tổ tò vò lốm đốm bậu trên ngạch cửa. Căn nhà vắng lặng hắt hiu. Vắng cả tiếng bi bô của thằng bé con nhà Điền “Cụ ôi! Cụ ôi!”. Lão tần ngần nhìn lại vệt mồ hôi láng bóng, hằn một góc tràng kỷ. Lão lên tuần nhang thỉnh các cụ cao tằng tổ tỉ và vợ lão, lầm rầm khấn vái. Kéo xong một hơi thuốc lào lão lẩm nhẩm bấm đốt ngón tay... ngày ấy đến giờ đã 18 năm!

    - “Con lạy thầy! Con khấu đầu tạ tội với thầy! Có cả cụ Chánh đây! Dưỡng bất giáo, phụ chi quá. Thầy dạy con cặn kẽ nhưng con không dạy được thằng con con... ở nhà nó là thằng bất hiếu, bất mục, ra ngoài thiên hạ nó thành đứa bất nghĩa, bất nhân mất thôi! Tội của con... tội của con...”, ông khách nhà cụ đồ Học nói đến đấy mếu máo, hai tay vả vào mặt mình, đôi mắt nhăn nheo ầng ậng nước, búi tóc muối tiêu xổ tung.

    Cụ đồ Học nhiu nhíu đôi mày, vuốt vuốt chòm râu ngũ chòm trắng như tuyết lựa lời an ủi ông khách nhưng không quên dạy bảo cho người học trò già chữ “đạo”, chữ “gia”. Lão ngồi nghe cụ đồ dạy trò thấy như vận vào mình... Nghĩ đến đấy lão thấy ớn lạnh sống lưng. Lão quyết ra đi tìm nó!

    ***

    Qua khỏi phố phủ Phù Lỗ thì đã quá ngọ, lão định bụng đến chợ Chờ thì nghỉ lại. Cứ chiếc đòn ống gồng đôi quang sọt lão thủng thẳng đi; cất tiếng rao già nua khàn khàn: “Ai cắt tỉa uốn cây cảnh ơ...! Ai cắt tỉa uốn cây cảnh ơ...!”.

    Đến chợ Chờ, vừa giở mo cơm nắm ra trệu trạo được vài miếng, lão chợt ngừng nhai, dỏng tai nghe chuyện của mấy ông lái trâu. Họ kháo nhau về tân quan phủ Từ. “Quan trẻ lắm mà đã đỗ đạt. Nghe đâu là con nuôi nhà hàng cơm phố Nỉ. Má trái quan có vết sẹo dọc, đuôi mắt phải quan có vết chàm như con rết đen xì. Tướng ấy...”

    Lão bồn chồn tăm nước qua loa, nhai miếng trầu hỏi đường đi ngang tới phủ Từ. Ngồi trên thuyền qua bến đò Lo, mưa phùn giăng mành mờ mờ, vẳng tiếng chuông thu không phía Xuân Lai, mé Lủ vọng lại buồn bã. Người ta đang nói chuyện lá giong, gạo nếp, đỗ xanh, kháp đậu thịt lợn, chuyện lo tiền biếu thầy đồ về quê... Sắp hết tháng chạp rồi! Tết đến nơi!

    Đêm ấy, lão trọ lại chợ Núi. Câu chuyện của cánh lái trâu ở chợ Chờ cứ ám ảnh lão. Con nuôi... vết sẹo... vệt chàm... còn trẻ... cứ ám ảnh lão. Có phải thằng Quý nhà lão không nhỉ? Đẻ nó ra đỏ hon hỏn đã có vệt chàm ấy rồi. Bà mụ gắn vào đấy hay là quên không xóa đi cho nó. Thôi có xấu một tí nhưng ba đời nhà lão độc đinh rồi, tưởng là tuyệt tự. May mà ông giời còn thương cho họ nhà lão. Năm nó lên bảy tuổi, nhà có con trâu cà, nó cứ khăng khăng đòi cưỡi. Con trâu cà đánh sừng, thằng Quý hút chết, mang thêm vết sẹo dọc má. Có phải nó đấy không nhỉ? Ôi dào! Thiên hạ thiếu gì nguời giống nhau... Nhưng người còn trẻ... con nuôi. Năm ấy nó bỏ chạy! Lão chập chờn, dằn vặt, đoán non đoán già.

    Lão trở mình trên chiếc giường cọt kẹt, lòng nặng trĩu. Thế là đã mấy tết rồi đi tìm con. Một tết nằm co ro trên Bắc Mục - Hà Giang nghe pháo nổ đì dẹt mà ứa nước mắt. Một tết lênh đênh ngoài cửa Vân Đồn: sóng và gió, và những tấm buồm bạc thếch vá chằng vá đụp. Một tết nằm bên kia bờ sông Lệ nghe mô tê răng rứa, nghĩ thân già đày ải nắng sương, gà gáy canh ba, lão thiếp đi.

    Lão gặp thằng con lão. Cha con mừng mừng tủi tủi hàn huyên. Nó quỳ sụp xuống chân lão tạ tội.

    Lão thấy nó câng câng nhìn lão, mặt phớt lạnh, phe phẩy tay quạt đi vào nhà trong. Lão uất tận cổ, xấn xổ chạy vào toan giáng cho mấy cái tát, rồi kể tội nó cho người ta rõ. Hai người lính lệ giữ chặt lấy lão. Lão giẫy giụa cố hét thật to.

    Hai bác phó mộc giường bên cạnh lay lay người lão. Lão thở dốc, vã mồ hôi.

    ***

    Quan phủ Từ nhấm nháp chén trà, đi đi lại lại ngắm chậu trúc quý. Chậu trúc sử quân tử thật lạ, thật đẹp, hẳn đẹp lòng quan án. Hai chú lính phải lặn lội cả tháng trời đi châu Thanh Sơn mới kiếm được về. Chỉ có hai cây trúc với mấy đọt măng trong chiếc chậu đá hoa cương hồng ngọc mà bao ý vị. Quan gật gù mãn nguyện. Cây cái cao hơn thước, dáng cứng cáp tuy hoi cong cong một tí, da trúc lổ đổ đốm rêu. Mấy nhánh trúc đậm ngang thế “hoành”, gân guốc có ý như chào đón, có ý như khoe khoang về cây trúc con mập mạp, rắn rỏi cùng đám măng mầm chen chúc dưới gốc mơn mởn lông nhung. Cả chậu trúc là cảnh đoàn viên phúc lộc đề đa của ba đời trong một nhà. Hẳn là quan án vui lắm khi chậu trúc cảnh này được đặt trong tư dinh của ngài dịp tết này. “Ở đời là thế! - Quan phủ ngẫm nghĩ - Không có gì hay bằng đón được ý, làm đẹp được lòng quan trên. Muốn chỗ mình ngồi cho chắc, muốn được thăng quan tiến chức phải biết kín trên, bền dưới. Dại gì vướng vào những chuyện đâu đâu...”

    Quan phủ khoan khoái chiêu ngụm trà, tận hưởng dư vị chan chát, ngọt ngào, ngan ngát hương sen. Chợt quan chau mày. Cái cành thứ ba của cây nhỏ này cong queo, vặn vẹo như cánh tay ngỗ ngược có ý bất phục vít lên ngọn cây cái. Phải sửa lại, phải uốn lại kẻo mấy kẻ rỗi hơi, tán hươu, tán vượn, thêm thêm bớt bớt; quan án nổi cáu lên thì không có chỗ mà chui. Quan đưa ngón trỏ vuốt vuốt vết sẹo dọc má, cau cau suy nghĩ lung lắm. Nếu sơ sểnh gì khó lòng mà đỡ được bởi địa vị thấp hèn của người cha nuôi hàng cơm phố Nỉ. Quan lại nhớ về dòng dõi ba đời chánh tổng của nhà mình. Năm ấy, mình mới hơn chục tuổi đầu. Trong lòng ngài chợt ứa ngập nỗi bẽ bàng xót xa “Ai uốn tỉa cây cảnh ơ..., ai uốn tỉa cây cảnh ơ...”. Tiếng rao khàn khàn già nua phía ngoài cổng phủ đường lọt vào tai ngài.

    ***

    Ông lão loay hoay bên chậu trúc cảnh, trong lòng như có lửa đốt. Có phải nó! Thằng Quý chết băm chết vằm đấy không nhĩ? Ôi! Con ta! Lỗi này tại cha nuông chiều quá mức. Nuôi mà không dạy dỗ tử tế.

    Quan phủ chợt tái mặt khi gặp ông lão uốn cây khép nép trong phủ đường. Quan lui vào nhà trong kín đáo theo dõi ông lão. Lòng quan ngổn ngang nghi hoặc.

    Cái thằng Quý con cầu tự đấy ư? - Ký ức già nua của tuổi ngoại thất thập đưa lão về cảnh nhà năm xưa. Bởi hiếm hoi sợ tuyệt tự nên giời cho bắt được mụn con, cả nhà quý nó hơn vàng. Nó đòi gì, muốn gì được nấy. Đi ăn cỗ ở đâu lão cũng cho nó cưỡi con ngưa tháu đi theo. Ngồi vào mâm cùng bố, nó chọn những miếng ngon cắm cổ ăn, ăn chán nó bới đĩa xào, nó khoắng bát canh. Tệ nhất bữa nó đổ nước mắm vào chén rượu của ký Chức, trùm Kết. Người ta sợ uy chánh tổng chẳng nói ra nhưng lần sau họ kiếm cớ đau bụng nhức đầu, lảng hết. Chẳng ai ngồi ăn cùng lão. Lão nhớ rành rành chiều hôm ấy lão bỏ nó ở nhà đi ăn cỗ đám khao thọ bên làng Chùa. Vừa khật khưỡng về đến nhà, vợ lão mặt tái xanh lắp bắp giục lão đi trốn kẻo thằng Quý đang vác dao đi tìm bố, nó nói: “Không cho ông đi ăn cỗ à, về, ông... ông chém, ông chém”. Lão lẳng lặng đẵn cây chuối đặt lên giường, chiếng bong bóng trâu óc ách phẩm hoa hiên, tấm chăn phủ lên trên, đôi guốc xoan dưới chân giường. Trong nhá nhem tranh tối tranh sáng, nó ở đâu hùng hổ chạy vào tay lăm lăm con dao rựa. “Không cho ông đi ăn cỗ này... không cho ông đi ăn cỗ... này...” Mấy nhát dao vung lên liên tiếp, cây chuối đứt, chăn nát, phẩm đỏ lênh láng... Nó bỏ chạy. Bây giờ nó đây à...

    Lão do dự... rồi lão mắm môi mắm lợi bẻ gãy gập cành trúc đang uốn dở. Quan phủ hốt hoảng chạy ra rít lên: “Sao lão làm ăn thế này...! Thế này!”. Lão ra vẻ lập cập nhưng nói rành rẽ:

    - Bẩm quan lớn! Tội của lão già... Nhưng cái cây ví như đứa trẻ... Bẩm quan lớn, các cụ dạy: Uốn cây thời uốn lúc non. Dạy con từ thuở... Lão... lão có một đứa con... Lão... lão... ★
     
    meetdak, amylee and hungbc1010 like this.
  11. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    CHUYỆN Ở GÒ THẦN MÃ

    Truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên

    Đêm âm u. Một chuỗi sao trên trời bỗng dưng loé sáng rồi rơi xuống gò Thần Mã khi cánh rừng có tiếng ngựa hí vang rền một góc trời. Rồi thì tất cả lại trôi về im lặng của đêm. Sự biến kia chẳng có gì ghê gớm cả. Nó chỉ làm cho một vài kẻ tỉnh ngủ nhất trong làng Đông Hạ trở mình, rồi ngủ tiếp...

    Lão Tạ có giọng cười như ngựa hí. Ngày xưa, thuở còn nhỏ, vì cái giọng cười ấy mà lão bị mọi người ghê tởm, khinh miệt. Họ bảo đó là giọng cười súc vật, giọng cười đốt làng, giọng cười chẳng làm nên trò trống gì. Nên đời lão ít cười. Khóc cười là thứ quẩn quanh cái kiếp con người ta. Thì thế, khi nụ cười nham nhở quá thì nước mắt cứ phải chiếm phần ưu thế. Chuyện thục hư thế nào không biết, nhưng có kẻ trong làng Đông Hạ bảo rằng, đời lão Tạ ấy mà, nước mắt thôi cũng đủ để cuốn trôi cả cái xác thân phàm trần kia. Nhưng thêu dệt huyền thoại không thuộc về quyền sở hữu một ai. Một khi những câu chuyện mà chúng ta kể hôm nay, về sự tồn tại của chúng ta đều nhờ nhờ, mông lung một lớp sương mù huyễn hoặc...

    Lão Tạ là người không biết mình có gốc gác từ đâu. Đêm ba mươi tết, thì có tiếng khóc xé rào bên gò Thần Mã. Thoạt nghe, người ta nghĩ đó là tiếng rên rỉ của đôi ngựa vào mùa ái ân. Nhưng không. Chả có đôi ngựa nào làm cái việc ấy trong một đêm tối tăm u uyên thế này. Và cũng chẳng có đôi ngựa nào làm cái việc ấy vào một địa điểm được coi là linh thiêng đến vậy. Ngày thường, ngựa trong làng Đông Hạ thì nhiều đấy, mà chớ có con nào dám tới gò miễu Thần Mã. Loài ngựa cũng có linh hồn? Người ta đặt ra câu hỏi ấy, rồi thôi. Còn nhiều chuyện để nhớ, để làm... Trả lời câu hỏi ấy là chuyện của các nhà thông thái. Mà người thông thái nhất cái làng này chỉ có cậu Bá Tuệ, con của ông Bá Trí. Cậu có bộ mặt ngựa, mà nhìn kỹ thì mới giống mặt ngựa, chứ mới thoáng qua thì vẫn mặt người, dù đó là bộ mặt không được tuấn tú cho lắm. Lạ thay, tiếng khóc trẻ con trong đêm ba mươi tết ấy lại làm cho cậu Bá giật mình, nôn nao bất an. Lúc cả nhà đang quây quần vớt bánh tét thì cậu trốn ra gò Thần Mã. Cậu đứng nép sau góc cây bằng lăng sần sùi ló mắt qua cánh cửa vỡ, thấy có ba đóm nhang đang phục cháy trên chiếc lư đất sét. Gò Thần Mã vắng lặng và lạnh lẽo... Lòng cậu chợt rợn lên nỗi sợ hãi khó tả. Cậu rón rén bước vào, thấy dưới gò đất có vật gì cựa quậy. Trẻ con? Một ý nghĩ loé lên trong đầu làm cho cậu sợ hãi, bồn chồn... Một tia sét cắc cớ loé lên phía trời tây kéo theo những tiếng rì rầm âm ỉ. Tia sét nhoáng đủ để cậu thấy đó là tiếng khóc từ hình hài một đứa bé đang bị kiến vùi.

    Đứa bé được cậu đặt tên là Tạ. Nó cứ thế lớn lên. Cứ thế hồn nhiên như chẳng có gì phải bận tâm. Chỉ có đôi mắt của nó, nhìn kỹ, ẩn chứa một khối sầu vô hạn. Lại nói về cái đêm ba mươi ấy, sau khi bế thằng bé về nhà, cậu Bá bị cả nhà phản đối. Đó là cái việc làm bao đồng. Cậu bế đứa bé chạy ra khỏi nhà ngay trong đêm ba mươi. Và điều đó đủ sức thuyết phục, làm cho ông đồ Bá Trì phải đuổi theo níu áo con.

    Sáng mùng một Tết, người ta phát hiện ngoài giếng làng có một cái xác người chết ươn. Đó là một cô gái tìm cái chết bằng cách đâm đầu xuống lòng giếng. Dư luận trong làng Đông Hạ ba tháng trời xôn xao bàn tán nhưng đố ai biết vì sao cô gái ấy lại đi tìm cái chết như thế. Cậu Tuệ thì lơ mơ hiểu ra khi ghép hai sự kiện đứa bé bị bỏ rơi ở gò Thần Mã với xác chết của người phụ nữ tội nghiệp ở giếng làng thì thấy khá gần nhau. Có lẽ cô ta bị bỏ rơi?

    Có lẽ có thằng đàn ông nào đó đã cuỗm mất đi đời con gái của cô và quất ngựa truy phong? Dù sao, đó cũng chỉ là suy đoán, mà suy đoán thì có khi bắt đầu từ những thói quen rất hàm hồ trong tư tưởng con người ta.

    Ba tháng trời, người dân Đông Hạ không xài nước giếng làng. Nhưng rồi khi những tiếng bàn tán xôn xao cũng ngớt đi thì con người ta dần quên đi sự cố tai hại ấy. Lũ thanh niên trong xóm lại ra sức vét lại đáy giếng cải thiện nguồn nước. Trong số những thanh niên tham gia công việc ấy, có cậu Bá Tuệ. Điều làm cậu ngạc nhiên đó là đáy giếng khi vét lên, thấy có lẫn nhiều thứ lấm tấm lớp sỏi đỏ như huyết. Moi hết lớp sỏi ấy thì có một mạch nước to như lòng bàn tay mải miết phun ra. Nước giếng từ đó ngọt và thơm một mùi thơm lạ lùng... Điều đó chỉ có cậu nhận ra chứ ở làng chẳng có ai lại đi quan tâm đến chuyện hoa lá cành như thế.

    Thằng Tạ lên mười thì cậu lấy vợ. Cậu lấy cô Soa, con ông giáo Trưởng ở cuối làng. Chả là hai gia đình đã có mối thâm giao sắp đặt. Vả lại, trai ba lăm chưa vợ cứ phải “ngã đâu là giường” là tốt nhất. Nói thế chứ cô Soa là “cái giường” êm cho đời cậu. Đó là cô gái dịu dàng và phúc hậu nhất làng này.

    Thế mà một sự kiện làm cho ca cái làng Đông Hạ lại có dịp xôn xao cả lên. Trong đêm tân hôn, phải bùa cái dịu dàng và tươi non hôi hổi của cô vợ đương xuân, cậu Bá nhà ta đã quá chén ái ân. Tội nghiệp, cậu lả đi như chiếc lá bị lửa hun. Cái thân xác trần truồng ấy rũ xuống trong sự hốt hoản của cô dâu mới cũng đang trong tư thế hứng tình, không mảnh vải che thân.

    Sự vui hoá sự buồn trong chốc lát. Đêm ấy, lũ thiêu thân bay vào nhà Bá Trí như một tổ ong vỡ. Người ta bảo, hồn cậu Bá hoá kiếp thành đàn thiêu thân... Cái loài mê say thứ ánh sáng hào nhoáng nhất đến nỗi quên cả sự tồn tại của mình! Cái loài ảo tưởng muốn thắp mình thành ngọn lửa loé lên trong chốc lát để nhận lấy cái án chết thiên thu.

