Lịch sử - Địa lý G Truyền thống dân tộc - Lê Văn Siêu

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi teacher.anh, 17/5/16.

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    PHÉP XƯNG HÔ:

    A) Khi tự xưng mình không phải bất cứ với người nào cũng dùng tiếng “tôi” cả:

    — Với cha mẹ thì xưng là con

    — Với chú bác, cô, dì, cậu mợ thì xưng là cháu

    — Với anh chị thì xưng là em hay tôi

    — Với em trai em gái thì xưng là anh hay tôi

    — Với cháu mà mình là chú bác, cậu mợ, cô dì thì xưng là chú bác, cậu mợ hay cô dì.

    — Với người ngoài thì tùy theo, để cho người ta hiểu mức quí trọng của mình đối với họ coi họ như bà con trong tộc hệ thì cũng tự xưng mình tùy trường hợp như trên.

    — Sơ thì là ông tôi, bà tôi, anh chị tôi.

    — Thân và trọng vọng thì là chú bác cô dì đối với cháu, ông bà hay cụ đối với con, anh chị đối với em, các em, đối với anh hay chị, các cháu đối với chú hay cô.

    Riêng một tiếng “tôi” để tự xưng mà tùy trường hợp đã biến dạng như thế cho người nghe gặp bất cứ những biến dạng nào cũng vừa nhận ra đó chỉ là tôi, mà còn vừa nhận ra cái việc người đối thoại đã đặt mình vào đúng địa vị trong thân tộc chưa, hoặc nếu mình là người ngoài, thì mình sẽ nhận ra người đối thoại đã coỉ mình ở mức độ nào.

    B) Nhưng còn cách tự xưng khi gọi thay cho con nữa lúc mình đã đứng tuổi và đã có vợ con:

    — Với cha mẹ, người con thưa ông bà, nhưng xưng con.

    — Với ông bà người cháu thưa cụ, nhưng xưng cháu

    — Với chú bác cậu mợ, cô dì, người cháu thưa ông bà, nhưng xưng cháu

    — Với anh chị em thưa bác nhưng xưng em hay tôi.

    — Với các em người anh thưa chú thím nhưng xưng anh hay tôi.

    — Với con đẻ và con dâu con rể của mình, người cha gọi anh chị và xưng tôi quan cách thì xưng ta.

    — Với các cháu mà mình là chú, thì người chú gọi anh chị và xưng chú hay thím.

    — Với các cháu mà mình là bác thì mình gọi em hoặc cô chú và xưng bác.

    C) Khi nói về một người khác cũng lại rất uyển chuyển để tùy trường hợp tự xưng mình trực tiếp hay gián tiếp thay con.

    — Nói về vợ chồng mình với cha mẹ mình thì thưa thầy đẻ hay thầy mẹ, nhà con... sao đó, hoặc thưa ông bà, nhà con... sao đó, hoặc thưa ông bà, bố cháu hay mẹ cháu ... sao đó.

    — Nói về vợ chồng mình với chú bác cô dì mình thì thưa ông bà, nhà cháu hay bố cháu mẹ cháu... sao đó.

    — Nói về vợ chồng mình với anh chị thì thưa anh chị, nhà em, nhà tôi, hay thưa các bác, nhà em nhà tôi... sao đó.

    — Nói về vợ chồng mình với các em thì gọi cô chú cậu mợ, anh hay chị... sao đó.

    — Nói về vợ chồng mình với các cháu mà mình là chú bác thì gọi anh hay chị, bác trai hay bác gái... sao đó.

    — Nói về vợ chồng mình với các cháu mà mình là hàng ông chú, bà bác, thì gọi các cháu hoặc nếu đã lớn thì anh chị, ông bà cháu... sao đó.

    D) Nói về con mình với người ngang hàng mình hay trên mình đều phải chỉ là cháu, thưa ông bà, cậu mợ, cụ..., cháu ...sao đó.

    — Nói về con mình với người dưới mình thì gọi anh chị và chỉ con là em: mấy khi anh chị đến chơi, em vừa đi vắng.

    E) Nói về cha mẹ mình với người ngang hàng thì thưa chú bác, ông tôi hay bà tôi... sao đó

    — Nói về cha mẹ mình với người trên mình thì thưa ông bà, ông con hay bà con hoặc ông cháu, bà cháu... sao đó.

    — Nói về cha mẹ mình với người dưới mình thì gọi anh hay chị vào thăm ông hay bà… sao đó.

    Tuyệt đối không được dùng tiếng “ông ấy” “bà ấy” vì là khinh miệt và lại tự tỏ ra vô lễ bất hiếu.

    F) Khi nói về, anh chị em mình cũng vậy, tuyệt đối không dùng tiếng “anh ấy chị ấy” “cô ấy chú ấy” vì nó đuểnh đoảng thiếu thân tình và thiếu lễ độ. Khi đã dùng tiếng ấy là đã có chuyện giận dỗi nhau cãi cọ nhau rồi.

    Xem qua cách xưng hô phức tạp đến như thế, cùng với các cách nhận định rạch ròi tinh tế đến như thế, ta đủ thấy giá trị của nền văn minh Việt Nam.

    Đây là phép lịch sự để người ta biểu lộ những thân tình họ hàng trong lễ nghĩa.

    Nếu ta lại xem sự để tang của những người trong họ, theo Thọ Mai gia lễ, thì lại càng thấy tình họ hàng thiêng liêng lắm, mà cái họ chín thế hệ người cho rằng có sa sẩy đi, và cho rằng có người không con bù với người đông con, thì ít ra một họ cũng đông tới vài trăm người.

    Vài trăm người ấy, họ giỗ tết, ma chay, cưới xin khao vọng, khi vui khi buồn có nhau, trong một ngôi nhà thờ chung ở trong làng, ta thấy cái tình đoàn kết nó keo sơn đến bực nào.


    [...]
     
    lichan and tducchau like this.
  2. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    NHÀ Ở

    Nghiên cứu về nhà ở thì có thể biết được rõ ràng quan niệm về sự sống người ta.

    Cái nhà cũ thường nhắm sự cân đối. Bao giờ cũng ba gian, ba gian hai chái, hoặc năm gian hai chái, hay bảy gian hai chái, để lấy gian chính giữa đặt bàn thờ.

    Gian thờ trang trọng nhất, mọi đồ quý đều trưng bầy ở đấy. Mọi cuộc tiếp tân đều ở trước cái bàn thờ ấy bố trí thành nội tự ngoại khách. Mọi cuộc lễ lớn như cưới xin, ma chay, giỗ tết, khao vọng, hoặc tuần tiết, cúng lễ, đều ở đấy.

    Gian thờ ở giữa với hai gian hai bên, không ngăn vách, càng làm cho gian thờ cao quý rộng lớn và trội hẳn hơn tất cả những thứ gì khác trong nhà. Người khác ngồi chơi hay người nhà nằm ngồi ăn uống ở tất cả khoảng rộng ba gian đều nhìn lên thấy bàn thờ, vừa đặt cao hơn, vừa có những đồ thờ với câu đối hoành phi mầu đỏ và vàng rực rỡ.

    Đó là cái tinh thần báo bản tôn tổ, theo định nghĩa của danh từ văn hiến. Dù là ngày giỗ gần hay xa, giỗ trọng hay giỗ dúi, con cháu có tiền làm được mâm cơm cúng đã đành mà không thì bát cơm quả trứng đệ lên cũng được, miễn là phải có dầu đèn hương khói trên bàn thờ.

    Cái tài sản ruộng vườn của ông bà để lại cho, gọi là của hương hỏa, ấy là để làm ăn hằng ngày mà sống, và sống thì giữ lấy dòng hương lửa cho khỏi tắt. Người ăn thừa tự là người được hưởng của gia tài để thờ ông bà quá cố.

    Trong lễ cưới, cô dâu chú rể đến lễ nhà thờ, không phải người nào cũng có quyền đốt hương và vén cái màn thờ, mà phải là trưởng và đứa cháu ăn thừa tự. Người nhiều tuổi rồi mà chưa có con, phải đi lễ các cửa đền cửa chùa để xin một đứa con trai. Con trai ấy gọi là con cầu tự tức là đứa con người ta cầu cho có để lo việc thờ ông bà.

    Những ngày tết, người ta đến thăm nhau, gọi là đi lễ tết, nghĩa là đến lễ ở cái bàn thờ ấy trước rồi sau mới xoay ra chúc năm mới mọi người cùng mừng tuổi cho con trẻ.

    Người nói lời bạc bẽo. gọi là nói đổ cả hương án bàn độc, tức là nói mất cả ân thâm nghĩa trọng mà con người phải có đối trước cái bàn thờ ấy.

    Như vậy, ta thấy cái bàn thờ được đặt lên hàng quan trọng đến bực nào. Bực nào mà trong cuộc sống, từ mọi việc vui buồn đến khi giỗ, ngày tết, lấy vợ, lấy chồng, sinh con, đẻ cái, cho đến làm ăn, nói năng, xử đối đều quy về cái bàn thờ cả và cũng đều từ cái bàn thờ ấy mà ra.

    Nguyền rủa thì nguyền rủa là tuyệt tự, (hết con cái nối giòng). Thề bồi thì thề chết một đời cha ba đời con. Chúc tụng thì chúc xin năm đẻ bẩy (để có con cháu nối dòng). Nhận định thì nhận mẹ tròn con vuông, là cả mẹ lẫn con đều được hưởng phúc ấm tổ tiên rộng như trời đất, nên may mắn và khoẻ mạnh cả. Khi gặp may tránh được tai họa thì lời đầu tiên thốt ra là nhờ trời, nhờ tổ ấm. Khi thi đỗ về làng là vinh quy bái tổ. Nghĩa là trong cả cuộc sống lúc nào người ta cũng chỉ thấy có cái bàn thờ. Những bức hoành phi treo ngay trước bàn thờ cùng những câu đối thường có những chữ nói lên cái tinh thần báo bản tôn tổ ấy, để hàng ngày nhắc nhở và giáo hóa mọi người.