    Sau độ ấy, giữa gia đình Bá Trí và Bá Trưởng có chuyện bất hoà. Chả là cô Soa mất chồng rồi không muốn vò võ ngày qua tháng lại, mà đòi đi về nhà mẹ ruột ở. Bá Trí xót xa cho sự hẩm hiu của linh hồn đứa con trai mình, còn Bá Trưởng lại buồn bã cho cái đời con gái mình mồ côi mồ cút chồng con.

    Một đêm tháng chạp, trời rét như cắt. Tự dưng cô Soa thấy đau bụng. Cô quằn quại đau đớn, vã mồi hôi mồ kê... Quả thực, bấy lâu nay cái bụng của cô có cái gì đó bất an, như một thực thể mới đang tượng hình quẫy đạp. Nhưng không phải là cái thai. Vì ai đời có thai mà bụng không ềnh ra. Vả lại, đã hai năm trời mà bụng dạ cứ sôi sục không chịu sinh nở... Bây giờ cô cảm thấy đau đòi đoạn. Cô khóc rên thảm thiết. Đúng giờ ngọ, trong cơn đau đớn tột cùng, cô Soa lả đi. Và từ cửa mình, một hài nhi trồi ra trước sự kinh hãi của nhiều người. Không phải là người. Không phải là ngựa. Mà là người mặt ngựa. Thực thể ấy chỉ hí lên ba tiếng rồi từ giã cõi đời. Cô Soa khi tỉnh dậy thấy đứa con của mình thì bất tỉnh nhân sự ba ngày ba đêm mới mở mắt ra đòi ăn. Lúc tỉnh lại thì mọi sự dã được nhà chồng lo xong xuôi. Cái thực thể quái dị chết yểu kia đuợc thầy tướng mách bảo là phải chôn cất ở gò Thần Mã và năng thắp nhang cúng vái để Thần Mã khỏi bắt tội. “Thế gia đình tôi nào có tội tình gì?” - Lão Bá Trí sốt ruột hỏi. “Có đấy - Tay thầy tướng vuốt chòm râu bạc nói - Có đấy... cậu nhà ta đã cướp con của Thần Mã, nên Thần Mã báo thù!”. Lúc bấy giờ, phía sau bức màn kín, cô Soa nằm nghe đầu đuôi câu chuyện, nhưng lạ thay, không nhớ một điều gì. Trong đầu óc cô, mọi thứ đều mông lung đến nỗi cô nghĩ mình đang lạc vào một thế giới xa xôi mơ hồ nào đó. Cô quên hết mọi chuyện đã xảy ra với mình. Và thần sắc cô đang được phục hồi. Cô đẹp như một nàng tiên giáng thế. Một vẻ đẹp trinh khiết lẫn hoang dại.

    Từ đấy, nghe đâu cô sống vậy, an tâm thờ chồng. Tuy nhuận sắc đến mây mẩy nhưng vẻ đẹp khác lạ ấy khiến trai làng không ai dám đến gần.

    Năm cậu Bá Tuệ mất đi, thì người ta cũng không thấy bóng dáng thằng bé Tạ ở cái làng Đông Hạ này nữa. Bẵng đi chừng vào chục năm gì đó, người nhà chỉ còn sót lại mỗi mình cô Soa. Cô cũng đã đi đến cái thời tươi đẹp lần thứ hai trong đời người phụ nữ: thời kỳ hồi xuân. Một mình một nhà. Cô quạnh và bơ vơ quá. Nỗi thèm khát rất đàn bà dậy lên trong cô. Có đêm, cô ôm ảnh cậu Bá ngủ mê mệt.

    Thế rồi bỗng dưng trong nhà lại xuất hiện một chàng thanh niên lạ lẫm. Chàng thanh niên có giọng cười như ngựa hí. Nhưng chàng ít cười. Khuôn mặt rất đẹp trai tuấn tú của y khiến người ta lo ngại, bởi nó luôn toát lên vẻ gì đó ẩn ức và hoang dã.

    - Tôi về nhà thắp hương cho cha nuôi và ông bà...

    - Thế... thế ra cậu là... là cậu Tạ à?... - Giọng cô Soa run run.

    - Tạ! Còn bà là Soa?

    - Vâng!

    - Nhà vắng quá nhỉ?

    - Vâng... Nhưng bao nhiêu năm nay cậu làm gì, ở đâu?

    - Tôi làm kẻ thất tình, tha phương cầu thực. Tôi làm kiếp trâu ngựa cho số phận sai khiến... Tôi yêu và đau. Tôi có và không. Tôi về tay trắng...

    - Tôi không hiểu?... - Cô Soa lơ mơ nói.

    Và câu chuyện cuộc đời Tạ trong đêm ấy được tiếp tục tái hiện. Khi cô Soa lấy chổi quét lũ thiêu thân chết rơi đầy mặt bàn và tiện thể thổi tắt ngọn đèn...

    ... Cậu Tạ ra đi. Qua khỏi cái giếng làng năm ấy thì gặp một cô gái nhỏ hơn mình một tuổi cùng qua sông. Trong tâm hồn mộng mơ của đứa bé mười tuổi bấy giờ đã thấy chơm chớm nỗi cảm mến, yêu thương.

    - Bạn đi đâu? - Cô bé hỏi.

    - Tôi đi... đi đâu không biết. Còn bạn?

    - Tôi đi về nhà, nhà bên kia sông!

    - Bạn có nhà à?

    - Có! Ai mà chẳng có nhà, có cha, cỏ mẹ. Bạn nói hay thật! Kẻ không có nhà là kẻ bụi đời, cù bơ cù bất.

    Cậu bé Tạ lặng im. Nó nghe lòng mình đang khóc vì một nỗi tự ái xộc vào trái tim ngay đoạn đường đầu đời. Lần ấy qua sông. Nó theo cô bé đến một làng mạc xa lạ. Nơi ấy có nhiều lão trọc phú, nhiều bà chủ đanh đá và nhiều ruộng vườn xanh tươi. Nó xin làm thuê cho gia đình lão Tráng, tức gia đình cô bé mà nó gặp trên đường. Nó đi chăn bò. Và ăn ở trong chòi canh với đám gia nhân. Nó lớn lên với đàn bò và với sự tin tưởng của chủ. Chỉ có một điều không đạt được đó là bấy lâu nay nó thầm yêu trộm nhớ cô bé, nhưng bị gia đình chủ cấm đoán ra mặt.

    Mới đó mà anh chàng Tạ đã lên mười tám, cô bé Phượng ngày nào đã nõn nà thiếu nữ. Cô chủ biết tình anh chàng làm thuê, cả hai cứ gặp nhau lại sượng sùng ấp úng. Nhưng rồi tiếng cười những lúc khoái chá không kìm nén được của anh làm cho cô giật thót người. Đó không phải là tiếng cười của con người mà bất hạnh thay, là tiếng ngựa hí. Nhưng rồi dù sao thì ngọn lửa tình đã được nhóm lên trong lòng đôi trẻ. Trong một lần bới cơm lên chòi canh cho người làm, cô Phượng đã buông tấm thân mềm mại, nuột nà vào vòng tay của anh Tạ. Cả hai cùng no say lạc thú yêu đương đầu đời. Họ dìu nhau bay lên rồi chập chờn rơi xuống vũng hiện thực. Khi cơn khoái lạc dục tình nguôi tan thì anh chàng Tạ mới giật mình: Phượng lả đi trong vòng tay anh vì đuối sức.

    Người ta không tìm ra tông tích của đôi trẻ nhưng chỉ nghe người chèo đò ở bên Phú Đôn kể lại rằng vào một buổi nhập nhoạng tối, có một người nam khoẻ mạnh bế một người nữ sang đò. Hỏi đi đâu, người ấy bảo bế vợ sang làng Phù tìm thầy thuốc...

    Từ lần ấy, trên núi Hoằng Khê có một điềm lạ. Đêm đêm, có hai đốm lửa chập chờn bay từ vách núi này sang vách núi khác. Nguời đi rừng bảo ở đó có một vị ẩn sĩ bỏ chốn tục lụy đi tìm cõi định thiền, nhưng tu mãi không đắc đạo lại bị tẩu hoả nhập ma. Nên đêm đêm cứ cắm lửa trên miệng mà leo từ vách núi này sang vách núi khác để khấn vái trên một nấm mộ hoang. Nghe đâu vị ẩn sĩ ấy có tiếng cười không khác gì ngựa hí. Đó chỉ là tin đồn để thêm phần huyền thoại và hấp dẫn cho câu chuyện khá dông dài. Thực ra, sau khi chàng Tạ qua sông, sợ bị truy đuổi nên bế xác người yêu lên núi đào hố chôn cất. Và chàng chọn Hoằng Khê làm nơi neo gửi cái tấm thân trầm luân tục lụy của mình, sống với một ngôi mộ của người tình, cũng là xây cho mình một ngôi mộ của cuộc đời để khóc thương và nghe ngày tháng trôi qua trong mịt mờ nước mắt ăn năn và đau đớn.

    Đứng ở đỉnh Hoằng Khê nhìn về xuôi. Sông Lư vắt ngang trời sương khói. Làng Đông Hạ xa xôi nhỏ bé như một khoảng nhỏ trên lòng bàn tay con người... Ngày tháng miệt mài trôi...

    ... Sự trở về của anh chàng Tạ thật bí ẩn. Đêm ấy, sau cơn truy hoan cùng câu chuyện nồng nàn với người đàn bà luống tuổi, chàng Tạ ra đi. Người đàn bà không biết chàng ta đi đâu. Chỉ biết họ đã chia sẻ cho nhau niềm vui sướng hoan lạc lẫn khổ đau trong cái đêm định mệnh và run rủi ấy.

    Mãi đến vài chục năm sau. Sau khi bà cụ Soa qua đời, người ta thấy có người - một ông cụ còm cõi và râu tóc tua tủa như người rừng - về làng Đông Hạ thắp hương và khóc. Lúc bấy giờ bộ mặt làng đã khác. Ngay cả gò Thần Mã cũng có nhiều nấm mộ hơn được mọc lên. Sau đám tang bà Soa, ngôi nhà Bá Trí xưa bốc cháy một cách tự nhiên. Và dân làng Đông Hạ còn kể lại rằng, đêm ấy, người ta nghe tiếng ngựa hí ở trong lòng miếu. Đó là những tiếng hí tức tưởi và mệt mỏi như con ngựa già chồn chân trên đường rong ruổi.

    Từ đó, đỉnh Hoằng Khê đêm về không còn hai đốm lửa bay qua vách núi, mà thi thoảng thấy một cục lửa tròn to như chiếc thúng cuộn bay lên rồi tan mất trong đêm tối. Dân đốt than kể lại rằng, ở trên ấy còn có nấm mộ hoang cỏ mọc um tùm. Riêng gò Thần Mã làng Đông Hạ, người ta bảo linh lắm. Lấy giếng nước làng mà lên cúng ở gò, thì cầu gì được nấy. Những vợ chồng son sẻ hiếm hoi uống nước giếng cúng ấy thì sinh con dày như cây trái. Những gã đàn ông quá tuổi, không đáp ứng được “vai trò đàn ông” với vợ, uống nước giếng ấy thì chuyện chăn gối lại dập dềnh!

    Nhưng rồi thời gian qua. Sông cạn đá mòn. Bãi bể nương dâu. Trong chuyến khai quật mới đây, đoàn khảo cổ chúng tôi đã tìm ra những mẫu vật quý dưới chân gò Thần Mã: đó là một bộ xương ngựa có niên đại gần bốn trăm năm. Xung quanh đó, còn có ba bộ cốt người: một bộ đàn bà và hai bộ đàn ông. Cả ba nằm gần nhau. Tuy chưa kịp xác minh, nhưng cũng xin thông tin với bạn đọc rằng, trong ba bộ cốt này, có một bộ trẻ nhất có cấu tạo hộp sọ bên trong gần như loài ngựa.

    Đà Lạt, tháng 12/2001
     
  12. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    CHUYỆN KÍN BÊN NÚI VÂN YÊN

    Truyện ngắn của Ngô Văn Phú



    Giai nhân lạc địa ủy kim điền
    (Nhữ Công Chân)


    Đức vua cho rằng cung nhân trong hoàng cung không ai thông tuệ bằng Điểm Bích. Thượng hoàng Anh Tông khi làm thơ, thường gọi nàng đến mài mực, viết xong lại đọc cho nàng nghe. Chữ Điểm Bích cũng đẹp. Có lúc, Thượng hoàng mải nghĩ thơ, sai nàng chép luôn bài thơ cho mình, rồi khi về đến phòng ngủ mới xem lại, sửa chữa rồi chép lại trong tập Thủy Vân tùy bút. Một bữa, cao hứng, làm xong bài thơ Vân Tiêu Am, Anh Tông đọc cho Điểm Bích nghe:

    Am Vân Tiêu

    Vòi vọi núi vươn như lọng hoa
    Bụi trần đâu vướng động tiên sa.
    Đỉnh cao chót vót người nương đạo,
    Gió mát trăng thanh, bạn đó mà...
    Gió mát bốn mùa lay lá biếc,
    Trăng thanh lãng đãng tưởng băng nhòa.
    Trăng đây, gió đấy, người đây nữa,
    Tuyệt diệu càn khôn, xứng cả ba...


    Vua đọc xong hỏi:

    - Điểm Bích thấy thế nào?

    - Thần thiếp cảm thấy Thượng hoàng lại yêu cảnh Thiền hơn triều đình bá quan rồi.

    - Nàng nói thế có ý gì?


    - Nhà Trần ta, đức Thái Tông là một bậc minh quân từng chiến trận ở vùng Tam Đái thấy máu chảy thành sông mới ngăn nổi được vó ngựa của Ngột Lương Hợp Thai. Vậy mà cuối đời Ngài Ngự lại viết Khóa Hư Lục, bàn về thuyết Sắc Thân, tưởng đến chân kinh, văn khí, diệu đế cũng chỉ đến thế. Ngài Điều Ngự Giác Hoàng Nhân Tông từng có câu thơ khắc lên trời xanh: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã. Sơn hà thiên cổ điện kim âu”, vậy mà sau khi đất nước thanh bình lui về Yên Tử say thiền, nghiền ngẫm về chân thân, phép nhiệm mầu của đạo Phật, lập ra Tây phái Trúc Lâm, các vị cao tăng, đại đức, hòa thượng, tỳ khưu, sa môn đều nể trọng. Gần đây, thần thiếp thấy Ngài Ngự thường khuyên nhủ các cung nhân ăn chay, nay được nghe thơ, càng thấy Hoàng thượng lại muốn học theo ý của cha ông thuở trước.

    Anh Tông thở dài:

    - Ta sợ không có cái duyên với đức Phật như các vị tiền bối. Nhưng biết thế nào. Có đứng trước am Vân Tiêu này mới thấy, có gần trời mới hiểu thêm trời, gần gió mới hiểu thêm gió, gần trăng mới hiểu thêm trăng, gần núi suối mới hiểu thêm núi suối. Thế là người có gần vũ trụ mới thấy hết được vẻ đẹp tuyệt vời của vũ trụ. Ta thèm được như thế, mà chắc duyên nợ trần gian cũng còn nặng.

    Ngừng một lát, Anh Tông nói:

    - Nàng có nghe tiếng sư Huyền Quang chưa?

    Điểm Bích thưa:

    - Đó có phải là thiền sư ở chùa Vân Yên?

    Anh Tông gật đầu:

    - Đúng vậy. Người này họ Lý, tên là Đạo Tái, chín tuổi đã biết làm thơ văn, rất thông tuệ, học một biết mười, đương thời coi như Nhan Hồi của Đại Việt. Năm hai mươi tuổi Đạo Tái thi hương, thi hội hai khoa đều đậu cao, nhưng chỉ thích làm học quan, san nhuận kinh sách để ban bố dạy học trò. Sau treo ấn từ quan, muốn xuất gia. Đạo Tái được ban pháp danh Huyền Quang, theo học thiền sư Bảo Phác. Năm ta đến chùa Vĩnh Nghiêm nghe Pháp Loa thuyết pháp, qua chùa Bảo Phác có đem Huyền Quang theo. Lúc này ông ta đang chiêm nghiệm về kinh kệ nên rất ít nói.

    Điểm Bích hỏi:

    - Huyền Quang thi cử chỉ là để cho thiên hạ biết tài học của mình. Thuần nhuần giáo lý đạo Nho mà không theo đường của Mạc Đĩnh Chi, Đoàn Nhữ Hài. Thần thiếp nghe nói, khi tại triều, có tước vương đã yêu quý, định làm mối cho công chúa Liễu Nữ, cháu gái xa An Sinh vương Trần Liễu, ông cũng từ chối. Người thanh cao, phong nhã mà chẳng hề nghĩ đến việc lập tổ uyên ương. Hay là tiền kiếp tu chưa viên thành, nên kiếp này Phật độ, muốn đưa về nương cõi Phật.

    Anh Tông hỏi:

    - Nàng nghĩ việc này thế nào?

    - Thiền, Nho, Lão là ba thứ đạo luôn luôn được những người thức giả đắm đuối học hỏi và đào tìm nghĩa lý. Có lúc say Nho, chê Thiền, chê Lão. Có lúc lại thấy Thiền mới là chỗ để mở lòng đến với cõi người và trả oán trả ân với kiếp sau kiếp trước. Có lúc thì thấy Lão mới thật là hiểu hết nhẽ nhiệm mầu của Tạo Hóa...

    - Nàng khoe chữ nghĩa với ta đó ư?

    - Thần thiếp thật đắc tội, song ý thần thiếp muốn nói Huyền Quang từ Nho chuyển sang Phật, nhưng tâm nào đã hết Nho. Mùi đời lắm lúc cũng quyến rũ lắm.

    Anh Tông, mắt sáng lên, thoáng có một ý nghĩ độc đáo.

    - Ta muốn mượn cửa Phật để thử Huyền Quang. Nàng có giúp ta chăng?

    - Xin Ngài Ngự ban ý chỉ!

    - Nàng hãy đến chùa Vân Yên, thử xem Huyền Quang là một thiền sư hay một văn nhân tao nhã, chưa tìm được ý trung nhân. Ta muốn nàng đến xem Huyền Quang có xiêu lòng không?

    - Thần thiếp đang chẳng là cung tần của hoàng cung sao? Sự việc vỡ lở ra, thiên hạ nghĩ thế nào?

    Anh Tông nói:

    - Ta sai nàng đi kia mà! Nàng phải cải trang, còn ai biết là Điểm Bích nữa. Vả lại, nếu Huyền Quang đã là một bậc chân tu, thì nàng chỉ làm sáng danh cho ông ấy. Hơn nữa, để được giai thoại cho đời sau, há chẳng hay ư. Nhược bằng, nàng quyến rũ được Huyền Quang thì cũng là bậc trai tài, gái sắc. Ta sẵn lòng nhường, nếu quả như thế thì phải tìm cách, để một Điểm Bích sẽ biến đi trong hoàng cung mà mọi người đều tin theo thôi. Ý nàng thế nào?

    Điểm Bích thấy vua đã hào hứng, vả lại nàng củng muốn rời hoàng cung đi ngao du một chuyến, liền dịu dàng nhận lời.

    Chia tay với nàng Điểm Bích ở bến đò Bình, viên đội trưởng và toán thị vệ quay về triều. Nàng vào một bụi cúc tần, thay quần áo. Lúc sau đã thành một thôn nữ, khoác tay nải màu đà, vội vã đi về phía Yên Tử.

    Phải đến tối giáp mặt, nàng mới đến chùa Vân Yên. Nghe tiếng chó cắn, một ni sư đứng tuổi ra mở cửa thiền. Điểm Bích thưa:

    - A di đà Phật! Con từ xa đến, xin nhà chùa nhón tay làm phúc, cho nghỉ lại được chăng!

    - Mô Phật! Nhà chùa đâu dám từ chối khách thập phương, chẳng hay cô có việc gì mà lần mò vào chỗ tre trúc rậm rì, người ở cùng rắn rết muông thú này.

    Điểm Bích trầm mặt xuống, buồn rượi. Ni sư thở dài:

    - Cõi trầm luân mỗi người một cảnh. Sầu não, đau khổ nào có chờ ai. Đêm khuya mất rồi. Phận đàn bà bước ra khỏi nhà một bước chân là nguy hiểm lắm. Thôi con vào đây!

    Điểm Bích vào chùa. Nàng nghỉ lại đêm, hôm sau buồn bã, bịa ra một biệt cảnh mà thân phận mình phải gánh chịu, ni sư cả tin, mủi lòng. Sư nói:

    - Ta xem con là người khuê các, đẹp người, đẹp nết, nông nỗi nào đến nỗi phải rời bỏ giàu sang, phú quí mà đi.

    Điểm Bích thưa:

    - Con yêu một người. Chàng là một bậc phong lưu công tử, thông minh, tài cao, học rộng. Con hy vọng chàng sẽ thương mình hết lòng, như đã thề dưới vầng trăng vằng vặc. Chẳng dè khi chàng đạt tới đỉnh vinh quang, giàu sang, chàng lại chọn nơi quyền quý để sánh đôi. Chàng bắn tin chỉ cưới con làm thiếp. Cha mẹ con thấy chàng là tột bậc quí hiển, ép con lấy chàng. Nhưng con vốn là người tự trọng, nên quyết tìm nơi cửa thiền xuống tóc, quên hết lẽ đời. Con xin thầy thưa với sư thầy ngôi cao, cho con được thụ giáo.

    Ni sư càng tin. Gần nàng, thấy tính tình đoan trang lại thông tuệ, chữ đẹp, xem kinh hiểu nhanh, không cần giảng thêm, sư quý lắm, liền thưa chuyện với Huyền Quang. Sư ông liền cho đến tiếp kiến. Tuy nàng đã ăn mặc áo nhà chùa, nhưng nhan sắc vẫn sáng rực giữa nơi lều tranh, giường gỗ, ghế mây, trên án chỉ toàn kinh kệ. Huyền Quang thoáng nhìn nàng, rồi vội nhắm nghiền mắt lại không nói gì nữa. Điểm Bích thưa:

    - Bạch thầy, bữa qua ni sư có cho tiện nữ đọc lời của đức Trần Thái Tông, có bàn thêm về việc Đức Thích Ca Mâu ni thuyết pháp ở Bàn Sơn, con đọc thấy lời văn bừng bừng trong huyết quản.

    Huyền Quang vẫn nhắm mắt hỏi:

    - Con thích đoạn nào?

    - Dạ đoạn này ạ!

    Rồi Điểm Bích đọc to lên: “Hoa vàng rờ rỡ, không đâu không là tâm-bát-nhã, tre tím xanh xanh, không đâu không là lý-chân-như. Nhổ cỏ dại hiện bản lai diện mục. Hồi đầu cưỡi ngựa sắt mà về, xỏ mũi trâu bùn đi bước một. Không lấy một pháp trong vạn pháp làm bạn thi đâu còn sở đắc nào? Phật cũng không, tâm cũng không. Chân cũng đúng mà giả cũng đúng. Ngoài cửa tam yếu dù hét “Hai” cũng là “Ba”, đầu đường thập tự có hò “Chín” cũng là “Mười”. Lấy sáo không lỗ tấu khúc vô sinh, dùng đàn không dây, gảy bài khoái hoạt.

    Ai ai mà không là tri âm
    Đâu đâu lại chẳng là bè bạn!


    Một con đường hướng thượng ấy, làm sao ta hiểu được. Hãy nghe kỹ, nghe kỹ. Ai nghe lọt được thiền ngữ ấy thì tai sẽ bị ba ngày điếc đặc. Nếu nghe lọt, há lại bỏ đi hay sao? Bài vì nơi nào cũng có cây dương xanh có thể buộc ngựa, nhà nào cũng có con đường dẫn về kinh đô.

    Đường về dưới nguyệt ít ai đến,
    Một ánh trăng khuya lạnh khắp miền.


    Điểm Bích nói:

    - Bạch thầy, lời thuyết pháp như thông reo, suối chảy, trăng sáng đầu non, mặt trời hồng sau núi.

    Huyền Quang nói, mắt vẫn nhắm nghiền:

    - Mô Phật. Ta thì ta thích đoạn này khi Đức Phật Tổ bàn về hướng thượng. Đó là lời thùy ngữ cùa Bàn Sơn: “Một con đường hướng thượng, ngàn thánh cũng không truyền; học giả vì vậy mà khổ công nhọc mình như con vượn tìm bắt bóng của nó. Này các thầy sa môn, hãy hướng về đầu nẻo ấy mà tham thủ, hớp lấy ý thiền. Mà các thầy làm sao tham thủ được thiền ý ấy? Nếu có chủ tâm tham thủ và trở thành đối tượng tham thủ thì cũng như anh chàng gàn điên kia, trên đầu lại muốn có thêm một đầu, sau lưng lại muốn có thêm một đuôi, trong mắt lại muốn có thêm một con ngươi, trên da thịt lại muốn có thêm một cục bướu”.

    Điểm Bích thành thực hỏi:

    - Bạch thầy, con chưa hiểu!

    - Giác ngộ phải chân tâm. Muốn tham thủ được thiền ý ở núi Bàn Sơn, thì lòng phải không tơ bợn chút gì, thì mới ngộ được. Ngay cả thích sớm hiểu hơn người cũng tức như trên da thịt mọc thêm bướu vậy.

    - Bạch thầy, con đã hiểu!

    Điểm Bích vái thầy rồi lui. Huyền Quang vẫn nhắm nghiền mắt.

    Sư đã tin cậy Điểm Bích. Huyền Quang đã trao cho nàng chép những lời thầy giảng về kinh Tam Tạng, kinh Kim Cương. Một bận thấy tập thơ Thiền của Huyền Quang đặt trên chõng tre, Điểm Bích đánh bạo nói:

    - Con đã nghe tiếng văn chương của thầy lưu truyền ở kinh thành. Xin thầy cho phép con được thưởng thức những vần thơ bên suối, dưới chân khe, vui cùng non xanh nước biếc của thầy.

    Huyền Quang lưỡng lự, sau cũng trao cho Điểm Bích rồi nói:

    - Ở đây kinh kệ đã sẵn nhưng thơ trước thì ta chẳng còn đem theo tập nào. Lắm lúc lòng người cũng cần đến thơ như phật tử nương vào kinh kệ, do đó, ta tự làm, tự đọc thôi. Con muốn xem thì xem.

    Điểm Bích đem về đọc hết, rất phục tài Huyền Quang, lại chép hết vào trong quyển sách riêng của mình. Một tháng sau mới đem trả.

    Sư hỏi:

    - Con thích những bài nào?

    - Bạch thầy, về thơ thiên nhiên con thích các bài Sơn vũ (Mưa núi) Chu trung (Trong thuyền). Còn về thơ họa thì con thích thơ mai và thơ cúc.

    - Mai và cúc cũng có nhiều bài. Con thích cả ư?

    - Mỗi bài hay một vẻ. Nhưng bài để lại nhiều âm vang là hai hài này. Con đã dịch sang Nôm, xin được đọc thầy nghe.

    Hoa Mai
    Muốn hỏi trời xem quê xứ hoa! Non xanh, muôn cánh tuyết bừng ra. Hái về, đâu để nhìn không chán! Muốn mượn hương xuân chữa bệnh già!

    Hoa Cúc
    Quên thân, quên thế đã rằng quên! Giường thô, thanh thản cứ ngồi bền. Năm tàn, đất núi, đâu ra lịch. Đến tết Trùng Dương, cúc nở bên.

    Huyền Quang khen:

    - Lời dịch thoát lắm.

    Nhân lúc thấy sư cao hứng, Điểm Bích gặng:

    - Con nghe nói, thầy từng ngâm thơ ở vườn thượng uyển, lúc vinh qui. Bây giờ, xin thầy ban cho con được nghe giọng thầy qua một bài thơ thầy thích!

    Huyền Quang nhìn Điểm Bích rồi nhắm mắt lại, cất tiếng ngâm:

    Vằng vặc trăng mai ánh nước, Hiu hiu gió trúc ngâm sênh. Người hòa tươi tốt cảnh hòa lạ. Mâu Thích Ca nào thuở hữu tình!

    Điểm Bích cảm động ngước nhìn sư. Huyền Quang đã chìm đắm trong cõi Hư vô để tìm cõi Giác.

    Ni sư vào bạch với Huyền Quang:

    - Bạch thầy, tín nữ Điểm Bích nhà có việc buồn. Mấy bữa nay kinh kệ biếng, ủ rũ, âu sầu, chỉ ngồi khóc.

    - Hay là cô ta muốn trở lại kinh thành. Sư ni hãy mời cô ấy đến gặp ta!

    Điểm Bích đến, chào thầy, cúi mặt có vẻ ngượng ngùng. Huyền Quang nói:

    - Con muốn quay về với chỗ trần gian hỗn độn ư?

    - Bạch thầy, số con vẫn chưa tròn công quả. Con cũng muốn ở đây theo học thầy, nương nhờ cửa Phật song bữa nọ xuống núi, được thư nhà, thấy cha mẹ con từ lúc con bỏ đi, thương con ngã bệnh, nhà lại bị hỏa hoạn, gia sản mất sạch sành sanh. Hiện nay không biết phiêu bạt nơi đâu? Do đó, bồn chồn không yên... Nghĩ đến chữ hiếu chưa trọn, nghĩ đến chuyện người đứt ruột sinh ra mình, không thể đừng được. Do tâm không được tĩnh nên lòng đã thác loạn. Con xin thầy lượng thứ!

    Huyền Quang nhìn Điểm Bích mà nói:

    - Tu hành đâu phải muốn là được, âu cũng là duyên giác. Đạo huyền diệu khó hình dung, không thể dùng văn tự mà lĩnh hội được.

    Điểm Bích bối rối thật sự. Thời hạn của Anh Tông hẹn cho nàng đã hết. Những câu chuyện nàng đã đến gần được Huyền Quang, sư đã ân cần với nàng, đưa cả thơ cho nàng dịch, ngâm thơ cho nàng nghe, khéo kể, vua dẫu nghe, chưa hẳn là chứng lý tốt với “trò chơi của vua và nàng” để lôi kéo Huyền Quang về cõi tục. Cần phải có vật riêng quý của sư tặng cho nàng, lúc đó thì Anh Tông mới không thể không tin nổi. Nàng nói:

    - Bạch thầy, đường xa thân gái, lộ trình về kinh thì xa. Thầy thương con, thầy có thể giúp con chút bạc vụn hay tiền gạo ăn đường được chăng?

    Sư nghĩ một lát rồi nói:

    - Ta đã xa sự nổi chìm phiền não của sự đời, nên mượn mây, núi mà tìm học theo chân Phật Tổ. Khi đi, trên mình ngoài vài bộ quần áo thiền, không mang theo chút gì. Song có một vật vua ban ngày trước, nhớ những ngày luyện chữ, tìm câu, soạn sách, bình văn để được đứng đầu sĩ tử, dạo phố xem hoa, đó cũng là những ngày thanh sáng. Nay đã giác ngộ được thiền học, giữ làm gì nữa, ta sẽ ban cho con.

    Nói rồi đưa tay lên hốc cột, lấy nén vàng vua ban, đưa cho Điểm Bích.

    Điểm Bích mừng lắm, ngày đêm đi về kinh đô. Nàng được gọi vào chầu ngay. Điểm Bích lên chùa Vân Yên mấy tháng, dáng vóc lời nói đã dè dặt, điềm đạm của người thiền, song khi gặp vua, nàng không khỏi cảm động và hồi hộp.

    Điểm Bích đã sẵn lời tâu để vua vui lòng. Khi nàng đặt nén vàng vua ban cho Huyền Quang lên trên án, Anh Tông sửng sốt thốt lên:

    - Ta đùa hại sư tổ mất rồi! Bởi tin sư tổ là người hơn đời, bởi để thử Điểm Bích có yêu ta, vì ta làm tất cả những điều khiến ta vui lòng, ngờ đâu kết quả ngược lại. Ta mắc tội “giăng bẫy bắt chim”, và sắc đẹp đã làm nao núng một bậc cao tăng ư?

    Điểm Bích đã trót dựng ra câu chuyện rồi, ngồi im không nói một điều gì nữa! Vua vẫn chưa tin, liền cho triệu Huyền Quang về để chủ trì lễ hội Vô Già.

    Huyền Quang phụng mệnh về ngay. Khi đến đàn tràng sắp vào cúng thì thấy đồ lễ bày hương, hoa, quả mới, xen với cỗ mặn. Cạnh cờ phướn lại có cả màn gấm, quạt là... Trên đĩa công đức lại có nén vàng, đúng là nén vàng mình đã cho Điểm Bích. Huyền Quang thông tuệ, hiểu ra sự việc: Điểm Bích lên chùa Vân Yên chính là do vua sai đến thử mình.

    Sư nhắm mắt, nhập thiền, lòng hướng về Trời, Đất, Thần, Phật, thanh sáng như mình hằng có, điềm nhiên hành lễ. Sau khi tụng hết kinh bổn, sư mặc áo cà sa, cầm thiền trượng ngửa mặt khấn trời đất. Sẵn trên đàn có cành dương xanh, bình ngọc trắng, liền nhúng cành dương vào nước trời trong bình, vẩy lên khắp đàn tràng, miệng tự buột ra hai câu kệ:

    Mạc giáo mộng trung tầm trí thức
    Tương lai diệu thượng đỗ sư nhan


    (Cần chi tìm lại mình trong mộng
    Phật của tương lai, ấy kiếp mình).


    Lòng thành của sư đã cảm hóa Trời Phật. Giông tố ở đâu đùng đùng kéo đến. Sau những phút hỗn độn, sấm rung sét nổ, những cỗ mặn, thoi vàng, màn gấm, quạt là bị cuốn đi đâu mất, chỉ còn trên đàn tràng, hương nồng của nhang, vị tinh khiết của hoa thơm quả tịnh.

    Anh Tông biết là Điểm Bích để đẹp lòng mình, đã dựng chuyện vu cho sư. Đức vua đến, tạ lỗi với Huyền Quang và xin sư tổ đại xá. Huyền Quang tạ ơn vua, chỉ nói:

    - A di đà Phật!

    1998
     
    amylee, meetdak and hungbc1010 like this.
  13. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    THẾ CỜ ĐI HẬU

    Truyện ngắn của Trương Vũ Thiên An


    Ngôi nhà của tôi không đẹp, không tiện lợi. Sương lạnh, cổ kính, nó giấu mình như một người mắc bệnh trầm uất. Khi thì lãng đãng phả ra từ mấy gốc tùng lãnh cảm. Khi thì dồn nén đến tuyết phủ vô ngôn tự chén trà của cha tôi.

    Cha tôi là một người trầm uất. Tôi thương cha, đặc biệt là kính trọng sự uyên bác của cha. Cha ít nói. Ghét giãi bày. Cả trong lần chú tôi đùng đùng tự miền Nam ra dựng cha dậy trong đêm thách đánh với cha một ván cờ, không thắng được, sớm hoét đã la làng đòi cha nhường một nửa khoảnh vườn của ông tôi để lại, cha chỉ hơi cau mày nhìn chú, gật: - Được! Mặc cho mẹ ngồi rấm rứt, thỉnh thoảng liếc đôi mắt buồn như mảnhvườn nhà trầm uất mưa bay nhìn cha.

    Từ bé, tôi đã ít khi dám vòi cha một điều gì. Các học trò cũ của cha tôi lâu lâu đến thăm cha, ngả mũ cầm tay, cũng chỉ nói thật khẽ. Quà của họ để lại, cha sai tôi đem cho mấy nhà bên cạnh, tặng chú. Cha chỉ giữ lại, nâng niu mấy cuốn sách cổ.

    Mẹ đôi lúc nhân khí sắc cha tươi tỉnh, ẩy nhẹ tôi vào lòng cha, đùa như trách móc: - Con nhà tông... con này rồi cũng lạnh tanh như cha nó!

    Những lần ấy, những lần hiếm hoi nắng ấm của tuổi thơ tôi ấy, nhãn quan của cha rực lên rợp cả mắt tôi.

    Lẽo đẽo, gót chân tôi tẩn mẩn tỉ mỳ nhẩm theo dấu chân cha trên khắp nửa mảnh vườn nhà còn lại. Tôi chắp tay sau lưng, đủng đỉnh, thoáng nhìn trời, thở dài não ruột như cha. Tôi nuôi một ám ảnh trời buồn. Nghiêm trang, kính cẩn đến đau xé, tôi tần ngần trước mấy cội tùng, cắn răng lạnh lùng giải mã bao ánh mắt cha còn quấn quýt lại. Bởi cha đã sống, đã yêu những phút giờ lặng thinh bão nổi với chúng. Tôi đâm mê chúng. Những đam mê không bằng cớ, không biện luận. Ập về như một chớm lạnh sững sờ, sớm ra xóm làng đã đầy những áo bông, khăn quấn. Cây cỏ hoang trổ màu xanh đậm. Con đường làng cứng hơn.

    Rồi cũng thản nhiên. Tôi là cái bóng của cha. Cái bóng thản nhiên trầm uất của cha. Tôi là đứa con muộn mằn của gia đình. Tôi ra đời khi chị Hương của tôi đã mười lăm tuổi. Ấn tượng của tôi về chị là những ngoằn ngoèo chớp bể của một ký ức xa mù. Chị ham học. Tôi bước vàothờithơấuthìchịđãđi học xa, rồi đi làm và lập gia đìnhởxa.Chachỉ imlặng. Nhưng mẹ có lần vừa lau nước mắt vừa bảo là tôi còn có một người anh.Người anh của tôi chỉ kịp có mặt ở cuộc đời này mấy ngày tuổi. Có lẽ tôi ra đời trong một phút nguôi ngoai và thiếu thốn tình cảm của cha mẹ về một người đã mất.