    Tổ công tôn đức bách thế bất thiên
    Tử hiếu tôn hiền vạn đại như kiến.


    Tổ công tôn đức thiên niên thịnh
    Tử hiếu tôn hiền vạn đại xương.

    Tiên tổ phương danh lưu quốc sử
    Tử tôn tích học kế gia phong

    Sơn thủy thanh cao xuân bất tận
    Thần tiên lạc thú cảnh trường sanh


    Phúc sinh lễ nghĩa gia đường thịnh
    Lộc tiến vinh hoa phú quý xuân.

    Hoành phi thì có chữ kính như tại Phúc mãn đường hay bách thế bất thiên đức lưu phương.

    Trên bàn thờ ấy, nhiều đồ thờ đã chứa đựng nhiều ý nghĩa tượng trưng mà ta cần lưu ý.

    [...]
     
    lichan and tducchau like this.
  3. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    THẦN CHỦ: làm bằng gỗ táu, là một khúc gỗ vuông bào nhẵn, dài cỡ 30 phân, giữa viết tên họ chức tước và hai bên đề ngày sinh ngày tử của cụ quá cố, ngày thường có hộp vuông úp ngoài.

    Ngày cúng giỗ mở ra (Đinh, lim. sến, táu là bốn loại gỗ rắn gọi là thiết mộc).

    Thần chủ làm bằng gỗ táu, hàng ngàn năm không hư không mục, nên có ý nghĩa vĩnh cửu. Khi đã tới năm đời thì người ta chôn thần chủ đi (NGŨ ĐẠI MAI THẦN CHỦ), ấy là người ta tin rằng tới đấy thì cụ tổ đã đi đầu thai kiếp khác rồi.

    HƯƠNG: Do tích xưa làn khói của hương bay Đi gíup cho sự cảm ứng của thần linh với người ở trần thế.

    TAM SƠN : Cái hộp ba từng xếp như hình chữ sơn trên để ba đài rượu, ấy là cúng thì phải cúng ba tuần rượu mới là đủ lễ, và đặt trên chữ sơn là tỏ rằng các cụ quy tiên ở trên cõi sơn thủy thanh cao xuân bất tận.

    TRẦU CAU : là hai phẩm vật nhai trong miệng thì hòa với nhau thành đỏ tươi, được tôn quý cho đến độ không có thì không thành lễ. Truyện cổ tích về trầu cau cũng như tục lệ dẫn cưới, phải có trầu cau biếu xén, tiếp khách (miếng trầu là đầu câu truyện) đã khiến cho khi đệ cúng trầu cau là người ta đệ cúng với tất cả lòng chân thành của mình.

    BÁT CƠM QUẢ TRỨNG: Hai món cúng căn bản và tối thiểu, người nghèo hết sức cũng có thể có nổi để tỏ lòng thành kính với người quá cố. Khi người chết còn trong nhà chưa đưa đi chôn thì cơm xoay đặt quả trứng luộc ở trên, kẹp trong đôi đũa tre vót có tua lên gọi là đũa bông. Còn ngày cúng giỗ thường thì cơm xoay để riêng và một đĩa riêng để quả trứng. (Ý nghĩa tượng trưng của phẩm vật dâng cúng này đã nói ở trên).

    CHÉN NƯỚC LẠNH: Tức là thanh thủy tượng trưng lòng trong trắng thanh khiết.

    CÁC ĐỒ THỜ ĐỂ MỘC HAY SƠN: Người mới chết chưa đoạn tang dù con cháu có quý hóa đến đâu cũng chỉ dùng toàn đồ thờ để mộc, với câu đối bằng vải trắng, viết chữ mực đen và quấn bằng vải trắng vẽ chữ mầu chàm để cho thấy vẻ tang tóc. Khi nào đã đoạn tang mới được dùng màu sơn. Đèn nến cũng phải mầu trắng cho đến khi đoạn tang mới dùng mầu đỏ.

    VÀNG THOI: cúng ma mới chỉ dùng vàng hồ đểthấy ngay vẻ tang tóc. Cúng các cụ chết đã lâu mới dùng vàng hoa.

    HOA CÚNG : hoa rời bầy trên đĩa trầu cau, chỉ thường dùng hồng, kim cúc, ngọc lan, sói, huệ. Các thứ khác không thơm thì không dùng, còn thơm như nhài thì lại bị liệt vào loại lẳng lơ, không dùng. (Vì nhài là giống hoa nở về đêm).

    HOA CẮM LỌ : thường dùng huệ vì thơm và có mầu trắng tinh khiết, sen vì thơm mà lại sống gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, thêm nữa cuộc sống của sen đồng thời có cả hương tượng trưng cho dòng sống ở quá khứ hiện tại vị lai. Mùa lạnh thì dùng đào vì mầu hoa đẹp lại thuộc giống cây có trái tượng trưng sự sống lâu. Người ta cũng dùng mai nữa vì mai tượng trưng cho sự hồi sinh sau mùa đông khô héo.

    HOA VÀ CÂY TRỒNG TRONG CHẬU : thường dùng cúc vàng tượng trưng sự an nhàn của mùa thu, quất trái đỏ, nhiều, trong lại nhiều hột, tượng trưng dòng họ đông đúc, phật thủ bàn tay bởi phật tượng trưng quyền lực vô biên, thạch lựu, quả nhiều hột tượng trưng con cháu đông đúc, thủy tiên thơm và đẹp như tiên nữ.

    Những cây hoa khác có sắc không hương không bầy vào bàn thờ.

    LỘNG HÀNH: cần lưu ý: dù bàn thờ là nơi cao quý nhất và con cháu có thể có rất nhiều tiền để trang trí bàn thờ nhưng phải giữ không được dùng những thứ dành riêng cho vua chúa hay thần linh vì là phạm tội lộng hành.

    Tỷ dụ như cửa võng dưới bức hoành, có thể chạm trổ và sơn son thếp vàng, nhưng không được dùng lưỡng long triều nguyệt hoặc tứ linh, mà chỉ được dùng dây hoa. Câu đối có con dơi là phúc, chạy triện đơn hay kép.

    Các án thư sập sơn son cũng vậy. Nhà quan có thể dùng dầu hồ phù.

    Những đồ bát bửu, nhà quan mới được có. Những đồ để thờ thần như cờ quạt tàn lọng cũng không được dùng.

    GIAN BÊN : hai gian hai bên gian thờ, không ngăn vách với gian thờ ở chính giữa, nên cũng kể như trong cùng một phòng chánh của nhà vậy.

    Hai gian này cũng có thể có bàn thờ riêng của ông bà hay cha mẹ mới mất. Nếu không thì là tủ chè, sập của vị gia chủ, rồi đến bàn ghế cho khách ngồi chơi. Nhàhay phải tiếp bà con ăn uống và ngủ lại thì hai bên là hai giường gian hay hai cái bục lớn và dài để vừa dùng làm chỗ ăn, vừa dùng làm chỗ ngồi chơi, đánh bài, nói chuyện, và vừa dùng làm chỗ ngủ cho con cháu và khách khứa.

    Nơi hai gian này, ở vách ngăn với hai chái nhà thường treo tranh vẽ,trướng thêu, câu đối, tứ bình hoặc dán các tranh tết.

    Đó là phòng ngủ của ông cụ gia trưởng. Bà cụ nằm gian bên kia với các cháu. Chăn màn gối chiếu ban ngày lại cuộn và chất vào hai bên chái nhà. Chỉ có cái tráp trong đựng sách với cái quạt, ít cây bút. Và trên bàn tiếp khách có khay trà, cái điếu, tráp trầu, với một ngọn đèn nhỏ, lửa xanh và nhỏ như hạt đỗ.

    Cửa của gian giữa và cửa của hai gian bên là cửa bức bàn, sang thì có chấn song con tiện, mở ra đóng vào trên cối xoay, đặt trên bực cửa cao đến đầu gối và không có bản lề.

    Ngày giỗ tết mở hết và nếu có tế tự thì nhấc luôn cánh cửa ra của gian bên. Ánh sáng hắt từ sân đất lên vào nhà nơi tiếp khách không quá gay gắt, làm cho cảnh đã yên tĩnh lại càng yên tĩnh hơn. Có khi bên ngoài cửa còn có một hành lang rộng cỡ hai thước trở lên, rồi mới tới một lớp trại bằng tre. Tức là một thứ mành sáo đứng, để lọc nắng và ánh sáng chiếu vào hành lang trước khi hắt vào nhà.

    Ta thấy nhà ở đã thật rất hợp với tâm hồn con người hướng nội không ưa sự bộc lộ.

    HAI CHÁI NHÀ: mỗi bên vách ngăn đã nói ở phòng giữa có cửa đi vào chái nhà (nếu là nhà ba gian hai chái) Chái nhà bít bùng ở dưới mái thấp, chỉ có khe hở dưới đầu vách và mái với mấy vuông cửa sổ nhỏ cho gió và ánh sáng lọt vào. Đó là phòng ngủ của những cặp vợ chồng trẻ, cũng vừa dùng để chứa thóc lúa, các đồ lặt vặt (nếu nhà nghèo).

    Nhà giàu và đông người thì làm năm gian, ba gian giữa lối cửa vách đi sang hai bên, rồi mới tới hai chái chỉ dùng chứa thóc lúa và các đồ vặt, còn phòng ngủ ở hai gian bên.

    NỀN NHÀ: Toàn bộ cái nhà ba gian hay năm gian ấy thường ở trên một nền cao hơn sân từ bốn mươi đến năm mươi phân, phải bước hai bực thềm mới lên tới hành lang.

    Những bực thềm xây ở chính gian giữa. Ngày thường khách bước lên gặp cửa giữa của gian thờ đóng. Phải rẽ sang bên mới bước qua bực cửa vào nhà được. Còn ngày lễ tết có tế tự cửa mở hết, thì từ sân ngoài thấp nhìn lên thấy bàn thờ uy nghi và tôn nghiêm vô cùng.

    VÁCH VÀ MÁI: Nhà nghèo thì vách đất mái lá, nền đất sân đất; giầu thì tường gạch mái ngói, sân gạch nền gạch, tường xây. Nhưng cách bố trí thì đều như nhau cả.

    SÂN : là nơi đập và phơi lúa thường rộng mười thước, dài hai mươi thước. Những nhà lớn và giàu còn rộng dài hơn. Hành lang càng để rộng là vì khi chạy mưa thì chỉ cần hốt hết các thứ đương phơi từ sân lên.

    Khi nhà có cưới xin ma chay thì tất cả cái sân ấy sẽ dùng dựng rạp ngồi ăn uống, tế lễ, hát xướng.

    Chứng tỏ cả nhà, cửa, sân, hành lang, cần phải thỏa mãn những đòi hỏi thông thường cũng như bất thường của gia chủ, và mọi việc hệ trọng trong đời sống của gia chủ đều có nơi ấy để diễn tiến. Việc hệ trọng dính dáng đến danh dự và cả lẽ sống nữa là ma chay, cưới xin, khao vọng, lễ tết… là những việc có liên quan chung đến họ hàng.

    Còn việc riêng cho cá nhân thuộc phạm vi tiện nghi của sự sống thì người ta đã không coi là hệ trọng.

    BẾP: Gia đình ăn uống ngày thường đều ở dưới bếp cả. Có khi cả ngày người ta cũng quanh quẩn và làm việc ở nhà bếp. Bếp làm rộng lắm. Một góc là chỗ đun nấu, choán từ hai tới ba thước rộng và bốn tới năm thước dài, nghĩa là một gian. Tới gian giữa là cái chõng tre khiêng và xoay ngang xoay dọc được, để cả nhà ngồi ăn cơm. Có khi chỉ ông già bà già ngồi, còn trẻ thì ngồi ngay bực giữa, còn lớn thì vừa ăn vừa trông bếp.

    Chỗ để cái chõng ấy, dẹp chõng ra gốc tre, là một khoảng trống cho người sàng xẩy lúa gạo: gạo để nấu cơm ăn, tấm để cho gà, cả đàn nó nhảy vào tận bếp để cướp, còn cám để nuôi heo, chuồng heo ngay sau bếp.

    Cạnh gian giữa ấy đến gian nữa là cối giã và cối ăn xay. Gà què ăn quẩn cối xay là cứ quanh ở đấy ăn không dám ra gian giữa sợ những gà khác mổ.

    Có khi nhà hàng xóm bà con đến xay giã nhờ vì cối nhà họ hư, mượn luôn cả đồ dùng: dần, xàng, nong, nia, gác ở dưới mái bếp. Người ta luộc khoai luộc bắp nấu cháo, nấu chè, vừa ăn vừa nói chuyện vừa làm. Cho nên bà con chạy qua chạy lại thường cứ nhà bếp mà ngồi lấy làm chỗ thân mật nhất. Nước uống là nước vối nấu và ủ ngay trên bếp. Thuốc lào thì có điếu cầy và thổi lửa giấm sẵn trong bếp suốt ngày và đêm. Chỗ ngồi thì sẵn chõng và bực cửa đấy.

    Quả đúng rằng trung tâm sinh hoạt nội bộ của gia đình là cái bếp. Còn trung tâm sinh hoạt của gia đình liên hệ đến họ hàng là cái nhà trên.

    [...]
     
  4. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    [...]

    Nhà trên ngăn nắp trang trọng bao nhiêu thì nhà bếp sập xệ xuề xòa bấy nhiêu. Bếp ngồi, mỗi chỗ đun là ba cục đất nung, gọi là ba ông đồ rau cũng gọi là vua bếp. “Đói no có vua bếp hay, đắng cay có bồ hòn chịu”.

    Người đun bếp ngồi xổm, mỏi thì có ghế thấp đóng bằng miếng ván với hai chân. Rơm thì lấy và ôm từ cây rơm vào để đống sau lưng rồi với tay dồn vào bếp, luôn luôn tay kia phải có cái que cời để đẩy bớt tro ra thì mới có chỗ cho rơm kia vào. Trên gác bếp thì đầy cả mồ hóng, mạng nhện, lại thấy để thúng mủng, rổ rá, hàng ngày khói lửa rơm un lên. Ngoài ra còn lương khô để trên ấy như măng, nấm hương, mộc nhĩ, cho khỏi mốc và còn lá vối để hàng ngày lấy xuống một ít rửa đi và nấu uống. Cạnh bếp là cái trạn bát, còn gọi là cũi bát vì đóng bằng tre giống kiểu cái cũi chó. Trên vách đất của tường bếp là những nồi niêu đen ngòm móc vào những cái đầu đinh. Lủng lẳng treo từ mái nhà là những quang bằng tre hay mây trong để mâm cơm hay nồi thịt, cá kho, chồng lên nồi cơm nguội “chó treo mèo đậy”, phải treo thức ăn lên như thế thì chó mới không ăn vụng được. Nhưng nếu nhà đi vắng cả thì gà có thể nhẩy lên quang lục lọi; thế là “vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm”.

    Nhà bếp để trống không có cửa. Người nhà ngủ thì lên nhà trên. Đêm ai hút thuốc lào thì tự xuống bếp mà thổi lửa hoặc uống nước thì xuống bếp mà uống.

    Trẻ nhỏ cũng quen dần với lề thói sống giản dị hết sức như thế.

    [...]
     
  5. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    VỆ SINH

    Tắm thì ra sông ra ao. Người già không thể bơi lội được thì ở nhà, lấy nước ở bể nước mà con cháu gánh về, dội ít gáo. Đàn bà con gái thì có cái váy là vật lợi hại nhất để thay đồ ướt.

    Đi tiêu thì vào chuồng lợn. Trẻ con đã có chó dọn cho. Hai ba ngày đi tiêu một lần mới là người vô bịnh. Tiểu tiện thì có nồi hông ở ngay đầu cổng cho khách vừa bước đến cổng, còn người nhà thì có nồi khác để ở đầu nhà.

    Rửa mặt thì có khăn cũng được, không thì dùng bàn tay mà rửa, rồi vuốt một cái.

    Rửa chân thì rửa bùn đất ở ao hay nước cạnh bếp rồi đi đất, đợi một lát cho khô khi bước lên giường thì ngồi buông thõng xuống, xoa vào nhau cho hết bụi cát, là rửa chân cạn,

    Đánh răng là chuyện không thấy ai nói đến.

    NGỦ

    Giường ngủ nhà giầu mới có bộ ghế ngựa hay sập dành cho các ông bà già còn nhà nghèo thì giường đóng bằng tre trên có cái dát giường cũng bằng tre, rồi cái chiếu. Nằm đau lưng lắm, mà cựa mình thì nó kêu cót két. Gối thì là một cục gỗ bào nhẵn và đẽo lượn xuống cho khỏi vướng cổ. Có nhà làm tre. Nhà có tiền mua gối mây. Các cụ già có gối xếp bằng bông, ban ngày chồng lên ngồi tựa vào đọc sách. Nhiều người gối lên tay mình mà cũng ngủ được.

    Trời rét thì đắp chiếu. Có tiền mới sắm chăn rạ chăn bông, mà cũng là để cho các cụ già.

    CHỮA BỆNH

    Khi đau ốm cần thuốc men thì thường dùng toàn thuốc lá và thường theo lời người ta chỉ dẫn cho để chữa mẹo.

    Ta thấy thật là cùng tột của sự giản dị và thật là một thái cực đối với những thận trọng từng ly từng tý khi phải hành lễ ở nhà trên hay đại diện cho họ hàng mà xử sự ở trong làng.

    Nhà nghèo thì mức độ giản dị còn hơn nữa để chẳng giường phản gì hết, tất cả toàn nằm ổ rơm, nhưng vẫn có cái bàn để thờ ông bà. Nhưng đời sống giản dị ấy có thể chỉ là một sự bắt buộc nếu không tính kể được là một chủ trương tư tưởng. Ta hãy để ý xem những nhà giầu xây nhà theo kiểu gì.

    KIỂU NHÀ CHỮ NÔM: Nhà lớn làm thành ba dãy, mỗi dãy từ ba đến năm gian, dãy chính nằm chính hướng trông ra sân, hai dãy kia nằm hai đầu sân trông vào. Hành lang trước gian nhà chạy bắt vần quanh sân thành hình chữ U.

    Sở dĩ có thể sắp đặt được như thế một cách dễ dàng là vì tất cả các gian phòng đã không cần phải lo cho có cái cầu tiêu, phòng rửa mặt, phòng tắm như kiến trúc âu tây. Mỗi gian chỉ là một phòng ngủ của anh em hay cô chú, các gian sắp đặt như vậy là để cứu ứng nhau khi nhà có cướp, và lúc bình thường thì cái sân ấy là chỗ chơi vui chung, lúc có công việc thì sân sẽ dựng rạp cho cả vài trăm khách khứa ăn uống một lúc cũng đủ chỗ.

    KIỂU NHÀ CHỮ ĐINH: Kiểu nhà chữ đinh là kiểu ba gian hai chái hay năm gian hai chái, bảy gian hai chái thay vì gian giữa đặt bàn thờ, thì đầu mái ở gian giữa ấy làm thêm một căn riêng sâu vào trong để thờ (thường gọi là chuôi vồ) còn gian giữa để làm phòng tiếp khách.