    Phòng của cha là cả một thếgiới lạ lùng, lạnh lẽo cả tuổi thơtôi. Tôi chưa một lẩn đếm nổi cha có bao nhiêu cuốn sách. Một lần, không hỏi mẹ, đem chiếc áo lạnh còn mới của tôi cho con một bác bán cháo trong xóm trở về, bắt gặp tôi đang lang thang lơ láo trong phòng, cha bế bổng tôi lên nói nhỏ vào tai tôi một câu làm tôi càng sợ cha - Con chưa vào đây được!

    Cha nghiêm lạnh. Với học trò. Với bản thân. Với những người có cương vị. Người trong vùng còn kể lại lần cha lên Ủy ban huyện xin được cùng một số bạn bè mở lớp học đêm miễn phí cho con em các bà con nghèo và bị từ chối. Cha kiên nhẫn thuyết phục. Vị đại diện huyện đập bàn: Tôi biết trong Ủy ban này có nhiều người là học trò cũ của ông. Nhưng riêng tôi chưa có vinh dự là học trò của ông. Ông nhớ cho!... Cha tôi chỉ cúi chào: - Tôi không biết ở đây có ai là học trò của tôi không. Nhưng tôi biết ở vùng này có những người thầy của tôi. Ông không phải là học trò của tôi. Ít ra, điều đó cũng làm tôi đỡ cắn rứt!

    Cha say cờ. Những lần không có bạn cờ, cha đánh với sách, cha đánh một mình. Ngồi thẳng người lúc lắc, trầm tư, rạng rỡ. Mẹ đùa: - Đánh một mình thì đánh làm gì cho mệt! Muốn bên nào ăn chẳng được!... Cha nhìn tôi đang nấp nom, nói với mẹ: - Không phải. Đánh cờ một mình khó gấp hai lần đánh hai người vì phải phân thân, phân thân một cách tuyệt đối, thành tâm. Vừa biết trước tất cả mà vừa không chuẩn bị gì cả... Mẹ gặng: - Vậy thì cuối cùng ai thắng?... Cha thản nhiên: - Thường thì cũng có người thắng!... Cha nổi tiếng đệ nhất kỳ thủ vùng tôi. Phòng cha có một bàn cờ tuyệt đẹp có khắc sẵn phần khai cuộc của thế trận bình phong mã đối đương đầu pháo. Bên dưới là một bài thơ thất ngôn viết thảo bằng mực tàu bóng lộn:

    Vườn xuân kỳ ngộ tứ hải giai

    Cờ tiên rượu thánh giữa trời mây
    Kìa ai giở cuộc đương đầu pháo
    Để mã bình phong trấn ải dài.


    Bên dưới là một lời đề tặng: tặng Quân Tử Kỳ

    Mỗi ngày, cha dạy tôi về chữ nghĩa, về kỳ lý. Mẹ rầu rầu: - Ai con gái lại tập đánh cờ.... Cha nhìn tôi: - Con thích không?... - Dạ thích!

    Cha quý cờ. Hình như cha không chỉ giảng cho tôi về cờ:

    - Lòng con phải rỗng, dẹp tạp niệm, diệt háo thắng thì mới đạt đến cái vi diệu của cờ tướng!

    Nhập môn cờ, lòng tôi lung linh những mã nhật, tượng điền, xa liền, pháo cách. Ngựa hí, voi gầm, xe chạy, pháo bắn đì đùng huyên náo cả tuổi thơ tôi. Cha dạy tôi từ khai cuộc này đến khai cuộc khác. Có lần tôi thắc mắc:

    - Sao cha không bày con phần khai cuộc như trong bàn cờ cha được khắc tặng?

    Cha đổi sắc, lo âu, ngạc nhiên nhìn tôi như ngắm nghía. Chiều đó, bước chân cha khi thì phiêu hốt, khi thì trầm trọng. Cha loay hoay lang thang mãi trong vườn. Cơm nước xong, mặc mẹ ngạc nhiên, cha xoa đầu tôi:

    - Đúng mười hai giờ khuya đến phòng cha!

    Đúng mười hai giờ khuya của tuổi mười hai tôi, tỉnh táo, nghiêm trang, tôi đến phòng cha. Cha ngồi như thiền giữa thềm gạch lạnh, chỉ cho tôi chỗ đối diện. Cha ngồi đó, gần gũi mà cao xa, thân quen mà lạ lùng, giản dị mà không với tới. Khi căn phòng nghẹn ấm hương trầm và bạch lạp, cha giảng:

    - Con nay đã có căn bản về cờ. Con có thể tự nghiên cứu thêm về trung cuộc và tàn cuộc. Cả đời cờ của cha, chỉ có một thế trận cha cho là không học được, không dạy được, mà phải do tâm mà chọn, do duyên mà đến, đó là thế trận bình phong mã. Hai con mã lên giữa phủ kín như bức bình phong. Để đánh được thế trận này con phải tinh thông các thế trận khác. Phòng thủ bao giờ cũng khó...

    Từng lời cha dội thẳng vào tâm hồn tôi vừa thông tuệ phức tạp lại vừa rõ ràng dễ hiểu: - Con ơi! Bình phong mã thiên về đi hậu. Cả đời mình không lấn ai, cha chỉ thích con tập thế cờ đi hậu. Bình phong mã mượn sức người đánh người. Không đánh không trả, không bị công không trả đòn, không làm hại ai cả. Con nhớ lấy nghe Quỳnh! Mình đi nghỉ đi!

    Tôi giật mình. Tiếng rón rén thở dài của mẹ ngoài hiên. Hình như có cả nước mắt tôi trong đêm tuổi thơ mười hai đầy xáo động. - Không được khóc! - Dạ... Tôi trợn mắt, nuốt một nỗi lo lắng ứ nghẹn mơ hồ. Không bị ép thì không trả đòn, không đánh không trả, không làm hại ai cả.

    Cha bỏ tôi và mẹ ra đi vào một cõi không tôi trong một ngày giáp tết. Trút xong tâm nguyện với mẹ, cha ôm mặt tôi, thì thầm: - Cha không được nhìn Quỳnh nở... Nở cho ai Quỳnh ơi! Mẹ khóc héo cả mắt. Tôi cắn răng, cắn răng nuốt từng cục buồn. Không được khóc. Không được khóc. Lui cui, tôi hái mỗi thứ mỗi hoa, mỗi khóm tùng một nhánh lạnh nghiêm mang đến mộ cha. Nhạt nhẽo, xì xèo ngọn bạch lạp trắng giữa bụi phùn ngày tết, tôi tâm sự với cha... Cha, cha còn nợ con bài thơ trên bàn cờ. Con không biết cha đã gặp ai, đánh cờ với ai trong buổi kỳ ngộ đó. Nhưng con biết cha đã đi hậu. Dứt khoát cha của con đã đi hậu! Cả đời cha không bức hiếp ai, cũng không chịu để ai làm nhục. Cha đã dạy con làm người bằng kỳ đạo. Cha là một Quân Tử Kỳ. Con không khóc đâu. Con không khóc đâu.

    Con Quỳnh kiêu hãnh trong tôi tách ra, tò mò nhìn con bé mười hai tuổi áo tang lạnh trắng côi cút thảm thê đang tạc thỏm giữa tấm phông xuân bẽ bàng một hình nhân đi hậu.

    Con trai của tôi bây giờ đánh cờ với máy vi tính nhiều hơn là đánh với tôi. Nó có mặt ở đoàn cờ tướng trẻ của thành phố. Một lần, tôi hỏi:

    - Con nghiên cứu sâu về các thế cờ thủ không?

    Nó nhìn tôi lạ lùng:

    - Con chỉ tập trung vào những thế trận tấn công. Tiên hạ thủ vi cường. Phòng thủ là xưa rồi!

    Tôi nuốt nước bọt. Không biết tôi có nên kể cho nó nghe câu chuyện về một Quân Tử Kỳ suốt đời đi hậu không. Tôi bần thần:

    - Có bao giờ con thấy có sự liên quan giữa cờ và người, giữa cờ và đời không?

    - Mẹ đa cảm quá! - nó cười tự tin - Phải phân biệt giữa trò chơi và cuộc đời mẹ ạ! Nhập nhằng là thua cuộc mà lại làm khổ mình!

    Lạnh lùng, tự hỏi: Tôi khóc cho ai đây? Nó? Tôi? Người cha Quân Tử Kỳ của tôi?

    Hít hà hương bạch lạp, thơm ngát mùi trầm, nghẹn thờ, run run, tôi thử đẩy một quân cờ đi tiên. Giữa lúc một mùa xuân đang lạo xạo rũ bớt sương giá, gió lạnh bước lên thềm hiên...
     
  14. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    RẰM THÁNG BẢY

    Truyện ngắn của Đức Ban


    Đầu tháng bảy dườn dượt những cơn mưa phùn và gió mùa đông bắc. Đất đai nẫu ra, ngai ngái mùi nấm rơm chín muộn. Khắp làng như thế. Riêng khu chùa Ngàn Hương, cách làng một con sông và một cánh đồng là khô ráo. Dường như mưa không rơi xuống đây, không thổi qua đây. Hoa đại rụng trắr mặt sân gạch rêu phong.

    Chị Hoài chăm chăm nhìn tôi, cái nhìn thật lạ. Bỗng nhiên chị giật mình cúi xuống, sẽ sàng nhặt hoa đại bỏ vào cái sọt tre màu nâu sẫm. Chị nói: “Mỗi ngày một sọt đầy”. Tôi hỏi: “Cất làm gì?” Chị cười buồn: “Chẳng để làm gì cả. Nhưng cứ cất, biết đâu...” Chị không nói hết câu. Tôi không hỏi gì thêm. Tiếng cánh hoa chạm vào giỏ xe lạt xạt khiến bầu yên tĩnh bốn phía chung quanh thêm vẻ bí ẩn.

    Tôi dón chân giữa những chấm trắng đi ra cổng. Chị nói với theo: “Rằm tháng bảy, em lên chùa nhé”. Tôi ngoảnh lại: Khuôn mặt chưa tàn phai hết vẻ đẹp một thời của chị nom mờ ảo, mong manh, “Thôi! Em đi về đi!”. Chị giục, rồi quay ngoắt đi vào chùa. Tôi nhìn cánh cửa nặng nề dửng dưng đóng lại sau lưng chị và chợt rùng mình.

    Ngày chị lên chùa, tôi còn ở chiến trường. Bữa tôi về, mẹ tôi nói: “Nó đi rồi tao mới biết, dân làng mới biết, chẳng ai khuyên can được một lời. Bố mẹ chết vì bom Mỹ, anh Ninh (anh em sinh đôi với tôi) có giấy báo tử, nó lẻ loi quá mà”. Mẹ tôi lặng một lúc, rồi tiếp: “Đi đông, về tây bom đạn cũng chừa ra mà sao nó nông nổi thế, hả trời”. Phải đâu chị nông nổi! - Tôi nghĩ thế. Hôm ấy, thấy chị mặc bộ quần áo nhà chùa màu nâu, cứng và rộng lòng tôi nhói đâu. Tôi vét hết tâm trí lấy lời thuyết phục chị hoàn tục. Chị nhìn xuống hai bàn tay của mình đặt hờ trên cái mõ gỗ, nói: “Em đừng nói chi. Không gì thay đổi được nữa đâu”.

    Lần này gặp chị, tôi không hề nhắc chuyện cũ. Biết chẳng ích gì. Tôi quay lại thập thững theo con đường đất mấp mô xuống bến đò. Người chèo đò là chị Ngọc, xấp xỉ tuổi năm mươi, đi thanh niên xung phong một đợt với chị Hoài. Nghe kể, chị Hoài lên chùa cùng ngày, cùng giờ, cùng tháng, cùng năm với chị Ngọc xuống sông. Một lần nào đó, chị Ngọc nói với tôi: “Người tin cõi Niết bàn đông lắm, nên nhiều lắm người phải lụy con Hoài. Còn tôi chèo đò, ối kẻ phải lụy tôi để sang sông”. Chị Ngọc to lớn, khuôn ngực nở nang và có đôi mắt nhìn hút hoẵm giống mắt chị Hoài.

    Bến Đò Làng có ba bậc đá, rêu viền bốn phía chung quanh, ngọn rêu vật vờ trong nước xanh nom buồn thiu. Tôi đứng ở bậc đá thứ hai. Chị Ngọc ở bờ sông bên kia quay đò, chèo sang. Mũi đò cập bậc đá thứ ba, chị găm sào, đứng chạng chân trên sạp gỗ và kéo vạt áo để lộ một mảng da bụng lùm lùm trắng lốp. Xòe bàn tay trái xoa bụng, chị nói giọng vút lên như hát: “Chú biết không, tôi sắp có con. Tôi mơ thấy con trai hẳn hoi nhá”. - “Mừng cho chị nhiều” - Tôi nói và bước lên đò. Chị thả vạt áo xuống: “Mười bốn, mẹ con tôi sẽ lên chùa nhờ sư Hoài làm lễ”. Tôi nói: “Rằm mới lễ chùa cơ mà”. Chị vừa bát đò vừa nói: “Biết. Tôi lên trước, con Hoài còn rảnh để ngồi mà ôn xưa nhớ cũ”. Bất thần chị quét ánh mắt hút hoắm lên người tôi: “Chú mặc áo quần bộ đội, đính quân hàm quan hiệu như vậy vào gặp sư Hoài à?”. Tôi bối lối: “Nhà chùa ấy có qui định về trang phục đâu”. Chị Ngọc nhìn lên một chỗ nào đó giữa khoảng không, giọng trầm hẳn: “Đã đành là thế”.

    Con đò ra đến giữa sông. Gió nhẹ không có sóng nhưng chẳng hiểu sao nó cứ chòng chành, chòng chành.

    ***

    Tôi sắp xếp áo quần vào túi xách. Mẹ tôi ngồi têm trầu trên chõng tre, cất giọng hỏi: “Chị Hoài nhắn gửi gì không?”. Tôi nói: “Chị dặn rằm tháng bảy con về đi lễ chùa”. Mẹ tôi thở dài (lần nào nhắc tới chị Hoài, bà đều thế), rồi nói: “Xưa gia đình chị ấy gặp đận khó khăn, mẹ đón nó về nuôi. Chúng mày như chị em ruột”. Bà buông ngọn trầu không nhìn đăm lên bức ảnh anh Ninh trên bàn thờ. Tôi lén lau nước mắt.

    ***

    Mồng mười thì trời hửng nắng. Thời tiết thuận, lại được mùa lúa, dân làng tôi náo nức chuẩn bị lễ chùa Ngàn Hương. Mờ sáng rằm tháng bảy, tôi đã về đến bến đò. Bên kia sông, làng tôi xanh ngời và vô vàn âm thanh cứ rạo rực lên. Không thấy đò chị Ngọc đâu, tôi ngồi xuống bãi cỏ đẫm sương châm thuốc hút. Sau tôi, chếch về phía phải, chùa Ngàn Hương chẳng hiểu sao đến giờ này vẫn còn câm lặng. Không tiếng chuông bình bong! Không tiếng mõ lóc cóc!

    Bất thần khắp nơi, khắp chốn, kể cả làng tôi chìm vào bầu không khí im lặng. Một cái gì đó câm nín, mềm nhũn ra, lan tỏa. Một nỗi lo sợ mơ hồ ám ảnh tôi. Tôi bấu năm ngón tay vào ngọn cỏ và nghe đâu đó, như trong gió, trong nắng, trong sương, trong cỏ... cái tin sư Hoài đã biến mất.

    Dân làng tôi đổ ra bờ sông. Họ chen chân trên ba bậc đá, những cái bậc đá có rêu viền, ngọn rêu vật vờ. Ai đó ném xuống dòng sông một mâm hương hoa. Sông vẫn chảy thao thiết. Mãi một lúc sau, lúc tôi đã đứng thẳng dậy, mới thấy con đò của chị Ngọc hiện ra nơi khúc ngoặt của dòng sông. Chị vén vạt áo khoe cái bụng chửa của mình và cười: Chẳng ai cần tiếng cười của chị. Dân làng đang nóng lòng sang sông để lên chùa. Chị chậm chạp cho mũi thuyền hướng về phía tôi, mặc cho tiếng la ó nổi cồn lên ở bờ sông bên kia.

    Chị nhìn tôi, cất giọng như hát: “Chú đưa khuôn mặt anh Ninh về một lần như vậy là đủ, mặc quan phục một lần như vậy là đủ”. Tôi ngơ ngác. Chị chìa ngón tay trỏ khuơ một vòng trước mặt tôi rồi chỉ vào bụng mình.

    Đò đã sang bờ bên kia, đầu tôi vẫn cứ quay tròn theo cái vòng vô hình ngón tay trỏ của chị Ngọc vừa vẽ vào không khí. *
     
    amylee, meetdak and hungbc1010 like this.
  15. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    NƯỚC MẮT CHÍ PHÈO

    Truyện ngắn của Trương Vũ Thiên An


    Lão lái đò lạ lùng, kỳ dị đẩy tôi ngã dúi dụi xuống cái bờ bên kia của sự sống. Bên ấy dòng nước đen ngòm là âm vang của tiếng gà ra rả mà cớ sao bên này cứ nghe như eo óc. Ôi chao! Vậy là sau khi tiễn các nhân vật của mình từ Lão Hạc, Chí Phèo về cõi âm, giờ đến lượt tôi tự tiễn mình.

    Nếu không chắc mình đã chết, tôi không tin được rằng đây là vùng đất thiêng không bóng dáng sự sống. Cuộc sống, dù có là... sống mòn đi nữa cũng còn có ý nghĩa hơn cái chết. Từ con số không của kiếp người, tôi đang làm một cuộc hành trình về cái chiều âm vô cực của sự sống.

    Kéo cao chiếc cổ áo sờn, tôi lầm lũi. Hai người mà tôi quyết tìm gặp cho được để trang trải món nợ ân tình là Lão Hạc và Chí Phèo. Lão Hạc ơi, chắc lão cũng thỏa lòng nhắm mắt vì mảnh vườn mà lão đã đánh đổi bằng cái chết vật vã của mình đã được tôi trao tận tay người thừa kế của lão. Còn anh Chí, tôi chắc anh giận tôi lắm vì tôi đã trót làm một việc mà nếu là tôi, ông Lỗ Tấn vĩ đại sẽ chẳng bao giờ làm. Tôi vẫn tin Lỗ Tấn: “Đời người, khổ nhất là tỉnh mộng rồi mà vẫn không tìm thấy đường đi. Giá như không tìm thấy đường đi thì đừng đánh thức người ta dậy làm gì”. Vậy mà... Chao!

    Tôi xuất trình thẻ nhà văn của mình, xin được mượn sổ bộ của địa ngục để tìm người quen. Nhân viên giữ sổ bộ của cõi âm ngu ngơ nhìn tôi một chặp, lẩm nhẩm dòng chữ ghi trên thẻ rồi tự dưng cười toét miệng:

    - Nam Cao à! Cha thằng Chí phải không?

    Tôi sượng sùng gật đầu, có tạo trên cái mặt không chơi được của mình nét thân thiện.

    Tay nhân viên đầy dương tính của cõi âm nhìn tôi từ đầu xuống chân, rồi ngước lên:

    - Được! Có vẻ thiếu máu nhưng không đến nỗi. Nè, ông có biết truyện của ông đã được dịch và phát hành dưới này chưa?

    Lần đầu tiên có môt tác giả nghe tác phẩm của mình được dịch ra... cõi ngoài mà đầy đau khổ là tôi!

    Tôi đẩy vấn đề về vị trí xuất phát:

    - Tôi cần gặp Chí Phèo và Lão Hạc, nhất là Chí Phèo.

    - Lão gì nhỉ? À... có đấy! Cái lão vừa xuống đây đã tất tả đi tìm một con chó chớ gì! Dễ thôi. Còn Chí Phèo! Ông có dắt hắn đi đâu thì dắt giùm. Cái thằng không cha không me, cái thằng chỉ có mỗi một nghề là... lương thiện! Đó là nghề lương thấp nhất ở đây. Hắn bị lương thiện hóa quá nặng không ai chơi được!

    ... Ra tôi cũng tìm được hắn! Hắn vẫn vất vưởng với cái cô đơn nội tâm của mình. Thiếu cái dáng khật khà khật khưỡng nhưng bộ mặt rạch dạo nào vẫn còn đó. Sững người nhìn tôi, chợt mắt hắn ánh lên vẻ tinh quái:

    - Ông tìm cái thằng không cha không mẹ này hay bà ta?

    Chao, giọng hắn cà khịa nghe mà đau!

    Tôi nghe mắt mình cay cay. Đến nông nỗi này...

    - Anh Chí...

    - A...a! Tự lúc nứt ra từ lò gạch, ông là người thứ hai kêu tôi là anh Chí! Vậy ông đã gặp lão Bá Kiến chưa!

    Tôi ngậm ngùi:

    - Tôi đâu dè anh và Bá Kiến ở chung một chỗ!

    Chí Phèo đưa tay thẫn thờ lần mấy vết rạch trên mặt. Hắn nhớ làng Vũ Đại ngày ấy. Nhớ giọng cười Tào Tháo. Mắt hắn xa xăm, đờ đi. Người hắn rúm lại. Rồi đột ngột, mấy vét rạch trên mặt hắn trống hoác như kẽ núi nứt nẻ. Hắn ngặt nghẽo:

    - Tôi phỉnh ông chơi Cụ Bá lên trên rồi!

    - Lên đâu?

    - Lên thiên đuờng rồi! - giọng Chí sắc lại - Lão chỉ hơn đời ở khoản đẩy con em xuống địa ngục. Mà đây đã là địa ngục. Ở đây được cái là không ai thất nghiệp. Ông có lẽ cũng lên trên. Nhà văn thì làm quỷ gì ở đất này!

    Tôi đang dở khóc dở cười không biết Chí đùa hay thật thì hắn đã gắt lên:

    - Ông về đọc lại truyện của ông xem tôi có lần nào đùa chưa? Ừ, kể ra có lần tôi vuốt râu lão Tự Lãng, nhưng lúc đó tôi say. Chấp gì thằng say. Ông chẳng từng viết những thằng say và những thằng điên có bao giờ làm cái mà lúc ra đi chúng định làm!

    Mắt Chí lại đờ đẫn:

    - Tôi vẫn định tìm về làng Vũ Đại để hỏi ông một câu.

    Tôi đỡ lời:

    - Tôi biết. Câu hỏi của anh cũng là câu hỏi của lòng tôi.

    - Không! Tôi không hỏi câu ai cho tao lương thiện đâu!

    Tôi bối rối:

    - Vậy anh định hỏi tôi câu gì?

    Chí Phèo ôm mặt khóc rưng rức... Hắn đã đến tận cùng con dốc của cuộc đời. Mà không chừng hắn đang ở hướng xuất phát ngược lại của con dốc cuộc đời.

    - Trước khi hỏi ông câu đó, tôi nói điều này: - Ông có biết tôi đã tự sát thêm lần nữa khi về bên này thế giới không?

    Mắt tôi ầng ậng nước. Chao ôi!

    - Anh Chí! Âm dương cách trở. Nhưng vì cớ gì mà anh lại hủy hoại đời mình lần nữa?

    - Ông! Ông mà cũng nỡ hỏi tôi cái câu... đó! Ông - Đứa - chết - mẹ đã đẻ ra thằng Chí này!

    Mắt hắn đỏ quạch, bên trong nhoè nhoẹt.

    - Nhưng tôi không chết được, ông biết không, tôi không thể chết được. Người ta bảo tôi không ai được chết hai lần cả! Truyện của ông toàn kêu gào mọi người hãy cứu lấy con người, mang sự sống cho con người. Ông có biết có những kẻ muốn chết mà không được chết không? Có những kẻ chết rồi mà chưa từng được sống không? Có những kẻ chết rồi mà cứ phải sống không? Chao, tôi phải sống khi đã chết!

    Tôi để mặc hai dòng nước mắt đuổi nhau lặng lẽ, cô đơn trên mặt mình. Ôi chao, đúng, tôi chưa nói hết được những khốn khổ đa dạng, quỷ mị của kiếp người. Nhà văn có là gì nếu anh không vẽ lên được đằng sau ánh trăng thơ mộng kia những tất tả, tơi bời của những xác sống.

    - Anh Chí... Anh vẫn muôn đời là máu thịt của lòng tôi. Những người sau tôi sẽ viết vào giữa những dòng chữ của tôi những nỗi niềm tôi chưa nói hết, chưa lần ra được. Lúc nãy, anh nói là định tìm về làng Vũ Đại để hỏi tôi một câu. Anh hãy nói cho tôi yên dạ. Cho dù anh có bảo anh không thể là nguời lương thiện được nữa rồi nhưng tôi và độc giả của tôi vẫn tin rằng anh là người lương thiện nhất làng Vũ Đại. Bởi anh đã bán cái chết để mua sự sống; bán sự sống, bán cái đời lương thiện để mua đời lương thiện. Anh đã lương thiện từ ngày ấy!

    Chí bỗng rú lên cười. A ha...a ha... Giọng Chí cất lên giữa cõi âm như một nỗi thét gào. Giọng cười Chí là một cơn giông thiếu nước nửa chừng.

    - Vâng, quý hóa thật! Ngày xưa tôi lủi thủi bên túp lều ven sông vì lỡ làm kiếp quỷ dữ giữa bầy người. Bây giờ tôi vất vưởng không xó xỉnh dung thân vì trót làm người giữa bầy quỷ dữ. Ngày xưa đó đời tôi nào có ra gì nhưng cũng vun vén được một cái gì na ná như tình yêu. Ôi chao, còn bây giờ... Chao ôi cái giá của lương thiện. Ông khéo đùa thật! A ha... a ha.

    ... Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối... Nhưng nghệ thuật cũng sẽ không là gì cả nếu không ôm hết cái dữ dằn, cái đanh đá của cuộc sống - và cả cuộc chết nữa! Sẽ chẳng đi đến đâu một thứ nghệ thuật không thấy hết, không vẽ hết được cái bờ bên kia của hiện thực. Từ bờ vực rách nát, rối bời của một nỗi đau vừa hé miệng, tôi cô đơn đón nghe âm vang ùng ục của nước mắt Chí Phèo nhỏ muối xuống đầy ứ:

    - Tôi nghe phong thanh giọt máu đau khổ của đời tôi đã tụ hình. Vậy thì, tôi hỏi ông, hu... hu... ở trên kia ... nó có được làm người lương thiện chưa... hu... hu... nó có bị làm người lương thiện không?

    Có tiếng sủa ăng ẳng mừng rỡ. Tự đằng xa, con Vàng cố vượt lên trên Lão Hạc, loăng quăng chạy đến... ★
     
    amylee, meetdak and hungbc1010 like this.
  16. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    CHIM PHÓNG SINH

    Truyện ngắn của Hoàng Mỹ Hoa (Trung Quốc)
    Thái Nguyễn Bạch Liên dịch

    Nội dắt tay tôi và bảo cùng đi với cụ.

    - Đi đâu hở nội?

    - Cửa hàng bán chim.

    - Đến đó để làm gì?

    - Để mua chim chứ còn làm gì nữa.

    - Hoan hô, cám ơn nội đã cho cháu nuôi chim, ôi, thích quá!

    - Không phải thế, chúng ta đi mua chim phóng sinh, sắp đến kỳ phóng sinh rồi, cháu không biết sao?

    - Phóng sinh? Vì sao phải phóng sinh hở nội?

    - Phóng sinh là một việc thiện, là một đại công đức. Loài chim thuộc về thiên nhiên, không thể nhốt chúng trong lồng. Bà cháu ta phải yêu quý, bảo vệ những loại động vật bé nhỏ đó, thả các con chim lâu nay bị giam hãm tung bay lên bầu trời tự do, trả chúng cho thế giới bao la, hùng vĩ ngoài kia...

    - Thế sao bố cháu không chịu thả con chim họa mi cả năm nay nhốt mãi trong lồng?

    - Người ta phóng sinh cho những loài chim hoang dã, còn họa mi là giống chim thưởng ngoạn, nó không biết tự kiếm ăn, thả ra là chết ngay, vì vậy nuôi nhốt trong lồng mới là công đức, mới là thiện tâm...

    ***

    Chủ hàng niềm nở đón nội tôi:

    - Dạ cụ cần loại gì?

    - Chim phóng sinh.

    - Thế là con có lỗi với cụ mất rồi, chỗ hàng đây con phải để dành cho số khách đã đặt mua từ ngày hôm qua - ông ta phân trần - dạo này người từ tâm, hành thiện quá nhiều, nghề buôn bán chim phóng sinh cũng khá, tỏa về khắp chốn cùng quê thu mua mà cung vẫn không đủ cầu. Thưa cụ, cụ dùng bao nhiêu để con còn lo ạ?

    - Chim sẻ đầu trắng, chim sâu mỏ đen, chim chích mắt xanh, mỗi loại 30 con, ngày kia bà cháu tôi đến lấy hàng, cũng tầm này, có được không ông chủ? Lần này định làm lớn, công đức to, nên phải mua nhiều như vậy...

    - Cụ cứ yên tâm, con sẽ sai nhiều người lùng sục, bẫy, bắt, mua, bằng mọi cách đảm bảo đủ số lượng, đúng chủng loại và kịp thời gian cho cụ. Cụ là vị khách có tấm lòng như Bồ Tát mà lần đầu tiên con mới gặp, thật quý hóa quá, dùng một lúc gần cả trăm chim phóng sinh, thế này thì dân quê phải đội ơn cụ lắm lắm.

    - Ngày kỵ của ông nhà, một tý công đức có là bao, không thể tiếc tiền.

    - Cụ nói chí phải, “công đức vô lượng” ạ...

    Rời khỏi cửa hàng bán chim, tôi cứ loay hoay trong mớ bòng bong bắt chim, thả chim mà không sao tìm ra lời giải, bèn rụt rè hỏi nội:

    - Nội ơi, phóng sinh có thật là việc tốt hay không?

    - Đương nhiên là tốt rồi!

    - Thế còn bắt chim?

    - Là việc xấu!

    - Vậy tại sao nội lại bảo ông chủ cửa hàng đi bắt chim mang về để nội thả phóng sinh?

    - Nội không xúi ông ta bắt chim, đó là công việc làm ăn của họ, sai người đi khắp nơi, bẫy, bắt, mua, bằng mọi cách, bán kiếm lời. Bọn người bắt chim ấy sau này sẽ bị tống xuống địa ngục, còn chúng ta phóng sinh, thả chim thì được tới chốn Tây Thiên.

    - Nhưng nếu nội không mua chim phóng sinh, thì những người kia chắc chắn không bắt chim đem bán, loài chim sẽ được sống tự do trong không trung, như vậy có phải hơn không?

    Nội lườm tôi một cái rồi nói:

    - Không bắt không thả, Tây Thiên ai đi? Địa ngục ai xuống?

    - Cháu vẫn chưa rõ, thế gian người lớn sao mà phức tạp và khó hiểu đến thế!


    (Từ “Độc giả tinh phẩm” năm 2000)
     
    vuivui2013, amylee and meetdak like this.
  17. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    GIAI ĐIỆU

    Truyện ngắn của Đào Thị Thanh Tuyền


    Anh chạy xe nhanh hơn, cơn mưa dông sáng nay hứa hẹn sẽ rất to. Thành phố này bây giờ những cơn mưa đến không còn theo một quy luật cũ: vào buổi chiều hay buổi tối, càng không còn cái quy luật: mưa rồi chợt nắng, những cơn mưa dứt mau nữa. Mưa bây giờ luôn kèm theo sấm chớp, ào ào, giận dữ, thật to và dai dẳng. Một chỗ trú mưa chỉ riêng cho hai người, ít nhất phải trú được khoảng hai giờ để nước rút hết trên những con đường. Sau cơn mưa, tránh được việc ùn tắc xe cộ, đó là điều mà cả anh và nàng đều cần.

    Cầu thang hơi tối, những bức tường sơn màu hồng quá đậm đầy những hình ảnh ngoằn ngoèo đủ màu loè loẹt. Nàng hơi chùn bước chân, nhưng chiếc cầu thang lên mãi. Anh đi nhanh hơn, bóng anh cao lớn trùm phía trước, những bước chân nàng đi theo, lúng túng, ngượng ngùng. Chứng huyết áp thấp làm nàng phải thở dốc mỗi khi lên cầu thang, càng lên cao, tim nàng càng đạp dữ dội, có cảm giác tức thở... Hành lang dẫn đến căn phòng nhỏ, nàng nhìn thấy trên tường hàng chữ: “Nghiêm cấm các tệ nạn mãi dâm”, tự nhiên nàng bật cười thành tiếng.

    Căn phòng không đủ ánh sáng để một đứa trẻ học bài, chiếc TV trước mặt, cặp loa trên cao, bộ salon và cái remote... Cậu phục vụ điều khiển máy lạnh, anh cầm lấy remote điều khiển TV. Nàng ngồi xuống ghế salon, nhìn quanh và cảm thấy buồn cười, khi cánh cửa đóng lại vẫn còn một khung kính nhỏ để người bên ngoài lẫn bên trong đều nhìn thấy nhau. Tất cả đối với nàng đều xa lạ, đó không phải là thế giới của nàng, căn phòng ngột ngạt, bức bối, tù túng làm sao. Đơn giản là nàng chưa hề một lần đi hát karaoke, nàng cũng chẳng thích thú gì khi phải hát với những âm thanh ồn ào chát chúa, nó vẫn làm cho nàng bị mất ngủ hằng đêm bởi nhà hàng xóm. Thế giới của nàng là biển xanh, mây trắng, ở đó nàng có thể hát rất nhiều bài hát với một cây ghi ta, không phải mất tiền, không ai ghi giờ nàng bắt đầu hát... Điều đơn giản nàng theo anh vào đây vì nàng muốn nghe anh hát những bài hát của chính anh với phần đệm âm thanh điện tử.

    Anh không phải là nhạc sĩ, điều đó đối với nàng không quan trọng. Anh có gần nửa thiên bài hát, điều đó nàng không quan tâm. Trong những bài hát của anh, không hề và không bao giờ có hình bóng nàng trong đó mới chính là điều nàng suy nghĩ: nàng và anh gặp nhau quá đỗi muộn màng, ở cái tuổi mà theo như anh nói, anh không còn một cảm xúc nào để có thể viết tiếp những bài hát, anh chỉ còn khả năng chữa lại những bài hát cũ mà thôi.

    Nàng lắc đầu, khi anh đề nghị nàng hát. Nàng chưa bao giờ biết cầm đến cái remote, kể cả để điều khiển TV ở nhà. Anh lật tìm tên bài hát trong tập album, anh bấm số, hát một bài hát đang thịnh hành, anh có lý do để hát bài này. Nàng sẽ so sánh nó với những bài hát của anh, cũng có thể anh mắc cỡ khi phải “trình làng” ngay với nàng những bài hát đó.

    Anh bắt đầu những bài hát của chính mình theo thứ tự thời gian viết, bài hát đầu tiên anh viết năm mười bốn tuổi. Bằng tuổi con trai nàng bây giờ, đứa con trai mà nàng vẫn phải nhắc nhở nó tắm rửa mỗi ngày, đêm nàng còn phải giăng mùng cho nó, pha ly sữa bồi dưỡng vào những đêm nó thức khuya học bài. Nàng bật cười thành tiếng khi nghe anh nói: “Tôi biết yêu năm mười bốn tuổi, một cô gái rất đẹp đã là nguồn cảm hứng...", rồi tự nhiên tim nàng như có ai bóp nhẹ.

    Nàng nhìn kỹ khuôn mặt anh khi anh hát, ở đó là một khoảng trời tuổi thơ, gương mặt anh vô tư và hồn nhiên, có cả tuổi thơ của nàng “Tóc thắt bím dài, môi mùa xuân thắm tươi. Mắt biếc sáng ngời, nô đùa trong nắng mai. Là em tôi hôm xưa có những ngảy mộng xinh ngút bay”. Nàng thấy một buổi chiều nắng vàng rực rỡ, bên hiên ngồi hong tóc, có cánh bướm tuổi thơ, trang giấy vở học trò ép đầy những chiếc lá khô. Nàng thấy những con chim sẻ bay lượn trên tháp chuông nhà thờ một ngày mùa thu. Nàng thấy thành phố của một tuổi thơ thật êm đềm, ở đó có những buổi chiều buồn, những buổi sáng chân sáo đến trường liếc ngang, liếc dọc tìm một ánh mắt thân quen. Có những buổi chiều thứ bảy, đi dọc hành lang trong khu nhà thờ cổ để nghe tiếng guốc gõ trên nền xi măng vang vọng. Có những buổi tối thức khuya học bài, rồi ôm cây ghi ta ra ngoài hiên ngồi hát... tự dưng nàng muốn khóc.