    KIỂU NHÀ CHỮ CÔNG: Kiểu chữ công là kiểu hai dãy song hành với nhau, cách bởi một sân lớnrồi ở giữa cách một hai gian có một dãy đấu góc mà nối hai dãy với nhau nó gần như chữ H lệch và đặt nằm ngang.

    NGOÀI RA: còn những kiểu nội công ngoại quốc, kiểu chữ vạn hoặc những gì người ta biến chế thêm nữa.

    Tất cả những nhà lớn theo kiểu chỉ những quan lại và những phú hộ nhiều vợ lắm con mới có nổi và mới cần phải cáó. Vừa để bảo vệ lẫn cho nhau, khỏi bị cướp vừa để thật gần gũi với nhau cho tiện sự làm ăn và có cái thú sống đại gia đình.

    THÚ SỐNG ĐẠI GIA ĐÌNH:

    Buổi tối người ta soi dèn đi lượm trẻ con nằm ngủ ở các hiên nhà cùng các giường trong các phòng. Chúng chơi rồi bạ đâu ngủ đấy. Trẻ con cứ như trứng gà trứng vịt, có khi không nhớ được tên chúng. Mỗi đứa phải có một thành tích nghịch ngợm hay trò chơi gì đặc biệt để có những biệt hiệu cho dễ nhớ mà gọi để chia bánh qui. Chúng ăn ăn uống uống ào ào, “của chẳng ngon nhà nhiều con cũng hết” và chơi đùa chạy nhảy hết các bệnh tật cho đến thật dễ nuôi, như “tre ấm bụi” cả ngày góc nhà nào cũng thấy có tiếng trẻ reo hò, lẫn cả tiếng cười, tiếng khóc và gào thét bắt. buộc không ai công đâu can thiệp kịp. Đành cứ mặc chúng.

    Các ông bà già đau yếu thì con cháu đến thăm nom suốt ngày, lúc nào cũng có người bên giường bệnh, không hề bao giờ cảm thấy mình trơ trọi.

    Những ngày giỗ tết hoặc có việc vui mừng thì tấp nập kẻ ra người vào như đám hội. Những ngày thường, nguyên người nhà trẻ con người lớn bốn năm chục người cũng đã đủ nhộn nhịp rồi.

    Ăn uống thì không cần phải nói đến sự tốn kém Vì đông người lại nhiều ruộng làm để có nhiều lúa gạo, khoai sắn ngô đậu. Mà mọi người thì đặc biệt, ai cũng có tính quen có gì ăn nấy và thế nào cũng ăn được. Qua bữa thì thôi. Niềm vui đời vẫn cứ có thể đến được với những người ăn thiếu chất bổ dưỡng, nhưng thở thì thừa không khí và cái tình ở với nhau cũng thừa.

    Ở trong những nhà lớn như vậy, ta thấy nổi lên rõ rệt cái thích thú và cái chủ trương sống theo đại gia đình cho lúc nào cũng nhìn thấy có gốc, có ngọn, kẻ nọ nương tựa hay che đỡ cho người kia Vì tất cả cùng vui cùng buồn với nhau.

    Con người quen sống giản dị như vậy đã không có gì để lo nhiều về vật chất. Ăn ở, mặc, đi lại, chơi bời, chữa bịnh... số tốn kém không nhiều và sức làm có thể cung ứng dễ dàng được. Ngoài ra những phẩm vật kỹ nghệ đối với họ tuy là xa sỉ như nhu yếu phẩm để nâng cao đời sống và mức sống, nhưng họ có cũng được không có cũng không thấy làm sao, nên những phẩm vật ấy không thôi thúc nổi họ dời bỏ lối sống giản dị quen thuộc của họ. Vì vậy họ dễ tìm thấy cái thanh thản nó làm cho con người sống lâu.
     
  6. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    CUỘC SỐNG THANH THẢN

    Không có gì là vội vàng đối với người dân đã quen với nếp sống giản dị ấy.

    SỰ ĂN : Ăn đi trước, lội nước đi sau, đến ăn là cái việc thật cần và đã có lời dậy khôn như thế, vì đến trễ thì có thể người ta sẽ ăn hết, nhưng hãy lưu ý mà xem nhà quê có đám tiệc mời khách, thì không phải như lối ở thành thị, người ta mời và hẹn ngày hẹn giờ trên giấy trắng mực đen, rồi thôi, ai đến trễ hay không đến thì hết cỗ.

    Ở nhà quê mời nhau ăn là mời nội trong ngày ấy, bất cứ giờ giấc nào đến cũng có cỗ. Chính cỗ cũng được sửa soạn thể theo cái điều kiện thì giờ ấy, để hễ có đủ bốn người (nếu cỗ đóng bốn) thì bầy luôn ra phản và mời ngồi ăn luôn. Khách khác đến sau lại ngồi vào mâm khác. Trừ khi cỗ mời làng thì cần đông đủ quan viên và có sự sắp đặt chỗ ngồi đúng ngôi thứ các cụ. Còn nếu là cỗ thường thì nhà chủ sẽ liệu thu xếp cho cỡ tuổi nào ngồi với cỡ tuổi ấy. Nếu thiếu người và không muốn để khách chờ lâu thì phải chạy sang hàng xóm tái thỉnh người qua. Ông hàng xóm này thường thủng thẳng làm rốn một vài công việc nhà chớ có cần qua ngay đâu. Thành ra nhiều khi tái tái thỉnh mãi không chờ được, thì lại phải xin lỗi khách để cho một vài người nhà ra ngồi thù tiếp khách vậy. Nhiều khi những người nhà này đã phải thù tiếp liên miên như thế đến bốn năm mâm.

    Đặc biệt là đại khái cái ông khách tái tái thỉnh mãi kia vừa quần áo chỉnh tề ra tới ngõ lại gặp ba bốn người khách từ tỉnh hay từ làng bên qua chơi, thì ông ấy lại quay về để trà nước tiếp các bạn đã. Trẻ con sang mời, ông ghé tai nói nhỏ, cho nó về thưa lại thì nhà chủ lập tức khăn áo chỉnh tề chạy sang và có lời mời luôn cả mấy người khách ấy nữa, lấy sự nhận lời của họ là một điều hân hạnh lớn. Cỗ không vì thế mà thiếu. Bởi nhà lúc nào cũng sẵn gà vịt, rau, xôi, rượu. Thấy cỗ có vẻ thiếu là người ta lo làm thêm liền ngay. Nếu cần làm thịt thêm con heo, người ta cũng thịt.

    Cái lối ăn uống thanh thản như thế theo lối nông dân, không phải là ở tỉnh và ngay bây giờ đã không còn. Ta để ý thấy nhiều đám cưới mời ăn bẩy giờ chiều mà có khi tám giờ rưỡi, chín giờ mới đủ khách đến để bắt đầu cầm đũa.

    Bảo rằng như thế là kém văn minh, người đi trễ làm bực mình người đi đúng giờ phải chờ đợi, thì người ta nghĩ rằng vẫn có thể cãi lại được là tại tổ chức làm cỗ của gia chủ không thể theo nếp sống của người ta, định ép sự ăn uống và thú thưởng thức món ăn theo cái kim đồng hồ, và bắt thiểu sổ phải mất cả sự thanh thản cho đa số. Trong khi ấy, thì có ai cấm rằng hãy lo tổ chức cho người đến trước cứ việc ngồi vào bàn trước và để riêng một số bàn cho người đến sau? (một thí dụ cụ thể này chứng tỏ trong buổi giao thời người ta cố chấp danh từ và hình thức văn minh tân tiến, nên đã khôrg ý thức cách tổ chửc linh động, và đã chỉ làm khổ nhau một cách vô ích mà thôi).

    Mục đích cuộc mời ăn theo lối Tây ở thời này là thết đãi một bữa ăn ngon, cho người đến ngồi ăn ào ào và nói chuyện với vài ba người ngồi gần, lắm khi không quen và nhạt phếch.

    Mục đích cuộc mời ăn theo lối ta ở thời trước là cũng thết đãi một bữa ăn ngon nhưng có thêm một không khí không có gì vội vàng, người ta vừa nhàn nhã nói chuyện với nhau. Nếu thích thú và truyện cà kê thêm truyện nữa thì mấy người một cỗ ấy, cứ việc kéo dài, nhà chủ cứ việc tiếp thêm món ăn, ta tưởng tượng cũng thấy rõ đàng nào vui và đàng nào thì khách thấy thú vị và thân mật.

    Ngay cả những món ăn đưa ra theo thực đơn như bây giờ dù có được nghiên cứu để đổi vị cho thực khách được hưởng nhiều món khác nhau, mỗi món ngon một cách nó cũng vẫn có vẻ ào ào vội vã. Mà điều kiện để thưởng thức hương v ị của một món ăn là phải chậm rãi thong thả như khi nhấp chén trà vậy. Có thế mới kịp cho khẩu cái nhận định về vị ngon của món ăn. Có thế mới kịp thấy giá trị của những gia vị.

    Gia vị của người Việt Nam ngoài tiêu, ớt, chanh, tỏi, khế, gừng, giềng, hành v.v... như mọi món ăn của mọi giống dân khác, còn có thực là nhiều những lá rau, mỗi thứ lá ăn in ít với một món ăn riêng, hễ dùng lạc điệu đi thì dù món ăn làm thật khéo cũng giảm hẳn giá trị xuống. Đó là đặc điểm về phong thái ăn uống của dân tộc. Người Tầu, người Ấn, ngườiTây phương đều có những món ăn ngon đặc biêt thật, nhưng không hề có những gia vị nhiều và phức tạp cho đến như của người Việt Nam. Nhớ đâu kể đó một cách sơ qua ta thấy:

    1. Rau muống xào phải ăn kèm với vài ngọn rau kinh giới sống.

    2. Cá xào phải có rau mùi.

    3. Phở phải có rau thơm.

    4. Giả cầy phải có rau ngò.

    5. Thịt gà phải có lá chanh.

    6. Tiết canh phải có húng quế

    7. Canh cua khoai sọ phải có rau rút.

    8. Rươi xào phải có niềng niễng.

    9. Mắm ngấu phải có vỏ quít, cần

    10. Thịt chó phải có lá mơ, giềng.

    11. Thịt nướng phải có lá lốt, sương sông.

    12. Cá dấm phải có rau riếp ngô.

    13. Cháo lươn, cháo trai, hột vịt lộn phải có rau răm

    14. Lòng chó phải có đọt ổi

    15. Thịt lợn luộc phải có dưa giá

    16. Ốc phải có lá gừng

    17. Cá dấm phải có thì là

    18. Bún thang phải có cà cuống

    19. Cà chua chưng tương phải có hoa chuối

    20. Nước rau muống luộc phải có quả cà

    21. Cà om phải có tía tô

    22. Cá rô nướng nấu canh phải có gừng

    23. Cá kho phải có giềng, sung

    24. Trứng cáy phải nấu với rau ngót

    25. Giò sống phải nấu với hoa lý

    26. Cua đồng phải nấu với rau mồng tơi

    27. Tôm phải nấu với rau cải cúc

    28. Chả mực chả trâu phải có rau thì là

    29. Rau dền luộc phải có cà chua hấp

    30. Cuốn phải có hẹ, nước mắm cà cuống

    31. Thịt vịt phải có khế tỏi

    32. Thịt cò phải xáo măng

    33. Sường nấu bung phải có dọc mùng

    Thật quả kỳ lạ là hễ ăn khác lá rau gia vị thì món ăn không còn ngon nữa. Cho hay, trong cái điều kiện xã hội nghèo, khỏng thể có những sơn hào hải vị quý và đắt tỉền người ta đã thích ứng kịp hoàn cảnh để không những chỉ bằng lòng với điều kiện nghèo và thiếu ấy, mà còn cầu kỳ để tìm tòi ra những gia vị cho các món ăn ngon hơn lên.

    Món cao lương phong lưu nhưng lợm
    Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon
    Cái ngon nói ở đây không phải là cái ngon gượng gạo, mà là cái ngon thực. Nếu ăn uống ào ào như lối Tầu lối Tây thì sẽ chẳng nhận thấy giá trị gì hết. Còn nhắm nhót thủng thẳng như người Việt Nam vừa thưởng thức vừa mỉm cười suy nghĩ, thì sẽ thấy hương vị của các món ăn đã hết sức ngon và thanh quý.

    Đời sống thanh thản đã tìm thấy lý do tồn tại ngay trong cách ăn và món ăn vậy.

    [...]
     
    tducchau and lichan like this.
  7. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    [...]

    Thi sĩ Tản Đà là người rất sành điệu về ăn uống đã nói “Món ăn không ngon thì không ngon, chỗ ngồi ăn không ngon thì không ngon, người cùng ăn không ngon thì không ngon”. Ông đã nói ra một chân lý về ẩm thực mà đáng lẽ ông còn nên nói thêm: cách ăn không ngon thì không ngon, thì mới thực đầy đủ.

    Cách ăn từ tốn, không một vả gì vất vả vội vàng đã hợp với cuộc sống thanh thản của con người tự đặt mình ngoài vòng ganh đua vì danh vì lợi. Riêng cái đầu óc thanh thản không một chút lo phiền, đã đủ cho người ta ăn gì cũng thấy ngon rồi. Huống lại thêm sự nghiên cứu truyền thụ cho nhau từ bao nhiêu đời, những cách sửa soạn nấu nướng những bữa ăn bằng những thứ ở ngay trong vườn nhà và cũng rất dễ kiếm dễ mua.

    Đến cách mời mọc nhau, thù tiếp nhau, gặp những miếng ngon để mời nhau, nhường đũa cho nhau, nghĩa là nhường nhau gắp miếng ngon, quả thực cũng phải hết sức thanh thản trong tâm hồn không bận rộn một việc khác, thì mới có nổi được.

    SỰ ĐI ĐỨNG: Sự đi đứng không hấp tấp vội vàng. Bất cứ ở đâu và lúc nào người ta cũng như nhà thi sĩ đương tìm vần thơ, lại càng chứng tỏ cuộc sống thật là thanh thản. Sự việc ấy có lẽ chính tại đôi giầy đôi dép, đôi guốc nó lẹp kẹp, và lúc nào cũng chỉ chực rời chân ra nếu người bước vội; không giống như đôi giầy tây có dây buộc chặt vào chân, cho người tha hồ bước mạnh bạo mà không việc gì cả.

    Giầy, dép, guốc đã đành không phải lúc nào người ta cũng đi. Còn có lúc đi chân không để làm việc đồng áng nữa. Nhưng hễ không làm việc người ta đi vào những thứ ấy để dạo chơi, đến thăm nhau, hoặc đi lễ thì như rằng là muốn đi mạnh bạo một cách hấp tấp vội vàng cũng không thể được. Thành ra thói quen nó truyền mãi cho đến thế hệ những người đi giầy tây bây giờ cũng lại vẫn cứ thủng thà thủng thẳng thế thôi. Nhiều người Việt đi ra ngoại quốc, mình đứng sau cứ trông dáng đi là đoán ra được người đồng hương ngay. Tha hồ cho họ thích ứng hoàn cảnh và tha hồ cho họ bị bắt ép phải bước mạnh bạo vội vàng, qua khỏi ngã tư sang đến lề đường là lại thấy những bước chân nhẩn nha của họ. Những bước chân mà người tây phương phải nghĩ rằng đó là của người mới ở bịnh viện ra, hay người đương cấu tứ để làm thơ. Thì ta thấy rõ nguyên ủy chẳng phải những vật dụng đi vào chân mà là ở ngay trong tâm hồn thanh thản và lúc nào cũng chỉ tìm cái thanh thản.

    Tâm hồn ấy biểu hiện ra thành phong thái chung của con người nhàn nhã, tự nhiên không thấy cần phải dồn cả cuộc sống của mình theo tiếng tích tắc của máy đồng hồ, và tự nhiên chẳng bao giờ chịu đánh giá bằng tiền bạc những giờ phút qua đi.

    Với phong thái nhàn nhã ấy thì chẳng có việc gì là gấp rút cả, cứ từ từ rồi cũng đến nơi.

    Ngựa long cong ngựa cũng đến bến.
    Voi nghễu nghệu voi cũng đến bờ.
    Cho đến việc quan là việc cần kíp, mà người ta cũng coi là:

    Quan cần nhưng dân không vội.
    Quan có vội quan lội quan sang.
    Mà cho đến việc đánh giặc là việc cần hết sức thần tốc nữa, ngườỉ ta có danh từ và chủ trương đánh giặc nhàn là chủ trương để cho giặc mệt mỏi chán nản thì chỉ đánh một trận là giặc chạy.

    Y PHỤC: Trông con người Việt Nam trong bộ quốc phục cũ thì quả có thấy tiết ra một phong thái nhàn nhã thật.

    Đàn ông và đàn bà trong cảnh không giầu có đã chỉ độc một bộ, một kiểu, họ dùng đi chơi, đi làm, đi chợ, đi lễ, cả đi dự tiệc, cả vào cửa quan, cả đi đưa ma, cả đi dự đám cưới. Đó là thứ áo dùng cho tất cả mọi trường hợp phải tiếp xúc với xã hội, không sang nhưng cũng không hèn và đối vớỉ người trên hay người dưới, lúc nào người mặc cũng tỏ ra là rất chỉnh. Mức độ giản dị của y phục đến đấy là cùng. Số tốn kém cho một thứ y phục giản dị ấy quả không làm ai phải lo lắng quá đáng mới có nổi để khiến có hại gì chăng cho cuộc sống thanh thản của người ta. Áo còn có quyền được đổi vai thay tay đối với đàn bà, để bỏ những phần rách thay bằng phần vải mới mà kéo dài tuổi thọ cho cái áo, “áo rách khéo vá hơn lành vụng may”. Áo đàn ông thì cũng được phép vá chút ít hoặc thay cổ. Nhưng mỗi năm áo thường cũng chỉ dùng mươi lần là nhiều, xong lại giặt giũ phơi phóng cất đi, thì đến lúc hư cũng phải trên mười năm là ít.

    Không nói đến bộ áo mới canh cải theo Âu Châu phần nào, riêng nói chung về cái áo cũ, nó đã không lượt thượt quá độ, mà cũng không cứng dơ. Phần tay, ngực, cổ, gọn bao nhiêu thì phần tà áo tha thướt bấy nhiêu.

    Ta không xét về phương diện kinh tế, xã hội, mỹ thuật. Mà chỉ đưa ra một nhận xét rằng trong cái vỏ áo như thế, con người bắt buộc không thể không có phong thái ung dung. Áo đã hợp với lối sống của ngườỉ, và là nguyên nhân cho lối sống nhàn nhã ấy và cũng vừa là kết quả vậy.

    [...]
     
    chichi.myluckycharm and tducchau like this.
  8. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    [...]

    SỰ XÊ DỊCH: Đến sự xê dịch xưa kia bằng cáng, võng, kiệu, thuyền bè, không còn gì thong thả và thủng thẳng được hơn. Qua đến hồi gần đây, và có khi ngay cả bây giờ nữa, người ta ít khi đòi hỏi gắt gao quá đến tốc độ: Cái xe thồ mộ với con ngựa kéo chốc lại dừng. Cái xe xích lô đạp mà người đạp nhẩn nha không có gì gọi là cố gắng cật sức cả. Cho đến cái xe ô tô buýt vừa chạy trong thành phố vừa lo thắng và tránh người. Và cái xe lửa chạy rì rì chỉ chừng 30 cây số một giờ, đến ga xép nào cũng lại ngừng... mà người đi không hề lộ một vẻ bất bình. Muốn bao giờ đến cũng được. Có thứ người dễ tính đến thế là cùng. Cả đến người đi bộ băng qua đường, các thứ xephải dừng lại để chờ, nhưng người ấy cứ thủng thẳng chẳng lộ một vẻ gì là vội vàng câ. Ngay những phiên chợ tết, ai cũng muốn mua bán mau mau chóng chóng mà về, nhưng để ý xem đoàn người đi giữa hai dãy hàng, thì thấy người ta vẫn chẳng vộỉ vàng chen lấn gì nhau hết.