    Một bài hát với giai điệu hơi vui, không nói được gì hết ngoài những lời yêu thương về một cô gái nào đó, một tình yêu mơ hồ, có thể có mà cũng có thể không. Bây giờ nàng lại nhìn chăm chăm vào màn hình TV, cô gái trong bài hát của anh có mái tóc vàng, nhưng trên màn ảnh là một cô gái mặc áo bà ba, tay chèo đò, tóc búi phía sau, rồi tiếp theo đó là hình ảnh một góc đường phố với xe cộ chen chúc... những hình ảnh không có một ý nghĩa gì hết.

    Có khoảng thinh lặng khi chấm dứt một bài hát, anh lại giới thiệu với nàng những bài hát tiếp theo, những người con gái, những khoảng trời tươi đẹp và có cả những điều anh cho là bi kịch. Anh nói về bi kịch cuộc đời anh đã bắt đầu bằng một bài hát năm mười lăm tuổi, nó vận vào anh, và theo anh từ đó. Mười tám tuổi, ở lứa tuổi đẹp nhất đời người anh đã đối diện với sự sống và cái chết. Những năm sau đó từ chiến trường trở về, với anh là những ngày tháng không tìm được phương hướng. Những giai điệu ngang ngang, không vui, không buồn, lặng lờ trôi. Ở đó tuổi thơ là mùa thu, nắng vàng biến thành nắng quái, có chút mặt trời thật đỏ trong buổi chiều mùa đông, rồi một chút nắng gắt. Có tiếng đàn ghi ta khô khốc vang lên, như những nặng nề trong suy nghĩ tuổi thơ với một quả tim trĩu nặng. Nàng tưởng tượng nó sẽ được chấm dứt bằng tiếng “bựt” của một sợi dây đàn bị đứt, những giai điệu vụn gãy tự dưng làm nàng kho chịu.

    Khi anh kể về một bi kịch cuộc đời mình, ba mươi tuổi anhcó cuộc chung sống không lối thoát với một người phụ nữ bị khiếm thị hơn anh hàng chục tuổi, lúc đó nàng muốn đặt bàn tay nàng lên bàn tay anh, nhưng nàng không dám. Bi kịch chỉ riêng cho mình anh với những giai điệu ngang ngang, nhưng nó sẽ là của chính nàng và cả anh nữa nếu nàng muốn chia sẻ với anh những giai điệu đó, cả anh và nàng không ai còn là người của riêng mình nữa.

    Anh hát một bài hát viết về người vợ anh bây giờ, đó là một bài hát với những hình ảnh rất đẹp, hạnh phúc. Một công viên, có những đôi tình nhân tình tự trên ghế đá, những con bồ câu sà xuống kiếm thức ăn, có bờ cỏ mịn màng một màu xanh êm ái. Rồi anh nói, bởi quá nhiều mảng màu sắc rực rỡ nên nó thành nhạt nhẽo. Nàng lại thấy đó là những giai điệu êm đềm, nhưng hơi nhàn nhạt. Cũng giống như nàng, hạnh phúc quá tròn trịa luôn có những điều nhạt nhẽo làm người ta chán. Giống như những món ăn đầy đủ dinh dưỡng hằng ngày vẫn ăn đến mức ớn, đôi khi cảm thấy sợ. Nó giống như những đứa con của nàng, chúng rất thích những trái cóc, ổi, xoài, những gói bánh kẹo đủ màu lòe loẹt không hợp vệ sinh ngoài đường phố mà nàng vẫn thường cảnh giác chúng. Hạnh phúc luôn luôn đầy đủ những sắc màu, hạnh phúc không bao giờ là hình ảnh đen trắng. Những hình ảnh chỉ nhìn thấy được hai góc tối và sáng, như anh với nàng bây giờ, ra khỏi vùng ánh sáng sẽ chìm vào vùng tối. Chỉ cần nàng đặt bàn tay nàng lên tay anh, cả anh và nàng sẽ rơi vào vùng tối, vùng ánh sáng sẽ nhạt nhòa phía sau lưng.

    Nghe những giai điệu anh viết, nàng rất mong chờ đến đoạn điệp khúc, để có được chút biến điệu, nhưng đến đoạn điệp khúc tất cả mọi sự vẫn như cũ. Nàng đề nghị anh sửa lại đoạn điêp khúc cho một bài hát bằng cách chuyển từ cung thứ sang cung trưởng, nó sẽ mang đến cảm giác nhẹ nhõm, tươỉ vui hơn. Nhưng nàng đã thật sự thất vọng khi nghe anh nói: “Nếu muốn có sự thay đổi, anh sẽ nâng giai điệu lên một cung”. Nàng thở dài. Anh luôn luôn là thế, vốn chỉ thích biến những sự việc từ đơn giản thành phức tạp. Đối với nàng, sẽ đơn giản đi rất nhiều nếu anh chuyển hoàn toàn cung bậc của đoạn điệp khúc, ở đó con người sẽ được thoát ra khỏi sự nặng nề. Nàng luôn cảm thấy thoát ra khỏi hiện tại để đi tìm một hạnh phúc nhỏ nhoi nào đó, khi nghe một bài hát chuyển sang cung trưởng ở đoạn điệp khúc. Có phải khi nàng ao ước anh ôm vai nàng để chia sẻ môt bế tắc trong cuộc sống, thì anh chỉ nhìn nàng. Khi nàng muốn thoát ra, muốn thay đổi với sự khác biệt hoàn toàn, thì anh chỉ muốn thay đổi với sự tăng hay giảm?

    Cho dù anh nghĩ thế nào, anh nói thế nào, nàng vẫn thích nghe và chờ đợi anh thay đổi đoạn điệp khúc bằng cách chuyển sang cung trưởng, nàng chờ đợi điều đó biết bao. Nhưng những điều nàng chờ đợi đã được anh kết thúc bằng câu hát: “Và tôi muốn hôn đôi môi thơm cuộc đời”. Tất cả đã rõ, bi kịch rồi sẽ có một lối thoát, không cần phải chuyển sang một cung bậc nào hết. Đối với anh, hạnh phúc là được sống, đang sống là lập lại cái đã có, vòng lẩn quẩn đó là hạnh phúc, anh nghĩ đơn giản hơn nàng nhiều lắm. Những giá trị của âm nhạc đều nói lên ý nghĩa của đời sống. Anh và nàng cảm nhận âm nhạc ở hai phía đời sống khác nhau. Có phải chăng vì thế mà cả anh và nàng sẽ không bao giờ gặp nhau, cho dủ hai người vẫn tồn tại trong suốt quãng đời phía trước. Một quãng đời sống có lẽ sẽ rất dài nhưng người ta chỉ tồn tại với nhau trong ý nghĩ, một sự cảm thông và chia sẻ cũng chỉ trong ý nghĩ. Như không hề và luôn luôn không bao giờ nàng dám đặt bàn tay nàng lên bàn tay anh.

    Cuộc sống ví như khi đi một đôi giày, đẹp hay xấu để cho người ta nhìn vào, bình phẩm, khen chê, còn rộng hay chật chỉ có mình biết, nàng chợt thở dài khi nghĩ đến điều đó. Nàng yêu cầu anh hát lại một lần nữa bài hát về bi kịch cuộc đời anh, nàng nghĩ đến cuộc sống hiện tại của cả hai người. Những giai điệu đó mãi mãi là của anh, rộng hay chật chỉ mình anh biết, nàng không được phép can dự, không có quyền can dự...

    Cơn mưa dông chấm dứt, có người đã ghi sổ giờ giấc anh và nàng bước vào trú mưa, giở giấc đó đã biến thành tờ hóa đơn tính tiền. Anh nói đùa một câu khi nhìn thấy trên tờ hóa đơn có ghi dòng chữ khuyến mãi, hai giờ hát sẽ có hai mươi phút hát không mất tiền. Nàng chợt phì cười, thời buổi bây giờ việc gì cũng có khuyến mãi, người ta khuyến mãi trong siêu thị, trong nhà hàng, đâu đâu cũng có thể gặp từ khuyến mãi... Anh nheo mắt với nàng: “Chỉ riêng việc anh và em quen nhau là không hề có khuyến mãi, một trường hợp ngoại lệ của cơ chế thị trưởng”.

    Những con đường nước vừa kịp rút đi hết, thành phố sạch hơn sau cơn mưa, bầu trời trong trẻo trở lại. Anh đưa nàng đi ăn trưa, anh chở nàng lòng vòng qua những con phố mới mở. Anh nói dòng kênh Nhiêu Lộc nước đã được chảy thông, nhưng khi nhìn dòng nước vẫn còn màu đen và không hề thấy có một sự đối lưu nào, nàng chợt thở dài. Nàng muốn giải thích với anh rằng dòng kênh Nhiêu Lộc có độ dốc thấp, hoạt động theo chế độ bán nhật triều. Một ngày hai lần triều lên, hai lần triều xuống, nước chưa kịp thoát hết ra cửa sông đã bị dội ngược trở lại, dòng nước luôn bị lưu cữu, đây là khu vực nước chết. Nhưng nàng im lặng, tại sao nàng không có ý nghĩ như anh, cứ cho là nước đã được chảy, cứ cho là cuộc sống sẽ tốt đẹp như trong câu hát cuối cùng của anh. Nàng nhớ, anh đã tặng cho nàng một tập nhạc trong ngày sinh nhật của anh, tất cả những bài anh hát sáng nay đều nằm trong tập nhạc đó. Chỉ là một tập nhạc với một câu đề tặng, rồi người ta sẽ quên như đã từng quên rất nhiều điều xảy ra trong quá khứ. Nàng lắc đầu, bi kịch của anh sẽ không bao giờ là của nàng, không bao giờ nàng dám đặt bàn tay nàng lên tay anh... Và cuối cùng, họ đã chia tay như thế. ★
     
    amylee, meetdak and hungbc1010 like this.
  18. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    MƯA RỪNG ĐAMI

    Truyện ngắn của Bảo Ngọc


    Tôi phân vân không biết có nên kể lại câu chuyện - xảy ra hồi năm ngoái - này không; vì mặc cảm mình đã vô tình giúp đỡ tội phạm lẩn trốn. Tôi vẫn còn nhớ rõ cảm giác rờn rợn khi vô tình nhìn thấy trong tấm kiếng chiếu hậu một nụ cười không biết nên diễn tả thế nào. Có thể do thành kiến hay tưởng tượng, tôi thấy nó có vẻ như không còn tính người. Nhưng cũng có thể đó chỉ là nụ cười đau đớn trên gương mặt méo mó khổ sở của người đàn ông đang ngồi sau lưng tôi - một tên sát nhân!

    Đami - tiếng dân tộc ít người có nghĩa là suối sâu, ở cách Bảo Lộc hơn 50 cây số trên đuờng lên Đà Lạt - là một vùng rừng núi hiểm trở thuộc huyện Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận, trước đây chỉ có dân tộc thiểu số sinh sống. Sau ngày Nhà nước bắt đầu xây dựng một công trình thủy điện lớn ở đây, dân cư khắp nơi mới lục tục kéo đến. Tôi đến đó làm việc với vị trí một nhân viên giám sát công trình, và tình cờ chứng kiến một câu chuyện.

    ... Lần đầu gặp, tôi đã không thích cái vẻ đường bệ và gian hùng của gã. Gã gặp tôi trong văn phòng và chưa cần biết tôi là ai, gã đã vồn vã bắt tay. Cái bàn tay làm tôi để ý vì có tới hai ngón tay bị cụt mấy lóng, giống như mấy tay thợ cưa bị tai nạn nghề nghiệp. Nhưng ngoài điểm đó ra, gã có đầy đủ dáng vẻ của một giám đốc đang ăn nên làm ra: to lớn, mập mạp, bệ vệ và giọng nói sang sảng.

    Gã đến gặp ông chủ tôi, chủ thầu chính, để xin hợp đồng thầu lại một đoạn đường trong công trình. Xong việc, trước khi về, gã lại bắt tay từng người, không bỏ sót một ai. Tôi tò mò nhìn theo. Ngồi trên chiếc xe hơi đắt tiền đang chờ gã là một thiếu phụ xinh đẹp và trắng trẻo đang lơ đãng nhìn vào chiếc đồng hồ đeo tay. Ấn tượng đầu tiên đập vào mắt tôi là cô ta đeo nhiều đồ trang sức quá!

    ***

    Công nhân làm đường có lẽ là những người thuộc loại vất vả nhất. Nhất là lại lên tới tận đây - một nơi chỉ có rừng, suối, nắng và bụi - để làm việc. Cả muỗi truyền bệnh sốt rét nữa. Tôi nhìn mấy cái lán của công nhân mà ngao ngán. Trong một góc là một cái điếu cày to tướng và ngọn đèn dầu nhỏ. Còn lại là mấy cái chõng tre, trên phủ mấy manh chiếu ny lông cũ kỹ và rách nát làm chỗ ngủ. Đầu mỗi chõng có một đống thu lu, gồm quần áo và chăn màn. Tôi buồn cười nhớ lại những điều mà gã giám đốc huênh hoang nói với chủ tôi về lực lượng công nhân của gã và mức sinh hoạt mà gã cấp phát cho công nhân và tự hào: “Ngoài tiền công ra, tôi còn cho thêm tiền ăn hàng ngày nữa. Có ai như tôi không, lo cho công nhân vậy thôi chứ!”.

    Mấy người công nhân đưa mắt nhìn tôi. Họ có vẻ là dân tứ xứ, đa số là những gương mặt thất thần. Trong số đó, nổi bật lên một gã đàn ông đen đúa, trạc ba mươi, có một vết sẹo vắt ngang mắt. Tôi hỏi thăm mấy câu, các công nhân cho biết là tới nay vẫn chưa có lương, chỉ có tạm ứng tiền ăn vừa đủ mua gạo và một ít khô mắm. Họ uể oải bước ra khỏi lán, cầm theo dụng cụ lao động. Tên đàn ông đen đúa có một vẻ gì đó làm tôi chú ý. Từ lúc tôi vào đến giờ, hắn vẫn không nói gì. Cái vẻ câm nín đó hình như bao hàm một điều gì dữ dội bên trong, khi tôi bắt gặp tia nhìn loé lên như ánh lửa trong đôi mắt của hắn.

    Một buổi chiều, trời bỗng đổ mưa trong lúc đang ở ngoài công trường giám sát, tôi phải chui vào nấp mưa trong cái lán của họ. Trong một góc tối, hắn đang nằm rên hừ hừ, chắc bị sốt rét. Tôi buột miệng hứa khi nào về sẽ đem cho hắn mấy viên thuốc.

    Tối hôm đó, đang buồn vì chưa biết đi đâu, chợt nhớ lời mình hứa lúc chiều, tôi lấy chiêc xe gắn máy của cơ quan chạy ra công trường - một việc tôi ít khi làm, vì ngoài giờ làm việc, con đường đi tới đó thường vắng vẻ và hay gây cảm giác bất an, nhất là cho những ai hơi yếu bóng vía như tôi.

    Đến nơi, tôi thấy hắn đã ngồi dậy ăn cháo đuơc. Mấy người khác trong lán đã đi vắng. Tôi đưa cho hắn mấy viên thuốc sốt rét và hỏi thăm gia cảnh của hắn. Nhìn gần, khuôn mặt hắn cũng không đến nỗi nào. Có lẽ những ngày tháng sống thiếu thốn và công việc cực nhọc đã hằn lên gương mặt hắn những dấu vết khó phai, tạo cho hắn một vẻ giang hồ dữ dằn. Rồi hình như do cái buổi tối mưa buồn rả rích và một bình toong rượu đế tôi cẩn thận mang đến để trị sốt rét đã làm hắn cởi mở hơn. Hắn kể tôi nghe một câu chuyện như tiểu thuyết.

    ***

    “Nhà tôi ở tuốt huyện Tịnh Biên, gần biên giới Campuchia. Tôi vốn là con một trong một gia đình có ruộng đất. Gia đình tôi thuộc loại đủ ăn trong vùng. Lúc đó, tôi mới lấy vợ được vài tháng. Vợ tôi là một cô gái đẹp nhất vùng. Gia đình cô ở nơi khác lưu lạc tới, chỉ có hai mẹ con. Chúng tôi vừa làm rẫy vừa mở một quán nhỏ ven đường, buôn bán lặt vặt qua ngày cho vui. Cuộc sống của chúng tôi ngày đó cũng không đến nỗi nào.

    Một ngày kia, có một nhóm người tới làm đường gần nhà chúng tôi. Trong số đó có một tên cai thầu, chiều chiều thường đến quán tôi để nhậu nhẹt, khi thì với mấy tên công nhân, khi thì một mình. Tôi hơi khó chịu khi thấy hắn thỉnh thoảng buông lời chọc ghẹo vợ tôi, nhưng vì chuyện buôn bán nên ráng làm thinh. Ít lâu sau, một buổi tối từ rẫy về, tôi chợt nghe có tiếng nói cười của vợ tôi với ai đó. Tôi lén lại gần quán, vạch liếp ra coi thì thấy hắn và vợ tôi đang ôm nhau cứng ngắc. Tôi xông vào bắt quả tang. Hai người đều năn nỉ tôi tha. Thương vợ, tôi bỏ qua, nhưng hắn thì tôi lấy rựa chặt hết hai đốt tay để cảnh cáo. Sau đó vài bữa, hắn cho đàn em lại kiếm tôi, vây đánh tôi một trận; và một tên còn để thẹo trên mặt tôi tới bây giờ. Vợ tôi cũng lặng lẽ bỏ nhà đi, không nói một lời. Tôi đốt quán và lưu lạc khắp nơi để tìm lại nàng. Tôi không biết gã chủ thầu tên gì, chỉ biết gã chuyên lãnh thầu làm đường và bàn tay phải của hắn có mấy ngón cụt lóng. Mấy năm nay, tôi kiếm sống bằng cách xin theo làm công nhân cho các công trình đường, như anh thấy đó, để cố tìm tên chủ thầu và cô vợ của tôi”.

    Tôi hơi giật mình vì chợt nhớ tới bàn tay của gã chủ thầu. Chẳng lẽ lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên ở đây ? Người công nhân dừng câu chuyện ở đó, nhưng tôi có cảm giác là mắt hắn lại loé lên một ánh lửa. Sau đó, hắn lại lầm lì cúi xuống, trở lại vẻ câm lặng thường ngày - vốn thường thấy trên gương mặt những người công nhân làm đường.

    * * *

    Những ngày sau đó, chúng tôi trở nên thân thiện hơn, nghĩa là gặp nhau ngoài công trường có thể gật đầu chào nhau; và tôi có thể chui ra chui vào cái lán nơi hắn tá túc tự nhiên hơn. Thỉnh thoảng tôi cũng thích bắn vài phát Bazooka bằng cái điếu kê sát vách lán. Có lần tôi tình cờ nhìn thấy trên giường hắn một tấm hình cỡ 6x9, hơi cũ, chụp một cô gái. Quái lạ, hình như tôi đã nhìn thấy cô gái này ở đâu rồi. Cô ta mặc đồ theo kiểu người dân tộc. Cái gương mặt không giống người Kinh, không giống người Hoa, người Khmer hay Thái mà lại có vẻ pha tạp lẫn lộn. Cô ta đẹp theo kiểu kỳ lạ của những cô gái lai. Tôi không hỏi thăm hắn nhiều hơn vì sợ mang tiếng tò mò; rồi ít lâu sau tôi quên bẵng đi câu chuyện của hắn.