    Thì ra cái phong thái người thanh thản có lẽ đã ăn sâu vào tới mạch máu của người ta.

    SỰ LÀM VIỆC: Để ý xem người ta làm việc mới lại càng thấy rõ hơn nhiều nữa. Người làm việc ở phòng giấy đã đành là nhàn nhã. Cả những người làm việc lao động chân tay mà cũng vẫn có vẻ nhàn nhã thảnh thơi như sờ vào công việc, chớ không phải hăm hở bắt tay vào làm việc. Cái điệu làm việc cứ từ từ như thế này, trông tức cười lắm, Không hăm hở, không hùng hục, không nỗ lực cố gắng gì hết. Người nào cũng thích nhờ khéo hay sai người khác làm. Người nào cũng muốn tưởng tượng sai xong một cái là xong. Ai cũng lo đi tìm sự nhàn thân cả. Bất đắc đĩ mới phải đích tay mình đặt vào công việc. Mà đích tay mình như thế thì lại còn rất thích dùng sức thiên nhiên để nó làm giúp cho, còn mình thì nhẩn nha trông coi thôi. Chẳng hạn đắp con đường đất. Thay vì phải đầm, phải nện cho đất dẽ và thành đường để xử dụng ngay, người ta chỉ đắp đất thôi, rồi chờ cho mưa nó làm đất dẽ xuống. Hoặc chẳng hạn như phá một rặng tre, thay vì dùng rựa chém dần thì mệt nhưng làm tới đâu gọn tới đó, người ta chờ nắng rồi cho một mớ lửa vào để lửa nó phá rồi sau mới lo dọn dẹp cho quang.

    Cái luật về giảm thiểu nỗ lực trong khi làm việc thì đối với bất cứ giống dân nào cũng vậy thôi. Khác một điều là người ta nhàn thân ở việc nào thì lo để công để thì giờ vào việc khác. Còn người mình thì chỉ để nhởn nhơ không làm việc gì khác cả.

    Việc không thích mệt xác và mất óc như thế là hay hay dở? Ta nhường người khác bàn luận. Ở đây ta chỉ đưa ra điều nhận xét sự việc nó như thế mà thôi. Để chứng minh người Việt Nam muốn sống thanh nhàn.

    NHỮNG THÚ CHƠI: Mặt khác những thú chơi cũng biểu lộ sự thích sống như thế, thì đặc biệt là có cái thú chơi cây cảnh bể cạn và hòn non bộ.

    Người chơi tẩn mẩn từng ly từng chút, săn sóc đến cái lá cái cành con con, rồi uốn nắn, xếp đặt cho cây và núi thành các thế gì cho vui mắt. Cả ngày và hết ngày ấy sang ngày khác chỉ thấy họ thong dong như thế thôi, cho đến ai cũng phải sốt ruột lên.

    Thú chơi khác là chơi chim, chim bồ câu để dự thi, chim họa mi để chọi, chim gáy, chim sáo, yểng, hoàng yến…v.v… người ta săn sóc cho ăn uống, rồi đêm hôm thì che đậy, cho đến con cái, việc nhà việc cửa, có thể không dòm ngó đến một chút gì cả, chỉ lo có chim mà thôi.

    Chơi thả diều cũng là một thú chơi làm người ta say mê. Toàn là những cách chơi gần gũi với thiên nhiên bắt buộc phải thích nhàn nhã và phải có điều kiện sống nhàn nhã mới có thể chơi được.

    Thú chơi khác có vẻ nhiều sức bố cục của người là chơi cờ, thì điều kiện yên tịnh giữa thiên nhiên và tâm hồn hoàn toàn thanh thản cũng là một điều kiện căn bản.

    Tóm lại, ăn, ở, mặc, đi đứng, xê dịch, làm việc, chơi bời ta đều thấy người Việt Nam chỉ vụ một cuộc sống thanh nhàn mà không muốn có gì làm rộn ràng cuộc sống ấy.

    Điều đáng ghi nhớ là thanh nhàn trong cảnh vừa đủ, biết đủ, và cứ đẩy bớt những đòi hỏi thêm về vật chất cho đỡ phải lo. Chớ không phải là thanh nhàn trong cảnh phú, cái gì cũng đã dư dật phủ phê rồi.

    [...]
     
    Chỉnh sửa cuối: 9/6/16
    chichi.myluckycharm and tducchau like this.
  9. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    ĐỜI SỐNG GIẢN DỊ

    Nhiều người Âu Mỹ hiện nay khi suy nghĩ về cuộc sống quá thiên về vật chất của mình, đã chủ trương nên vãn hồi lối sống giản dị, nếu thật muốn thấy cái lạc thú trong cuộc sống.

    Ngưòú ta coi cuộc sống vật chất và máy móc thực quả không sung sướngchút gì. Mỗi món cần dùng lại đòi hỏi và sinh đẻ thêm ra nhiều món cần dùng khác, mà thiếu thì bực bội, còn đeo đẳng nó thì nó hành mình (Xe hơi, thang máy, máy ghi âm, truyền hình, máy chụp ảnh, quay phim, bậc lửa, hút bụi, bếp điện, nồi cơm điện, là những thứ làm sung sướng hãnh diện cho con người bao nhiêu thì cũng làm cho con người phiền lụy bấy nhiêu).

    Sự chi tiêu cho có những thứ ấy. Thành ra con người tự chui đầu vào tròng của nó thì cứ bị nó cuốn đi mỗỉ ngày một sâu hơn. Không những cái vui sướng thích thú của người ta bị lệ thuộc vào chính thân một vài thứ mà thực ra còn bị lệ thuộc vào những thứ ở rất xa và rất bất ngờ, (một băng keo để dán cái băng máy ghi âm bị đứt, một cái đèn bấm để soi sáng mà sửa điện hư trong xe hơi, một cục đá lửa cho vào bếp gaz, một cái bóng chụp ảnhtrong phòng tối một sợi dây chì cho sáng đèn cả nhà... những thứ đại khái như thế mà thiếu là đủ làm cho cụt hứng không kể sinh ra bẳn gắt cãi nhau).

    Con người càng còng lưng xuống lảm việc kiếm tiền để cho có một vài thứ ấy, thì mỗi ngày cảng phải tự đầy ải mình thêm để nuôi dưỡng một vài thứ ấy.

    Những cái phiền lụy thì lại còn ở chỗ không có thì thôi, có thì phải lo gìn giữ đểcho đầuóc lúc nào cũng luẩn quẩn với những thứ ấy, và để thành thói quen muốn đánh gỉá người khác cùng tự cánh giá mình cũng bằng những thứ ấy.

    Từ những thói quen đánh giá nhau như thế đến chỗ sa đọa ác độc hèn hạ không xa xôi gì. Trong cuộc gọi là đảo lộn các giá trị tinh thần đối với nhiều người hỏi đảo lộn thế nào? những gì? nhiều người ấy không trả lời rõ được, thì sự đảo lộn ấy chính là đây. Lời xưa có nói:

    Nước có đạo mà nghèo là một điều đáng sỉ nhục; nước vô đạo mà giầu lại là một điều đáng sỉ nhục khác. Thành ra nước có đạo hay vô đạo là một điều kiện tiên quyết để định giá sự giầu nghèo của cá nhân. Để mất cái điều kiện tiên quyết ấy mà chỉ tính giá trị nhau với sự giầu nghèo thể hiện bằng những sản phẩm vật chất là người ta khuyến khích mọi tư cách và hành động tầm thường hèn hạ.

    Ngoài điều kiện này thuộc phạm vi hoàn toàn luân lý, ta còn cần lưu ý đến điều kiện không có không được, thuộc hoàn toàn phạm vi nhân sinh.

    Con người hễ không có gì cả để mà mất và để mà cố cho có,bao giờ cũng dễ thấy tâm hồn thanh thản thảnh thơi. Lúc bình thường cũng vậy mà lúc có biến loạn phải chạy cũng vậy, cho đến lúc nằm chờ chết cùng vậy nữa. Còn trái lại, con người có nhiều thứ quá để mà mất, nhiều thứ quá để tốn công sức mưu toan thật nhiều mới có nổi, nhiều thứ dính liền vào người cơ hồ như những sợi dây bằng vàng bằng bạc tự mình đeo và buộc chằng chịt lấy mình, đứt lìa ra là chạm những trọng huyệt để có thể chết được, thì trái lại con người ấy quả thật mỗi lúc thêm một ham muốn sung sướng lại là một lúc thêm choắt choeo đi vì lo toan.

    Cái bí quyết để sống lâu là bớt dục vọng cả vật chất lẫn tinh thần. Một đêm lo nghĩ làm Ngũ Tử Tư bạc trắng cả tóc. Đó là câu chuyện có thể có thực mà người xưa ghi lại. Nếu chuyện ấy chưa đủ để người ta tin thì tưởng mọi người hãy sáng suốt nhận xét ngay xung quanh mình: loại người nào trẻ lâu, loại người nào chóng già, và tại sao vậy? Người sống đến trăm tuổi và sống trên trăm tuổi là những người ở thôn quê. Chính bên Âu Mỹ cũng vậy... Người thanh thản rất ít vết nhăn trên trán, là những người biết yên phận, biết đủ và không tự hành hạ mình bằng những lòng tham không đáy. Còn người ở thành thị gặp hồi may mắn được phớn phở mày mặt cũng chỉ là cái vui mong manh để liền ngay sau là cái buồn, cái lo, cái bực, do sợi dây tham vọng khác mang tới.