    ***

    Tôi không ra ngoài công trường mấy hôm nay. Mưa thế này tiến độ chắc cũng chẳng được bao nhiêu. Ở đây, hết cái nắng như thiêu đốt lại tới những cơn rnưa dai dẳng. Không bụi bặm mù trời thì đường sá lại lầy lội vì bùn. Con đường đang thi công lại nằm chênh vênh một bên là sườn núi, một bên là vực. Tôi cứ nổi gai ốc khi tưởng tượng vô phúc mình bị trượt chân hay bị ai xô xuống dưới vực. Đầu óc tôi lại lan man liên tưởng đến những người công nhân xuất xứ từ nhiều nguồn của tên giám đốc tư doanh. Có lẽ hầu hết bọn họ đều phải đem thân đến xứ này, chấp nhận công việc và cuộc sống ở đây chỉ vì nghèo khổ. Trong đám người đó lại có những người có vẻ như dân giang hồ. Ở cái bưu điện duy nhất trong vùng này - nơi thỉnh thoảng tôi ra đó gởi thư về nhà - tự nhiên công an đem dán lên một xấp lệnh truy nã, cứ làm như những kẻ trốn tránh pháp luật đã chọn nơi đây làm chốn dung thân. Điều kỳ lạ là đôi khi tôi thấy các gương mặt của những tên tội phạm có cái gì đó giông giống với một vài người công nhân làm đường cùng khổ mà tôi thường tiếp xúc. Rồi tôi lại lan man nghĩ đến một gương mặt trong số đó. Nhưng cái gương mặt kia nhìn kỹ cũng đâu có nét gì ác độc. Nó chỉ hằn lên những nét thiếu ăn, khổ cực vì mưa nắng, vì công việc nặng nhọc và hình như cả một sự đau khổ nào đó. Một sự pha trộn giữa cái chân chất của nông dân, nét giang hồ của gió bụi, vẻ khắc khổ mà công việc và thời gian hằn lên trên khuôn mặt.

    ***

    Tiếng ồn ào bên ngoài cắt ngang giòng suy nghĩ của tôi. “Có chuyện gì thế?” - tôi hỏi cô thư ký vừa từ ngoài vào. “Em cũng không rõ lắm. Nghe nói có một tên công nhân điên khùng nào đó xô ông chủ xuống vực”, cô ta trả lời. Tôi đi tới trạm xá. Ở đó người ta đang bàn tán xôn xao. Nạn nhân sắp được chuyển gấp về thành phố sau khi sơ cứu. Chắc cũng khó sống, khi rơi từ một độ cao như vậy. Tôi rùng mình khi nghĩ đến cái vực hiểm trở ven đường mà hầu như ngày nào tôi cũng phải đi qua.

    Ai xô vậy?” tôi hỏi thăm một người công nhân đang đứng gần. Anh ta nói: “Cái thằng Campuchia khùng chứ ai”. Tôi hơi giật mình, lờ mờ đoán ra sự việc. “Chuyện ra sao?”, tôi hỏi. “Cái thằng khùng đó đang làm thì trời chuyển mưa. Bữa nay lại có ông bà chủ thầu lên trông coi công việc. Tự nhiên hắn nổi cơn lên, xô ông chủ rớt xuống vục, hình như còn định hiếp bà chủ nữa. Bà ấy la lên, người ta mới đến chặn hắn lại...”.

    Ngồi trong góc trạm xá là người thiếu phụ mà tôi đã gặp trước đây - người ngồi chung xe với tên chủ thầu và chính là người trong tấm hình chụp để trên giường tên công nhân. Cô ta ngồi im lặng, trông lạnh lẽo và xa vắng, nhưng vẫn mang một dáng vẻ đài các và sang trọng, với rất nhiều nữ trang trên người. Trên cổ là một cái vòng kiềng khoảng một lượng vàng. Hai bên tai đeo lủng lẳng hai chiếc khoen vàng lớn. Một bên cổ tay là một bộ vòng sơ men; bên kia, ngoài chiếc đồng hồ đắt tiền ra còn có một chiếc vòng ngọc. Ngoài ra, hầu như mọi ngón tay cô ta đều đeo nhẫn vàng. Tôi có cảm giác cô ta giống như một manơcanh hay một cái giá đeo đầy nữ trang trong tiệm. Ngoài tôi ra, chắc chẳng ai nghĩ rằng cô ta lại có thể quen biết chứ đừng nói đến một mối liên hệ mật thiết, với một tên công nhân làm đường khùng điên nghèo khổ. Một sự tương phản rõ ràng và cay đắng: gương mặt đen đúa hốc hác của tên công nhân trong lán và gương mặt trắng trẻo xinh đẹp đang ngồi kia!

    ***

    Trời ngớt mưa. Sực nhớ ra có một việc cơ quan giao, phải đi gấp ra thị xã, tôi lấy xe đi, và tình cờ gặp hắn trên đường, cách công trường vài ba cây số. Hắn chặn xe tôi lại, xin đi nhờ. Quần áo và cả gương mặt hắn đều đẫm nước. Tôi bậm gan hỏi hắn, mục đích là để tự trấn tĩnh lại: “Bây giờ tính đi đâu?”. Ngần ngừ một giây, hắn trả lời nhát gừng: “Chưa biết. Chắc tìm đường về xứ thôi. Mất hết rồi!”. ★
     
    amylee, meetdak and hungbc1010 like this.
  19. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    CÁNH CÒ MÙA XUÂN

    Truyện ngắn của Quế Hương


    “Dậy mau, Cọt! Gió quá, tao e cò con lộn cổ xuống đất hết trọi rồị!” - Thằng Cọt nghe lơ mơ ông Tư cò gọi nhưng không sao ngồi dậy được bởi nó đang bơi trong một biển nước đục ngầu, lạnh ngắt... Tứ bề nước. Nó thấy cánh tay mẹ nó chới với giơ lên tuyệt vọng rồi bị nước nuốt chửng. Nó thấy em nó trôi phăng phăng như một chiếc lá... Nó hét lên nhưng nước tràn ngay vào miệng thành tiếng ú ớ... “Khổ thân thằng bé, lại mơ thấy lụt nữa rồi! Này Cọt, mày ở trên giường, còn sống nhăn răng đây nè! Dậy đi cứu cò con!” - ông Tư lay mạnh. Lần này thì ông kéo được thằng bé ra khỏi giấc mơ. Má nó đầm đìa nước mắt, tay chân lạnh ngắt như dầm trong nước. Nằm trong chăn, nó vẫn bị cái lạnh tận tiềm thức ấy bám riết không buông tha. Vào giường là thằng bé lại sợ nằm mơ. Nước lũ cứ lạnh lùng, chì chiết dâng ngập giấc mơ nó, dìm lần lượt em, mẹ và nó trong làn nước lạnh cóng, đục ngầu.

    - Cứ học ông Tư mày đây nè! Ngay cả khi ngủ gặp chuyện kinh khủng là lái giấc mơ bay qua cái vèo!

    - Giấc mơ mà lái?

    - Chứ sao! Có lần tao mơ thấy bị kẹt trong một đám cháy ở rừng tràm. “Cháy luộc” chứ chẳng chơi! Lửa bén nhanh vào lớp bổi, lăn nhanh như chớp, lá non, cành cây còn bị luộc chín huống chi con người. Thế là tao bình tĩnh điểu khiển giấc mơ bay qua đám cháy, hạ cánh an toàn trên giường...

    - Ông Tư nói dóc!

    - Không dóc sao con cháu bác Ba Phi, mậy? Bây giờ, người ta lái giấc mơ bay vèo vèo trên đường phố đó. Tao tính sắm một cái bay giật le trên bờ kênh, bờ ruộng.

    - Bay xuống lạch luôn! - Thằng Cọt bật cười.

    Ông Tư cò quả có tài lái nó bay qua giấc mơ kinh khủng, ông không những cứu nó thoát chết mà con bao lần kéo nó ra khỏi giấc mơ màu nước bạc...

    - Cầm đèn pin ra vườn coi! Tao nhóm lửa rồi đó! Chuẩn bị băng bó sưởi ấm cho tụi hắn. Trự nào nghẻo thành món cò lùi luôn!

    Vườn ông Tư không rộng, không đẹp nhất vùng nhưng lại được lũ chim cò chọn làm nơi trú ngụ. Nhiều nhất là cò trắng. Ngày chúng bay đi kiếm ăn, đêm về ngủ trong vườn. Thằng Cọt thích ngắm cảnh cò về. Bầu trời dường như xôn xao bởi vô số chấm li ti xuất hiện rồi rõ dần những dáng hình mảnh mai lả lướt chao lượn trong vũ điệu hạ cánh tuyệt vời. Phút chốc vườn rung lên trong bản hòa âm điền dã, các cành cây như đồng loạt đơm hoa, rợp trắng thân cò. Trông đông đúc hỗn độn thế nhưng ông Tư bảo chúng không “lộn nhà" của nhau bao giờ. Đầu mùa mưa, cò đẻ nhiều vô kể. Ông Tư có thể khá hơn nếu ông bắt cò con bán. Thế nhưng ông không làm. Ông bảo cò cũng biết “chọn mặt gửi vàng”. Làm thế khác chi phụ lòng tin của chúng. Bán trứng thì được bởi chúng đẻ mỗi năm mấy bận, không bán bớt e không còn chỗ cho chúng đậu. Mà tiền nhiều làm gì? Muốn ăn, muốn nhậu, chỉ cần cắp đít ra vườn, ra um đìa, ao đầm, sông rạch... Bần cùng sinh đạo tặc, phú quí sinh... đủ thứ! Như tao đây là khoẻ - ông già chịu chơi nhấm nhấm bộ ria hoa râm, kết luận. Một già, một trẻ thế mà hợp tính nhau. Hay đùa, hay dỗi, hay thích ăn vặt, nghe băng cải lương, yêu lũ chim cò... Đến kỳ sinh sản, vườn ông Tư trở thành bệnh viện của chúng. “Sản phụ” tấp nập, “khoa nhi” bận rộn. Thằng Cọt là một bác sĩ phụ tá mát tay. Những chú cò con bị rơi khỏi tổ đến tay nó thường là được sống. Nó chăm như chăm con nít. Mà chúng cũng là con nít cò đấy thôi. Bé bỏng, hồn nhiên, dễ thương như thằng Còng em nó... Nghĩ đến em, cổ họng nó thắt lại. Chiều ấy khi chèo xuồng lên Ủy ban nhận hàng cứu trợ, mẹ đã dặn nó nhớ cột chân em vào chõng tre trước khi ngủ để khỏi lăn xuống nước. Thế mà ham giành ăn “tưởng tượng” với em, nó đã quên... Cũng tại thằng Còng biết mẹ đi nhận hàng cứu trợ, cứ nôn nóng, cái miệng không yên:

    - Họ có cho cái gói đổ nước vào là thành tô mì không anh?

    - Có. Cả thùng 30 gói lận. Nhà thím Ba không còn nóc, không còn giường được hai thùng, áo quần nữa. Sướng lắm!

    - Nhưng nhà mình còn nóc, còn cả giường... - thằng Còng nhìn lên nóc nhà tiếc rẻ.

    - Thế má sắp về chưa?

    - Lâu lắm. Phải sắp hàng chờ gọi tên nghe mậy. Tao nghe thím Ba kể. Có khi mai mới dzìa tới nơi. Mênh mông nước, tối thui mù! Tao lo má rớt xuống nước!

    - Nhưng má có xuồng chú Tám cho mượn mà! Em đói bụng quá trời nè! - Thằng Còng xoa xoa cái bụng, nuốt ực nước bọt rồi xoè tay, loay hoay chia phần những gói mì tưởng tượng. Nó đếm từng ngón, từng lóng tay rồi rành rọt:

    - Má đi mệt, phần má 4 ngón, em ba ngón, anh 3 ngón. Còn lại mình chia nhau.

    - Lỡ họ cho 10 gói thì sao mậy?

    - Thì má vẫn 4 gói, em 3 gói, anh 3 gói.

    - Thôi đừng nhắc nữa, sốt cả ruột. Nằm xuống tao cột chân vào giường, mở mắt ra là thấy 30 gói mì!

    - Khoan. Đợi em ăn khô một gói, giống như lần thím Ba cho mình.

    - Đã có đâu mà ăn khô với ăn nước. Cái thằng!

    - Nhưng thèm ngủ hổng được. Ăn giả đò mà! Xé bì ra. Bên nào nhiều phần em. Cái gói thơm ngát này tính sao?

    - Mỗi đứa mút một cái.

    - Còn vụn mì cho em. - thằng Còng dốc cái bao tưởng tượng ra lòng bàn tay.

    - Chia hai! - Thằng Cọt hùng hổ giật “cái bao”.

    Nhớ đến đó, thằng Cọt ngồi sụp xuống bên bụi tre ôm mặt khóc òa. Mưa quất vào mặt nó như tát. Trời phạt nó mất mẹ mất em là phải. Đến mấy vụn mì tưởng tượng mà nó cũng không chịu nhường em. Giá nó biết em nó ra đi không kịp ăn được một gói mì cứu trợ, nó đã cho thằng Cong hết cả “3 ngón tay” phần mình cho nó sướng, sau đó để an ủi nỗi đau, người ta cho nó cả mấy thùng mì nhưng nó không ăn gói nào cả. Cầm lên là quặn ruột quặn gan...

    Đang khóc, nó bỗng nghe tiếng cò con rơi lịch bịch. Quệt nước mắt, thằng Cọt lom khom rọi đèn pin, săm soi tìm. Nếu đêm ấy nó cũng nghe tiếng rơi “tỏm” xuống nước như nghe tiếng rơi “bịch" xuống đất này nhỉ! Khi thức giấc, ngỡ thấy một thùng mì gói trên giường thì nó chỉ thấy trống không. Quờ tay không thấy thằng Còng. Thắp đèn lên chỉ thấy nước mênh mông. Sợ quá nó vừa khóc vừa gào gọi em. Đáp trả nó chỉ có tiếng nước chảy. Hoảng loạn thằng Cọt nhào đại xuống nước bơi ra khỏi cái chòi bánh ú. Nước cuốn nó tấp vào nơi ông Tư đang soi bắt rắn... Còn má nó... sau này ông Tư đoán có lẽ trả xuồng xong, về nhà không thấy hai anh em nó trên giường đã nhảy ùm xuống nước bơi tìm... Nước và đêm nuốt chửng má nhưng những gói mì thì không. Chúng bập bềnh lang thang trên nước...

    Đêm ấy cả hai ông cháu cứu vài chục cò con. Những con may mắn bị nhẹ được ủ ấm đợi sáng đặt lại vào tổ. Tụi cò thương binh nặng thì nằm lại khoa nhi của bác sĩ Cọt. Mấy mống gãy cổ vô phương cứu chữa ông Tư quăng xuống ao cho cá.

    Sáng hôm sau, đi nhặt cá tươi cò tha về rớt trong vườn đút cho cò thương binh ăn, thằng Cọt phát hiện trên lớp lá ẩm ướt một chú cò con đang bị kiến vùi. Đó là một con cò trắng mỏ vàng. Tấm thân bé bỏng lịm dần bởi hai nỗi đau: vừa bị thương vừa bị chuột gặm, kiến cắn. Thằng bé nâng sinh vật nhỏ nhoi tội nghiệp ấy lên. Nó vẫn còn sống. Nhúm lông tơ bết dính, cái mỏ nhọn hoắt bất lực gục trên tay thằng nhỏ. Thằng Cọt phủi kiến cho nó, vạch cánh bắt từng con, xem vết thương và bọc trong áo đem vào nhà.

    - Kiến đốt sưng vù nè! Cánh xoạc còn bị chuột gặm nè! Gãy cẳng nè! Quẳng cho cá! - “Bác sĩ trưởng khoa” quyết định.

    - Nhưng nó còn sống mà! - Thằng Cọt không đồng ý.

    - Chữa lâu lắm! Phải băng cánh, bó cẳng. Mà chưa chắc rồi bay được, sống tàn phế thêm tội.

    - Nếu bay không được thì nuôi dưới đất như gà. Ông bảo gãy cổ mới quăng cho cá mà! Cổ hắn không gãy - “Bác sĩ phụ tá" khăng khăng.

    - Thế thì mày lo mà chăm sóc.

    Mấy ngày sau, cò nhóc đã ngóc đầu dậy khi thằng Cọt đút cá cho nó. Cánh bị băng, chân bị bó, con cò bé bỏng trông thật thê thảm. Sợ nó thiếu vắng mẹ, thằng Cọt đem bỏ đại vào một tổ cò rồi núp trên cây rình xem. Chiều về, cò mẹ không chấp nhận sinh vật được băng bó cứng đờ ấy là thành viên trong gia đình, không mớm mồi còn lấy mỏ hất ra. Thằng Cọt thử ở một tổ cò khác. Cũng vậy. Thế là nó quyết định “làm mẹ” chú cò tội nghiệp. Thằng Cọt gọi nó là cò - thương - binh, đặt trong lồng để phòng chuột. Cái lồng được treo bên cửa sổ, gần chỗ nó ngủ. Lạ thay, trong giấc mơ, nó không còn thường xuyên bị dìm trong nước lụt nữa. Có khi nó còn mơ thấy cò thương binh lành lặn, chấp chới bay lên trời xanh, đôi cánh thanh mảnh vẽ những nét lượn mềm duyên dáng.

    Cò thương binh mạnh dần. Đám lông tơ mịn như bong nõn. Chiếc mỏ màu xoài ửng. Một bên cánh xệ xuống như vạt áo so le. Khi đi được, nó luẩn quẩn trong sân như bọn gà nên ông Tư gọi nó là cò gà. Cò gà tình cảm đáo để. Hễ thấy thằng Cọt đâu là khập khiễng xán tới, lấy mỏ mổ mổ, quệt quệt rất âu yếm. Sáng sáng, nó ngơ ngác nhìn đồng loại bay lả bay la trên bầu trời rồi mất hút. Chiều chiều, nó ngác ngơ ngỏng cái cổ cò nhìn lên những cành cây trĩu nặng thân cò, rộn ràng tiếng “cáp cáp” thân thuộc.