    Vòng trói buộc khác để cho người khó dứt ra được và cởi bỏ âu lo là danh vọng. Danh về tài trí giỏi giang, khéo léo. Danh về hiền đức nhân hậu, khôn ngoan, tử tế, rộng lượng, phúc đức. Danh về thấu đáo chân lý. Danh về được sự ái mộ của đông đảo người. Có thể nói gồm toàn những điều hay nó làm cho con người phải lụy, và dù có lụy cũng không đáng trách, còn đáng khen để nêu gương. Nhưng cái lụy ấy đứng về phương diện nhân sinh để tìm lấy đầu mối cho cuộc sống an lạc, cũng vẫn là những gì khiến nặng người xuống. Nghĩa là khiến cho thành sân và rồi si. Như vậy cả danh (danh tốt) cũng vẫn là kềnh càng.

    Chỉ khi nào tinh thần người ta rũ sạch đến vô danh vô kỷ như những bậc thánh nhân, thần nhân, thì người ta mới tìm thấy lạc thú của cuộc sống. Đối với người thường, chỉ có lời dậy này: tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mệnh, lục thập thuần nhĩ, thất thập cổ lai hy. Đến tuổi tri thiên mệnh là hết tham vọng vật chất... đến tuổi thuần nhĩ là hết luôn cả cao vọng về danh. Và đến tuổi cổ lai hy là con người sẵn sàng như một tầu lá khô cho gió cuốn đi, không còn tha thiết gì nữa.

    Ta nhận thấy thực rõ, trừ phi còn nhắm sự sướng thỏa vật chất ở đời để tự mình gây lụy cho mình bằng những dằn vặt vô tận mà lạc đường mãi về cõi khổ cực liên miên, còn muốn tìm cái lạc thú thực của cuộc sống thì bắt buộc phải tìm về sự giản dị.

    Bác sĩ Alexis Carrel khi viết sách La Vie Simple cũng đã kêu gọi người ta trở về chủ trương đời sống giản dị ấy để tìm thấy lạc thú của cuộc sống.

    Nhưng con người ta từ một nếp sống giản dị nhào vào cái lối sống phức tạp có nhiều thứ hấp dẫn xác thân thì dễ lắm. Còn khi đương ở nếp sống phức tạp tự thấy mình là chủ những máy móc và những phẩm vật máy móc, nhưng đúng ra thì chưa biết chừng là nô lệ cho chúng, vậy mà ước muốnvất bỏ hết cả để trở về nếp sống giản dị thì thật là thiên nan vạn nan. Người bất hạnh phải vào tù, hay lạc đến một hoang đảo cũng chưa chắc bỏ được lòng ham muốn thay, huống hồ giữa xã hội lúc nào cũng trông thấy những vật mình ham muốn, và lúc nào cũng chỉ với tay một cái là đã có thể có những vật ấy được rồi.

    Cho nên ở một phương diện nào đó, cái điều chẳng may đến cho người dân Việt Nam để phải chịu cảnh nghèo cảnh chậm tiến, chưa biết chừng lại là điều may để cho người dân ấy tìm thấy an lạc và có hẳn một tư tưởng triết lý cho cuộc sống.

    [...]
     
    chichi.myluckycharm and tducchau like this.
  10. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    HỆ THỐNG TƯ TƯỞNG TRIẾT LÝ

    Chúng ta khởi luận từ điều kiện thực tại ở khách quan của hoàn cảnh lịch sử và xã hội cho thấy: hễ sinh ra làm dân Việt Nam thì người ta phải chấp nhận và chịu đựng cái nghiệp và cái cộng nghiệp là nghèo nàn chậm tiến. Con người càng cố gắng rẩy rụa để vượt khỏi cái vỏ cộng nghiệp ấy thì càng bị nó thắt vào, mà công dã tràng se cát thì chỉ là cái công đáng thương hại. Điểm đáng quý chỉ là dám tích cực chiến đấu thôi. Chớ rồi cuối cùng vẫn lại phải trở về cái thế tiêu cực để kháng, ở phạm vi xã hội cũng như ở phạm vi cá nhân.

    Nếp sống giản dị chính là điều kiện cho người ta thích ứng mà còn một hậm hực trong lòng thì vẫn còn phải tự làm khổ mình để rẫy rụa mong thoát ách. Cho nên cái thú sống thanh thản đã là một ngọn đuốc soi sáng tâm hồn để cho phép sự thích ứng thật là toàn vẹn.

    Muốn thấy cái thanh thản phải tìm ra cho được một đức tin không lay chuyển về may rủi, phúc đức, nghiệp định. Nhưng cũng lại phải có một nhận định thật chân xác về nhân của truyền đời để thoáng trong một giây mà nhìn bao quát được cả một dòng sống của mình và của những người thân ở hiện tại, quákhứ và vị lai.

    Nhìn bao quát được như vậy thì hết máu vị kỷ, hết coi cả cái sống của bản thân là trọng nữa để coi cái chết mới là khởi đầu của cái sống, và toàn cả dòng sống của gia đình mới thực là cần bảo vệ, nhất định hơn một mảnh sống nhỏ nhoi của từng cá nhân.

    Do đó mà tình gia đình thắm thiết, đời sống tình cảm, lá lành đùm lá rách khi còn sống trông thấy mặt nhau, và khi có người đã khuất mặt trên cuộc đời thì người ta nhớ nhau, cái đời sống tình cảm ấy mới là một đời sống có nghĩa hơn cả.

    Gia đình trở thành một tổ ấm thực cho dân nghèo yếu nương tựa lẫn nhau cùng chia vui chia buồn với nhau.

    Chúng ta thấy rằng cuộc sống ở thực tại cũng như ở ước vọng và do đó tư tưởng của con người, ở mỗi mảnh vừa luận, đã như những khoen xích làm nhân làm quả cho nhau, và tất cả tạo thành một hệ thống tư tưởng hết sức chặt chẽ.

    Lối sống giản dị cùng với tư tưởng về cuộc sống giản dị đã không phải từ trên mây rớt xuống, mà phải bắt rễ từ xã hội và lịch sử để mọc lên.

    Đây là bảng tổng kết để cho thấy cái hệ thống tư tưởng chặt chẽ, không phải một người nào sáng tác ra được trong một ngày một buổi nào, mà đã có nguyên nhân cấu thành từ rất lâu đời.

    Đó là truyền thống. Cái truyền thống có những điểm hay như đã biết nhưng cũng có những điểm dở, như một thứ bệnh ung thư ở trong tim óc, cố cựa quậy để chữa thì không chữa từ ngoài vào được, mà đành để thì càng ngày càng thấy nguy kịch, không lối thoát.

    HOÀN CẢNH

    Lịch sử, địa dư, khí hậu, xã hội, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn

    CHẬM TIẾN CON NGƯỜI

    Đói khổ, kém cỏi, yếu đuối, làm việc dở, kỹ thuật thô sơ, cách vật.

    TRÍ TRI TỒI TỆ

    TINH THẦN - SỐNG - TÂM LINH
    biết thì sống, Nghiệp định,
    nhẫn nhục, chịu đựng, phúc đức, nhân quả, phúc ấm


    TÌNH CẢM VẬT CHẤT

    đùm bọc, thương yêu Giản dị, thanh nhàn

    CON NGƯỜI
    Triết gia thì sẽ nghèo đói, bệnh hoạn, chán chường, uể oải, lười biếng, chịu phận hèn, láu cá vặt.
    HOÀN CẢNH
    Không bảo đảm được đời sống cho cá nhân, không gây đượctin tưởng ở một viễn ảnh tương lai

    Xã hội bị bóc lột từ ở rất xa, khiến cái nghèo càng ngày càng tột cùng nghèo.
    Chúng ta nhận định kỹ cái vòng luẩn quẩn mà chúng ta bị hãm vào trong như một nghiệp định, mới thấy ai oán cho thân phận chung của mình.

    Thảng như ở trong cảnh bế quan tỏa cảng như xưa, âu cũng đành bao giờ tỉnh giấc ngủ cũng được. Bây giờ thế giới đã như trong một nhà, cái gì cũng ảnh hưởng đến nhau cả, mà ảnh hưởng. rất nhanh, một phút lơ đãng không biết làm, hay làm sai làm hỏng của mình là một phút để xã hội người làm giàu làm mạnh và hưởng cái sung sướng phủ phê trên lưng xã hội của mình. Con đỉa nhỏ như vậy hút máu một con trâu mà con trâu còn gầy ốm đi thay. Nếu con đỉa lại lớn bằng con trâu, nó hút máu con trâu bằng con đỉa thì còn gì mà con trâu chẳng chóng chết.

    Tuy nhiên, ngoài quan điểm xây dựng xã hội để đặt vấn đề tiến hóa như thế, riêng ở phạm vi đời sống giản dị trong vấn đề văn hóa này chúng ta còn cần nói thêm để giúp sự nhận thức của nhau về cái gì là truyền thống dân tộc.

    Chính sự giản dị là một truyền thống căn bản nữa, cũng như những đức chịu đựng, đời sống tình nghĩa, quan niệm phúc đức, đời sống thanh thản đã kể trên.
     
    Chỉnh sửa cuối: 9/6/16
    chichi.myluckycharm and tducchau like this.
  11. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    [...]

    SÁNG TÁC VĂN NGHỆ:

    Ta thấy mọi sáng tác văn nghệ hợp thị hiếu đại chúng để phổ biến và tồn tại đều đã có đặc tính là giản dị.

    Về kiến trúc, điêu khắc, hội họa là những nghệ thuật tạo hình, thì người ta đều đã dùng những biểu tượng chung của triết học Trung Hoa và Ấn độ, nhưng được cách điệu hóa theo tinh thần giản dị đến mức tối đa. Vừa bởi người ta nghèo, không đủ sức theo những nét cầu kỳ, phiền phức của người, vừa có lẽ cũng bởi sợ mắc tội lộng hành nếu bắt chước đúng theo của người đô hộ, các tác phẩm loại này còn sót lại đã cho thấy một vẻ giản dị kỳ lạ mà duyên dáng thật đậm đà.

    Cột, cầu thang, tường hoa của chùa Một Cột, tường bao, cổng, chân cột Khuê Văn Các của Văn Miếu, cho đến nóc mái, đấu góc, đầu hồi các tư gia, rồi những đình chùa cổ, ... đã không thấy gì là cầu kỳ cố ý làm cho lộng lẫy hay cố ý khoe cái giầu có. Nhưng để đạt cái duyên dáng đậm đà của tác phẩm thì hẳn nhiên các tác giả đã phải hết sức cầu kỳ trong mọi đường nét giản dị để cho ngang bằng xổ ngay và các bộ phận cân xứng với nhau theo mọi chiều cao cũng như chiều rộng.

    Một củ khoai lang cắm bốn cái tăm vào và dựng cho đứng trên những cái tăm ấy, đấy là con bò. Hai khẩu mía tiện khoanh rồi, lấy đao tách một nửa khẩu trên ra, đoạn dựng ngồi lên, đấy là ông bụt. Một cục đá đẽo sơ cho khoằm đầu vuông ra rồi chôn ở cạnh cổng, đấy là con chó đá mà nó còn biết vẫy đuôi nữa.

    Người ta đã khởi cách điệu hóa và giản dị hóa từ đấy và từ hồi còn nhỏ để sang sự cách điệu hóa trong các tác phẩm điêu khắc và kiến trúc. Còn hội họa với những mẩu căn bản và những nét thật đơn sơ, thì đến ngày nay ta còn phải nhận là đẹp những tranh lợn, tranh gà, tranh tiến tài, tiến lộc dán trong những ngày tết.

    Về văn thơ truyện tích, ngụ ngôn, ca dao, thì ai cũng đã thấy rõ càng giản dị như không có công phu gò bó về nghệ thuật gì cả, mới thật là đạt cao độ của nghệ thuật. Chẳng hạn như thơ Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Yên Đổ, Học Lạc, Nguyễn Bính... còn thật lâu người ta sẽ còn rất lấy làm thưởng thức. Cả những truyện Thạch Sanh, Phạm Công Cúc Hoa, Phan Trần, Nhị Độ Mai, Lục Vân Tiên… cũng vậy.

    CHẾ TÁC VẬT DỤNG :

    Cũng với nguyên tắc và điều kiện giản dị, người xưa cho đến người nay, đều có thật nhiều vật dụng được chế tác một cách thật tài tình.

    Cái điếu cầy bằng một ống nứa với cái nõ đẽo bằng gỗ, rồi khoét lỗ ở đầu mấu cho chút nước vào trong, hút lên kêu sòng sọc, đã 1à giản dị quá mức rồi. Nhưng người nghĩ ra cái điếu ấy đâu đã thật giản dị và tài bằng người uống một ngụm nước ngậm trong miệng rồi lấy cái ống vỏ bao diêm khoét một lỗ con để điếu thuốc vào một bàn tay bịt đầu kia của bao diêm vừa đỡ nó trước miệng, còn một tay quẹt que diêm cho cháy thuốc để hút. Thế mà cũng thấy kêu sòng sọc. Người ta cũng có thể thay vỏ bao diêm bằng một cái lá cây cuộn như sâu kèn lại. Ta phục cái giản dị ấy rồi, thì lại càng phục kẻ giản dị hơn một từng nữa, khi anh ta không dùng vỏ diêm cũng không dùng lá cây mà dùng chính nắm tay của anh ta dịt thuốc lào vào khe ngón tay rồi đốt diêm hút. Cũng kêu sòng sọc và say sưa đáo để.

    Đấy, cái tinh thần giản dị của người Việt Nam, nó là đầu mối cho không biết bao nhiêu sự chế tác các vật dụng hàng ngày.

    Cái lít để đong gạo, không dễ gì nhà nào cũng có. Người ta dùng luôn cái hộp đựng bơ hay cái lon sữa bò để đong và gọi là một bơ gạo, một lon gạo, rồi sau tính ra lít ra ký lô cũng không khó gì cả.

    Cái ống đựng tiền để dành bằng một ống tre. Cái ống để đựng sách đựng bài văn cũng bằng một ống nứa gọi là ống quyển. Cái dĩa thường dùng đã sứt mẻ rồi thì đo dầu phụng vào cho thêm mấy sợỉ bấc thành cái đĩa đèn. Cái dây đóng sách bằng những mành giấy lề dọc ra rồi se lại. Mấy cành tre khô buộc lại thi thành cái chổi quét vườn. Gai của cây bưởi dùng làm kim để nhể ốc. Quạt giấy cỡ lớn gọi là quạt thước vừa dùng che nắng che mưa, vừa dùng để đánh chó. Cái thắt lưng vài khâu tròn thành bao gọi là thắt lưng bao, hay hầu bao để dùng luôn vào việc đựng tiền, trầu cau mà cả gạo ăn đường nữa.

    Rất nhiều thứ lặt vặt như thế đã khiến con người quá quen thuộc với những gì là giản dị. Để cho thấy khi gặp hoàn cảnh bất cứ thiếu thốn đến độ nào, bất cứ không thuận tiện đến độ nào, tự mỗi người dân cũng tìm ra ngay được cách thích ứng.

    Tỷ dụ như trong cuộc chiến này, cũng như cuộc chiến 45-54 trước, người dân Việt Nam với tinh thần thích ứng hoàn cảnh và óc sáng chế trong giản dị, đã dùng được rất nhiều những mẹo thật thông minh để đương dầu với những phương tiện máy móc tinh vi và thật là tiến bộ nhất. Cho chính những khoa hoc, kỹ thuật gia cũng phải khâm phục.

    Cái thúng để ngồi rồi trượt trên sình lầy. Cái mảnh thân cây chuối để hắt ánh sáng của một dẫy ngọn nến lên dùng làm đèn rampe mà biểu diễn văn nghệ. Cái xe đạp để thồ cả tấn hàng. Hai xe đạp đi nối đuôi đeo võng ở giữa để tải thương. Một cái gậy tre để trói người mà không gỡ ra chạy được. Một sợi dây kẽm chăng lưng chừng trời ngang con rạch để làm gẫy cánh quạt của xe trượt nước. Cái lốp xe hơi cũ phá ra làm dép...

    Bên cạnh cái đau thương của cuộc chiến, phần người dân thích ứng hoàn cảnh với tinh thần giản dị truyền thống của mình, đã góp một vẻ gì thật là hào hùng đáng quý.
     
    Chỉnh sửa cuối: 11/6/16
    chichi.myluckycharm and tducchau like this.
  12. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    TRIỂN VỌNG

    Cả thế giới hiện đương chờ đợi một nước Việt Nam mới sau chiến tranh. Người ta chờ đợi một cái gì không vĩ đại thì ắt cũng phải thông minh và không tầm thường, đúc kết bởi cơn đau thương kéo dài đến một phần tư thế kỷ.

    Dù người ở bên này hay bên kia vỹ tuyến, dù người nghiêng theo chủ trương chánh trị này hay chủ trương chính trị kia, trừ phi chính mình không muốn nhận mình là người Việt Nam để tự hào về truyền thống dân tộc của mình, còn thì người nào vẫn còn nói cái tiếng nói Việt Nam, vẫn còn sống cả vật chất tinh thần tâm linh và tình cảm theo lối sống Việt Nam, người ấy lắng lòng mình xuống một lát, vẫn tự nhiên thấy có tiếng gọi tha thiết của truyền thống trong huyết quản.

    Điều làm sững sốt thiên hạ sẽ không phải là sự cố gắng hết sức mình và trên sức mình của đôi bên để kéo dài đến vô tận cái cảnh xương trắng máu đào này. Điều làm sững sốt mà thiên hạ sẽ phải kính phục, chính lại là trong cái mâu thuẫn kinh khủng và bế tắc hoàn toàn, phản ảnh và thu gọn cả mâu thuẫn quốc tế vào lòng đất nước, thật là không lối thoát, vậy mà người Việt Nam đã có thể làm nổi được như Nguyễn Nhạc ôm Nguyễn Huệ mà khóc:

    Lỗi lầm anh vẫn là anh
    Nồi da xáo thịt sao đành hỡi em.
    Xét trong cả dòng đời lịch sử, chưa hề bao giờ người Việt Nam dại để đánh nước cờ tuyệt chủng. Mà bao giờ người ta cũng tìm dùng cho bằng được cái bề thế và cái khả năng của nhau để cùng lợi cả cùng giữ lấy dòng giống về mai hậu cho tất cả.

    Sự nỗ lực xây dựng lại Đất Nước, xây dựng lại con người, sẽ là việc không khó, kể từ cái giây phút mọi người nhận định ra chỗ khác nhau của cái danh hư về thắng một trận hay bại một trận với cái sống thật của bao nhiêu mạng người anh và em gục ngã xuống do chính bàn tay của mình.

    Thắng người không khó, và không danh giá. Thắng chính bản thân mình và những cố chấp của mình mới khó hơn và danh giá hơn.

    Ta chờ đón cái lúc được đeo vòng hoa chiến thắng lên cổ những người tự thắng ấy. Bởi kể từ lúc ấy, viễn ảnh một nước Việt Nam mới sẽ mở toang ra cho thấy truyền thống dân tộc chưa bao giờ đẹp được đến như thế.

    HẾT
     
Moderators: galaxy, teacher.anh
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này