    Cò gà lớn mau, chân lành trước cánh. Bệnh nhân cùng điều trị với nó đã “ra viện” hết trơn mà nó vẫn còn ở lại. Riết rồi cả bác sĩ và bệnh nhân quen ngủ với nhau, chơi với nhau. Ngày cò gà luẩn quẩn ở sân chơi bắt ruồi, nhặt cá, chơi với lũ gà vịt, con cún, thằng Cọt, ông Tư. Nó đi lại vững vàng trên đôi chân bé như que tăm nhưng vẫn chưa bay được dù vết thương đã lành. Những ngày mưa, nhìn nó đứng một chân, một bên cánh xệ xuống, co ro như người mang tơi lá, thằng Cọt vừa thương vừa buồn cười. Nó thắc mắc vì sao đám cò cùng lứa đã bay theo mẹ kiếm ăn mà cò gà vẫn luẩn quẩn dưới đất như... gà! Ông Tư bảo tại nó quen sống như gà rồi không nhớ mình là chim nữa hoặc tai nạn đã làm nó bị một trục trặc nào đó ở cánh, tật nguyền suốt đời. Thằng Cọt không tin. Nó vẫn nghĩ đến ngày con cò gà biết bay, hòa nhập với bầy đàn. Thỉnh thoảng, chú cò tội nghiệp của nó vẫn chao liệng trong giấc mơ biêng biếc màu trời.

    Dạo này cò rủ nhau về vườn ông Tư đông vô kể. Đôi khi nó và ông Tư nói chuyện phải hét to để át tiếng kêu của chúng. Ra vườn cũng phải đội nón nếu không chúng sẽ ị lên đầu. Cò gà lớn hẳn rồi, mượt mà, trắng nõn nhưng vẫn ru rú trên mặt đất, trong nhà. Có hôm, thẳng Cọt thấy nó đứng ở sân, vỗ cánh nhè nhẹ như bị tiếng gọi của bầu trời thăm thẳm quyến rũ nhưng vẫn không bay lên. Nó thích đậu trên vai thằng Cọt, trên lưng con cún, đi theo ông Tư ra đìa tát cá, luẩn quẩn trong vuông sân bắt ruồi. Mùa xuân sắp tới, thằng Cọt nghĩ đến chuyện tập bay cho nó.

    Một ngày đợi lũ cò kéo nhau đi kiếm ăn, thằng Cọt trèo lên một cái cây thâm thấp ôm theo chú cò gà. Nó còn cẩn thận trải rơm dưới đất để phòng cò gà không bay được rơi xuống không bị đau. Sau đó nó đặt cò gà trên một nhánh cây. Tụi cò con trong cái ổ gần đó lao nhao ngỏng cổ, há mỏ vì tưởng mẹ về mớm mồi. Cò gà nhìn chúng, nhìn quanh. Lần đầu tiên đứng trên cao, nó thấy gì cũng lạ. Bầu trời như sà xuống thấp, gần xiết bao, thênh thang mời gọi. Nó lại mơ hồ làm động tác vỗ cánh rồi nhìn thằng Cọt bay qua.. vai nó!

    - Chỗ của mày là bầu trời thênh thang chứ không phải vai tao! -Thằng Cọt giận dữ rồi phũ phàng đặt cò gà lại trên cành cây và trèo mau xuống đất. Cò gà đứng trên cây nhìn xuống vai thằng Cọt.

    - Bay xuống đây! Đồ gà!

    Thằng Cọt dợm bước. Cò gà nhìn theo và bất ngờ vẫy cánh, rướn người. Thằng Cọt nghe như một chiếc lá đậu xuống vai mình. Nó la lên:

    - Ông Tư ơi! Cò gà bay được rồi! Bay được rồi!

    Nó chạy còn con cò gà bay là đà trên đầu nó. Vòng liệng rộng dần, cao dần rồi đôi cánh mỏng mảnh trắng ngần tự tin vút lên thanh thoát. Nhìn bóng hình thân thuộc của cò gà chấp chới trên nền trời cao rộng mênh mông, thằng Cọt bỗng chảy nước mắt. Nỏ mơ hồ thấy trên lưng cò một cái chấm nhỏ, thằng Còng em nó.

    Suốt ngày hỏm đó thằng bé đứng ngồi không yên. Cò gà không trở lại. Chưa bao giờ nó bay, nay bay một mình xa thế, lâu thế lỡ lạc đường về. Nó bỗng nhớ cò gà da diết, cả ông Tư cũng bần thần đi vô đi ra như người thiếu thuốc.

    Chiều về, vườn nghìn nghịt cò trắng. Thằng Cọt tha thẩn đi dưới những cành cây trĩu nặng thân cò, quên cả đội nón, mặc cho chim ị trên vai, trên áo, trên đầu. Chẳng biết trong đám cò đông đúc kia có cò gà của nó? Ba buổi chiều như thế thì ông Tư phát cáu:

    - Quên nó đi! Đủ lông đủ cánh rồi không trở lại nữa đâu. Bận sau quăng cho cá ăn cho khoẻ trí, nhẹ lòng. Vào nướng cho tao mấy con khô sặc, hái trái xoài tượng, lấy rượu đế ra đây. Nghìn nghịt cò, thiếu gì mà chờ hắn!

    Bỗng nhiên, thằng Cọt cảm thấy một chiếc lá rụng khẽ khàng trên vai nó, một chiếc lá trắng muốt rơi tự trời xanh. Rồi cái mỏ cưng cứng nhọn hoắt quen thuộc quẹt quẹt vào vai, rỉa vào tóc.

    - Mày về đó hử? - thằng bé thì thào như sợ nói lớn cò gà lại bay. Nó đi vào nhà, lòng lâng lâng như mọc cánh. Cò gà sà xuống bên ông Tư, chào ông bằng mấy cái mổ.

    - Má mày, tưởng không thèm dzìa nữa! - ông Tư chửi.

    - Má cò gà là ai hở ông Tư? - thằng Cọt thắc mắc.

    - Là mày chứ ai! Mà đừng gọi nó là cò gà nữa nghe!


    11-2000
     
  20. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    CÁNH BƯỚM VÀNG

    Truyện ngắn của Ngô Văn Phú


    Quan tuần phủ họ Vũ có một nàng hầu xinh đẹp, quan ngầm bức nàng phải hầu hạ riêng mình, cho phép được vào phòng riêng lúc đang làm việc, lúc bưng trà, lúc rót rượu, khi nào hứng tình, quan lại kéo ả vào lòng hôn hít và thỏa tình dục. Nàng thân cô, thế cô, nén lòng, đành chịu. Nàng cũng hay đi chợ, gặp một thư sinh rất tuấn tú, ngang tàng, đem lòng yêu thầm trộm nhớ. Hai bên đi lại hàng năm trời, thường hẹn ra một bìa rừng ân ái, có lúc mặt trời gần đến đỉnh mới về. Quan tuần hỏi, nàng lựa cách nói dối. Nhưng lần bắt nàng hầu hạ, quan thấy nàng không được như trước, sinh nghi, cho lính đi rình, bắt được hai người đang tự tình với nhau dưới một cây liễu cỗi..., liền xô đến bắt. Chàng và nàng bị buộc tội nặng, chàng thì dụ dỗ người hầu yêu nhà quan; nàng thì bị vu cho là trộm tiền bạc, cùng người yêu chuẩn bị bỏ trốn. Quan hận đôi trai gái tài sắc, xuống tay hơi mạnh, xử chém cả hai người. Thư sinh thì bị ném xác xuống biển. Còn nàng thì bị vứt ra rừng cho hổ, báo xả thịt... Chuyện còn dăng dăng mãi mấy tỉnh miền duyên hải.

    Ở một huyện ven biển có một người học trò nghèo, chưa vợ con, vốn cũng nhà gia thế, nhưng mấy đời gần đây sa sút, ruộng nương mất hết; bố bị đi làm lính biên thùy, chết nơi rừng thiêng nước độc. Chàng rất có hiếu, nuôi mẹ hết lòng, lại có chí cần mẫn theo học. Chàng vừa phải vào rừng kiếm củi, lại vừa phải đèn sách để đi thi. Khoa thi gần kề, bà mẹ bệnh chết, chàng có đại tang, không lăm giật bảng vàng được, đành ở nhà nấu sử, sôi kinh chờ khoa sau.

    Chàng thuê một gian nhà nhỏ, vừa vào rừng ra chợ, vừa làm thêm các việc vặt mà các nhà giàu phố huyện cần đến. Có một mình, nên cũng không đến nỗi nào.

    Chiều tối, chàng hay đi dạo ở đầu rừng, rồi lững thững về nhà, ngồi trước cửa, bần thần. Chiều nào cũng thế. Có một hôm thấy một nàng mặc áo tím đi qua, gương mặt rất thanh tú. Chàng động lòng, liền đem lời bóng gió tỏ tình, nàngchỉ mỉm cười, rồi đi ngang qua mặt, không nói gì cả. Chiều thứ hai, chàng đã có ý đợi sẵn, nàng lại đi qua. Chàng lại cười bảo:

    - Người đẹp kiêu kỳ ơi, nếu không chê nhà tranh vách nát của kẻ học trò nghèo, quá bộ vào hàn huyên đôi lời được chăng!

    Nàng nể lòng, rồi cũng bước vào. Chàng vui lắm, lấy trà ngon mời rồi hỏi:

    - Nhà em ở đâu, mà hay qua đây vậy?

    - Nhà em cũng gần đây thôi, ở thôn dưới kia.

    Rồi nàng lấy tay chỉ về cái làng chài nhỏ, xa xa... Chàng hỏi:

    - Em tên là gì?

    - Cứ gọi em là cô áo tím là được.

    Hai người càng nói chuyện, càng đắm đuối. Chàng ngồi sát đến bên. Nàng nhích ra chút ít, rồi lại ngồi yên. Chàng ghé lại gần hơn, nắm lấy tay nàng hôn lên cổ rồi ôm lấy nàng...

    Chàng giữ nàng ở lại qua đêm. Ân ái, trò chuyện đến gần sáng, chàng mệt quá, ngủ thiếp đi, tỉnh dậy thì không thấy nàng đâu nữa.

    Chiều hôm sau, nàng lại đến. Sau nhiều đêm say đắm, cuồng si, chàng nhận ra nàng có dáng quen quen, nhưng không tài nào nhớ ra nổi. Qua bộ dạng, lại thấy có vẻ từng đã ở những nơi quyền quý, chứ không phải là dân quê, dân chài lưới bình thường.

    Ngờ ngợ, một lần chàng làm thơ, bỡn cợt, dò hỏi:

    Dáng khi tha thướt, lúc điềm nhiên,
    Cửa tía, nhà vàng hẳn vốn quen,
    Chim sa, cá lặn, giai nhân ấy,
    Liệu có nên duyên với phận hèn?


    Nàng đọc xong, cười sằng sặc nói:

    - Chàng thật tinh quái, em làm sao giấu được chàng.

    Rồi nàng hỏi:

    - Chàng thử đoán xem, em là người hay là ma?

    Chàng sợ nàng giận, liền ôm vào lòng rồi nói:

    - Xin lỗi, xin lỗi nàng, ta chỉ đùa thôi mà. Người hay ma, ta đã yêu, quyết yêu hết lòng.

    Nàng nhìn thẳng vào mặt chàng, thương cảm, ngả đầu vào vai chàng và bảo:

    - Chàng vẫn đắm đuối như xưa, em làm sao quên chàng nổi.

    Và nàng kể lại chuyện hai người từng yêu nhau và bị quan tuần phủ họ Vũ ghen tức bức hại. Nàng nói:

    - Chàng đã là người trần, bởi âm công dầy, còn em vẫn chỉ là hồn oan vương vấn trên cây cỏ mà thôi!

    Chàng ngẩn người ra suy nghĩ, nhưng vòng tay ôm nàng vẫn rất chặt. Nàng tinh quái hỏi:

    - Chàng không nhớ nổi ư! Hãy thu hết tinh lực nhớ lại chuyện cũ xem nào!

    Và chàng nhớ lại...

    ***

    Phải, quan tuần phủ họ Vũ là người khét tiếng ở miền duyên hải. Những năm ấy, biên cương có giặc lớn, mưa nhiều, muối thiếu. Quan lại làm quan lớn ở một tỉnh ven biển. Đáng lý muối năm ấy có giá, mỗi đấu phải đổi được năm đấu gạo, nhưng quan cho lập trạm, gom hết muối lại, trả giá rẻ mạt, rồi cho người chở lên vùng núi, liên kết với đám quan châu thượng du, bán chia lãi.

    Quan giàu lên rất nhanh. Biển đang lùi, nhân có tiền, quan mộ dân đến khai khẩn, trồng cói làm chiếu. Dân tá điền quần quật suốt ngày mà ngoài hai bữa cơm với cá khô để mục, một bộ quần áo ngắn cũn cỡn, hở cả lưng, không có gì cả. Dân chúng nheo nhóc vì các sưu thuế. Tiếng oán than vang khắp hang cùng ngõ hẻm.

    Có người nho sĩ nghèo, tức quá, viết thơ dán trước cổng phủ:

    Hạt muối trắng tinh thật mặn mòi,
    Nào ai biết được, đống xương phơi!
    Kẻ giơ lưng nắng nằm trong mộ.
    Người chốn quyền uy ngả ngớn cười.


    Tuần phủ họ Vũ tức lắm. Cho bắt hết tất cả các thầy đồ và học trò lên phủ, phát cho mỗi người một tờ giấy, bắt viết tự dạng rồi đem so với tờ giấy có bài thơ chửi quan dán ở cổng phủ đường. Có mười người, nét chữ na ná, đều bị vu cho buôn muối lậu và bị tội chặt bàn tay phải...

    Vụ án khét tiếng một thời ở vùng ven biển...

    Chàng nhớ ra và kể lại. Nàng mỉm cười, gật đầu khen:

    - Nhớ suốt được kiếp trước, cũng là người thông tuệ đấy!

    ***

    Chàng lại nhớ:

    Tuần phủ họ Vũ thấy dân oán thán nhiều liền bày trò đãi những người tha phương cầu thực.

    Ăn mày qua cổng phủ, sẽ có người dẫn đến cổng sau, nhận một bát cơm nóng, miếng cá kho và một bát gạo.

    Trẻ lang thang qua cổng phủ, được gom lại, nuôi trong nhà tế bần.

    Học trò nghèo được vào trong phủ, qua nơi khảo hạch, nếu làm được một bài kinh nghĩa, văn sách hoặc một bài thơ hay, thưởng một lạng bạc. Đối được một đôi câu đối hay, cũng được một lạng bạc. Kinh nghĩa, văn sách, thơ làm không nên thân cũng được thưởng một cây bút và một chục tờ giấy về đóng sách, dùi mài thêm kinh, sử...

    Lạ thế, lòng quan tuần đã mở, mà sao người đến vẫn vắng vẻ? Có người tò mò, dò xét mới biết: ăn mày kẻ nào có sức vóc, mới được gọi vào trong nhà, cho bát cơm ăn đỡ đói, rồi bắt cuốc vườn, giã gạo, xay thóc, đến trưa mới được bát gạo mang về.

    Trẻ lang thang, thấy đứa nào mặt mũi khôi ngô, con gái thì xinh xắn mới nhân. Nuôi vài ba tháng hoặc một năm, cho gia nhân đem lên mạn ngược, bán cho người hiếm con...

    Nho sinh ai học khá, thì chu cấp thêm cho thi cử, đỗ đạt thành kẻ chịu ơn, mở rộng vây cánh...

    Một bữa có một đạo sĩ khất thực vào thẳng trong phủ. Viên phán sự tiếp, đạo sĩ cứ đòi gặp bằng được quan tuần.

    Được bẩm báo, tuần phủ họ Vũ cũng đành phải tiếp.

    Nhà sư, mặc áo nhuộm vỏ đà, chân đi đất, râu vàng mà thưa, dáng đĩnh đạc, nói:

    - Tôi là kẻ giang hồ hành đạo, nghe tiếng quan lớn, vào ra mắt!

    - Mời ngồi! Mời ngồi! Ông định nhờ ta việc gì?

    - Đạo sĩ lấy trời đất làm nhà, lấy đạo làm gối, lấy bạn bốn phương làm người thân. Đạo sĩ không phải là người lang thang. Đạo sĩ không màng danh lợi, cũng không nghèo, nên cũng không vì vài nén bạc mà đến!

    Quan tuần phủ họ Vũ chau mày nói:

    - Vậy ông gặp ta để làm gì?

    - Để ngắm mặt quan xern thế nào!

    Quan tuần phủ cười:

    - Thì ta đã ra đây, chiêm ngưỡng đi!

    Đạo sĩ nói:

    - Ngắm rồi! Ngắm để xem vận số mà thôi!

    Rồi dốc trong túi ra mấy đồng tiền bói một quẻ, mắt dim lại. Tuần phủ họ Vũ hơi khó chịu, nhưng cũng nán ngồi, xem quẻ bói về mình ra sao.

    Đạo sĩ xem mấy đồng tiền sấp ngửa, mỉm cười, gật đầu chào, rồi bước ra.

    Đi được mấy bước nghêu ngao hát:

    Đời cha ăn mặn đời con khát
    Mái gianh giọt nước chẳng sai lầm
    Kiếp nào mà chẳng đầy ân oán,
    Nay ở nơi này, mai giáo đâm...


    Quan tuần phủ quát.

    - Nó hát bậy gì thế, đánh vỡ sọ nó cho ta.

    Quân sĩ đuổi theo. Đạo sĩ đi chầm chậm mà như có gió cản về phía sau, bọn lính phủ không tài nào theo được. Ít lâu sau, vua có mật tấu, sai người hỏi tội rồi chém đầu tuần phủ.

    ***

    Nàng lại khen chàng thông tuệ...

    Chàng hỏi:

    - Ta được em là do đức, do số phải không! Lại không được ở cùng nhau, chỉ đêm về mới gặp. Những muốn làm vợ làm chồng, rau cháo nuôi nhau, danh lợi cũng bỏ!

    Nàng nói:

    - Duyên số kiếp trước, là do phận tôi đòi; cảm thương mà nhớ đến một kiếp chưa quên! Gặp được chàng mấy tháng nay, em đã mãn nguyện lắm rồi. Âm dương cách biệt, không thể quyến luyến lâu dài, tổn hao đến thể chất của chàng.

    Nói rồi khóc. Lại nói:

    - Từ mai, em lại phải về với cõi âm, duyên nợ với chàng, ân nghĩa xưa đã trả. Có nhớ đến em thì thắp ba nén hương, gọi tên trong gió, thế là được!

    Rồi hóa con bướm vàng bay đi...

    Chàng thơ thẩn đến hàng tháng mới hoàn hồn. Hết tang mẹ, chàng không đi thi nữa, đến một ngôi chùa, nơi chàng gặp lại người cũ, xuống tóc đi tu.

    Sau này thành một đại đức, tiếng tăm vang xa đến tận mấy trấn, phủ...


    Tháng 8.2000
     
    vuivui2013, amylee, meetdak and 3 others like this.
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này